Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Truyện ngắn  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 7 8 9 10 11 
Send Topic In ra
Truyện ngắn (Read 28232 times)
ChíchChoè
Gold Member
*****
Offline


I love LVD SCHOOL

Posts: 8090
Gender: female
Re: NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #120 - 28. Jun 2010 , 20:15
 
Những lằn ranh nghiệt ngã


Tháng  bảy năm năm mươi  tư, một số thành  phố và vùng quê miền Bắc được  tiếp thu, người  ta lũ lượt kéo  về cảng Hải Phòng xuống tàu vào Nam,  những người giàu  có và công chức của chính phủ thì  đi bằng máy bay,  từ Hà Nội bay  thẳng vào Sài Gòn.

Dù đi bằng cách  nào, thì lịch sử  đã đánh dấu ngày  chia đôi đất nước,đời sống dân chúng  miền Bắc như khoác  lên chiếc áo mới  màu đen ảm đạm.   

Giữa  lúc ấy thầy tôi  bỗng dưng trở bệnh,  chứng đau bao tử của ông lần này  nặng hơn, hết thuốc  chữa. Biết khó  qua khỏi, trước khi chết, thầy tôi  dặn dò mẹ tôi  hễ ma chay xong  phải tìm đường đưa các con vào  Nam, đó là quyết  định cuối cùng  của ông , dù trước đó thầy  tôi không hề có  ý định bỏ tất  cả cơ nghiệp để  ra đi. 

Thầy tôi qua đời giữa cơn hỗn loạn của ngày đất nước chia hai. Còn một chút sức tàn và minh mẫn, thoi thóp như ngọn đèn lù mù sắp hết dầu, lóe lên một lần chót rồi tắt, thầy tôi đã hiểu thế nào là sự thay đổi của thời cuộc. Lý do thầy tôi bảo vợ đưa các con đi Nam, có lẽ chỉ thầy mẹ tôi hiểu với nhau, cả một sự nghiệp gầy dựng gần hai mươi năm đã vững vàng lắm, vậy mà thầy tôi không tiếc. /

Chỉ  ba hôm sau đám  ma thầy tôi, một  buổi sáng gần cuối năm, trời mùa Đông  có mưa phùn và  gió bấc, mẹ tôi  dặn dò người bõ già, rồi gần như  lén lút, dẫn ba  đứa con nhỏ đi  trước, để anh tôi ở lại đi  sau với người bõ  già, vì mọi người  không dám đi cùng một lúc. Anh tôi  khi ấy mới mười  lăm tuổi, còn người  anh lớn đã đi theo người bác vào  Nam trong chuyến tàu  trước. 

Mẹ con dẫn nhau ra Hải Dương trú ngụ ở nhà người chị họ, mẹ tôi định quay về đón anh tôi thì một người cháu họ cũng vừa thoát được, gặp mẹ tôi với lời nhắn của anh :-" Mẹ đừng về nữa, con sẽ tìm cách đi sau".

Nếu ở lại chừng vài hôm, chắc mẹ tôi chẳng bao giờ còn đi đâu nữa. 

Chờ  đợi mãi mà không  thấy anh tôi đến,  chỉ còn chuyến tàu chót vào Nam,  không còn cách nào  hơn, mẹ tôi không thể quay về mà  cũng không chờ đợi  thêm được, đành  gạt nước mắt ra đi. Cuối cùng  thì anh tôi ở  lại, chỉ bên này  với bên kia dòng Bến Hải mà tưởng  chừng vạn dặm,  mẹ tôi vào Nam  mang theo trong lòng bao đau đớn, khắc  khoải vì bỏ lại  một đứa con. Nỗi  đau của người mẹ có một đứa  con đã chết, có  đau đớn nhưng cũng có nguôi ngoai, nhưng  nỗi đau của một  người mẹ phải  chia lìa một đứa con còn sống, mà  bất lực không biết  con mình sống ra sao, lưu lạc phương  nào, ở với ai  khi không còn cha mẹ, sướng hay khổ,  nó cứ ám ảnh  mẹ tôi suốt một  đời, mãi cho đến hơn hai mươi sau  chiến tranh, mẹ  con gặp lại nhau  mừng mừng tủi  tủi.

Lúc  ấy tôi còn bé,  chỉ biết là trên  mảnh đất miền quê những ngày mới  vào Nam, mỗi buổi  chiều, khi đợt khói lam chiều tỏa  từ mái nhà tranh  bốc lên trời, theo gió chiều bay về  một phương trời  xa. Mẹ tôi nhìn  lũ con bé dại mà rơi nước mắt,  rồi lại xót xa  nhắc tới anh tôi  còn ở lại ngoài  kia. 

Nỗi buồn của mẹ tôi hình như cũng ảnh hưởng đến đám con côi. Chị em tôi tha thẩn chơi với nhau, lùi mấy củ khoai trong bếp lửa, hình dung đến người anh còn ở lại ngoài Bắc, đứa nào cũng ngậm ngùi . Ít lâu sau, người ta tìm cách liên lạc với người nhà còn kẹt lại miền Bắc. Qua ngả Cao Miên, mẹ tôi nhận được tấm Bưu thiếp của anh tôi gửi vào, có một đoạn viết cho mẹ tôi: " Mẹ đi rồi, gia đình vẫn vui vẻ, bình an. Hai ông cháu vẫn tăng gia sản xuất, đời sống no đủ như xưa.

Ai cũng mong ngày gia đình đoàn tụ...". Lá thư viết bằng mực tím, ngắn ngủi chỉ mấy hàng đã làm mẹ tôi khóc ròng rã. Làm sao mà vui vẻ, bình an khi gia đình tan tác, một ông già với một đứa trẻ con mười lăm tuổi làm gì có sức lao động mà tăng gia sản xuất? Không phải chỉ mình gia đình tôi mới tan tác như thế, thỉnh thoảng lại có người nhận tin từ miền Bắc, đưa cho nhau xem rồi mắt ai nấy đỏ hoe.

Chỉ  vài năm sau, đất  nước đã chia hai  lại tiếp tục chiến tranh, những người  tập kết vào mùa  thu ra Bắc không  có ngày trở về, những người di  cư vào Nam chờ  ngày xum họp cũng  chẳng hy vọng đoàn tụ. Người ta không  hình dung nổi vận  mệnh của đất  nước lại chỉ là một chuỗi chia  lìa đằng đẵng,  như khi xưa năm  mươi con theo mẹ lên non, năm mươi  con theo cha xuống  biển, như là một định mệnh oan nghiệt  cho lũ cháu con,  đeo đẳng lên số phận nghiệt ngã  của một dân tộc,  cứ mãi mãi phân  ly.

                                                        * * * 

Hơn hai mươi năm sau, ngày chiến tranh chấm dứt, may mắn là bom đạn không cướp đi của mẹ tôi đứa con nào, nhà nhà hai miền Nam Bắc đổ xô đi tìm nhau, qua những thông tin liên lạc về địa chỉ cũ. Mẹ tôi bảo người anh lớn viết thư về tìm em, chỉ ít lâu sau thì nhận được thư anh tôi gửi vào, kèm theo một tấm hình chụp cả nhà đứng dưới cây bàng trước cửa. Anh đã có thêm bốn đứa con, cháu lớn độ mười hai tuổi, mặt mũi đứa nào cũng buồn tẻ và gầy guộc, đứa bé nhất anh bồng trên tay, bẽn lẽn nép đầu vào ngực bố. Cả nhà mừng, thở phào. Thế là còn sống cả, chỉ trừ chị tôi đi nước ngoài vào những ngày cuối khi miền Nam thất trận. Vậy là thoát, vì trong nhà đã có người làm việc cho chế độ trước phải khăn gói đi tù, chị tôi thật là may mắn. 

Nhận  lá thư với tấm  hình anh tôi gửi  vào Nam cho gia  đình, đôi mắt mẹ tôi đã lờ  mờ, ngắm nghía  mãi hình ảnh đứa  con trai hai mươi năm xa cách, với  lũ cháu nhỏ mà  cứ chảy nước  mắt. Thế nào rồi mẹ con cũng gặp  nhau, tôi hiểu nỗi  vui trong lòng mẹ tôi, rồi khi nhìn  mẹ ngồi trầm ngâm  nhai trầu trong bóng tối ngoài hiên,  tôi hiểu mẹ tôi  đang nghĩ đến chị tôi, nỗi buồn trong  lòng bà mẹ Việt  Nam, tìm lại được một đứa con sau  hai mươi năm đất  nước chiến tranh,  rồi đến lúc hòa bình, lại thêm một  đứa con ra đi,  mà trong thời buổi ấy, không ai nghĩ  có ngày còn gặp  lại.Mãi năm sau anh tôi mới thu xếp đem đứa con đầu lòng vào Nam gặp mẹ và gia đình, kèm theo những món quà đơn sơ của miền Bắc. Khúc lụa đen Nam Định để mẹ may quần, anh nghe nói miền Nam không đủ vải vóc, cân bột sắn để mẹ uống cho mát, trà mạn Phú Thọ, vài quả hồng giòn xứ Lạng, khi vào đến miền Nam đã chín nhũn. 

Bữa  cơm xum họp trong  nhà thật cảm động,  chúng tôi nhắc những chuyện ngày thơ  ấu, dù bây giờ  không ai còn bé  dại. Có bao nhiêu chuyện để hỏi  để nghe, mẹ con  bà cháu quây quần  trên chiếc chiếu trải trên nền gạch  bông, mẹ tôi bõm  bẽm nhai trầu, nhìn đứa con trai nay  đã trưởng thành  trong đau khổ,  sau bao năm ở lại một mình nơi  quê nhà, đang kể  lại cho gia đình nghe nỗi đoạn trường  của anh. Họ hàng  ai còn ai mất, hàng xóm láng giềng  năm xưa, những năm  lũ lụt đói kém, những trận mưa  bom, gia đình bồng  bế nhau di tản  lên mạn ngược.

Chiến tranh là vậy,  nhờ phúc đức tổ  tiên mà gia đình  còn đầy đủ, dẫu chưa  trọn vẹn  niềm vui xum họp.   

Hình như tất cả anh em chúng tôi, dù lớn hay bé, đều mơ hồ nhớ lại căn nhà xưa của thầy mẹ tôi với không khí đầm ấm trong những ngày thơ ấu.

Căn  nhà nằm bên ngoài  bờ thành Sơn, một  cái thành cổ được xây từ đời vua  Minh Mạng. Sơn Tây  có hai cửa chính,  cửa Tiền và cửa Hậu. Phố cửa Hậu  đi thẳng ra bờ  sông Hồng, còn nhà  tôi ở phố cửa Tiền đi về hướng  núi Tản, từ nhà,  có thể nhìn thấy  dãy núi Ba Vì mờ mờ trong màn  sương, đường vào  trong đã nhấp nhô  những ngọn đồi thấp. 

Thầy tôi xây một cái bể chứa nước mưa ở góc sân sau, cạnh bể nước có trồng cây hoa ngâu để ướp trà, phía sau nhà bếp là mảnh vườn có cái ao vuông, xung quanh trồng rất nhiều tre trúc và chuối ngự, thuở ấy mẹ tôi còn trồng thêm rau cải hay rau muống. Anh tôi kể rằng sau ngày bố chết, mẹ và các em đi Nam, anh sống với người bõ già trong căn nhà gạch hai gian vắng lặng, tất cả tài sản của thầy tôi đã bị tịch biên, chỉ còn căn nhà trống trải làm chỗ ở cho hai ông cháu.

Những  buổi chiều mùa  Đông cô quạnh,  thui thủi hai người trong căn nhà thiếu  bếp lửa hồng và  tiếng cười đùa  của lũ em, anh tôi rống lên khóc  trong khi ông bõ  già ngồi rì rầm đọc kinh. Rồi chừng  như cám cảnh nỗi  tan tác phân ly, một già một trẻ  nhìn nhau rồi cùng  òa lên khóc. 

Sau đó ít lâu, anh tôi nhặt nhạnh tất cả những gì của cha mẹ để lại rồi một hôm bỏ nhà ra đi, chưa đầy mười sáu tuổi . Anh chỉ nung nấu một điều, vượt qua sông Bến Hải là còn hy vọng gặp lại gia đình. Chuyến đi không thành công, cầu Hiền Lương không dài bao nhiêu nhịp mà khoảng cách khó lòng vượt qua nổi, những họng súng đen ngòm chỉ chực nhả đạn vào bất cứ người dân hai miền Nam Bắc, khi điên rồ vì nhớ thương mà đi qua phía bên này hoặc phía bên kia.

Anh  tôi không đi đến  đâu thì bị bắt,  không có tội gì, chỉ là tội một  đứa trẻ con đi  tìm mẹ và anh  em. Anh bị hai năm tù, lúc được  thả anh vừa mười  tám tuổi, hai năm  tù đã khiến anh thành người lớn  để chịu đựng  được nỗi cô đơn  dằng dặc suốt hai mươi năm sau.   

Lúc ấy ở miền Nam, mẹ tôi cũng vất vả ngược xuôi để nuôi lũ con thơ ăn học, lòng vẫn ngổn ngang , nghĩ ngợi thương đứa con côi cút chốn quê nhà, chẳng còn hy vọng gì còn nhìn lại con, vì chiến tranh giữa hai miền hình như không có dấu hiệu chấm dứt. Anh tôi tuy chưa đủ lớn, nhưng đã sớm trưởng thành để tìm cách tự lực cánh sinh. Anh làm đủ mọi nghề. Hai cái lò gạch ngày xưa thầy tôi làm chủ, nay anh tôi vào làm công cho nhà nước như bao nhiêu người khác. Rồi làm thợ thổi thủy tinh, để sản xuất bóng đèn và chai lọ, đất nước lạc hậu, máy móc thô sơ, con người phải dùng chính sức người để sản xuất. Cơm gạo thiếu, may thì được ngày một bữa cơm, còn ăn độn thêm khoai luộc và ngô bung. 

Được ít lâu, người bõ già cũng lăn ra chết, anh bơ vơ có một mình, chỉ còn vài người hàng xóm thân tình chạy qua chạy lại. Cậu Hoạt thợ may là người hàng xóm tốt bụng, không vợ không con, sống khắc khổ như nhà tu, dạy cho anh nghề thợ may, vì nghề thổi ống thủy tinh vừa vất vả lại ăn uống thiếu thốn, dễ bị lao phổi. Hơn hai mươi tuổi anh đã lấy vợ, vì không chịu nổi nỗi đơn độc, đám cưới chỉ  đơn sơ như một bữa cơm trong nhà , gồm vài người hàng xóm với mấy người thân bên vợ, cô dâu chỉ duynhất có một chiếc áo dài để mặc trong ngày cưới, không có  được chiếc nhẫn kỷ niệm. 

Hai người hàng xóm của gia đình tôi ở ngoài Bắc , là những nhân vật đặc biệt còn rơi rớt lại từ thành phần tiểu tư sản. Cậu Hoạt sống một mình, ẩn dật với mớ kinh kệ và cô đơn, suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện tu than lên trời làm thánh.

Cậu  chán đời, sinh yếm  thế, một lần đổ  vỡ cậu nhìn đàn bà như tà ma,  dạo trước có người  rủ cậu đi Nam,  nhưng với cậu hễ đã buồn thì ở  đâu cũng vậy. Cô  Hạ có cửa hàng  đan len và hàng xén, bán đầy kim  chỉ và que đan,  cô còn nhận đan  áo cho khách , lúc rảnh rỗi vẫn  hay đọc tiểu thuyết  và ngâm thơ. Cô Hạ thuộc gia đình  trí thức tiểu tư  sản, thích văn chương, gần ba mươi tuổi  mà chưa chồng, cô  chờ người yêu  là một sinh viên Hà Nội, đi theo  nhóm Cách Mạng chống  Pháp mãi chẳng thấy về. Thỉnh thoảng,  trong ký ức của  chị tôi khi nhớ  về cô hàng xóm, cô vừa đan áo  vừa ngâm thơ, có  hai câu hay lắm  mà chị tôi còn  nhớ: 

" Chết đi là hết sự đời,
Chết đi là hết mọi mùi đắng cay." 

Cô  Hạ mang một mối  sầu lãng mạn ,  tay đan nhanh thoăn thoắt mà thỉnh  thoảng lại mơ màng  nhìn cụm mây bay  về một phương trời xa. Có lẽ  nỗi sầu ấy nó  vận vào đời cô,  cho nên nghe anh tôi nói, cô sống  thiếu thốn cả  về vật chất lẫn  tinh thần, sau bị lao phổi rồi chết.  Cậu Hoạt sau cũng  lẩn thẩn, đâm  mắc bệnh dở hơi, gàn gàn, dở dở.  . . 

Toàn những chuyện buồn khiến nghe xong ai cũng chảy nước mắt. . . 

* * *

Anh  tôi còn kể nhiều  chuyện nữa, rồi  thở dài kết luận, thầy tôi chết đi  là một điều may  mắn cho ông, nếu  sống, nhìn thấy sự nghiệp và của  cải của mình tạo  dựng bằng mồ hôi  nước mắt, bỗng một sáng một chiều  bị cướp giật  đi một cách tức  tưởi như thế, chắc ông cũng điên  lên mà chết. 

Lúc  anh tôi kể đến  cơ nguồn chạy lụt  và chạy bom, cả nhà đều đỏ hoe  đôi mắt. Riêng  anh, đôi mắt ráo  hoảnh, cứ mở to không chớp, nhìn  đau đáu vào khoảng  không như nhìn vào thăm thẳm của dĩ  vãng, có những nỗi  khổ tột cùng mà  người lớn còn không chịu nổi,  huống gì với một  đứa trẻ chưa thành  niên. 

Có lần lụt lớn, nước dâng lên nửa nhà, vợ chồng con cái bồng bế nhau chạy lụt, hành trang chỉ là mấy cái tay nải đựng ít quần áo và lương khô. Khi về, nhà cửa còn mốc meo, ẩm ướt, mấy tấm ảnh của thầy mẹ và các em bị loang lổ không còn hình dạng. Anh đau khổ nhìn tấm ảnh cuối cùng, một lần nữa, những trận lụt lớn, những cơn mưa bom, đánh bạt luôn trong anh chút kỷ niệm của người thân.

Bom  đạn giăng giăng  trên quê hương,  tạo nên những vết sẹo lồi lõm trên  thân thể một tổ  quốc bị đậu mùa.  Lúc miền Bắc toàn dân bị đẩy vào  cuộc chiến tranh,  thanh niên, thanh nữ hồ hởi lên đường  đi giải phóng miền  Nam, anh tôi cũng tình nguyện đi B,  nhưng không được  chấp thuận , vì  cái lý lịch có gia đình ở miền  Nam. Vậy mà ở  miền Nam, những  gia đình có cha , anh tập kết  ra Bắc, con em  vẫn được đi học  và nhận vào quân đội, có những  người còn được  học hành để trở  thành những nhân tài cho đất nước.

Cuộc chiến tranh ở Việt Nam rất ngộ nghĩnh. Người Việt ở miền Bắc được nhồi nhét lòng căm thù cao độ, lại thiếu thốn về đời sống vật chất, cho nên họ cương quyết chiến đấu với miền Nam để đoạt được Thiên Đàng tại thế. Người Việt miền Nam vừa chống giặc, vừa tò mò nhìn xem kẻ thù là ai, rồi khi biết "giặc" cũng chỉ là người Việt Nam như mình, thì họ rất bao dung để đơn giản nghĩ rằng: "Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.".

Đó có phải là nguyên nhân mà miền Nam thua, khi một nửa bên kia cố tình chiếm đoạt, một nửa bên này chỉ hòa hoãn chống đỡ để duy trì hòa bình, sự tương tàn chỉ vì hoàn cảnh bất đắc dĩ mà bắn giết nhau, chứ ai lại muốn gạch những vết mực đen lên bức tranh quê hương đẹp đẽ. 

Anh tôi vẫn nung nấu ý định đi vào Nam tìm gia đình bằng con đường đi B, nhưng vẫn không toại nguyện, nếu đi lọt, lại thêm một tiểu gia đình tan nát vì chiến tranh. Dấn thân bằng con đường chết để mong gặp lại mẹ và anh em, nhưng nếu chẳng may anh được chấp nhận, có thể bỏ xác trên đường Trường Sơn, hay trên một chiến trường miền Nam, thì liệu rằng có nên đếm xác anh vào số những kẻ thù bị tiêu diệt? 

Chắc  chắn là không thể,  nếu nhìn vào sâu  thẳm tấm lòng người dân miền Nam cũng  như miền Bắc, những  con người chân chất , mộc mạc, không  ai lại muốn đất  nước chiến tranh,  sẽ tội nghiệp vô cùng người dân  quê tôi, để hiểu  rõ cái áp lực  chính trị áp đặt lên thân phận người  dân đôi miền thật  nghiệt ngã. Sau này, khi hai miền thống  nhất, bên thắng  đàn áp bên thua trong hậm hực, bên  thua cũng khuất phục  trong hậm hực, hứa hẹn một màn đấu  đá cẩn thận trong  tương lai nếu có  dịp, những lằn ranh nghiệt ngã không  bao giờ mất. Cũng  chỉ vì e ngại lằn ranh nghiệt  ngã ấy, mà mẹ  tôi chưa dám thực  hiên một lần trở về, thì đã vội  vã lìa đời. Rồi  mỉa mai sao, không  khí chính trị làm miền Nam nghẹt thở,  để sự có mặt  của anh tôi trong  gia đình, lại vẫn là hiện thân cho  một tai ương của  dân tộc, khiến  anh em tôi có lúc không hiểu nhau,  như một câu hát  nghe rất buồn cười nếu được suy diễn  theo lối châm biếm  của người nghe:  "Vui sao, nước mắt lại trào..."   

Miền  Nam vốn từ trước  đến giờ, đã được  trời thương ban cho một mảnh đất  gió thuận mưa hòa,  kiếm miếng ăn không khó. Nay hòa bình, người dân được  quản lý chặt chẽ  bao tử như thời kỳ chiến tranh chống  Mỹ của miền Bắc, phân phối từng hạt gạo, lít nước  mắm, thước vải  để may quần áo. Ngay cả vấn đề tư tưởng, dẫu  rằng chưa hẳn đã  được thực sự  tôn trọng trong thời kỳ chiến tranh,  nhưng cũng không  đến nỗi bị bóp  nghẹt kiểu " trên đe, dưới búa,  đít ngồi bàn chông"  như lúc này. Anh em tôi đã bắt  đầu có những lấn  cấn, vì ít nhiều  gì mỗi bên đều bị ảnh hưởng  cuộc sống xã hội  nơi mình lớn lên, bởi vậy mà đôi khi vẫn có những  bất đồng tư tưởng  không thể tránh. Kinh tế  tụt dốc, người ta đổ  xô ra chợ trời  bán buôn những thứ  mà ngoài kia gọi là : " phồn  vinh giả tạo".

Giả  hay thật thì ai  biết cho ai, chỉ  thấy là miền Bắc  đổ xô vào vơ vét những thứ "giả  tạo" đó đem  về, người miền  Nam cũng vội vàng tống khứ những  thứ "giả tạo",  để hòa mình mau  chóng và khắc phục sự thiếu thốn  của đất nước  trong thời kỳ hậu  chiến. 

Mừng vui trong một nền hòa bình bi thảm như thế, cuộc tái ngộ thật ngậm ngùi. Nếu như người ta hiểu được cái giá quá đắt đã phải trả cho cuộc tương tàn, mà bỏ đi hai chữ hận thù, cùng bắt tay vào xây dựng đất nước thì giờ đây tổ quốc đã đẹp đẽ biết bao. Sự bực dọc khiến người miền Nam nhìn anh em mình ở ngoài Bắc với cái nhìn chung chung trong một nỗi thống hận, bất kể là ai, năm mươi con theo mẹ về trời, năm mươi con theo cha xuống núi, rõ ràng thì khó mà hòa hợp với nhau từ cách sống cho tới tư tưởng.

Cả  nhà nghĩ đến chuyện  về thăm quê. Đường  bộ sau chiến tranh còn gập ghềnh, đầy hang ổ bom  đạn, đường thủy  thì lâu lắc, xa xôi, chỉ chờ đường  tàu Thống Nhất  làm xong là thế  nào cũng có nhiều người hai miền  về thăm nhau. Riêng  điều ấy, với  mẹ tôi thì tôi hiểu đó là điều  bà ray rứt hằng đêm, nỗi sầu xa quê bao năm trường tưởng sẽ về ngay  được, nhưng mẹ  tôi vẫn không về, lý do vì có người con bỏ nước  ra đi, vẫn có  thể bị họ hàng  ngoài kia đàm tiếu theo quan điểm chính trị thuở đó. 

Trong đêm khuya, mẹ tôi bõm bẽm ngồi nhai trầu hàng giờ ngoài mái hiên không ngủ. Về. Không về. Mẹ tôi quay quắt trong ý tưởng được một lần về thăm mái nhà xưa, nơi chốn cũ, thành phố nhỏ mà quanh đi quẩn lại chỉ những người quen biết.

Con  đường về làng  cũ, có mồ mả  ông bà, có ngôi  mộ của thầy tôi nằm trong một nghĩa  trang cạnh ven đê  sông Hồng, có con đường ra Hà Nội  hai bên râm mát  bóng cây bạch đàn.  Những hình ảnh năm cũ, nay như  cuộn phim lần lượt  trở về trong trí  nhớ. Ít ra thì mẹ tôi vẫn ước  ao về xây lại  nấm mồ của thầy  tôi cho tử tế, được trở về  làng quê cũ, nói  lại ngôn ngữ quê  mùa với anh em, họ hàng trên mảnh  đất quê nhà. 

Tôi đã nhìn thấy bao điều nghịch lý sau những ngày hòa bình, có xum họp rồi vẫn thấy phân ly, có thương yêu rồi vẫn có hận thù. Người mẹ miền Nam vội vã hạ tấm hình đứa con đi lính đã tử trận xuống , chỉ vì anh ta mặc bộ quân phục lính miền Nam, có gắn chiếc huy chương trên ngực áo.

Sự  mất đi của người  con đã là một  đau xót cho người mẹ, ngay cả sau  khi chết, tấm hình  kia cũng không được  một chỗ đứng danh dự trên bàn  thờ. Mẹ tôi cũng  thế, dẫu hai mươi  năm trước bỏ lại một đứa con, chỉ  là cái oái oăm  của định mệnh,  hai mươi năm sau, một đứa con lại  ra đi, há không  phải là điều đau  xót. Thật vậy, cho đến cuối đời,  lúc thoi thóp trên  giường bệnh, dường như mẹ tôi vẫn  bị ám ảnh về  sự mất mát này.  Ngày mẹ chết, anh tôi từ Bắc không  vào được đúng  ngày chôn cất, chị  tôi cũng không về được vì người  ta vẫn cấm chợ  ngăn sông, những  lằn ranh vẫn còn, tiếp nối từ thời  kỳ này sang thời  kỳ khác. 

Có nhìn vào cái dáng buồn rầu của người mẹ xa con, mới thấy nỗi u uẩn trong lòng người mẹ. Buổi trưa hè, mẹ tôi ngồi nhặt gạo nấu bữa cơm chiều, thỉnh thoảng lại buột miệng gọi tên một người con bà nhớ, khi thì anh tôi, lúc lại chị tôi.

Dường  như lúc ấy trong  lòng mẹ tôi vẫn  là hình ảnh căn nhà lợp ngói hai  gian ở phố Cửa  Tiền năm xưa, anh  tôi độ ấy hơn mười tuổi, cõng  em chạy long nhong  ngoài hè đường,  hay là hình ảnh chị tôi , lũn  cũn đi nhổ hết  những cây cải non  trong vườn sau của  mẹ. 

Hai đứa con mà cuộc chiến Việt Nam đã thay nhau đẩy ra khỏi trái tim người mẹ, để mẹ tôi suốt đời nặng trĩu những nhớ thương, đau khổ. 

* * *

Anh tôi tính hơi bất thường, con người đầy tình cảm tha thiết như thế, bỗng dưng nhiều khi lạnh lùng, hoài nghi tất cả. Sự mâu thuẫn nội tâm này là kết quả của những tháng ngày anh cô đơn chống chỏi với đủ mọi thứ  bất trắc trong cuộc sống, nó ảnh hưởng lên tâm hồn anh khiến anh ngờ vực ngay cả lòng thành thật của người khác.

Càng  suy nghĩ, tôi thấy  anh tôi đáng thương  hơn đáng trách, chính chế độ đã  nhào nặn anh thành  kẻ đa nghi và  đánh mất niềm tin nơi con người,  bị lừa dối, bị  hắt hủi, bị cái  đói cái khổ dằn vật khiến người  ta lúc nào cũng  thắc thỏm lo âu.  Không tin cả Trời, không tin cả Người,  không còn niềm tin  thì đời sống làm gì còn ý nghĩa.  Chẳng phải mình  anh tôi, sau này  có dịp về lại miền Bắc, tôi mới   xót xa nhận  ra rằng, ngay cả  lòng nhân ái cũng không được tự  do bày tỏ, thật  gớm ghê cho cái  tàn nhẫn của chính  trị. 

Năm một chín tám mươi , tôi đi Bắc thăm chồng trong trại Cải Tạo, sẵn dịp về thăm anh chị và các cháu. Chuyến xe từ miền Nam đổ chúng tôi xuống vỉa hè một con đường của thị xã Thanh Hóa, lúc ấy tuy ban ngày mà phố xá thật vắng vẻ, không nhìn thấy một chiếc xích lô nào làm phương tiện di chuyển như ở miền Nam. 

Đang ngơ ngác tìm người để hỏi thăm đường ra bến xe đi Bãi Trành, như địa chỉ trong thư dặn dò. Một đống hành lý ngổn ngang toàn những thực phẩm tiếp tế, chúng tôi lúng túng chưa biết làm sao để chuyển được ngần ấy thứ ra bến xe,  đúng lúc ấy chủ nhân của căn nhà chỗ chúng tôi đứng tạm đi làm về, đằng sau chiếc xe đạp còn chở theo một bó rau muống thật to, có lẽ anh mới ghé qua chợ. 

Nhìn bộ điệu ngơ ngác của chị em tôi, anh đoán ngay là dân miền Nam ra thăm tù ở miền Bắc. Thành phố nhỏ, người qua kẻ lại nhìn chằm chằm vào những người lạ dọ dẫm khiến chúng tôi thật khó chịu. May quá, đúng lúc ấy, người chủ nhà chạy ra, anh nói: 

" Các em cứ mang hết hành lý vào trong này, đứng mãi ngoài đường người ta dòm ngó. Vào đây rồi tính sau, đi thăm người nhà cải tạo phải không?" Chẳng  cần anh phải nói  thêm, chúng tôi vội  vã khuân hành lý vào nhà ngay, lúc  này tôi mới chú  ý đến anh, chiếc  nón cối đội đầu, áo sơ mi trắng,  hình ảnh công nhân  viên hay cán bộ nhà nước. Tôi cũng  không hiểu sao anh  lại có vẻ tử  tế với chúng tôi như vậy, sau anh  mới kể, đã có  hai lần vào miền  Nam, anh có người anh làm nhà giáo  ở trong ấy, bảo  anh đưa vợ con  gia đình vào có nhà cửa và cơ  sở làm ăn, nhưng  anh không vào, vì  vợ anh vốn người chân quê, gia đình  chị lại ở cả  Thanh Hóa, chị sợ  đi xa không gần gũi cha mẹ anh  em, nên dù thấy  miền Nam phồn thịnh  và đông đảo, vẫn không đi. 

Nhà anh tuy ở phố nhưng vẫn theo kiểu nhà quê, phía sau có chuồng nuôi lợn và cái giếng nước. Sau khi nghỉ ngơi, tắm giặt sạch sẽ, đúng vào giờ tan tầm buổi trưa, chị cũng về nhà nấu cơm, các cháu gửi ở nhà trẻ. Chị ngạc nhiên nhìn chúng tôi, anh vui vẻ vắn tắt vài câu giới thiệu chúng tôi là người nhà của ông anh từ miền Nam ra.

Sau  đó vợ chồng rù  rì to nhỏ, chị  cũng không hỏi thêm, sẵn có túi gạo  ngon từ miền Nam  đem ra, tôi tế  nhị thổi nồi cơm trắng để cả nhà  cùng ăn, chị bảo  chiều sẽ dẫn tôi  đi chợ.

Hai chiếc bếp củi được đặt trên nền đất, căn bếp bé tý và tối om om.Trong buồng ngủ của anh chị, thấy có chiếc máy may , một chiếc máy truyền hình và chiếc máy hát đã cũ, chắc của người anh trong Nam tặng.

Còn phòng khách lại trống trơn, chỉ có chiếc phản gỗ và bộ bàn ghế cũ làm nơi tiếp khách. 

Cơm vừa chín tới thì một người đàn bà, chắc là hàng xóm của anh chị , thấy có người lạ chạy sang , xồng xộc đi vào nhà, anh vội giới thiệu " mấy cô em bất đắc dĩ" từ miền Nam ra.

Với  vẻ xông xáo rất  tự nhiên, bà ta  đi vào bếp, tự  tiện nhấc nắp vung nồi cơm vừa  chín tới ở trên  bếp, hít hít mấy  hơi  rồi nói với một vẻ đầy  châm biếm: 

" Hôm nay ăn sang nhỉ, nguyên một nồi cơm trắng." 

Rồi bà ta nhìn lom lom vào chúng tôi như dò xét, vì lúc nãy bà đã quan sát chúng tôi đứng ở lề đường khá lâu , cho nên sinh nghi trong bụng. Bà hàng xóm ra về, chúng tôi quả thật lo ngại và buồn nôn cho cái kiểu nhảy xổm vào cuộc sống của người khác như thế. Bữa cơm ăn không biết ngon, phần mệt, phần lo, tôi thấy anh thở dài, còn chị thì đăm chiêu, tư lự. Sau bữa ăn trưa, anh phải đi làm, chị cáo ốm ở nhà đưa tôi đi chợ, và sau bữa cơm tối, anh chuẩn bị đưa chị em tôi ra bến xe. Anh nói, giọng buồn buồn:  " Anh phải đưa các cô ra bến xe ngay tối nay, vì mỗi ngày chỉ có một chuyến xe đi Bãi Trành, sợ sáng mai không kịp." 

Thật  ra nhìn vẻ khổ  sở trên nét mặt  anh, tôi có thể hiểu là anh không  dám cho chúng tôi  ngụ lại nhà anh  đêm đó, vì những rắc rối có thể  xảy đến cho gia  đình anh. Chúng tôi thông cảm ngay nỗi  khổ tâm của anh,  một người xa lạ không chút máu mủ  ruột rà, vậy là  anh quá tốt, không  dám đòi hỏi gì hơn. 

Gửi gấm chúng tôi ngồi bên hàng hiên một quán nước, lù mù ngọn đèn dầu trên chiếc bàn thấp có bày vài nải chuối, mấy cái bánh in nhân đậu xanh, mấy chai nước chanh pha sẵn và nồi nước chè tươi. Suốt đêm hôm đó chúng tôi nằm trên tấm ny lông trải dưới đất, gối đầu lên đống hành lý sợ mất trộm. Bến xe càng về khuya càng vắng người, chỉ có một vài người lỡ đường chờ chuyến xe sáng ngồi uống nước và hút thuốc vặt. Lòng tôi nao nao buồn, nhìn quanh thì chỉ những mảnh đời khốn khổ, đói nghèo , đầy những bất trắc , càng nghĩ tôi càng muốn chảy nước mắt . 

Sáng  hôm sau, trời tờ  mờ sáng và chuyến  xe duy nhất đã vào bến, tôi thấy  anh đã lọc cọc  đạp xe ra. Quần  xắn cao, còn vác thêm một cây đòn  gánh, anh nói suốt  đêm cũng không ngủ được vì lo, anh  chỉ mong trời sáng  để ra bến xe  giúp chị em tôi lên xe, đề phòng  bị mất cắp hay  bọn lơ xe, khuân  vác bắt chẹt. Chờ chúng tôi lên xe  xong xuôi, anh dặn  dò mấy câu rồi  mới về, tôi ngồi nghĩ ngợi về ân  nhân mà muốn khóc,  xúc động vì lòng  nhân ái giữa con người với nhau.  Những lúc cấp bách  nguy nan, những lúc cô đơn trong dòng  đời , những chia  xẻ dù nhỏ nhoi  vẫn làm trái tim ta thổn thức, cảm  nhận thật sâu sắc  về tình người  quý báu đó. Có một điều đau xót là những ràng buộc của chính trị đã khiến người ta không dám thể hiện lòng nhân ái, vì những bất an cho cuộc sống và tương lai khiến phải hững hờ trước nỗi khổ của người khác. Đó có phải là cái lằn ranh nghiệt ngã mà chắc chỉ khi nhắm mắt , hai tay buông xuôi người ta mới thoát ra được. 

Tôi  viết những dòng  chân thật này để  cảm ơn anh, người tôi không hề quen  ở thị xã Thanh  Hóa êm đềm, buổi sớm mai còn phủ đầy sương  núi, chập chùng  những rừng cây  ở phía xa. Ít ra thì tôi cũng  một lần mở được  chút suy nghĩ hẹp  hòi cái lằn ranh vô hình, đã thắt  chặt lấy tâm tư  dân tộc sau bao  nhiêu năm đầy thành kiến với nhau. Anh  lại ngậm ngùi chia  tay chị em tôi và chúng tôi đáp  chuyến tàu đêm  về Hà Nội. Tôi  mua chiếc bánh mì mà nuốt không nổi,  vì nó cứng như  đá, những con rệp  đánh hơi người bò lên lổm ngổm,  bám chặt lấy da  thịt chúng tôi chích nhoi nhói. Tàu đi  qua những sân ga  buồn, leo lét ánh đèn đêm vàng vọt.  Đến ga Nam Định,  tàu ngừng, người ta chen chúc nhảy  tàu ngã dúi dụi  vào nhau, một chị  phụ nữ nhà quê đi buôn còn dẫn  theo đứa con gái  khoảng sáu tuổi,  đôi mắt con bé cứ dán chặt vào  ổ bánh mì trên  tay tôi thèm thuồng.

