Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Truyện ngắn  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 8 9 10 11 
Send Topic In ra
Truyện ngắn (Read 28216 times)
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4027
Re: Truyện ngắn
Reply #135 - 15. May 2011 , 21:24
 

Truyện rất Ngắn


1.- Nồi cá bống kho tiêu
Ba mươi tuổi đầu, lận đận chiến chinh, chưa kịp lấy vợ thì trời sập. Đi tù. Mẹ thăm nuôi 6 tháng một lần. Quà chỉ có nồi cá bống kho tiêu và nước mắt thương con. Được 3 năm thấy mẹ già đi, tóc bạc phơ. Thương mẹ, hắn bảo mẹ đừng lên thăm nữa. Nhưng đến kỳ thăm lại đi ra đi vào, trông ngóng mẹ. Suốt hai năm không thấy mẹ lên thăm.

Được tha, về nhà mới hay khi mẹ về gặp mưa bị cảm nặng trong lần thăm nuôi sau cùng và đã qua đời hai năm rồi. Giỗ mẹ, hắn đi chợ mua cá bống về kho tiêu. Giỗ xong bưng chén cơm và đĩa cá bống kho tiêu cúng mẹ xuống ăn, hình như có vị mặn của nước mắt.

2.- Tình đầu
Mười tám tuổi, yêu tha thiết, tỏ tình. Nàng chu mỏ: học trò ,nhỏ xíu, bày đặt. Hai mươi hai, Thiếu úy Sư Đoàn 18, về phép đến thăm, nàng lạnh lùng. Sợ làm góa phụ lắm. Hai mươi sáu Đại úy Trưởng khối CTCT Trung Đoàn. Khó chết rồi, xin bỏ trầu cau. Nàng ậm ừ để suy nghĩ lại đã. Tháng 4/75 chạy giặc, lạc mất nhau.

Ở tù ra, gặp lại. Nàng đã có chồng, hai con. Buồn và mặc cảm, thôi cứ ở vậy không lấy ai. Ba mươi năm sau, lận đận quê người ,gặp lại. Nàng chồng chết, các con trưởng thành ra ở riêng. Mừng rơn ,mời nàng đi ăn cơm tối nhà hàng. Tỏ tình. Nàng thẳng thừng: già rồi bận bịu nhau làm gì, ở một mình cho khỏe.

3- Hai chị em
Chị quen anh Hân, trung úy phi công. Anh đến nhà chơi, thấy em gái quấn quít Hân, chị nhường. Hai người tổ chức đám cưới, chị gom hết tiền để dành tặng đôi vợ chồng mới.

Em có thai đứa con đầu lòng được 6 tháng thì Hân đi tù cải tạo. Chị thương em đang có con dại, thay em đi ra Bắc thăm nuôi Hân. Con được hai tuổi, em đi buôn hàng chuyến, lỡ có thai với người tài xế. Chị tiếp tục đi thăm, dối Hân em dẫn con đi vượt biên rồi. Thấy Hân mừng cho tương lai vợ con mình, chị xấu hỗ, tủi thân, âm thầm khóc lặng lẽ trên chuyến tàu lửa từ Hà Nội về lại Sài Gòn.

Hân về, biết sự thật. Buồn, dẫn con gái đi vượt biên. Nghe tin hai cha con chết trên biển, chị lập bàn thờ. Lấy tấm hình Hân đứng bên cạnh chiếc máy bay phản lực F5 Hân tặng chị hồi mới quen rọi lớn ra, bỏ vào khung đặt lên bàn thờ, chị khóc gọi Hân ơi…

4- Khói thuốc
Năm thứ hai ở Đại học CTCT Đà Lạt, Duy quen Trinh, học năm thứ nhất ở Đại học Chính TrịKinh Doanh. Hai đứa yêu nhau tha thiết, thề hẹn sống chết với nhau . Tốt nghiệp, Duy về Sư Đoàn 5 bộ binh, hành quân liên miên Bình Dương, Bình Long, Phước Long. Đêm hành quân giăng võng nằm trong rừng cao su Đồng Xoài, Duy mơ có dịp về phép Đà Lạt, cùng Trinh tay trong tay dạo khắp Thành Phố Sương Mù, rồi vào Cà phê Tùng gọi một gói thuốc Capstan, một tách cà phê sữa, một ly sữa đậu nành nóng, cho ấm.

Trinh ra trường về nhà ba mẹ ở Sài Gòn. Duy xin phép thường niên được 7 ngày, ghé thăm. Trinh báo tin ba mẹ gả em cho anh giám đốc Trung Á ngân hàng. Cưới xong chắc em cũng vào làm ở đó luôn cho tiện. Mẹ bảo em hãy quên ông Trung úy đó đi.

Hai tháng sau Duy bị thương về nằm Tổng Y Viện Cộng Hòa. Anh lính đơn vị cử đi theo chăm sóc chạy về báo tin hôm nay đám cưới cô Trinh, thấy nhà trai tới với nhiều xe hơi sang trọng lắm.

Duy chống nạng ra ngồi trước hiên, châm điếu thuốc. Thẩm quyền! bộ ông đang khóc đó hay sao? Không phải đâu, chỉ là khói thuốc lá cay cay làm chảy ra nước mắt…


5 - MẸ VÀ CON

Con lên ba, chơi bên nhà dì, bị xe đạp ngã, trúng đầu chảy máu. Mẹ đang nấu cơm, hốt hoảng bế con chạy ngay đến bệnh viện. Hú vía. Vết thương chỉ nhẹ bên ngoài thôi. Hoàn hồn, mẹ nhìn lại mình: chân không dép, quần ống cao ống thấp, áo loang lổ vết máu. Chả giống ai! Mẹ cười.
Con lớn, mẹ bỗng bị chứng nặng tai. Lần lữa mãi, mẹ mới nhờ con đưa đi khám bệnh. Bác sĩ bảo: Để quá lâu, hồi phục thính lực cũng khó. Nhìn mặt mẹ ngơ ngẩn. Con khóc.



6- BA VA CON


Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như hai năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân lên đưa cho tôi.
Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:
- "Có dư đồng nào không con?".
Tôi đáp:
- "Còn dư bốn ngàn ba ạ".
Ba nói tiếp:
- "Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa".
Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng.


Back to top
« Last Edit: 15. May 2011 , 21:26 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4027
Re: Truyện ngắn
Reply #136 - 14. Jun 2011 , 18:06
 
Nhân ngày father's day  chủ nhật 19 tháng 6 - thân tặng truyện ngắn 

BỐ  -CON 

Tác giả NGUYÊN NHUNG






Bố Và Con

* Nguyên Nhung



Nhà tôi “dương thịnh âm suy”, một ông bố với ba thằng con trai mà tôi hay gọi đùa là “bố già, bố trẻ”. Đàn ông lo việc ngoài, đàn bà lo việc trong, người lo việc ngoài ăn xong bày bừa ra cho nên việc trong dù  không ít hơn việc ngoài, nhưng vẫn mang tiếng là “ngồi chơi xơi nước”. Ngày được định cư tại Hoa Kỳ, vừa đặt chân đến phi trường Quốc Tế, người bảo trợ có mời thêm vài người quen cùng đón cho xôm tụ, một bà  nhìn gia đình mới đến  phán một câu xanh rờn: “ Nhà này kém phúc đức nên đẻ toàn con trai”. Cả nhà ngớ ra không hiểu, sau mới biết gía chi có một cô con gái xinh xinh tuổi cập kê, nhà sẽ tấp nập vài chàng trẻ tuổi đang kiếm vợ chở đi làm giấy tờ, khám sức khoẻ hay chợ búa, không vắng như “chùa Bà Đanh”.



Tôi không thích khoe khoang về ông “Bố” của nhà  đâu, vì chả lẽ lại “mèo khen mèo dài đuôi”,  những điều tầm thường trong cuộc sống gia đình chắc nhà nào cũng giống nhau. Ngày lễ Cha ai cũng nhắc đến công ơn sinh thành dưỡng dục của Bố, nhưng cha tôi mất sớm lúc tôi mới năm, sáu tuổi, nặn óc để tìm lại hình ảnh người đã tạo ra mình tôi vẫn không nhớ được bao nhiêu. Vì vậy, người gần gũi nhất trong cuộc đời tôi là bố của lũ con, nếu ví von như cái nóc nhà che mưa che nắng thì cũng không sai chút nào.



Khi hai đưá con tuổi còn thơ ấu bố đã không có nhà, đây là sự thiệt thòi của tuổi thơ mặc dù có mẹ nuôi dưỡng. Thời gian ấy mọi sự bế tắc đè nặng lên gia đình tôi, trong cũng như ngoài, tôi ôm hết cả hai. Nỗi đoạn trường này là của chung nhiều nhà chứ chẳng phải riêng nhà tôi, lưới giăng lồng lộng chẳng chim nào bay thoát nên tôi đành chấp nhận, vừa chạy chợ kiếm ăn vưà dạy con.



Con vừa lớn là bố về kịp lúc, cả nhà mừng húm dù thêm một miệng ăn. Sau một ngày vất vả, lúc về tôi thường tạt qua chợ chiều tìm mua thực phẩm  ế ẩm cuả bạn hàng trong chợ, cuối ngày bán tống bán tháo để về nhà. Bữa cơm nhà nghèo thường chẳng có cao lương mỹ vị, tôi tìm cách chia sao cho bố con cùng vui cùng no. Ít trái cây, vài cái bánh, tôi chia phần:



“Ai nhiều tuổi thì được ăn nhiều, ai ít tuổi ăn ít. Bố hai cái, mẹ và các con mỗi người một cái đồng đều.”



Thằng bé con ngồi đếm xong con toán nhỏ phụng phịu hỏi:

“Sao mẹ lớn mà cũng chỉ có một? Con cũng muốn hai như bố.”



Trẻ con chưa hiểu nổi cảnh nhịn cơm xẻ canh trong thời buổi khó khăn, người lớn chỉ biết cười mà ngậm ngùi trong dạ. Trong trại ngày hai bữa cơm tù, ăn thế nào cũng xong. Trở về với gia đình chưa vui hết niềm xum họp, lắm nhà đã vỡ tan vì cơm áo gạo tiền. Tôi nhìn quanh cuộc sống, nhiều gia đình như vậy nên biết phải tế nhị hơn để cuộc sống tuy thiếu thốn một chút, nhưng chẳng có lúc nào chữ tình chữ nghĩa quý bằng lúc này, chỉ cần gắt gỏng nói một câu thiếu suy nghĩ là hết cả cái tình mình hằng nâng niu gìn giữ.



Thằng bé chào đời sau ngày bố đi xa, mãi đến 7 tuổi mới thấy bố xuất hiện nên  cũng hay “ghen” với bố, tự nhiên trong nhà có một “ông” lạ hoắc đi ra đi vào, lại có vẻ được săn sóc, chia phần nhiều hơn thì  khó chịu lắm. Nhưng dần dần cu cậu lại thích vì từ nay đã có bố đón đưa khi đến trường hay tan học, đối mấy thằng nhóc to con  ăn hiếp thì cu cậu đã vênh mặt lên ra điều “Bố tao đấy!”. Oai thật, bài vở khó đã có bố giảng giải cặn kẽ đến khi nào hiểu mới thôi. Tuy bố chưa kiếm được việc làm để có tiền mua đồ chơi cho con, nhưng mùa trung thu Bố làm cho cái đèn lon sữa bò đục lỗ, trong để cây đèn cầy kéo leng keng trên con hẻm nhỏ, nghe cũng vui tai mà không bị cháy như đèn con gà, con thỏ. Bố về, thêm những món đồ chơi thủ công đẹp khéo tuyệt vời, máy bay, xe tăng, chim chóc xếp bằng giấy, cu cậu tha hồ chơi suốt ngày không chán.



Có bố ở nhà con học hành khá hơn, đứa lớn đã bước vào Trung Học, bỏ đi những môn vớ vẩn nhồi nhét chính trị, bóp méo lịch sử thì mấy môn chính như sinh ngữ, toán bao giờ cũng được kèm cặp đâu vào đấy. Dù sao vốn chữ nghĩa của bố không đến nỗi tệ, tôi yên tâm chạy chợ kiếm ngày hai bữa cơm, việc dạy dỗ học hành cuả con giao toàn quyền cho bố đảm trách. Thỉnh thoảng bố chở con ra bờ sông câu cá, vào công viên chơi đá banh, hôm nào có tiền mua cho con diã bò khô, cây “cà rem”, mấy bố con chơi với nhau , nhìn  bên ngoài tưởng an nhàn, thảnh thơi nhưng thực ra cuộc sống  đang tắc nghẽn trong vòng rào kẽm gai.



Khổ thay! Từ ngày Bố về từ cái nhà tù nhỏ là bước luôn vào cái nhà tù lớn, màng nhện giăng tứ phía như “thiên la địa võng” nên đi đâu cũng có người “quản ný” chặt chẽ. Bực lắm nhưng biết làm sao, ngay cả cái hộ khẩu cũng không có nên hễ đêm nào nghe tiếng chó suả, tiếng bước chân đi rầm rập trên con hẻm tối thui, thêm một hồi chuông cửa lảnh lót giữa đêm khuya là biết nhà được “hỏi thăm”.



Cửa vừa mở, bốn năm cái bóng ùa vào nhảy thoắt lên cầu thang, chỉa đèn pin sáng loè ra tứ phía, vào tận mấy cái giường còn buông mùng sùm sụp. Đang ngủ ngon bị ánh đèn pin chiả ngay vào mặt, thằng bé con ngái ngủ càu nhàu:



“Thằng nào chơi kỳ dzậy?”



Đèn tắt ngúm, các chú “công an” đi xét nhà kiểm soát người cư trú bất hợp pháp đấy chứ có  “thằng” nào đâu, nhưng trong mùng chỉ là thằng con nít đang say ngủ, lục khắp nhà cũng không kiếm ra người ở lậu không khai báo. Sống không hộ khẩu là bất hợp pháp rồi, lại đuổi, đêm nào nghe tiếng chó sủa ồn lên từ ngõ ngoài vào ngõ trong là biết những nhà nào trong xóm được hỏi thăm. Nhà bác Mười “Biệt Kích Dù” bán cá kiểng cá đá, nhà bác Ngôn cựu giám đốc huấn luyện trường Phi Hành  ở Nha Trang ngày xưa, toàn những người vừa từ trại cải tạo về. Sáng hôm sau lại vắt giò lên cổ trình quan Quận, thiếu thủ tục “đầu tiên” nên khi ra về ai cũng nhận tờ trát phải đày đi vùng kinh tế mới. Vẫn lì ra không đi, viễn ảnh một vùng đất khô cằn trơ trụi, không trường học chợ búa, lấy chi mà sống, bao người từ những nơi ấy đã liều lĩnh trở về, không nhà, không hộ khẩu ngủ đầy dưới mái hiên hè phố, đã sao đâu, cùi đâu còn sợ lở.



Muốn lì lợm sống còn trong thời buổi đó cần phải có việc làm, kẻo mang tiếng ăn bám xã hội, lười lao động. Bố đi tìm việc làm, chỗ nào cũng lắc đầu quầy quậy vì cái lý lịch tối thui, may quá nhờ người quen dẫn vào làm một chân “cu ly” đẩy xe ba gác cho hợp tác xã Cơ Khí. Sài Gòn nắng nung người, nắng như thiêu như đốt nên Bố đen thủi đen thùi như con cháu nhà Sihanúc, nhìn thoáng là biết Bố thuộc tầng lớp nào trong xã hội. Dù lương ít nhưng vẫn có lý do “lao động là vinh quang”  để bám trụ thành phố. Mặc kệ, sóng đánh tới đâu thuyền neo tới đó, cạn ao thì bèo xuống đất, vẫn hiên ngang ngẩng mặt nhìn đời vì miếng cơm manh áo mình làm ra từ giọt mồ hôi lẫn trong nước mắt.



Chịu đựng mãi rồi cái gì cũng qua, cho đến một ngày thấy thiên hạ ùn ùn đăng ký đi Mỹ theo diện H.O thì cả nhà vừa mừng vừa không tin nổi, cứ như truyện huyền thoại cây đèn thần xứ Ba Tư. Thời bấy giờ người ta gọi là “những người ho hen” vì ở tù về có hằng trăm thứ bệnh, nhưng cũng nhờ cam khổ  khi thất thế mà sau này cái gì cũng chịu đựng được.  Ánh sáng le lói cuối đường hầm, hình như mãi đến lúc này những người như Bố mới có cơ hội ngẩng mặt lên nhìn ánh mặt trời. Người có tiền rỉ tai nhau  ùn ùn ra Hà Nội chạy chọt để được đi trước, ai cũng bảo nhau “sang sau, trâu chậm uống nước đục”, Bố vẫn bình chân như vại vì nghĩ chương trình “Ra Đi Có Trật Tự” thế nào cũng tới lượt, với lại con người còn  có số mạng.  Ở đó mà chờ tới lượt, không có thủ tục “đầu tiên” thì đừng nói chuyện ra đi. Sốt ruột quá, mẹ lại vét hết trong nhà cho đủ tiền lên danh sách mới chóng được rời khỏi đời sống tối tăm này, thôi đành “qua sông thì phải luỵ đò” vậy.



Ngồi trên máy bay rồi cả nhà mới thở phào, dù rằng trước giờ ly biệt với người thân, những giọt nước mắt ngắn dài thi nhau tràn ướt má. Người ở lại vẫn vất vả với cuộc sống vá víu hằng ngày, người đi mơ ước một tương lai xán lạn  cuối chân trời, nhưng vẫn lo lắng chẳng biết sẽ làm gì nơi xứ lạ. Mãi tới khi đặt chân đến phi trường đầu tiên ở San Francisco chờ máy bay chuyển tiếp sang Houston, thấy người lao công quét dọn rất nhàn tản trong nhà vệ sinh mát rượi , Bố cứ thắc thỏm mơ ước sao qua Mỹ kiếm được một cái “job” thơm  như vậy.



Mùa Đông đầu tỉên ở nước Mỹ mưa gió lạnh lùng, buồn bã làm sao, nhưng đó là cảnh ngoài trời còn trong nhà thì đang chứa chan niềm hy vọng. Khổ nhiều rồi, chả lẽ không chịu nổi khi xứ sở này cơ hội có bỏ ai bao giờ, nếu không lười biếng mà chấp nhận ngay một công việc tầm thường, đời vẫn còn ngon chán. Ở quê nhà, ai cũng tưởng hễ sang Mỹ là lũ nhỏ nhảy tót vào trường học, chỉ một thời gian là tốt nghiệp bằng này cấp kia. Thực ra con ngu ngơ chưa biết gì, tiếng Anh còn ngọng ngịu nói mãi chưa được một câu, Bố vẫn hiên ngang  làm cái “đầu tàu” kéo nguyên một toa tầu nặng nề vượt qua những chặng đường ray dài dằng dặc.



Vừa qua Mỹ người tỵ nạn nào cũng cuống quýt lên đi tìm việc làm, trước hết trả tiền nhà cửa , “bill” bọt hằng tháng, sau là gửi về VN cho người thân để khoe cái may của mình khi ở  “xứ sở của mật ong và sữa”, mấy ai đã có lúc hiểu nổi cái khổ của con bò và con ong. Chân ướt chân ráo vừa đến được hơn tuần, một bà cùng quê đã ưu ái quan tâm gọi tới, giọng “bề trên” chắc nịch:



“Nếu cô chú muốn mau ổn định như người ta, phải nghe tôi. Tôi có cái tiệm “Grocery” khu da màu đắt hàng lắm, thấy chú nhanh nhẹn tôi dành cho một chân bán hàng từ 5 giờ chiều đến 11 giờ đêm, (giờ của bóng đêm và tội ác), buổi sáng vẫn đi học được như thường. Cô sạch sẽ khoẻ mạnh, đến nhà giữ cháu nội cho tôi và làm việc nhà, mỗi tuần hai trăm, người khác chỉ trả trăm rưởi.”



Cả nhà ngồi tính toán, lại mừng húm, trước mắt có công ăn việc làm rồi nhà cửa, xe cộ mấy hồi, đời cứ đẹp như mơ. Nhưng khi hai vợ chồng dẫn nhau đến “tham quan”  tiệm tạp hoá trong khu nhà thấy mấy ông da màu đang xúm quanh đống củi sưởi ngoài sân , giương  mắt chò hỏ nhìn chằm chằm mấy người Á Châu thì hãi quá. Vợ phát rét bảo chồng:



“Thôi anh ạ, khổ thì khổ nhiều rồi. Chính phủ cho mình 8 tháng trợ cấp là để đi học tìm một việc làm hợp khả năng,thế nào họ cũng giới thiệu công việc cho mình, đi làm hãng xưởng vẫn yên tâm hơn. Tại sao không hưởng những ngày học hành thư thả cho người nó khoẻ ra rồi hãy đi làm? Em cũng không thể bỏ chồng bỏ con ở nhà để làm “ô sin”, tiền thì lúc nào chả cần nhưng so với cái “đoạn trường” sau năm 75 chả thấm gì.”



Hai vợ chồng dắt nhau về, còn nghe thêm một bài “gia huấn ca” của người đồng hương là cái thứ mới qua “bày đặt học với hành”. Mãi sau này mới nghe bà ta tự thú rằng đã từng bị kê súng vào màng tang mấy lần mà may quá nó không “ bóp cò”, chứ không cũng đã “tiêu diêu miền cực lạc”. Sau này nghe nhiều người đi trước cũng bảo, chẳng thời gian nào khoẻ bằng lúc mới đến hưởng trợ cấp đi học, khi đi làm rồi mới thấy cái khổ cuả những sáng mùa đông rét thấu xương, những trưa mùa hè nắng cháy, những chiều mệt nhọc khi tan ca mặt trời đi ngủ sớm .





Cuối cùng Bố cũng tìm được việc làm do  Y.M.C.A giới thiệu, lương bổng chẳng bao  nhiêu nhưng cứ hai tuần lại có cái “check” mang về khoe vợ con. Công việc không nhọc nhằn lắm so với những ngày lao động ở quê nhà, nhưng gò bó thời gian như một cái máy chạy đúng giờ giấc. Sáng mù sương rét buốt đã phải lóc dậy lái xe đi làm, hai cha con chung nhau một  xe, chiều về đi xe bus vì con đã lái xe đi làm đi học. Nhờ cái xe tàng mua rẻ được của một ông Mỹ gìa, trong thời gian này hễ có ngày nghỉ  là cả nhà kéo nhau đi chơi. Hết câu cá câu cua lại ra biển tắm tát, điếc không sợ súng nên chỗ nào cũng mò tới mà không sợ xe bị “banh ta lông” dọc đường.



Nhà ba thằng con trai là ba thế hệ khác nhau, tuổi tác chênh nhau nên mỗi đứa Bố lại phải hướng dẫn một kiểu. Đứa lớn nhất đã trưởng thành ở VN, không sợ con hư hỏng nhưng đường đời con còn non nớt quá, chưa hòa nhập được với xã hội mới vì bất đồng ngôn ngữ cũng có, sự học dở dang từ VN nay bắt lại từ đầu khó nhọc biết mấy, cũng vẫn bố khuyến khích dìu dắt để vào đời. Lo nhất là thằng tuổi “teen” mà cha mẹ nào ở Mỹ cũng phát sốt lên vì những phức tạp tâm lý trong những con người trẻ đang tuổi dở dở ương, nhưng cũng nhờ phước đức ông bà để lại, sóng trước đánh sao sóng sau vỗ đó nên thằng anh lại hướng dẫn thằng em, 5 ngày trong tuần đi học còn cuối tuần đi bưng phở kiếm tiền xài thêm.