Tôi  đưa ổ bánh mì  khô cứng cho con  bé, nó mừng rỡ giương mắt ra nhìn  trong khi người mẹ  cảm ơn rối rít.  Một ổ bánh mì cứng như đá chọi  chó cũng u đầu,  vậy mà nó đã  mừng rỡ đến như  vậy ư ? Qua  đó, đủ hiểu cái  đói, cái nghèo đã  phủ lên đầu đồng bào tôi, tội nghiệp  biết bao. 

Sau này về miền Nam, một mùa Xuân tôi nhận lá thư của anh viết thăm, có thêm một câu thơ : 

" Trước sau nào thấy bóng người, 
Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông. . ." 

Tôi hiểu , thêm  một nét lãng mạn  và mơ mộng nơi  tâm hồn anh . Người ta có thể  bóp chết tất cả,  ngoại trừ tư tưởng.

***

Hai  miền Nam Bắc thông  thương được vài  năm thì mẹ tôi qua đời, thế là  cái ước vọng được  về nằm bên cạnh  ngôi mộ thầy tôi cũng không bao giờ  thực hiện được.  Ngay cả lúc chết,  các con vẫn còn tứ tán mỗi người  một nơi, anh tôi  ở miền Bắc không  vào kịp để chôn cất mẹ, chị tôi  ở phương xa vẫn  chưa có nẻo về,  chỉ còn vài anh em gần gũi lo  ma chay cho mẹ.  Đám ma đơn sơ  ở một làng quê miền Nam, có con  sông nước đục  ngầu phù sa và  những giề lục bình hoa tím trôi  lang thang, có hàng  dừa xanh soi bóng nước, có tiếng  chuông nhà thờ buông  những âm thanh buồn buồn mỗi khi chiều  xuống. 

Trước  khi đi xa, tôi  về quê bốc mộ  cho mẹ. Lần cuối cùng tôi cầm trên  tay nhúm tro cốt  của mẹ , rồi  nhìn những sợi khói mong manh bay  lên trời trong một  buổi chiều miền quê quạnh vắng,  tôi đã vừa khóc  vừa nói với mẹ  tôi rằng: " Thôi nhé mẹ ơi!  Bây giờ thì thầy  mẹ đã được gặp  nhau rồi. Dẫu đất nước chia lìa, dẫu  lòng người có phân  ly, nay trở về cát bụi, sẽ không  còn lằn ranh nghiệt  ngã nào bên kia thế giới. Mẹ đã  hoàn toàn bình yên,  bình yên mãi mãi."   

Để tưởng nhớ hương hồn thầy mẹ, 
Riêng tặng các anh chị của tôi. 

Nguyên Nhung
Back to top
 
mydung2003sg  
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4029
Re: Truyện ngắn
Reply #121 - 09. Jul 2010 , 18:41
 
 

Thân gởi đến quí bạn một câu chuyện ngắn.

Xin mời đọc để thấm kiếp người đọa đầy.

[bQUỲNH  NHƯ][/b]



HUẾ 1966.

Huế, thật đẹp, thật thơ-mộng, thật dịu dàng ướt át và cũng thật nóng bỏng. Huế thật đẹp với những hàng cây phượng vĩ chạy dọc bên những con đường nho nhỏ nên thơ. Huế thật thơ mộng với những hoa phượng rơi rơi trên áo dài trắng, trên mái tóc dài của những cô học trò đang trên đường về. Dịu dàng ướt át với những cơn mưa kéo dài hết ngày này sang ngày khác. Và nóng bỏng, với nắng Hạ, với tóc dài, buông lơi bay trong gió, với những tà áo trắng quấn-quít, bíu chặt đôi chân. Nóng bỏng.

Trên đường về nhà, mỗi cuối tuần, bỏ lại sau lưng Tu Viện buồn chán, Quỳnh Như suy nghĩ miên man. Gặp Mạ, mình sẽ nói gì đây? Nhớ Mạ? Thì đúng quá rồi. Mình đang nhớ Mạ quá đi nè! Nhưng trong tận thâm sâu của cô gái Huế, 20 tuổi, một cái gì xôn xao, trông ngóng. Trong Như, hình như có 1 điều gì đang thôi thúc và cũng đang niú kéo đôi chân dài thật dài của Như lại. Như muốn đi thật chậm, từng bước, từng bước, để có đủ thì giờ, suy nghĩ những gì muốn nói khi về tới nhà. Cùng lúc, Như muốn đôi chân mình, sẽ nhẹ như mây, như sương khói, để mình có thể lướt đi một cái vèo là về tới nhà. Nói về nhan sắc của Như, Như không những chỉ làm chủ đôi chân mà thật nhiều cô gái ngày đêm mơ-ước. Như còn sở-hữu 1 dáng người thật đẹp. Dáng người Như cao cao, những nét cong trên người nàng tuyệt hảo, tuyệt đối, không một chỗ nào dư, không một chõ nào thiếu. Perfect!, ngây-thơ!, và quí-phái. Gương mặt trái xoan của Như là những gì đẹp nhất, thanh-tao nhất mà Thượng-Đế có thể ban tạo được cho thế-gian. Chẳng thế mà bạn bè Như thường so-sánh Như với gương mặt của Đức Mẹ Maria. Với sắc đẹp tuyệt-thế như vậy, cũng chẳng có gì phải ngạc-nhiên khi mà những tiệm chụp hình ngoài Huế, tiệm nào cũng xin được chưng hình chụp của Như trong tủ kính để thiên hạ qua lại chiêm ngưỡng, ngợi khen. Ai đi qua những tiệm chụp hình đều không thể không trông thấy những bức hình chụp của Như.

Chỉ có một điểm không được cân xứng với nét đẹp tuyệt vời này. Như thường tâm sự vói một cô bạn nhỏ tuổi hơn Như, “Phải chi, tau được có đôi bàn tay và đôi bàn chân như mi, là tau không con mơ ước gì nữa”. Ông Trời sao thật trớ-trêu!!



Khác với một năm về trước, bây giờ, mỗi cuối tuần, Như nôn nao chờ ngóng để mau được về nhà. Như cũng nhận thấy đôi khi vào những ngày trong tuần, Như cũng tìm cách để xin phép Ma Seur, xin được về nhà.

Mạ Như, bà quản-lý trông coi một trường Đại Học. Những sinh viên Luật và Y khoa ngòai Huế thường xin được tạm-trú trong ngôi trường này. Đôi khi, bà cũng nấu những bữa cơm cho sinh viên khi được yêu cầu. Trong số những sinh-viên sống trong khuân-viên của trường Luật, từ trong Nam ra, có Lê đại  Bàng.



ĐÀ NẴNG 1968

Như suy-nghĩ mông-lung. Mới có hai năm thôi, mà sao cuộc-đời mình quá nhiều biến-đổi. Từ một nữ tu, bỏ viện, về ở nhà, để được gần Bàng, để được nấu ăn, săn-sóc cho Bàng. Bây giờ bụng mang dạ chửa, phải bỏ Huế, chạy trốn vào Đà-Nẵng một mình. Như biết, Mẹ Như chẳng biết gì, Bàng vẫn ở trọ nhà mạ Như, ngày ngày gặp bà, nhưng không bao giờ nhắc tới Như, coi như không có chuyện gì xảy ra hết!!



SÀI GÒN 1970

Từ lúc nghe tin Bàng sắp làm đám cưới với em một nhân vật quan trọng trong chinh phủ Nguyễn văn Thiệu. Như nghĩ “như vậy là anh sắp-sửa thực-hiện được giấc-mơ ngày còn đi học rồi, phải không?? Như nhớ, Bàng thường nói, “sau khi ra trường, hy-vọng có tiền, để có thể mở được 1 phòng mạch”. “Nhà Bàng nghèo mà!!!!Ai nghèo mà không ước-mơ được như vậy??!!” Như như biện bạch cho Bàng. Trước khi quyết tâm vào Nam một chuyến, Như tâm sự với người bạn gái: “Tau phải mang con bé vào Sài Gòn cho Bàng gặp mặt con anh ấy. Con bé đẹp quá mà, Bảng thích đẹp, chắc sẽ nhận con và từ bỏ đám cưới!!” Như không nói tới, nhắc tới hoặc nghĩ tới Bàng có còn yêu mình nữa hay không; cũng không nghĩ là mình muốn gì ở Bàng nữa. Như chỉ muốn con gái mình được sống bên cạnh cha của bé. Rồi cuộc đời Như tới đâu cũng được.

Tới Sài Gòn, trong khi chờ đợi giờ phút thuận-tiện để 2 cha con gặp mặt, Như đưa bé ra Bình Bung chợ Bến Thành chơi. Một trái lựu đạn nổ tung không biết từ đâu. Đứa con gái nhỏ của Như, trúng miểng lựu đạn, bé chết ngay tại chỗ. Như còn sống, Con Tạo chưa muốn kết-thúc cuộc đời Như. Chưa thể hết được. Trong lòng Như đã nát tan. Hết!! Như không còn một dự tính nào khác nữa, Như quay đầu trở về Đà Nẵng. Bàng cưới vợ, em một tướng Không Quân, mở phòng mạch.



ĐÀ NẴNG 1972 

“Gái 1 con, trông mòn con mắt” Hơn nữa, gái này lại là Quỳnh Như, hoa khôi tuyệt thế ngày nào. Ngày nào, Như nhủ thầm trong bụng, “Ừ, mới cách đây mấy năm thôi, mà bây giờ cuộc đời mình đã ra thế này. Con Tạo dễ sợ thật. Thôi thì cứ sống, thử coi Con Tạo xoay vần mình đến đâu”. Như xoay người, ngắm nhìn mình trong gương, cần sửa soạn gì nữa không? Sắc đẹp thì vẫn như xưa, còn đẹp hơn nữa là đàng khác. Nhưng, sao đôi mắt thần-tiên ngày nào, với ánh mắt trong sáng, đầy yêu thương như Đức Mẹ đã biến đi đâu mất rồi?! Bây giờ, đôi mắt ấy, ánh mắt ấy vẫn long lanh, nhưng thoáng như, lảng vảng như có những sợi tơ buồn vương đọng.

Ông Minh, Trung Tá Không Quân, đúng giờ, lái xe đến đón Như đi ăn tối. Như quen ông, để mong được quên đi tất cả những gì liên hệ tới quá khứ. “Quá khứ đã quá buồn rồi. Sống để nhớ quá khứ, để nhớ chuyện buồn, chuyện khổ nữa, thì ai sống nổi”, Như nghĩ vậy. Ông Minh đưa Như vào làm trong VNTT, một ngân hàng khá lớn tại Đà Nẵng, lương dư sống. Chiều chiều, ông đón Như đi ăn. Như vậy cũng được, cuộc sống như vậy cũng tạm gọi là ổn-định.



Một hôm, Như lái xe tới nhà cô bạn gái nhỏ tuổi. Vừa vào đến trong nhà, chưa kịp ngồi, Như đã rên rỉ “ Sao mi ác rứa, sao mi báo cho vợ của ông ta tau là bồ của ông ấy. Chỉ có mi là biết câu chuyện này của tau thôi, tau chưa từng nói với ai chuyện này hết”. Sau khi đầu đuôi câu chuyện đã ngã ngũ, cô bạn gái dặn dò Như “Sao chị không hỏi thử chị Đoan, bồ ông Tướng ... đó, thử coi”

Câu chuyện rồi cũng tạm ổn định. Bà Trung Tá chắc nghĩ mình cũng già rồi; với lại, chuyện đàn ông bồ bịch, ai cũng có. Mọi chuyện chỉ là tạm thời, rồi đâu cũng vào đó thôi, nên cũng chả thèm ghen tuông nữa.

Mau ngê!! Con trai của Như với ông Minh đã gần hai tuổi rồi đó.



ĐÀ NẴNG 30-4 1975

Miền Nam thất thủ. Sĩ Quan Quân Đội nhận được lệnh phải đi học tập cải tạo. Như lênh đênh, như thuyền không bến. Sống không nổi tại Đà Nẵng Như quyết định mang con vào Nam để được sống gần người chị ruột.



SÀI GÒN 1976

Một nữ tu, có một sắc đẹp mà bạn bè lúc nào cũng so-sánh “đẹp như Đức Mẹ”, con nhà khá giả. 10 năm sau thôi, bây giờ, một chị đàn bà, da đen-đúa, ngồi bán thuốc lá lẻ trước Công Viên Tao Đàn, nhìn người người đi qua, nhìn cuộc đời đi qua. “ Ê, mi là.....ở Đà Nẵng hồi đó, phải không? Như đây nè, nhớ không?” “Em nè. Chị Quỳnh Như, Chị có thay đổi, nhưng nét đẹp của chị vẫn còn đó, không thay đổi, Em nhận ra chị ngay”

Chị Em hàn thuyên, chuyện vãn. Như thổ lộ “tau đang bị bệnh lao phổi, nhưng không có tiền vào bệnh viện để chữa bệnh”. Cô bạn gái nhỏ tuổi bèn giúp đỡ để Như được đưa vào bệnh viện điều trị.

Tại bệnh viện, trong lúc nói chuyện với bác sĩ điều trị, vị bác sĩ này hỏi thăm và nhận ra cô bạn gái nhỏ tuổi của bệnh nhân là người mà anh ta đã khổ công tìm kiếm bao lâu nay, nay tình cờ tìm gặp lại được. Anh chữa trị thật tận tình và Như được ra khỏi bệnh viện sau thời gian ngắn chữa trị.



SÀI GÒN 13 NĂM SAU 1989

Một ông già, thật già, thật gầy, đầu đã hói gần hết tóc, lưng thì còng và răng thì đã rụng hết, không còn cái nào. Ông gõ cửa nhà Như, giới thiệu là Minh, vừa trong trại cải tạo về. Như thất thần, hốt hoảng, thầm nghĩ “Ông ơi, sao ông không về với vợ con ông?, ....., hỡi trời”



SUN CITY, 7/8/10

Câu chuyện trên đây là chuyện thật hay là chuyện tưởng tượng? Tôi không biết!

Những nhân vật trong chuyện là hư cấu hay là những nhân vật có thật trong cuộc đời?

Tôi không hay!

Những mốc thời-gian trong chuyện là sự-thật hay chỉ là tưởng-tượng?

Biết trả lời sao cho đúng bây giờ?

Nếu trí óc tôi còn minh-mẫn, thì đây là câu trả lời:

Tôi ngồi đây, một mình, nhớ chuyện cũ.

Muốn hỏi quá khứ, muốn hỏi thời gian:

Người cũ đâu rồi? Ai còn ai mất? Và ai đó, xin hãy nhắc tôi đây là chuyện có thật. Để tôi được buồn, được khóc với cuộc đời.



Nhưng, nếu đây chỉ là chuyện tưởng tượng, tầm phào của một người tuổi đã về chiều, thì xin đọc qua rồi bỏ.

Đời còn nhiều chuyện thương tâm hơn thế nữa, nhiều chuyện buồn hơn thế nữa, phải thế không, quí vị?

Trân trọng
Back to top
« Last Edit: 09. Jul 2010 , 18:42 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Dzitgo
Gold Member
*****
Offline


Cạp cạp cạp

Posts: 1887
Ý nghĩa về phong thủy
Reply #122 - 10. Jul 2010 , 14:06
 


Ý nghĩa về phong thủy



Bí ẩn các vật phẩm phong thủy (1)

Bày vật phẩm Phong Thủy trong nhà mà không hiểu biết ý nghĩa của nó quả là một hành động nguy hiểm, bởi đồ phong thủy không phải chỉ để bày biện cho đẹp.


Bạn hãy tìm hiểu về ý nghĩa của các vật phẩm thường gặp trong loạt bài "Bí ẩn các vật phẩm phong thủy" dưới đây.


1 - Hoa mẫu đơn - Biểu tượng cho sự sang trọng, quý phái và hấp dẫn

...

Những bức tranh phong thủy về Hoa mẫu đơn.


Người không những mong muốn thêm người, thêm của mà còn một điều mong ước nữa thường được thể hiện trong các câu chúc tụng nhau - đó là phú quý. Vì vậy, nhiều người thích trồng hoa cảnh hoặc cắm hoa trong nhà, một số loài hoa không những được người đời ưa thích mà còn coi đó là biểu tượng của phú quý, giàu sang, ví dụ Hoa mẫu đơn.

Tương truyền rằng, năm khai nguyên nhà Đường, thiên hạ rất thanh bình, nghe đâu năm đó ở Trường An, hoa mẫu đơn nở rộ, khi Đường Huyền Tông thưởng thức hoa mẫu đơn ở trong nội điện muốn cao hứng ngâm vịnh một bài thơ về hoa mẫu đơn, nhưng nhà vua chưa biết nên ngâm bài thơ nào, lúc đó Trần Tu ở bên cạnh liền tâu rằng: Nên ngâm bài thơ của Lý Chính Phong, trong bài này có câu:

Thiên hương tại nhiễm y
Quốc sắc triều hàm tửu.


(tức: "Hương trời nhuốm màu áo, sắc nước say cả triều")

Về sau người ta dùng từ “quốc sắc thiên hương” (sắc nước hương trời) để hình dung hoa mẫu đơn. Nhưng Âu Dương Tu lại có cách phác họa khác là:

“Thiên hạ chân hoa độc mẫu đơn”
(tức: "Chỉ có mẫu đơn mới xứng đáng là hoa thật trong thiên hạ").

Dường như mẫu đơn càng đẹp hơn, quý hơn nhờ được hai nhà thơ tôn vinh, còn người đời coi mẫu đơn là biểu tượng của phú quý, trong các dịp khai trương, người ta hay tặng nhau tượng hoặc tranh mẫu đơn để chúc nhau phú quý.


Hoa Mẫu Đơn được mệnh danh là bà chúa của các loài hoa. Loài hoa này thể hiện vẻ đẹp sang trọng, quý phái, sức hấp dẫn nồng nàn, cảm xúc của sức trẻ toát ra mạnh mẽ. Tinh hoa nó toát ra đem lại vẻ đẹp, sức quyến rũ và may mắn trong tình yêu.

Vì lẽ đó, bạn nên đặt tượng hoặc tranh hoa mẫu đơn tại cung tình duyên (Tây Nam) trong phòng ngủ nhà mình.


2 - Vương trượng - Biểu trưng cho uy quyền
...

Vương trượng mạ vàng - vật biểu tượng của quyền lực.


Vương trượng (Gậy như ý) là những vật hình cong đầu rất lớn. Ý nghĩa của biểu tượng là cầu mong đạt được mọi ước nguyện, việc gì cũng tốt đẹp, vừa ý. Trong tâm linh Phúc - Lộc - Thọ, thì Ông Lộc trong tay cũng cầm Vương Trượng. Đa phần, Vương Trượng được chế tác bằng ngọc nhưng cũng có thể làm bằng chất liệu khác như vàng, bạc đồng, sứ…

Vương trượng là vật đại diện cho quyền lực mà ngày xưa các vị quan lại vua chúa luôn sở hữu. Nó là vật khí rất quan trọng trong Phong Thủy chuyên dùng để củng cố địa vị và quyền lực, chống lại kẻ tiểu nhân; tăng thêm công danh, uy quyền, sự tôn nghiêm cho người sở hữu.

Vương trượng được mạ vàng, kèm thêm những viên ngọc nên cát khí của nó rất lớn, không những hoá giải được hung khí của sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc vốn gây tai họa mà còn đem lại uy quyền và công danh tài lộc.
Vương trượng rất thích hợp dùng cho người mệnh cao, giữ trọng trách lớn. Đặt trên bàn làm việc, trong phòng khách, văn phòng.


3 - Tháp Văn Xương - Đem lại may mắn trong học tập và công việc


Tháp Văn Xương thường được trưng trong nhà để cầu thi cử đỗ đạt.

Tháp Văn Xương hiện là một ngôi bảo tháp hàng đầu ở phía nam Quảng Tây, Trung Quốc. Tháp thường được xây dựng theo hình bát giác, cao tầm 36 - 45m, gồm 7 tầng với mái hiên bằng gạch trồng lên nhau và nhỏ dần từ tầng dưới lên tầng trên, đỉnh tháp là một khối hình hồ lô màu đỏ. Người Trung Quốc thường đến đây để cầu đỗ đạt, thăng tiến trong học tập và công danh sự nghiệp.

Ngoài ra, họ còn có thói quen bày mô hình tháp ở vị trí Văn Xương trong nhà. Bởi theo quan niệm từ xa xưa, chùa tháp tượng trưng cho trí tuệ và pháp lực vô biên của nhà Phật nên tháp bày trong nhà sẽ có tác dụng bảo vệ và đem lại may mắn, thuận lợi trong học hành, thi cử
Tháp Văn Xương có khả năng ngăn ngừa hung khí, tà ma bởi và được sử dụng trong việc loại trừ ma quỷ. Nó cũng rất hữu dụng cho những ai sắp trải qua những kỳ thi cử quan trọng hoặc những người muốn tăng tiến về trí tuệ và công danh.

Nếu dạo qua các cửa hàng chuyên bán đồ phong thủy, có thể dễ dàng nhận ra những mô hình tháp Văn Xương được chế tác từ thạch anh, ngọc lục bảo, pha lê hoặc đồng... bày bán khắp nơi. Trong trường hợp gia đình có con, cháu sắp phải tham dự kỳ thi lớn như tốt nghiệp, đại học..., tốt nhất nên đặt tháp Văn Xương trên bàn học của cháu, đúng huyệt văn xương trong nhà để cầu may mắn.

(Huyệt văn xương ứng với năm sinh của mỗi người khác nhau sẽ khác nhau. Vzone sẽ xin giới thiệu với bạn đọc về huyệt Văn Xương trong một bài viết khác).



4 - Quả cầu Phong thuỷ - Giúp trí tuệ minh mẫn, cải thiện trì trệ
...

Quả cầu ngọc thường được bày trên bàn làm việc hoặc tủ, kệ - nơi âm khí vượng.


Quả cầu thủy tinh là biểu tượng của trí tuệ và sự may mắn. Người ta cho rằng, quả cầu giúp tăng trí thông minh, công danh và tài lộc, đỗ đạt khoa bảng, cải thiện sự trì trệ và bế tắc trong công việc.

Trong vận 8, cát khí của sao Bát Bạch Thổ tinh phát ra mạnh nhất chi phối toàn bộ Tinh Bàn. Quả cầu thuỷ tinh mang cát khí của Thổ. Vì thế quả cầu thuỷ tinh là vật khí có năng lượng vô cùng mạnh mẽ cho những ai theo đuổi việc học hành cũng như thúc đẩy bạn quan tâm, chú ý hơn đến việc học hành.

Mặt khác, người ta còn quan niệm quả cầu mang nguyên khí của trái đất, tức Thổ. Chất làm quả cầu - pha lê - cũng là nguyên khí của Thổ đem lại Dương khí. Trong Phong Thuỷ thì đây là pháp khí rất quan trọng để bổ sung Dương khí. Dùng nơi âm khí quá vượng, tối tăm, thiếu ánh sáng để chống Âm khí gây hoạ như bệnh tật, tán tài, thị phi, tiểu nhân…

Bạn nên bày Quả cầu trên bàn học, bàn làm việc hoặc tủ sách, giá sách. Hoặc nơi các cát tinh Thiên Y, Diên Niên, nơi Âm khí vượng. Tránh bày trong bếp, nhà vệ sinh, nơi Tuyệt Mệnh, Ngũ Quỷ chiếm đóng.

Cầu thuỷ tinh mang lại sự thông tuệ, uyên bác, sáng suốt, chôi chảy và mở mang mối quan hệ, giao tiếp cho bạn. Tất cả các doanh nghiệp thành đạt, những người giàu có, học vấn cao, luật sư, chính trị gia, đều đặt cầu thuỷ tinh trên bàn làm việc.
Cầu thuỷ tinh cũng đem lại sự tôn trọng, tự tin, may mắn đến cho bạn. Đặc biệt với các nhà doanh nghiệp, cầu thuỷ tinh đảm bảo công việc kinh doanh trôi chảy, phát đạt, đó cũng là lý do tại sao rất nhiều logo của các công ty làm ăn phát đạt có hình quả cầu.


Bí ẩn các vật phẩm phong thủy (2)


Ngoài Tỳ Hưu và Thiềm Thừ - hai linh vật phong thủy đứng đầu về khả năng chiêu tài khí, tạo may mắn về tài lộc trong kinh doanh, thì bên cạnh đó vẫn còn những vật phẩm phong thủy khác được cho là rất linh thiêng trong việc nâng cao vận khí về tài lộc như sau.



5. Cá chép - Vì sao Cá Phong Thủy lại là Cá Chép?
...

Cá Chép rất linh nghiệm khi cầu học hành thi cử đỗ đạt.


Truyền thuyết kể rằng: "Vào một năm nọ, nạn hạn hán hoành hành vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hoà cho cả nhân gian. Ngọc Hoàng thượng đế liền tổ chức một cuộc “Thi Rồng” nhằm tuyển chọn các con vật đủ khả năng, phẩm chất làm Rồng cứu nhân độ thế. Khi chiếu Trời ban xuống, vua Thuỷ Tề loan báo cho tất cả các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi. Cuộc thi có ba kì. Mỗi kì vượt qua một đợt sóng. Con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt được cả ba đợt thì mới được hóa Rồng.

Trong một tháng trời, đại diện của bao nhiêu loài thuỷ tộc đến thi đều bị loại cả vì không con nào vượt được cả ba đợt sóng. Sau có cá Rô nhảy qua được một đợt nhưng cũng bị rơi ngay. Rồi đến Tôm nhảy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi, đã gần hoá Rồng, nhưng đến lượt thứ ba vì sức đã đuối nên bị ngã xuống, khiến lưng còng lại đến tận ngày nay.

...

Cá chép kết hợp với quả cầu pha lê - hai vật phong thủyrất linh cho đường học vấn.


Theo học thuyết Phong Thủy, sự kích hoạt cho dòng "Thủy" tại căn nhà nơi ta sinh sống là một trong những điều tối quan trọng. Trong khi đó, Cá Chép được cho là linh vật số 1 trong việc kích thích “nguồn Thủy” tại nơi nó trấn giữ.

Vì thế mà người đời cho rằng Cá Chép đem đến vận may, hoá giải sát khí, bệnh tật và tai hoạ. Cá Chép nếu để trong nhà sẽ mang lại sự may mắn, thịnh vượng, còn để ở bàn làm việc sẽ mang lại thành công sự nghiệp, thăng quan tiến chức.

Theo học thuyết Phong Thủy, sự kích hoạt cho dòng "Thủy" tại căn nhà nơi ta sinh sống là một trong những điều tối quan trọng. Trong khi đó, Cá Chép được cho là linh vật số 1 trong việc kích thích “nguồn Thủy” tại nơi nó trấn giữ.

Vì thế mà người đời cho rằng Cá Chép đem đến vận may, hoá giải sát khí, bệnh tật và tai hoạ. Cá Chép nếu để trong nhà sẽ mang lại sự may mắn, thịnh vượng, còn để ở bàn làm việc sẽ mang lại thành công sự nghiệp, thăng quan tiến chức.


6. Ngựa - Biểu tượng cho kinh doanh phát đạt
...

Tượng Ngựa phi nước đại bằng đá quý.


Ngựa là con vật rất trung thành, không những thế ngựa còn là hình ảnh của sự kiên nhẫn, bền bỉ, may mắn và thuận lợi. Người xưa cũng thường dùng ngựa để chúc tụng nhau trong hành sự hay làm ăn, ví dụ như: “Mã đáo thành công”.

Một trong những biểu tượng Ngựa Phong Thủy thường thấy là hình ảnh Ngựa phi nước đại (hay “Lộc Mã”). Biểu tượng này tượng trưng cho sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến trong tiền tài. Ngựa phi nước đại còn hàm ý về sự đi xa, nên rất thích hợp cho những người hay đi công tác lâu ngày hoặc bôn ba đây đó. Đây là một vật khí không thể thiếu cho những doanh nhân thường xuyên đi xa. Trong trường hợp này, nên đặt ngựa ở hướng Tây, Tây Bắc hoặc Đông Bắc để tăng cường cát khí cho các sao tốt ở các hướng này.

...
Treo tranh Bát Mã trong nhà, tài lộc vào nhà dồi dào như nước.


Ngoài ra, chúng ta cũng thường nhìn thấy biểu tượng Ngựa kéo của cải. Với biểu tượng này, Ngựa sẽ đem của cải về nhà, tiền của vào như nước. Vì vậy, nên đặt Ngựa kéo của cải ở phòng khách, bàn làm việc và chú ý quay đầu ngựa vào phía trong nhà.

Nhiều người cũng quan niệm bày Ngựa Phong Thủy trên bàn làm việc, bàn học hoặc tại vị trí của huyệt tài vị trong nhà, hướng đầu ngựa ra cửa chính hoặc cửa sổ sẽ đem lại Đại Cát.

...

Tượng Tam Mã bằng gỗ quý rất có lợi cho việc hỗ trợ vận khí văn phòng làm việc.


Đối với những ai thích dùng Ngựa Phong Thủy, xin được mách một vài điểm lưu ý như sau:

* Người tuổi Tý tránh dùng biểu tượng hay tranh ảnh ngựa.

* Không được đặt ngựa trong bếp, trong nhà tắm.

* Nếu đặt nhiều con ngựa, thì Tam mã - 3 con, sẽcó tác dụng phát huy Thổ khí trong “Vận Tám” nên còn có tác dụng bổ trợ phong thủy cho văn phòng. Lục mã - 6 con, thì rất tốt cho việc sinh tài lộc. Bát mã - 8 con phi nước đại tượng trưng cho sao Bát Bạch rất vượng khí, nên sẽ đem lại nguồn tài lộc dồi dào, vô tận cho gia chủ.

* Ngựa không được dùng trong việc hóa giải sát khí.

* Dùng Ngựa Phong Thủy khi bạn đang cầu mong tài lộc, phát đạt trong kinh doanh, tăng tiến về tiền tài, và các dự án được hoàn thành sớm trước dự kiến.


7. Thuyền buồm - Công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió

...

Thuyền buồm là biểu tượng thành công trong kinh doanh.


Theo phong thủy, thuyền buồm được xem là biểu tượng của thành công trong kinh doanh. Bởi vì nó tượng trưng cho Gió (một trong hai yếu tố quan trọng nhất của Phong Thủy – gió, nước), mang lại nhiều cuộc giao dịch kinh doanh tốt đẹp và thu được nhiều lợi nhuận. Sau biểu tượng rồng, hình ảnh thuyền buồm là biểu tượng được giới doanh nhân Trung Quốc ưa chuộng nhất.

Để kích hoạt vận may trong kinh doanh, bạn hãy đặt một chiếc thuyền buồm trên bàn làm việc hay gần cửa ra vào sao cho chiếc thuyền di chuyển theo hướng đi vào bên trong văn phòng, công ty.

Không nên để thuyền buồm hướng ra ngoài cửa, vì như thế nó lại mang ý nghĩa là thuyền buồm mang tiền bạc ra khỏi nhà.

Trong phong thủy, thuyền buồm lộng gió chở đầy vàng đến cho bạn được xem là thuận lợi nhất. Do đó, bạn có thể mua thuyền buồm rồi chất đầy trong lòng thuyền những nén vàng và tiền xu cổ Trung Quốc, sau đó đặt vào những vị trí như đã nêu trên.


8. Voi - Linh vật hút tài lộc số một
...

Tượng voi thường được gặp ở các đền, chùa...


Voi là con vật hay giúp đỡ con người. Ngay cả trong Phật giới cũng có thờ Thần Đầu Voi. Truyền thuyết cho rằng voi được sinh ra từ các mảnh vụng tan ra của sao Dao Quang. Vì thế, voi được coi là loài vật vô cùng linh thiêng. Mặt khác, voi là loài vật to lớn mạnh mẽ, nên bày voi trong nhà, thì vận nhà được bình ổn, người trong nhà làm ăn thuận lợi.

...

Vì Voi trong Phong Thủy là loài vật trấn thạch rất linh thiêng.


Với Voi đồng hoặc đá thì tác dụng chính của nó là Hút Tài Lộc, nhất là nhà mà mở cửa, cửa sổ nhìn thấy ao, hồ, sông, biển thì càng có hiệu quả cao.

Với Voi bằng gồm sứ, thường được dùng để hóa giải các cấu trúc nặng nề như dầm nhà , xà nhà đè xuống.

Thủy là biểu tượng của tiền của, nếu đặt một con voi đồng hoặc đá cỡ vừa trong nhà với dụng ý “hút Thủy” thì đại tài, tiểu tài sẽ đến, trong nhà luôn có điềm lành. Còn nếu đặt ở nơi có tài vị thịnh, thì cả nhà được lộc cát lâu bền.


Bí ẩn các vật phẩm phong thủy (3)


Tiền xu cổ luôn là một pháp khí sử dụng rất nhiều trong Phong Thủy. Tiền, ngoài ý nghĩa về sự thịnh vượng và tài lộc, còn mang ý nghĩa tốt lành, hoá giải những tai hoạ và các sát tinh chiếu đến trong bài trí Phong Thuỷ.

...

Vì thế phép trấn yểm không thể thiếu tiền xu Phong Thủy.


Người xưa cho rằng tiền xu dùng trong yểm Phong Thuỷ nếu là tiền cổ thì tốt nhất, vì tiền cổ được chế tạo đã nhiều năm nên hấp thu được “thiên khí”. Đồng thời do phần lớn các đồng tiền cổ được chôn vùi dưới đất nên đã hấp thu được “địa khí”. Ngoài ra, nó đã được qua tay nhiều người sử dụng nên đã hấp thu được “nhân khí” rất nhiều. Ba khí Thiên Địa Nhân đều có đủ, nên các đồng tiền cổ có thể tăng việc hoá sát rất mạnh.


Mai Hoa kim tiền
...




Ý nghĩa:

Tiền mai hoa thường treo thành đôi, 2 bông 10 cánh, tượng trưng cho thập toàn (sự hoàn hảo). Vật khí này được dùng để trấn yểm hung khí, đem lại sự thịnh vượng về tài lộc, kinh doanh. Ngoài ra, nó còn có công dụng rất phổ biến là giải trừ tiểu nhân, tránh thị phi.

Cách bài trí:

* Đặt ở chỗ tựa sau lưng của ghế ngồi, phòng tiểu nhân
* Đặt trong ngăn kéo bàn làm việc có giấy tờ quan trọng.



Tam xu tiền cổ
...



Ý nghĩa:

Số 3 tượng trưng cho Thiên - Địa - Nhân, là biểu tượng cho sự thịnh vượng cát lành.

Cách bài trí:

Để thu hút sự thành công của các dự án trong kinh doanh bạn hảy cung cấp năng lượng tốt cho các hồ sơ có liên quan bằng cách buộc 3 đồng tiền xu cổ với dây màu đỏ rồi dán vào bìa hồ sơ (bằng băng dính trong), hướng mặt dương (có chữ) lên trên. Điều này có thể sẽ tạo ra năng lượng thịnh vượng và mang lại sự thành công trong công việc của bạn.


Lục đế tiền cổ




Ý nghĩa:

Lục đế tiền là sáu đồng tiền cổ của 6 vị Hoàng đế cường thịnh nhất triều đại nhà Thanh đó là: Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, CÀn Long, Gia Khánh và Đạo Quang. Theo Phong thuỷ thì các đồng tiền của các thời đại cường thịnh thì khí trường của nó rất mạnh, vì thế nó sẽ tăng cường tài vận rất tốt.

Cách bài trí:

Xâu thành chùm với dây màu đỏ và treo ở các phương vị tài lộc.


Bát xu tiền cổ
...




Ý nghĩa:

Trong Phong Thuỷ thì đồng xu in hình Bát Quái là biểu tượng của sự giàu có, phát về tài lộc nhất là khi được kết bằng chỉ lụa đỏ. Đồng xu thường dùng là đồng tiền thời vua Càn Long có hai mặt Âm Dương thể hiện nguyên lý Âm Dương hài hoà. Tiền hình tròn tượng trưng cho Thiên, ở giữa có lỗ vuông tượng trưng cho Địa. Trên đồng tiền có in hình Bát Quái thể hiện Đạo lý Thiên - Địa - Nhân tương hợp tất tạo phúc và hưởng phú quý.

Cách bài trí:

Treo ở cửa nhà, cửa phòng, trong phòng khách, phòng ngủ hoặc trên xe ô tô.


Bí ẩn các vật phẩm phong thủy (4)


2 loại linh vật trong phong thủy tượng trưng cho tuổi thọ và sự trường tồn: Ve Sầu và Rùa.


Đối với người Trung Quốc, ve sầu và rùa là hai biểu tượng mạnh mẽ nhất cho sự trường tồn. Với người còn sống, hai con vật này mang đến cho họ một cuộc sống tốt đẹp. Con rùa không đơn thuần là biểu tượng của tuổi thọ, mà còn là biểu tượng của sự bảo vệ, che chở. Còn ve sầu cũng được coi như một lá bùa hộ mệnh, chống lại kẻ thù.


Ve sầu - Biểu tượng của sự bất tử và lá bùa chống lại những âm mưu
...
Ve sầu tượng trưng cho sự trẻ mãi không già,
rất phù hợp khi biếu sếp nữ


Thời xa xưa, những gia đình giàu có thường táng theo người chết một viên ngọc bích chạm khắc hình con ve sầu, đặt trên nắp áo quan, mong cho người đã khuất có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới khác.

Đối với người đang sống, ve sầu được xem là một biểu tượng của cuộc sống lâu dài, hạnh phúc và tuổi trẻ bất diệt.
Căn nguyên của biểu tượng này được bắt nguồn từ truyền thuyết xưa kia. Tương truyền: Có một nữ hoàng làm rất nhiều việc tốt cho dân, khi qua đời đã đầu thai thành con ve sầu. Khi đã trở thành ve sầu, bà không bao giờ già vì luôn lột xác sau mỗi mùa hè. Vì thế, loài ve sầu đã trở thành một biểu tượng cho sự trẻ trung của con người.

...
Ngọc Ve Sầu và Tỳ Hưu đều rất được ưa chuộng


Bên cạnh ý nghĩa đó, loài ve sầu còn được coi như một một lá bùa hộ mệnh. Khi đeo trên mình một vật có dáng ve sầu, bạn sẽ được bảo vệ khỏi những nguy hiểm, tiểu nhân và kẻ thù.

Một miếng ngọc bích hình con ve sầu có tác dụng bảo vệ tốt. Những nhân viên trong công ty muốn tìm kiếm sự bảo vệ trước một đồng nghiệp không đáng tin cậy hay người quản lý có mưu đồ xấu có thể tìm một miếng ngọc bích hình con ve sầu như mặt dây chuyền để đeo.


Rùa - Biểu tượng muôn đời của sự trường thọ


Rùa được các nhà khoa học chứng minh là một trong số những loài vật có tuổi thọ thuộc hàng cao nhất. Trong văn hóa Việt Nam, rùa là một linh vật được tôn trọng từ ngàn xưa. Còn riêng trong Phong Thủy, rùa là linh vật mang nhiều ý nghĩa nhất.

Nó là tạo vật duy nhất trong tứ linh thật sự tồn tại và có thể dễ dàng tìm thấy. Vì vậy, rùa không đơn thuần là biểu tượng của tuổi thọ, mà còn của sự bảo vệ, che chở, hỗ trợ, sự sang trọng và triển vọng.
...

Rùa đầu rồng (long quy) - Biểu tượng của vận may và trường thọ


Trong Phong Thủy, con rùa giống như những ngọn đồi phương Bắc vững chãi, đảm bảo cho gia đình có sự liên kết chặt chẽ, lâu bền. Con rùa còn được cho là người vận chuyển ma trận huyền ảo của chín con số cơ bản mang trên lưng và gây sự chú ý cho Phục Hy - vị hoàng đế đầu tiên trong truyền thuyết của Trung Hoa, người được cho là tác giả của Kinh Dịch, cuốn sách là cơ sở của tất cả lý thuyết trong Phong Thủy.

Con rùa giấu trong cơ thể và trong những hoa văn trên mai nó tất cả bí mật của trời và đất. Tục truyền rằng khi Ban Cố tạo ra thế giới, ông đã dùng những chú rùa như những chiếc cột chống để giữ vạn vật. Phần gù ở lưng con rùa được coi là trời và phần bụng của chúng là đất, khiến nó trở nên bền vững với thời gian.

Nếu nhìn kỹ con rùa, bạn sẽ nhận thấy nó có đầu và cổ rất dài. Các Phong Thủy gia thường hay trưng trong nhà con rùa đầu rồng để có thật nhiều vận may. Hình tượng con rùa đầu rồng này thường được cho ngồi trên rất nhiều đồng xu và những thỏi vàng, miệng có ngậm một đồng xu. Tạo vật này vừa mang hiện thân cho sự can đảm của loài rồng và sự bảo vệ chắc chắn của loài rùa. Các doanh nhân trưng hình ảnh này phía sau chỗ làm việc thì sẽ can đảm hơn trong việc ra quyết định đồng thời trách được những rủi ro trong kinh doanh.

Nên nuôi rùa ở hướng Bắc ngôi nhà vì chúng sẽ đem tới cho gia đình nhiều cát khí hơn.


Back to top
 

...
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #123 - 11. Jul 2010 , 08:29
 
Một câu chuyện đáng để đọc, không sợ phí thì giờ!

Đường Ra Khỏi Basra


Tác Giả Nguyễn Thị Thảo An 

Kính tặng Sgt. Nguyễn Khắc Bình & gia đình


Khi tôi đặt bàn chân đầu tiên chạm xuống đất Mỹ, tôi đã để ý rất kỹ, cái cảm giác đầu tiên bao giờ cũng vậy, nó gây một ấn tượng sâu sắc lâu dài trong ký ức. Vậy mà trong giây phút đó tôi chỉ ngẩn ngơ một chút, một chút thôi rồi bị đẩy theo dòng người… Cái cảm giác bàng hoàng, sâu sắc nhất phải kể là lúc máy bay cất cánh rời Việt Nam. Khi chiếc máy bay United Airline nhấc mình rời phi đạo, tôi ý thức được mình không còn đặt chân trên mảnh đất quê hương nữa. Tôi lơ lửng, bay cao và bay cao mãi. Đột nhiên tôi có cảm giác xác thân không còn tồn tại, tôi giống như một thứ linh hồn đang lơ lửng rời bỏ trần gian.

Mẹ tôi nói, đặt chân lên đất Mỹ tức là đặt chân lên tới thiên đàng. Cha nói, hãy bám trụ, đừng trở về cái địa ngục này. Tôi hiểu, cha mẹ đang cắt ruột đấy, và tôi cũng đang quặn lòng phải rời bỏ gia đình để đi du học.
“Phải bám trụ.” Ba cái chữ này ám ảnh và mọc rễ trong tâm trí tôi. Nhưng mà làm thế nào để bám trụ? Để được ở lại nước Mỹ, vào quốc tịch, và sau này kéo hết gia đình sang, đó là mục tiêu tối thượng, và cũng là niềm mơ ước của cả gia đình, điều đó thật không dễ. Con đường tắt là kết hôn với người có quốc tịch. Ở ký túc xá, trong lớp, đi shopping, đi làm thêm, hay bất cứ lảo rảo nơi đâu tôi cũng dán mắt vào những đứa con gái. Tôi đoán và xác định mục tiêu, con nhỏ này còn Việt Nam quá, chắc chỉ có thẻ xanh, con nhỏ kia có vẻ Mỹ hóa chắc chắn là có quốc tịch rồi hay nó đẻ ở đây. Tôi bất kể tuổi tác, nhan sắc, trong đầu vẽ ra một cuộc tình chớp nhoáng, mà cái nào cũng kết thúc bằng một buổi lễ tuyên thệ tại sở Di Trú. Nhưng mà thực tế, chưa có lần nào tôi mở miệng làm quen, tôi vẫn đứng đó với một tâm trạng xuôi xị, hèn hèn. Tệ hơn nữa, trước mặt họ, tôi có cảm giác mình là người làm bằng thủy tinh trong suốt, họ nhìn thấy tâm địa bất chánh, những ý đồ đen tối rõ mồn một như một vết mực đen vấy bẩn khắp người. Những thằng du học sinh khác bảo, hãy coi chừng, léng phéng với họ có ngày ăn dao, ăn đạn đấy. Chúng nó bày, muốn ở lại, chỉ có nước kết hôn giả. Kết hôn giả ngốn rất nhiều tiền. Cha mẹ tôi đã phải cầm cố nhà cửa, tài sản duy nhất để lo chuyện du học rồi, đánh chết tôi cũng không dám nghĩ tới tạo một gánh nặng nữa cho gia đình. Một thằng bạn khác bảo, đăng lính đi, phục vụ trong quân ngũ một thời gian vừa được quy chế vào quốc tịch, vừa được học bổng học đại học, nhất cử lưỡng tiện. Chiến tranh Iraq mới bắt đầu, nhu cầu cần lính đang cao. Và tôi, quyết định ngay, mở một con đường máu, vào quân đội để thoát hiểm.

Quyết định vào lính làm mọi người kinh ngạc. Bạn tôi nói, “Đi lính bây giờ là nhảy vô địa ngục.” Tôi cười cười, vò vò cái đầu gần như trọc lóc. Không, tôi chỉ muốn làm một cú “vượt vũ môn” thôi. Tương truyền ngày xưa có một loài cá chép, cứ ba năm thì được vượt vũ môn để hóa thành rồng. Từ dân Việt để trở thành công dân Mỹ cũng giống như đi đầu thai kiếp khác, tôi cần phải “vượt vũ môn” như một con cá chép thật.
Tôi không kể cho ai nghe về thời huấn nhục ở quân trường. Làm thế nào để từ một người dân trở thành một người lính? Nó đã tóm gọn trong hai chữ huấn nhục. Người ta huấn luyện người lính đứng vững trong mọi tình thế, kể cả khi địch bắt, bị tra khảo và chịu nhục hình.

Tôi gửi cho gia đình một tấm hình lễ mãn khóa. Tôi trong bộ quân phục bộ binh, vác súng, qua nhiều tư thế. Mẹ tôi khóc. Mẹ đã vất vả nuôi ba tôi trong tù nhiều năm. Còn cha, tuy là lính trơn nhưng lúc xe tăng T.54 tiến vào Dinh Độc Lập, cha cùng đồng đội còn đang lập chốt làm tuyến phòng thủ ở phía Tây Sài Gòn. Cha bị bắt ngay mặt trận vào giờ thứ 25 nên tù lâu là chuyện thường. Trong thư cha viết, “Cha tôn trọng quyết định của con. Phải nhớ rằng, một ngày làm lính, cả đời là lính. Người lính không sử dụng quân đội như một phương tiện… Khi con có mục tiêu thì phải chiếm cho bằng được.” Kể từ đó, cha không viết về những chuyện đã rồi, thư cha toàn là những trang liệt kê về những ưu điểm của đủ thứ vũ khí các loại, và cách đối phó những tình thế nguy hiểm. Không nói ra, nhưng tôi hiểu cha muốn truyền hết nội lực, tâm huyết cho tôi, không giữ lại một chút gì.Tôi nghĩ, những vũ khí xưa ở chiến trường Việt Nam hiện nằm trong viện bảo tàng. Chiến trường Iraq ở sa mạc, trong lòng núi, ngoài thành phố, chợ búa, và bên vệ đường. Nguy hiểm nhất là những “road bomb”. Nó chỉ là những chất nổ tự tạo, rất đơn sơ, nằm lẫn trong gạch đá, rác rến phế thải ở ven đường. Ở một nơi mà kẻ thù không những chỉ là con người, mà còn là gạch đá, rác rến, cỏ cây thì đó là nơi tối nguy hiểm. Nhưng tôi không nói với cha điều này.

Ra trường một năm đơn vị tôi mới tới phiên qua Iraq. Trước đó, chúng tôi đã được thao tập nhuần nhuyễn về chiến trường mới, thực tập trên các địa hình sa mạc Black Rock (Nevada), leo lên những mỏm núi chót vót ở những vùng thạch sơn kỳ vĩ của Arizona. Mùa Đông chúng tôi len lỏi hành quân trên những rặng núi trắng xóa trên Canada. Hè, chúng tôi xuống Texas, lang thang lạc lối trên sa mạc miền viễn tây, chịu đựng cái nóng và khát cả tuần để tự mưu sinh thoát hiểm. Bộ chỉ huy đơn vị nói, phải biết sinh tồn trong “tủ lạnh” và trên “lò nướng” để khi qua Iraq làm tụi Al- Qaeda “lé” mắt.

Chiến tranh Iraq bắt đầu vào ngày 20 tháng 3 năm 2003 và ngày 1 tháng 5 khi viếng thăm chiến hạm USS-Abraham Lincoln ông Bush tuyên bố chiến tranh chấm dứt. Chính quyền độc tài bị lật đổ, chuẩn bị cho một nền dân chủ đang được tiến hành, mọi đảng phái đều được tham chính thông qua bầu cử. Ngày 13 tháng 12 cùng năm đó, Saddam Hussein bị bắt, hy vọng phục quốc tiêu tan.

Nhưng mà ở Iraq súng vẫn nổ khắp nơi. Từ thành phố đến thôn quê, rừng núi, sa mạc, nhà thờ, trường học, chợ búa, đâu đâu cũng có những ổ kháng cự. Nhỏ thì dăm ba người, lớn lên đến vài trăm. Thoạt trông họ là thường dân, cầm súng lên họ là giặc. Không phải dân Iraq chỉ chống Mỹ, mà xem ra họ chống nhau còn tàn tệ hơn. Quân kháng chiến có thể xả súng bắn vào chợ búa, nhà thờ, trường học, thậm chí đám cưới hay tang lễ.

Khi tôi đặt chân đến Mosul, pháo đài kiên cố nhất của đảng Baath do giáo phái Sunni phe Saddam thì giao tranh vẫn còn ác liệt.

“Sức mấy mới hết chiến tranh.” Thằng Michael Tea, tiểu đội trưởng mới của tôi nói. “Mỹ có rút hết quân thì chiến tranh vẫn còn.”

“Tại sao còn?” Tôi ngạc nhiên.

“Mày tưởng tụi Iraq chỉ có chống Mỹ hả? Tụi nó chống nhau còn dữ hơn chống Mỹ.” Thấy mắt tôi vẫn tròn xoe, nó nói. “Cùng là dân Iraq, gốc Ả Rập, cùng Hồi giáo, nhưng phe Sunni chống phe Shi’a, hai phe này lại cùng chống người Kurd ở miền Bắc, người Kurd lại chống chánh quyền Iraq bất kể phe nào cầm quyền, người Turkman cũng chống chánh quyền Iraq, chống Sunni, chống phe Shi’a, chống người Kurd, người Assyrian Christian chống hết tất cả các phe khác họ.”

“Trời ơi, nhức đầu quá.”

“Tao điên mất.” Mấy thằng trong đơn vị tôi ôm đầu la.

Tôi bình tĩnh hỏi, “Trong các nhóm, nhóm nào đông nhất?”

“Giáo phái Shi’a đông nhất, chiếm gần 60% dân số. Phái Sunni 20% đứng nhì. Thứ ba là người Kurd miền Bắc cũng khoảng 20%. Mấy nhóm còn lại chừng 3%.”

“Dễ ợt. Chỉ cần ổn định các phe phái lớn trước thì các phe nhỏ phải chịu phép thôi. Iraq sẽ thái bình”
Michael Tea cười lớn, “Chuyện đó con nít cũng biết. Nhưng mà làm sao để họ ngồi lại với nhau họa chăng chỉ có Trời mới biết.”

“Nhưng tại sao họ chống nhau?” Thằng Ted hỏi.

“Nguyên nhân bắt nguồn từ Giáo chủ Muhammad. Sinh năm 571, nhưng mãi đến năm 610, bốn mươi mốt tuổi, ngài mới bắt đầu rao giảng kinh Qur’an và thành lập Hồi giáo. Đến năm 632, ngài bị bệnh và nghĩ tới việc truyền ngôi. Bấy giờ, trong hàng tín đồ bắt đầu chia ra hai phe. Một phe theo kiểu cha truyền con nối, Giáo chủ không có con trai nên ủng hộ người con rể tên Ali Abu Talid nối ngôi. Nhưng phe khác cho rằng, Giáo chủ là người thừa sai của Chúa, vậy người đại đệ tử Abu Bakr mới đủ đạo hạnh tiếp tục ngôi vị đó. Cuộc tranh chấp dẫn tới việc Giáo chủ phải ra phán quyết cuối, nhưng cả hai phe đều không chờ được nên xảy ra bạo loạn và khi ấy đã có kẻ ra tay giết Giáo chủ. Từ đó đến nay không thấy ai thắc mắc, điều tra hung thủ đã sát hại Giáo chủ. Người ta bận lo tới việc tranh ngôi. Cho tới bây giờ kể như bất phân thắng bại.”

“Hơn cả ngàn năm trôi qua, Ali và Abu cũng không còn, ai lãnh đạo thì cũng đọc kinh Qur’an thôi, có chi mà tranh chấp.” Tôi nói.

“Đạo Hồi có một tỷ ba dân số khắp thế giới, giáo quy gắt gao, người lãnh đạo quyền hạn hơn Tổng Thống, vua chúa một nước. Chính Ali và Abu chắc cũng không ngờ, nếu biết trước họ đã tận diệt nhau chứ không chịu chia thành hai phe, di họa tới bây giờ.” Michael Tea nói, “Mày không tranh chấp, dễ thua thiệt lắm.”

Tôi vào quân đội, rồi được nhập tịch, tương lai đem cả gia đình sang, nghĩ tới cảnh đoàn tụ, tôi “lời” quá cỡ, thua thiệt chỗ nào. Tôi tiếp tục thắc mắc.

“Vậy giáo phái Sunni của Saddam thuộc dòng nào?”

“Họ là truyền nhân của đại đệ tử Abu Bakr, là thiểu số. Còn phái Ali con rể Muhammad là phái Shi’a thân Iran chiếm đa số.”

“Trời đất!” Tôi kêu lên, “Làm thế nào mà Saddam lấy thiểu số thắng đa số ?”

“Lấy bàn tay sắt.” Michael Tea trả lời tỉnh bơ. “Chính nghĩa, công lý hay gì gì nữa cũng bị đè bẹp thôi. Trong 25 năm, Saddam xử tử cả trăm ngàn người.”

“Ối trời ơi.” Cả tiểu đội kêu lên, thật kinh khủng.

Đêm đó, tôi trằn trọc nghĩ về Saddam. Iraq là một vùng đất cổ, có hai con sông Euphrates và Tigris vắt qua. Nơi đây được mệnh danh là cái nôi của nhân loại, bởi người ta tìm thấy dấu vết con người xưa nhất trái đất ở đây. Vì sống giữa vùng đất được bồi đắp phù sa của hai con sông nên người ta gọi nền văn minh này là nền văn minh Lưỡng Hà. Thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt được dùng làm vũ khí. Các công trình nghệ thuật kiến trúc như thành Babylon, vườn treo sau này trở thành kỳ quan thế giới cũng phát xuất từ đây. Văn hóa phát triển rực rỡ như thế nhưng dân cổ đại Iraq yếu xìu, đánh giặc dở không thể tả. Liên tiếp trải mấy ngàn năm Iraq luôn bị các chủng tộc khác xâm chiếm và cai trị. Iraq chưa bao giờ giành được độc lập, tự vẽ biên giới cho mình. Sau thế chiến thứ nhất, đế chế Ottoman thống trị Trung Đông bị Anh, Pháp, Mỹ đánh bại. Chính người Anh đã vẽ lại bản đồ cho Iraq. Nhưng Saddam và đảng Baath mới giành độc lập cho Iraq từ Anh. Như vậy kể ra Saddam là một anh hùng, chưa chắc là tội nhân. Nghĩ tới đó, không chịu nổi, tôi hỏi Michael. Nó bật cười lớn.

“Ya, ya. Saddam là anh hùng, nhưng là anh hùng của 20% dân số thôi.” Nó nạt tôi, “Ngủ đi. Sống ở đây, khóa miệng lại. Tuyên bố bậy bạ, sáng mai 60% dân số còn lại sẽ giết mày đó.”

Nhưng mà tôi vẫn không tài nào ngủ được. Nếu Saddam là người Shi’a có thể tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không độc tài, tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không xâm chiếm Kuwait, không mơ làm Thành Cát Tư Hãn thống nhất Ả Rập, tình thế sẽ khác. Và nếu tôi không mất ngủ, tình thế cũng sẽ khác.

Mới mờ sáng, đơn vị tôi nhận lệnh tới Haji Ibrahim. Đây là vùng núi cao nhất Iraq, trên 11 ngàn feet, nằm sát biên giới Iran. Bộ chỉ huy đơn vị nói, những tổ chức người Sunni đang rút về đây, họ sẽ truy quét người Kurd ra khỏi vùng núi để chiếm lấy địa bàn. Nếu để họ chiếm được khu vực này sau rất khó kiểm soát. Đây cũng có thể là con đường vận chuyển vũ khí lậu từ Iran chuyển cho khủng bố. Nhiệm vụ chúng tôi là bảo vệ người Kurd, chận đứng con đường tiếp tế vũ khí từ Iran.

Mặt trời chưa lên, ba phi đội UH-60 Black Hawk bay hàng một luân phiên thả chúng tôi xuống chân núi. Chân vừa chạm đất, chúng tôi vừa lăn vừa chạy. Phải biết biến mình thành một mục tiêu luôn luôn di động. Có thể những tay bắn tỉa của địch đang phục kích đâu đây. Cuộc hành quân bắt đầu từ giữa hai khe núi thấp nhất và tỏa ra những vùng phụ cận. Núi Iraq rừng lơ thơ, cỏ không cao quá gối, nhiều nơi chỉ có toàn đá trọc. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh, tất cả tản ra, kiểm soát những hang động trước khi tiến lên núi, chú ý hầm hố và những bãi mìn.

Tiểu đội dàn ngang, ghìm súng chầm chậm tiến lên. Kiểu đội hình này, cha tôi viết, là thế tiến nguy hiểm, vì địch nấp ở đâu đó quạt một tràng là tiểu đội tiêu. Tôi đâm sợ, thằng Michael Tea không có kinh nghiệm, đáng lẽ nên dàn hàng một tiến lên mới đúng. Tôi kêu Michael trong earphone. Nó la, “Nhìn vô ống nhắm, quan sát những điểm đen kìa.” Những điểm đen thường là những cửa hang, lấp bằng vải bạt hay ván tạp. Tôi rùn mình xuống, lò dò tiến. Mắt dán vào ống nhắm và điều chỉnh. Cái ống nhắm này tôi nài nỉ mãi mới được loại 50MM có thể phóng mục tiêu lớn ra từ 3 đến 9 lần, rất rõ. Tôi gắn ống nhắm trên khẩu M4A4 có 2 cò, vì bên dưới còn thêm bộ phận phóng lựu M203, sức công phá mạnh và xa hơn M.79 ở chiến trường Việt Nam. Tiểu đoàn trưởng nói, hành quân 2 ngày, quân trang gọn, nhẹ để dễ leo núi, không quân yểm trợ nếu có tình thế bất ngờ. Nhưng cha tôi viết, nếu đụng trận diễn tiến không lường được, cuộc hành quân có thể kéo dài. Vì vậy, hành trang của tôi nặng trĩu như một cuộc chuyển quân xa hay sắp đụng một trận lớn. Ngoài ra, cái áo khoác tactical vest nhiều túi của tôi nhét đủ thứ, 4 băng đạn dự trữ 1,800 viên, 10 quả M203, dao găm Ka-Bar bén ngót, kính hồng ngoại tuyến ban đêm, một canteen nước, hai phần MRE thức ăn liền, mặt nạ chống hơi gas vì người Kurd đã từng bị Saddam tấn công bằng hơi độc Sarin chết hàng loạt.

Lúc ngồi trên trực thăng, thấy tôi vũ trang đến tận răng, cả đội nhìn tôi như quái vật.

“Ê, mày định một mình tiêu diệt hết một tiểu đoàn hả?” Thằng Ted xỏ ngón tay tìm coi có cái túi nào còn trống trên cái áo vest phồng cứng của tôi.

“Oh! My heroes” Thằng Robert láu lỉnh, giả vờ chắp tay ngưỡng mộ. “Có mày, chắc tụi tao ở không quá.”

Tôi nổi sùng, hất tay tụi nó, nạt. “Kệ tao.” Nhưng mà nhìn lại, tôi thấy mình giống như “Cái Bang Tám Túi” thật. Đem nhiều thứ quá cũng không giống ai. Lần sau tôi sẽ rút kinh nghiệm.

Có một bàn to lớn mò mẫm bóp cái ba-lô sau lưng tôi.
“Trời ơi, nó đem theo mền nữa đây này.” Thằng Ed cười hô hố, “Mày tính định cư trên núi luôn à?”

“Câm miệng.” Tôi quát lên một tiếng, bực tức, thằng này lớ quớ khi xuống đất tôi sẽ đá cho nó một cái để đời.

Nhưng mà nhìn lại, nó bự hơn, bàn tay của nó to gấp ba lần tay tôi.
Michael Tea, tiểu đội trưởng, nạt, “Shut up.” Đôi mắt nó rà một lượt, tia nhìn phát ra lửa, chúng tôi nóng ran cả người.

Có tiếng súng M4 “tạch, tạch, tạch… ” ròn rã. “Đụng rồi.” Có tiếng la sau lưng tôi. Cả bọn nằm rạp xuống. Chừng ba mươi giây, Michael ở đằng trước quay đầu ra hiệu, chúng tôi tẻ hai bên, nhường cho hai thằng mang M249 đi giữa, một thằng lui ra sau dự bị. Chúng tôi bò lên, ép sát hai bên, tiến gần cửa động. Chắc chắn có người, tôi thấy tấm bạt rung rinh, nhất định không phải dân, có lẽ tụi Baath đã đi trước một bước.

“Marhaba” Tiểu đội trưởng cầm micro gọi lớn ba, bốn lần, không ai trả lời.

Qua kính nhắm, tôi thấy tấm vải bạt nhúc nhích như có người đứng ngay sau đó. Tôi đặt tay vô cò sẵn sàng, thằng nào lú ra, tôi nả liền. “Tiên hạ thủ vi cường.” Tôi nghĩ, “Thà bắn lầm còn hơn bị bắn chết.” Tôi không muốn chết, nhất là chết ở đây. Mặc kệ ông Bush muốn xây dựng dân chủ hay phát huy tự do gì gì đó, tôi không “ke”. Tụi Iraq có chết khô trên giếng dầu, tôi cũng không “ke”. Tôi chỉ muốn sống để trở về. Để mơ, một ngày nào, cha mẹ em út tôi được đặt chân lên miền đất hứa.

“Hello. Hello. Anybody’s there?” Thằng Michael kêu muốn tắt hơi.

Cửa hang vén khẽ, một nhánh cây ló ra, đầu có cột một miếng vải trắng. Đầu hàng rồi, chúng tôi thở phào, không cần phải nổ súng. Nhưng vì đề cao cảnh giác, biết đâu địch trí trá khó lường, Michael vẫn kêu họ bằng tiếng Ả Rập.
Họ bắt đầu đi ra, dè dặt từng người một. A! tôi nhận ra, đây là dân quân Kurd, họ trang phục khác người Iraq, đàn ông mặc quần phùng (kiểu Thổ), áo sơ mi, đầu quấn khăn xếp, râu tóc ngắn gọn. Tất cả hai mươi bảy người, kể cả bốn đứa trẻ chỉ độ 12,13 tuổi. Trong bộ tộc Kurd, người nào vác nổi súng, người đó là lính, bất kể nam phụ lão ấu.
May quá, người Kurd ở đây, có nghĩa vùng này an toàn. Trong khi tiểu đội liên lạc cấp trên, tôi đi một vòng khảo sát.
Chỉ suy diễn từ cái hang này tôi cũng thấy vấn đề kiểm soát an ninh, hay ngăn chận sự chuyển vận vũ khí qua lại biên giới là một chuyện nan giải. Cửa hang nhỏ, nhưng càng vào trong càng rộng, khuôn viên chính giữa có thể chứa vài ngàn người. Ở giữa động có một hồ nhỏ, nước trong vắt. Họ nói, mùa Xuân tuyết trên núi tan, nước theo khe chảy xuống tích tụ nên hồ, đủ dùng quanh năm. Đàng sau còn có một cửa khác ăn thông, có thể thoát ra bằng vách khác. Cái cửa hậu này không phải do thiên nhiên mà do họ đào phá từ năm này qua năm khác mà thành. Tôi đi vòng lòng xem qua nơi ăn, chốn ở của họ. Có lẽ đây là trạm trú quân của quân du kích nên đồ đạc, bếp núc không có dấu vết đàn bà. Nồi niêu xoong chảo, ấm chén của họ có lẽ toàn là đồ từ thời Adam, Eva, cũ kỹ thấy phát sợ.

Người Kurd có mặt ở Iraq có lẽ từ thời khai thiên lập địa. Họ không phải giống dân Ả rập, không theo đạo Hồi. Sự khác biệt văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, trang phục, biến họ thành cái gai trong mắt dân Ả Rập. Trải qua hàng ngàn năm, họ đã bị các chủng tộc, các thời đế chế, vua chúa khắp nơi truy sát. Nhưng mà, với sức chiến đấu dẻo dai, khả năng sinh tồn mạnh mẽ, họ đã trốn chạy liên tiếp từ đời này qua đời khác. Khi bị truy sát ở Iraq, họ bồng bế nhau qua Thổ, khi Thổ đánh đuổi, họ chạy qua Syria, khi bị Syria càn, họ trốn qua Iran, bị Iran đánh, họ lại chạy về Iraq. Họ sống du mục và chạy loanh hoanh khắp biên giới bốn nước. Lịch sử của người Kurd là lịch sử chạy. Cho tới bây giờ họ chưa có điểm dừng chân.

Tôi nghe nói, sau thế chiến thứ I, người Anh ký hiệp ước giúp họ thành lập quốc gia Kurd, thủ đô đáng lẽ là Mosul. Đổi lại, người Kurd ký kết cho Anh khai thác mỏ dầu lớn ở miền Bắc, lãnh địa Kurd. Hiệp định đã ký kết, năm 1927, Anh đã khai thác dầu. Nhưng quốc gia Kurd đến nay vẫn còn nằm trên giấy. Không phải người Anh bội ước mà người Kurd đã bỏ mất cơ hội lập quốc có một không hai. Vì đây là thời gian, Anh cũng đang thành lập Iraq. Do trốn chạy khắp nơi, người Kurd đã bị phân hóa từ đời nào cũng không biết. Khi tiến hành việc thành lập quốc gia, người Kurd ở Thổ thích chính sách của Thổ, người Kurd ở Iran thích theo khuôn mẫu Iran, người Kurd ở Syria thích theo chế độ như Syria, người Kurd ở Iraq lại không thích ý kiến các nhóm khác. Không ai nhường ai. Mấy năm sau, Iraq tuyên bố độc lập, biên giới bao trùm luôn phần đất Kurd. Và người Kurd từ đó lại tiếp tục: Chạy.

Nghe tới đoạn này, tôi cảm thấy buồn. Mong rằng người Việt tỵ nạn khắp nơi Mỹ, Anh, Úc, Pháp, sau này trở về sẽ tránh vết xe đổ như người Kurd.

Tiểu đội ra lệnh tập hợp, chúng tôi trở vào trong hang. Một vòng tròn, nửa là Kurd, nửa Mỹ. Tiểu đoàn mới thả dù một quân nhân thông dịch tới. Người Mỹ sẽ bảo vệ người Kurd, tạm thời vẽ một khu tự trị cho họ. Từ thành phố Tikrit trở lên là khu Cấm Bay, ngoại trừ máy bay Anh Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Phía Mỹ sẽ cung cấp khí giới và huấn luyện dân quân Kurd. Đổi lại, Kurd kiểm soát và phát hiện những con đường vận chuyển vũ khí lậu qua biên giới. Vũ khí và toán huấn luyện sẽ tới sau. Nhiệm vụ chúng tôi rời khỏi nơi đây và tiếp tục hành quân sau lưng núi.
Thằng Ted chửi, Robert chửi, Ed cũng chửi, còn tôi chửi… thầm.

“Tại sao họ không để tụi mình ở lại huấn luyện?” Thằng Bob cự nự.

“Đây là lệnh. Chấm hết.” Tiểu đội trưởng kết thúc.

Chúng tôi đi vòng sau lưng núi. Núi này tiếp ngọn núi kia. Màu đá tim tím, phẳng lì, dốc cao thoai thoải. Ba-lô trên vai tôi chĩu xuống, oằn vai. Mới 17:00 tức năm giờ chiều, trời đã nhá nhem. Gió thổi buốt mặt. Chúng tôi dừng lại bên một khe trũng, mấy lùm cây thưa cao quá đầu người, che khuất một cái hang. Tôi mệt đứ đừ. Tựa vào gốc cây, tôi đứng thở dốc. Mấy thằng kia quân trang nhẹ hửng, cũng mướt mồ hôi. Khi thằng Michael chạy tới, nó xua tụi tôi như xua tà.

“Đi, đi vào trong kia kiểm soát trước.” Nó chửi te tát, “Chưa kiểm soát mà đứng đây chơi, tụi bây muốn chôn thây ở đây chắc?”

Cái thằng này có thể lên tới tướng đây. Nó không hề biết thương anh em đồng đội. Mồ hôi người ta mà nó tưởng như nước lã.

Chúng tôi chạy vào trong hang, kiểm soát. Tôi mệt muốn xỉu, từ sáng tới giờ chỉ đi và chạy, chưa có hột cơm nào. Đã vậy, đôi mắt chập chập cứ muốn ríu lại. Nếu gặp địch, tôi cũng phải ngã ra ngủ một giấc cái đã, chuyện đánh đấm tính sau.

May quá, cái hang cạn, không có người. Michael nói, khi nào chắc chắn an toàn mới được nghỉ ngơi, ăn uống. Thằng Ted giỡn, “Sao nó không nói, khi nào bắt được Bin Laden, ăn cơm cũng chưa muộn.”

“Clear.” Thằng Bob từ bên sườn chạy vòng qua nói.

“Clear.” Thằng Tom ở vách sau hay đâu đó cũng la lên trong máy.

“Clear, clear.” Hai ba tiếng nữa của ai đó vọng ra. Tiểu đội trưởng liên lạc với trung tâm hành quân rồi phân công. Chúng tôi đóng chốt ở đây. Một, hai, ba, thằng Michael chỉ tôi, Ed và Ted, ba đứa bây: chốt Một. Rồi nó khoác tay, kéo một đám theo sau, đi đóng chốt Hai. Nhưng mới vài ba bước nó quay lại, chỉ xuống chân núi.

“Đêm nay, tụi bây chia nhau canh giữ hẻm núi phía dưới. Có phát hiện gì báo ngay, không được tự ý hành động.” Nó quay qua tôi, “Còn mày, tối nay, không được làm thơ, không được ngủ.”

Chưa kịp phản đối, nó khóa miệng tôi. “Đây là lệnh.”

“Yes, sir.” Tôi gào lên, tức muốn ói máu.

Ted và Ed bảo, “Ăn cái đã, từ sáng tới giờ tao đói muốn rã ruột.” Tụi nó ăn, tôi kê đầu trên ba-lô ngủ. Có nhiều khi ngủ ngon hơn ăn gấp cả ngàn lần.

Ngủ được ba tiếng, thằng Ted lôi tôi dậy. Đổi phiên. Trời bây giờ tối đen như mực. Tôi có cảm giác bị người ta quẳng vào cái lỗ đen trong vũ trụ. Vừa nằm xuống, thằng Ed, thằng Ted đã ngủ say như chết. Tôi dụi mắt, mắt cay xè. Tôi uống một hớp nước, cũng chưa tỉnh nổi. Bây giờ thiên đường không phải là thành Babylon, không phải là vườn treo Hanging Garden, không phải ở Địa Đàng, hay trên Thiên Đàng, mà là ở trong cái mền bông mềm như nhung, mướt rượt, mượt mà. Tôi đang ước được chui đầu vào đó, đánh một giấc trăm năm.

Tiếng Michael léo nhéo trong máy. Tôi trả lời rồi lôi trong ba-lô một tấm ponchos, một lọ thuốc Alert. Thuốc này uống vào bảo đảm tỉnh như sáo suốt 48 tiếng đồng hồ. Tấm ponchos, tôi trải ra tủ đều cho hai đứa bạn. Đêm trên núi cao, sương xuống lạnh lắm.

Tôi ngồi thu lu trong bóng tối. Một chút sau mắt quen với màn đêm, tôi thấy đêm không đen như tôi tưởng. Trời trong và cao vút, đêm có ngàn sao lấp lánh, một mặt trăng lưỡi liềm chênh chếch hướng Đông. Trăng lưỡi liềm cong vút, bóng nguyệt treo ơ hờ, sắc trăng mờ nhạt lung linh làm đêm trở nên huyền ảo. Không hiểu sao trong tất cả truyện cổ Ả rập người ta chỉ thấy bầu trời và ánh trăng lưỡi liềm. Bây giờ, tôi ngó trăng. Trăng cũng ngó tôi. Mà không, trăng ngó vạn vật. Tôi cũng ngó vạn vật. Đêm thật yên tĩnh. Tôi lắng nghe tiếng gió mơn man vuốt ve lưng núi, tiếng cỏ lao xao, rì rào chen lẫn trong tiếng đập đều đặn của trái tim tôi.

Ba tiếng đồng hồ trôi qua. Tôi ngồi im trong một tư thế gần như bất động. Nhìn xuống khe núi bên dưới, bốn bề vắng tanh. Có ai biết nỗi khổ của một con sói rình mồi? Phải kiên nhẫn lắm. Tôi nhìn vào khe núi như nhìn vào một khoảng không vô định.

Hai giờ sáng. Giờ này là của thằng Ed đây. Nhưng tôi tỉnh táo lắm, cho hai đứa nó ngủ thêm một chút. Bây giờ, trăng chếch về Tây. Đêm Iraq thật huyền diệu, nhưng mà tôi vẫn nhớ một vầng trăng vằng vặc xa tít ở quê nhà.

“Trời xanh, trăng có tự bao giờ?
Ngưng chén, đêm nay hỏi một câu
Người với lên trăng, vin chẳng được
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.”*1

Có phải ánh trăng này từ Việt Nam đã theo tôi tới đây chăng? Còn sao nữa? Sao Hôm, sao Mai đâu? Tôi nhìn trời rồi nhìn điểm “nóng” dưới khe núi. Một vì sao đang rơi trong lùm cỏ. Sao nhấp nháy, nhấp nháy. Thật vô lý. Tôi dụi mắt mình mấy lượt. Quả thật, có một ngôi sao đang rơi trong lùm cỏ. Cái gì đó hả? Tôi chộp khẩu súng, mở kính nhắm, điều chỉnh tầm nhìn. Không phải ánh sao. Điểm sáng là ánh đèn pin đang vẫy qua, vẫy lại. Tôi lấy googles*2 nhìn, đèn tắt. Nghe tiếng lách cách, thằng Ted, thằng Ed đồng nhỏm dậy. Chúng bò lại bên tôi, thì thầm.