Mới đút đầu ra đời cu cậu đã choáng váng với cách “vắt chanh phải vắt cho kiệt, xứng với đồng tiền bát gạo” cuả bà chủ tiệm, suốt hai ngày cuối tuần làm việc cật lực nên không có giờ đàn đúm với bạn bè. Khi đổ rác, lúc bưng tô, vài đứa trẻ tuổi mới từ VN sang đã có lúc bị bà chủ mắng té tát khi đứng nói chuyện với nhau ngoài thùng rác. Một anh có tuổi hơn thở dài khuyên thằng đàn em cùng ngành bưng bê:



“Ráng học em ơi! Sau này anh em mình phải ráng thành tài để khỏi bị người ta mắng mỏ như vậy, nhục lắm!”



Nhờ ý chí vươn lên mà sau này cả hai đều đậu bằng Cao học, một kỹ sư điện toán và một kỹ sư xây dựng. Khi dẫn bạn đến ăn ở tiệm phở ngày xưa, bà chủ đã đon đả chào và  khoe với khách hàng: "Tiệm của tôi toàn đào tạo kỹ sư, bác sĩ”. Thật vậy, nếu không nhờ những lời mắng mỏ như té nước của bà thì xã hội đâu có nhân tài.



Thằng bé nhất còn nhỏ quá khi đến Mỹ, đây là sản phẩm “Made in Vietnam” mà Thượng Đế tặng cho cặp vợ chồng gìa, nhưng  hoàn toàn hấp thụ văn hoá Mỹ, nếu như bố mẹ không khéo gần  sẽ thấy cách con hằng vạn dặm. Cha con bàn với nhau, nhà cần có người cơm nước, em cần có mẹ đưa đón khi đi học, và sau giờ học điều cần nhất là không để thằng lỏi lang thang không ai kèm cặp. Giữ thêm vài đứa trẻ nữa để mẹ ở nhà chỉ lo việc trong mà khỏi lo việc ngoài, khỏi thức khuya dậy sớm dầm sương dãi nắng. Kể cũng là nghề tự do, nghe thì nhàn thật đấy nhưng nghề giữ trẻ cực nhọc chứ không nhàn hạ như người ta nghĩ.





Ba đưá con lớn lên trong sự đùm bọc cuả cha mẹ, nhưng lại gần gũi bố nhiều hơn vì khi bước ra đời, có bao nhiêu điều mà người đàn bà ở nhà không làm sao hiểu hết được. Cách ứng xử trong  cuộc đời đầy lừa lọc nơi nào cũng thiên hình vạn trạng, với thời gian các con đã tiến lên nhưng vẫn là con nai tơ đối với cuộc đời muôn mặt. Bố tuy đã lùi bước ra sau nhưng vẫn là điểm tựa tinh thần để con hỏi ý kiến, rút kinh nghiệm khi gặp khó khăn trên đường đời. Bản tính bố cần cù, trầm tĩnh, thận trọng và biết lắng nghe, những điều này cần thiết cho con nhìn rõ những phức tạp trong dòng đời, giải quyết nhiều vấn đề khi con gặp trở ngại, khác với mẹ lúc nào cũng cuống quýt lên như gà mắc đẻ.



Bố còn là chuyên viên kỹ thuật và sửa chữa các thứ hằm bà lằng trong nhà, chiếc lò nướng cũ mẹ vứt vào thùng rác, hôm sau ra “garage” đã thấy nó chễm chệ trở lại nằm cạnh cái bếp điện. Cái xích đu hỏng biến ngay thành cái giàn cho hai nàng tóc tiên và tigôn nở hoa. Cả nhà hay gọi bố là người làm cho nền kinh tế Hoa Kỳ không phát triển, vì chả chịu mua sắm gì cho bản thân, nhưng lại rộng rãi với vợ con trong nhà , vậy mới kỳ cục!



Bây giờ đầu bố đã bạc, mắt đã mờ chân đã mỏi, bố nói năng không hoạt bát, chẳng biết thơ phú văn chương nhưng biết sửa cái nhà cái cửa, biết đóng cái giàn cho bầu bí, hoa kiểng trèo leo. Những công việc tầm thường nhưng thật là cần thiết, nhiều khi hạnh phúc gia đình chỉ cần có thế, các con cần một người hướng dẫn chỉ bảo trong nhiều tình huống xảy đến trong cuộc đời.Bố là chiếc  bóng thầm lặng  nhưng là  bóng mát chở che để gia đình luôn là một mái ấm. Các con lớn dần lên đã có cuộc đời riêng, bên ông bố gìa lại thêm mấy ông bố trẻ, mấy nàng  dâu thì thầm với mẹ chồng:
” Con cũng chỉ mong nhà con được như bố !”



Nguyên Nhung

( Father’s Day 2011
Back to top
 
 
IP Logged
 
TuyetNgo
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 508
Re: Truyện ngắn
Reply #137 - 02. Jul 2011 , 23:59
 


Sự khác nhau giữa chúng tôi và các anh



...





Giữa chúng tôi và các anh có những cái khác nhau.
Chúng tôi hiểu rằng chúng tôi chỉ là con người và các anh cho rằng các anh văn minh hơn con người.
Chúng tôi xây dựng nền văn minh cho dân tộc và các anh khai thác nền văn minh của dân tộc để hưởng thụ.
Chúng tôi yêu đồng bào và các anh yêu đồng bọn.


Chúng tôi có lý tưởng quốc gia và các anh có lý tưởng quốc tế.
Chúng tôi can đảm cá nhân và các anh đê tiện tập thể.
Chúng tôi thương xót các anh vì cho rằng các anh ngu dốt hơn chúng tôi và các anh tiêu diệt chúng tôi vì các anh cho rằng chúng tôi hiểu biết hơn các anh.
Chúng tôi vẫn ảo tưởng các anh là đồng bào và các anh quy chụp chúng tôi là phản động.

Chung quy cũng vì chúng tôi khác các anh.
Khốn nạn thay, chúng tôi và các anh cùng mang dáng vóc con người, cùng là chủng người da vàng và cùng là người Việt Nam!

Và chúng tôi bị các anh cai trị vì chúng tôi nhân đạo hơn các anh.


Bùi Vũ Châu (danlambao)
http://danlambaovn.blogspot.com/
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4027
Re: Truyện ngắn
Reply #138 - 15. Jul 2011 , 20:44
 

                   
Bé  Mốc ngày xưa


                             Nguyễn Thị Thanh Dương

Từ phi trường Tân Sơn Nhất, Khoa được gia đình chú Tuyên đón về nhà ở Bà Chiểu chơi mấy hôm.

. Hôm nay Khoa mới xách va ly trở về xóm cũ Gò Vấp. Mới rời xa Việt Nam 6 năm mà đường phố thay đổi lạ hoắc, cũng may vẫn còn những dấu vết hay chi tiết quang cảnh cụ thể khác để anh không đi lạc.

Cổng vào chùa Thiền Quang đây rồi, cũng là ngõ chính dẫn vào nhà anh, phải đi qua một khu mả bằng đá ong, những tảng đá ong nằm có, đứng có, cao hơn đầu người, người ta đồn rằng của người Pháp xây hồi xưa, nên lối xóm quen gọi là khu mả Tây. Trẻ con khu xóm vẫn chơi đùa ở đó, leo trèo lên những ngôi mộ. Nay khu mả Tây không còn, nên trông cái ngõ như rộng ra.

Gặp anh, nhận ra anh, ai cũng cất tiếng hỏi han thân mật, bù cho những tháng năm sống ở Mỹ hàng xóm lạnh lùng như người tình đang trong cơn hờn dỗi.

Căn nhà của anh được bao quanh bằng bức tường gạch thấp, phía trên cắm những hàng rào bằng sắt, và vẫn là hai cánh cổng sắt, nhưng không còn cây hoa giấy màu đỏ bên cạnh xòe cành lá và hoa đung đưa trong gío nữa.

Chưa kịp tra chìa khóa mở cổng thì một bà hớn hở từ đâu bước vội đến:

-         Cậu Khoa mới về thăm nhà hả? Sống ở Mỹ vui lắm hả cậu?

Khoa chưa kịp nhận ra ai cũng mỉm cười đáp lại:

-         Vâng, chào bác, sống ở đâu cũng có vui có buồn.

-         Có nhớ ra tôi không nào? Tôi ở đằng sau nhà cậu đấy…

Khoa gật đầu:

-         À, bác tên Năm, làm nghề thêu, nên thành tên Năm Thêu chứ gì? Bây giờ bác còn sống bằng nghề thêu, rua gì không?

-         Theo nghề đó là chết đói luôn cậu ơi, thời buổi hiện đại, nghề thêu đan, may vá phải dẹp tiệm nhường cho sản xuất công nghiệp hàng loạt. Tôi chuyển “ngành” rồi, nấu cơm bán cho mấy em công nhân tạm trú ở xóm này, dân miền Trung, miền Bắc “di cư” vào, đói nghèo nên dễ tính, dễ chịu. Hàng cơm tôi cũng đủ sống qua ngày.

Bà Năm Thêu đon đã mời mọc một hơi:

-          Cậu về đây bao lâu?  khi nào đi chơi đâu ăn đó thì thôi, còn về nhà thì ăn cơm ủng hộ hàng tôi nghe? Tôi biết Việt Kiều thì chỉ ăn ở những nhà hàng nổi tiếng hay sang trọng, nhưng cậu thử ăn hàng tôi cho biết đá vàng, ăn bữa nào tính tiền bữa đó, đơn giản và sòng phẳng mà. Việt Kiều tôi sẽ nấu loại đồ ăn cao cấp tiêu chuẩn Việt Kiều, nhưng gía cả vẫn là tình làng nghĩa xóm.

Khoa cảm động, khiêm nhường và hào hiệp:

-         Việt kiều mới là thèm những món ăn bình thường dân dã đó bác Năm Thêu. Nhiều người từ hải ngoại về Việt Nam chỉ để ăn cơm nhà rau dưa. Tôi đồng ý ăn cơm ủng hộ hàng bác, vì tôi sẽ ở Việt Nam khá lâu và thường xuyên ở nhà.

Bà Năm Thêu còn nhiều chuyện, hỏi tới luôn:

-         Nghe nói cậu về bàn căn nhà này, phải hôn? Có gì tôi kiếm người “mai mối” cho mau lẹ…

-         Uả, sao bác biết tôi về Việt Nam để bán nhà?

-         Dễ ợt mà, mỗi lần ông chú của cậu đến quét dọn hay sửa sang nhà cửa tôi có nói chuyện và hỏi thăm về gia đình cậu hoài, nghe nói ở bển gia đình cậu ổn định, khá gỉa tôi cũng mừng giùm. Vừa rồi ông Tuyên nói là cậu sẽ về bán căn nhà này. Thế là ông Tuyên sẽ rảnh tay khỏi phải lò mò từ Bà Chiểu đạp xe xuống Gò Vấp để chăm sóc căn nhà vắng chủ nữa.

-         Dạ, đúng thế. Đáng lẽ tôi bán nhà trước khi xuất cảnh, nhưng để lại cho gia đình thằng em vợ chờ đi xuất cảnh sau. Nó dùng dằng mãi mới chịu đi nên giấy tờ bảo lãnh trễ hơn tôi mấy năm.

-         Nhờ vậy mà hưởng lời đó cậu. Đúng là số cậu trời cho hưởng mà, được gia đình vợ bảo lãnh đi Mỹ sung sướng mọi bề, ngay thời điểm này nhà cửa đang hút gía dữ dội lắm, căn nhà của cậu nằm trong khu đất rộng, có vườn cây, lại thuộc phạm vi thành phố nên khẳm tiền chứ không ít đâu.

Khoa đùa vui:

-         Trời, bác Năm Thêu chuyển ngành nghề môi giới địa ốc, chắc sẽ thành công hơn nấu cơm tháng đấy.

Bà Năm Thêu nhắc lại:

-         Thôi vậy nghen, chiều nay cậu ăn cơm nhà không? thì có cơm mang sang nhà cậu liền.

Khoa nể lòng bà hàng xóm:

-         Vâng, chiều nay cho tôi mở hàng một bữa thử coi, nhớ là mấy món ăn nhà quê dân dã nhé. Tôi muốn ở nhà vài ngày, sống lại kỷ niệm rồi mới đi thăm bạn bè sau.

Bà hàng xóm nhanh nhẩu tốt bụng đi rồi, Khoa mới thực sự bước vào nhà mình, hầu hết những đồ đạc của vợ chồng Khoa để lại, gia đình người em vợ vẫn giữ y nguyên, có lẽ vì họ nghĩ cũng sẽ đi xuất cảnh nên chẳng cần thay đổi hay mua sắm thêm đồ mới làm gì.

Khoa ra vườn sau, khu vườn trồng nhiều cây mít và cây na, lá rụng quanh năm. Anh dẫm chân lên lớp lá khô tưởng như mùa lá cũ năm nào vẫn nằm ngoan hiền ở đây đợi  anh về hội ngộ.

Những cây mít đang treo đầy qủa, anh còn nhớ cây này là mít dừa, cây kia là mít nghệ, múi mít loại nào cũng to bằng cả nắm tay. Còn những cây na cũng có giống na dai, giống na bở. Na để chín cây, mắt na nở ra, nhẹ tay bóp qủa na, ăn những múi na trắng thơm, ngon ngọt lạ lùng

Trong vườn có một cái giếng sâu và trong, cạnh đó là buồng tắm. Khoa sung sướng được sống lại qúa khứ, anh ra quay nước giếng đổ đầy thùng trong buồng tắm và mang những thứ xà bông, dầu gội đầu vào tắm gội, tưởng như mình vẫn đang sống ở Việt Nam của 6 năm về trước.

Tắm xong Khoa vào nhà ngủ một giấc thoải mái, chưa tỉnh giấc hẳn thì đã nghe có tiếng gõ cửa rụt rè, Khoa vội ngồi dậy, vuốt sơ mái tóc và ra mở cửa, anh ngạc nhiên khi thấy một khuôn mặt xinh đẹp, một cô gái lạ, rất trẻ, đang khép nép bên ngoài. Trong phút giây này, khỏanh khắc này, anh bỗng nhớ đến bao năm về trước, Huyền cũng đã e ấp gõ cửa nhà anh, cho anh cảm xúc xao xuyến bất ngờ.

-         Dạ, em chào anh…

Khoa bối rối:

-         Cô tìm ai? Cô có đi lầm nhà không?

-         Dạ, em tìm anh Khoa…má em sai em đến giao cơm chiều cho anh.

Bây giờ Khoa mới để ý đến gỉo cơm trên tay cô gái. Thì ra lúc nãy anh vào nhà và quên không khóa cổng nên cô gái mới đến thẳng cửa nhà anh như thế này. Cô có đôi mắt to đen như nhung mang phảng phất nét buồn, làm người khác nhìn mà phải u uẩn theo. Dáng cô thon thon cao ráo, không lẽ cô là con gái bà Năm Thêu ? người đàn bà suốt một thời tuổi trẻ chăm chỉ ngồi bên khung vải thêu, rua, đến nghọeo cả cổ và gù cả lưng ?

Thấy chủ nhà tần ngần chưa chịu tin, cô gái giới thiệu thêm về mình:

-         Anh không nhớ em thì thôi, nhưng để em kể ra nhé, ngày xưa em hay sang nhà anh bồng em bé và đút cơm cho con anh đó, em là bé Mốc.

-         Ôi, bé Mốc !!

Khoa reo lên, thêm một lần nữa ngạc nhiên, anh nhớ ngay ra con bé Mốc nhếch nhác ngày xưa, bây giờ lại biến hóa thành cô gái đẹp xinh, duyên dáng y như trong chuyện cổ tích. Giây phút gặp gỡ đầu tiên vẻ đẹp của cô làm anh chóang váng, bây giờ định thần nhìn kỹ lại, đúng là cô gái có những nét hao hao bé Mốc. Mà sao ngày xưa anh ghét nó thế? chỉ sợ nó lây cái vẻ xấu và bẩn của nó sang cho con anh thôi, nhưng Huyền vợ anh vốn thương người, muốn giúp nhà bà Năm Thêu chứ thuê mướn người bồng em đầy rẫy trong xóm, thiếu gì người khá hơn nó.

Cô gái thao thao kể tiếp:

-         Nhà em nghèo, má em đã đưa em sang nhà anh chị, coi em, bồng em để anh chị cho chút tiền, được đồng nào hay đồng đó. Năm đó em 13 tuổi.

Khoa hỏi một câu ngẩn ngơ vì vẫn còn bối rối trước vẻ xinh đẹp của cô Mốc:

-         Nhưng sao em lại là bé Mốc nhỉ?

-         Má em nói hồi nhỏ em xấu xí, lại bẩn thỉu, mốc meo và ốm tong teo, bé xíu  nên gọi em là bé Mốc chết tên  luôn, còn tên thật của em không đẹp lắm, nhưng cũng…đỡ hơn. Em tên là Nguyễn thị Nâu.

Khoa thành thật:

-         Dù bé Mốc ngày xưa hay cô Nâu ngày nay, cả hai tên đều lạ cả.

Cô Nâu mang giỏ cơm vào nhà, cô nhẹ nhàng và cẩn thận lôi ra chén bát, đũa thìa và cơm canh nóng hổi để lên bàn rồi nói:

-         Mời anh dùng cơm kẻo nguội, má em nấu món dân quê theo ý anh, cần món gì anh cứ yêu cầu mỗi ngày nghe. Em về đây, lát nữa em sang thu dọn chén đũa.

-         Sao cơm bình dân mà bát chén kiểu sang vậy cô Nâu?

Cô Nâu mỉm cười:

-         Anh không nghĩ ra hả? vì anh là Việt Kiều thì cũng phải lịch sự với anh chứ, mấy chén đũa này má em mới sắm riêng để phục vụ anh đó.

Khoa cảm động ngẩn ngơ. Cô Nâu nói xong từ tốn cúi đầu chào và ra về, dù Khoa chỉ muốn cô ở lại nói chuyện, và dù có ăn cơm canh nguội lạnh anh cũng vui lòng.

Bà Năm Thêu cho anh ăn cơm với món đọt rau lang luộc chấm nước mắm tỏi ớt, và món tôm đất rim mặn. Qủa thật là ngon miệng..

Ăn xong Khoa rửa tất cả chén bát sạch sẽ và đợi chờ cô Nâu đến.

Cánh cổng ngoài vẫn chỉ khép để đợi cô vào tận cửa nhà, cô đến đúng hẹn, lần này cô lại thay cái áo khác. Thấy mọi thứ đã sạch sẽ sẵn sàng, cô Nâu không hài lòng:

-         Kìa anh, sao anh lại rửa ?, lần sau anh cứ để em làm cho, đó là việc của em mà.

-         Tôi rảnh cũng chẳng biết làm gì.

     -     Việt Kiều như anh hiền qúa chừng, người ta về Việt Nam là tưng bừng hoa lá ngoài đường, ngoài qúan đó anh.

Ngay từ đầu cô Nâu đã xưng hô “anh, em” nên Khoa cũng thoải mái, tự nhiên, dù ngày xưa con bé ranh này anh coi như đồ con nít.

-  Nay mai anh cũng sẽ đi thăm bạn bè, họ hàng chỉ có gia đình ông chú chứ chẳng còn ai.

Lần này cô Nâu ngồi nói chuyện lâu hơn. Trong căn nhà vắng êm đềm cô gái như một bức tranh thiếu nữ rực rỡ bội phần làm tâm hồn đa cảm yếu đuối của Khoa bị choáng ngợp trước hào quang của cô Nâu.

Cô kể nhà cô từ xưa đến giờ vẫn nghèo, cô bỏ học khi xong bậc tiểu học, làm đủ thứ nghề lao động, và bây giờ thì ở nhà phụ với mẹ nấu cơm, bán cơm trong xóm lao động này. Đôi mắt cô có lúc lóng lánh như muốn khóc, Khoa phải chạnh lòng:

-  Không ngờ hoàn cảnh em đáng thương thế.

Khi cô Nâu đứng lên chào tạm biệt ra về, Khoa tiễn cô ra cửa, khỏang cách hai người rất gần, mùi hương thơm nào đó từ người cô làm anh thoáng ngây ngất. Đôi mắt cô nhìn anh giùng giằng và sâu thẳm:

-  Em về nhé. Mai anh có ăn cơm không?

Khoa trả lời không cần suy nghĩ:

-  Coi như ngày nào anh cũng ăn cơm hai buổi, cho dù đi đâu anh cũng về ăn cơm…nhà.

Cô Nâu ngoan ngoãn:

-         Dạ, em sẽ ngày hai buổi mang cơm phục vụ anh.

Cô Nâu về rồi, nhưng hình ảnh bé Mốc ngày xưa lại lần lượt hiện ra.

Dạo đó anh và Huyền ở trong căn nhà này, hai đứa con, đứa lên 4 và đứa lên 2. Vợ anh làm kế tóan tài chánh cho một công ty nước ngoài, còn anh là kỹ sư. Chiều đi làm về, mang hai đứa con từ nhà trẻ về, cả hai vợ chồng đều bận rộn nhiều chuyện khác. Thế là mới có chuyện con bé Mốc thỉnh thoảng sang nhà giữ em giùm để vợ anh nấu cơm, còn anh thì nghiên cứu đọc tài liệu bổ sung cho công việc đang làm tại hãng.

Bé Mốc qủa đúng là con bé nhà nghèo, quần áo lôi thôi cũ kỹ, đầu tóc rối ren, mặt thì nhem nhuốc, thế mà hai con anh lại thích bé Mốc, nó bồng bế hay đút cơm, đút cháo hai đứa đều ăn nhiều, có lẽ vì bé Mốc cũng trẻ con, biết cách chiều trẻ con?

Bé Mốc hay dẫn hai con anh ra chơi ở sân trước, chán lại ra vườn sau. Có lần anh thấy bé Mốc hái mấy dái mít non ở sau vườn chấm muối ớt ăn ngon lành. Tội nghiệp, con bé đói khát ăn rờ ăn rẫm, từ đó trở đi anh không còn ác cảm với nó nữa, cũng đồng tình với vợ anh để cho bé Mốc trông nom hai con khi vợ chồng anh bận bịu.

Những hôm không trông hai con anh, bé Mốc chạy ra khu mả Tây chơi đùa với lũ trẻ cùng xóm, mấy lần Khoa trông thấy nó leo trèo, nghịch ngợm hay lê la đất cát bẩn thỉu từ đầu đến chân.

Một buổi chiều anh ra vườn sau kéo nước giếng và tắm táp xong như thường lệ, vợ anh cũng đã xong công việc, chiều ấy Huyền thật xinh và tươi mát với bộ đồ mỏng mới may, làm Khoa bỗng dưng  “thèm muốn”, anh kéo vợ vào phòng. Chợt trông thấy con bé Mốc  bế em ở một góc nhà đang chăm chú nhìn theo vợ chồng anh, hình như nó hiểu chuyện và biết anh đang muốn gì?. Làm Khoa “quê”, liền bực mình gắt với nó:

-         Bế em ra vườn chơi đi, chốc nữa hãy vào nhà.

Bé Mốc vội vã tay bế tay dắt hai đứa con anh ra vườn sau.

Nghĩ đến đây Khoa cười thầm, không biết cô Nâu có còn nhớ chuyện xưa ? Bây giờ anh sẽ “quê” hơn ngày đó nữa.

Từ ngày sang Mỹ, vợ anh trông coi một tiệm nail cho em gái mình, vì cô em có hai tiệm nail nên không thể ba đầu sáu tay qủan lý hết được. Cửa tiệm lâu năm, quen khách, đắt hàng nên cô em trả lương chị rất rộng rãi.

Còn Khoa học nghề trung cấp kỹ thuật hai năm và ra đi làm. Nhưng mới bị lay off , đang ngồi nhà ăn tiền thất nghiệp.

Gia đình thằng em vợ đến Mỹ mấy tháng nay, đúng là thời điểm thuận tiện cho Khoa về Việt Nam lo chuyện bán nhà cửa. Khoa về một mình vì Huyền bận 6 ngày một tuần với tiệm nail, không dứt ra được.

Căn nhà nhờ ông Tuyên đứng tên và chăm sóc giùm, hàng tháng vợ chồng Khoa vẫn tế nhị gởi biếu ông chú tiền coi như trả công lao chú hậu hỉ.

                          ****************

Cô Nâu đã trở thành hình bóng thân quen không thể thiếu, mỗi ngày mấy lượt đến giao cơm và lấy đồ về, lần nào cô cũng kín đáo tránh cho hàng xóm biết cô đã ở lâu với người đàn ông trong căn nhà vắng.

Hôm nào Khoa đi vắng về trễ thì anh hẹn mang cơm trễ, nên hầu như họ vẫn gặp nhau dù Khoa bận rộn đến đâu.

Đã có vài người khách đến xem nhà và đang thương lượng gía cả, Khoa không ngờ bà Năm Thêu nói đúng qúa, người mua sẵn sàng trả gía cao, nhưng anh còn chần chừ xem ai trả cao nhất mới quyết định. Mọi giấy tờ hợp lệ có sẵn, và ông Tuyên cũng sẵn sàng để ký tên.

Hôm nay Khoa về nhà hơi muộn, cô Nâu cũng vừa mang cơm đến. Dù đã ăn ở nhà bạn khá no, Khoa vẫn ăn cơm của cô Nâu cho cô vui lòng, và chính anh cũng muốn thế, để giữ chân cô. Nhiều ngày nay đã thân quen, cô ở lại đợi anh ăn cơm xong và dọn dẹp chén bát rửa ráy tại chỗ luôn. Họ đôi bóng như đôi vợ chồng son .

Khoa ngắm cô Nâu đang đứng rửa bát, cô mặc bộ đồ bộ lụa mát màu xanh nước biển nhạt, hở vai và đôi cánh tay trần giống như Huyền ngày nào đã làm anh bừng dậy một niềm khao khát. Hôm nay anh gặp lại niềm khao khát ấy.

Bất chợt cô Nâu quay đầu lại, nhìn nét mặt bần thần của anh, cô ngây thơ nũng nịu:

-         Anh nhìn trộm em và chê em gì hả? hả?

Trong đôi mắt đen thăm thẳm của người con gái đầy vẻ bí hiểm và thông minh, có lẽ cô Nâu lại đọc được ý nghĩ trong đầu óc anh như khi cô chỉ là con bé Mốc 13 tuổi năm xưa.

Anh bối rối chưa biết nói sao thì cô gái nũng nịu tiếp:

-         Bắt thền anh đó, anh nhìn em hoài làm em rửa chén không có sạch nè !!

Anh như bị mê hoặc đến bên cô Nâu và vòng tay ôm lấy đôi vai tròn của cô:

-         Anh đền em đây…

Toàn thân cô gái tựa vào người anh, làm người anh nóng bừng lên, anh xiết chặt thân thể mềm mại của cô Nâu trong vòng tay của mình, thì thầm:

-         Anh yêu em qúa Nâu ơi…

-         Em cũng yêu anh…

Cô bạo dạn thêm:

-         Em yêu anh từ hồi em còn là bé Mốc lận, anh không biết đâu, mỗi lần anh tắm em đều lẩn quẩn ở ngoài vườn, chỉ để ngửi  mùi xà bông rất thơm tho của anh…

Cô áp mặt, dụi dụi vào ngực áo anh rồi hỏi:

-          Sao bây giờ anh  xài mùi xà bông khác ? em không thấy giống mùi cũ nữa…

Khoa càng mê man:

-         Em yêu anh đến thế ư? Em nhớ cả mùi xà bông tắm của anh ư? Ừ, ngày xưa anh dùng xà bông Coast, qùa từ bên Mỹ gởi về, anh thích mùi ấy lắm, nhưng bây giờ anh qua Mỹ thì không còn xà bông hiệu này nữa, nên anh dùng loại khác.

-         Có lần anh tắm xong, anh rủ chị Huyền vào phòng, em buồn lắm, em ganh với chị Huyền vì đã có anh.

-         Trời ơi, em còn nhớ vụ ấy hả? Anh xin lỗi Nâu, hôm nay anh sẽ đền cho Nâu ….

Người Khoa như lên cơn sốt, quay cuồng, tối tăm mặt mũi, anh không biết gì đến trời đất bên ngoài. Chỉ có cô Nâu xinh đẹp và quyến rũ tuyệt vời trong căn nhà vắng đồng lõa, đồng tình.

Chiếm được thân thể cô Nâu với tình yêu đáp trả nhiệt tình của cô, Khoa bỗng là một chàng trai mới lớn đang yêu và si tình, ngày nào anh cũng mong chờ cô Nâu. Cách đây 6 năm làm sao Khoa có thể nghĩ sau này mình sẽ yêu con bé Mốc đến thế này?

Cánh cổng sắt ngôi nhà mở đón cô vào, và khép chặt để không bị ai làm phiền, ngoại trừ những lần có hẹn cho người môi giới dẫn khách đến coi nhà.

Anh yêu Nâu thật rồi hay chỉ là một cơn choáng ? anh chẳng tha thiết gì đến chuyện trở về Mỹ với vợ con. Khoa còn đang như một cánh buồm lênh đênh trên biển.

    “ Anh chỉ là một cánh buồm tuyệt vọng,

       Giữa biển khơi không biết rẽ lối nào?

       Ở nơi đâu cũng là em, là sóng,

       Vỗ vào đời anh hạnh phúc, thương đau”

Tình yêu đã làm anh lãng mạn, anh làm 4 câu thơ ấy, đọc cho cô Nâu nghe, không biết cô Nâu có hiểu thơ không mà cô đã khóc trong lòng anh.

Khoa buồn bã và thành thật khuyên cô:

-         Dù muốn dù không anh cũng phải về Mỹ. Anh yêu em, nhưng không thể bỏ vợ con được. Em hãy quên anh đi Nâu nhé ?.

Cô Nâu trả lời trong nước mắt:

-         Em chỉ lấy người đàn ông nào giống hệt như anh thôi, hoặc là em sẽ đợi chờ anh về Việt Nam thăm em, làm người vợ không bao giờ cưới của anh, giống như một tuồng cải lương cũ má con em hay coi….

-         Tội em qúa ! mấy kiếp nữa anh cũng không đủ trả nợ tình cho em.

Khoa đã đồng ý bán nhà, vì không còn thời gian chần chờ thêm nữa. Khách hẹn sẽ đến coi lần cuối trước khi chồng tiền và tiến hành thủ tục giấy tờ.

Những ngày hiếm hoi còn lại anh càng say sưa yêu cuồng yêu vội cô Nâu hơn nữa.

Nhưng chiều nay người giao cơm không phải là cô Nâu mà là mẹ cô, bà Năm Thêu, làm Khoa thất vọng và ngạc nhiên.

Bà Năm Thêu theo Khoa vào trong nhà, tự động ngồi xuống ghế và lên tiếng trước:

-         Tôi biểu con Nâu ở nhà để tôi sang nói chuyện với cậu.

Linh tính báo cho Khoa biết một điều gì đó không hay đang xảy ra cho Nâu và cho anh. Bà Năm Thêu nhìn thẳng vào mặt Khoa và tiếp như quan tòa lên án:

-         Tôi đã biết chuyện tằng tịu giữa cậu và con Nâu nhà tôi. Bây giờ cậu tính sao?

Biết không thể chối cãi được, Khoa đành buông xuôi:

-         Tôi trót yêu Nâu, yêu rất nhiều bác biết không?

-         Nhưng cậu cũng phải tính sao chứ, không lẽ cậu hưởng con nhỏ cho đã đời rồi khơi khơi về Mỹ với vợ con cậu như không có chuyện gì xảy ra ?

Khoa khổ sở:

-         Tôi cũng không biết mình phải làm gì nữa, thật tình tôi đau buồn khi chia tay Nâu.

Bà Năm Thêu đanh thép:

-         Cậu phải cưới nó, giữ danh dự đời con gái cho nó.

Khoa hoảng hốt:

-         Bác Năm Thêu biết tôi còn vợ, còn con mà…

Giơ cao đánh khẽ, bà Năm Thêu xuống giọng tử tế:

-         Thôi, không ai nỡ làm gia đình cậu xào xáo ly tan, nhưng cậu phải đền bù đời con gái con tôi cho xứng đáng, cậu giúp nó một số tiền làm vốn, làm lại cuộc đời. Tôi sẽ bỏ qua chuyện này.

Khoa cũng đã nghĩ tới điều này, vì tình yêu anh dành cho cô Nâu chứ không phải vì bị cưỡng bức, đòi hỏi như bây giờ, nên Khoa đồng ý ngay:

-         Điều này tôi có thể làm được, tôi cũng muốn giúp Nâu có cuộc sống khá hơn.

Bà Năm Thêu đòi hỏi huỵch toẹt:

-          Cụ thể tôi đề nghị cậu cho nó 10 ngàn đô la Mỹ.

-         Mười ngàn đô la Mỹ?

Thấy phản ứng của Khoa sửng sốt ngạc nhiên và không hài lòng bà Năm Thêu giáng một đòn đe dọa:

-         Nếu cậu muốn trong ấm ngoài êm, chuyện tình của cậu và con Nâu hàng xóm láng giềng chưa ai hay biết đâu. Tôi thề sẽ giữ kín, cậu mới bán nhà được gía qúa mà, tiếc chi món tiền này.

Mười ngàn đô la là số tiền không nhỏ, ngoài dự tính của Khoa, nhưng tội anh to lớn qúa, làm hại đời con gái trinh trắng của cô Nâu, và anh cần bảo vệ hạnh phúc gia đình, với gía ấy vẫn còn rẻ.

Khoa ngẫm nghĩ và đồng ý. Cũng may anh chưa gọi phôn báo cho vợ về gía cả căn nhà mà anh vừa quyết định bán, nên anh có thể thêm đầu này bớt đầu kia cho hợp lý và Huyền sẽ tin, miễn là bán xong căn nhà cho rảnh tay.

                    ***************

Khoa về Mỹ, lại lao vào cuộc sống hàng ngày.

Một năm trôi qua, tình yêu nóng bỏng dành cho cô Nâu qủa là một cơn chóang, đã  vơi dần theo ngày tháng vì xa mặt cách lòng. Khi lạc vào biển yêu trong hoàn cảnh trái ngang ai cũng chỉ là cánh buồm tuyệt vọng, ngẩn ngơ.

Bây giờ tỉnh người ra anh mới thấy mình hư qúa, vô tình đã phản bội vợ và hại đời con gái của cô Nâu .

.Anh thấy lòng tạm thanh thản, với 10 ngàn đô la, có thể đã giúp cô Nâu hay gia đình cô thay đổi cuộc sống khá hơn với một ngành nghề nào đó. Anh chỉ cầu mong cô Nâu sẽ gặp được người đàn ông giống anh, cho cô yêu và lấy làm chồng thì anh mới thật sự yên tâm.

Một hôm Huyền hỏi chồng:

- Anh có nhớ nhà bà Năm Thêu ở phía sau nhà mình ngày xưa không?

Khoa giật bắn người, tim anh đập thình thịch chỉ sợ nghe vợ nói ra những điều  tội lỗi thầm kín của anh, nhưng Huyền vẫn vô tư kể tiếp:

-  Bà Năm Thêu má bé Mốc, con bé ngày xưa bế con mình đó, nhớ ra chưa?

Khoa dè dặt:

-  Biết rồi, sao?

-  Chị bạn cùng xóm mới về Việt Nam qua kể lại là năm rồi nhà bà Năm Thêu trúng mối gì không biết, bỗng khá gỉa lắm, có tiền sắm ti vi, xe gắn máy và đồ đạc trong nhà. Nhưng sắm bao nhiêu bà lần hồi bán bấy nhiêu vì bài bạc và số đề…

Khoa buột miệng:

- Tội nghiệp qúa !

Vợ anh chép miệng theo:

-  Chưa tội nghiệp bằng con Mốc, tên nó là Nâu, bây giờ người ta đồn nó bị bệnh Aids rồi, nên hàng cơm bà Năm Thêu bị ế ẩm, không ai dám ăn, cảnh nhà càng khốn khổ.

-    Trời ơi ! cô Nâu bị..bị…??

Vợ anh lập lại:

-         Bị bệnh Aids, tội con bé qúa hở anh? Bé Mốc hồi mới lớn, mới trổ mã đã đi bán bia ôm, làm gái rồi, nhưng kiếm tiền sao cho xuể với người mẹ ham mê bài bạc quanh năm suốt tháng. Trước sau gì cũng đi đến bước đường cùng này thôi.

Trong lời nói và cử chỉ của vợ, Khoa tin là Huyền không hề hay biết gì chuyện tình cảm của anh và cô Nâu. Bà Năm Thêu dù là người tệ hại thế nào, ít ra cũng biết giữ lời hứa, không xì ra chuyện anh đã ngủ với con gái bà, mà nói ra thì mẹ con bà cũng mang tiếng xấu chứ hay ho gì. Có lẽ đó mới là cái “tình làng nghĩa xóm” của bà, mà anh mong muốn nhất.

Bây giờ Khoa đã hiểu vì sao bà Năm Thêu đon đã hỏi thăm anh, mời anh ăn cơm hàng nhà bà và gài độ cho cô Nâu, đứa con gái đã từng bán thân nuôi miệng, nuôi cả gia đình, đến với anh, như một đứa con gái trong trắng con nhà nghèo hiền lành, để anh lọt vào cạm bẫy tình yêu của mẹ con cô.

Bây giờ anh cũng hiểu con bé Mốc thuở lên 13, không hề là đứa trẻ ngây thơ, nó đã tinh ranh, biết rình rập khi anh tắm và khi vợ chồng anh vào phòng ngủ.

Thảo nào khi hai người gần gũi, cô Nâu đã tỏ ra rất nhiệt tình, biết cách làm cho anh thêm say đắm.

Suốt mấy tuần lễ cô Nâu mang cơm cho anh, cô đã đóng vai kịch con nhà nghèo, ngây thơ, thật xuất sắc, qua mặt thằng đàn ông thật thà và nhiều tình cảm như anh dễ dàng. Những giọt nước mắt, những lời thổn thức yêu đương của cô dành cho anh, có lẽ cô cũng từng dành cho nhiều người đàn ông khác để làm họ hồn siêu phách tán. Đó là nghề của cô.

Khoa thấp thỏm lo âu lén vợ đi thử máu, xem có dương tính HIV không, có bị lây nhiễm từ cô Nâu không? mặc dù một năm qua anh không thấy có dấu hiệu gì khác lạ cho sức khỏe.

Kết qủa thử máu làm anh sung sướng như vừa được cứu sống từ cõi chết, anh bình thường không hề bị HIV.

Có thể cô Nâu bị bệnh HIV nhưng  may mắn cho anh đã không bị lây nhiễm? hoặc có thể sau khi chia tay anh cô Nâu mới bị bệnh HIV, khi cô giao tiếp với những người đàn ông khác??

Thôi, dù vì lý do gì anh cũng hãy cảm tạ thượng đế đã che chở cho anh an toàn sau một cơn sốt tình mê dại.

Anh đã trả gía cho cơn sốt tình ấy 10 ngàn đô la, qúa đắt so với “gía cả” bình thường của cô Nâu “đi” với những người đàn ông khác, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh và vợ anh, cũng như tương lai của hai con sẽ ảnh hưởng không biết tai hại đến chừng nào.

                   Nguyễn Thị Thanh Dương.

                      ( June 19, 2011)

-


Back to top
« Last Edit: 15. Jul 2011 , 20:45 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #139 - 08. Mar 2012 , 16:27
 




Truyện ngắn
Bầu Bí Một Giàn


...



Bầu Bí Một Giàn là truyện ngắn hóm hỉnh với nhiều tình tiết cười ra nước mắt. Gia đình anh Phàn cũng như hàng triệu người Việt tị nạn khác, rời quê hương đến vùng đất tự do để có cuộc sống xứng đáng với số phận con người: được tự do, được yêu thương, được tôn trọng và được quý mến. Tuy nhiên, vì phải sống nhiều năm dưới sự cai trị, giáo dục nhồi sọ của cộng sản, và chịu ảnh hưởng của chiến tranh nên anh Phàn và gia đình có lối hành xử không thích hợp trong một xã hội văn minh. Bởi những hệ lụy của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, anh Phàn và gia đình luôn nghi ngờ lòng tốt của người đồng hương và các cơ quan từ thiện. Tất cả tình tiết trong truyện đã diễn ra trong khung cảnh cười ra nước mắt. Có phải chăng tựa đề của truyện nầy đã được mượn ý từ câu ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Tác giả đã ngầm nhắc rằng dù vạn dặm xa quê, nhưng chúng ta vẫn có cùng chung giòng máu Việt. Đùm bọc yêu thương cần sự nhẫn nhục, lòng nhân từ, và sự cảm thông nhất là với những người có cùng tiếng nói, mầu da.
Huỳnh Kim Khánh