“What’s up?” Nó hỏi, “Cái gì vậy?”

Không đợi tôi trả lời, nhanh như cắt, nó chộp súng, quan sát qua ống kính, “Oh, men.”

Tôi gọi máy, báo cáo tình hình. Michael lệnh, theo dõi mục tiêu, khoan nổ súng. Nó báo cáo về Trung Tâm hành quân. Ba thằng tôi xác định tọa độ, theo dõi địch. Có thể đây là tụi vận chuyển vũ khí tiếp tế cho khủng bố. Có một đường hầm hay hang động bí mật nào đó đi ngang qua eo núi này. Có lối vào ắt phải có lối ra. Không biết phía trước núi có ai phát hiện gì không? Không biết số lượng vũ khí là bao nhiêu và số người tham dự đường dây này?

Của tổ chức nào?

Mười phút sau, tiểu đội tôi tề tựu. Vì hang động ăn sâu trong núi, không thể tiêu diệt hết nếu chỉ tấn công bên ngoài. Các đơn vị khác cũng đang bao quanh trước và sau núi. Trung Tâm sẽ chi viện một phi đội trực thăng AH-64 Apache để tấn công cả hai cửa hang. Nếu sức kháng cự lớn, trung tâm sẽ gọi các loại F mang bomb bunker*3 yểm trợ sau.

Trong khi chờ đợi chúng tôi di chuyển vào vị trí phối hợp. Mắt tôi không rời mục tiêu. Bên dưới một toán người sắp hàng một, lặng lẽ trước và sau đẩy những thùng sắt to và dài bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nóng ruột. Có thể là những air-missile SA-7B hay SA-14, dễ di chuyển. Cả đoàn khoảng hai mươi người đã bắt đầu đi vào cửa hang. Trời ơi! Không khéo họ sẽ mất hút trong ấy hay cố thủ sẽ khó đây. Cần phải tấn công ngay. Nhiều họng súng chĩa ngay về phía họ.

Trong phút chốc, tiếng máy bay vần vũ ngay trên đầu. Cả chục chiếc đèn cực mạnh sáng rực như ban ngày. Có tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Phía địch bỏ chạy tán loạn. Có kẻ chạy thẳng vào hang, có kẻ trở đầu súng chĩa lên bắn máy bay. Những chiếc Apache đảo vòng vòng. Chúng tôi nổ súng bắn địch. Họ buông súng, thân xác ngã vật ra. Tai tôi không nghe thấy gì. Tiếng nổ chát chúa, liên tục. Trên không, máy bay nả những chiếc rocket AGM-114 Hellfire bay liệng vô hang. Ầm. Ầm. Những tiếng nổ lớn, mặt đất rung rinh, lửa vụt sáng chóe và những luồng khói đen bốc lên cuồn cuộn. Tôi xoay nòng súng bắn như điên vào những lùm bụi gần cửa hang. Không thể để chúng bắn tỉa máy bay vì họ đang bay rất thấp.

Khi trận công phá kết thúc, tôi đi xuống dưới coi. Xác địch ngổn ngang, không biết tên nào do tôi bắn chết. Những kẻ này mặt mũi bình thường, nhưng giờ đã là những cái xác vô tri. Nếu sống, có thể có một ngày nào đó dám tôi mời hắn uống café trên đường phố Baghdad. Xem chán, tôi vào hang động, nhưng bị chận lại. Người ta đang đưa những chuyên viên vũ khí tới đây. Cũng có thể có mìn hay chất nổ tự hủy đã được gài sẵn.
Đơn vị tôi được lệnh trở về, tuy cuộc hành quân vẫn còn tiếp diễn. Về sau quân đội phải khóa kín biên giới Iran, Syria ngăn chận vũ khí đổ vào Iraq.

Từ mùa Xuân năm 2004, tổ chức Al-Qaeda với Musab-al-Zarqawi, dân quân vũ trang Mahdi của phái Shi’a, phe giáo sĩ Al- Sadr, tổ chức tấn công dữ dội khắp nơi. Trong đó Musab al-Zarqawi là tên khủng bố kinh hoàng nhất. Hắn dùng kiểu hành hình thời thượng cổ, lấy lưỡi gươm Sinbab chặt đầu tất cả các con tin ngoại quốc để áp lực Mỹ rút quân vô điều kiện. Các nạn nhân trước khi chết đều sợ hãi. Nhưng những người chưa bị bắt, chưa bị chặt đầu, chưa sợ. Thế giới Hồi giáo khắp nơi cũng phản đối. Al-Zarqawi bôi nhọ Hồi giáo. Hồi giáo không man rợ như Zarqawi. Phải chống Mỹ kiểu khác. Lực lượng vũ trang Sunni tổ chức phản công mạnh mẽ ở Fallujah bắt đầu tháng 3 năm 2004, giết bốn nhân viên an ninh cung cấp lương thực của tổ chức Blackwater. Họ cột bốn cái xác vào một chiếc xe, diễu lê khắp phố phường Iraq. Chủ ý răn đe buộc Mỹ rút quân. Nhưng cách đó thất bại. Người ta nhìn thấy tổ chức Sunni dã man, cần phải tiêu diệt. Trận đánh đẫm máu với Sunni là trận 46 ngày đêm ở Fallujah. Người Mỹ so sánh với trận Mậu Thân Huế năm 1968. Mỹ mất 95 binh sĩ, và địch bỏ lại 1,350 xác chết đủ mọi sắc tộc như Chechnyan, Iran, Syrian,… Ả Rập,…… Sau tháng 11 năm 2004 trở đi, tình hình có vẻ lắng xuống.

Người Iraq xoay qua chống Mỹ theo kiểu khác: Kiểu Việt Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ “thua” không phải trên mặt trận quân sự, mà “thua” trên mặt trận tâm lý. Chiến tranh tâm lý mở rộng. Phong trào phản chiến, những vụ Mỹ Lai được khai thác triệt để. Các tổ chức chống Mỹ, tổ chức nhân quyền đua nhau tố cáo những vụ vi phạm nhân quyền. Nổi tiếng nhất là cô Lynndie England và anh lính Charles Graner của trại tù Abu-Ghraib. Bức hình nổi tiếng tình tứ nhất của họ là bức hình lột truồng sáu người tù và bắt họ chồng chéo nhau xếp thành hình Kim Tự Tháp. Thế giới phẫn nộ, người Mỹ phẫn nộ, lính Mỹ phẫn nộ, chính quyền Mỹ rất phẫn nộ, nhưng tôi không… phẫn nộ. Tôi nghi, cặp tình nhân này điên ư? Họ không biết hành động vậy là vi phạm nhân quyền, vi phạm quân kỷ à? Tù như chơi. Họ biết, nhưng vẫn làm. Và ai là người đang đứng chụp hình cho họ đấy? Một nhân vật thứ ba. Rõ ràng đây là một vụ vi phạm nhân quyền có dự mưu. Cặp Lynndie và Charles đã lãnh bao nhiêu tiền? Khác với vụ Mỹ Lai, tòa án quân sự Mỹ làm rùm beng chuyện này. Họ xử nặng và tuyên bố sẽ lôi hết các vụ vi phạm nhân quyền ra công lý.

Cuối năm 2005, chúng tôi được lệnh điều về miền Nam. Mười lăm ngàn quân nhân canh giữ an ninh cho các thùng phiếu. Tất cả các tổ chức, giáo phái, phe phía chủng tộc, ghét Mỹ hay thân Mỹ đều được mời tham chính. Tất cả do người dân quyết định bằng lá phiếu. Ông Bush tin, với cách này, mọi người đều có mặt trong chính quyền, người dân sẽ quyết định chính thể của họ. Chúng tôi nghĩ, ông Bush lầm. Mọi phe nhóm đều không có ý định hợp tác tham chính, mỗi một phe đều muốn giành lấy độc quyền cai trị và tiêu diệt đối lập. Họ muốn dùng bàn tay sắt như Saddam. Họ chống Mỹ vì Mỹ không để điều đó xảy ra.

Sau bầu cử, người Iraq mở những mặt trận mới. Họ tiêu diệt nhau tận tình. Người Sunni xả súng bắn vào chợ búa người Shi’a, 65 người chết. Người Shi’a ném bom vào đám cưới Sunni, 124 người chết. Người Sectarian (không biết từ đâu tới) đánh bom vào thánh đường Al-Askari của người Shi’a ở Samarra, 165 người chết. Người Sunni lái xe bom lao thẳng vào lãnh địa Sadr giết chết 215 người. Con số người chết tăng đều như người ta nhân các giải độc đắc lotto hàng tuần. Đây chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc nội chiến tương lai.

Đầu năm 2007, ông Bush tuyên bố tăng quân, tăng chi cho cuộc chiến Iraq. Mặc, trong khi người ta phản chiến khắp nơi. Tình hình Iraq không thể ổn định, nhưng cũng không thể rút quân. Tiến thoái lưỡng nan. Mỹ rút, một cuộc nội chiến chắc chắn sẽ xảy ra. Tàn khốc còn hơn thời Saddam và chiến tranh hiện tại. Người Iraq giết người Iraq. Và mọi tội lỗi sẽ đổ lên đầu người Mỹ.

Giấc mơ ổn định Iraq giống như chuyện nằm mơ ban ngày. Mọi hận thù sắc tộc, tôn giáo gì đó là những mối thù truyền kiếp có thể sẽ kéo dài cho tới ngày tận thế. Đồng minh các nước lục tục rút quân về. Người Anh cũng bắt đầu giảm quân ở căn cứ Basra.

Tiểu đoàn tôi được lệnh di chuyển từ Samarra tới Basra. Khi ngang qua Baghdad chúng tôi được viếng thủ đô, thăm thắng cảnh trong 48 giờ. Nhiều người không đi, họ ở lại trong đơn vị, chỉ ra ngoài khi có nhiệm vụ. Baghdad là tụ điểm của khủng bố, phá hoại, bắt cóc, của “road bomb” và “tự sát”. Bởi đây là nơi gây nhiều tiếng vang, lấy thành tích dễ nhất. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở, tiểu đội tôi quyết định ra ngoài. Viếng thăm xứ Ngàn Lẻ Một Đêm là điều tối ư cần thiết.

Chúng tôi mặc thường phục, lận súng ngắn, máy định vị, rồi ra đường. Baghdad lớn lắm, người đông, có con sông Tigris bắc ngang chia thành hai khu vực. Thủ đô đầy nhà cửa dinh thự, kiến trúc cổ công phu rất đẹp, khu dân cư tầm thường đơn giản, và đường sá xây dựng rất cẩu thả. Những người trẻ mặc âu phục, đa số trung niên người già ăn vận theo truyền thống. Đàn ông mặc thawbs (áo dài chấm chân), đội mũ kufiyah (mũ úp) hoặc gutra (khăn trùm) có egals (vòng vải quấn quanh đầu). Đàn bà mặc abaya (áo đen trùm kín thân người), đầu quấn khăn choàng lớn.
Bỗng dưng, thằng Ted hỏi đố, “Thằng nào thấy đứa con gái Iraq đi giày cao gót đầu tiên, tao tặng $100 dollars.”
Cả bọn xôn xao, cười như Tết. Giải thưởng hấp dẫn đây. Nhưng làm sao kiếm ra. Bọn tôi chúi mắt vào chân tụi con gái. Thật đáng kinh ngạc. Lòng vòng nãy giờ, thấy hơn trăm đứa, chẳng có mạng nào mang giày cao gót cả. Mà đàn bà đẹp là nhờ giày cao gót. Giày cao gót làm dáng đi yểu điệu, mảnh mai. Bây giờ tôi chợt hiểu ra, trông con gái Iraq không có nét dịu dàng, mềm mại là bởi tướng đi chắc nịch, hơi giống tướng đàn ông. Đã vậy, khăn áo kín mít, trông như những con quạ di động, chẳng có gì hấp dẫn. Vòng qua nhiều đường phố, cả thành phố chỉ có một loại cây duy nhất là cây Chà là. Chúng tôi lẩn quẩn khắp nơi, đường phố Iraq rất dễ lạc, nhà cửa cây cối các nơi đều giống nhau. Chiến tranh, khủng bố, bom nổ làm khắp nơi tiêu điều. Iraq ít có nhà hàng, quán xá, café… như các thành phố khác. Tiếp xúc người dân ở đây cũng đáng ngại. Họ sợ bị nghi ngờ, bị trả thù. Chúng tôi cũng sợ hỏi trúng những người ôm bom tự sát.

Chúng tôi quyết định trở về khu trung tâm, viếng dinh Saddam. Nghe nói, Saddam cũng chán đàn bà trùm chăn, trong dinh treo toàn hình Marilyn Monroe vén váy. Nhưng mà Saddam có tới 23 cái dinh, luân phiên ngủ mỗi ngày, vậy cái nào mới có hình các kiều nữ Hollywood khỏa thân, ở truồng.

“Mày tưởng Saddam có dành một cái dinh để tu chắc?”

Cả bọn cười sằng sặc.
Chúng tôi quay lại con sông Tigris, băng qua cầu. Tại đầu cầu này, năm đó, khi tiến vào Baghdad, sư đoàn 3 đã dừng lại mấy ngày chờ lệnh. Người ta đợi một sự thỏa thuận buông súng của lực lượng Vệ binh Fedayeen trung thành với Saddam, để tránh những tổn thất nhân mạng không đáng có. Lúc đó Baghdad có tin đồn, Mỹ hết đạn. Một số tay súng lập lô cốt phòng thủ ngay trên đường phố, dùng AK-47 chống xe tăng M1Abrams. Trong chiến tranh đôi lúc cũng khiến người ta chết vì những tin đồn nhảm nhí như thế.

Bốn mươi tám giờ ở Baghdad qua mau, đơn vị gấp rút chuyển quân xuống Basra. Cách 55 dặm về phía Nam Baghdad là thành Babylon. Đoàn quân xa chầm chậm qua khu vực này. Thành Babylon cổ xưa, rộng tới mười cây số vuông, nơi cách đây gần ba ngàn năm người ta đã xây dựng đền đài cung điện cao ngất để lên trời. Năm 1258, Hốt Tất Liệt đã dẫn đại quân Mông Cổ đánh chiếm một nửa Châu Âu, rồi tràn qua Iraq. Lịch sử ghi, người Mông Cổ đi tới đâu, cái gì không cướp được là phá hủy. Kinh sách không đọc được đều bị đốt, kể cả những thứ về kiến trúc, y học, thiên văn. Ngọn lửa đốt cháy thành Babylon và tất cả sách vở hơn ba tháng mới tắt. Dân trong thành cũng chết sạch. Người Mông Cổ đã tiêu hủy cả một nền văn minh cổ xưa, phát triển rực rỡ nhất của loài người. Bây giờ, gạch đá ngổn ngang, phế tích tang thương, khiến chúng tôi không khỏi ngậm ngùi.

“Ôi, bên bờ sông Euphrates
Thành Babylon đổ nát
Mà ta còn ngồi đây
Đàn đã lỡ lên dây
Kẻ thù còn bắt hát,
Ngợi ca về Zion
Làm sao ta hát được
Bài ca trên đất lạ…”
(Psalm 137)

Nhưng mà, đáng lẽ người Iraq phải thù Mông Cổ mới đúng. Đằng này, họ đi thù Mỹ. Tôi nghĩ, có thể bắt đầu do một sự hiểu lầm nào đó. Năm 1927, khi người Anh phát hiện mỏ dầu ở Kirkuk, lần đầu tiên khoan giếng, một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Dầu bắn mạnh và phun cao như một thứ nham thạch vọt ra từ trong miệng núi lửa. Ngọn cao tới 15 mét, dầu tràn như lũ lụt. Chỉ cần một que diêm cả thành phố sẽ ra tro. Sau chín ngày, người Anh mới dập tắt được ngọn lửa. Mặc dù đó là một tai nạn, nhưng người Iraq vẫn ngờ, đó là một đòn dằn mặt. Chớ có tự ý khai thác dầu. Kỹ thuật khoan dầu, xưa nay vẫn được giữ kín như một thứ bí mật quốc phòng.

Đoàn quân xa theo quốc lộ chạy thẳng xuống Basra. Chúng tôi vượt qua nhiều khúc sông, hồ và đầm lầy. Nơi đây là bình nguyên trù phú nhất của Iraq, nhưng đất đai không màu mỡ. Cỏ lún phún thưa, gần đầm có lau sậy, có nơi có những hàng Chà là rợp bóng như hàng dừa của Bến Tre. Vùng cằn cỗi vậy mà là cái nôi của con người ư? Thủy tổ của loài người, dấu tích ông Abraham đã từng sinh sống nơi đây. Vùng đất nghèo dân khó, nông dân ở đây đi xuồng thô, ở lều vải, chẳng có ai cất nổi một căn nhà.

Bây giờ là tháng Sáu, trời vào Hè. Nhiệt độ 120F, Iraq trở thành một cái lò nướng khổng lồ. Nóng rát mặt, rộp da. Chúng tôi băng qua một khu sa mạc. Gió bắt đầu nổi lên. Bộ chỉ huy báo động, khoảng một tiếng nữa sẽ có bão. Bão sa mạc đến bất ngờ và qua cũng trong chớp mắt. Chúng tôi dừng lại và chờ đợi. Những tấm bạt, lều, ponchos được trưng dụng tối đa. Chúng tôi phủ lên những vũ khí, đạn dược và bịt chặt các nòng súng. Cá nhân đeo mặt nạ, và chui vào xe trú ẩn. Hơn một tiếng sau, bão rú. Tiếng gió rít như xé lụa tận trên cao, rồi bão ầm ầm xô tới. Một con sóng màu vàng cuồn cuộn cuốn tung đất cát ngùn ngụt lăn qua sa mạc. Chúng tôi khum đầu xuống, đất cát đổ xuống mình lộp độp nghe như tiếng mưa rào. Khi trời im bão, chúng tôi đứng lên, rũ cát, nhìn ra xa. Mặt đất như mới thay da, một màu cát mới tinh khôi trải dài ngút tận chân trời.

Cách Basra hơn 46 dặm, chúng tôi dừng lại nghỉ. Lính đua nhau nhẩy ào ào xuống, chạy vào làng. Đây là Al-Qurnah, Vườn Địa Đàng của Adam và Eva, thủy tổ của loài người. Tất cả kinh thánh viết, trong vườn Địa Đàng đầy cây trái và bát ngát hương hoa, duy chỉ có mỗi một thứ Trái Cấm của cây Tree of Life là không ăn được. Ai ăn Trái Cấm sẽ bị đuổi ra vườn Địa Đàng, tự trồng trọt để nuôi thân, rồi sẽ già và chết. Nhưng Eva hàng ngày nhìn quả Cấm trên cây và thắc mắc. Satan dụ dỗ, Chúa cấm ăn vì ăn Trái Cấm con người sẽ thông minh như Chúa, sẽ làm được những điều Chúa muốn làm. Eva cắn ngay một miếng và nàng dành một trái cho Adam. Ăn xong, khi đến trước Chúa, lần đầu tiên Adam bỗng mắc cỡ vì thấy mình lõa lồ. Chúa biết hai người đã phạm điều cấm nên đày họ ra khỏi vườn Địa Đàng…

Bây giờ, tôi cũng muốn chạy tới xem cây Tree of Life, bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ trộm cắn một Trái Cấm. Xin Chúa hãy đày tôi ra khỏi Vườn Địa Đàng hay nói đúng hơn đày tôi ra khỏi Iraq, tránh xa cuộc chiến này. Tôi chưa muốn chết, nhất là chết ở một đất nước không có dây mơ rễ má nào với tôi. Nhưng khi vào làng, tôi thấy một đám đông chùm nhum chờ đợi để chụp hình dưới cây Tree of Life. Một gốc cây sù sì không có lá, đang giơ những cành khô hiểm hóc nổi bật dưới trời xanh.

Tháng 7 năm 2007, 441 lính Anh thuộc nhóm Danish rời Basra. Đây có lẽ là nhóm thứ chín rời trại. Những chiếc trực thăng bốc họ rời căn cứ. Tôi ngó lên bầu trời nhìn cho tới lúc dấu trực thăng mất dạng. Tôi thèm có một ngày tôi cũng bay bổng để ra khỏi vùng đất Basra.

Chúng tôi đóng quân gần căn cứ Anh. Nơi này là ngoại ô bảo vệ Basra, bảo vệ các giếng dầu và hệ thống dẫn xuất, hệ thống khí đốt quan trọng của Iraq. Ngoại trừ thủ đô, đây là thành phố lớn nhất Iraq, dân số một triệu rưỡi. Basra còn nhiều ngành hóa học, công nghiệp khác. Chỉ nói về dầu, Iraq đã cung cấp 20% năng lượng cho thế giới. Trong cuộc chiến với Iran năm 1980, do lượng định sai, Iraq đã bất ngờ tấn công và bao vây nhiều làng mạc Iran, tiêu diệt hàng trăm binh sĩ. Nhưng sau đó Iran tập trung lực lượng phản công, đánh thẳng vào Basra, giết chết hàng ngàn lính Iraq, phá hủy hệ thống dẫn dầu của Basra. Tuy vậy, Saddam vẫn tuyên bố chiến thắng. Để bù đắp chiến phí và thiệt hại chiến tranh, Saddam quyết định cần phải nâng cao giá dầu gấp bốn, năm lần. Thế giới phải trả giá cho những sai lầm của Iraq. Nhưng Kuwait, một quốc gia kề cận Basra vẫn bán dầu với giá rẻ. Saddam lên án Kuwait phá giá dầu. Hơn nữa mỏ dầu Kuwait có một phần nằm dưới lòng đất Iraq. Năm 1990, Iraq xua quân xâm chiếm Kuwait. Cả thế giới nổi giận. Mỹ và đồng minh đánh vào Iraq. Trước khi rút quân, Saddam ra lệnh đổ hàng triệu thùng dầu xuống vịnh Persian và đốt 700 giếng dầu của Kuwait. Đầu năm 2003, để tử thủ Basra, Saddam cũng ra lệnh quấn mìn dầy đặc chung quanh 400 giếng dầu của Basra. Nhưng người Mỹ mua dầu bằng dollars, họ không bao giờ đi đốt tiền, dù là tiền của người khác. Mỹ bao vây giếng dầu, lính Iraq cũng không thể uống dầu để chiến đấu. Họ lục tục theo nhau kéo cờ trắng.

Chiến tranh kéo dài đến mệt mỏi. Để áp lực nước Mỹ rút quân, khối Ả Rập dùng đủ mọi cách tăng giá dầu. Thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ khủng hoảng năng lượng. Giá dầu nhích dần. Chính phủ mới của Iraq đã thỏa thuận ký hiệp khai thác dầu với Mỹ, Anh, Trung Quốc.

Ước mơ kết thúc cuộc chiến là ước mơ chung của tất cả mọi người. Hơn thế nữa, nó là nỗi hy vọng lớn nhất của những người lính, nhiều khi còn vui hơn niềm vui chiến thắng.

Ngày 10 tháng 9 Tư lệnh chiến trường Iraq General David Petraeus tuyên bố, Hè năm tới sẽ rút 30,000 quân số. Ông Bush cũng hứa, cho phép 5,700 quân nhân từ các đơn vị được về đón Giáng Sinh. Chao ơi! Chúng tôi nhẩy cỡn vì sung sướng. Niềm vui như được ngồi trên một tấm thảm thần của xứ sở Aladin bay lượn ra khỏi nơi đây.

“Kỳ này về, tao sẽ đi học trở lại.” Thằng Ted nói, nó vào lính để được hưởng học bổng toàn phần.

“Tao sẽ ứng cử nghị viên thành phố.” Michael Tea, đúng là con nhà nòi, ba nó là Thượng nghị sĩ.

“Tao sẽ lấy vợ và đẻ một chục con.” Edward tuyên bố thẳng thừng.

Tụi tôi hè nhau thụi nó. “Ê, mày muốn quân đội phá sản vì đám con của mày à?” Ed cười hô hố.

“Còn mày?” Tụi nó quay qua tôi.

“Ước mơ lớn nhất của tao là được nhập quốc tịch, rồi bảo trợ gia đình sang.” Tôi cười ngượng nghịu.

Cả bọn vỗ vai tôi, “Ô! Chuyện nhỏ.” Chúng nó cười khuyến khích, “ Mày sẽ được như ý.”

Hôm sau, đúng vào ngày thứ Sáu, tiểu đội nhận lệnh trực. Tiểu đội trưởng huấn thị, theo báo cáo Bộ chỉ huy tuy cường độ khủng bố giảm nhẹ, nhưng số thương vong do các vụ tấn công vào mục tiêu dân sự vẫn còn nhiều. Ở Baghdad 265 người, Kirkuk 450 người,… Dự báo, khắp nơi sắp có nội chiến.

Tôi mặc kệ nội chiến. Cứ giết nhau đi. Saddam này chết, sẽ có một Saddam khác lên thay. Còn tôi sẽ rời khỏi nơi đây, bằng cách này hay cách khác.

Chúng tôi bốn thằng, hai thằng trên lô cốt, hai thằng ở ngay cổng. Vai đeo súng, mắt nhắm ra xa, chúng tôi rảo bước trước doanh trại. Đi lính, tôi ghét nhất là đi tuần và canh gác. Nhiệm vụ chán chết người. Mà trong phim mấy thằng lính gác đều là mấy thằng chết trước.

Hai tiếng đồng hồ trôi qua. Trời ơi, khát. Uống bao nhiêu đi nữa, nước cũng bốc thành hơi trong bụng.Tôi nhìn qua thằng Ted, mặt mày nó khô khốc, đôi môi rộp, da đỏ bừng. Tôi tưởng tượng, chỉ cần bật tí lửa nó sẽ bốc cháy như cây đuốc sống. Nhìn nó, tôi thông cảm được tâm trạng người lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Tại sao tôi lại đổ mồ hôi và máu tại chiến trường này? Vì lý tưởng tự do dân chủ ư? Hai phần ba thế giới không có dân chủ, đâu phải chỉ mỗi mình Iraq? Vì Saddam độc tài, sở hữu vũ khí giết người hàng loạt à? Mỗi một nước thuộc thế giới thứ ba đều có một thằng lãnh đạo độc tài như thế. Hay vì dầu hỏa? Phong trào phản chiến ở tại nước Mỹ lên án, chính phủ đem sinh mạng người lính đi bảo vệ túi tiền cho các hãng dầu. Nhưng muốn ký kết hiệp ước khai thác dầu, hay hạ giá dầu có nhiều cách, không nhất thiết phải mở một cuộc chiến. Tổn phí cuộc chiến Vùng Vịnh lần I, sáu tuần lễ, ngốn hết 61 tỷ dollars, buôn bán dầu hỏa đâu giàu mau thế; chiến tranh Vùng Vịnh lần II trong 5 năm tiêu hết 577 tỷ. Thế giới nói, người Mỹ đánh giặc theo kiểu con nhà giàu. Nhưng trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ keo kiệt đến mức độ kinh tởm. Mỹ chi 111 tỷ cho cuộc chiến 20 năm. Lấy 111 tỷ chia cho 20, mỗi năm 5 tỷ rưỡi. Và trong thời kỳ cuối, quốc hội Mỹ đã từ chối 300 triệu dollars viện trợ để cứu lấy đồng minh.

(còn tiếp ...)
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #124 - 11. Jul 2010 , 08:30
 
Đưòng ra khỏi Basra
(tiếp theo):

Trưa đúng Ngọ, mặt trời đang đứng ở đỉnh đầu. Tôi đứng tỳ tay vào thành cổng, ôm chặt khẩu M4A4, đây là loại tối tân nhất, chỉ thiếu bộ phận hồng ngoại tuyến IRIS như đội đặc nhiệm. Còn cha tôi, và những người lính miền Nam chỉ được dùng loại M1 Garant hay Carbine, bắn từng phát để chống với AK-47 tối tân, hiện đại nhất Liên Xô. Dùng xe tăng M41, thiết vận xa M113 để dàn trận đánh nhau với T.54 của địch. Ví như người ta dúi cho lính miền Nam một con dao cùn trong trận tử chiến. Mãi đến sau Tết Mậu Thân, miền Nam mới được tiếp viện giới hạn M.16 và chiến xa M.48. Nhưng, đã quá muộn.

Người ta ví, chiến tranh Việt Nam là nơi tiêu thụ vũ khí thừa từ thế chiến thứ II, cứu các xưởng vũ khí Mỹ bị thua lỗ. Chiến tranh Iraq là nơi thử nghiệm những thứ vũ khí mới. Và những người lính miền Nam chết trong tay đồng minh nhiều hơn trong tay địch.

Ôi! Việt Nam. Ôi cha ơi! Những người tù sau chiến tranh bị đày đi chém tre, đẵn gỗ trên ngàn và bỏ xác trên núi rừng xa lạ.
Nước mắt tôi rơi, trái tim tôi vỡ.

“Khát quá.” Tiếng thằng Ted khàn đục. “Nước đâu?”
Nó chụp chai nước suối của thằng Ed quăng xuống, chuyền cho tôi một chai.
Không. Tôi không khát. Nước ở đây này. Nước mắt tôi rơi như mưa, và tôi đang nhấm từng giọt mằn mặn trên môi như người ta nhấm rượu.

Từ xa, một chiếc xe vận tải xuất hiện. Thằng Ted chộp ống nhìn, quan sát. Nó nói, xe giao sữa. Nó lui vào trong, ra sau cổng, lấy máy rà mìn. Tôi cũng ngó qua ống nhìn. Xe chạy băng băng. Tôi nhận ra, thằng lái xe là Abu gì đó, tôi quên mất. Nó vẫn thường giao sữa mỗi thứ Hai, thứ Năm. Nhưng hôm nay là thứ Sáu mà. Ngày thứ Sáu người Hồi giáo đồng loạt nghỉ, không có ai làm việc vào ngày này. Tôi dán mắt vào ống nhìn. “Trời ơi!” Tôi kêu lên, gần đến cổng, mà nó xả hết tốc lực.

“Xe bomb.” Tôi thất thanh kêu. Không còn kịp nữa, tôi lao ra về phía trước, đưa khẩu súng nhắm. Trong trại, đơn vị đang ăn trưa, hơn 400 lính đang ngồi đầy trong đó. Nếu bắn, thật nguy hiểm. Có thể tôi bị thương hoặc sẽ chết. Bắn thằng Abu, xe vẫn lao tới. Không suy nghĩ nữa, tôi quyết định trong nháy mắt.

Tôi bóp cò phóng lựu bên dưới khẩu M4, một quả M203 bắn vọt ra như hỏa tiễn, đâm ngay thùng xe. Tôi nhìn thấy một đường khói còn chưa tan hẳn. Một tiếng nổ kinh hồn rung chuyển mặt đất. Lô cốt rung rinh. Cát và đá mịt mù. Mà lạ quá, bỗng nhiên tôi thấy mình nhẹ hửng, bay lên, bay lên cao. Tôi nhìn xuống. Ôi, thân xác tôi kia. Tôi nằm bất động. Những mảnh kim loại cắm đầy người. Chiếc xe bomb nát như tương. Thằng Abu mất xác.

Khi cả đơn vị chạy ra, tiếng xe cứu thương kêu inh ỏi. Họ khiêng xác tôi lên. Cả tiểu đội khóc cuống cuồng.
“Còn nước còn tát.” Michael đập đập tay vô xe cứu thương.
“Hãy cứu nó đi.” Tụi nó gào lên, chạy theo xe.
“Cứu cái gì?” Tôi la lên, nhưng chúng không nghe. “Tao ở đây nè.”

Bây giờ, thế giới hai nơi. Tôi bắt đầu mơ màng chìm trong giấc ngủ. Đâu đây văng vẳng bài hát tôi yêu.
“… Trả súng đạn này. Ôi, sạch nợ sông núi rồi
Tôi trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất, năm nao… ” *4

Cuối cùng thì tôi cũng tìm được con đường ra khỏi Basra.


Nov. 10/2008
NTTA
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4029
Re: Truyện ngắn
Reply #125 - 28. Jul 2010 , 22:30
 


"Hai câu chuyện" không thể bỏ qua mà không đọc!


Chuyện thứ nhất

Có rất nhiều quân nhân can trường trong thế chiến thứ Hai, một trong những anh hùng đó là Trung Tá phi công Hải Quân Butch O’Hare. Trung tá O’Hare là phi công khu trục tùng sự trên hàng không mẫu hạm Lexington trong vùng biển khu vực Nam Thái Bình Dương.
Một hôm toàn thể phi đoàn của ông được giao phó thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh và gia nhập đội hình bay, liếc nhìn bảng phi cụ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó không bơm đẩy xăng cho ông.
Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về tầu được. Trung tá O’Hare báo với Phi ĐoànTrưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình của phi đoàn và quay trở lại hàng không mẫu hạm.
Trên đường về tầu, bỗng nhiên, trung tá O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: dưới thấp xa xa trước mặt ông là nguyên một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tìến về hải đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhìệm vụ và hải đội không còn ai bảo vệ cả. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không còn thời gian để báo với hải đội những nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi phá tan và chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.
Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình đoàn oanh tạc cơ Nhật, với bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh đỏ rực, ông tấn công tới tấp bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hải đội Hoa kỳ.
Cuối cùng, đoàn phi cơ Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo lại sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng hùng hồn nhất.  Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.
Đó là ngày 20 tháng 2 năm 1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ.
Năm 1943, trung tá O’Hare  tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường của thành phố Chicago , quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare. Dịp nào đó nếu dừng chân tại phi trường O’Hare, xin hãy đi thăm khu kỷ niệm O’Hare, nhìn tận mắt Huân Chương Danh Dự đã gắn lên ngực áo của ông. Khu lưu niệm này nằm giữa Terminal 1 và Terminal 2.

Chuyện thứ hai

Hơn mười lăm năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Easy Eddie. Trong thời gian này, Trùm tội ác Al Capone hầu như làm chủ thành phố. Capone nổi tiếng không do các hành động anh hùng mà vì các việc làm bóc lột, tàn nhẫn và hung ác. Thành phố Chicago , qua Capone, tràn ngập những nơi bán rượu lậu, các động mãi dâm và các vụ giết người không gớm tay.
Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi. Việc rành rẽ và biết lợi dụng các kẽ hở pháp luật của Eddie đã giúp Capone nhởn nhơ ngoài vòng tù tội. Để tỏ lòng biết ơn, Capone trả công Eddie rất hậu. Không chỉ về tiền bạc mà còn chu cấp về tài sản nữa. Chẳng hạn như gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, kín cổng cao tường và thừa mứa các tiện nghi của lúc đó với kẻ hầu người hạ ngay trong nhà. Lâu đài này lớn đến độ chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago
Dĩ nhiên với cuộc sống giầu có quyền thế của kẻ đương thời, làm sao Eddie có thể nhận và hiểu được những khốn cùng của xã hội chung quanh.
Như mọi người, Eddie có một yếu điểm. Có một con trai và Eddie thương con vô cùng. Cậu bé có đủ thứ ở trên cõi đời, toàn những loại thượng hảo hạng: quần áo, xe cộ ngay cả trường học nồi tiếng vì giá cả tiền bạc không thành vấn đề, không gì có thể  ngăn cản được. Mặc dù liên hệ chặt chẽ và chìm ngập trong tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dậy con thế nào là phải và trái.
Vâng, Eddie đã cố dậy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽ  là người tốt.. Cho dù giầu có và quyền thế xiết bao nhưng vẫn có hai thứ Eddie không thể cho con được, hai thứ mà chính Eddie đã chót bán cho Capone: làm gương và để lại cho con niềm danh dự.
Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định việc để lại danh dự cho con cần thiết, quan trọng và có ý nghĩa hơn là cho con cuộc sống giầu có với những đồng tiền  từ máu và nước mắt của người khác. Phải thay đổi hoàn toàn những việc làm lầm lỡ trước kia, phải báo với chính quyền những sự thật vế Al Capone. Eddie cố gắng rửa sạch những nhơ nhớp trên cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.
Để hoàn tất mọi chuyện, Eddie phải ra trước toà làm nhân chứng chống lại ông Trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Hơn tất cả mọi chuyện trên đời, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gưong và niềm danh dự.
Eddie ra trước toà làm nhân chứng, Trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago . Eddie đã để lại cho con trai một món quà lớn nhất trên thế gian này, mua bằng giá cao nhất là sinh mạng của chính mình.
Hai câu chuyện này có liên hệ gì với nhau ? Trung tá phi công Hải Quân Butch O’Hare là con trai của Easy Eddie.
Ước mong bạn cũng ngậm ngùi và cảm động như tôi khi đọc những giòng này.

Back to top
« Last Edit: 28. Jul 2010 , 22:31 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3620
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #126 - 06. Aug 2010 , 21:41
 
Đời  nổi,  hoa  trôi

            Tâm  Thanh -  Na Uy

Căn cứ không quân Banak trong một ngày hè uể oải. Dưới nắng chói chang, đường bay trải dài loang loáng như có ai khéo tạt một vũng nước vuông vức ra tận vịnh Porsangen. Ba dãy trại sơn trắng, ghép thành hình chữ U nằm buồn như chợ chiều. Cái hăng-ga khổng lồ đóng cửa im ỉm. Tôi ngồi "gác kiểng" trên đài quan sát, mường tượng cảnh những chiếc máy bay F-16, F-5 tấp nập lên xuống hồi Nato còn đóng ở đây. Bây giờ chỉ còn đàn hải âu lười biếng lượn trên bầu trời trong. Giá tôi có thể thả cho đời trôi như thế. Tiếng chuông điện thoại reo. Tôi hấp tấp bắt máy:

- Ðài quan sát, phi trường Banak, tôi nghe đây ạ.

- Thân đấy hả? Nghe đây: Có một người Việt Nam, đang ở phòng cảnh sát Tana, không biết một chữ Na Uy. Họ cần người dịch. Cậu có muốn giúp họ không?

Tôi nói như trẻ con xí đồ chơi:

- Dạ, muốn chứ, thiếu tá.

- "Muốn chứ"- ông thiếu tá có tật nhái lời, lúc mới nhập trại tôi cứ tưởng ông kỳ thị, rồi tiếp -Nửa giờ nữa có người lên gác thế, anh xuống văn phòng gặp tôi. Có trực thăng tới đón.

Bỏ điện thoại xuống, tôi mới bắt đầu tự hỏi: tại sao lại có người Việt nào lạc loài lên miền địa đầu giới tuyến này? Tưởng chỉ có mình tôi điên. Chắc là một du khách người Việt đi coi mặt trời đêm, quên đường về? Hay là một người từ Nga nhảy rào xin tị nạn chính trị? Ôi! Nếu là một vụ tị nạn thì thật hấp dẫn. Tôi nhìn cây kim đồng hồ treo dưới chân dung quốc vương Harald và hoàng hậu Sonja nhích đi chậm chạp.

Tôi thay đồ dân sự xong lên trình diện. Ông thiếu tá thấy vẻ hăng hái khác thường của tôi, tò mò hỏi:

- Tại sao anh - tay tổ làm biếng - lại sáng mắt lên nhận việc này?

- Lâu quá tôi không được gặp người đồng hương.

Vâng, tôi đang phục vụ ở một nơi hẻo lánh cỡ như Lạng Sơn của Việt Nam, nhưng trong vòng 1000 cây số hình như chỉ có một người Việt. Và lý do tôi vận động đi quân dịch, mặc dầu đã quá tuổi bắt buộc, là vì sau khi ra trường, tôi xin việc mấy chục chỗ không được, đâm buồn chán, trống rỗng, muốn đi thật xa một phen. Hơi quá xa.

Từ bãi trực thăng đi vào phố chỉ chừng 2 km. Tana là một xã nhỏ cực bắc của Na Uy, giáp giới Phần-lan, và là một trong những con đường chính từ Nga sang. Từ vài năm nay, mùa hè ở đây tràn ngập du khách, nhiều nhất là người Nga và Phần-lan. Người địa phương, phần đông là thổ dân Same, nghe nói cũng giòng giống Mông-cổ, nhưng so với dân Viking, không gần gũi với tôi gì hơn. Xe chở tôi chạy qua một khu chợ trời náo nhiệt. Sau ngày Liên bang Xô-viết sụp đổ, người Nga tuồn cả núi quân nhu, quân cụ ra bán. Nào là "mũ nơm gà" Hồng quân Liên xô, huân chương, áo giáp, ống dòm, la bàn, nào là quần áo nhà binh, tượng Lê-nin, Xít-ta-lin, bao cao-su... được bày la liệt trên lề đường, như một cuộc chiến vừa tàn. Ở vài góc đường, những cô gái Nga -rất dễ phân biệt với gái Na Uy nhờ nét mặt thanh tú, thân người thon nhỏ- ăn mặc phong phanh, mời mọc. Có lẽ đây là mấy cô mà bọn con trai trong trại thường to nhỏ, xuýt xoa mỗi lần đi phép về, và ông thiếu tá cũng đã cảnh cáo, nhưng vẫn không yên tâm, bắt cả trại thử máu thường xuyên.

Ty cảnh sát nằm sau nhà thờ. Người đón tôi là một ông trung sĩ cảnh sát, nhưng người điều tra lại là một cô sĩ quan xinh đẹp, tóc ngắn, da dẻ đỏ như đồng, chắc suốt mùa hè này chỉ tắm nắng. Cô tự giới thiệu là Marianne. Vào phòng thẩm vấn, tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng, không hiểu tại sao, khi thấy "đối tượng" thông dịch là một cô gái. Cô đang ngồi quay lưng về phía cửa ra vào, khi cô đứng lên, quay lại, tôi hoa cả mắt vì vẻ đẹp khác thường. Bị hớp hồn, tôi mở lời bằng một câu u mê:

- Cô người Việt?

Nàng cũng thẫn thờ:

- Anh người Việt?

Trong lúc chờ Marianne tìm thêm ghế, tôi nhìn trộm đôi môi hồng vừa thốt ra những âm hưởng Hà Nội ấm và sang, và nghĩ cái câu "Anh người Việt?" có thể dùng để chào nhau, thay cho câu "Bác xơi cơm chưa?" của miền bắc Việt Nam. Khi người nữ sĩ quan cảnh sát bắt đầu gài mẫu biên bản lấy cung vào máy đánh chữ, tôi hiểu đây không phải chỉ là vụ cớ mất bóp hay du khách lạc đường, và trong tâm trạng của một người chín tháng nay chưa thấy mặt người Việt Nam, tôi nghĩ bụng cô gái xinh đẹp này...oan, dẫu chưa biết sự cố liên quan tới việc gì. Người sĩ quan bắt đầu:

- Cô tên gì?

- Natasja Jakusjok.

Tôi không nghe kịp tên họ, phải chìa tờ giấy, xin cô gái viết. Trong lúc Marianne so mảnh giấy cô gái viết với tờ thông hành, tôi so nét mặt thuần túy Việt Nam với cái tên Nga Natasja, lòng đầy nghi hoặc. Marianne tiếp:

- Cô sang Na Uy làm gì?

- Du lịch.

- Từ bao giờ?

- Chiều thứ Sáu.

- Bằng phương tiện gì?

- Xe buýt.

- Khởi hành từ đâu?

- Murmansk.

- Ai mời cô sang Na Uy?

- Tôi tự sang.

- Không có ai từ Nga tự sang Na Uy được. Phải có người từ Na Uy mời, Lãnh Sự Quán của chúng tôi ở Murmansk mới cấp phép nhập cảnh.

- Tôi mà được mời?

Marianne tỏ vẻ nửa ngạc nhiên, nửa thất vọng. Tôi tự nhiên đâm thông minh hơn thường lệ một chút, dịch chữ "mời" thành "bảo lãnh", và nhắc lại câu hỏi. Quả nhiên người đồng hương hiểu ý, trả lời:

- Tôi không biết tên người bảo lãnh.

- Cái tên đó cô phải biết để viết đơn xin chiếu khán.

- Tôi không viết đơn.

Marianne như sắp chụp được con mồi:

- Ðó. Tôi muốn hỏi người nào viết đơn giùm và tổ chức chuyến đi cho cô?

- Tôi không biết. Tới phiên thì tôi mua vé xe. Người bán vé chỉ cho tôi đi xe nào, tôi lên xe đó.

Người nữ cảnh sát thất vọng, xoay mặt lại cái máy chữ từ nãy đến giờ nằm thất nghiệp, lùa tay vào mái tóc nâu. Tôi quay sang Natasja. Tia mắt tôi chạm phải bàn tay cô trắng nuột nà đặt trên đùi, tôi quay đi chỗ khác. Nhưng rồi trong lúc dịch tôi không thể tránh nhìn vào một trong hai người. Tôi nảy ra một so sánh: lúc mới gặp cô cảnh sát, tôi thấy cô đẹp như một nữ tài tử đóng trong các phim James Bond; lúc này ngồi cạnh cô gái Việt, cô trông như một nữ tì. Nhưng người "nữ tì" đã quay phắt lại, nghiêm nghị, dằn từng tiếng:

- Chúng tôi bắt được quả tang cô bán dâm.

Tôi hụt hẫng, bàn tay co giật, loại co giật mà tôi thường gặp khi rơi từ cơn chập chờn vào giấc ngủ sâu, hoặc như khi đi đường băng trơn với em gái, mà nó bị trượt. Tôi sượng sùng, dịch "bán dâm" thành "tiếp khách". Nhưng hai tiếng này cũng đủ như một tảng đá tròng vào cổ, cô gái Việt cúi đầu xuống. Ðầu tôi cúi theo. Một tiếng nhỏ, khàn đục bật ra từ khóe môi lợt lạt:

- Phải...

Cô thú nhận với người cảnh sát Na Uy, nhưng theo thói quen, cô quay sang người thông dịch tội nghiệp. Mắt cô mở lớn, trong vắt, van lơn. Lồng ngực tôi đòi lấy hơi để trút một tiếng thở dài, nhưng tôi cố nín, và càng khó chịu hơn. Và khoảng cách giữa tôi và người con gái đồng hương trở nên bồng bềnh như một mạn thuyền với một cánh bèo trên biển sóng, lúc xa, khi gần. Tôi không làm nghề thông dịch, nhưng hồi còn đi học, thỉnh thoảng tôi có đi dịch để kiếm tiền tiêu vặt. Trước khi được nhận làm, tôi phải học mấy giờ về luân lý chức nghiệp. Hình như tôi nhớ được đôi điều, và bây giờ tôi nhủ lòng mình "Ðây không phải việc của tôi". Cuối cùng cô gái "Natasja" tiếp:

- Nhưng... luật pháp Na Uy không cấm việc này... có phải không?

Phản ứng bớt buông xuôi của Natasja khiến tôi ngạc nhiên. Marianne nghe vậy, lại trở nên hăm hở:

- Ðúng. Luật pháp Na Uy không cấm việc mãi dâm, nhưng cấm hoạt động ma cô. Chúng tôi cần biết ai làm ma cô cho cô?

- Không ai làm ma cô cho tôi cả.

- Thôi. Xin hỏi câu khác: Cô vừa nói luật pháp Na Uy không cấm mãi dâm, mà cấm ma cô. Ai nói cho cô biết điều này vậy?

- Bạn bè.

Quanh đi quẩn lại, rõ ràng là cô cảnh sát chỉ muốn tóm cổ mấy thằng ma cô. Nhưng có gái giang hồ nào dám chỉ điểm ma cô của mình? Hồi nãy khi đi qua khu chị em ta, tôi cũng thấy những bộ dạng khả nghi, chẳng phải người địa phương, cũng chẳng phải du khách hay người thập phương tới buôn bán. Cảnh sát cũng dư biết như thế, có lúc gặp tên ma cô nhâng nháo quá, họ ngứa mắt, đã bắt thử, nhưng chẳng có chứng cớ, phải thả ra cho nó nhâng nháo thêm. Cơ hội duy nhất cho biện lý cuộc là lời khai của các cô gái giang hồ. Nhưng các cô ấy, nhất là cô gái lạc loài ngồi trước mặt tôi đây, làm sao dám nói? Tôi ngước lên nhìn Natasja, gặp đúng lúc cô cũng ngước lên nhìn tôi - trong đôi mắt sâu ấy, cô đang chới với. Marianne dòm lăm lăm vào tờ biên bản gài trên máy chữ như để moi ra câu hỏi mới. Cuối cùng cô ta chuyển đề tài:

- Cô có quốc tịch Nga, nhưng sanh tại Việt Nam?

- Vâng

- Cô lấy chồng Nga?

- Vâng.

Marianne ráng tỏ ra kiên nhẫn:

- Cô Natasja ạ, chúng tôi không bao giờ làm gì hại cô. Chúng tôi chỉ muốn biết tên và có bằng chứng truy tố bọn ma cô. Vậy cô cứ nói cho tôi biết ai đã đưa cô tới đây?

Natasja ngơ ngác:

- Ðưa tới đâu cơ?

Marianne nói muốn nghỉ giải lao mươi phút, trong khi đó tôi phải ra văn phòng làm thủ tục tính thù lao. Marianne gặp tôi ở phòng khách lúc tôi định lấy tách cà phê cho tôi và có lẽ một tách cho cô gái. Cô hỏi chuyện lính tráng của tôi, về người tị nạn Việt Nam ở Na Uy. Câu chuyện lan man sang việc, vào năm 93, cô tham gia chiến dịch vĩ đại chuẩn bị cho trường hợp một triệu người Nga tràn vào Na Uy tị nạn chính trị hoặc nạn đói. Một nhà báo nổi tiếng dí dỏm gọi chiến dịch đó là "cuộc chuẩn bị đón tiếp các công dân của Thiên Ðường đổ vỡ". Việc đó may không xảy ra, nhưng lại xảy ra một cuộc xâm thực dưới hình thức khác. Cô hỏi tôi có biết về các tệ nạn biên giới? Tôi nói có đọc loạt phóng sự của nhật báo Aftenposten và Verdens gang về việc người Nga sang đây buôn bán ma túy, rượu mạnh, quân nhu quân dụng, và mãi dâm. Tôi hỏi:

- Nghe nói có thể mua bất cứ thứ gì?

- Ðúng. Từ sau khi Liên Xô sụp đổ, người ta có thể mua mọi thứ, thứ dữ như bom nguyên tử, súng máy, xe tăng, tầu ngầm... Thứ hiền như đồ chơi. Ðồ chơi rẻ tiền có huân chương Anh hùng Liên-xô, huân chương Lê-nin, Anh hùng dân tộc, Anh hùng lao động. Và đồ chơi đắt tiền là các cô này.

- Bao nhiêu mà đắt?

- Từ 200 tới 500 kroner một đêm.

Tôi nghĩ tới Natasja. Theo cái giá mà văn chương Trung Hoa và Việt Nam đề ra, cô ta phải đáng "ngàn vàng" là ít. Tại sao xuống tới mức này?

- Giá đó tương đương với 2 tới 5 giờ làm việc của một người thợ Na Uy. Có gì mà gọi là đắt?

- Chỉ một cuối tuần các cô gái buôn hương kiếm được số tiền bằng lương một năm của một người thợ trung bình ở Nga.

- Vậy sao quý vị không để cho người ta kiếm ăn?

- Chúng tôi không muốn làm khó dễ các cô gái. Chỉ muốn trừ khử bọn ma cô.

- Nghĩa là nếu các cô ấy làm ăn độc lập thì được phép?

- Ðược.

- Cô thử hỏi cô gái tại sao không làm ăn độc lập?

- Cần gì hỏi. Tôi biết họ không thể nào làm ăn độc lập được. Người dân Nga tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Họ vừa thoát ách độc tài cộng sản, đã rơi vào nanh vuốt Mafia. Báo cáo của hội đồng an ninh kinh tế (NSR) cho biết 4/5 xí nghiệp Nga phải trả tiền bảo vệ cho Mafia. Ta không cần hỏi đồng hương của anh câu đó.

Marianne nhìn đồng hồ, ý muốn chấm dứt giờ giải lao, nhưng lại đứng thêm một lát hỏi về người Việt ở Nga. Tôi không biết gì ngoài những bài phóng sự về tình cảnh những người được chính quyền Việt Nam gởi đi nước ngoài lao động trả nợ chiến tranh, và công thức trả lương: một phần phát cho công nhân, một phần Nhà Nước Việt Nam "lấy thảo". Sau đó khi bức màn sắt sụp đổ, nhiều người ở lại phải xoay xở chật vật để sinh sống, kể cả việc phi pháp và mãi dâm. Và tới phiên người khác lấy thảo.

Tôi mang cà-phê vào cho Natasja, nhưng cô để nguội tanh không uống. Marianne tiếp tục lại cuộc thẩm vấn. Nhưng câu chuyện về sau biến thành một cuộc mạn đàm nhiều hơn. Sau cuộc thẩm vấn, Marianne tự động nói với tôi:

- Chắc anh muốn nói chuyện riêng với người đồng hương? Cứ ngồi đây mà nói. Anh không phải thông dịch viên chính thức, chúng tôi nhờ vả anh trong trường hợp đặc biệt, nên đền công đặc biệt. Nhân tiện, tôi nhờ anh nói cho cô ấy biết theo luật pháp Na Uy cô ấy không làm điều gì bậy cả. Cô ấy đẹp và hiền quá.

Tôi ngồi lại, không hiểu vì động lực nào - vì tò mò hay tội nghiệp, vì đây là một người con gái đẹp hay một đồng hương? Marianne đã khép cửa văn phòng lại. Bỗng nhiên tôi hoang mang, không biết tại sao ngày hôm nay, giờ này mình ngồi đây với một cô gái lạ. Tôi nghĩ có thể Natasja cũng có cảm giác đó, khi cô loay hoay sửa lại thế ngồi, rồi lại trở về thế cũ. Gò má cô từ từ ửng hồng. Cô mở lời rụt rè:

- Anh là người tị nạn ra đi từ miền Nam?

- Dạ.

- Nghe cách ăn nói đủ biết.

- Còn cô? Chắc từ Hà Nội?

- Vâng.

- Nghe giọng nói đủ biết.

Lần đầu tiên chúng tôi cùng cười nhẹ. Cô tiếp:

- Ở đây đông người Việt không?

- Chỉ có mình tôi đi quân dịch lên đây. Cách đây 500 cây số có một ông bác sĩ lên phục vụ để lấy thâm niên. Ngoài ra nhóm người Việt gần nhất ở cách đây chừng 1000 cây số.

Khi nêu những khoảng cách xa xăm, bỗng tôi cảm thấy cô gần lại một chút. Cô nói, do dự:

- Tôi... e..m tên Quỳnh Hương.

- Tên đẹp quá. Tôi tên Thân.

- Anh có trách em không?

- Tại sao lại trách?

- Em làm xấu hổ chung.

Tôi cảm thấy mình vụng về, không tìm được lời, chỉ biết nói:

- Cô cảnh sát nhắn tôi nói lại: Cô không làm điều gì bậy cả, theo luật pháp Na Uy. Cô ấy còn khen chưa thấy ai đẹp và hiền như cô.

“Chưa thấy ai” là ba chữ quá giang, nhưng thực tình không quá tải. Quỳnh Hương cảm động, nét mặt bớt căng thẳng. Nhưng giữa chúng tôi có cái gì thiếu tự nhiên, câu chuyện không hào hứng như tôi tưởng tượng lúc ngồi trên trực thăng đáp xuống Tana, và nhất là giây phút đầu tiên thấy mặt cô gái.

Vì lịch sự tôi vẫn cho cô địa chỉ và số điện thoại, dặn cần gì có thể liên lạc. Tôi ra ngoài móc hết tiền bạc trong túi - hình như dăm trăm - bỏ vào một phong bì, viết mấy chữ an ủi nhờ Marianne đưa cho cô gái.

Quỳnh Hương thất thểu theo một người nữ cảnh sát khác ra khỏi bót. Tôi đứng nhìn cô đi về phía nhà thờ, lủi thủi. Tôi tưởng tượng ra cô gái làng chơi Magdalena trong Thánh kinh trên đường đi tìm Chúa Giêsu để thú tội.

Nhưng cô có tội tình gì? Câu hỏi thành hình từ khi tôi ngồi lên trực thăng, và nó cứ lớn dần từng ngày khi tôi trở về trại. Tôi càng mong đợi càng bặt tin Quỳnh Hương. Tôi đinh ninh thể nào cô về cũng viết thư ngay cho tôi để cám ơn nghĩa cử, để tôi có thể nói những lời tốt đẹp, kể cả lời hứa giúp đỡ. Tôi còn tưởng tượng ra câu chuyện về một chàng thanh niên hào hoa, đóng ở "tiền đồn heo hút", tình cờ gặp một cô gái giang hồ và cảm hóa được nàng đi tu thành ma sơ thánh thiện. Không ngờ một tuần, hai tuần, rồi một tháng trôi qua, không có tin cô. Rõ ràng cô đã nhét địa chỉ tôi cho vào bóp. Ngoài ra, trên phong bì tiền tôi cũng quen tay ghi tên và địa chỉ một lần nữa.

Chờ đợi, băn khoăn, cuối cùng là hối hận. Tôi đã quá lạnh lùng, đã thay đổi thái độ quá nhanh sau khi biết cô là gái giang hồ. Tất cả chỉ xảy ra trong lòng tôi, nhưng tránh sao cô chẳng linh cảm được. Nét mặt thông minh ấy. Vì trịch thượng ngầm, tôi không nghĩ tới việc xin địa chỉ cô.

Năm tuần sau, tôi nhận được lá thư đóng dấu bưu chính Murmansk. Tôi mừng như được thư người tình, leo lên tháp canh đọc cho... thấm. Nhưng đọc thư xong tôi vô cùng thất vọng. Nét chữ xấu xí quê mùa, lời lẽ tình nghĩa kệch cỡm, nghe rợn tóc gáy. "Chủ đề" của thư đương nhiên là xin gởi tiền (bằng tiền Norway) về địa chỉ v.v… Tôi nổi giận, xé lá thư vất vào sọt rác. Không thể ngờ được bộ mặt xinh đẹp như thế lại mang tâm hồn bần tiện như vậy. Dù cố thử biện hộ cho cô gái bằng lý luận "cái khó bó cái khôn", tôi vẫn chán ghét cô gái, ê chề tình đời, tôi chán ghét cái vùng đất mất hết tình người. Ðau nhất là con người lãng mạn của tôi bị quê nặng quá.

Hết phiên gác, việc đầu tiên là tôi về phòng để hủy cái dấu vết cuối cùng về cô gái bất xứng - miếng giấy viết hai chữ Natasja Jakusjok. Ðó là miếng giấy mà cô gái viết tên trong bót cảnh sát, đi Tana về tôi gắn trước bàn viết để kỷ niệm một buổi gặp gỡ... hay hay. Nhưng khi gỡ miếng giấy, cầm trên tay, tôi bỗng giật mình - nét chữ này thanh tao, nhuyễn mềm, khác xa một trời một vực với nét chữ thô lậu, tục tằn trong thư tôi vừa xé. Tôi tức tốc chạy lên đài quan sát, lục lại lá thư. Chẳng cần so lại tuồng chữ, tôi cũng biết thư này không phải do Quỳnh Hương viết. Tôi "sang" hết mấy lời xỉ vả hồi nãy cho bọn bất lương, và nôn nả bắt tay vào việc tìm tung tích Quỳnh Hương.

Sau buổi thông dịch, tôi thỉnh thoảng có điện thoại cho cô cảnh sát Marianne, vừa để tán gẫu chơi, vừa thăm dò xem "ngựa có về đường cũ không". Bây giờ muốn biết địa chỉ thật của Quỳnh Hương tôi chỉ việc hỏi Marianne. Nhưng tôi không được phép làm như vậy. Tôi thử làm điệp viên si tình một phen. Một mặt tôi ra ngân hàng gởi 300 kroner cho bọn làm tiền, tất nhiên dưới tên Natasja Jakusjok. Na Uy đang mở rộng việc làm ăn với Nga, để biến đổi bán đảo láng giềng Kola thành một vùng bớt nghèo đói và ô nhiễm, nên có rất nhiều hãng xưởng và ngân hàng Na Uy mọc lên hai bên đại lộ Lê-nin. Tôi chọn gởi tiền qua ngân hàng Kirkenes, vì nó nằm đối diện với một khách sạn. Gởi tiền đi hôm trước, hôm sau tôi đáp xe đò đi Murmansk và thuê khách sạn đó, phòng có cửa sổ quay ra mặt đường. May mắn quá mong đợi, ngày rình chực thứ ba tôi đã thấy bóng Quỳnh Hương ra ngân hàng. Tôi không cần ngụy trang nhiều, chỉ cần cái quần soọc, cái mũ lưỡi trai, và cái máy Nikon là ra dáng một anh triệu phú Nhật Bổn rồi. Phải thêm cái kính mát to để che mặt.

Vào ngân hàng tôi đứng xa xa, thấy Quỳnh Hương đang xếp hàng quay lưng lại, tôi cẩn thận không lộ diện, nhỡ có tên cô hồn nào đi kềm nàng không. Khi nàng lãnh tiền xong quay ra, tôi đau nhói tim thấy mặt nàng tiều tụy, và có vết bầm xanh. Một tên đàn ông mặt mũi bất lương ở đâu sán lại kè nàng, chưa ra khỏi cửa, nó đã giằng lấy tiền, chửi thề "Ð.M. có mấy đồng ranh mà nàm nhọc xác ông". Quỳnh Hương cúi đầu, không trả lời. Tôi lén theo dõi hai người, nhưng tới ngã tư thì họ lên một chiếc xe hơi do người thứ ba lái chạy mất tăm, tôi đón taxi không kịp.

Tôi thất vọng trở về Na Uy, viết thư làm bộ nói nhớ thương Natasja và mong gặp nàng, bóng gió cho biết sang Na Uy sẽ dễ dàng mang tiền về hơn. Nàng sang thật. Vết bầm trên mặt đã biến mất, nhưng vẫn còn tiều tụy. Tôi đưa nàng thẳng vào một khách sạn đàng hoàng cho nàng nghỉ ngơi. Chúng tôi ăn ngay trong khách sạn. Nàng ngạc nhiên vô cùng khi tôi nói tôi biết hết trò giả mạo thư và làm tiền của bọn vô lại. Nhưng tôi thắc mắc:

- Tại sao chúng biết cô có liên lạc với tôi?

- Em vừa từ biên giới về, chúng nó lục lọi khám xét ngay, và tất nhiên thấy phong bì tiền của Anh cho, địa chỉ nằm đó. Chúng bắt em viết thư vòi tiền, em không làm, chúng đánh đập, bắt trở lại đứng đường. Em xin làm mọi việc trâu ngựa để hầu hạ cả bọn miễn đừng bắt em làm việc đó. Chúng chấp thuận nhưng vẫn giả mạo thư tống tiền Anh. Em xấu hổ quá.

Tôi hỏi một câu mà định hỏi mấy lần nhưng chưa có dịp:

- Cô sang Nga theo diện nào?

- Nghiên cứu sinh. Nghiên cứu sinh sử học.

Tôi kinh ngạc:

- Nhà nước Việt Nam gởi đi?

- Vâng.

Tôi nhớ lại việc thông dịch, hỏi:

- Sao cô không nói tiếng Nga, dễ kiếm người thông dịch ngay tại đây?

- Em muốn giấu tông tích. Chẳng may...

Tôi hơi phật ý về hai chữ "chẳng may", nhưng không tỏ ra, hỏi tiếp:

- Cô... xong tiến sĩ chưa?

- Thưa, rồi ạ.

- Vậy cô chỉ việc trở về phục vụ đất nước.

- Trễ rồi.

- Sao vậy?

Quỳnh Hương hít hơi thật sâu, như để đè nén cái gì, cuối cùng nói nhẫn nại:

- Truyện dài lắm. Em chỉ vắn tắt thế này: Khi em đang chuẩn bị về nước, thì bố em bay sang nói bất cứ giá nào đừng về.

- Tại sao vậy? Ở Việt Nam bây giờ thay đổi khá lắm, và bắt đầu đãi ngộ những người có trình độ.

- Lợi dụng thì có, đãi ngộ không.

Chúng tôi ra ban-công. Nắng đêm quyện vào gió bắc cực lùa vào mặt mát rượi. Tóc Quỳnh Hương thơm. Tôi hỏi:

- Ngoài ra bố cô nêu lý do gì để khuyên cô đừng về nước?

Nàng nhìn con hải âu đậu một mình trên cột đèn, đáp:

- Là lý luận gia lâu năm của Ðảng, khi thấy bức tường Bá Linh rạn nứt và thiên đàng Liên Xô sắp bốc lửa, Bố em dự kiến Ðảng cộng sản Việt Nam sẽ biến từ một tổ chức cách mạng thành một guồng máy tư bản.

- Vậy càng tốt chứ sao?

- Anh không hiểu đâu, cũng như em hồi đó không hiểu. Vì thế Bố phải đích thân bay sang. Gặp Bố em vừa mừng vừa ngạc nhiên hết sức, nhưng run sợ khi ông nói nước Việt Nam sẽ không còn là nơi dung thân của con người nữa.

- Sao vậy?

- Bố hỏi em "Chị xem - cái thiên đàng kiểu mẫu mà sắp sụp đổ nay mai, thì cái thiên đàng mô phỏng sẽ ra sao?" Em không trả lời, ông nói "Các ông ấy là những kiến trúc sư chuyên vẽ thiên đàng. Kiểu này đổ vẽ kiểu khác. Mà mỗi lần đổ, mỗi lần đổi kiểu là hàng vạn người chết vì cột kèo đè."... Bố em về, tự vẫn chết, để họ không còn gây sức ép với em được, trước khi bị cột kèo đè.

Nghe đến đây, tôi lạnh toát xương sống, khô cổ họng. Cột đèn đằng trước, con hải âu đã bay đi, còn cái tay đèn đua ra, như chờ một sợi dây thòng lọng. Mãi lâu sau tôi mới thốt lên được câu gần như vô nghĩa:

- Khủng khiếp quá!

Quỳnh Hương mím môi để khỏi bật ra tiếng khóc, nhưng giọng ướt lệ:

- Người ở ngoài không hiểu nổi sự khủng khiếp tới mức nào đâu. Người trong cuộc, đa số khi hiểu thì trễ quá rồi.

Vai tôi chờ một mái đầu tựa vào. Nhưng tôi phải làm như tỉnh táo, hỏi:

- Với cô, có quá trễ chưa?

- Em không biết. Nhưng để em kể em đã sa xuống chỗ nào. Lúc đầu em may mắn trên con đường tị nạn. Ông giáo sư đỡ đầu cho em ly dị vợ để cưới em. Anh đừng trách em. Vì ông ta li dị xong mới cho em biết đã có vợ và mới li dị. Ở Nga, li dị là chuyện cơm bữa, cũng như chuyện trai gái chung chạ. 30% các cặp vợ chồng li dị. Việc làm tình hổ lốn trở thành phổ thông là vì tình trạng ăn chung ở chạ, nhà cửa chật chội. Chồng em là một tên ghiền rượu, đánh đập em mãi, em vẫn chịu đựng được. Nhưng hai ba lần em bị anh họ chồng, em chồng, rồi cả bố chồng cưỡng hiếp, thì anh bảo sao em chịu được? Em phải ra đi, và sa vào tay Mafia.

Tôi lại ớn lạnh. Không phải vì gió đêm. Mà vì nhớ chúng tôi đang ở gần biên giới. Tôi dìu Quỳnh Hương vào trong. Ðóng cửa sổ lại. Chúng tôi im lặng uống một thứ rượu kem gì đó khá ngon. Tôi quyết định ngày mai ra lãnh sự quán bí mật làm giấy bảo lãnh hẳn cho Quỳnh Hương sang Na Uy. Ðiều làm tôi do dự là cái giấy hôn thú. Trước khi về phòng riêng, tôi đắp mền cho Quỳnh Hương như một đứa em gái và nói:

- Ngủ ngon. Ðừng mộng mị gì cả, dù thiên đường.

Quỳnh Hương sang chơi Na Uy lần kế tiếp vào ngày lễ Sankthans, ngày dài nhất, đúng hơn, không có đêm. Nàng từ xe buýt Murmansk bước xuống, ăn mặc đơn giản, càng xinh đẹp hơn. Nàng tha thướt đi giữa những huân chương và mũ áo Hồng quân bên vệ đường, tàn tích của một thiên đường vừa đổ vỡ, diễm lệ như một nàng tiên, tôi đặt tên cho nàng là "Trích Tiên". Khi tôi nói ra, nàng cười tươi, chấp nhận. Từ đó cuối tuần nào nàng cũng qua. Thường tôi đưa nàng về căn chòi thuê của xã ở sườn núi trông ra biển, rất thơ mộng. Từ mùa thu không còn mặt trời giữa đêm nữa, nhưng rừng thu biến thành những tảng màu đỏ, vàng tuyệt diệu. Vài cánh buồm trắng nhẹ trôi trên mặt nước xanh lộng bóng núi. Ban đêm trời trong, trăng sao vằng vặc chiếu xuống vịnh bao la. Chúng tôi ngồi bên nhau ngoài hiên nói chuyện tới khi sương ngập thềm. Tôi gọi căn chòi này là "Ðộng Tiên", muốn vĩnh viễn ở lại không về trần gian. Nàng "trích tiên" thỉnh thoảng lại khóc làm tôi lo lắng. Nhưng nàng nói:

- Xin lỗi Anh, em khóc chỉ vì quá hạnh phúc.

Tôi uống những giọt hạnh phúc này từ mắt nàng, và nói:

- Ðây là nước mắt hạnh phúc. Nhưng nước mắt đau khổ của Em, anh cũng xin uống.

Chúng tôi chỉ ước có phép mầu cho thời gian và không gian ngừng ở đây. Lạ lùng là những lúc tôi gần gũi Quỳnh Hương trên chòi nghỉ mát, tôi chỉ say sưa nhìn ngắm, lắng nghe, ngửi hương nàng, không xàm xỡ. Tôi sống sự hiện diện nàng. Sự sống nồng nàn, ngây ngất mà thanh khiết. Tạo hóa đã khắc cho nàng một chân dung kỳ diệu - từng nét thì đối chỏi mà toàn thể thì hài hòa. Các nhà giải phẫu thẩm mỹ không bao giờ làm được như vậy. Chỉ có Nhà Ðiêu khắc tối cao, thừa thương yêu và tinh quái mới nắn nên khuôn mặt và thân thể Quỳnh Hương - để tặng riêng tôi, cho riêng mỹ cảm mà Ngài tạo cho tôi. Và Ngài gởi tặng phẩm tới cho tôi qua con đường sầu thảm quá. Con đường các phép lạ thường đi.

Khốn nạn thân tôi (tiếng Bắc của Quỳnh Hương), nỗi đam mê lành thánh kia, tôi chỉ giữ được khi có sự hiện diện của nàng. Khi nàng qua lãnh thổ Nga, tôi trở về trại Banak, thì xác thịt tôi giằn vặt, réo gọi. Tôi quằn quại trong giường lính độc thân, thèm khát thân hình nuột nà cô gái giang hồ Natasja. Xác thịt tôi trách móc tôi đã dại dột bỏ qua cơ hội nọ, cơ hội kia trên Ðộng Tiên. Cho tới khi tôi ngủ thiếp đi. Có vài lần trong mơ... Nhưng thường trong mơ tôi thấy nàng Trích Tiên mặc áo dài trắng tinh khiết trổi lên từ giòng nước trong xanh vẫy gọi tôi. Phải chờ tới buổi sáng, khi mặt trời mọc, rọi sáng vào những góc tăm tối trong tâm hồn, tôi mới thực tỉnh táo, và hãnh diện cuối tuần trước đã giữ mình đứng ngoài cái giòng đục lềnh bềnh những xác bố chồng, xác anh, xác em chồng nàng, và những thiên đường mà nàng đang vùng vẫy thoát ra. Ðúng hơn, chúng đẩy nàng ra như một vật lạ trong cơ thể.

Chỉ có một lần tôi táo bạo, lần đi thăm Nordkapp. Nordkapp hay "Mũi Bắc" nằm trên vĩ độ cao nhất nước, có lẽ là kỳ quan Na Uy thu hút nhiều du khách nhất. Mỗi năm, hàng vạn người từ khắp thế giới, nhất là Nhật, Ðức, Mỹ mua vé máy bay lên đây, chỉ để coi mặt trời đêm. Lúc tôi đưa Quỳnh Hương đi thăm Mũi Bắc, trời đã sang đông, không còn du khách nào nữa, cũng không còn mặt trời đêm. Tôi nắm tay Quỳnh Hương đứng trên ghềnh đá vách dựng đứng. Nước biển vẫn thăm thẳm. Gió lạnh buốt. Nhưng chúng tôi càng thích thú. Bỗng nhiên, mây trên trời biến thành màu xanh như lân tinh, và quay tít như đèn kéo quân, hào quang lấp lánh rực rỡ, những luồng điện nổ tí tách trong mây như hàng ngàn tràng pháo chuột ngày Tết. Quỳnh Hương kinh sợ nhưng lại reo vui vì có tôi bên cạnh. Tôi giải thích:

- Ðó là nordlys (bắc quang). Hiện tượng huy hoàng này không phải lúc nào cũng xảy ra. Hôm nay nó xảy ra đúng lúc Em tới đây. Ðó là dấu hiệu Trời cũng muốn chào đón Em đó.

Quỳnh Hương tựa lưng vào ngực tôi. Giọng nàng mật ngọt:

- Còn Anh, Anh cho em dấu hiệu gì?

Cầm lòng chẳng đậu, tôi xoay người nàng lại, và hôn vào đôi môi nồng nàn. Ðó là lần đầu tôi hôn một người con gái. Trên mỏm đá lịch sử Nordkapp, dưới ánh bắc quang.

Chỉ còn một tháng nữa là Tết ta. Thu An gọi điện thoại nhắc thế nào tôi cũng phải xin về phép cho kịp ngày cúng Giao Thừa. Thay vì nói trong điện thoại, sợ không đủ mạch lạc và không đối đáp được con em lí lắt, tôi viết cho nó một thư dài 6 trang trình bày ý định mời Quỳnh Hương về Oslo ăn Tết. Tất nhiên trong thư tôi dấu một số chi tiết về thảm cảnh của Quỳnh Hương, nhưng tên "Trích Tiên" thì không thể không khoe. May quá con bé chấp thuận liền, còn hào hứng chuẩn bị đón "chị dâu". Tôi nói tuyệt đối nó không được... lạc quan.

Gia đình chúng tôi đã nhận bao nhiêu tai họa bất ngờ, đúng trong những lúc tưởng là hạnh phước nhất. Tết Mậu Thân Ông Nội đang công tác ngoài Huế bị cộng sản Bắc Việt bắt đi chôn sống, đúng lúc ông được điện tín về mà coi mặt và đặt tên cho cháu đích tôn là tôi; Bà Nội đi bốc xác Ông, về phát điên rồi mất. Năm 75 con Thu An vừa sanh ra, để trong cái biệt thự thơ mộng Ba Má mới mua ở Chí Hòa mấy năm sau "có một tiểu thư ra vào", thì cộng sản tràn vào "giải phóng"hoado Ba đi tù, Má bị sa thải. Ba trốn học tập về, đúng lúc Má đặt được chỗ vượt biên chính thức, tưởng vĩnh viễn thoát khỏi cái thế giới điêu ngoa, hận thù, gian manh, thì tầu do tỉnh ủy Ðồng Nai đóng bị vỡ, Ba Má chết đuối.