vuonhoa


Người xưa viết rằng, tha hương mà gặp người quen biết cũ là một trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ, cần chi phải là quen biết cũ, tha hương mà gặp một đồng hương, cũng mừng đến lịm người đi chứ. Đó là trường hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm 1981. Tôi vì cơm áo, mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Anh được định cư trong thành phố nầy đã hơn một năm. Thế là có được hai gia đình Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền hòa nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quý và thân thiết nhau còn hơn cả anh em ruột thịt. Gia đình anh Hy có năm người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rưng rưng vì mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay vợ tôi mãi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà. Bà cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc nhiều năm mới tìm lại được. Gặp người đồng hương là sung sướng thế đó. Chị vợ anh Hy thì không dấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và nhìn hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhưng nụ cười trên môi nở mãi không tàn. Hai đứa con chưa biết gì, chạy nhảy, reo hò. Gia đình anh Hy sung sướng, chúng tôi cũng hân hoan mừng.
Một buổi tối, tôi đi làm về, được điện thoại của anh Hy, anh hớn hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đình Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt thì giờ, để cùng mấy người trong họ đạo đi đón người mới đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi vội vã báo tin mừng cho vợ , và trong lòng nghe lâng lâng vui. Có thêm càng đông đồng hương, càng đở buồn, và thỉnh thoảng qua lại chuyện trò cũng bớt cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận tiện, thì chúng tôi cùng đi đón gia đình Việt Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái tình thân thiết lúc ban đầu.
Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng cho gia đình mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức gì về người sắp đến, chị vợ anh Hy vội vã điện thoại báo cho chúng tôi biết ngay.
Máy bay sẽ chở gia đình người tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm thứ tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên cơn sốt, thân nhiệt nóng hơn một trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về. Họ yêu cầu tôi thay anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội vã, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, phòng khi đường sá có gì bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi để hướng dẫn và chỉ đường trên bản đồ. Tôi cũng run lắm, vì chưa bao giờ đi đến phi trường nầy, và thấy cái bản đồ ghi chằng chịt đường sá đan nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi chạy bám sát xe ông, nhưng chưa được mười phút thì đã lạc nhau. Khi cách phi trường ba mươi dặm, thì xa lộ bị tắc nghẽn, vì chiếc xe vận tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi trường, tôi bị lạc đường hai lần, chạy quanh mãi mới vào được nhà đậu xe. Ông bà Gary cũng đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên máy bay cũng đến trể. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên người chủ gia đình là Phan Ly, đưa lên cao trước cỗng đi ra của hành khách. Gặp dáng người Á Đông nào, tôi cũng chăm chắm dòm kỹ. Cho đến khi hành khách không còn ai cả, thì ông bà Gary bối rối. Ông chạy đi hỏi hãng máy bay, họ bay xác nhận là có gia đình anh Phàn trên chuyến máy bay vừa rồi. Hai vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề tên anh Phàn đi quanh các ghế chờ trên phi trường, thấy gia đình Á Đông nào, cũng chìa cái bảng tên ra trước mặt họ, để dò hỏi. Đi quanh ba vòng, mà không tìm được, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi gia đình anh Phàn ở đâu, cho biết để người bảo trợ đón về. Cũng vô hiệu. Đi tìm gia đình anh Phàn cả tiếng đồng hồ mà không kết quả, cả ba người chúng tôi ngồi xuống ghế nghỉ một chốc với lòng vô cùng chán nãn. Tôi bảo hai ông bà Gary ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên đi tìm một lần nữa. Tôi đi dò tìm tên từng gia đình trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của cơ quan ICM phát, khi họ cho mượn tiền máy bay. Tôi đến gần một anh mang cà vạt đỏ, áo vét ba mảnh bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng dạ. Tôi nhìn tận cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh bạo hỏi:
"Anh là Phàn phải không”
"Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?”
"Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ người Mỹ đến đón gia đình anh. Sao nãy giờ chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đưa cái bảng tên anh ra, mà anh lại ngồi im?” - Tôi nói với giọng hơi mất kiên nhẫn.
Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói:
"Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông Mỹ chìa ra trước mặt tôi ba lần, nhưng đâu phải tên tôi mà nhận. Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là Phàn.”
Tôi cười, nói nhỏ nhẹ:
"Đây là tên anh . Theo lối Mỹ, ghi tên trước, họ sau.”
"Ngược ngạo thế thì ‘bố giời’ mới biết được”.
"Thế thì loa kêu tên anh nhiều lần, sao anh cũng chẵng trả lời?”
"Nghe được cái quái gì đâu?”
Tôi chợt nghĩ ra, nếu người ta có gọi tên tôi trên loa, chưa chắc tôi đã nghe kịp, huống chi anh Phàn là người mới đến. Tôi quay lại báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không tìm ra. Ông bà Gary mừng, và tôi đọc được sự kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông bà, khi đêm khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm đặm, đi đón một gia đình ngoại quốc, khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà con, không hề quen biết. Và trước đó nữa, phải làm bao nhiêu giấy tờ, mất bao nhiêu bao nhiêu thì giờ, tốn kém đủ thứ. Chỉ vì trái tim biết thương người mà thôi.
Gia đình anh Phàn có hai vợ chồng, năm đứa con, đứa đầu mười bốn tuổi, đứa út còn ẵm trên tay. Anh Phàn người da sậm, gầy ốm, cái má thóp, răng cỏ đen điu vì khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hơn, có bề ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài khoác áo bành tô cứng ngắt. Gia đình anh còn có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có che miếng vải đen, gợi tôi nhớ rõ hình vẽ trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày còn bé tôi hay đọc. Bà cụ y hệt cái hình vẽ bà già mù trong sách. Trang phục của vợ chồng anh Phàn có vẽ sang trọng hơn cả ông bà bảo trợ nhiều, nhưng cũng không dấu được vẻ quê mùa.
Hành lý được chất lên cao trên bốn chiếc xe đẩy. Ông Gary , tôi, vợ anh Phàn, và cháu bé gái mười bốn tuổi, mỗi người đẩy một chiếc xe. Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc lá châm mồi và hút trong hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc. ( Dạo nầy, chưa có luật gắt gao cấm hút thuốc nơi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh Phàn, và ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy. Thấy đi mãi trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi tôi:
"Sao không kêu tài xế lái xe vào gần đây, mà phải đi xa quá vậy?”
Tôi cười và trả lời:
"Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi đây. Xe đậu trong ga-ra là nơi gần nhất rồi, không có nơi nào gần hơn nữa”.
Anh Phàn hỏi tôi:
"Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy? Lương trả có khá không?”
"Không, tôi làm việc cho công ty tư vấn. Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi đón, phụ đưa gia đình anh về. Đường xa, anh có mệt lắm không?”
"Cũng mệt, nhưng chẵng can gì cả.”
"Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu bé thì hơn”- Tôi nói.
"Kệ nó, để nó làm việc cho quen”
Hành lý quá nhiều, hai chiếc xe hơi không đủ chở. May mắn ông Gary gặp người quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ đến lấy.
Vào ngày chủ nhật đầu tiên của anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng và đãi đồng hương. Anh Hy và tôi, mỗi gia đình đóng bảy mươi lăm đồng làm chi phí. Chị Hy và vợ tôi trổ tài nấu ăn, rộn ràng nấu nướng từ sáng sớm tinh sương. Anh Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, mượn thêm ghế của các gia đình bên cạnh. Chai rượu nho hồng đậm đặt trên bàn bên cạnh bình hoa giả. Anh Hy và tôi lái xe đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi người, cả cháu bé còn bế trên tay. Ba gia đình vui vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng dì. Tôi cảm phục cái tình gia đình của anh Phàn, khi đem bà dì mù lòa di vượt biển. Anh Phàn uống rượu rượu nho như uống nước ngọt, tu một hơi hết nữa ly lớn. Anh nói:
“Rượu nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc rượu Tây mới đã miệng.
Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ, lôi ra nữa chai Vodka, rót vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một hớp nói:
"Cái nầy mới thật là rượu.”
Khi đã ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về cuộc chiến anh hùng chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy bay của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến thì bắn hạ rụng như sung chín. Anh kể công ơn bác, đảng, văn minh tiên tiến. Những chuyện nầy, tôi đã nghe nhiều lần khi còn ở bên nhà. Chị vợ anh Hy giận, nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với bác đảng anh hùng của anh, mà lại đi qua Mỹ làm chi. Anh trả lời là sống với bọn đó không được, sống không nỗi, đời sống thua con chó, khoai sắn còn không có mà ăn, chứ đừng nói đến cơm.
Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng, chị nói:
"Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích ăn cơm.”
Chị vợ anh Hy nói:
"Sống với bác đảng, đói cho rã họng ra, ở đó mà thích quà không thích cơm. Nói làm sao mà tôi không hiểu chi cả.”
Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ đến đưa vợ anh Phàn đi chợ hai lần. Họ nhờ chị Hy đi theo để hướng dẫn và thông dịch. Mỗi lần đi chợ về, thì chị vợ anh Hy cũng kêu điện thoại cho vợ tôi để than vãn:
“Chị biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn thổ quách. Chị ấy lựa những tảng thịt bò đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tướng. Lựa các thức ăn ngon nhất, đắt nhất trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ chưa bao giờ dám đụng đến các thứ thịt đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ vào thịt gà, thịt heo, mà chị ấy lờ đi. Em thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn như cái bị rách. Khi trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt vì số tiền phải trả.”
Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng, nên chọn các thức ăn có giá trung bình hoặc rẽ mà mua, vì chính ngay các bà bảo trợ, cũng rất ít khi dám ăn các thứ đắt tiền đó. Vợ anh Phàn lắc đầu mà nói rằng, mình không trả tiền, tội gì không lựa món ngon mà ăn. Từ đó , vợ anh Hy sinh ra có thành kiến với gia đình anh Phàn.
Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất chu đáo. Mua cho các cháu bé áo quần, giày vớ, áo lót chống lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết chì, viết màu, túi xách mang lưng để đi học, ghi tên cho các cháu đến trường. Khi họ đến thông báo cho gia đình anh Phàn, để hẹn ngày đem các cháu đến trường, thì anh Phàn phản đối, nhất quyết không cho cháu gái đầu mười bốn tuổi đi học. Anh lấy lý do là nhà đông con dại, cháu nầy đã lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt , giúp mẹ nấu nướng. Ba bà bảo trợ cố gắng giải thích, qua sự thông dịch lỏm bỏm của vợ anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ con dưới mười tám tuổi phải đi học. Nếu không được đi học, thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chị vợ anh Hy cũng chỉ hiểu lơ mơ lời các bà, và thông dịch cho anh Phàn. Anh Phàn cứ lắc đầu, nhất quyết không chấp nhận lời khẩn cầu của các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ thuyết phục mãi làm anh Phàn nỗi giận nói gằn với chị vợ anh Hy :
"Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó đi học hay không là quyền của tôi. Sao các bà ấy cứ muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi mãi thế.”
"Pháp luật bắt buộc cho trẻ con đi học. Không phải các bà muốn đâu”
"Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn cảnh gia đình mỗi người, mà cho con đi học. Nhà nước nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự do mà.”
"Đúng, xứ tự do, nhưng không phải cha mẹ muốn làm gì thì làm. Pháp luật bảo vệ con trẻ dưới tuổi trưởng thành.”
"Thôi, chị đừng nói nữa, tôi đã nhất quyết rồi. Tôi đã có phương án riêng cho gia đình tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền tôi nửa.”
    Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc vì không phá vỡ được cái vỏ cứng rắn của anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối hôm đó, bà Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải thích cho anh Phàn hiểu luật pháp Mỹ .
Tôi chưa kịp kêu cho anh Phàn để giải thích, thì điện thoại reo. Anh Phàn ở đầu dây bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi học. Anh nói là họ làm áp lực anh, họ vô lý. Còn bày đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa anh. Nghe giọng nói của anh, tôi cũng phải chùn lại, vì biết rất khó thuyết phục anh trong lúc nầy. Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ theo phe anh, mà nói :
"Anh nói đúng, mỗi gia đình có hoàn cảnh riêng, giải quyết theo cách riêng. Không ai có quyền ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, thì tôi cũng không được rõ lắm. Hay là anh thử kêu điện thoại qua Oklahoma hỏi những người anh quen biết từ ngoài Bắc, mà họ đã đến xứ nầy từ lâu rồi, để biết thêm cho rõ. Biết chắc luật lệ, mà thi hành. Không ai có quyền ép mình theo ý họ, nhưng mình cũng không nên làm trái luật. Có gì thì anh cho tôi biết với.”
Không biết anh có kêu điện thoại cho người quen ở Oklahoma hay không, nhưng sau cùng, anh Phàn cũng phải nhượng bộ yêu sách của nhà thờ, để cho cháu gái mười bốn tuổi đi học. Anh nói rằng : “Thôi, thì tôi cũng tạm thời lui một bước, mình mới đến đây mà căng quá cũng không nên. “
Các ông bà bảo trợ để anh chị Phàn nghỉ ngơi cho hoàn hồn trong hai tháng. Trời tuyết đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, lò sưởi mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi trên ghế bành . Cái máy truyền hình nhấp nhem, nói tiếng Mỹ ồn ào. Anh Phàn bảo rằng, không đi tù, mà cũng giống như bị giam lỏng, bị quản chế. Ra ngoài thì trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cũng không biết đi đâu, đi xa thì không có xe cộ.
Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc cho anh chị làm, thì anh gạt ngang. Anh nói với ông bà bảo trợ, qua thông dịch của vợ tôi:
"Chưa biết nghe, biết nói chi cả chưa thể đi làm được.”
Bà bảo trợ thuyết phục:
"Công việc cần làm, không cần nói, cũng không cần nghe.”
"Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi như các bà, chúng tôi sẽ đi làm việc. Gấp làm chi. Tôi cần đi học tiếng Anh cho giỏi.”
Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm năm ba chục năm nữa, cũng không thể nói và nghe bằng họ được. Đi làm việc, chỉ cần cố gắng làm. Còn nghe và nói, thì ai cũng lơ mơ, nghe một phần, đoán một phần. Mình không lớn lên tại Mỹ, thì hiếm hoi lắm mới nghe và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải vừa làm, vừa học. Nhưng anh Phàn nhất quyết rằng, chưa nghe, chưa nói giỏi thì chưa chịu đi làm. Nghe vậy, mấy bà trong họ đạo, ngày nào cũng thay phiên nhau đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tưởng rằng, trong vòng ít tháng, thì cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ, không giỏi bằng họ, thì cũng một tám một mười. Trong những buổi học tiếng Mỹ, anh Phàn và vợ thấy buồn ngủ khủng khiếp, cứ rán chống mắt lên, mà cái đầu cứ gục lia lịa. Anh chị uống trà đậm chống cơn buồn ngủ cũng không hiệu quả. Anh chị thấy những buổi học nầy, như cực hình, như tra tấn, và nản lòng vô cùng. Học được phút trước, thì phút sau quên béng đi. Không nhớ gì cả. Anh chị kết luận, là cái óc của anh chị đã hư rồi, không thể học được gì nữa. Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cũng nản lòng, bỏ lớp dần dần, và không đến dạy nữa. Kết quả vượt bực. Anh Phàn thì chỉ ấp úng nói được hai chữ “yes” và “no” , vợ anh giỏi hơn, nói được rất ngọng thêm chữ "thank you”. Vợ tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phương pháp sư phạm, nên dạy không kết quả.
Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận là không thể học nói học nghe cho giỏi bằng các ông bà Mỹ được, và anh chị cắn răng để cho nhà thờ thu xếp việc làm cho anh chị.
Mỗi buổi sáng tinh sương, anh Hy đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều chở về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở, xe anh Hy là một đống tuyết khổng lồ, anh phải vất vả đào tuyết moi xe ra. Trong khi anh Hy quần thảo với đống tuyết, với nước mãng nước đá đông cứng trên kiếng xe, thì anh Phàn đứng hút thuốc lạnh lùng nhìn. Anh Hy bất bình, nhưng không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín được, quay qua hỏi anh Phàn:
"Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết cho mau mà ra về?”
"Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!”
"Nhưng... anh có đi trên xe nầy không?”
"Anh lái xe mà, đâu phải việc của tôi”
  Anh Hy giận lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều ngày liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, vì đã lỡ nhận lời gởi gắm của bà Mỹ bảo trợ, nếu không, thì anh chẵng chở anh Phàn đi làm nữa. Tôi an ủi anh Hy, khuyên anh đừng giận anh Phàn, vì đồng hương còn có ai đâu, giận nhau nữa thì còn ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy vì đã đến đón sớm hơn giờ quy định. Những khi nầy, anh Phàn rề rà cho anh Hy phải ngồi chờ thật lâu trong xe dưới tuyết đổ. Có lần anh Phàn ngần ngừ hỏi:
"Tôi hỏi thật, anh đừng dấu nhé. Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao nhiêu, để anh đưa đón tôi đi làm ?”
Anh Hy nghe mà buồn cười, hỏi lại:
"Anh hỏi làm chi vậy?”
"Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số tiền đó khá, thì tôi xin lảnh tiền, và kiếm chiếc xe đạp đi làm cũng được.”
"Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn phí, vì anh là đồng hương, và vì tôi cũng đã từng qua thời kỳ mới đến định cư như anh. Đáng ra anh phải chia tiền xăng, tiền hao mòn xe với tôi mới phải lẽ.”
"Tôi không tin.”
"Không tin thì anh thử hỏi mấy ông bà bảo trợ xem.”
Anh Phàn cười mũi:
"Có hỏi mấy ông bà Mỹ, thì vợ anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn nói chi mà không được. Thà đừng hỏi.”
Anh Hy buồn lắm, nhưng không nỡ nói nặng lời, anh chỉ thở dài:
"Năm ba năm nữa, nếu nhớ lại chuyện nầy, anh sẽ biết rõ sự thực.”
Mỗi ngày, có xe nhà trường đến tận nhà chở ba cháu bé đi học. Cháu lớn học ở trường xa hơn, hai cháu nhỏ học trường tiểu học gần nhà. Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt với nhà thờ về vụ cho đứa con lớn đi học, mà nhà thờ phải nhượng bộ, bằng cách đem xe đón tận nhà, đưa luôn ba đứa đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ con ở thành phố nầy, em nào cũng được vậy, không riêng gì các cháu con anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cười ruồi đáp lại.
Mùa đông miền Trung Bắc nước Mỹ, như mọi ngày đông khác, tuyết đổ ngập đường trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt động liên miên. Muối được rải ra những con đường chính cho xe chạy. Một cháu trai nhỏ con anh Phàn đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng dậy ôm sách vở ra về. Cô giáo cản lại. Hai bên trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai . Cô giáo chỉ ra sân đầy tuyết trắng chất thành đống cao, như muốn nói cho em hiểu rằng không thể đi được, và dắt em về lại chỗ ngồi. Em rươm rướm nước mắt, và đứng dậy, nhất định ra về. Cản mãi không được, cô giáo kêu bà hiệu trưởng. Bà xuống lớp, khuyên bảo em. Hai bên cũng không hiểu nhau. Bà không thể để em bé bảy tuổi ra về một mình trong gió hú, trong tuyết cao chất đầy như thế. Bà cầm tay giữ em bé lại. Em khóc lớn. Hai bà giáo nhìn nhau thất vọng, không biết phải làm gì. Bỗng bà hiệu trưởng nhớ là em bé có con chị học trên nó hai lớp. Bà cho người đi kêu chị nó xuống. Con chị xuống gặp đứa em, nói vài câu. Xong, con chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội cản lại. Kéo hai em vào bên trong lớp. Cả hai đứa đều khóc ròng. Bà hiệu trưởng dẫn hai chị em đứa bé về phòng, và kêu điện thoại cho bà Mỹ trong gia đình bảo trợ, nhờ giúp đở. Bà bảo trợ vào trường ngay. Bà dắt hai chị em về lớp, hai đứa không chịu đi, mà nhất định kéo nhau ra sân, để đi bộ về nhà. Ba bốn cô giáo họp lại bàn cãi. Một hồi sau, bà bảo trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe đến công ty anh Phàn đang làm, xin cho anh được tạm nghỉ, đến trường giải quyết việc học của hai cháu. Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai cháu không chịu học, mà đòi đi bộ giữa mưa tuyết, để về nhà. Anh Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy : "Con cái mất dạy. Đề tôi dến cho chúng vài bạt tai, cho bớt biếng nhác.” Anh Hy vội vã níu anh Phàn lại, đặn dò: "Không được, đánh trẻ con thì cảnh sát còng tay đó . Đừng dại dột.” Anh Phàn hất tay anh Hy ra, và chưa dứt cơn giận: "Vợ chồng anh được cái giỏi là hay hù họa tôi mà thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, thì thành hư đốn. Dạy con từ thuỡ nên ba.” Anh Hy biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng theo: "Bớt nóng giận. Đừng đánh con, tội nghiệp. Có chi thì từ tốn, dạy bảo.” Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát còng tay. Khi xe đến trường, anh Phàn hùng hổ, xăm xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa con. Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt còn ướt sũng lệ. Anh lớn giọng gằn hai đứa bé. Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt chúng ra về. Tuyết ngập trời, tuyết cao nghệu, các bà giáo cản cha con anh lại không cho đi. Không ai cho anh dắt trẻ con đi trong mưa tuyết lạnh lẽo nầy. Anh kéo con đi, nhưng một ông giáo to lớn như hộ pháp đang giữ tay hai em bé lại. Các bà giáo đang vây quanh thì líu lường xôn xao. Anh Phàn nhìn đám thầy cô người Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với nét mặt anh nhăn nhúm đầy đau khổ, anh vội cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và òa khóc lớn. Cả ba cha con cùng khóc vang thảm thiết. Mùi thối tha bốc lên làm ngát mũi. Mấy ông bà giáo người Mỹ cùng ồ lên một tiếng lớn, và cùng cười. Họ hiểu, em bé đã phóng uế ra cả quần. Em đã không biết nói sao để xin cô giáo đi ra phòng vệ sinh, và cũng không biết phòng vệ sinh ở đâu, rán sức cầm cự, và khi hết chịu nỗi, thì phóng ra quần.
Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn đi làm về chừng một tiếng, thì có bà Mỹ đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ xin cho chị được chân rửa bát tại một khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng mười giờ rưỡi đêm, thì mấy bà Mỹ trong họ đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết lạnh, đến chở vợ anh Phàn về nhà. Mùa đông tỉnh lẻ, họ ngủ sớm, mười giờ đêm là đã say giấc, họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ tôi thường biểu lộ sự cảm phục lòng tốt của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai mà không muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội tuyết ra đi là một cực hình. Có nhiều đêm, vì lý do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy lúc năm giờ, để kịp năm giờ rưỡi khởi hành, đi làm, nhưng tôi vui vẻ nhận lời ngay, để cám ơn cái lòng tốt của các bà Mỹ, đã giúp cho người đồng hương của tôi. Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không dám từ chối, sợ các bà cho là tôi không có lòng. Mỗi lần đi đón, thì tôi phải cào tuyết trên xe hơn mười lăm phút, chờ máy nóng mới đi được. Bỡi thế, nên thường đến trể. Chi vợ anh Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời nào . Cả không một lời cám ơn, một lời chào khi được đón và khi về thấu nhà. Có lần chị nói :
"Nếu đón tôi, thì đừng đến trể. Ngồi chờ rất nản.”
"Tôi được các bà Mỹ kêu, nhờ đi đón chị, thì tôi đi ngay. Phải mang áo, phải cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hơi trể, chị đừng buồn. Các bà người Mỹ tử tế quá, đêm nào cũng đi đón chị trong lạnh lẽo, mưa, tuyết.”
"Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử tế!”
Tôi không buồn mà thương cho chị. Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất nhiều về lòng tốt của những người chung quanh.
Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà, để nhờ chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện gì, anh nói sẽ cho biết sau. Anh Hy cười nói với tôi rằng, sao cái lối nói nầy giống hệt cách thức của công an nhà nước cọng sản hồi trước. Buổi chiều đi làm việc về, có “giấy mời” tối nay ra trụ sở công an, lý do "Cho biết sau”. Cứ thế mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện gì, không biết có bị nhốt luôn hay không. Ra đi mà hồi hộp, mà dặn dò vợ con phải làm gì để sinh sống, nếu bị nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh Phàn mà không phải hồi hộp, không phải lo lắng. Anh Chị Phàn cùng bà cụ đã ngồi sẵn trong phòng khách. Họ rót nước trà mời chúng tôi, xem bộ trịnh trọng, không lạt lẽo như thường ngày. Sau một hồi thăm hỏi xả giao, anh Phàn tằng hắng nói:
"Tôi mời các anh chị đến đây, vì không còn ai có thể giúp cho chúng tôi được trong hoàn cảnh câm điếc này. Nhà thờ đã ăn chận của gia đình tôi mỗi tháng hơn hai ngàn đô. Tôi van xin các anh chị, nói với các ông, các bà trong nhà thờ, cho chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm vốn, ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho hãng sửa tàu, cho khách sạn, thì biết bao giờ mới ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi van lạy các anh chị, xin giúp chúng tôi, và vì thương các cháu nhỏ ...”
Cả bốn người chúng tôi bàng hoàng, không tin vào lổ tai mình. Chị vợ anh Hy ấp úng hỏi lại:
"Nhà thờ ăn chận tiền của anh chị? Mỗi tháng hơn hai ngàn ? Sao? Anh nói rõ hơn được không?”
Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rõ ràng:
"Đừng vờ vĩnh. Gia đình tôi có tám người, nhà nước Mỹ cấp cho, ít nhất cũng trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ, tiền nhà mà mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng mấy trăm là cùng, thì cũng còn hơn hai ngàn đồng mỗi tháng, chứ có ít đâu. Nếu không ăn chận, thì tiền đó để đâu, vào túi ai?”
Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi:
“Ai nói với anh điều đó? “
"Chúng tôi biết rõ lắm, không cần ai nói cả.”
Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cũng đã đến đây trước. Anh rõ thủ tục. Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ, mua cho đủ các thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ kiếm việc cho mình làm. Khi đã có lương tiền, thì mình phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà thờ.”
Mặt anh chị Phàn và cả cụ già đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua ngoét:
"Chúng tôi đâu có ngu. Tôi biết rõ hai ông bà Hy nầy là những con cò mồi của nhà thờ. Biết rõ đến mười mươi.”
Anh Hy run lên vì giận, chị Hy thì mặt đỏ bừng, thét lên the thé:
“Làm cò mồi để được cái gì? Ăn nói như những kẻ vô ân bạc nghĩa. Nói như vậy mà không biết tự xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng người nầy thêm xấu hổ, thêm nhục nhã cho cái giống nòi mình mà thôi.”
Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy, giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói với anh Phàn:
"Tuần tới, ông tự kiếm lấy phương tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm mọi cho ông nữa.”
Vợ tôi cũng giận và muốn ra về theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu, bảo ngồi yên. Anh Phàn phân trần tiếp:
“Chuyện trợ cấp cho người mới định cư là luật của nhà nước Mỹ. Rõ ràng, không ai chối được. Chúng tôi đã biết rõ từ hồi còn ở trại tị nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận tiền, rõ ràng thế, mà còn chối loanh quanh.”
Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng anh Phàn, vì hiểu lầm, nên có nhiều suy nghĩ và hành động đáng tiếc. Tôi cũng không dám nói thẳng là anh đã hiểu lầm luật lệ. Biết là khó mà giải thích cho gia đình anh Phàn hiểu, không chừng càng giải thích, thì càng gây thêm nhiều ngộ nhận khác. Tôi ngồi im một lúc suy nghĩ. Anh Phàn nói tiếp :
"Bây giờ chỉ còn hai anh chị. Tôi nhờ anh chị ‘báo cáo’ lại cho nhà thờ những đòi hỏi chính đáng của gia đình chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.”
Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống hệt những anh cán bộ trong các buổi học tập chính trị bên nhà, thì phì cười, hết giận. Vợ tôi nói:
"Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ đạo nầy dư công rỗi nghề gớm nhỉ. Mình ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân nghĩa, không nợ nần, lại nai lưng ra bảo lảnh mình vào đây, cho nhà ở, cho cơm ăn, cho áo mặc, lo cho đủ thứ. Lại bị ghét bỏ, thật đáng đời. Của nợ giữa đường mà mang cõng lên lưng. Anh chị xem, không biết họ bảo lảnh cho mình, thì được lợi lộc gì nhĩ ? “
Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một lúc, với giọng chắc nịch:
"Để lập thành tích chứ để làm gì. Ai mà không biết.”
Vợ tôi bật cười ha hả và nói tiếp:
"Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng !”
Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng đùa nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai anh chị Phàn và gia đình. Chữ hứa của tôi, trong thâm tâm, là hứa cố gắng giúp anh chị giải tỏa những hiểu lầm đáng tiếc, nhưng có lẽ anh chị Phàn tưởng là tôi sẽ đến nhà thờ đòi tiền “ăn quỵt” giúp cho anh chị.
Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy. Anh chị Hy chưa nguôi giận. Chị vợ anh Hy nói:
"Chúng nó là thứ vô ân bạc nghĩa, không biết đạo lý làm người. Khi nào cũng ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là đấu tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà ngứa lỗ tai, chịu không nỗi.”
Vợ tôi nói:
"Họ còn cho rằng, nhà thờ muốn lập thành tích nên bảo lảnh họ đến đây.”
Anh Hy phì cười, nói:
"Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết hết không còn một mống. Thôi, anh chị cũng nên tránh xa gia đình anh Phàn, để tránh bực mình và rắc rối về sau. Những hạng người nầy, không chơi được.”
Tôi nói:
"Thôi, anh chị bớt giận. Tất cả cũng do hiểu lầm. Người ngoài, không cùng màu da, không cùng dòng giống, mà họ còn tận tình giúp đở. Mình không giúp nhau, thì làm sao cho lòng yên ổn được.”
"Nhưng họ nói cái giọng khó nghe của ‘bọn dân tộc anh hùng’, ngứa tai chịu không nỗi.”
Tôi dịu giọng:
"Họ cũng là nạn nhân dài hạn của chế độ. Họ còn đáng thương hơn chúng ta nữa, vì chịu đã chịu đựng chế độ lâu dài hơn hai mươi mấy năm. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, được giáo dục theo lối đó, thì không chừng chúng ta tệ hại hơn anh chị Phàn bây giờ. Anh chị đừng buồn nữa. Thứ hai nầy, anh cứ đến chở anh Phàn đi làm như thường nhé. Chúng ta không thương nhau, thì ai thương chúng ta được?”
Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết nghĩ sao, vào tối chủ nhật, anh Hy nhờ tôi điện thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ hai, sẽ đến đón anh Phàn đi làm như thường lệ. Tôi nghe mà mừng. Nhưng anh Hy và anh Phàn vẫn còn buồn nhau. Cùng đi cùng về mà giữ im lặng, không nói một lời. Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: “Bố bảo, thằng Hy cũng không dám thôi đưa rước tôi đi làm. Nó còn phải rình mò, dò xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ.”
Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ đến chở toàn gia đình anh Phàn đi nhà thờ xem lễ. Với ý nghĩa làm ơn, làm phước, cứu vớt linh hồn của một gia đình ngoại đạo tội nghiệp, chưa biết đến danh Chùa Trời, đem ơn phước đến cho họ. Nhưng gia đình anh Phàn cắn răng chịu đi nhà thờ, là để làm ơn cho các ông bà Mỹ, làm họ vui lòng, may ra họ nghĩ lại mà trả lui số tiền họ đã ăn chận. Chứ đến nhà thờ, theo anh Phàn nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói gì, buồn ngủ lắm, ngồi lâu mỏi lưng, tê chân. Anh Phàn nói với tôi rằng: "Mấy ông bà Mỹ sang trọng, giàu có nầy, nhưng keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi lễ xong, có người cầm cái vợt đi thu tiền, tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một đồng thôi. Để cho họ xấu hổ, nhục nhã, khi nào tôi cũng bỏ vào vợt mười đồng.” Tôi chỉ cười, không dám có ý kiến.
Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi vào buổi tối, đem tặng một gói trà Tàu bèo nhèo mà anh đã mua từ Hồng Kông . Sau một vài câu chuyện vu vơ, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có mười bốn tờ, đưa cho tôi xem, và hỏi những món hàng ghi trong điện tín có thể mua ở đâu, làm sao tìm ra tiệm bán giá rẻ. Tôi lật từng trang điện tín từ Hãi Phòng, Hà Nội. Móng Cáy điện qua, do nhiều người khác nhau đành đi, yêu cầu gởi những món đồ gia dụng như máy nghe nhạc, máy chụp hình, xe đạp đua, vải vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những món linh tinh khác nữa. Anh nói :
“Bên nhà tưởng tôi qua đây đi ăn cướp tiền của thiên hạ anh ạ. Tiền đâu mà đòi hỏi đủ thứ như thế nầy? Tôi cũng nhức đầu về mấy cái điện tín và thơ từ liệt kê dài lòng thòng các món hàng họ đòi hỏi. Điên lên được đấy chứ .”
Tôi an ủi anh:
"Bên nhà họ khổ quá, mình giúp đở được ít nhiều chi, thì giúp trong khả năng của mình. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích.”
"Người ta tưởng qua đến Mỹ là hốt tiền thiên hạ như hốt lá vàng. Mỹ nó ngu cả hay sao? "
Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe đưa anh lên Chicago, tìm các tiệm bán hàng cần thiết để anh dò hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm trăm đồng, có tiền lời mười phân, và sẽ hoàn trả lại khi lảnh được tiền trợ cấp. Tôi cười bảo anh:
"Để tôi bàn lại với vợ tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. Vì hầu bao trong gia đình do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi ngày tôi phải ngữa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và nếu có cho anh vay, thì cũng không dám lấy lời. Ở Mỹ mà cho vay cắt cổ, thì cũng dễ vác chiếu ra tòa lắm.”
"Tiền lời là do tôi đề xuất, và bằng lòng, chứ anh có ép tôi đâu? Anh tự quyết định cho tôi vay không được sao? Các anh yếu đuối quá, anh Hy cũng vậy, để cho vợ lấn lướt, qua mặt. ”
Tôi cười, nói đùa:
"Đàn ông miền Nam chúng tôi không được dũng cảm như các anh. Mà khi ở trên đất Mỹ nữa , thì chúng tôi càng xìu như sợi bún thiu.”
Làm việc được bốn tháng, anh Phàn bỏ việc mà không thông báo cho công ty, nên anh bị sa thải. Mấy người bảo trợ trong nhà thờ đến nhà anh tìm hiểu sự việc để giúp đở. Họ kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông dịch, nhưng anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ tôi. Nhóm nhà thờ gồm năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi lý do thôi việc. Anh Phàn lừng khừng đáp:
"Không muốn làm việc nữa, thì nghỉ.”
"Thế anh đã kiếm ra việc làm khác chưa ?”
"Chưa”
"Không có việc làm, lấy tiền đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?”
"Tôi không biết!”
"Tại sao anh không muốn làm việc đó nữa? Có vấn đề gì không? “
"Không có vấn đề chi cả. “
"Anh có muốn nhà thờ tìm việc khác cho anh không?”
"Chưa muốn. Khoan đã.”
Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu, nhìn nhau, rồi nhìn anh Phàn với ánh mắt thương hại. Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn gì không? Anh nhờ vợ tôi nói, là muốn nhà thờ trả lại cho anh số tiền hơn hai mươi ngàn mà họ đang giữ giúp, để anh tính kế làm ăn. Vợ tôi tái mặt, không biết phải nói làm sao, để hội nhà thờ không bất bình. Ngập ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết muốn biết những chi phí của nhà thờ đã chi tiêu cho anh, và ai đã đóng góp bao nhiêu, quỷ nhà thờ bao nhiêu, và nhà nước cho bao nhiêu, để anh tri ân họ. Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết, đừng nghĩ đến, đừng thắc mắc. Vợ tôi năn nỉ, nói rằng, nếu không được biết những điều đó, thí anh Phàn cứ thắc mắc mãi, không yên tâm để làm ăn. Các ông bà cười sung sướng, thoải mái.
Cuộc đấu tranh kiên cường của anh Phàn gần thành công mà anh không biết. Khi nhà thờ thấy anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa, họ cũng quýnh lên, lo lắng lắm. Họ đạo cũng nghèo, tín hữu cũng không giàu có chi, không thể đài thọ dài ngày cho cái gia đình đông đảo nầy được. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định ngày đem gia đình anh Phàn lên sở xã hội xin trợ cấp của quận hạt. Nhưng anh Phàn loan báo rằng, anh sẽ dời nhà về Oklahoma City. Cả họ đạo thở phào. Anh Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị nạn cũ, họ đã định cư ở Oklahoma, và biết rành mạch cách xin trợ cấp xã hội.
Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia đình về Oklahoma City, đồng thời dàn xếp xe cộ để chở anh chị ra phi trường. Ông Gary và bà Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn, để chở hành lý cồng kềnh của gia đình anh. Tôi và anh Hy, hai xe sẽ chở người trong gia đình. Anh Phàn nói nhỏ với tôi rằng, trước khi đi anh sẽ đốt căn nhà dể trừ vào số tiền nhà thờ đã ăn quịt của anh. Ăn của ai thì được, ăn của anh thì nuốt không trôi đâu. Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI của Mỹ giỏi lắm, thế nào họ cũng điều tra ra. Và tội chi đi tù cho khổ thân, con cái không ai nuôi. Mình đến đây, đời sống còn dài, còn sức thì còn làm ra tiền. Vã lại, có đốt căn nhà, mình cũng không được đồng xu nào, chưa chắc đã hả được cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào thân. Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, thì thêm tội nghiệp những người láng giềng tốt của anh. Anh nói rằng, nếu không đốt được nhà, thì trước giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống nước, phá tủ lạnh, đập bếp. Tôi cười bảo rằng, anh cứ lo đi trước, sau khi anh đến Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi được, mất toi tiền máy bay.
Ngày anh Phàn ra phi trường, tôi và anh Hy xin nghỉ việc, thay phiên nhau đến nhà anh, lấy cớ là phụ soạn hành lý, nhưng thật tâm là để ngăn cản anh phá hoại căn nhà. Khi cả nhà lên xe hết, anh Hy chạy vào một vòng bên trong nhà, xem có gì hư hại không. Anh Hy ra xe và đưa hai ngón tay lên làm một vòng tròn, cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp. Tôi thở phào.
Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với ông Gary và bà Eva rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gời tiền, mua vé máy bay, mời cả họ đạo của ông bà qua chơi, anh sẽ bao tiền săn ở, bao tất. Tôi dịch khác đi, nói là anh biết ơn hai ông bà lắm, và không bao giờ quên cái ơn bảo bọc lúc ban đầu nầy. Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy anh chị mà nói cám ơn rối rít. Anh Phàn thì tưởng hai ông bà mừng vì được anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo sẽ được đi chơi.
Khi đưa gia đình anh ra máy bay, chúng tôi ôm nhau thân thiết, và mắt anh Phàn cũng rươm rướm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng, thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.
Đưa gia đình anh Phàn đi rồi, anh Hy nói với tôi rằng: "Thế mà tôi cũng thấy buồn, trống trải, như mất mát một cái gì đó. Bây giờ chỉ cỏn hai gia đình mình trong thành phố nầy thôi.”. Trong lòng tôi cũng thấy buồn.
****
Mười sáu năm sau, kể từ khi đưa gia đình anh Phàn về Oklahoma, tôi tình cờ gặp lại anh trong một tiệc cưới tại Houston, Texas. Anh nhận ra tôi, mà tôi không nhận ra anh. Vì bây giờ anh mập mạp, trắng hồng, ăn mặc chững chạc, không còn dáng quê mùa như xưa. Chị vợ anh thì sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, như cô ca sĩ. Anh ôm chầm lấy tôi, hỏi có còn nhớ ra anh là ai không. Anh nói: “Phàn đây, Phàn ở Morris, Illinois đây mà.” Tôi cũng mừng vui gặp lại người quen biết xưa. Anh xin chuyển bàn, để vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn huyên. Anh cho biết ở Oklahoma được hai năm , thì dọn về Houston, bây giờ cả hai vợ chồng đều làm việc cho một hãng sản xuất đồ nhựa. Suốt hơn mười mấy năm anh làm hai việc toàn thời gian, mỗi đêm chỉ ngủ năm sáu giờ thôi. Ngày nghỉ thì đi sửa chửa nhà cửa, ống nước. Hai cháu gái lớn đã có gia đình. Cháu trai kế thì vừa tốt nghiệp đại học. Bây giờ anh chị Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn cho thuê.
Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng thành thật:
"Hồi mới qua, chắc anh chị buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi còn ân hận, và xấu hổ vì chuyện xưa. Bị thông tin sai lạc, tôi hiểu lầm, làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ cục, bậy bạ. Lại ăn nói ngang ngược. Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ‘ Bầu bí một giàn’ của anh Hy nói ngày xưa.”
Chị vợ anh Phàn cười vui vẻ, nói tiếp:
"Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng không bỏ được cái phét lác đã ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời.”
Chúng tôi cùng cười với nhau. Tôi nói đùa:
"Nếu phét lác mà không hại đến ai, thì cứ để anh phét lác cho sướng cái miệng. "
Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc, cười vui vẻ.