Từ đó, cứ thấy bóng dáng hạnh phúc là tôi giật mình. Lần này, với Quỳnh Hương, tôi lại lăn xả vào, không phải như con thiêu thân nhào vào lửa nhan sắc, mà như muối gặp biển mặn. Nàng là hiện thân của tôi - phần nước mắt, và cả gia đình, dân tộc tôi, phần ước mơ và bất hạnh. Tôi đón nhận hết. Một lần, trong Trích Tiên.

Tôi thu xếp cho Quỳnh Hương sang đúng dịp tôi và Thu An nghỉ phép mùa đông. Và để tránh mọi dị nghị, tôi trình bày nội vụ với ông thiếu tá, và nhờ ông trình ông đại tá luôn. Ông dễ thương tặng Quỳnh Hương cái vé máy bay. Thu An bày đặt mang hoa ra phi trường Fornebu đón khách. Vừa giáp mặt Quỳnh Hương, nó đã reo ầm lên:

- Eo ơi! Chị Quỳnh Hương đẹp dễ sợ.

Quỳnh Hương bật cười vì những từ ngữ kỳ cục của con bé, cảm động nhận hoa. Tôi giới thiệu với khách:

- Ðây là đứa em gái thua tôi tới sáu tuổi, nhưng từ ngày chúng tôi mồ côi, nó nhảy tót lên ngôi chị hai, "kềm kẹp" tôi từ miếng cơm tới manh áo.

Thu An cong cớn:

- Từ nay em không thèm kềm kẹp nữa, em sắp bàn giao chủ quyền Trường Sa cho người khác.

Quỳnh Hương chỉ biết đỏ mặt. Tôi huých Thu An một cái làm nó chạy giạt sang bên kia, núp bóng Quỳnh Hương.

- Ê ê! Từ nay có chị Quỳnh Hương che chở, anh Hai không được ăn hiếp em nữa.

Thu An vừa lái xe vừa giới thiệu thành phố cho khách. Chị em nói chuyện líu lo. Tôi ngồi băng sau, nhắm mắt nghe giọng Hà Nội và giọng Sài Gòn quấn quít. Quỳnh Hương như thơ trẻ lại. Tôi ngả người tận hưởng hạnh phúc của một gia đình, lần đầu tiên sau 15 năm cô độc, lạc lõng nơi xứ người. Ðêm giao thừa, cúng vái, ăn cơm xong, Quỳnh Hương dọn trà mứt, Thu An bưng ra một cái bánh bông bơ, thắp 30 ngọn nến. Quỳnh Hương trầm trồ:

- Người Việt tại Na Uy có tục lệ riêng để đón xuân? Ðẹp quá!

Thu An trả lời:

- Không phải đâu, chị. Năm nào chúng em cũng ăn Tết, đồng thời mừng ngày sanh anh Hai. Nhưng năm nay đặc biệt hơn, vì năm nay anh Hai "tam thập nhi lập".

Quỳnh Hương hiểu ngay:

- Thế tức là Anh sinh năm 1968?

Tôi nói:

- Ðúng, năm Mậu Thân.

Thu An hớt:

- Vì thế Ba Má mới đặt tên ảnh là Thân. Ba Má nói "Thân" đây có hai nghĩa là "yêu mến", "thân thiện" chứ không phải "con khỉ". Nhưng em thấy ảnh "mậu thân" với em lắm. Từ nay ảnh "mậu thân" là ảnh chết.

Quỳnh Hương cười ngặt nghẹo. Chưa bao giờ nàng cười nhiều như vậy. Tôi nói:

- Năm đó con khỉ con này chưa sinh ra, sao bây giờ khoọc khẹc dữ vậy?

- Chính anh Hai nghe lóm Ba Má kể rồi khoe với em hết chứ bộ. Cũng như Anh, năm Mậu Thân đâu có biết gì về chuyện Ông Bà Nội, bây giờ cũng kể vanh vách.

- Chuyện gì vậy?

Quỳnh Hương hỏi. Tôi chần chờ. Thu An lần lượt kể về những thảm cảnh gia đình. Thảm cảnh nào nó không trực tiếp trải qua, nó kể lể rành mạch như chuyện cổ tích; đến thảm cảnh Ba bị công an vào nhà còng tay Ba lần thứ hai, cảnh đắm tầu thì nó kể lộn xộn như cơn ác mộng. Cuối cùng tôi kết luận một câu mà trong những dịp thiêng liêng thường nói với em gái, như bổn phận nhắc lại một gia qui đơn giản, Quỳnh Hương là người dưng đầu tiên nghe:

- Ba Má chỉ dạy chúng tôi một điều: lòng trắc ẩn.

Một làn khói hương từ trên bàn thờ bay là đà xuống đầu Quỳnh Hương. Nàng lên tiếng:

- Hai Bác thật là nhân hậu, từ những khủng khiếp của năm Mậu Thân và bao năm sau đó, chỉ rút ra chữ "Thân" đặt tên cho con trai và hai chữ "Trắc ẩn" khắc trong lòng hai con.

Không muốn hai người con gái thấy ngấn nước trong mắt tôi, tôi bèn đứng lên thắp thêm nhang trên bàn thờ ông bà. Nghĩ tới "Trích Tiên" và mấy chục triệu người đáng thương xót ở ngàn dậm xa, tôi khấn thầm: "Lạy Trời Phật! Hai chữ trắc ẩn Ba Má khắc trong lòng chúng con, cũng là lẽ sống bàng bạc trong lòng Trời Ðất. Xin Trời Ðất nhỏ xuống lòng mọi người ở bên kia một giọt trắc ẩn. Riêng tình yêu của con dành cho Quỳnh Hương, đã khởi đầu do lòng trắc ẩn, nhưng bây giờ kết thúc là tình yêu. Xin Trời Phật, Ba Má chứng kiến và chúc phúc cho chúng con".

Im lặng một lúc, Thu An hỏi:

- Anh Hai vừa ăn mảnh, lén xin Ba Má thêm cái gì, phải không?

Tôi nửa đùa nửa thật:

- Anh không xin xỏ gì cả, chỉ hỏi ý kiến thôi. Ba tháng nữa anh Hai hết thời hạn quân dịch, và có quyền bảo lãnh một người ngoại quốc sang Na Uy. Anh hỏi Ba Má muốn con dâu là một người trần hay tiên.

Quỳnh Hương mắc cỡ gục mặt xuống, trong khi Thu An nhảy lại ôm vai nàng, reo:

- Em thay mặt Ba Má trả lời: Tiên. Trích Tiên!

Nhưng còn Quỳnh Hương, nàng có ưng thuận vào trong cái mà tôi cho là "thiên đường" của chúng tôi không? Một con người suốt đời bị số phận đẩy đưa và người khác định đoạt, lần này quyết định phải thuộc quyền nàng. Vì thế lúc bạn đọc tới giòng này, tôi vẫn đang ở trong giây phút thiên thu chờ đợi nàng trả lời.


Tâm Thanh(NA UY)
Back to top
« Last Edit: 06. Aug 2010 , 21:43 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Hoa Hạ
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 1628
CA, USA
Gender: female
Ánh mắt
Reply #127 - 13. Sep 2010 , 00:25
 
Tôi và cô em gái đang háo hức thu xếp hành trang để làm một chuyến du lịch qua xứ Chùa Tháp thì chợt có tiếng chuông điện thoại reo. Tôi nói:

- Chắc là chị Ðiềm gọi. Ðể chị ra nói chuyện với chị ấy.

Nói xong tôi đứng dậy vươn vai vì nãy giờ ngồi lâu cũng thấy mỏi. Chị Ðiềm là chị cả của ông xã tôi. Chị về VN trước tôi 2 tuần. Chúng tôi đã hẹn nhau đi Campuchea chung, và nhờ đứa cháu chồng của chị ấy đặt vé giùm. Thuận, em gái tôi sẽ đi cùng với chúng tôi.

Nhưng người gọi điện thoại không phải là chị Ðiềm mà chính là ”Xếp” của tôi từ Na-Uy. Nghe tiếng tôi ở đầu dây, anh vui mừng nói:

- Hên quá, hôm nay lại từ bi ở nhà chứ không đi chơi rong à! Chừng nào thì em đi Campuchea?

- Ba ngày nữa mới đi, ngày mốt lên Sàigòn ngủ để sáng dậy đi cho sớm. Nhưng nhỏ Thuận nói phải sắp xếp đồ đạc từ bữa nay kẻo bị chụp rụp rồi quên nọ quên kia mất công.

- Nó nói đúng đó. Nhưng mà sáng mai lên Sàigòn đi, anh có chuyện cần nhờ.

- Nhờ gì nữa đây? Hảo nó hẹn em với Thuận trưa mai tới nhà nó ăn bún riêu cua đó.

- Thôi dẹp cái vụ bún riêu đi, bữa khác ăn. Thằng Hân nó nhờ em đi kiếm mấy người thương binh, em cho mượn tiền tặng cho họ mỗi người 5 chục. Thấy em không đủ thì giờ nên anh chỉ nhận 2 địa chỉ.

Anh Phạm Bá Hân là một người bạn học hồi xưa của nhà tôi. Anh ấy đang hoạt động trong một Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa nơi xứ Cờ Hoa. Tôi nổi tính tò mò:

- Mấy người đó là bạn của anh Hân hả anh?

- Không! Ðó là số tiền của Hội Thương Phế Binh tặng cho họ. Thằng Hân chỉ có nhiệm vụ chuyển giao số tiền đó đến tay họ thôi. Khi gặp em hãy nói với họ như vậy. Tên và địa chỉ người nhận anh viết trong email đó, mở ra đọc rồi kêu Hải in ra, đem đi để tìm cho dễ.

Việc gì chứ đi tìm gặp những người thương binh của những ngày tháng cũ thì tôi không thể, và cũng không muốn từ chối chút nào. Họ đã hy sinh một phần thân thể của mình trên một chiến trường cay đắng. Nghe ra thì có vẻ như sự hy sinh đó là vô ích khi cuối cùng rồi đất nước cũng rơi vào tay Cộng Sản. Nhưng những người dân sống yên bình trong thị thành, những người như tôi vào thời gian đó được cắp sách tới trường, được học hỏi thế nào là hai chữ Dân Chủ, sống một cuộc sống vô tư, hít thở không khí tự do thì phải nói là đã chịu ơn họ rất nhiều. Nhứt là một người con của một cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như tôi thì cảm giác gần gũi đó lại càng mãnh liệt hơn nữa. Vì thế, tôi nhận lời với một xúc cảm khó tả và trong lòng lan man một nỗi đau buồn.

Thế là sáng hôm sau, hai chị em dậy thật sớm để ra đón xe đò lên Sàigòn. Chúng tôi phải đi sớm vì lo lắng sợ không tìm ra nhà trước khi trời tối. Chúng tôi dự định đến nhà ông Bùi Phương trước vì ông ở quận Tân Bình, là nơi gần nhứt. Nhưng việc đầu tiên là phải vô Cư xá Ðô thành, mượn cái xe Honda của thằng cháu kêu tôi bằng dì ruột để dùng làm chân chạy. Tuy đã được trang bị khá kỹ lưỡng bằng một cái nón rộng vành, một cặp kiếng râm to che gần hết nửa khuôn mặt và cái khẩu trang bịt kín từ dưới mắt trở xuống coi giống xã hội đen hết sức, vậy mà tôi vẫn bị mùi khói xe làm nước mắt chảy ràn rụa và lợm giọng gần như muốn ói. Sàigòn bây giờ người đông nghìn nghịt, xe cộ chen chúc nhau nhả khói mù trời và ngoài tiếng động cơ rền rĩ thì hai người ngồi chung một xe cũng khó nghe nhau nói gì nếu không hét cho thiệt lớn.

Cuối cùng rồi chị em tôi cũng đến được quận Tân Bình. Tôi mừng quá sức! Cứ nghĩ là sẽ tìm ra nhà tới nơi. Nhưng tôi đã lầm! Tới được Tân Bình là chuyện nhỏ, còn kiếm cho ra nhà mới là chuyện lớn! Cô em gái tôi đã qua mấy năm học đại học ở Sàigòn nên khá rành rẽ về đường đi nước bước. Cô ta nói vanh vách những tên đường ngày xưa bây giờ bị đổi lại thành đường gì. Vậy mà cứ loanh quanh luẩn quẩn kiếm hoài không ra. Cho chắc ăn, chúng tôi tìm mấy ông xe ôm đang ngồi chờ khách để hỏi. Họ cũng trả lời giống y như em gái tôi đã biết: Con đường mà chúng tôi muốn kiếm nằm ở cạnh đường nào! Vậy thì tại sao lại kiếm không ra? Có khi chúng tôi đã tới đúng con đường rồi nhưng lại không tìm ra số nhà! Trời đã về chiều làm chúng tôi càng thêm bồn chồn.

Mãi tới khi đã đi tới cuối con đường hẻm bên cạnh có cùng một số nhà cho cả mấy chục căn kế tiếp nhau, nhưng có thêm dấu “xẹc”, tôi bỗng hiểu ra một “chân lý”! Ðó là biết đâu căn nhà của ông Bùi Phương cũng giống như những căn nhà kia, tức là thuộc loại “nhà mới cất” trong một khu hoàn toàn mới?! Nếu không tại sao lại đẻ ra những tên đường chỉ có những số “xẹc” như những căn nhà này? Ðể giải quyết vấn đề, tôi bèn tìm một người lái xe ôm, đưa cho ông ta địa chỉ nhà rồi đề nghị ông ta đi trước dẫn đường. Thì ra những căn nhà cũng mang tên đường Hiệp Nhất nhưng thuộc loại “xẹc” lại nằm bên hông một con đường khác, tuy không xa mấy nhưng coi chẳng có sự liên hệ nào với con đường Hiệp Nhất chính cả, nếu không có ông xe ôm, thổ công của vùng này, thì không biết chị em tôi tới khi nào mới tìm ra được nhà của ông Bùi Phương?

Cũng chính vì vậy, đã đứng trước cửa nhà, chúng tôi vẫn còn e dè không biết đây có thật là nơi mà chúng tôi đã mất biết bao nhiêu là thời giờ và mồ hôi để tìm cho ra hay không! Sau khi đã hỏi hai người hàng xóm cho chắc ăn, chúng tôi mới yên tâm gõ cửa. Nhưng cái cửa này nó lùng phùng, ọp ẹp chẳng ra cửa, cũng như căn nhà gọi là nhà cho sang thôi chứ thật ra nó chỉ là một cái chái của căn nhà chính có mang địa chỉ là một tên đường khác, được vây kín lại bằng những lá tôn cũ xì. Vào mùa nắng như thế này, cứ tưởng tượng ra cái nóng hầm hập được gói trong những lá tôn đó cũng đủ có cảm tưởng như bị nướng huống hồ sống từ ngày này qua ngày khác! Có lẽ vì tiếng ồn ào từ ngoài đường nên trong nhà không ai nghe thấy tiếng gõ cửa của chúng tôi.

Một cô bé hàng xóm đang đút cơm cho đứa em nhỏ đã giúp chúng tôi bằng cách thò miệng vô cửa sổ, kêu mãi mới có một thanh niên chạy ra mở cửa cho chúng tôi vào. Tôi chào cậu ta rồi hỏi.

- Xin lỗi, chúng tôi muốn gặp ông Bùi Phương. Ông ấy sống ở đây phải không cậu?

- Dạ đúng rồi, bác và cô có chuyện chi muốn gặp cậu của con?

- À... Có hội Cựu Quân Nhân ở bên Mỹ họ nhờ tôi tới thăm ông ấy.

Tôi nói vậy và tự hỏi tại sao tôi lại không thể dùng tiếng Cựu Quân Nhân để gọi những người cựu chiến binh này chứ? Họ là anh hùng của chúng ta kia mà! Ba tiếng Thương Phế Binh nghe sao mà đau lòng, chua xót quá!

Ông Bùi Phương được đặt nằm trên một cái ghế bố đặt ở phần trong cùng của căn phòng sinh hoạt chung cho cả gia đình. Có một người đàn bà cỡ tuổi tôi hoặc trẻ hơn chút ít đang ngồi trên một cái võng ở góc nhà. Bà ta khẽ gật đầu chào, ánh mắt lộ vẻ thắc mắc khi chúng tôi được người thanh niên đưa đi qua nhưng không nói gì hết. Ðến nơi, chúng tôi cất tiếng chào và được ông Bùi Phương chào lại. Ông tỏ vẻ dửng dưng trước cuộc thăm viếng này, dường như biết bao nhiêu bất thường trong cuộc đời đã xảy đến khiến ông có thái độ thản nhiên đón chờ những việc sẽ tới! Ông nhìn chị em tôi như chờ đợi điều gì sẽ xảy đến cho mình.

Bằng giọng nói nhỏ nhẹ, ông mời chúng tôi ngồi trên hai chiếc ghế bên cạnh chiếc bàn nhỏ kê gần phía tay phải của ông, trên mặt bàn có đặt một chiếc quạt máy nhỏ đang quay vù vù nhưng đối với sức nóng khủng khiếp trong nhà thì nó chẳng thấm vào đâu.

Khi nghe chúng tôi tự giới thiệu về mình, tôi mới nhận thấy nỗi vui mừng bừng lên trong đôi mắt. Ông nói bằng giọng nghẹn ngào:

- Các anh em bên nước ngoài vẫn còn nhớ tới chúng em... Họ không quên chúng em... Em cảm động quá! Em xin cám ơn mọi người.

Phải nói là tôi thực sự xúc động khi chứng kiến một thân xác tội nghiệp như vậy! Ông gầy ốm tới độ thân người mỏng tanh không hơn gì một lớp vải mỏng phủ trên bề mặt của chiếc ghế bố. Tấm vải đó hầu như chỉ để chứng minh cho người ta biết rằng phía dưới đó là thân xác một con người. Có một cái ống để rút phân và nước tiểu nhô ra bên ngoài. Có lẽ nhận thấy ánh mắt kinh hoàng của tôi nên ông giải thích rằng toàn bộ phần xương mông của ông đã bị “bay mất” khi bị trọng thương. Ðược cái là nơi ông nằm rất sạch sẽ, không có mùi ô uế nào, chứng tỏ ông được chăm sóc rất chu đáo. Khi em gái tôi hỏi thì ông cho hay sống được tới giờ này là nhờ tình thương của người chị ruột. Bà đã nuôi nấng và săn sóc ông rất chu đáo. Hầu như chỉ có em gái tôi nói chuyện với ông, còn tôi thì chỉ có khóc vì xúc động!

Tôi đưa mắt nhìn về phía người đàn bà ngồi trên võng thì thấy bà đang cúi đầu xuống và đưa tay quẹt mắt. Có lẽ trong lòng bà cũng đang rào rạt một mối thương tâm. Tôi thầm cám ơn trong lòng với người chị đã cưu mang cho đứa em xấu số! Tuy khuôn mặt có vẻ lam lũ, khắc khổ, nhưng coi bà ta có vẻ trẻ hơn tôi đến mấy tuổi. Rồi tôi nghĩ tới thời gian kinh hoàng đó! Khi người em tàn phế bị tống cổ ra khỏi Quân Y Viện năm 75 thì người chị kia còn trong lứa tuổi thanh xuân. Hỡi ôi! Một cô gái trẻ đã can đảm quên tuổi xuân của mình để khoác lên vai gánh nặng là một người em trai hoàn toàn phải trông cậy vào sự giúp đỡ từ tất cả mọi mặt như thế này.

Tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng! Trong thời gian dầu sôi, lửa bỏng, những người lính anh hùng của Quân Ðội Việt Nam Cộng hòa, có người còn trẻ tuổi hơn tôi như người lính đang nằm trước mặt tôi kia, họ phải xả thân ngoài chiến trận, đem mạng sống của mình để bảo vệ quê hương, và không biết sự bất hạnh sẽ ụp xuống đầu họ vào lúc nào thì tôi và chúng bạn vô tư chân sáo tới trường. Chúng tôi cười đùa giỡn hớt với nhau, nắn nót viết từng trang nhật ký đầy những mộng mơ của tuổi học trò mà không quan tâm tới những gì đang xảy ra quanh mình. Quả thật bây giờ ngồi đây, trước một thể xác tả tơi, còm cõi, và một người chị tiều tụy, khô gầy, tôi cảm thấy mình thật nhỏ nhoi, vô dụng!

Em gái tôi khẽ nhắc đã tới giờ về vì còn phải tới thăm một người nữa. Tôi lấy ra 50 USD là số tiền được dặn sẽ trao cho ông Bùi Phương và bùi ngùi đặt thêm 200 ngàn đồng VN lên bàn, tặng ông thêm một chai dầu gió Singapore. Tôi lí nhí chúc ông ở lại mạnh giỏi rồi đứng lên để ra về. Ông nhìn chị em tôi bằng một cái nhìn cảm kích và biểu lộ một tia hy vọng xen lẫn nỗi buồn rầu. Ông rưng rưng nói:

- Em nhờ các chị chuyển lời cám ơn đến các ân nhân, và em cám ơn hai chị đã có lòng đến thăm em.

Tôi cúi xuống nắm lấy tay ông và nghẹn ngào nói:

- Thật ra tôi mới là người phải cám ơn anh.

Tôi chào mọi người trong nhà và bước ra cửa. Lòng nặng trĩu. Tôi nghe loáng thoáng những người hàng xóm nói với nhau:

- Mấy người lính cũ họ tốt vậy đó. Mấy chục năm mà còn đi kiếm để giúp đỡ Thương Phế Binh của họ chớ hổng có quên. Thiệt là tốt hết sức!

Tôi cũng cảm thấy vô cùng hãnh diện khi được đứng chung chiến tuyến với những người lính Cộng Hòa đầy ắp tình người.

Trời đã về chiều, tuy không khí đã dịu lại một chút nhưng cái nóng vẫn phả xuống hầm hập. Chúng tôi lên Bình Thạnh để đi tìm nhà ông Nguyễn Kim Lăng. Ðường Bùi Hữu Nghĩa không xa lạ gì. Nhưng mới trải qua kinh nghiệm tìm nhà ông Bùi Phương nên hai chị em chuẩn bị tinh thần kỹ càng. Ai ngờ trái với dự đoán của chúng tôi, chẳng bao lâu chúng tôi đã đứng trước một ngôi nhà khá khang trang với bức tường xây kiên cố. Thuận và tôi nhìn nhau, ngập ngừng mãi vì chỉ sợ lầm nhà. Sau cùng, tôi đánh bạo giơ tay nhấn chuông cửa.

Một cô bé xinh xắn khoảng chừng 14, 15 tuổi ra mở cổng. Cô chỉ thò đầu ra như e ngại những người lạ mặt sẽ xông vô nhà. Tôi hỏi đây có phải là nhà ông Nguyễn Kim Lăng không và được cô trả lời là ông Lăng chỉ ở đây để làm nghề sửa xe, còn nhà ông thì ở phía sau. Tôi vui mừng nói rằng muốn tìm gặp ông có công chuyện. Vừa lúc đó thì người mẹ của cô bé đi chợ về. Sau khi nghe con kể lại, bà ta quay sang hỏi chúng tôi muốn gặp ông ấy có chuyện gì. Ðược cho biết nguyên nhân của cuộc tìm kiếm, người đàn bà lộ vẻ vui mừng ra mặt. Bà nói bằng giọng tiếc rẻ:

- Trời đất ơi! Phải chi hai chị tới sớm một chút thì đỡ biết mấy! Ông ấy sửa xe ở trước cửa nhà tôi, mới dọn dẹp để ra chở rau cho bà vợ ngồi bán ở chợ.

- Ổng sắp về tới chưa hả chị?

- Chưa đâu! Ổng còn ngồi bán phụ với bả, chắc tới tối hù tối hì mới về tới nhà, vì còn phải phụ vợ dọn hàng về nữa chứ. Hai chị đợi không nổi đâu. Thôi ngày mai hai chị tới sớm hơn thì mới gặp. Ðể rồi tôi sẽ kể cho ông ấy mừng. Ðược đồng đội còn nhớ tới, chắc ông ấy cảm động lắm. Hoàn cảnh của vợ chồng thấy cũng tội nghiệp lắm nên tôi mới cho sửa xe trong sân nhà tôi đó. Những người Thương Phế Binh ngày xưa rất đáng cho mình giúp đỡ phải không các chị? Các chị về bên ấy làm ơn kêu gọi lòng từ tâm giúp đỡ những người như ông ấy với nhé.

Chúng tôi cảm thấy thất vọng, nhưng đành phải ra về vì không thể làm cách nào khác hơn!

Ngày hôm sau, chúng tôi lại đi sớm, mong làm xong việc để còn trở về Mỹ Tho. Ðồ đạc còn liệng bừa bãi ra nhà, mà sáng mai đã phải lên đường.

Lúc hai chị em tới thì ông Lăng không có mặt ở đó, người đàn bà mà tôi đã gặp hôm qua phải chạy ra sau nhà, là nơi ở của vợ chồng ông để báo tin. Ông Lăng khập khiễng đi ra, tay chống chiếc nạng. Vì đã được bà chủ nhà báo tin trước nên ông không tỏ vẻ ngạc nhiên. Ông lịch sự kéo ghế mời chúng tôi ngồi và hỏi han vài câu xã giao. Khi tôi nói mục đích chuyến viếng thăm, ông cúi đầu lắng nghe. Sau đó, ông cũng nhờ tôi chuyển lời cám ơn đến hội Thương Phế Binh đã có lòng nghĩ tới ông. Khi nhận số tiền 50 USD từ tay tôi, mặt ông lộ vẻ xúc động, và nơi khóe mắt của ông, hai hàng lệ rưng rưng. Tôi quên chưa kể với quý vị là ngoài cái chân mang thương tật, ông Nguyễn Kim Lăng còn bị hư mất một con mắt.

Khi chống nạng tiễn chúng tôi ra cổng, ông ngập ngừng hỏi:

- Không biết những người Mỹ họ lo cho chúng tôi đến đâu rồi hả chị?

Tôi quay mặt đi vì không nỡ nhìn thấy sự thất vọng của ông. Tôi đáp nho nhỏ mà cảm thấy chua xót trong lòng:

- Anh đừng hy vọng những chuyện đó làm gì. Chỉ là những đồng đội của các anh nghĩ về các anh thôi chứ không có người Mỹ nào đâu.

Trên đường về, tôi cứ miên man suy nghĩ về câu thắc mắc của ông Nguyễn Kim Lăng và câu trả lời của tôi và tự hỏi không biết mình có quá chủ quan khi nói như vậy hay không? Trong lòng tôi thầm cầu xin những điều tốt đẹp sẽ đến với những người Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa. Trong cuộc chiến đã qua, họ đã đóng góp một phần máu xương trên mảnh đất đau khổ, khốn cùng này,

Và tôi chợt nhớ đến ánh mắt! Ánh mắt buồn rầu có bừng lên một tia hy vọng! Ánh mắt của ông Bùi Phương! Làm cách nào tôi có thể truyền đạt ánh mắt đó tới các đồng đội của ông đây? Hỡi Trời?!?...

Nguyễn Phạm Thỵ Hảo

(Na Uy)

Ghi chú:

Ðịa chỉ TPB Bùi Phương,
1051 Hiệp Nhất - Phường 4
Quận Tân Bình - Saigon

Email: buiphuong18@gmail.com
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4029
Re: Truyện ngắn
Reply #128 - 15. Sep 2010 , 23:22
 

Tình Yêu




Bố tôi mắc bệnh hiểm nghèo, chắc chẳng sống được thêm bao lâu nữa mặc dù tuổi ông còn khá trẻ.
Việc mà ông cụ canh cánh trong lòng nhất là người mẹ của tôi. Nhân lúc còn chút sức tàn, ông cụ tìm cách điều mẹ tôi đi nơi khác, rồi gọi vợ chồng tôi đến trước giường nằm nói :” Các con,bố giao mẹ con cho các con, mẹ con ở với bố chả được hưởng sung sướng nào. Sau khi bố chết, các con hãy chăm sóc mẹ cho tốt!”. Chúng tôi chảy nước mắt khi nghe lời dặn dò, và hứa: ” Bố yên tâm,chúng con nhất định sẽ trông nom mẹ chu đáo”. Bố tôi vui lòng gật đầu, lại dặn thêm:” Các con yêu quý, bố đã viết di chúc, sau này hãy làm theo những điều viết trong di chúc!”.
Chúng tôi lại hứa xin làm theo.
Không lâu sau đó, bố tôi qua đời...
Tang lễ bố tôi rất long trọng,những vị cao tuổi trong thôn đều cho rằng bố tôi là người may mắn, hai vợ chồng sống với nhau suốt đời, con trai con dâu đều hiếu thuận, sống được như vậy, đáng lắm!

Lo liệu xong việc tang, tôi tìm được di chúc của bố,lòng rất bồn chồn: mọi việc trong nhà đều rất mĩ mãn, không rõ bố còn dặn dò điều gì?
Thế nhưng, bố đã viết di chúc, tôi quyết định sẽ làm theo. Hôm sau, tôi và vợ mở di chúc ra xem.
Di chúc viết như thế này:
“ Các con yêu quý, bố có một việc nhờ cậy các con. Việc này liên quan đến mẹ các con. Các con đều không biết, mẹ các con rất thích cho dấm vào thức ăn, nhưng mấy chục năm nay, khi làm món ăn không bao giờ mẹ con cho dấm vì biết bố không thích ăn như vậy. Vì bố mà mẹ các con mấy chục năm nay không hề ăn các món có trộm dấm, vì vậy bố xin các con, từ nay trở đi khi làm món ăn đều cho dấm vào. Được như vậy,coi như là các con thay cho bố có chút đền bù cho mẹ!”

Đọc xong di chúc, hai vợ chồng tôi không nói ra lời. Mối tình sâu nặng giữa bố, mẹ chúng tôi, lòng thương yêu nhau ấy, mặc dù chất phác, đơn sơ, nhưng cảm động biết bao!

Ngay chiều hôm đó, khi làm cơm tối, vợ tôi đã cho dấm vào các món ăn. Trước khi mọi người ngồi vào bàn, mẹ tôi bỗng đột nhiên bảo tôi: ”Này, xếp ghế ngồi cho bố các con đi chứ!”.

Tôi vội bê ghế đến, lấy thêm bát, đũa, và còn đặt một chiếc ly lên bàn rồi rót đầy rượu. Sau đó chúng tôi lặng lẽ nhìn mẹ gắp thức ăn...
Ai ngờ vừa gắp ăn một miếng nhỏ, mẹ lại thử tiếp mấy miếng nữa, rồi nhíu mày lại...
Thấy vậy, tôi rất lo, đang định nói ngọn nguồn, thì mẹ tôi đã đặt đũa xuống, nước mắt trào ra, nói:” Các con không biết bố con không thích ăn chua hay sao? Vì sao bố các con vừa đi, các con đã làm thức ăn chua thế này, bố con ăn làm sao được!”.

Nghe những lời nói đó của mẹ, tôi và vợ tôi cùng khóc theo…
.......Thời gian cứ trôi qua, mẹ tôi vẫn ở với chúng tôi, cùng bóng hình của Bố, bà sống với tất cả tấm chân tình, cùng những kỷ niệm cho đến lúc bà mất...Có phải chăng đó là TÌNH YÊU (?)

Lanh Nguyen



Back to top
 
 
IP Logged
 
Ti Vi
Full Member
***
Offline



Posts: 104
Orlando
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #129 - 16. Oct 2010 , 11:15
 
Truyện thật 99.99%!

Trầm Hương (UT)


Chuyện như chơi


"Bà muốn biết tại sao tui ly dị hả ? Trời ơi, mười mấy năm sống chung là muời mấy năm chén cơm chan canh nước mắt. Hổng bỏ cũng hổng xong, bà ơi! Giả đánh bạc như máy, thiếu điều bay luôn căn nhà. Đã vậy, hễ mở miệng ra là đ.m. Đ.m, cái xe bà đụng móp một miếng bự tổ chảng mà còn nói là không sao hả? Giả nhẩy chồm chồm, xỉa xói vào mặt tui khi tui như con gà mắc mưa lái xe về nhà. Tai nạn xẩy ra, gọi cho giả, giả hổng thèm hỏi thăm tui có bị chi nặng không mà câu đầu tiên là cái xe ra sao. Thiệt tủi cho cái mạng mình hết sức. Tiền lương thì đem nướng cho sòng bài không tiếc mà kêu về VN thăm má, giả hẹn lần hẹn lữa là không có tiền. Tui nóng mặt, bắt giả cầm 6,000 đô la về thăm bà già . Em không muốn má nghĩ anh bị vợ cấm không cho về. Má già yếu lắm rồi . Anh là con trai một. Về thăm thôi rủi có chuyện gì xẩy ra, mình hối không kịp.

Bà biết sao không, giả tới Saigon, im re luôn 3 ngày. Tui nghi có điều bất thường, điện về hỏi. Giả nghẹn ngào, anh lỡ đánh bạc hết trơn tiền cho má rồi. Tui lặng người chết điếng. Con gái tui thấy má cầm ống điện thoại mà nước mắt ròng ròng, không thốt được tiếng nào, nó thất kinh: Ba bị cái gì hả má. Tui dộng cái điện thoại lên giá: Má cũng mong ba con bị cái gì cho chết luôn đi. Trời ơi là trời!

Kể bà nghe cái chuyện này mới vui. Tui đang làm việc trong hãng thì giả phone vô.

- Em về gấp, mang cái xe tui đi thay kiếng. Đ.m cái thằng dịch vật nào đập bể cái kiếng trước xe tui rồi.

Tui nói:

- Anh vào ca 3 giờ chiều lận . Giờ này mới 9 giờ sáng, còn 6 tiếng, anh ngồi không làm chi?

Giả gào lên:

- Tui gọi điện khảo giá mấy thằng sửa xe hết trơn rồi đó chớ. Đ.m mấy thằng cắt cổ thiên hạ. Đứa nào cũng rập khuôn nói từ 200$ đến 300$. Em giỏi mặc cả, về trả giá với tụi nó cho tui coi. Nhớ nghen, tui đi làm 3 giờ đó.

Thế là tui đành gặp boss, xin về vì con... té gẫy tay ở trường học. Nước mắt tui dàn dụa vì tức tối làm boss tưởng tui đau lòng thương con, hết sức an ủi.

Tới nhà, giả đã ngủ ngáy khò khò, cái máy Karaoke với những hình ảnh và bản nhạc hết sức tình tứ còn vang vang bên cạnh: "Gọi người yêu dấu bao lần". Gọi người... Gọi người về sửa xe chớ yêu dấu cái con mẹ.

Tui mở niên giám điện thoại VN, gọi đại một cái tiệm chuyên thay kiếng xe. Bà biết rồi đó, trời sanh ra tui có cái giọng nói ngọt như mía hèn chi vừa nghe tiếng tui, đầu giây bên kia thả dê liền:

- Em cần chi vậy em.

Tui hết hồn nhưng liền tương kế tựu kế:

- Dạ, có chuyện cần em mới phải gọi anh chớ.

Cha nội sửa xe vẫn tiếp tục chớt nhả:

- Gấp không em?

Tui õng ẹo:

- Dạ gấp lắm . Anh tới liền được không?

- Í, tới liền thì không được, em ôi!

Tui thắc mắc:

- Sao vậy anh?

- Ờ, nói thiệt, anh đang mắc... nhậu.

Trời thần! Tui la làng:

- Mới sáng sớm mà nhậu rồi, làm sao sửa xe được?

Cha sửa xe giả lả:

- Ủa xe em hư hả? Chồng đâu hổng lo mà bắt tội em gái vậy?

Nghe nhắc tới giả, tui muốn trào máu họng, tức tưởi:

- Xời ơi, phải chi em có chồng cũng còn đỡ. Li dị rồi anh ơi. Một mẹ một con, rầu muốn chết nè.

Cha sửa xe xớn xác:

- Tội nghiệp dữ hông? Đâu, xe bị sao nói anh nghe!

Tui thổn thức:

- Tảng sáng thức giấc, tính đi mua sữa cho con thì thấy cái kiếng trước bị đập bể rồi. Em đâu dám lái, gặp cảnh sát mấy ổng cho giấy phạt chết.

- Kiếng trước hả? Nặng đa! Xe em hiệu gì, đời mấy?

- Cái xe Honda cà tàng, cũ mèm hà anh ơi. Honda Civic, 1988.

- Cha, xe mới còn dễ kiếm, xe cũ chăm à nghen.

- Tội nghiệp em mờ, anh ráng dùm em nghe. Bao nhiêu tiền vậy anh?

- À ... à, tiền kiếng cộng với labor cũng phải $260.

- Trời ơi, dữ vậy anh, tiền đâu em trả?

Cứ vậy, tui cù nèo cù nây với thằng sửa xe. Tui nói, Em còn đang ăn weo-phe, anh giúp em đi mà. Cuối cùng, bà tưởng tượng được không, nó chịu thay cái kiếng cho tui, lại tận nhà nghen, với giá là 40.00$. Tui còn làm bộ tử tế:

- Anh nè, anh khoan tới bây giờ nghen. Anh đang uống rượu, gặp cảnh sát là tán mạng đó. Anh tới sau 3 giờ nghen . Cho hơi rượu bay đi đã. Nhớ nghe anh. Sau 3 giờ, em đợi.

Chồng nghe tui khoe thay kiếng xe có 40.00$, giả nịnh: "Thì biết em giỏi mấy cái chuyện trả giá anh mới phải gọi em lo". A, té ra là vậy, chữ tài liền với chữ tai một vần thiệt hổng sai.

Còn cái thằng thay kiếng hả, hắn tới, tui dặn thằng con ra nói má con đi chợ với bà ngoại, chút xíu má về. Giả làm xong, lấy tiền, uống hết mấy lon bia vẫn không thấy tui, biết bị gạt, tức tối chuồn êm.

Mấy năm sau khi chồng tui về VN thăm má, một buổi đi làm về, tui ngạc nhiên thấy xe giả còn đậu trước nhà. Vừa xuống xe đã nghe giả khóc hù hụ ngoài sân sau. Nhìn ra, thấy giả đang ôm hình má vật vã. Má ơi, sao má nỡ bỏ con đi bất tử như vậy? Má ơi, thằng con bất hiếu giờ đây biết tìm má nơi đâu v.v...