thanks.gif
Back to top
« Last Edit: 08. Mar 2012 , 16:31 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Truyện ngắn: Giặc I-Meo
Reply #140 - 19. Mar 2012 , 22:35
 




Truyện ngắn
Giặc I-Meo


...






1 Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ này rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hoá Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
Tiễn bé Út đi rồi, trên đường từ phi trường San Francisco về nhà, ông Giáo vừa lái xe, vừa im lặng trầm ngâm như một nhà hiền triết. Bà Giáo ngồi bên cạnh ngủ lơ mơ hay làm bộ nhắm mắt không phải vì bà đã quá quen thuộc với con đường mà vì bà cảm thấy trí óc trống không. Hai vợ chồng già đã sống chung với nhau hơn 30 năm dưới một mái nhà nên hình như mọi góc cạnh của đời sống đã đạt đến trạng thái “bão hòa”. Những xôn xao tình cảm và xúc cảm rạo rực quấn quyện nhau một thời rơi dần vào kho chuyện tình quá khứ và “đằm” xuống đến độ những bọt sóng trên mặt hồ ái ân tan loãng và mất dấu sau bầy sóng gợn lăn tăn. Hấp lực tạo hoa lá cành cho cuộc sống mất dần, để còn trơ lại những nhánh cây tình cảm thu đông. Hai ông bà Giáo bắt đầu mất đi cái nhìn sáng tạo của tình yêu, nên nhìn nhau bằng hình ảnh hiện thực khẳng khiu của những cành cây trụi lá. Chuyện ái ân thể xác đến và đi hiếm hoi, bất chợt như những đám mưa giông mùa hè. Có cũng được mà không có rồi cũng dễ dàng quên đi. Nhưng quên đi để mà nhớ. Nỗi nhớ từ khát vọng rất người vắng bóng dần trong hiện thực, nên chỉ còn lại khung cảnh vẽ vời trong hoang tưởng ước mơ.
Hiện thực mất đi những cặp kính màu sương khói. Bà Giáo nhìn ông Giáo bằng cái nhìn “khám phá”. Bà bắt đầu cảm thấy tiếng ngáy đêm đêm của ông Giáo cục cằn và thô thiển quá. Bà khám phá mùi mồ hôi toát ra từ thân thể của ông Giáo ngày một hăng nồng khó ưa. Bà không chịu nổi mùi thuốc lá thoang thoảng đâu đó từ hơi thở của ông ta mà bà đã từng làm thơ học trò thuở ban đầu hò hẹn: “Em vẫn yêu hương khói Capstan. Thoảng ra dìu dịu từ môi anh...!”. Hương khói Capstan lãng mạn ngày xưa nay chỉ còn là sự ngu ngơ dại khờ của quá khứ. Bà cảm thấy dáng nằm co quắp của ông Giáo quả là tội tình không quý phái... Sự khám phá không sáng tạo, mỗi ngày một thô và cứng hơn làm bà phải trăn trở đêm này qua đêm khác. Bà không ngủ được. Bệnh mất ngủ ngày một nặng hơn. Mãi cho đến khi ông phải tình nguyện xách gối qua phòng khác...
Ông Giáo nhìn bà Giáo bằng cái nhìn đầy... “triết lý trần trụi”. Nhìn nụ cười hằn sâu nét chân chim hai bên khóe mắt của bà Giáo, ông Giáo ngậm ngùi yên lặng và cảm thấy thương Bà hơn. Nhưng đó là cái thương nghiêm trang và đủ mạnh để khoanh tay thi lễ chứ không phải tạo sự xúc động để ông mở rộng vòng tay ôm choàng lấy bà trong đam mê. Nhìn hàng chân tóc bạc chưa nhuộm kịp của bà, ông cảm thấy ngao ngán và thương cảm cho kiếp người ngắn ngủi “sớm như tơ mà tối đã như sương”. Mái tóc bạc làm cho ý thơ về mái tóc trầm hương, tóc mây cuộn gió một thời bay đi không về lại. Mỗi lần bà Giáo leo lên xe, nếu không nằm ngủ thì cũng nhắm mắt lim dim như thể ông Giáo cũng là một cái máy chạy bằng cơm đang lái cái máy chạy bằng xăng chẳng ăn nhập gì đến bà.
Ông bà Giáo đã sống lặng lẽ những tháng ngày “bách niên giai lão” trong ngôi nhà sang trọng, tưởng như là tổ ấm của hạnh phúc nhưng quả thật đó là một “ngôi nhà ly dị”. Sự ly dị thầm lặng của tâm hồn. Sau giờ làm việc về nhà, ông Giáo sống lui cui hết vườn trước, ra vườn sau để đào đất, trồng cây, tỉa hoa, cắt lá... cho đến tối mịt. Gặp khi trời mưa, ông sống đam mê trong việc trang trí nhà cửa. Bà Giáo cũng vẫn còn đi làm phụ để tiêu khiển nhiều hơn là vì sinh kế. Về nhà, bà không có thì giờ nghỉ tay. Ngôi nhà mênh mông cũng giống như người đẹp cần chút son phấn hàng ngày. Bếp núc tân kỳ, nền gạch hoa, thảm mới, bàn ghế đắt tiền, giường tủ... đâu đâu cũng vướng bụi đòi hỏi bàn tay lau chùi chăm sóc của bà. Góc này chưa lau sạch, góc kia đã vướng bụi trần gian. Cũng như ông Giáo, bà Giáo làm cho đến khi đi ngủ.
Hai người lặng lẽ, rán sức gìn giữ ngôi nhà tươm tất từ trong ra ngoài. Nhiều khi suốt ngày người này nhận biết có sự hiện hữu của người kia trong nhà nhưng chẳng hề thấy nhau. Ông đăm đăm nhìn vào đối tượng cần làm với búa kềm, cuốc xẻng trong tay. Bà miệt mài kỳ cọ lau chùi nên chỉ thấy nền nhà và vật dụng. Đêm đêm bà ngủ một mình trong phòng ngủ chính rộng thênh thang ở tầng trên. Ông nằm lơ mơ coi truyền hình chút đỉnh ở phòng sinh hoạt gia đình ở tầng dưới và ngủ luôn trên ghế sô pha. Năm phòng ngủ trang bị tân kỳ để trống cho bụi tháng ngày phủ xuống, mời gọi bàn tay lau chùi thoăn thoắt của bà ngày lại ngày.
Mỗi người đều có nỗi “đang bận tay nửa chừng” nên thản nhiên khuyên người kia cứ ăn cơm trước. Bữa ăn chiều thưa dần hình ảnh hai mái đầu tiêu muối so đũa cho nhau. Cơm canh chỉ là phương tiện làm no bụng. Miệng ông nhai nhưng đầu óc vẫn gắn chặt với công việc đang làm còn bỏ dở ngoài kia. Bà nuốt miếng cơm như cái máy xay sinh tố, không một chút quan tâm vì tâm trí còn nằm lăn lóc đâu đó trên nền nhà, mặt ghế.
Ông bà đã sống gần như ly thân một cách êm ái từ trên giường ngủ và ly dị một cách vô hình chung từ trong suy nghĩ về nhau.
Ngôi nhà đã âm thầm quyết định và làm chứng cho sự ly thân không có lệnh tòa phán quyết của hai ông bà Giáo.
Ngôi nhà rồi cũng cũ dần như tuổi già mệt mề của hai ông bà Giáo. Hai ông bà chỉ có chung một niềm vui là ngôi nhà càng ngày càng lên giá, nhưng lại có riêng nỗi buồn là tình già càng ngày càng xuống giá. Sự lên giá vật chất không chuộc được sự phá sản tâm hồn. Bè bạn đến thăm để chung vui, nhưng chẳng có ai đến chia sẻ nỗi buồn vì niềm vui có thể tính toán được bằng giá trị vật chất, nhưng nỗi buồn lại được gói trong trong chăn bông và bên ngoài bọc giấy kiếng nên thiên hạ làm sao thấy được giọt nước mắt của thằng hề nơi hậu trường sân khấu.
Rồi có những lúc ông bà nhìn nhau thật xa lạ. Mỗi người có cảm tưởng như đã gặp người kia đâu đó nhưng chả có gì quan trọng để nhớ lại. Tình cảm như tấm thẻ tín dụng đã hết hạn không “renew”. Đó là tấm thẻ chết và tình cảm vô tri. Khi không có một bình minh thì làm sao thấy được một hoàng hôn. Nếp sống ngày lại ngày chỉ còn là một chuyến tàu tình cảm bay lạc mất trong không gian.
Lại đến sinh nhật thứ 60 của ông Giáo.
"Kính mừng Ba lên Lục Tuần Thượng Thọ – Happy to your 60th Golden Birthday, Daddy!”
Đọc hàng chữ đỏ ghi trên tấm thiệp vàng dán ngoài thùng quà, ông Giáo bỗng thấy một cảm giác là lạ như đang chứng kiến chuyện của ai kia! Cái gã “lục tuần” đó là ai thế? Mình đang trở thành ông Cả, ông Lý, ông Hương... như ngày xưa các vị bô lão chức sắc trong làng, trong xã chiều chiều khăn đóng, áo dài đen chống dù đi ăn giỗ rồi sao? Hình như vào chặng tuổi năm lăm, sáu chục về sau, người ta không lớn kịp với tuổi trẻ và không già kịp với tuổi già. Thời gian thì qua nhanh vun vút mà giới tài tử giai nhân ngũ thập, lục tuần vẫn cứ quen nhìn thằng Cu, con Bé hai chục năm xưa qua hình ảnh ngây thơ thời tiểu học và quên mất cảnh gối lỏng, chân mòn hôm nay của gã hào hoa tam tứ núi cũng trèo thuở nọ.
Tâm lý “ngồi lại bên cầu” làm ông Giáo cảm thấy bâng khuâng. Ông thở dài, nhìn ngôi nhà nguy nga đồ sộ, nhìn lại dáng vẻ mệt mõi, bạc màu của bà Giáo và của chính mình. Ông cảm thấy như đang làm kẻ thua cuộc. Quay lại nhìn ngày qua, cây non trong vườn đã thành đại thụ và ông thành gỗ mục tuổi già. Cây đại thụ thì vươn mình với nắng gió mà tuổi già của ông thì lặng lẽ thu mình.
Nhưng rõ ràng trước mắt là cảnh tre già măng mọc. Ngôi nhà lại rộn lên với bóng dáng của con cháu đầy đàn. Ông bà vui cười hể hả vì thấy rõ ràng mình chính là tác giả của bầy nhân loại trẻ trung, nhiệt thành, đầy sức sống đang vây quanh. Quà sinh nhật cho ông Giáo năm nay là cái máy computer Dell xách tay đời mới nhất, thay cho cái máy để bàn sẽ được chuyển giao lại cho bà Giáo. Quà kèm theo là việc gắn hệ thống “internet” chạy nhanh DSL trong nhà. Cũng trong dịp này, bầy con dùng áp lực bắt ba mẹ già phải nghỉ ngơi, bằng cách thuê bao người làm vườn và chùi dọn nhà cửa hàng tuần.
Lại hết một cuối tuần sinh nhật rộn ràng, bầy con ai về nhà nấy, trả lại cho ông bà Giáo cái không khí yên tĩnh gần như cô liêu của căn nhà.
*
Khi một thế giới tình cảm rơi vào im lặng của một trật tự mới, những kẻ có lòng thường không chịu buông xuôi. Người ta làm văn, làm thơ, và thậm chí, ... làm ồn – để khỏi... làm thinh!
Thiên tài văn nghệ phát xuất từ ngạch đất của bà Giáo. Sự nghiệp văn chương le lói hay lẫy lừng của bà Giáo chỉ thật sự bắt đầu từ ngày bà làm chủ riêng cái máy computer và biết sử dụng i-meo (email). Từ một mình cô độc trên mạng lưới “Yahoo.com”, bà Giáo đã dần dà quy tụ được hàng chục, rồi hàng trăm bạn hiền trên trường văn trận bút của mạng lưới khắp năm châu, bốn bể. Những người bà chưa biết mặt, cũng chẳng biết tên. Khuôn mặt và lai lịch mỗi người chỉ có một dãy chữ số. Có người thầm lặng, có kẻ lao xao. Có người bốn mùa chỉ đọc mà không lên tiếng, có kẻ siêng năng vẫy vùng trên mạng lưới suốt ngày.
Làm sao quên được cái quán thơ của bà Giáo thuở mở hàng chỉ có lơ thơ dăm ba hàng chữ nghĩa mây bay: Đấy là vài bài thơ xào nấu lại từ thuở học trò. Thế nhưng cái “lộc” văn chương từ đâu lại đến. Chỉ mới dăm bài thơ tung ra chưa hết quyền cước thi ca thì đã có lời khen tặng tung ra trên mạng lưới. Lần đầu, bà cảm thấy vừa vui vui, vừa đỏ mặt một mình, vừa có chút xôn xao đâu đó mới dấy lên trong lòng như thuở mới yêu đương lần đầu có chàng tán tỉnh: “Em yêu ơi! Em đẹp quá!”. Đó là khi có người gọi bà là “Nhà Thơ”, là “Thi Sĩ”! Ôi! Cái huyền thoại thi nhân không lẽ chỉ dành riêng cho Lý Bạch, cho Nguyễn Du, cho Xuân Diệu, Tản Đà, Hàn Mặc Tử... ngồi mòn đũng quần trên những chiếc chiếu hoa cạp điều làng thơ muôn thuở hay sao.
Ngay cái việc chọn bút hiệu cũng đủ làm bà nhiều đêm thao thức. Nếu chọn những tên hay nhưng quá xa lạ, lỡ bà làm thơ hay thì người đời còn lâu mới biết thân thế sự nghiệp thực sự của bà. Còn nếu chọn tên thật lỡ biết đâu thơ bà dở như hạch thì sẽ muối mặt muối mày với bà con bằng hữu! Thôi thì cứ níu áo đức Khổng Tử mà nương theo cái thuyết Trung dung vô thưởng vô phạt của ngài. Bà giáo xin cắt phần trước cái tên cúng rượu Lê Thị Trâm của bà để thành “Trâm Anh” cho nhẹ bước đi vào đường văn học sử. Nhà thơ Trâm Anh, thi sĩ Trâm Anh... nghe ra cũng chan chứa hồn thơ! Bên cạnh địa chỉ email chính thống của mình, Trâm Anh còn tạo ra thêm vài ba địa chỉ email “vệ tinh nhân tạo” bay vòng vòng xung quanh nàng, đóng vai tam nương phò đại hãn. Lỡ có bề nào cãi cọ nhau thì vẫn còn bên vuốt, bên thoa.
Với Trâm Anh thì hồn thơ lai láng, nhưng với ông Giáo thì hồn thơ “ngao ngán” vì từ ngày hồn thơ nhập xác bà Giáo rồi thì ăn ngủ, chơi đùa, mua sắm, rửa chén, chùi nhà... nơi đâu cũng thấy lãng đãng một trời thơ. Có lẽ cũng nhờ thế mà bà Giáo bỗng nổi tiếng trên thi đàn hải ngoại khá nhanh. Chỉ trong một thời gian ngắn, thơ bà chuyển từ thế thủ sang thế công, từ tĩnh sang động, từ phóng tác sang sáng tạo. Như một môn sinh môn phái thần quyền trong thi ca, bà niệm chú và múa quyền là nguồn thơ tuôn trào như thác đổ. Bà quên dần những tượng đài thi ca sừng sững của Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử, Quang Dũng, Xuân Diệu... từng có một thời bám sát theo dòng tưởng tượng của bà. Mỗi ngày, có cả hàng chục, đôi khi hàng trăm i-meo ào ạt gửi tới xông đất nhà bà. Cái đòi xướng họa, cái khen tặng, cái phân tích, cái bình phẩm thơ Trâm Anh. Khách mộ điệu “hàng sỉ – whole sale, bulk rate” thì bà trả lời chung chung hàng loạt. Khách yêu thơ “hàng lẻ – celebrity” có chút tiếng tăm thì bà lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Bà đã mất nỗi lòng ngượng ngập của cô dâu mới khi có ai gọi bà là “nhà thơ” là “thi sĩ”. Tiếng trống múa lân đã làm cho đầu rồng thi ca hứng chí bay lên chín tầng mây. Bà cảm thấy thơ mình hay qua lời ca tụng của khách i-meo nườm nượp trên màn ảnh nhỏ. Bà bắt đầu cảm thấy khó chịu khi có những i-meo lạc loài tỏ ra ương ngạnh chưa chịu “mê” thơ bà. Gặp những trường hợp như thế thì bà chỉ cần vươn tay bóp chuột “đi lết” (delete) một phát là xong đời thằng nhỏ. Cái màn ảnh computer còn phù du hơn cuộc sống. Cả một thành quách lâu đài của vẻ đẹp, khôn ngoan, trí thức, ân tình... chỉ cần dòng điện không qua hay một động tác bấm nút chớp mắt thì tất cả chỉ còn là cái màn ảnh trống trơn, đen ngòm, lạnh lẽo.
Thế nhưng, cái thế giới tưởng như ảo ảnh phù du đó trở thành lẽ sống của người đàn bà ở lứa tuổi ngoài 50 ấy. Bà chuyện trò với nó, vui buồn với nó, ôm ấp nó. Trừ những lúc bận rộn thái quá hay ngủ say, bà siêng năng và nhẫn nại “check email” trong mỗi 15 phút.
Thế giới i-meo là một thế giới của “thực tế ảo”. Người đó nhưng là ma đó! Phải có người thật làm chủ i-meo, nhưng người đó là ai, ở đâu, già trẻ thế nào, mặt mũi ra làm sao thì chỉ có trời mới biết. Những dòng chữ hiện ra trên màn ảnh đôi khi ngỡ gần gũi và nồng ấm như đang thì thào bên mang tai. Nhưng thật ra là muôn trùng xa cách. I-meo như tiếng hát của loài mỹ nhân ngư gần gũi mà xa vời trên bờ đại dương. Vì chưa gặp nhau, chưa biết nhau và thường thì sẽ chẳng bao giờ gặp nhau nên cái biên giới ngượng ngùng của hai cõi riêng tư không có người canh gác, hai “emailers” tha hồ thủ thỉ tâm tình mây mưa, vặn hết “volume” nói trạng hay đăng đàn diễn thuyết răn đời mà chả sợ khán giả khen chê.
------------------------
2
Ông Giáo là người nhạy cảm, thông minh, nhưng nhiều mặc cảm tự tôn và tự ti lẫn lộn. Xuất thân là nhà mô phạm dạy văn chương nên ông canh gác nền văn học nghệ thuật của thế giới rất nghiêm túc. Ông cười nhạt nhìn hiện tượng “nhà thơ vợ” Trâm Anh với đôi mắt đầy nghi ngờ và phê phán về mặt giá trị văn chương. Ông rất sợ đọc “thơ vợ”. Thơ tình yêu thì ông chẳng thấy mình trong đó. Thơ tả cảnh mây nước thì ông chỉ thấy toàn chén dĩa mệt mề mà ông phải rửa hàng ngày. Thơ nói chuyện trời biển thì ông chỉ thấy “má sáp nhỏ” một thời vừa vạch áo cho con bú, vừa với tay lặt rau cho kịp giờ nấu ăn đi làm. Bụt ở nhà không thiêng nên “thơ vợ” chưa có cơ hội ngàn vàng lọt vào mắt xanh ông Giáo.
Thế nhưng, thực tế cuộc đời vẫn thường xảy ra là cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Bà Giáo bỗng in thơ, phát hành thơ, tổ chức ra mắt thơ... làm xáo động cả vùng trời và mảnh đời yên tĩnh của ông giáo. Điện thọai nhà reo liên miên. Những “độc giả trung thành” với giọng lưỡi khen tặng trơn tru khó ưa muốn gặp thi sĩ Trâm Anh cứ thường xuyên quấy nhiễu lòng thanh tịnh của ông Giáo. Nhất là trong ngày ra mắt tác phẩm thơ đầu tay của bà Giáo, ông Giáo bấm bụng tươi cười như phải thi hành án khổ sai khi trước mặt ba quân phải cùng với bầy con lên sân khấu tặng hoa cho thi sĩ Trâm Anh và nói đôi lời với quý vị quan khách. Ông Giáo nghĩ bụng: “Quái thật! Ai cũng nghĩ rằng, mình là một người chồng có máu nghệ sĩ, khuyến khích vợ làm thơ, nay bà ra mắt ra mũi mình có chút hãnh diện. Thế nhưng ngược lại, mình bực bội. Từ lâu, không hề đọc một dòng nhưng mình vẫn yên chí là thơ bà ấy nhạt phèo như nước ốc. Một triền núi xưa nay chỉ có cây dại và hoa đồng thì làm sao bỗng dưng có cỏ hoa vương giả? Cho nên, bà ấy bày đặt làm thơ là làm chuyện vác chữ chăn chim!”
Chất keo giữa ông Giáo và bà Giáo mỗi ngày một loãng đi gần như nước lạnh. Khoảng cách vật lý chỉ cần vươn tay ra đã níu được nhau, nhưng khoảng cách tâm lý lại thăm thẳm nghìn trùng. Hai cái computer như hai chiếc tàu vũ trụ bay ngược chiều, chở ông bà Giáo mỗi ngày một cách xa. Mỗi thế giới i-meo là một vũ trụ chưa khai phá. Trong đó, những dòng chữ Việt thường không dấu nên người đọc phải cố mà hình dung cho ra cái văn cảnh của lá thư, mường tượng phong thái của người viết, ước đoán mối giao tình của bên gửi và bên nhận mới khỏi nhầm “tài hoa” với “tai họa”; “mất dấu” với “mắt đau”, “mất đầu”; “vô đề” với “vỡ đê” hay “vợ đẻ”...! Những chữ không dấu có thể kéo theo 9 dạng khác nhau: Sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, mũ, râu, ria, đờ... nên rất dễ biến “hiểu lầm” thành “hiểu lắm”!
Thi sĩ Trâm Anh bắt đầu nếm cái hương vị phù phiếm của “nhà thơ nhớn”. Bà Giáo mất dần sự hồn nhiên của mơ mộng tung tăng. Bà có cảm tưởng như mình không còn có tự do để sáng tác, để làm thơ cho sự rung động của chính mình. Bà làm thơ để thỏa mãn sự đòi hỏi của những độc giả ái mộ đang đợi bà một cách vô hình, vô ảnh đâu đó ngoài kia hay trên màn ảnh nhỏ. Những kiểu cách tình yêu không phải là của kho vô tận. Những cuộc tình ảo ảnh cũng như những cuộc cờ hết nước, bà Giáo đã lôi hết tất cả các từ nào về cảm xúc, tình tự, nhung nhớ và thương yêu... mà bà cho là tuyệt vời nhất ra xào đi nấu lại trong thơ. Người trốn chạy thì phải tìm vào hang động để ẩn núp. Thi nhân trốn chạy thì tìm vào thơ bí hiểm. Cờ hết nước thì cờ bí, thơ hết ý thì thơ... bay. Chữ và chữ nối đuôi với những gạch ngang, gạch dọc. Nhân gian chưa hề thấy Hằng Nga nên Hằng Nga mới đẹp; người đọc thơ mà không hiểu thơ, thơ mới thành kỳ tú. Thi nhân không hiểu thơ mình thì lại càng huyền diệu hơn vì thơ sẽ thành thánh, thành thần, thành chú ngôn, sấm ký... Nhân gian ngoài kia có yêu thơ thì rán giả vờ rằng hiểu hay chẻ thơ ra để hiểu.
Cho đến một ngày, ông Giáo đọc trong một cái i-meo gởi tập thể nhận định về thơ Trâm Anh một cách hảo hớn là “...nay thơ bà ta đã thành danh, thành giá, thành thần chú và sấm ký trạng Trình.” Ông Giáo gục gặc đầu cười khoái chí, nói một mình: “Già đời rồi mà còn muốn chặt sừng làm nghé. Bày đặt làm thơ làm thẩn!” Rồi như một cuộc cờ mỗi nước một tân, cuộc tranh luận về thơ “bí hiểm” của Trâm Anh mỗi lúc một hăng. Chiến trường chữ nghĩa sôi động. Bắt đầu có tiếng tên réo đạn bay vi vu lời qua tiếng lại. Ông Giáo ngồi canh trên computer như canh nạn đói năm Thân, Dậu. Đến khi phe ủng hộ Trâm Anh thưa dần trong lúc phe tiến công xung phong vào sào huyệt của thơ Trâm Anh làm chủ chiến trường, ông Giáo mới bắt đầu cảm thấy chột dạ. Chỉ còn một giọng nói phản công yếu ớt của một nhân vật nữ nào đó với địa chỉ i-meo rất Huế là “ Dongkhanh@...com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it ” dưới biệt danh Hương Giang thì vẫn còn chiến đấu. Không rõ nguyên động cơ nào đã lôi kéo ông Giáo bước vào sân đấu. Không biết vì cảm mến nhân vật Hương Giang hay vì từ trong sâu thẳm của tâm tư, thi sĩ Trâm Anh vẫn còn nghiêng nón vẫy gọi chàng trai xứ Huế về chiều, mặc dầu bà Giáo đã làm chàng ta nguội lạnh.
Để chuẩn bị cho đợt phản công tái chiếm hồn thơ, ông Giáo đã âm thầm tìm đọc tất cả những bài thơ lớn nhỏ đủ các thể loại của Trâm Anh. Ông hơi ngạc nhiên vì có khá nhiều bài, nhiều câu, nhiều từ trong thơ Trâm Anh làm cho ông Giáo thực lòng cảm động. Người đàn bà luống tuổi sống ngày lại ngày như chiếc bóng đã phôi pha bên cạnh ông không phải là Hòn Vọng Phu hoá đá. Đó là một người đàn bà sống thực. Một người có dòng máu nghệ sĩ và sự nhạy cảm tinh tế của trần gian. Một tâm hồn đầy khát vọng yêu thương và chia sẻ già dặn nhưng vẫn còn nồng nàn và mơ mộng. Tuy ông Giáo vẫn chưa ra khỏi cửa cái pháo đài của định kiến và khước từ, nhưng ông cũng cảm nhận được lòng mình đang mềm lại. Càng gần gũi với thơ Trâm Anh, ông Giáo lại càng hăng hái hơn trong quyết tâm đứng vào trận tuyến với Hương Giang. Ông mở ngay một địa chỉ email mới, “đối bóng” với Hương Giang: “ Quochoc@...com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it ” dưới biệt danh là Ngự Bình. Tận dụng sở học văn chương trong bao năm qua, ông Giáo tự thổi còi mở màn cho trận đấu. Cùng với Hương Giang, người bạn đồng hành trên mạng lưới email chẳng biết là ai, ông Giáo thúc ngựa, cầm thương xung trận chạy bao sân. Từ trong thinh lặng của vô thức, sau mỗi đợt email công đồn đả viện, ông Giáo đều cảm nhận như có tiếng reo hò đâu đó thật ngọt ngào và dễ thương của chiến hữu Hương Giang ấm hơi thở dập dồn bên cạnh. Ông Giáo lý luận văn chương càng rạch ròi và khúc chiết chừng nào thì sự hỗ trợ và tán đồng của Hương Giang càng uyển chuyển và đầy sức thuyết phục ngọt ngào chừng ấy.
Thi ca là đám mây ngũ sắc mà màu nào cũng có vẻ đẹp rực rỡ riêng của nó. Đẹp hay không là tùy người biết lựa chọn và pha màu. Hương Giang chọn màu dịu và ấm. Ngự Bình chọn màu nóng và đậm. Họ hòa lại với nhau thành một bản sắc màu đầy ấn tượng. Chiến trường email xoay chiều rõ rệt. Trận giặc email với đoàn quân xa lạ nên tụ cũng nhanh mà tán cũng vội. Ngày thơ Trâm Anh ca khúc khải hoàn thì cũng là ngày dòng thơ Trâm Anh mất hút trong nội dung trao đổi email giữa ông Giáo và Hương Giang. Thế giới của họ càng gần lại thì sự hiện diện của người thứ ba không có lý do tồn tại. Hương Giang tự giới thiệu mình là cựu nữ sinh Đồng Khánh. Ngự Bình cũng tự giới thiệu là một cựu học sinh Quốc Học. Điểm gặp gỡ của hai người bây giờ là chuyện ngày xưa của bến đò Thừa Phủ, có áo trắng, có phượng hồng và những khung trời nhuộm màu kỷ niệm của Huế. Tuổi lục thập đàn ông, và tuổi ngũ tuần đàn bà là lứa tuổi đứng trước ngưỡng cửa hoàng hôn; mệt mỏi nhìn tới, thơ thẩn nhìn lui và phân vân nhìn hiện tại. Cuộc đời còn lại quá ngắn để cho một sự bắt đầu và quá dài cho một sự đợi chờ không hứa hẹn. Nhu cầu tình cảm thầm lặng và lành mạnh ở lứa tuổi này tuy không phải là tình tự, bướm ong như thời son trẻ; nhưng cũng không thể là sự hóa vôi tình cảm và ly thân hóa mối quan hệ để rút vào căn nhà tiền chế của định kiến, kiêu hãnh và chán chường kiểu ông bà Giáo. Bởi vậy, khi ông Giáo biến thành Ngự Bình là khi ông ta “thanh xuân hoá tuổi già” của mình. Ông cảm thấy thoải mái và hồn nhiên với một người chưa biết mặt vì người Hương Giang đối với ông là một trang mới của cuốn sách đời không dấu vết của trói buộc, đòi hỏi, khen chê, tranh cãi... mà chỉ có niềm vui thoáng mát và nhẹ nhàng chia sẻ. Hai người bạn trên email như ánh nắng và dòng sông. Như biết rõ mà vẫn là xa lạ. Khi song hành thì soi bóng; khi một phía quay lưng thì chỉ còn khoảng trống lạnh lẽo ngoài khung kính nhỏ vô tri.
Không một tiếng súng, không một chiến trường, không một lời tuyên chiến nhưng mặt trận email vẫn trùng trùng sôi động đêm ngày ở bất cứ nơi đâu có ánh sáng của con người rọi đến. Giặc email có một đạo quân hùng hậu trên tòan thế giới. Và có lẽ trong lịch sử cổ lai chinh chiến của sinh vật địa cầu, không có cái tinh thần tự nguyện nào lại thường hằng và năng nổ đến như thế. Người ta mở nút email trước khi mở tất cả các loại nút khác, kể cả nút cà vạt và nút áo quần sau giờ làm việc, ngay khi vừa về đến nhà. Vũ khí nào đã làm cho giặc email mạnh đến thế? Đó là khi tri thức và tình cảm trong tay không đủ lấp đầy cho sự cô đơn của hiện thực! Thế giới vật chất càng tràn đầy, thông tin khoa học càng nhanh chóng làm cho địa cầu ngày càng nhỏ lại, con người càng cảm thấy cô đơn. Cô đơn vì tình cảm mất dần bóng im thần thoại để ẩn núp. Cô đơn vì nỗi sợ hãi khó tìm những miếu đền thần linh để nép mình. Và cô đơn vì quan hệ giữa người với người mất đi lớp vỏ hào hoa của đợi chờ và mơ ước. Sự thật trần trụi bao giờ cũng cô đơn như pho tượng lõa lồ... Có vẻ như ông Giáo và Hương Giang đi tìm chỗ núp vì cả hai đều sợ nỗi cô đơn của chính mình. Sợ đối diện với những pho tượng vợ chồng đang dần dần hoá đá. Đá triệu năm không hoá được thành người, nhưng con người trong cuối cuộc vợ chồng mà ngày lại ngày không biết nâng niu vun xới cho nhau thì thật đễ dàng hoá đá.
º
Sau bữa tiệc cưới về nhà còn ngây ngây men rượu, ông Giáo sà ngay vào máy và mở i-meo. Ông Giáo hình dung Hương Giang với vẻ quyến rũ của một nàng thơ. Cái tên làm ông gợi nhớ tuổi học trò bên dòng sông con gái một đời không bao giờ thành thiếu phụ. Dòng sông ấy có cố nhân là Ngự Bình và người tình là Kim Phụng. Những người tình trông bóng nhưng không bao giờ gặp nhau, nên tình đẹp nhất của Huế là tình cảm trông vời... Trong phút lãng mạn bất chấp, thay vì xưng tên như mọi khi, ông bắt đầu thư i-meo cho Hương Giang với chữ “Em” ngọt lịm. Click! “Em” bay vào không gian. Ông Giáo hơi ngẩn ngơ một chút vì sự xua quân qua lằn ranh hơi táo bạo của mình. Sáng mai, thư không có hồi âm. Hôm sau và hôm sau nữa khung “inbox” vẫn trống không. I-meo là giống bạc tình. Lỡ bước bay đi không bao giờ gượng lại. Những tờ thư trên giấy còn có địa chỉ dò la, nhưng những cánh thư i-meo chỉ là ảo ảnh. Không ai rõ nguồn cội nhân vật nơi mô mà tìm. Giữa khi bất ngờ nhất, thư Hương Giang chợt đến. Tất cả chỉ vỏn vẹn mấy dòng từ biệt: “Anh! Thư này là thư cuối của em. Có những giới hạn tuy vô hình, nhưng nếu mình vượt qua là bị lạc và sẽ tự đánh mất mình vĩnh viễn. Ai cũng có những phút ngoài chồng ngoài vợ. Đừng trách chi một chút xao lòng…... Em HG”. Ông Giáo lẩm bẩm lập lại câu thơ của một nhà thơ nào đó mà Hương Giang nhắc lại: “Ai cũng có những phút ngoài chồng ngoài vợ. Đừng trách chi một chút xao lòng...”
“Chút xao lòng” có khi chỉ là cái nghiêng nón che tia mắt nhìn của người khách lạ. Nhưng “chút xao lòng” ấy cũng có khi là cái lách mình qua ngả khác của một mảnh đời bão nổi, buông tay.
Email là sản phẩm của con người và kỹ thuật, là dụng cụ để phá màn bí mật chứ không phải để tạo ra sự bí mật mới nên i-meo chẳng bao giờ là vùng đất riêng tư của ai cả. Với một số kiến thức căn bản về vi tính, chẳng khó khăn lắm để ông Giáo tìm xuất xứ cội nguồn của Hương Giang bằng phương pháp “tầm nguyên”. Bất ngờ như mũi tên bắn sẻ: Hai địa chỉ email “ Dongkhanh@...com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it ” và “ Tramanh@...com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it ” đều phát xuất từ một chỗ. Nghĩa là Hương Giang cũng chính là Trâm Anh. Với phản ứng tức thời, ông Giáo ngửa mặt lên trời cười khan. Nhưng cái cười đột phát ấy lại tức khắc rơi xuống lòng ông làm cho tay chân ông bắt đầu run rẩy và trái tim nhói lên như khi An Dương Vương khám phá ra “ ả giặc yêu quý” Mỵ Châu đang cùng ngồi trên mình ngựa sau lưng mình. Ông có thể tin Liz Taylor cặp bồ với gã tình nhân thứ 100, nhưng lại không cho phép lòng tự hào của ông tin là bà Giáo đã có một phút “xao lòng”. Ông chạy bổ lên lầu, vào phòng bà Giáo, nhưng đứng sững lại trước vẻ mặt đăm chiêu và câm lạnh như bức tượng sành sứ của bà. Không nói một lời, ông Giáo đóng sầm cửa lại và đi ra. Cái nhà rộng thênh thang đứng trên đỉnh đồi lộng gió bỗng trở thành nực nội và chật chội, không đủ chiều cao và chiều sâu để chứa cho hết một trời thất vọng và nhức buốt của ông Giáo. Nổi lọan, câm lặng hay quên đi trong hoàn cảnh này đều là cách dễ dãi để trốn chạy chính mình.
Đã bao nhiêu năm, với một niềm tin không cần kiểm chứng, ông Giáo yên chí là bà Giáo đã hoàn toàn thuộc về ông, cả thân xác lẫn tâm hồn. Ông mặc nhiên coi bà Giáo là vật sở hữu của riêng mình. Từ đó, sống chung dưới một mái nhà, cả hai ông bà hùng hục làm việc lo cho con, lấy tương lai và sự thành đạt của con cái làm hạnh phúc của mình. Ông Giáo đã quên rằng, có một “cây hoa biết nói” hàng ngày sống bên cạnh. Cây hoa cũng cần tưới bón và chăm sóc để đừng khô héo với thời gian, nhưng cây hoa mẹ đã hoàn toàn bị lãng quên cho vườn hoa con đâm chồi nẩy lộc. Hai ông bà ngày lại ngày chỉ “thấy” nhau qua hình ảnh trung gian của đàn con. Khi đàn con lớn khôn và tung cánh ra đời, hai người tình năm xưa vẫn nhìn nhau dưới một mái nhà nhưng chẳng thấy nhau mà chỉ thấy khoảng trống vì những đôi mắt vẫn còn bị lực quán tính của những năm dài “không nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng... nuôi con” lôi đi xềnh xệch. Email như một viên sỏi ném vào con cọp ngủ. Email khiến họ thức giấc và tò mò khám phá lại mình; đánh động nguồn cảm xúc tiềm ẩn trong chiều sâu lên tiếng.
Sau “biến cố email” ông bà Giáo lại càng lặng lẽ với nhau hơn. Những đêm sâu trăn trở nghe tiếng ho húng hắng của bà Giáo ở tầng trên vọng xuống, ông Giáo cảm thấy lòng se lại. Ông cũng rán ho trả lời như để xác nhận sự hiện diện của mình với bà Giáo. Sự lặng lẽ sâu hút của hai ông bà như là một cuộc thi gan ai là người bản lĩnh hơn ai. Hình như dần dần cả hai ông bà khám phá ra rằng cả hai đều mệt mỏi và thua cuộc. Chỉ có cái đồng hồ treo tường là bản lĩnh nhất, là kẻ thắng cuộc trong ngôi nhà mênh mông này, vì đêm ngày nó vẫn thản nhiên chạy tí tách và đúng giờ reo lên hát hỏng một mình.
Rồi một đêm khuya, ông Giáo ngồi lặng lẽ trong bóng tối. Chẳng phải là thiền định hay ngủ gật, nhưng là để lặng lẽ suy tư. Cuốn băng email quay lại trong dòng suy tưởng của ông. Sao ông không là Ngự Bình; sao bà Giáo không là Hương Giang. Sao cả hai người đang sống thực mà phải đóng vai những bức tượng cổ bị trói buộc và đặt ngay ngắn trong ngôi nhà rộng lớn này, để đợi chờ một điều gì đó mơ hồ không ai hình dung nổi của một mảnh đời chưa đến gọi là tương lai. Ông Giáo vào phòng mở lại email và bấm nút hộp thư lưu trữ có tên là “Hương Giang”. Từng mảnh nhỏ tâm sự hiện ra. Bà Giáo đó, Trâm Anh đó, Hương Giang đó... trong cùng một con người khao khát sống trở về. Ông Giáo cảm thấy mắt mình nhoà đi trong nỗi xúc động vô chừng. Ông thẫn thờ ôm mặt cúi gục trên bàn. Đêm khuya khoắt, ông nói thì thào qua kẽ tay: “Anh thật vô tình! Anh có lỗi!” Tưởng như đêm có một bàn tay kỳ bí. Rồi hai bàn tay mềm và ấm từ phía sau đặt lên vai ông. Có tiếng nói thì thào đáp lại: “Em cũng vô tình! Em thật có lỗi!” Im lặng như chứng nhân của ân tình vừa sống lại. Hai người áp má vào nhau. Rất xa mà gần, có mùi vị mặn. Trên màn ảnh của bóng tối, hai hình mường tượng hiện lên: Hương Giang và Ngự Bình từ một quá khứ chưa phai.