Tui nhớ tới 6,000 đô la tanh banh theo cờ bạc của giả hồi đó, tui nổi điên, bước ra chỉ mặt giả:

- Nín! Tui nói anh nín liền nghe chưa. Anh đừng làm cái trò cải lương đó. Lúc má sống, bỏ mặc má bơ bất. Giờ má chết, kể lể dông dài ra điều con có hiếu. Nín dùm cái coi. Tui nghe mà thất cười, haha..

Cơn giận khiến tui cười không đúng lúc, không đúng chỗ. Nguyên cái khung hình bay lên đầu tui. Miểng kiếng bể, những dòng máu ngoằn ngoèo chẩy xuống. Thằng con bấm số 911. Cảnh sát tới. Cuộc hôn nhơn chấm dứt luôn từ đó. Chuyện nghe như chơi mà thiệt.

Trầm Hương (UT)
Back to top
« Last Edit: 16. Oct 2010 , 11:17 by Ti Vi »  
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #130 - 23. Feb 2011 , 17:25
 


MÙA XUÂN 1975



   Mở: Truyện ngắn này, thực hư trộn lẫn, được viết vào đầu năm 2001 và đã được đăng trên Nguyệt San PHỤ NỮ VIỆT Số Mùa Xuân Tân Tỵ/2001 dưới bút hiệu PHƯỢNG. Đọc lại thấy ‘cũng vẫn còn được’, và thể theo lời yêu cầu của My Better Half, xin gửi để, nếu được, đăng lại trên DĐLVD, dưới bút hiệu thực, LĐ, để Quý Vị thưởng thức nhân dịp chúng ta đón Xuân Tân Mão/2011 - và cũng để chúng ta cùng nhớ lại một chút về Mùa Xuân Định Mệnh 1975. LAN ĐÀM

*
**
   Những cơn mưa mùa dài dòng như một người kể chuyện vô duyên nhất đã chỉ làm được một điều tốt là làm cho bầu trời ô nhiễm của vùng Los Angeles sạch sẽ hẳn. Những cơn mưa lê thê cũng níu kéo cái lạnh của những ngày cuối đông, làm cho tháng ba ở đây mang đầy hình ảnh của một thành phố Đà Lạt trong quá khứ. Tâm Như mặc chiếc áo coat bằng dạ màu nâu sậm mua tại Ann Taylor từ hơn ba tháng trước. Lúc đó là mùa thu. Buổi chiều thứ sáu Bích Hà điện thoại cho Tâm Như, giọng nói hốt hoảng như vừa nghe tin động đất ở Seattle:
   - Ann Taylor nó hạ đại giá mùa thu! Mày ghé tao rồi chúng mình đi Brea Mall.
   Tâm Như chọn hai cái khăn quàng cổ và chiếc áo coat dạ. Hai món hàng này đều được trừ 50% và còn trừ thêm extra 10% nữa. Bích Hà chọn một chiếc áo coat màu đen.
   - Tao thích màu nâu như mày chọn. Nhưng nếu cả hai đứa đều mặc màu nâu, tụi bạn chúng lại kêu lên là mình ở viện mồ côi ra…
   Ngồi ở food court, Bích Hà kể:
   - Mày biết không, năm 1975 tao vừa bảy tuổi, bố tao định cho hai anh em tao làm trẻ mồ côi để được di tản sang Mỹ …
   Tâm Như Ngạc nhiên:
   - Hai anh em? Tao có bao giờ thấy anh mày đâu?
   - Anh Hải ở với chú tao bên Maryland. Chính chú tao đã lo cho gia đình tao đi Mỹ. Mày không biết là tao còn một người anh lớn nữa. Anh ấy ở Virginia. Bốn mươi lăm tuổi rồi mà chưa có vợ!
   Tâm Như thấy đau nhói trong tim. ‘Mình cũng ba mươi lăm rồi mà vẫn chưa có chồng’. Ba Tâm Như là một sĩ quan cao cấp trong quân đội VNCH cũ. Ông là một người lịch thiệp nhưng kín đáo. Ngay đối với vợ con, ông cũng không bao giờ để lộ một xúc động tình cảm nào cả. Một vài lần cả gia đình đi ăn tiệm, Tâm Như hết sức cảm động khi thấy nhiều người đồng hương ghé lại bàn chào ba Tâm Như thật kính cẩn, ‘Ở nhà Ba chỉ là một người cha bình thường. Ra đường Ba được mọi người kính trọng…’. Một lần ba Tâm Như giải thích ‘ Họ là những chiến hữu của ba’. Những companion in arm. Tâm Như biết ba là một quân nhân, nhưng Tâm Như không biết một chút gì về quá khứ của ông. Tâm Như cũng không biết gì về chiến tranh, ngoài những cuốn phim như Forest Gum, Saving Private Ryan hay The Longest Day…mà Tâm Như đã xem một cách thờ ơ. Tâm Như không thể hiểu được rằng tại sao lại phải có chiến tranh? Tại sao con người có thể cầm súng bắn con người, như người thợ săn bắn một con thú? Trong cuốn album gia đình, chỉ gồm những tấm ảnh ghi lại những ngày còn ở quê nhà, có một tấm chụp ba Tâm Như mặc đại lễ đứng giữa một đám đông trong một buổi tiếp tân nào đó. Tâm Như rất thích hình ảnh của những quân nhân lịch thiệp trong những bộ đại lễ lộng lẫy giữa khung cảnh rực rỡ của những buổi dạ vũ mà Tâm Như thường thấy trên màn bạc. Tâm Như nhớ hình ảnh của André và Pierre trong War And Peace, của Napoléon trong Désirée…Nhiều lúc Tâm Như thấy mình như là một thứ alien, một kẻ ngoại cuộc giữa đám đông vui vẻ, nhộn nhịp. Một lần Tâm Như đã thoáng nghe mẹ than thở với ba:
   - Con gái hơn ba mươi tuổi rối mà chưa lập gia đình. Con mình nó đẹp chứ nó đâu có xấu! Lại còn học hành đàng hoàng…
   Mẹ Tâm Như nói về số mệnh, về tuổi tác, về các vì sao trên trời. Tâm Như nghe ba trấn an mẹ:
   - Mình đang ở Mỹ chứ không còn ở Việt Nam thời Tự Lực Văn Đoàn nữa. Con gái bây giờ muốn lấy chồng lúc nào cũng không muộn…
   Mẹ thở dài:
   - Vẫn biết vậy nhưng nếu con nó lập gia đình sớm, mình sớm có cháu ngoại bế…
   Những cơn mưa vội vàng buổi sáng đã tạnh hẳn. Bầu trời phía bắc còn u ám nhưng nắng đã trải óng ánh trên thảm cỏ vàng của những ngọn đồi nằm hai bên xa lộ. Xe chạy qua exit Imperial Highway, lối dẫn vào Brea Mall, đường bắt đầu lên dốc. Ở điểm cao nhất của xa lộ, những ngọn đồi hai bên như vạt rộng ra, mở trước mắt Tâm Như một khoảng núi trùng trùng điệp điệp, đỉnh cao phủ tuyết trắng như bạc. Tâm Như ngẩn ngơ, ‘ Mấy tuần nay không ghé thăm Bích Hà, không ngờ thiên nhiên đã thay đổi tuyệt vời như vậy!’. Cảnh đẹp khiến cho lòng Tâm Như tươi sáng. Tâm Như chợt hứng khởi hát nho nhỏ theo người ca sĩ qua radio trên xe ‘ I just call to say I love you’. Tâm Như không có ai để điện thoại và nói ‘ I love you’ dù Tâm Như muốn được nói điều này. Tâm Như khao khát được nói ra điều này. Tâm Như rất ngạc nhiên trước thái độ sống của Bích Hà. Vinh, chồng Bích Hà, tình nguyện đi làm ở Singapore hai năm. Bích Hà không đi theo vì ‘ Tao có công việc của tao ở đây và tao cũng còn phải trông coi bà già tao nữa chứ! Đi hai năm không đóng thuế, không chi phí gì, anh ấy có thể để dành tiền, mai mốt retire sớm…!’.
   Khi Tâm Như đậu xe trước cửa nhà Bích Hà, trời đã nắng ráo. Tâm Như mở cửa xe bước xuống đường và chợt chú ý đến một chiếc SUV to cao sừng sững đậu trên driveway. Xe mang bảng số của tiểu bang Virginia với dòng chữ ‘Virginia Is For Lovers’. ‘ Bích Hà có khách phương xa lại thăm. Nó không cho mình biết gì về việc này cả…’.
   Bích Hà đón tiếp Tâm Như thật nồng nhiệt, tưởng như hai người đã lâu lắm không gặp mặt nhau. Bích Hà lúc nào cũng có nụ cười trên môi, nụ cười thật tươi, thật tự tại, ‘ Con nhỏ này không bao giờ biết buồn’. Tâm Như ngồi xuống ghế sofa trong family room. Bích Hà đi vào trong bếp,
   - Để tao pha bình trà.
   Bích Hà biết Tâm Như thích uống trà. Bích Hà luôn luôn ghi nhớ những ý thích của bạn hữu. Tâm Như hơn Bích Hà ba tuổi nhưng hai người thân thiết với nhau từ những ngày học ở UCLA. Những ngày thật vui, thật vội vã, thật nuối tiếc, ‘ Mình bắt đầu thấy sợ hãi những bước chân của thời gian’. Bích Hà từ trong bếp đi ra với một khay trà.
   - Mày có khách phương xa tới thăm à?
   Bích Hà đặt trà xuống bàn:
   - Không phải khách. Anh Phong, anh già của tao ở Virginia, có job mới ở California nên bỏ đất của những người tình để về đây.
   - Ông ấy đâu rồi? Xe đậu ngoài cửa…
   - Ông ấy đưa bà già tao đi chợ. Bà già bảo không bao giờ bà thèm leo lên chiếc xe cục mịch như xe đò của anh Phong. Anh Phong lái chiếc Saab của tao.
   Bích Hà gọi mẹ là bà già, nhưng Tâm Như thấy bà chưa già. Mẹ Bích Hà có một vẻ đẹp quý phái, bà có đôi mắt như mắt người mẫu trong tranh tố nữ của Trung Hoa. Mẹ của Bích Hà chắc chưa tới cái tuổi sáu mươi, bà là một người có trái tim rộng lượng, lúc nào cũng trang trọng như một người khách quý ghé thăm bạn hữu trong những chuyến du lịch mùa hè. Bà ăn nói điềm đạm nhưng cởi mở, hành động chững chạc nhưng thân tình.
   Bích Hà rót trà ra tách nhỏ :
   - Trà sen thật do bà ngoại tao từ Hà Nội gửi qua đấy. Trà sen hóa học uống hắc xịt mà còn hại cho sức khỏe nữa.
   - Bà ngoại của mày ở Hà Nội?
   Tâm Như thấy Bích Hà như một cuốn sách, mỗi trang lại có thêm cái mới, mỗi chương lại có thêm một biến cố. Tâm Như thích thú tìm hiểu về Bích Hà, về gia đình Bích Hà, như một người say mê đọc một cuốn tiểu thuyết.
   - Chắc có một ngày nào đó mày sẽ cho biết là ông tằng tổ của mày là một vị vua nhà Lê…
   Bích Hà đưa tách trà cho Tâm Như:
   - Giòng họ tao không có ai làm lớn cả. Hình như tao có ông cụ ngoại đậu cử nhân nên được gọi là Cụ Cử. Mẹ tao rất hãnh diện về cái lai lịch này.
   Tâm Như nhìn Bích Hà, và chợt ghi nhận những thay đổi nhỏ trong cách trang trí cái family room quen thuộc này. Trong những bức hình treo trên tường có một bức hình mới. Hình một người lính trẻ đứng bên một dòng sông. Bức hình mờ nhạt như bị out-focus, nụ cười của người trong ảnh chỉ là một vệt dài trắng xóa. Và bức tượng bán thân của Beethoven đặt trên mặt chiếc đàn dương cầm, mọi lần chỉ đeo cái headphone, hôm nay lại được trang bị thêm một chiếc mũ beret đỏ. Tâm Như chợt nhớ lại có một lần Bích Hà tâm sự:
   - Anh tao là lính nhảy dù. Qua Mỹ, anh ấy giữ mãi chiếc mũ beret đỏ. Ông ấy dặn dò mẹ tao giữ cái mũ cho ông ấy như của gia bảo vậy.
   - Mỗi người đều giữ một kỷ niệm…
   - Kỷ niệm của anh tao là chiếc mũ beret đỏ. Ông ấy gàn bát sách nên đến bây giờ vẫn không có vợ…
   - Chưa có vợ?
   - Tao nghĩ tao dùng chữ ‘không’ rất chính xác. Mỗi lần anh tao về Cali, anh ấy lại đem cái mũ beret đỏ ra đội và ngắm mình trong gương cứ như anh chàng Narcissus vậy.
   - Tao nghĩ ông ấy không chỉ yêu một kỷ niệm mà còn hãnh diện về quá khứ. Người ta có quyền hãnh diện với quá khứ là cựu cái này, cựu cái kia. Ông ấy có quyền hãnh diện với quá khứ là người lính đội mũ beret đỏ…
   Tâm Như đặt tách trà xuống bàn, chậm rãi đứng dậy và bước lại bên bức tường treo những khung ảnh đủ cỡ.
   - Người lính này là anh của mày phải không?
   - Ừ, hình anh Phong đấy. Hình chụp bên bờ sông Thạch Hãn. Anh Phong bảo Thạch Hãn có nghĩa là mồ hôi của đá. Tao thấy đó là hình ảnh của cuộc đời người lính…Mẹ tao được điện thoại anh tao bảo về Cali, bà mang hình đóng khung và treo ở đây. Bà cũng đem cái mũ beret đỏ của anh Phong ra triển lãm…Tao nghĩ mẹ tao phải là một chính trị gia, một chính trị gia giống như Bà Hillary… Anh Phong về, anh ấy cảm động lắm, anh ấy mua tặng bà già tao cái đồng hồ Cartier.
   - À, từ lúc nãy tao để ý không thấy bác trai đâu. Chắc bác đi xoa mà chược?
   - Không, bố tao theo ông chồng tao qua Singapore. Ông chồng tao điện thoại về mời, Bố retired rồi, bố qua đây chơi cho nó thay đổi không khí. Vui thì bố ở lâu, buồn thì bố về Mỹ…. Tao xúi dục thêm ‘ Bố qua bên đó canh chừng chồng con hộ con…’
   Tâm Như cầm chiếc mũ beret đỏ trên đầu bức tượng bán thân của nhạc sĩ Beethoven. Tâm Như chợt nhớ như một bức ảnh phóng đại đặt ngay trước mắt, bức ảnh những người lính đội mũ beret đỏ đứng giữa một khu phố vắng tanh vào một buổi chiều mùa xuân kinh hoàng tại thành phố Sàigòn hơn hai mươi lăm năm về trước…
   Tâm Như nhớ thật rõ theo nhịp tim đập dồn dập, Sàigòn đang tắt lịm như một ngọn nến tàn. Chiến tranh dưới mắt nhìn của một đứa trẻ lên mười mang những đe dọa thật kinh hoàng. Chiến tranh đang tiến dần về thành phố Sàigòn, đang bao quanh thành phố Sàigòn. Chiến tranh như một đám mây đen chụp xuống một tòa lâu đài cổ trong một cuốn phim ma quái.
   Tâm Như nhớ mãi buổi chiều hôm đó, mẹ mặc chiếc áo len xanh cho Tâm Như, mẹ viết tên tuổi Tâm Như lên một tờ giấy lớn gấp tư, nhét vào túi áo trước ngực có kim băng cài giữ. Mẹ vẫy xe taxi đưa Tâm Như vào Tân Sơn Nhất, ‘ Mẹ muốn cả gia đình xum họp vào lúc Sàigòn sụp đổ’. Xe taxi bị chặn lại trước Bộ Tổng Tham Mưu. Tâm Như ngơ ngác trước những người lính nhảy dù đội mũ đỏ. Tâm Như nhớ mãi khuôn mặt người lính nhảy dù thật trẻ nhìn qua cửa kính xe,
  - Thưa bà, bà nên đưa em trở về nhà. Nơi đây sắp sửa thành bãi chiến trường.
  Người tài xế taxi hốt hoảng đuổi khách, ông ta nhảy bổ khỏi xe và mở toang cửa sau,
   - Bà xuống đi, tôi không tính tiền xe đâu! Tôi phải trở lại Sàigòn ngay…
   Hai mẹ con Tâm Như đứng giữa một con đường lặng câm, với người lính bình thản, và bầu không khí chiến tranh nặng nề đến nghẹt thở. Người lính nhảy dù trẻ ái ngại nhìn hai mẹ con Tâm Như :
   - Bà nên đưa em về nhà ngay…
   Mẹ Tâm Như đáp thật tự nhiên, Tâm Như chưa lần nào thấy mẹ lạnh lùng như vậy:
   -Tôi là vợ Đại Tá Thu, tôi muốn ở bên cạnh chồng tôi vào lúc nguy khốn này. Xin anh giúp tôi và cháu gặp nhà tôi..
   Người lính dù chợt đổi sắc diện. Tâm Như tưởng như đôi mắt sáng trưng của anh chợt mờ đi:
   - Bà và em đứng tránh dưới gốc cây này, để tôi trình với thượng cấp của tôi .
   Anh vội vã chạy đi, và một lúc sau đó trở lại với một người sĩ quan cũng còn thật trẻ :
   - Thưa bà, đây là thiếu úy Phan…
   Thiếu úy Phan nghiêng người chào mẹ Tâm Như:
   -Thưa bà, ông nhà đang họp trong Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi được lệnh đưa bà và em vào phi trường di tản. Trung sĩ Phong sẽ đưa bà và em vào phi trường. Xin bà đừng lo, ông nhà và chúng tôi sẽ di tản sau nếu cần thiết.
   Trung sĩ Phong lái xe Jeep đưa mẹ con Tâm Như vào phi trường Tân Sơn Nhất. Tâm Như nhìn sang, thấy người lính nhảy dù trẻ có một vết sẹo ở phía trên lông mày. Vết sẹo như nhát dao xẻ trên những ổ bánh mì nóng Tâm Như vẫn thường ăn vào buổi sáng mỗi ngày . Tay áo trận sắn cao, cánh tay anh xâm hình một con chim soải cánh.
   Xe đậu giữa phi đạo hỗn loạn, trung sĩ Phong đưa mẹ con Tâm Như đến bên một chiếc trực thăng lớn. Anh dơ tay chào người phi công và gửi gấm:
   - Gia đình Đại Tá Thu, xin Đại úy lo giùm.
   Trung sĩ Phong giúp mẹ con Tâm Như leo lên trực thăng. Trước khi từ giã, anh dúi vào tay Tâm Như một thanh kẹo chocolat:
   - Chúc bà và em may mắn.
   Mẹ Tâm Như móc tờ giấy trong túi áo Tâm Như, viết vài hàng chữ và trao cho trung sĩ Phong:
   - Nhờ anh đưa cho ông nhà tôi.
Sau này khi gia đình đoàn tụ tại Subic Bay, ba Tâm Như kể với mẹ, ‘ Nhận được giấy từ trung sĩ Phong, anh yên tâm vì em và con đã di tản nên sau đó, ở phút cuối cùng, anh đã quyết định cùng một số chiến hữu ra đi…’
   Tâm Như và Bích Hà đang ngồi nói chuyện ngoài sân sau thì mẹ Bích Hà đi chợ về. Bác Minh Tâm, mẹ của Bích Hà, ôm Tâm Như:
   -Tuần trước Bích Hà xuống dưới đó chơi với cháu nên bác không được gặp cháu. Bác cảm thấy như mất một buổi xum họp đại gia đình. Cháu vào trong nhà để bác giới thiệu anh trai của Bích Hà với cháu.
   Ba người cùng đi vào nhà trong. Khi đi qua phòng bếp, Tâm Như thấy một thanh niên hai tay ôm hai túi giấy đi chợ. Tâm Như tự hỏi, ‘ Mình xếp loại anh ta là một trung niên hay một thanh niên? Anh chàng chưa già nhưng cũng không còn trẻ nữa!’
   Bác Minh Tâm nắm tay Tâm Như:
   thanks.gifhong, anh của Bích Hà đấy cháu. Còn đây là Tâm Như, bạn của Bích Hà.
   Phong gật đầu chào Tâm Như. Phong có một vẻ gì thật quen thuộc, ‘ Mình phải gặp Phong ở đâu rồi? Hay Phong giống một người nào mình quen?’. Tâm Như chợt để ý đến vết sẹo phía trên lông mày phải của Phong . ‘Chẳng lẽ anh chàng này là…? Không hiểu cánh tay Phong có xâm hình con ó hay không?’. Phong đặt hai túi giấy xuống bàn :
   - Mẹ tôi bảo nhà có khách. Mẹ tôi lại không giỏi nghề nấu nướng. Bà đề nghị ra tiệm Tàu mua thức ăn về nhà ăn cho tiện.
   Bà Minh Tâm cười:
   - Tiệm Sam Woo nấu ăn được lắm cháu. Bác nghĩ nấu nướng ở nhà cũng chỉ ngon đến vậy là cùng…
   Mọi người vui vẻ bày thức ăn ra bàn. Khi Phong đưa bát cơm cho Tâm Như, anh phân trần:
   - Ba tôi bảo nếu mẹ tôi nấu nướng cũng giỏi như bà chơi mà chược thì ông là người hạnh phúc nhất trên đời này!
   Bích Hà bênh mẹ:
   - Mẹ bỏ mà chược cũng đã hơn bốn năm nay rồi!
   Bác Minh Tâm nhìn Phong, đôi mắt bác chợt mang đầy nét trìu mến. Bác nói thật nhò nhẹ, thật chân thành:
   - Từ hơn bốn năm nay mẹ vẫn ăn chay mỗi tháng một tuần. Mẹ cầu xin Trời Phật cho Phong lấy được một người vợ hiền. Nếu mẹ giầu, mẹ đã xây chùa, mẹ đã đúc chuông…
   Bích Hà nắm tay bác Minh Tâm:
   - Con cũng sẽ ăn chay để cầu Trời Phật cho anh Phong lấy được vợ.
   Phong cười lớn:
   - Cám ơn mẹ, cám ơn Bích Hà. Nhưng tại sao mọi người đều đang đói bụng, nhìn thức ăn thì ngon mà không chịu ăn đi. Nhà lại có khách quý, chúng ta không nên làm phiền khách quý vì những chuyện lôi thôi của tôi…
   Tâm Như tự nhiên muốn đặt mình vào trong cuộc:
   - Tại sao anh Phong sợ lấy vợ? Tôi nghe nói một người lính chiến không bao giờ biết sợ. Anh là người lính dù, anh yêu cái mũ beret đỏ của anh…
   Phong quay sang nhìn Tâm Như, đôi mắt chân thật, đôi mắt tự tin của một chiến sĩ :
   - Chuyện sợ hay không sợ là một chuyện thật dài. Tôi mong sẽ có dịp trình bày với cô Tâm Như. Chuyện tôi không có vợ nó không liên hệ đến chữ sợ mà nó liên hệ đến chữ cơ và chữ duyên. Cái cơ đã đẩy tôi chạy thục mạng trong suốt cuộc đời tôi. Ngày trượt tú tài, tôi tình nguyện đi lính nhảy dù. Chọn lựa này cũng chẳng liên hệ gì đến chữ sợ hay chữ không sợ. Nó là một chọn lựa bốc đồng. Cả nhà tôi khóc như mưa, như gió. Lính nhảy dù đánh trận quanh năm không có thì giờ nghĩ đến chuyện lập gia đình. Tôi đi lính đúng vào lúc chiến trường sôi động cực độ. Qua Mỹ, tôi cắm cố đi học lại cho mẹ vui lòng. Học xong đi làm để trả nợ. Và ngoảnh đi ngoảnh lại đã… sắp già. Còn chữ duyên thì là tôi không có duyên với ai, hay chưa có duyên với ai…
   Tâm Như thấy Phong thật lạ, anh nói về cuộc đời như anh nói về một cuộc vui chơi. Tâm Như cố xếp Phong đứng ở một khu phố vắng tại Sàigòn vào một ngày cuối cùng trước khi sụp đổ. Phong cũng có vết sẹo ở trên long mày phải . ‘ Phong có xâm con ó ở tay hay không?’. Trời tháng ba ở Cali còn lạnh. Phong mặc chiếc áo len rộng màu ngọc thạch. Tâm Như chợt thấy Phong thân thiết như một người bạn cũ, một người bạn chân thành và tận tình. Một người bạn hiểu rõ lòng ta như một thứ alter-ego. Phong nói về Phong, như nói về Tâm Như. Tâm sự của Phong cũng là tâm sự của Tâm Như . ‘ Mình cũng chạy hụt hơi theo cuộc đời, và bây giờ mình đã ba mươi lăm tuổi rồi!’.
   Sau bữa cơm trưa thật thoải mái, Bác Tâm Minh bảo bác có tật xấu do ảnh hưởng của thực dân Pháp để lại . ‘ Bác phải ngủ trưa nửa tiếng đồng hồ thì đầu óc bác mới minh mẫn…’. Bích Hà pha một bình trà mới.
   - Tụi mình ra ngồi ngoài patio nhìn tuyết trên núi cao.
   Buổi trưa tháng ba thật đẹp. Những cơn mưa vừa đổ qua khiến bầu trời như tấm kính được lau chùi sáng choang. Không khí thoang thoảng mùi hoa trà. Ba người ngồi quanh chiếc bàn gỗ đặt dưới giàn hoa giấy. Bích Hà là người yêu nghệ thuật, hay nói đúng ra, Bích Hà là người yêu vẻ đẹp của vườn tược. Khu vườn sau nhà Bích Hà giống như một khu rừng nhiệt đới, đầy bóng mát, đầy cây cỏ. Màu xanh của lá khiến cho Tâm Như cảm thấy lòng mình thật thoải mái.
   Phía sau bức tường đá xanh che chở khu vườn là những dốc đồi ngổn ngang. Tường có treo những chậu hoa đầy màu sắc, tô từng mảng màu rực rỡ trên nền đá sần sùi. Xa xa là những dãy núi đỉnh phủ đầy tuyết trắng. Tâm Như chợt hiểu tại sao tâm Bích Hà lúc nào cũng bình yên. Thiên nhiên là bàn tay vỗ về và nâng đỡ dịu dàng nhất. Thiên nhiên không bao giờ làm dáng nhưng thiên nhiên lúc nào cũng đẹp tuyệt vời.
   Tâm Như chợt ghi nhận là Phong đội chiếc mũ beret đỏ không rõ từ lúc nào. Hơn bốn mươi tuổi, Phong trông vẫn còn nhiều nét thơ dại. Hình ảnh ngày cuối cùng ở Sàigòn đột ngột chuyển qua lũ lượt trước mặt Tâm Như. Những người lính dù ở gần phi trường Tân Sơn Nhất. Những người lính thầm lặng và bình thản giữa một không khí chiến tranh ngột ngạt. Tâm Như hỏi Phong:
   - Anh là một người lính chiến, anh hãy kể một kỷ niệm đẹp nhất trong đời quân ngũ của anh đi. Tôi đọc sách, thấy những người lính chiến thường nhắc lại quá khứ của họ như nhắc về những mối tình thật đẹp…
   Phong gỡ chiếc mũ beret đỏ đặt xuống bàn:
   - Kỷ niệm tôi không bao giờ quên được là kỷ niệm về lần uống rượu sau cùng với các bạn đồng ngũ. Tôi không bao giờ uống rượu sau lần đó nữa. Tôi nhớ chúng tôi nghe lệnh đầu hàng của vị tổng thống sau cùng đọc trên đài phát thanh. Lệnh đầu hàng như một trái bom nổ ngay chỗ đóng quân. Chúng tôi đang ở giữa thành phố Sàigòn thân yêu vậy mà chúng tôi vẫn cảm thấy thật cô đơn, cô đơn như những kẻ sống sót cuối cùng trên một hành tinh đang tàn lụi.
   Tôi nhớ anh Sáu, anh Sáu là xếp lớn, là đại bàng của chúng tôi, anh Sáu đứng trên capot xe Jeep chỉ huy, anh nói thật bình thản, thật gãy gọn như anh vẫn thường nói với chúng tôi từ bao nhiêu lâu nay. Anh bảo, ‘ Vận nước có lúc thịnh, có lúc suy. Nhưng ngay bây giờ đây là vận mạt của tổ quốc. Cũng đành vậy thôi !’                Cũng đành! Nghe như một tiếng thét tuyệt vọng. Anh Sáu bảo ‘ Chúng ta hãy uống với nhau một lần sau cùng rồi chia tay’. Rượu chỉ còn hai chai Martell. Anh bảo,‘ Hãy bắt chước người xưa, rượu hòa với nước, trên dưới cùng uống’. Rượu được hòa với nước, mỗi người múc môt ca mà uống, như uống chính nỗi điên cuồng trong lòng mình. Rượu nhạt thếch, nhưng rượu thật đắng cay. Thiếu úy Hạnh uống ca rượu, rồi ngẩng mặt nhìn trời khóc nức nở,‘Tại sao?’. Chính tôi cũng tự hỏi tại sao ? Và tôi, cùng đồng đội, cùng bật khóc như Thiếu Úy Hạnh.
Rồi mọi người chia tay sau những cái vung tay chào giã biệt. Tôi tình nguyện lái xe đưa anh Sáu đi ‘ thăm Sàigòn của chúng ta một lần cuối cùng’, vì tôi chẳng còn nơi đâu để về… và trời đất xô đẩy làm sao, hai thầy trò ghé vào một tiệm hủ tiếu ở Cầu Ông Lãnh. Một ông chủ ghe đã mời hai thầy trò chúng tôi lên một chiếc ghe bầu chở đầy dưa hấu. Ghe chạy ra Vũng Tàu, rồi ra khơi nơi có hạm đội Mỹ. Khi chia tay, người chủ ghe bảo ‘ Con trai tôi cũng là lính nhảy dù!’. Tôi không bao giờ uống rượu nữa, vì tôi không bao giờ quên được bữa rượu ngày hôm đó…
   Tâm Như cảm thấy mình cũng muốn tâm sự với Phong:
   - Tôi cũng có một kỷ niệm về những người lính mũ đỏ. Tôi nhớ một buổi chiều mùa xuân buồn thảm của một ngày Sàigòn đang chờ tan rã. Mẹ con tôi vẫy được chiếc taxi để đi tìm bố tôi. Xe bị chặn ở gần phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi nhớ người lính mũ đỏ nhìn qua cửa kính xe. Anh có vết sẹo phía trên lông mày bên phải.

LAN ĐÀM
3/2001

Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4029
Re: Truyện ngắn
Reply #131 - 02. Mar 2011 , 11:40
 
LẤY MỸ



Tác giả: Lệ Hoa Wilson


Tác giả là một Phật tử,  pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, sinh  năm 1940 tại Cần Thơ. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là “Có Tội Hay Không Có Tội”, tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Ky.ø “Hai đứa gặp nhau  khi ông xã làm việc tại bệnh viện Hải Quân Hoa Kỳ, núi Non Nước Đà Nẵng. Cưới nhau: 1972, hiện có 5 con. Tới Mỹ năm 1975. Từ 1985, hai vợ chồng mở v/p Di Trú và Thuế Vụ tại Long Beach.” Sau đây là bài viết của bà.

***

Bất cứ người con gái nào lớn lên, đến tuổi trưởng thành cũng đều mơ ước một ngày bước lên xe hoa để làm vợ.
Có những người đầy đủ phước đức, sanh ra, lớn lên, lấy chồng, làm vợ, làm mẹ, làm bà, sống trong danh dự, chết trong thương yêu. Có những người thiếu kém nghiệp lành, sanh ra, lớn lên, lấy chồng, làm vợ, làm mẹ, làm bà, sống trong đau khổ, chết trong cô đơn.
Dù kém nghiệp lành hay đầy đủ phước đức thì những người đàn bà nầy đã hạnh phúc với  hay khổ đau do một ông chồng ViệtNam nên được xã hội ViệtNam trân trọng tặng cho cái danh dự “bà vợ”.
Tôi đã lấy chồng, làm vợ, làm mẹ, làm bà nhưng tôi đã hạnh phúc hay đau khổ với một ông chồng người Mỹ nên được xã hội Việt Nam khinh khi ban cho danh từ “Me Mỹ”!
Ở cùng một hoàn cảnh, ăn mặc cùng một kiểu, nói bá láp cùng một câu, phạm cùng một lầm lỗi nhưng “bà vợ” thì được cảm thông và tha thứ vì bà tuy nói ác mà tốt bụng, tuy ăn mặc hở hang mà tánh rất đàng hoàng, tuy có ra ngoài vòng lễ giáo một chút nhưng hoàn cảnh thật đáng thương v.v.., còn “me Mỹ” thì sẽ nhận đựợc một bản án nặng nề, không hồi tố, không biện minh, không chống đỡ.
Một người khách đến văn phòng tôi làm giấy tờ bảo lãnh thân nhân. Trong khi tôi điền đơn ông vui miệng hỏi chớ cô ở Mỹ bao lâu rồi mà giỏi vậy và có  đứa con nào chưa?  Tôi trả lời cháu ở Mỹ đã 19 năm (thời điểm 1994) và có được năm con. Chồng cháu người Mỹ. Ông khách nhìn tôi kinh ngạc và hạ một câu: “ Cô Lấy Mỹ mà cũng đẻ dữ vậy hả!”. Âm thanh khinh bạc trong câu Lấy Mỹ của người khách đáng tuổi cha chú làm tôi hơi khựng lại và trong một phút vô minh  trong óc tôi cố nghỉ ra một câu gì tương xứng với hoàn cảnh của ông để nói lại cho trái tim mình đở rướm máu, nhưng đức Phật Quan Âm đã mau hơn  cái phút vô minh đó nên tôi chỉ từ tốn trả lời: “Dạ  vợ chồng cháu định có bảy đứa nhưng ở đây nuôi con cực quá nên dừng lại ở năm đứa.”. Chắc ông khách cảm nhận được sự lỡ lời của mình và thái độ từ hoà của tôi nên có vẻ bẽn lẽn. Ngày hôm đó tôi được mặc cái áo Lấy Mỹ mà đẻ nhiều con !.
Lại có một cô đáng tuổi em út nhờ tôi kêu điện thoại lên tòa án dàn xếp một vụ hiểu lầm rắc rối do cô gây ra. Mọi việc ổn thỏa rồi cô cám ơn tôi và nhận xét: “ chị lấy Mỹ mà cũng biết làm nghề nầy nữa há.”. Có nghiã là nghề văn phòng phải do mấy bà vợ đảm nhận mới phải. Mấy bà nầy ngày xưa bên ViêtNam là người có học, nay tiếp tục văn phòng là lý đương nhiên. Còn chị lấy Mỹ sao lại ngồi đây ?, sao dám chen chân trong vòng danh lợi nầy ? Sao lại ăn nói nhẹ nhàng giúp đở đồng hương ? Đáng lẻ chị phải tiếp  tục bán bar, bồi phòng hay cái gì hạ tiện một chút, ăn nói có một chút chữi thề, thái độ có một chút sắc sảo thì mới hợp lý chớ . Tôi  nhìn người  đồng hương hiền lành ít học  và nhẹ nhàng nói :” Nghề nào cũng vậy thôi em à. Nghề nào làm ra tiền để nuôi con thì bà mẹ nào cũng làm hết, bất kể sang hèn.”. Ngày hôm đó tôi được mặc chiếc áo Lấy Mỹ mà biết làm nghề văn phòng !.
Một hôm có một ông lạ hoắc ở tận Canada, do một người mách bảo, tới văn phòng tôi để xin băng giảng kinh Phật. Lúc đó chưa có CD, băng kinh còn rất hiếm. Sau khi chuyện vãn tôi tặng ông băng của thầy Thanh Từ, thầy Nhất Hạnh, thầy Thiện Huệ, sư cô Như Thủy v..v.., ông vui mừng cám ơn rối rít:          
“Không ngờ cô lấy Mỹ mà cũng biết tu hành dữ vậy!”. Tôi mĩm cười chọc ông: “ Vậy là ông nói tôi đi sai đường phải không? Đáng lẻ tôi đi theo quỷ Sa Tăng mới đúng. Đáng lẽ tôi phải vào trà đình, tửu quán, tay cầm ly rượu, tay cầm điếu thuốâc thì mới đúng điệu me Mỹ chớ me Mỹ gì mà sờ mó kinh sách, thật là ốt dột ông há”.  Ông khách biết mình nói quá lố vội xin lỗi, tôi lại mỉm cười. Vậy là tôi lại được mặc thêm một chiếc áo Lấy Mỹ mà cũng biết tu hành!.
Bạn tôi, sau khi cằn nhằn, phê phán, chê trách con dâu và bà xuôi gia đủ điều liền hạ một câu kết luận: “ thằng con tôi là thằng chúa ngục. Không biết sao mà nó mê con quỉ nầy dữ vậy? Má nó là cái thứ lấy Mỹ thì làm sao biết dạy con?!” Thêm một chiếc áo nữa Lấy Mỹ không biết dạy con!
Tôi thường hay thắc mắc tự hỏi không biết mình làm vợ Mỹ thì có khác biệt gì với mấy người làm vợ ViệtNam ? và người chồng Mỹ của mình có khác biệt gì với người chồng ViệtNam?
Khi vui tôi cười, khi buồn tôi khóc. Khi nấu ăn bị đứt tay, máu cũng đỏ thắm. Khi nhìn đồng bào lầm than trong đói nghèo, lụt lội thì ruột tôi cũng mềm. Khi chồng thất nghiệp hay gặp cảnh gian nan  thì tôi cũng đở nâng, an ủi. Khi chồng vụng dại, lỡ lầm thì tôi cũng gây gổ, giận hờn.
Khi chồng tôi cầm bảng học bạ đầy chữ A của các con thì mặt mày cũng tươi vui hớn hở. Khi bị trường kêu lên mắng vốn thì cũng buồn bã lo âu. Khi con nhỏ ốm đau thì cũng thức trắng đêm lo thang thuốc. Khi con nên vợ nên chồng thì cũng hãnh diện, mừng vui. Buổi sáng hôn nhau từ giã hăng hái đi làm nuôi con. Buổi tối hôn nhau cám ơn một ngày bình an, hạnh phúc.
Chúng tôi cũng có những luật lệ riêng của gia đình. Khi các con còn nhỏ ngồi ăn cơm chung với cha mẹ, ăn xong trước rồi muốn ra khỏi bàn ăn  phải xin phép. Khi cha nói NO rồi thì không được nhõng nhẻo qua hỏi mẹ. Khi cha mẹ đang coi TV thì không được tự động đổi đài khác.
Chồng tôi người Mỹ mà lại tin vào chánh sách ‘thương con cho roi cho vọt’ của VN, nhưng ảnh không đánh con trong sự giận dữ. Ảnh bắt chúng nằm sấp xuống ghế, nói cho chúng biết chúng đã phạm lỗi gì và hình phạt ra sao  (một roi chổi lông gà hay không có TV một tuần hay 8 giờ tối phải vô phòng không được  hội họp với gia đình v..v..). Tôi không bao giờ xen vào binh vực cải cọ lúc ảnh răn dạy các con dù đôi khi cây roi hạ xuống một tiếng chát, thằng nhỏ rú lên, lòng mẹ nghẹn ngào. Sau mỗi hình phạt, tôi dẫn các con đi rửa mặt, cho chúng ly cà rem, cái bánh ngọt rồi dẫn chúng vào phòng xin lỗi cha.
Các con ơi, dù cha không phải lúc nào cũng đúng khi răn dạy các con, nhưng hãy nhìn mỗi buổi sáng, dù nắng dù mưa, dù mạnh giỏi dù khó chịu, cha chúng con vẫn ra xe đi làm. Cái lap top, cái  cell phone, cái phòng ngủ, cuốn sách, áo quần, sách vở,máy sưởi, nước nóng, sự hiểu biết, sự tiện nghi, sự trưởng thành…trăm ngàn thứ  trong cuộc đời con đang hưởng thụ đều đổ lên hai vai của người cha đó thì đôi khi một vài hiểu lầm có đáng là bao. Vợ chồng tôi không hoàn toàn nhưng đã cố gắng dạy con the best we know.


Tôi được người đời tặng cho nhiều chiếc áo khác nhau nhưng ít có chiếc nào nhuộm lòng Từ Bi  và Hiểu Biết.  Tôi lẳng lặng nhận những chiếc áo khắc nghiệt đó, không oán trách cũng chẳng hạ mình.  Tôi không có gì phải cúi mặt khi nói cho người đối diện biết chồng tôi người Mỹ. Trái lại những lời khinh bạc, những dè bỉu trước mặt hay sau lưng đó đã giúp tôi tăng thêm phần nhẫn nhịn, thứ tha và thông cảm hơn đối với những chúng sanh bạc phước khác. Và tôi tin rằng vì thế tôi hoá giải được một phần những oan khiên, nghiệp chướng của kiếp nầy cũng như của những kiếp trước. Quả nhiên phiền não là bồ đề và cuộc đời thì không có gì là tuyệt đối hết. Cũng có người thương tôi. Tôi xin gởi lời cám ơn với tất cả trái tim chân thành đến các đồng hương tại Long Beach đã từng dùng qua các dịch vụ của văn phòng tôi và đã thương mến tôi như một con người, đã đối xử với tôi như một “bà vợ”.

*
Tôi đóng cửa văn phòng lái xe thẳng ra nghĩa trang thăm mộ con. Chúng tôi mất một đứa con trai trong một tai nạn xe hơi lúc cháu vừa 16 tuổi. Từ xa tôi thấy một người ngồi bên cạnh mộ, hai đầu gối cong lên, hai tay ôm lấy đầu gục xuống chân. Tôi lại gần. Té ra là Ron, chồng tôi. Tôi quì xuống trước mặt anh, hai tay nâng đầu anh lên, để trán tôi cụng vào trán anh. Anh nhìn tôi thì thầm : “ Honey, help me, please help me. I can not go through our son’s loss without your love and your support.” ( em ơi, giúp anh, em hãy giúp anh. Anh không thể nào vượt qua cơn đau khổ mất con  nầy mà không có  tình yêu và sự chia xẻ của em  ). Tôi ngồi xuống bên anh, bên cạnh mộ đứa con yêu dấu. Tôi để đầu anh dựa vào má tôi và dịu dàng nói : “ Em yêu anh. Chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua nổi đau khổ nầy !”
Một giọt nước mắt của anh thấm vào miệng tôi.


Giọt nước mắt của người chồng Mỹ với người vợ Việt, của người cha Mỹ khóc thương cho đứa con trai vắn số cũng mặn như giọt nuớc mắt của bất cứ người chồng người cha nào khác.
Có khác gì đâu. Vô thường!


Lệ Hoa Wilson
Back to top
« Last Edit: 02. Mar 2011 , 11:41 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4029
Re: Truyện ngắn
Reply #132 - 07. Mar 2011 , 22:31
 


TÌNH NHƯ LÁ  THU


Truyện ngắn của Nguyễn Thị Bích Nga (Wesminter)


Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi. Nhưng với mái tóc nhuộm đen nhánh, với hàng lông mày được xâm theo hình lá liễu cong cong, với cặp môi tô son đỏ – màu của sự gợi cảm, người đối diện nghĩ rằng bà chừng bảy mươi lăm là cùng.

Vốn là nhà thời trang nổi tiếng của thành phố Sài Gòn trước đây, bà cố gắng ăn uống điều độ và tập thể dục hàng tuần để thân hình không phì nhiêu cũng không nhão nhét. Trời cũng không phụ lòng mong đợi của bà. Càng nhìn bà, người ta càng kinh ngạc, cứ tưởng thời gian đã quên đi, không hề nhớ tới sự hiện hữu của bà trên cuộc đời này.

Cách đây tám năm, chồng bà mất. Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba đúng là một bi kịch. Ban ngày bà loay hoay đi ra đi vào một mình, ban đêm bà trằn trọc không ngủ vì nhớ tiếng ho nhè nhẹ của ông, nhớ tiếng dép lẹp xẹp trên sàn gỗ, nhớ tiếng nước chảy vào ly thủy tinh mỗi khi ông rót trà... Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba, bà không khóc lóc như những phụ nữ trẻ tuổi, bà chỉ bàng hoàng trong im lặng, đôi mắt bà ráo hoảnh nhưng đôi môi bà cứ run run như muốn gọi tên ông.

Rồi những ngày tháng lạnh lùng kinh khủng đó đóng chặt lại và trở thành quá khứ sau khi bà gặp ông Luân trong một cuộc tiệc cưới cháu ngoại của người bạn. Hôm đó bà ngồi bên cạnh một người đàn ông có mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ, có giọng nói chậm rãi nhưng ấm áp, có sự quan tâm chăm sóc đặc biệt tới bà khiến bà cảm thấy lạ lùng trước điều đó. Ông Luân chỉ phục vụ một mình bà, thỉnh thoảng ông gắp thức ăn để vào trong chén của bà, ông hỏi bà ngon miệng không, ông lựa những phần gỏi bắp cải không có ớt vì sợ bà cay, thậm chí ông thận trọng lột vỏ từng con tôm xú luộc rồi đưa bà ăn. Bà cảm kích nên hỏi tên ông, hỏi tuổi ông. Ông không giấu diếm, ông nói ông đã bảy mươi bảy tuổi rồi.
Bà nhìn ông cười, ánh mắt lẳng lơ:

-Bảy mươi bảy tuổi còn yêu được không nhỉ?
Ông Luân cũng nheo nheo mắt nhìn bà, cười đáp lại:
-Sao lại hỏi vậy? Cứ yêu thử đi rồi biết.

Tối hôm đó bà đi lòng vòng trong cư xá nửa tiếng đồng hồ để suy nghĩ thật chín chắn rồi quyết định gọi điện thoại cho ông. Chuông vừa reng lên một tiếng ngắn là ông mở máy trả lời liền, cứ như suốt cả buổi tối ông chỉ làm mỗi một việc là ngồi rình cái điện thoại, đợi nó reng lên là bấm nút “A-lô” ngay. Ông hỏi bà đang làm gì, bà nói bà đang đi bộ trong cư xá. Ông nói ông sẽ đến để cùng đi bộ với bà. Bà không tin lắm, nhưng chỉ cười cười. Vậy mà ông đến thật. Ông đưa cho bà một ly giấy to tướng đựng đầy bắp rang, bà chìa tay cầm lấy và trong một thoáng bà cứ ngỡ vẫn còn đang ở tuổi mười tám đôi mươi. Bà hít một hơi dài rồi ngước lên nhìn ông bằng đôi mắt có hàng trăm vì sao trời đang lấp lánh trong đó.
-Em thấy bắp rang ở đây không thơm như bắp rang ở Sài Gòn.

-Ừ, bắp rang trên con đường Hai Bà Trưng thơm mùi bơ. Anh nhớ mỗi lần đi ngang xe bắp rang bơ là phải dừng lại, mua một gói, rồi vừa đi vừa ăn vì không thể nhịn thèm nổi.
Bà cười khẽ. Giọng cười của bà dù có khàn đi nhưng nghe cũng còn quyến rũ lắm.

-Có những món ăn ngày xưa em thích mê tơi, thí dụ món ốc leng xào dừa, ngày nào em cũng phải ăn một dĩa đầy mới đã, còn bây giờ mới nhìn thấy là ngao ngán liền. Em không hiểu tại sao nữa.

-Vì bây giờ mình trưởng thành hơn, mình hưởng thụ cũng nhiều hơn nên cơ thể cảm thấy không cần thêm nữa. Chỉ mới vài năm trước anh còn khoái ngồi uống bia với bạn bè, tối nào cũng phải một chai ướp lạnh mới ăn cơm được, nhưng từ sau lần anh bị ói ra mật xanh phải vào bệnh viện, nghe nhắc tới bia hay nhìn thấy chai bia là anh xanh mặt liền.

Không khí ban đêm lành lạnh nên bà đi sát vào người ông, nép vai bà bên vai ông, nhưng bà vẫn cố ý đút hai bàn tay vào trong túi áo khoác để có một lần vải ngăn cách giữa hai người. Ông Luân nhận ra điều đó. Ông tìm ngón út của bà và giữ chặt nó một lát trong tay ông. Xuyên qua lớp vải dày của chiếc áo khoác, bà vẫn cảm nhận được sự rung động nhẹ nhàng của người đàn ông có độ tuổi đã chấm tới con số bảy mươi bảy. Bà im lặng, không rụt ngón tay lại, để mặc cho trái tim đột nhiên thay đổi nhịp đập rộn ràng như pháo nổ ngày Tết. Bà cần tình yêu như như đũa có cặp, bà cần một người đàn ông bên cạnh bà như dép có đôi. Bà sẵn sàng thú nhận bên tai ông điều đó mà không cảm thấy xấu hổ.

Ông Luân có tiền hưu, có tiền con cái chu cấp, có tiền tiết kiệm trong ngân hàng nên cứ đến cuối tuần là ông dẫn bà đi ra khỏi thành phố, tận hưởng một không gian vắng lặng chỉ có hai người. Những nụ hôn hiếm hoi ông dành cho bà thật nồng nàn trên trán, trên má, nơi khóe môi. Bà cũng đáp lại cuồng nhiệt, bà ôm ghì lấy đầu ông, vừa hôn vào mép tai ông vừa vò vò mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ. Ông Luân thích thú trước tình cảm của bà, bấu bấu những ngón tay có móng hình vuông được cắt ngắn vào vai bà. Họ ngồi trên băng ghế đá âu yếm nhau mười lăm, hai mươi phút giữa khung cảnh thiên nhiên lãng mạn, tĩnh mịch và đồng lõa. Tình yêu mà họ dành cho nhau chỉ có vậy thôi, có muốn hơn nữa thì cũng không được bởi vì ở tuổi bảy mươi bảy, khả năng tình dục của ông đã hết rồi – đã chết rồi!

Hai người thuê một ngôi nhà gỗ ở bìa rừng để họ có thể lái xe đến đó bất cứ lúc nào họ muốn. Chiều cuối tuần, ông Luân ngồi bên bờ suối câu cá, bà ngồi bên cạnh nép vào ông, theo dõi từng con cá vô tư lượn lờ qua qua lại lại nhưng chẳng con cá nào tỏ vẻ thích miếng mồi trùn sống đang ngo ngoe của ông. Thỉnh thoảng bà cười tủm tỉm khi thấy ông sốt ruột thở dài vì cá không cắn câu. Bà đặt bàn tay phải của bà lên đùi ông như khích lệ, thấy vậy ông cũng đặt bàn tay trái của ông lên bàn tay bà và giữ thật lâu. Đột nhiên bà nhổm người lên chỉ xuống dòng suối, khuôn mặt bà hớn hở với giọng nói vang vang như xé toạt sự yên tĩnh của thiên nhiên:

-Kìa, cá dính câu rồi kìa anh! Giựt lên đi! Giựt lên đi!

Ông Luân dùng cả hai tay giựt chiếc cần lên cao, miệng nở nụ cười thật rộng khi nhìn thấy một con cá đang vùng vẫy dữ dội nơi đầu sợi dây. Bà mở nắp máy chụp hình ra và chụp ông vài tấm hình cùng với “chiến lợi phẩm”. Sau đó ông vụng về loay hoay gỡ con cá tội nghiệp ra khỏi chiếc lưỡi câu và nhẹ nhàng thả nó xuống nước. Con cá sung sướng quẫy mạnh cái đuôi, lướt sang chỗ khác sau khi bị một phen hoảng hốt.

Hai ông bà sống hạnh phúc với nhau được ba năm thì ông Luân tỏ ý muốn đi du lịch sang Canada để thăm con cháu. Bà vui vẻ để ông ra đi. Nhưng sau đó con cháu ông viện cớ ông đã tám mươi tuổi rồi, sức khỏe yếu kém lại bị thấp khớp nên họ không cho ông quay trở về với bà nữa. Khi nghe ông thông báo tin tức đó qua điện thoại, bà chưng hửng – nhưng đành thở dài cam chịu. Một lần nữa bà chấp nhận cảnh cô đơn, nhưng lần này sống cô đơn ở độ tuổi bảy mươi sáu, ở độ tuổi bà nhận ra mình đang già đi thật nhanh, là điều bà không thể quen thuộc nổi. Tạo hóa đã sinh ra muôn vật sống phải có đôi, có cặp, bà không thể sống trái với quy luật sinh tồn của Tạo hóa. Bà cần một người đàn ông, cho dù người đàn ông đó đang lọm thọm chống gậy ở tuổi tám mươi thì ông cũng vẫn là một người đàn ông!
Trong một buổi tiệc cưới của đứa cháu ngoại của một người bạn khác, bà tình cờ ngồi bên cạnh ông Nguyện và một lần nữa duyên số lại kết hợp hai ông bà với nhau. Tuổi tám mươi nhưng ông Nguyện còn khỏe mạnh, còn lái xe được và đi đứng thẳng thớm chứ chưa đến nổi phải vịn tường lết đi từng bước. Ông Nguyện sống một thân một mình, đám con lớn có vợ có chồng ra riêng hết chẳng thèm ngó ngàng tới cha gì, thỉnh thoảng cuối tuần bọn họ ghé vào thăm ông, hỏi han mấy câu: “Ba có mạnh giỏi không?”, “Ba có cần ăn uống gì không?”, rồi lên xe dông đi mất.

Thấy tội nghiệp ông, bà mở lời đề nghị:
-Anh dọn qua ở với em luôn đi.
Ông nhìn bà, ngỡ ngàng rồi lắc đầu:
-Cảm ơn em, nhưng anh không muốn làm phiền em đâu.
thanks.gifhiền gì mà phiền? Coi như anh với em góp gạo nấu cơm chung. Anh nấu cơm thì em rửa chén. Em quét nhà thì anh lau nhà.
Ông bóp bóp bàn tay bà, giọng nói tràn ngập cảm xúc:
-Cảm ơn em. Để anh thu xếp rồi anh sẽ trả lời em sau.

Nhưng rồi ông Nguyện giải quyết theo cách khác, ban ngày ông ở nhà bà, ban đêm ông về nhà ông, họ sẽ sống với nhau không hẳn như hai người tình mà là như hai người bạn, dù sao “tương kính như tân” vẫn hơn “thân quá hóa lờn”. Bà lắc đầu chịu thua, đành phải làm theo quyết định của ông. Nhưng rồi bà lại thấy ý kiến đó hay ho và thú vị. Buổi sáng ông lái xe đến, nhẹ tay mở cửa và bước vào trong nhà cùng với một món ăn điểm tâm cho hai người. Tính bà thích trang điểm kỹ lưỡng cho nên sau khi son phấn lượt là xong bà mới bước ra khỏi phòng ngủ để đón ông. Bà quàng tay ôm cổ ông và đi vào bếp pha cho ông một tách cà phê nóng, pha cho bà một tách sữa ca cao. Nơi bàn ăn, chỗ ngồi của ông phải là chiếc ghế đối diện với bà, ông không bao giờ muốn ngồi ở chỗ khác cho dù đó là chiếc ghế đặt bên cạnh bà.

-Tại sao kỳ cục vậy anh?

-Kỳ cục gì đâu? Tại vì anh thích vừa ăn vừa ngắm em vừa nghe em nói. Nhan sắc của em vẫn còn mượt mà và trẻ đẹp trong mắt anh. Giọng nói của em vẫn còn ngọt ngào và êm ái trong tai anh.

Bà biết ông nói thật. Người đàn ông ở lứa tuổi nào cũng có thể nói dối hoặc nói cho qua chuyện, nhưng khi đã bước qua tuổi bảy mươi, họ chỉ thích nói thật. Bởi vì nếu hôm nay họ không nói thật lòng, biết đâu ngày mai họ chẳng còn cơ hội để làm điều đó nữa.

Bà và ông Nguyện ngồi đối diện nhau, vừa nhâm nhi ăn sáng vừa rủ rỉ nói chuyện. Chuyện tuyết rơi ở New York . Chuyện hoa mộc lan nở tím trên cành. Chuyện mấy con quạ kêu ầm ĩ mỗi khi kéo nhau bay ngang qua mái nhà. Chuyện ông Bill đi lượm chai trong bồn rác để mang đi bán kiếm vài đồng. Họ ăn xong bữa sáng rồi mà câu chuyện vẫn chưa dứt.

Buổi trưa nếu bà làm biếng nấu nướng thì ông đi bộ tới tiệm cơm ở bên kia đường để mua hai hộp cơm mang về. Sau đó ông cầm bịch rác to tướng mang ra khỏi nhà, lững thững đi tới bồn rác ở cách nhà khoảng bốn trăm thước, vừa đi vừa hít thở cho tiêu cơm.

Buổi chiều hai ông bà rủ nhau đi lòng vòng quanh cư xá để tập thể dục. Họ bước chầm chậm trong ánh nắng chiều vàng vọt, trong sự im lặng và tĩnh mịch của buổi hoàng hôn.

-Anh có thấy lạnh không anh?
-Không, em. Anh mặc đủ ấm rồi em.
-Một lát nữa mình ăn tối với cái gì nong nóng nghen anh.
-Nếu em thích ăn mì vịt tiềm thì anh đi mua cho.
-Mì vịt tiềm của tiệm Lục Đỉnh Ký ăn được lắm đó anh.
-Ừ. Lát nữa anh đi mua về cho em.

Ông Nguyện chìu chuộng bà như thuở vẫn còn đôi mươi, còn bà thì mềm mỏng và dịu dàng như cô thiếu nữ mười tám. Họ nói chuyện thủng thẳng với nhau, không cáu kỉnh cũng chẳng giận hờn, cứ hết lòng “tương kính như tân” với nhau. Khi bà mệt thì ông đứng sau lưng bà, bóp vai, bóp lưng. Khi ông mệt thì bà đỡ ông nằm xấp xuống, xoa dầu, cạo gió cho ông. Bà nương vào ông, ông tựa vào bà, họ cần có nhau như đũa phải có cặp, dép phải có đôi, không cần biết ngày mai ngày mốt ai sẽ là người ra đi trước, ai là người khóc ai trước, ai sẽ là người tiễn đưa ai trước.

Sau bữa ăn, bà đứng trong khung cửa sổ nhìn theo ông tay cầm bịch rác to tướng, đi chầm chậm tới bồn rác. Mái tóc ông bạc trắng như cước làm trái tim bà gợn lên chút xót thương. Sống với nhau hơn gần hai ngàn ngày (chỉ là ngày thôi, không hề có đêm) bà nhận được biết bao sự chăm sóc tự nguyện mà ông dành cho bà. Bữa điểm tâm sáng nóng hổi. Bữa cơm trưa nhẹ nhàng với dĩa trái cây ngọt ngọt, chua chua. Bữa ăn tối nóng sốt dưới ngọn đèn chùm màu vàng cùng với một ly rượu chát nhỏ chia đôi. Những hình ảnh ấm cúng giữa ông với bà như cuộn phim quay chậm cứ hiện về rõ mồn một trong trí óc khiến có lúc bà mỉm cười một mình khi vân vê tấm rèm vải trong tay, chờ đón ông đẩy cửa bước vào trong nhà.

Tình yêu của người già mong manh như chiếc lá úa vàng trong mùa thu. Lúc đó những chiếc lá khô quắt queo lại chỉ dính một chút xíu vào cành cây chực chờ một cơn gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng lả tả. Bà hiểu điều đó nên rất trân quý tình yêu, tình bạn của ông Nguyện dành cho bà. Đi đâu (đi shopping, đi mua sắm) bà cũng năn nỉ ông đi theo, để bà được nắm tay ông, để bà có thể làm bộ hỏi ý kiến ông về món đồ muốn mua, để bà được hưởng cảm giác bà vẫn là một nhân vật quan trọng, quan trọng nhất trong đôi mắt ông.
Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi. Còn ông Nguyện thì được tám mươi lăm. Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…



NGUYỄN THỊ BÍCH NGA
( Westminster )


---


Back to top
« Last Edit: 07. Mar 2011 , 22:32 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Pham_Kieu_Lieu
Full Member
***
Offline


My heart belongs to Mommy

Posts: 227
Re: Truyện ngắn
Reply #133 - 14. Apr 2011 , 05:36
 



Chuông gió màu tím


Đoàn Thị Hồng Thủy

  “Em sẽ chờ, cho đến ngày anh nói yêu em!”


Anh biết không Sơn, tình yêu đích thực ấy, cũng như âm thanh của chuông gió, mỏng mảnh đẹp đẽ và cũng thật khó nắm bắt. Nhưng nó chẳng bao giờ mất đi cả, chỉ cần có gió thì chuông gió sẽ lại kêu.

...


Ký ức

Mấy đứa bạn thân vẫn bảo Nga là mẫu con gái chỉ tồn tại trong tiểu thuyết, truyện tranh và phim ảnh. Nghĩa là nhạy cảm quá, lãng mạn quá, chung tình quá! Nga chỉ cười. Nga cũng có muốn thế đâu, nhưng biết làm sao được, tại vì đó là Nga và… cũng tại vì đó là Sơn.

Nga gặp Sơn trong kỳ thi học sinh giỏi năm lớp 4. Nói ra thì chẳng ai tin nhưng ngay từ ánh mắt đầu tiên Nga đã đổ Sơn, đổ đứ đừ đừ. Chuyện say nắng trẻ con tưởng thế là xong nhưng chắc là duyên phận nó không buông tha Nga (!) nên giữa học kỳ II, Sơn chuyển đến. Trường của Nga, lớp của Nga.

Sơn đẹp trai, học giỏi. Nhưng tính tình đáng ghét không chịu được. Thế mà Nga vẫn thích Sơn, thích đến phi lý, thích đến không chịu nổi (!). Thích đến mức Nga đâm ra cáu cả với bản thân, cáu vì không dám nói, cáu vì sao Sơn lạnh lùng thế, sao chẳng bao giờ biểu lộ chút ít rằng Sơn cũng thích Nga!

Lên cấp II, vẫn chung lớp và Nga vẫn thích Sơn. Nhưng Sơn không còn lạnh lùng nữa, Sơn quay sang… thích một cô bạn khác. Nga xé tan cuốn nhật ký đầy những dòng chữ về Sơn, quệt nước mắt và tự nhủ rằng lần này sẽ ghét Sơn thật, ghét mãi mãi.

Sang cấp III, hai đứa chung truờng nhưng khác lớp. Hình như Nga đã quên Sơn thật rồi, chỉ thỉnh thoảng vẫn lắng tai nghe khi biết Sơn có bạn gái, chỉ thỉnh thoảng vẫn cười khi gặp Sơn trên đường. Trái tim con gái mới lớn mềm lắm, thích lưu giữ kỷ niệm như món đồ yêu thích để lâu lâu lôi ra ngắm nghía và mỉm cười.

Nga đỗ ĐH. Ngày chia tay ngôi truờng quen thuộc, Nga mua một chiếc chuông gió màu tím, treo lên khung cửa sổ ngập gió và nắng. Tiếng chuông leng keng leng keng mỏng tang, trong vắt. Nga gửi một phần ký ức vào tiếng chuông ấy để gió cuốn đi, cuốn xa, xa mãi.

Chuông rung

Ba năm trôi qua, Sơn đã gần như hoàn toàn biến mất khỏi ký ức của Nga, chỉ thi thoảng, rất thi thoảng thôi mới lại xuất hiện trong giấc mơ nhạt nhoà của thiếu nữ như vệt nắng bướng bỉnh cuối chiều dùng dằng chưa tắt hẳn. Giờ đây Nga có thể vừa đi bộ vừa thản nhiên bàn tán trêu đùa với hai con bạn thân về cái ngày xưa cũ kỹ và ngốc nghếch ấy. Vậy mà…Sơn không để cho Nga yên. Giữa lúc câu chuyện đang sôi nổi, Sơn dừng xe, xen vào giữa ba cô gái:

- Chào, lâu lắm không gặp!

Chỉ thế thôi mà tim Nga chòng chành. Khi hai con bạn rất tự nhiên thoải mái hỏi Sơn đủ thứ chuyện thì Nga hầu như im lặng. Sơn khác quá. Trước mặt Nga là một chàng thanh niên đã hoàn toàn trưởng thành, ánh mắt rắn rỏi, bờ vai vững chắc. Nga cảm thấy nước mắt chực trào ra đến nơi. Sơn vẫn cười, còn hỏi Nga có người yêu chưa. Nga lắc đầu. Nga cố cười một cái mà không nổi. Đã 3 năm rồi, 3 năm Nga không gặp Sơn dù hai đứa học ĐH chung thành phố. Hốt nhiên con bạn đáng ghét (hay đáng yêu) chỉ về phía Nga, giọng nửa đùa nửa thật:

- Ông có rảnh thì đưa nó đi chơi với! Nó dở hơi lắm, ở giữa thủ đô mà chẳng chịu hưởng thụ gì cả, suốt ngày chỉ sách với vở.

Sơn gật gật, quay sang nháy mắt với Nga một cái. Nga lặng đi, bỗng nghe trong đầu hình như có tiếng leng keng. Gió cuốn đi tiếng chuông gió và rồi lại trả lại, nguyên vẹn.

Bước tới

Nga không còn là con bé con học lớp 4 nữa, cũng không còn là cô nữ sinh cấp II cấp III. Nga yêu và muốn được nói ra tình yêu ấy. Chỉ cần một lần với tất cả khắc khoải tích tụ bao năm và toàn bộ can đảm có thể gom góp. Dù cánh cửa mở ra hay khép lại thì Nga tin rằng từ nay có thể nhẹ lòng bước tiếp mà không cần phải nuối tiếc nhìn về phía sau nữa. Cánh cửa vẫn khép. Nga khóc thêm một trận rồi mỉm cười, tháo chiếc chuông gió khỏi ô cửa sổ. Hôn nhẹ lên ngôi sao màu tím, Nga thì thầm: “Tạm biệt!”. Chiếc chuông được đặt vào ngăn kéo cuối cùng, khoá chặt.

Xuất phát

“Sơn buồn quá! Nga có thể chia sẻ nỗi buồn với Sơn không?”

12h đêm. Màn hình điên thoại loé sáng, phả vào khuôn mặt ngái ngủ của Nga màu xanh chập chờn. Không chủ định nhưng Nga vẫn bật dậy đọc đi đọc lại tin nhắn ngắn ngủi.

Những con chữ như xô lệch nhau. Kể từ sau khoảng thời gian ấy hai đứa y như hai dòng kẻ song song, không có giao điểm. Nhưng giờ đây Sơn tìm Nga. Linh cảm con gái trong Nga rung lên. Những ngón tay lẩy bẩy, truợt khỏi bàn phím.

- Sơn đây - Sơn gọi thẳng, không đợi mail hồi đáp - Nga ngủ chưa?

- Chưa - Nga đáp, hoàn toàn tỉnh táo.

- Vậy Nga nói chuyện với Sơn một lát nhé?

- Ừ!

- Sơn gặp chút chuyện Nga ạ. Nhưng Nga đừng hỏi là chuyện gì nhé! Chỉ biết là giờ tâm trạng Sơn y như tờ giấy nhàu nhĩ, cần có người giúp vuốt thẳng lại. Ở cái nơi xa lạ này chỉ có mình Nga là người quen cũ, biết Sơn lâu nhất thôi.

Suốt phần còn lại của đêm hôm ấy Nga hầu như chỉ lắng nghe. Sơn nói toàn chuyện linh tinh, tràn từ chuyện này sang chuyện khác. Nỗi buồn như cốc cà phê đặc, khó uống đến mấy nhâm nhi mãi cũng phải cạn. Khi mặt trời hắt tia nắng đầu tiên lên bệ cửa sổ thì Nga đặt mobile xuống, đứng dậy mở ngăn kéo cuối cùng ra. Chiếc chuông gió vẫn nằm yên tĩnh, hắt lên màu tím trong suốt đến lạ lùng. Nga treo chiếc chuông lại chỗ cũ. Không có gió nhưng những ống kim loại vẫn va vào nhau kêu leng keng leng keng.

Hành khất

- “Em yêu, chào buổi sáng !”

- “Em yêu, chúc ngủ ngon !”

Rất nhiều lần Nga tự hỏi không biết mình có phải là một cô gái quá dễ dãi trong tình yêu không, bởi một cái ôm đã đủ để Nga ở bên Sơn vô điều kiện, bởi chỉ cần hai tin nhắn suốt cả ngày đã làm Nga vui sưóng đến điên lên. Nhưng không phải thế. Chẳng ai biết Nga thèm được nghe nhiều thật nhiều câu yêu thương ra sao, thèm được trò chuyện nhắn tin thật lâu cho thoả nỗi nhớ nhung thế nào. Thế mà Nga vẫn luôn phải giữ vẻ thăng bằng tuyệt vời, hài lòng với những gì nhận được. Ngay cả khi Sơn không liên lạc gì suốt vài ba ngày. Ngay cả khi những tin nhắn quan tâm không được hồi đáp. Ngay cả khi Sơn cáu kỉnh giận dữ vô cớ. Và ngay cả khi Sơn chưa bao giờ nói được với Nga một lời yêu hoàn chỉnh. Trong tình yêu ai yêu nhiều hơn sẽ là kẻ yếu thế. Nga chưa khi nào tính toán kiểu ấy, nhưng giờ đây… Không, Nga không hối hận vì đã dành tình cảm cho Sơn. Chỉ có điều Nga không muốn làm một kẻ hành khất, nghèo túng dến mức phải đi mót tình yêu và hạnh phúc từ người khác.
Sinh nhật Nga. Nga chọn chiếc váy trang nhã thậm chí còn trang điểm đôi chút và hồi hộp chờ đợi. Sáng, trưa, chiều rồi chiều tối. Niềm háo hức cạn dần theo mỗi phút lạnh lùng trôi qua. Đến khi trời tối hẳn thì Nga không chịu nổi nữa. Nga lên xe, phóng tới chỗ trọ của Sơn. Sơn về muộn. Thấy bóng Nga đứng im lặng bên cánh cửa, Sơn ngạc nhiên rồi khó chịu:

- Sao em tới mà không báo trước?

- Anh ăn tối chưa? - Nga không trả lời mà hỏi lại.

- Chưa.

- Vậy anh mở cửa đi. Em sẽ nấu bữa tối. Em mang đồ tới rồi.

Nga giơ chiếc túi nặng trĩu lên, nói. Bữa ăn diễn ra trong im lặng. Đang gắp vào bát Sơn miếng nem rán, Nga bỗng dừng lại, hỏi một câu, giọng nhẹ tênh:

- Em có làm phiền anh không?

  Sơn ngẩng lên, ngạc nhiên rồi ú ớ. Nga cười:

- Em đùa thôi!

Bữa tối kết thúc, Nga dọn dẹp gọn ghẽ rồi xách túi ra về. Bước ngang qua cửa, Nga đột ngột dừng lại, chừng như bỏ quên món đồ nào đó:

- Này anh không biết đâu, em thích anh từ hồi năm lớp 4 cơ đấy!

Nga lại cười nhưng lần này không kèm câu “em đùa thôi” đằng sau nữa. Còn Sơn sững ra như một thằng ngốc lần hai. Nga vẫy tay, bước ra sân lấy xe phóng đi. Không ai biết làn gió lạnh đêm đó đã lau khô rất nhiều nước mắt trên gò má trắng xanh. Suốt đêm ấy Nga ngồi rất lâu bên khung cửa sổ. Tiếng chuông gió yếu ớt lúc có lúc không. Mobile liên tục loé sáng báo cuộc gọi lỡ và tin nhắn. Đêm nay ít gió quá. Ừ, dù chuông tha thiết muốn ngân vang nhưng đâu phải lúc nào gió cũng thổi đúng không?

- “Anh có yêu em không?”

Ốc sên

Sau tin nhắn cuối cùng ấy Nga không gặp Sơn nữa. Như chú ốc sên cô độc Nga rúc sâu vào cái vỏ của mình, tự gặm nhấm và hàn gắn vết thương. Sơn vẫn liên tục gọi điện, gửi tin, email thậm chí thông qua bạn bè tìm cách gặp Nga. Nga biết hết, thậm chí cũng có lúc mềm lòng, định nhượng bộ nhưng rồi kịp kềm lại, tự nhắc nhở bản thân phải kiên cường hơn. Một tháng sau, Nga đọc được những dòng comment trên blog:

- “Anh xin em. Anh sắp phát điên rồi!”

Nga đọc đi đọc lại dòng chữ ngắn ngủi rồi rút điện thoại, bấm số của Sơn. Cho một cuộc hẹn.
Sơn đến rất sớm. Chiếc bàn quen thuộc vẫn trống trơn. Sơn ngơ ngác ngó quanh, cố tìm kiếm một bóng dáng thân yêu.

- Thưa anh là Sơn?

Tiếng người bồi bàn vang lên sau lưng... Sơn ngoảnh lại. Anh ta đặt vào tay Sơn một hộp giấy nhỏ, nói:

- Có người gửi cho anh thứ này.

Sơn quay lại chỗ ngồi, lặng yên ngắm chiếc hộp một lát rồi mới cẩn thận mở ra. Bên trong là một chiếc chuông gió màu tím tuyệt đẹp. Khi Sơn nhấc nó lên, những ống kim loại khẽ va vào nhau tạo thành âm thanh mảnh dẻ trong trẻo. Đáy hộp còn một tấm bưu thiếp gấp đôi.

“Sơn anh đừng giận khi em lẩn trốn không ra gặp mặt anh. Em cần có thời gian để lấy lại sự bình ổn cho bản thân. Hơn nữa, nói ra thì xấu hổ, em sợ chỉ cần thấy mặt anh là em sẽ lại nhào vào vòng tay anh mất. Bởi em còn yêu anh nhiều lắm! Nhưng nếu như thế liệu tình yêu của chúng mình có khác đi không hay lại đi vào lối mòn như cũ, cứ mãi dằn vặt và làm tổn thương lẫn nhau. Anh hãy cho em, cho anh và cho cả tình yêu của chúng mình thêm chút ít thời gian nữa nhé. Anh biết không Sơn, tình yêu đích thực ấy, cũng như âm thanh của chuông gió, mỏng mảnh đẹp đẽ và cũng thật khó nắm bắt. Nhưng nó chẳng bao giờ mất đi cả, chỉ cần có gió thì chuông gió sẽ lại kêu”.

Sơn lặng đi, cảm thấy giọng nói dịu dàng của Nga, trái tim tha thiết của Nga đang rất gần đâu đây.

Chờ

Từ hôm ấy bên khung cửa sổ của một chàng trai có treo một chiếc chuông gió. Lần này đến lượt chàng trai chờ đợi, chờ ngày có gió thổi và chuông gió lại kêu.

Back to top
 
 
IP Logged
 
Hoa Hạ
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 1628
CA, USA
Gender: female
Ngày 30 tháng 4 năm 1975..... moi doc
Reply #134 - 14. Apr 2011 , 06:33
 
Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG Cái Bóng Của  HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN
hay Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn VŨ TIẾN QUANG

(Trích trong bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)

Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”.
Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:

Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.
Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.

Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.
Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.
Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm.
- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả “.
Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…
Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi :
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
“Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:
- Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
- Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ?
Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?

Ghi chú :
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique) , tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.

Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.
Back to top
« Last Edit: 14. Apr 2011 , 06:34 by Hoa Hạ »  
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 7 8 9 10 11 
Send Topic In ra