Mùa Valentine 2012
(Không biê't tên ta'c giả)




thanks.gif

Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re:Một truyện ngắn về tôn giáo rất hay và dí dỏm: Có tội hay không có tội ?
Reply #141 - 10. Apr 2012 , 15:32
 



Một truyện ngắn về tôn giáo rất hay và dí dỏm:
Có tội hay không có tội ?


...




Tôi thật không biết phải bắt đầu từ đâu để câu chuyện đời lộn xộn của mình có được một chút ngăn nắp để bạn hiểu tôi hơn. Thôi thì bắt đầu vào một ngày nắng đẹp, tôi bước ra khỏi toà án Saigon với cái giấy ly dị trên tay. Tôi có một trai và một gái và quan toà đã rộng lượng xử cho tôi được trọn quyền giữ cả hai với điều kiện là không nhận được chu cấp từ người chồng. Tôi hoan hô quan toà cả hai tay. Đó là năm 1969.

Bà chị tôi có hãng thầu cung cấp dịch vụ hớt tóc, giặt quần áo, bán hàng kỷ niệm cho quân nhân Mỹ tại Việt Nam và hàng ngàn xe đá để hãng RMK làm phi trường. Đó là một công cuộc làm ăn lớn lao có tới vài trăm nhân viên nên chị nhận cho tôi theo làm để nuôi con. Do đó tôi gặp Ron, người chồng hiện tại.

Bạn ơi, không biết tôi đã tốn bao nhiêu nước mắt cho cuộc hôn nhân nầy. Không biết tôi đã nhận được bao nhiêu lời sỉ nhục khi đi sánh đôi với người chồng  Mỹ tại Việt Nam. Nếu phải đếm hết những danh từ thô bỉ, những ánh mắt chê bai,  những  đối xử khinh bạc của bạn bè, của những người quen biết cho đến những kẻ qua đường vì tôi "lấy Mỹ" thì chắc tôi phải biến thành con rết khổng lồ với cả ngàn chân tay mới đếm hết nổi. Thôi thì chẳng qua là cái nghiệp. Chắc mình đã dè bỉu, chê bai bao nhiêu là người ở những kiếp trước nên kiếp nầy nhận lại "gậy ông đập  lưng ông" thôi mà.

Mỗi lần bị "tai nạn" như vậy, tôi giả vờ phớt tỉnh. Những dòng nước mắt tủi hổ cứ chực tràn ra. Ông xã cứ hỏi là "họ nói gì vậy?", tôi thì cứ  ai biết đâu, họ dùng danh từ em không hiểu!". Nhưng ông xã thì biết vì anh có rất nhiều nhân viên Việt Nam làm việc cho anh và chắc họ đã giải nghĩa cho anh hiểu địa vị của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội khi họ vô phước kết hôn với ngươì Mỹ.

Sau khi anh hiểu được, tôi không bao giờ quên được ánh mắt của anh nhìn tôi trong những lần "tai nạn" đó. Đôi mắt anh chứa đầy những biết ơn, những chia xẻ, những đau thương, những căm giận, những cảm thông.. Anh cầm tay tôi nói: "Thật là không công bình cho em. Anh rất biết ơn em. Sự chịu đựng những nỗi nhục nhằn của em làm tan nát tim anh.  Anh cảm thấy không xứng đáng với sự hy sinh của em." Tôi chỉ nói nhỏ: "Cả hai, em và họ đều là nạn nhân, mỗi người mỗi cách. Có phải chúng ta đã hứa là sẽ cùng chung chịu những niềm vui và nỗi khổ trên đời không? Vậy đó không phải là sự hy sinh. Đó chỉ là sự chia xẻ."

Và tôi đã sát cánh cùng anh nổi, chìm trong cõi ta bà, trong nụ cười khi gia đình xum họp,  trong nuớc mắt khi một đứa con sớm vội ra đi, trong thành công, trong thất bại suốt bốn chục năm qua.

Rồi Trời Đất nổi cơn gió bụi. Năm 1975 tôi dắt díu các con qua Mỹ sống tại California.  Bà mẹ chồng ở tận Boston qua CA thăm cháu nội và dâu lần đầu tiên.

Mẹ ruột kẹt lại quê nhà, mẹ chồng ở kề cận, thôi thì hãy vui với hiện tại và những gì mình có. Gạo trồng ở Việt Nam hay trồng ở Mỹ thì cũng nấu thành cơm. Mẹ ruột hay mẹ chồng thì người đàn bà đó cũng đã thương yêu và dưỡng nuôi người mình yêu dấu. Bà hỏi chớ các cháu đã được rửa tội chưa? Tôi nói ngắn gọn "Dạ chưa. Con đạo Phật." Bà mỉm cười không nói gì và không bao giờ nhắc lại.

Hình như người Mỹ có tâm hồn rộng rãi hơn. Bà thường hay lục lọi và gởi về cho cháu nội những quyển thánh kinh rất cũ của gia đình. Tôi nhận và trân trọng giao lại cho các con.  Mẹ chồng gần với con dâu hơn người con ruột.

Thời gian qua, một hôm thằng con cả báo cho mẹ biết là nó muốn cưới vợ. Mình đã già rồi mà không hay bạn ơi. Khi nghe con trình bày mọi điều, bà chị la làng chói lói. Trời ơi, nó là con trai lớn nhất mà theo đạo Chúa thì lấy ai mà thờ phượng em?  Bạn ơi, bạn nghĩ sao? To be or not to be? Nói Yes, con cứ tiếp tục lo hôn lễ hay nói No, No Way.

Hừm, thờ phượng là nó sẽ nhớ tới ngày mình theo Phật, mua một mâm đủ cả heo quay, gà vịt, có cả bia rượu, bưng lên bàn thờ để một tiếng đồng hồ rồi dọn xuống mời bạn nhậu? Hay là nó cúng mâm chay nhưng lại không ăn? Hay là nó tới chùa nhờ thầy đọc một thời kinh? Thầy lo  đọc, nó lo nhớ tới cái đầu gối hơi đau vì quì lâu! Hay nó dọn một cái bàn thờ trong nhà, chưng cái hình mình lên. Có ai đó hỏi con nó trưng hình của ai vậy thì thằng cháu nội nhìn hình và nói "I don't know" !

Chỉ còn cách hỏi nó.

Cô đó hiền không? Dạ hiền. Cô đó giỏi không? Dạ giỏi. Cô đó thích săn sóc con cái, nhà cửa không? Dạ thích. Cô đó thương con không? Dạ thương. Vậy thì Yes, con ơi, Yes. Mẹ chỉ cần thấy con được hạnh phúc, an vui. Mẹ tin vào sự khôn ngoan và lựa chọn của con. (Cho con học bao lâu chắc con không ngu đâu, phải không?).
Vợ chồng con thương yêu nhau và tử tế với Mẹ khi Mẹ còn sống là con đã "thờ phượng" Mẹ rồi. Trong con đã có dòng máu của Mẹ. Con làm một người chồng tốt, một người cha tốt, một con người tốt là con thờ phượng Mẹ đó, phải không? Bạn ơi, bạn có thấy tôi quá "văn minh" không?   Quá... quá... tiếng gì hả mà người Mỹ thường hay chỉ mấy ông nghị viên trong đảng dân chủ đó? À à, quá "liberal" không?


Vậy là tôi có hai thằng con theo đạo Chúa của vợ và năm đứa cháu nội biết Phật là Budha chớ chẳng biết Nam Mô. Quên cho bạn hay là tôi đã không rửa tội hoặc bắt các con theo đạo nào hết. Tôi để cho chúng tự do chọn lựa khi chúng đến tuổi trưởng thành (hoặc "được" vợ dẫn dắt). Tuy nhiên tôi cũng thường đem các con đi chùa khi chúng còn nhỏ và mỗi khi tết tôi đều dạy chúng lạy bàn thờ Phật và bàn thờ tổ tiên. Cho đến bây giờ vẫn vậy. Phải lạy bàn thờ.  Đó là điều kiện duy nhứt tôi đòi hỏi gia đình các xuôi gia trong ngày cưới, dù họ là đạo nào. Tôi kính trọng tất cả các đấng dẫn dắt linh hồn.

Mỗi khi gia đình tụ họp tại nhà thằng con cả, nhằm ngày ăn chay, tôi luôn có ít nhứt một món chay rất ngon do con dâu Công giáo nấu. Tôi biết ơn chúa Jesus quá đỗi vì con dân của Ngài quả là một người đầu bếp giỏi và là một đứa con dâu rất  hiếu thảo.

Thế là tôi trở thành minority, có nghĩa  là thiểu số trong gia đình tôi. Ông xã, hai thằng con, hai cô dâu, năm đứa cháu nội, tất cả là mười người con Chúa. Một đứa con gái và chồng cùng ba đứa con tin tưởng cả Phật lẫn Chúa. Ngày lễ Giáng Sinh và cuối tuần thằng cháu ngoại mười hai tuổi đi đờn violin trong nhà thờ.  Khi về nhà ngoại thì vô lạy Phật và... ngồi thiền!



Thằng con út thì , bạn có thể gọi nó là người vô tôn giáo, khuyên các cháu của nó không nên mỗi chút mỗi đổ thừa cho Chúa và khi xưng tội thì phải nhớ chừa cái tội đó đừng lập lại và nhận xét rằng thuyết nhân quả của nhà Phật rất hay nhưng đôi khi Phật tử lạm dụng thuyết nhân quả để chê đè người khác và vì thế làm cho người ta đau khổ. Bạn thấy nó đúng không? Nó mới hai mươi bảy tuổi và đôi khi nó nói chuyện đạo Phật làm tôi cũng ngẩn ngơ. Nó nghiên cứu đạo Phật bằng tiếng Mỹ. Tôi học Phật bằng tiếng Việt. Không biết có khác  nhau nhiều không?

Nói cho bạn mừng dùm là dù thiểu số nhưng đạo Phật trong nhà tôi vẫn thịnh vượng. Tôi chưng bày tượng Phật tùm lum, trong vườn hoa đằng trước, trong sân đằng trước, trong vườn hoa đằng sau, trong sân đằng sau, ngay giữa vườn, trong luống hoa, giữa bụi lan... Bàn thờ Phật ở phòng  khách, bàn thờ Phật trong phòng thờ, tượng Phật trên đàn dương cầm, tượng Phật trên đầu ti vi. Đây cũng là một tội ăn hiếp người (chồng) quá đáng, chắc kiếp sau lại phải trả thôi.

Rồi cách đây hai tháng, khi anh và tôi cùng ở tuổi bẩy mươi, phải bạn ơi cái tuổi 'thất thập cổ lai hi' đó, thì có một người quen từ Việt Nam qua chơi. Người nầy đã đi tu Chúa khi còn con gái mười bẩy tuổi và hiện nay năm mươi bẩy tuổi và đã được lên chức Mẹ Bề Trên. Trong khi trò chuyện, Sơ (xin tạm gọi như thế cho gọn) khám phá ra là chồng thì đạo Chúa chánh gốc (quên nói cho bạn biết là bố chồng mình gốc gác người Ý), đã được rửa tội, đã hưởng hết các phép ban ơn v.v.. mà lại đi cưới một người vợ ngoại đạo, lại còn không bắt vợ theo đạo của mình. Thế thì khi chết sẽ không được vào nước Thiên Đàng, sẽ không được Chúa tha thứ, sẽ xuống địa ngục v.v.. Và Sơ chỉ cho tôi nên đi kiếm Cha để xin Cha làm phép, xin Chúa tha tội cho ông xã để ông xã được trở về với Chúa.



Tôi hoảng hồn nghĩ mình thật là tội lỗi, bấy lâu nay chỉ lo cho linh hồn của mình, còn người bạn đời thì mình lại thờ ơ, may mà có Sơ nhắc nhở. Tôi bèn dịch lại những lời Sơ nói. Ông xã vẫn làm thinh  (lại cho bạn biết anh là người ít nói nhất thế gian, bạn có biết tại sao không? Vì chị vợ đã nói hết thời gian rồi, anh chồng làm gì còn chỗ và thời gian để nói nữa, đã cưới nhau bốn mươi năm rồi, phải quen tánh quen nết chớ, phải không bạn?). À hình như anh có lầm thầm cái gì là anh chưa từng bao giờ bỏ Chúa thì tại sao phải trở lại? Tôi thì sợ hãi nên thúc giục anh mau đến tìm Cha.

Bạn có thấu hiểu được nỗi đau lòng của tôi không? Chắc là không. Vì để hiểu được bạn phải ở trong hoàn cảnh nầy và tôi thì không muốn cho bất cứ ai vướng vào cái vòng tục lụy nầy hết. Giống như cái ông gì đó (trí óc tôi lúc nầy chậm chạp quá, đã quên béng tên ổng) đang làm quan lớn với đầy đủ vợ đẹp, con khôn, quyền cao, chức trọng thì bỗng giựt mình tỉnh giấc Nam kha thấy mình vẫn đang ngồi dưới đất, vợ con không, lầu đài không, tiền bạc không, quan chức không.

Giống như bạn, tôi đã "cho anh cả cuộc đời", những tưởng mình đã cùng ai chung chịu nhục nhằn, hạnh phúc, đã cùng ai nở nụ cười, lau nước mắt, đã cùng ai ngẩng mặt, cúi đầu... Ngờ đâu bừng con mắt dậy thấy mình tay không! Mình đã đẩy người ta xuống địa ngục, mình là nguyên nhân để người ta xuống địa ngục. Bạn khuyên tôi phải làm sao? Người ta xuống địa ngục chưa thì tôi không biết, mà tôi thì đã ở trong đó rồi. Lòng tôi tan nát, bạn ơi. Tôi phải đọc tụng kinh gì hả bạn? Lương Hoàng Sám? Thủy Sám? Mà tụng thì ăn thua gì! Nếu tụng mà hết được tội đẩy người xuống địa ngục thì tôi nguyện đọc mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút , từ đây cho đến hết cuộc đời.

Ngày hôm sau khi ngồi ăn cơm, dưới cái diã, tôi thấy một cái bao thơ, giống như cái card chúc tết hay chúc sinh nhật vậy. Tôi ngạc nhiên vì không phải tết, cũng chẳng là sinh nhật. Anh chẳng nói gì. Tôi mở card ra đọc những dòng chữ có thể dịch ra Việt ngữ như sau:

"Nếu phải xuống địa ngục và vĩnh viễn bị cấm cửa thiên đàng thì anh sẵn sàng và hạnh phúc chấp nhận. Ngày em nhận lời làm vợ anh là ngày Chúa đã ban ơn phước cho anh và chấp nhận anh vào cõi Thiên Đàng và anh đã ở Thiên Đàng từ dạo đó, nay sao lại còn phải xin xỏ để trở vào? Anh không ăn năn. Anh không ân hận. Anh không van xin. Anh chắc rằng Sơ đã không nhìn thấy những giọt nước mắt của em đã đổ ra cho anh, vì anh, vì hạnh phúc của anh, vì tội lỗi của anh. Nếu thấy thì anh lại tin chắc rằng Sơ sẽ bảo anh:

“ Con hãy cám ơn Chúa đã cho con gặp người vợ ngoại đạo nầy'. Em hãy yên lòng, đừng thúc giục anh tìm Cha.  Chúa rất nhân từ và thông cảm. Anh đang ở Thiên Đàng."


Đọc xong, tôi ngẩng lên nhìn anh. Tôi lại để cho nước mắt chảy ra thấm ướt tờ thư. Đã lâu rồi tôi không khóc. Lần nầy tôi không cố ngăn lại. Khóc được cứ khóc bạn ơi. Chỉ sợ rằng mình không khóc được và không được khóc!

Bạn có thấy dị không khi một bà già bẩy mươi tuổi còn khóc được vì một lá thư.. (có thể gọi là thư tình không bạn?). Không, đây không phải là thư Tình!  Đây là thư Nghĩa! Tình yêu sôi nổi với dục vọng, với ghen tương, với giận hờn đã qua lâu rồi. Đây là sự thương yêu, nâng đỡ, dắt dìu nhau của hai con người đang đi vào đoạn cuối của cuộc đời mà không lãng quên những hứa hẹn ở buổi ban đầu. Đây là Nghĩa Vợ Chồng. Dù cho bạn có thành hôn với người Việt Nam, người Mỹ, người Trung Quốc, người Đại Hàn, người Pháp, người da đen, da trắng, da màu... thì nó vẫn tồn tại và rực rỡ trong tâm bạn.

Tôi hy vọng mãnh liệt rằng Chúa sẽ không bắt tội anh vì tôi tin rằng anh đã sống giống như  ý Chúa: Thương Yêu, Trung Thành và Nhân Ái.

Đây là một phần câu chuyện đời lộn xộn của tôi và tôi xin chia xẻ cùng bạn với tất cả trái tim tôi.  Có tội hay không có tội?  Anh đã đi trật đường của Chúa dạy? Anh đang từ bỏ Thiên Đàng và trên đường xuống địa ngục? Anh thật không biết. Tôi là tên ác quỷ đang đẩy người vào chốn tối tăm? Tôi thật không biết.  Chúng tôi chỉ biết cầu xin Chúa và Phật cho chúng tôi được có mặt bên nhau những khi hoạn nạn, được giúp đở nhau những lúc vấp ngã,  được nấu cho nhau chén cháo trong lúc ốm đau, được nắm tay nhau mỉm cười khi mở cửa nhà đón đàn con cháu.

Bạn ơi, tôi không cần phải có bàn thờ và anh thì không cần phải kiếm Cha để rửa tội. Tôi vẫn là một Phật tử thuần thành và anh vẫn làm dấu thánh giá. Chúng tôi không quá "liberal" phải không bạn ? Thiên Đàng và Niết Bàn của chúng tôi có nghĩa là " in the here, in the now" như Sư Ông Nhất Hạnh vẫn nói. Không biết chúng tôi có hiểu đúng ý của Sư Ông không?

Hai chúng tôi Tội Lỗi và Hạnh Phúc ngang nhau. Cả Phật, cả Chúa đều rất Bác Ái và Công Bằng, Bạn đồng ý không?


Le Hoa Wilson



thanks.gif

Back to top
« Last Edit: 10. Apr 2012 , 15:32 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Ông Giáo sư dạy Sử
Reply #142 - 25. Apr 2012 , 17:14
 


Ông Giáo sư dạy Sử



Vương Mộng Long
- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A SocialSciences and Communication.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
___________________________


Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).

So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”.
Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.

Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.

Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.

Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.

Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân... chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh ...nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,

“Book said!”

Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.

Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.

Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.

Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!

Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn. Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng. Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,

- Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

Thầy Dan niềm nở,
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.

Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng,
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.

Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.

Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng-Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những gì liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.

Chính tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Genève năm 1954 và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.

Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.

Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.

Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,

- Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời :

- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi :

“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”

Tôi cứ tình thực trả lời,
Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Buthanks.gifrang vào những năm 1972-1973.

Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù. Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.

Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng :

“Trời ơi!”

Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi chuyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.

Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt-Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.

Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam-Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại. Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,

- Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.

Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,

“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”

Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,

-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?

- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!

- Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những điều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,

- Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,

“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”

Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.

Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).

Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm :

“Long! I’m proud of you!”

Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu,
“My soldier! I’m loving you!”

Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.

Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.

Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,

“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”

Seattle tháng 7 năm 2011
Vương Mộng Long-K20


thanks.gif
Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3612
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #143 - 26. Aug 2013 , 18:21
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU  

CHƯƠNG I

Trời tối đen , xòe bàn tay ra trước mặt nhìn không thấy , thế mà Ba Chạy đi trên đường thảnh thơi như thể con đường này ông ta đã đi rất quen . Không ông ta chỉ đi quen trong bóng tối , chứ con đường này ông ta chỉ mới đi trở lại nó sau nhiều năm xa cách chừng vài ba lần ...
Ba Chạy dẫn theo bốn người và đi thẳng đến nhà anh Tư Nguyễn Trung Cang ...Anh Cang mới từ tỉnh về chơi chiều hôm , chắc là sau những ngày nghỉ cuối tuần Cang lại trở ra tỉnh để tiếp tục học ...Nghe tiếng gõ cửa Bà Bảy mẹ của Cang ra vừa vặn cây đèn dầu cho sáng thêm vừa hỏi vọng ra
- Ai đó  ?
- Chào Thím Bảy , thím bảy mở cửa cho tôi nói chuyện với Cang chút ...
Nghe giọng nói lạ bà Bảy bắt đầu sợ nhưng vẫn cầm đèn ra mở cửa
Cửa vừa hé Ba Chạy lách vào một cách gọn gàng mau lẹ bà Bảy không kịp nhận được mặt người khách ...Lúc này Cang cũng đã thức vừa bước ra khỏi phòng mắt vẫn còn cay cất tiếng hỏi vọng ra
- Ai dzậy má ? giờ này khuya lắc khuya lơ mà còn đến làm phiền , thiệt tình hết chỗ nói
Nghe Cang cằn nhằn , Ba Chạy lên tiếng trả lời thế cho bà Bảy
- Tui đây cậu Cang , Cậu còn nguyên cả ngày mai để ngủ lo gì , tui muốn nói chuyện với cậu chút xíu mà
Ba Chạy đã giành được cây đèn dầu trên tay bà Bảy bước vào trong nhà đưa ánh đèn soi sáng khuôn mặt ngái ngủ của Cang ...Rồi như ra lệnh
- Cậu ngồi xuống đây , tui nói dăm ba câu chuyện rồi đi ngay ...Tui gấp lắm , anh em còn chờ tui ở ngoài , nói câu này ý Ba Chạy muốn cảnh cáo Cang tốt nhất là ngồi xuống nói chuyện , đừng có ý định phản kháng hay bỏ chạy vì ở ngoài còn có những anh em canh cửa ...
Cang cũng biết điều đó nên riu ríu ngồi xuống chiếc ghế quen thuộc trong nhà mình mà Ba Chạy đã chỉ
Ba Chạy đưa mắt nhìn quanh căn phòng khá rộng , nhận thức thật nhanh chỗ cửa sau rồi đặt cây đèn dầu xuống bàn , phía gần tay hắn hơn là Cang , với kinh nghiệm nếu có điều gì bất lợi , nghe tiếng đàn em hút gió bên ngoài , thì Ba Chạy sẽ đưa tay ra gạt cây đèn dầu cho ngã xuống sàn nhà , bóng tối ập vào và hắn sẽ phóng tới cánh cửa phía sau mà ra ngoài ...Cây đèn cũng đặt xa tầm tay của Cang tránh Cang có thể hiểu được mà làm liều
Hai người đã ngồi xuống Ba chạy quay qua nhắc bà Bảy
- Thím Bảy đi ngủ lại đi tụi tui nói chuyện chút xiu là đi liền , thức chi cho mệt
Rồi quay sang Cang Hắn hỏi ?
- Cậu mới dzìa chiều qua hả  ?
Cang  gật đầu xác nhận , lòng hoang mang không biết ba Chạy muốn gì mà đầy bí hiểm ...Ba Chạy hỏi tiếp
- Chừng nào cậu thi lấy bằng thành chung ( Trung học )
- Da cuối năm nay !
- Như dzậy còn mấy tháng nữa ?
Cang bấm đốt ngón tay xong mới trả lời
- Da còn bảy tháng nữa ?
- Như dzậy có kịp không ?
Cang không hiểu câu hỏi của Ba Chạy nên hỏi lại
- Ông nói không kịp là sao , không kịp điều gì !
- Trời cậu còn muốn tui nói trắng ra nữa sao , tui muốn nói đến cái bầu của cô Út Lành con ông Hội Đồng Sang đó ...Có kịp để cậu thi xong lấy cái bằng thành chung hay là ổng ra tỉnh còng cổ cậu bỏ cậu ngồi tù ...Thứ nữa chúng tui cũng muốn cậu có bằng thành chung mang theo mình thì anh em sẽ trọng vọng cậu hơn , nhưng kiểu này thì không kịp nữa rồi
Khi Ba Chạy nói , sắc mặt của Cang biển đổi nhăn nhó thật khó coi , ba Chạy quan sát thấy hết nhưng cứ làm như không quan tâm tới điều đó ...Ba Chạy hỏi tiếp
- Dzậy cậu tính sao ?
Cang nhỏ nhẹ như mắc cỡ
- Tui cũng đang rối trí cái vụ này , Tui định thưa chuyện cùng má tui ngày mai sau đó kiếm bà mai sang nhà ông Hội Đồng hỏi xin cưới đàng hoàng trước khi  chuyện cô Út lành có bầu với tôi loan ra ngoài ...
- Cậu tính gọn hén ! nhắm ông Hội Đồng có chịu gả không ? cậu chưa có công danh sự nghiệp gì ?
- Dạ tui cũng ngại nhưng tui và Lành yêu nhau thiệt sự
Ba Chạy cất tiếng cười khan
- yêu nhau đâu có cơm no , đâu có áo mặc ...Hơn nữa ba thằng tư bản cường hào như lão Hội Đồng Sang đâu dễ gì để cho con gái út cưng của hắn sống đời sống nghèo khổ với cậu , thời buổi này ai tin được một mái nhà tranh hai trái tim vàng ...
Cang nghe bàn càng thêm lo ngại nên liều hỏi :
- Dzậy ông có cách gì khác không ?
Ba Chạy đưa tay che miệng giả bộ ngáp ngủ
- có thì có nhiều cách , nếu không có thì hôm nay tụi tui đâu tìm gặp cậu ...
Để cho Cang nóng ruột chờ đợi Ba Chạy ngồi ung dung vấn một điếu thuốc Rê nhả khói đầy phòng rồi mới tiếp
- Cậu nghe kỹ nhé rồi cho tui biết cậu chọn cách nào từ đó tui sẽ liệu cho cậu

1/ Cậu lên tỉnh làm quen  bạn lính ở tỉnh xong lấy tin tức như ngày giờ chúng đi hành quân , ...Cung cấp tên tuổi những thằng chỉ huy từ cấp trung đội trưởng trở lên , đến thằng tỉnh trưởng ...Móc nối thêm gài người vào tiểu khu để tin tức được đảm bảo , về mặt dân sự cậu có thể móc nối với các thày , cô , nhất là ông hiệu trưởng , được những người này làm hậu thuẫn thì chắc ăn ...Tuy nhiên công việc đó cũng cần có khả năng ngoại giao và nhận xét sắc bén nếu không ...dễ dàng bị lộ khi bị lộ thì cậu đi tù , chắc là không cần tới ông Hội Đồng Sang đưa cậu vào khám

2/Cậu  trốn vô bưng  , vô trỏng thì đảm bảo anh em sẽ đùm bọc nhau , thằng cha Hội Đồng  Sang có ba đầu sáu tay cũng không sao còng cổ cậu được nữa ...Đừng lo chúng tôi sẽ sắp xếp cho cậu hoạt động tại làng xã này để cậu có thể dễ dàng liên hệ với Út Lành , như tôi về đây đêm nay đương nói chuyện với cậu đây ...
Nghe thấy lời đề nghị thứ hai của Ba Chạy , Cang mơ màng đến lý tưởng vào bưng  , dâng hiến đời trai để đánh Mỹ dẹp Ngụy , lật đổ chế độ độc tài của Diệm đem ấm no hạnh phúc lại cho người dân .... Đang từ một kẻ phải chạy trốn sợ bố của bạn gái phát giác vì mình đã hủ hoá làm cho người yêu chưa cưới hỏi đã mang bầu , giờ đây sửa lại thành lý tưởng cao cả , Cang thấy sung sướng quá , như người chết đuối gặp được phao
Cang hỏi thêm
- Nếu vào bưng chừng nào đi
- Tui cho cậu ba ngày để thu xếp công chuyện nhà ...Ra tỉnh thu dọn quần áo , về đây từ giã với Út lành rồi tui sẽ trở lại đón
Cang bồn chồn
- sao gấp vậy ,cho tui một tháng được không ?
- Không , thời gian này là thời gian nguy hiểm nhất , trước kia thì không sao , nhưng bây giờ thì vì cậu còn nhiều lưu luyến muốn giã từ nên dễ dàng để lộ , cậu cứ đi đi còn những gì khúc mắc chưa lo xong , lần sau theo tui, tui sẽ đưa cậu về
Thôi chào cậu tui còn phải sang gặp cậu năm Tài , cậu biết chuyện của Tài chưa , tui chắc chắn kỳ này hắn cùng đi với chúng ta , vì tuần rồi hắn đi thu tiền thuế điền trạch  cho Hội Đồng Sang , thay vì đem tiền về nộp cho chủ nó đã đi nhậu xong bị chúng gài ngồi binh xập xám thua hết tiền rồi , kỳ này không kịp chạy thì Hôi Đồng Sang sẽ còng đầu nó trước cậu nữa không chừng ..
Nghe thế Cang thêm yên lòng chắc sẽ có thêm bạn cùng vào bưng chuyến này ...
Trước khi chia tay với Cang , Ba Chạy đưa tay ra cho Cang bắt lúc đó mới tự giới thiệu
- tui là Trần Bá Chiểu , tự Ba Chạy vậy từ nay cậu cứ gọi tui là anh Ba được rồi , thôi chào cậu , hẹn gặp cậu đêm thứ tư cũng khoảng giờ này, nhớ không được tiết lộ cho bất kỳ ai biết đó nghe chưa !
- Dạ chào anh Ba !
Ba Chạy đi rồi Cang lại đóng cửa cài thêm then còn lấy chiếc ghế đẩu chống cửa thêm cho chắc đúng là "mất trâu mới rào chuồng"
Cang tắt đèn vào giường , nhưng từ đó đến sáng trắng Cang không thể ngủ lại được , việc đầu tiên cái tên Trần Bá Chiểu làm Cang nhớ tới nhân vật cách đây khoảng  năm năm
Chiểu là chân đá banh khá nổi tiếng cho đội bóng đá làng bên , hồi đó hầu như mỗi làng đều có một đội bóng đá , sân đá banh thường là ruộng lúa sau mùa gặt Có một vài làng thì lấy riêng ra một vài công đất làm sân đá banh hay gọi là sân vận động ...Mỗi đội banh có một ông bầu , nhiệm vụ của ông bầu không phải để huấn luyện các đội viên mà chỉ để liên lạc với các làng lân cận hoặc mời họ hoặc giả được họ mời rồi thông báo ngày giờ cho cả các hội viên cũng như cả làng biết để đi coi ủng hộ , cổ võ tinh thần ...
Hôm đó có trận đấu ở làng bên , đội banh của Trần Bá Chiểu đã bị đối phương cho lọt lưới hai trái mà chưa gỡ được trái nào , Chiểu còn bị đối phương kềm sát nút không phát huy được khả năng dẫn banh như các trận đấu trước ...Chiểu đâm quạo ..nhè ống quyển đối phương để đá , thế là gây ra xích mích , Chiểu lăn xả vào đấm đá tứ tung , vô tình Chiểu đá trúng hạ bộ của tay tiền đạo phía đối phương , làm địch thủ lăn ra sân cỏ lăn lộn vì đau rồi ngất đi , khi mang được vào đến nhà thương thì đã tắt thở ...Biết tin ấy Chiểu kinh hoàng sợ hãi nhờ có người anh họ đi tập kết lâu rồi nên Chiểu vào Bưng theo hắn để tránh phải vác chiếu đi hầu toà ...Bí danh Ba Chạy có từ đó
Nghĩ đến việc ba ngày nữa Cang cũng vào bưng tập kết ...Để dâng hiến đời trai cho non sông, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của nhà độc tài Ngô Đình Diệm và nhất là đuổi Mỹ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam ....
Mới nghĩ thì thấy lý tưởng cao cả tốt đẹp quá nhưng nghĩ lại thì ...Giải Phóng dân tộc , những người dân đang sống an bình vui vẻ tại sao phải giải phóng cho họ mà sau khi giải phóng chưa thấy hình ảnh gì tốt đẹp hơn ...Nói chế độ họ Ngô là độc tài , là gia đình trị , cũng có mặt nào đúng nhưng nhìn kỹ thì thấy Tổng Thống Diệm là người yêu nước yêu dân tộc Việt Nam , sau khi lật đổ Diệm chắc gì đã tìm được người lãnh đạo đất nước có lòng hy sinh như Ngô Đình Diệm ... Đánh Mỹ ư , lúc này trên toàn lãnh thổ miền nam chỉ mới có khoảng hơn một ngàn cố vấn đa số là những cố vấn cầu cống đường xá , nói chung là họ cố vấn cho miền nam kiến thiết Chứ không có cố vấn quân sự chỉ đạo cho chiến tranh , như vậy đánh đuổi họ làm gì ...
Nếu đầu quân làm anh lích VNCH cũng có lý tưởng là gìn giữ quê hương chống lại bọn Cộng sản bắc Việt xâm chiếm làm trái với hiệp định Genève...
Nhưng nghĩ tới gương mặt ông Hội Đồng  Sang ,sau khi ổng biết chuyện cô Út Lành có bầu thì mọi suy nghĩ đều chấm dứt, chỉ còn lối trốn vào bưng là an toàn nhất
Rồi lan man lại tưởng tưởng , sau khi mình đi rồi Mẹ sẽ sống ra sao , ai giúp đỡ tuổi già khi bệnh tật , thây kệ nếu mình đi làm lính VNCH thì cũng thế đâu phải muốn về lúc nào là về ...Lại nghĩ tới Lành với những lời thề sống chết có nhau khi nàng trao thân cho chàng vào đêm chàng từ giãi lên tỉnh học đầu niên khóa vừa rồi ...Không biết phải nói sao với nàng ...Nhưng tưởng tượng ra gượng mặt giận của ông Hội Đồng Sang khi biết con gái cưng có bầu , chắc là hung dữ lắm làm cho Cang càng sợ hãi và quyết định vào bưng ...
Chàng chạy ra cầu ao vục nước đìa lên rửa mặt cho tỉnh sau đó vào nhà gom ba cái  quần áo nhét trở lại tuí xách rồi ra chào mẹ lên tỉnh
Bà Bảy ngạc nhiên hỏi
- Sao bay đi sớm quá dzậy , hôm qua ai đến nói chuyện,nói chuyện gì mà tới khuya dzây con ?
Cang quay đi che dấu nói vội
- da người quen không có chi đâu má
- Còn chuyện con lành bay tính sao có nhờ người qua nói chuyện với ông Hội Đồng không , chừng nào đây , không chờ lâu được đó nha
Thì ra bà Bảy cũng đã lén ngghe cuộc nói chuyện giựa Cang và Ba Chạy , bởi thế mới biết chuyện Út Lành có bầu
- dạ má để con lo chiều mai co dzìa rồi tính
Thế là Cang quảy tuí ra đi ...
Nhìn theo sau lưng của Cang vội vã ra đi , bà Bảy thấy hình ảnh của chồng ...Và rồi bà thêm lo sợ hoạt cảnh đêm qua khi Ba Chạy gõ cửa khuya vào nhà làm bà liên tưởng nhớ đến tám năm trước
Cũng một đêm không trăng trời tối đen như mực đang khuya có tiếng gõ cửa bà Bảy ra mở cửa thì có ba người cùng phóng vào nhà , rồi xông thẳng vào đè ông Bảy xuống trói tay ông dẫn đi ...
Sáng hôm sau ở cuối kênh Tám Ngàn người ta cho hay có một xác chết , hay tin bà Bảy chạy đi tìm thì thấy ông Bảy tay vẫn còn bị trói một vết dao đâm xuyên vào lồng ngực trái ...Và nơi đấy được gắn lên một mảnh giấy với hàng chữ :
" Đứa Phản Động "
Bà Bảy nhào xuống ôm xác chồng gào thét , một lúc sau , thấy bà vật vã khổ sở sợ bà kiệt sức những người tò mò đi xem , đứng chung quanh đấy mới can ngăn kéo bà ra , bà Bảy nhờ mấy anh thanh niên khiêng xác ông Bảy về nhà, chiều hôm ấy nhờ người ra tỉnh mua dùm cỗ áo quan loại thường thôi miễn sao có đủ bộ để tẩm niệm cho ông Bảy, chỉ cốt cho có , vì Bà Bảy một mình nuôi con đã mười mấy năm nay , nói thật ra chỉ đủ ăn đủ mặc cho con thì đã gọi là giỏi lắm rồi ...Rồi mai  đây Cang còn phải ra tỉnh theo học bà tuy chả biết bằng cấp là gì nhưng nghe người ta nói ...Bà cũng cố cho Cang học để thi lấy cái bằng Thành Chung
Lính trên bót hay tin nhưng họ cũng không làm khó,trái lại còn cho người xuống lo phụ giúp nếu cần như đào huyệt khiêng hòm ...Bà Bảy chỉ phải ra Hội Đồng Xã lo cái giấy khai tử cho ông Bảy thế là mang chôn , nhiều lời đồn ra tiếng vào , kẻ chê người khen ...Nhưng đại đa số khen trường hợp của ông Bảy là may , thiệt tình đã chết rồi còn gọi là may không biết may ở chỗ nào ! , theo họ giải thích ông bảy còn có xác để bà Bảy lo an táng , chứ nhiều người bị bắt đi là biệt tích không có ngày về , chả biết sống chết ra sao ... Có những người thì bị cho vào bao bố rồi kèm theo mấy cục đá , liệng đại xuống sông mà trong dân gian thời đó gọi là " cho đi Mò Tôm " ...Sau đó ít tháng ít năm những người chài lưới ở ven sông vô tình vớt lên được chỉ còn là cái bộ xương ...Đại đa số không nhận ra được là ai , một vài trường hợp hi hữu còn có những kỷ vật đặc biệt bên mình thì mới nhận ra được ...Trong ba ngày đó bà bảy khóc hết nước mắt , tính bà vốn ít nói , sau ngày chồng bị giết bà càng ít nói hơn ...Cái bản án treo ở ngực ông Bảy bà Bảy cất rất kỹ , định khi nào Cang lớn bà sẽ đưa cho Cang và kể lại chuyện ông Bảy bị giết như thế nào tận tường cho Cang nghe , rồi tùy ở nó muốn trả thù ra sao cũng được ...Ý định ban đầu là thế , nhưng cách đây hơn ba năm bả Bảy đã âm thầm lấy bản án đó mang ra trước hương án của chồng và đốt đi ..Bà nghĩ bậy giờ biết ai mà trả thù , giết thêm một người thì thêm một gia đình tan nát , mẹ mất con , vợ mất chồng , hay con mất cha ...Vì thế bà muốn mối thù kia chấm dứt nơi này , đêm đó khi đốt bản án của chồng bà đã khấn vái cùng vong linh ông Bảy những ý nghĩ thầm kín ấy ...
Đêm qua có người gõ cửa đến nhà vào đêm khuya , tuy Cang nói không có gì nhưng bà Bảy lo lắng lắm " cây mưốn lặng , gió chẳng ngừng " , người ta đã giết chồng bà chả lẽ bây giờ còn muốn giết luôn cả con bà nữa sao ...Câu nói " diệt cỏ phải diệt tận gốc " làm bà Bảy càng thêm lo sợ , nhưng không dám tâm sự cùng ai
Chẳng qua trước đó ông Bảy có gia nhập kháng chiến đi chống Pháp nhưng sau khi Pháp đã đầu hàng rút khỏi Việt Nam và Đông Dương , thì ông Bảy nghĩ trở về với vợ với con lo tay cày tay cuốc phụ vợ lo canh tác nuôi con , tuy Nguyễn Trung Cang là thứ tư nhưng hai chị gái của nó đều chết lúc chưa đầy tháng , nên hai người dồn hết tình thương cho Cang
Năm ông Bảy bị giết Cang còn nhỏ , không biết Cang còn nhớ không mà Bà bảy chả thấy Cang nhắc lại bao giờ , hay là Cang cho rằng những người giết ba mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam , còn bây giờ vào bưng là theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mới được thành lập ,do một nhóm trí thức Miền Nam bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm , bởi vậy Mặt Trận và Đảng Cộng Sản Việt Nam là hai không có liên quan ...Tư Cang lầm cũng như rất nhiều thanh niên trong thời đó đã lầm chạy theo Mặt Trận để thực thi lý tưởng chứ không muốn phục vụ cho Đảng Cộng Sản VN , họ có biết đâu Mặt Trận chỉ là con đẻ của Đảng do Đảng dựng lên và điều hành còn nhóm trí thức Miền Nam chỉ là cái danh mà không có thực quyền , cái danh đó để lòe Thanh Niên , dụ dỗ họ gia nhập mang đời trai cống hiến cho non sông tổ quốc .
Lại nói về cô Út Lành ...Chiều trước cô đã hay tin Cang về thăm mẹ , trong lòng cô mừng thầm thế nào thì chiều nay Cang cũng hẹn với mình , thế nhưng đợi tới trời đã nhá nhem tối mà không thấy đứa nào đưa tin nhắn gửi gì cả ..Cô nóng ruột làm liều đi ngang nhà Cang , cũng may thấy bà Bảy đang lôi cất mớ quần áo giặt phơi trên giây ở trước sân , cô Út đánh liều lên tiếng chào
- Dạ bác Bảy , bác bảy khỏe hôn  ?
- Dạ chào cô Út , tui khỏe , cô Út vào nhà chơi
- Dạ thui tối rồi , bác bảy cho hỏi anh Cang lâu rồi có về thăm bác Bảy không  ?
- Có đó cô chiều qua nó dzìa nhưng sáng này nó đi ra tỉnh trở lại rồi ,nói là có chuyện chi gấp lắm
Nghe Bà Bảy nói, cô Út rất buồn , như vậy tin tức của cô không sai nhưng vì Cang không yêu thương cô nên đã không ghé qua thăm cô cho dù chỉ để cô được nhìn thấy mặt cho đỡ nhớ thương ...
Cô Út Lành chào bác Bảy từ giã ra về ... Cô út là con của ông Hội Đồng Sang , cô học chung một lớp với Cang nhưng vì là con gái , hơn nữa hai anh trai của cô cũng đã đi xa để tiếp tục việc học nên cô đành phải bỏ học ở nhà , tiếng là phụng dưỡng cha mẹ , chứ thực ra cả đời cô chưa đụng đến móng tay , tất cả việc vườn tược ruộng nương bếp núc đều có kẻ ăn người ở lo ...Ông Hội Đồng rất giầu , nhà cao bảy gian mái ngói to nhất làng , còn nói về ruộng của ông thì thật đúng với câu : " cò bay thẳng cánh , chó chạy cong đuôi ", nhưng ông đã chia ra và cho tá điền mướn lại bây giờ ông không phải làm gì nữa , tá điền mướn , người nào khá giả chút thì trả bằng tiền mặt trước vụ gặt , còn những ai khó khăn thì đợi tới mùa khi vừa thu hoạch xong ông cho người mang ghe bầu tới nơi mua , gọi là thu mua lúa non ,để gật nợ ...Nhưng ông cũng có lòng nhân đạo và thương những tá điền của ông , khi nào họ lâm nạn như vợ đau con bệnh không có tiền chạy thuốc thang ..Hay tin ông đều đến thăm và móc tiền giúp , hoặc giả năm đó vì thiếu nợ tiền thuốc quá nhiều cần tiền trả những nơi đó trước ông đều đồng ý cho hoãn lại đến năm sau mới thanh toán ...Bởi thế ông rất được lòng kẻ ăn người ở
Cô Út sau khi đã được nghe tận tai , Bà Bảy xác nhận Cang có về nhưng cũng đã vội vả ra đi sáng hôm rồi , cô buồn lắm cả chiều hôm tối hôm đó trốn miết trong phòng bỏ cả cơm tối , cô lo sợ cái bụng mỗi ngày mỗi lớn của cô , không biết cách nào để giấu , cô lo sợ Cang thay lòng đổi dạ , không chừng đã có ai đó khác , ở ngoài tỉnh ...Ôi thì cả trăm mối lo toan , sao người ta bảo yêu nhau là hạnh phúc , mà mối tình của cô với Cang toàn gặp những khổ đau ...Cô nằm ân hận cái đêm hôm đó ở ngoài chân đụn rơm,khi hai người hẹn hò từ giã để Cang lên tỉnh học khoá cuối thi lấy bằng Thành Chung , cô đã nhẹ dạ dâng hiến cả đời con gái cho Cang ...Cái đau khổ và éo le thay , sau đó hai tháng thì cô phát hiện những triệu chứng của người đàn bà mang thai ...Cô đã viết thư này gởi ra cho Cang hay , và cũng chính vì vậy mà Cang về chơi những ngày cuối tuần này ...Ý của Cang cho cô hay là sẽ lo cưới hỏi đầy đủ trước mùa thi ... Thời này các học sinh có vợ có con vẫn cắp sách đến trường là chuyện thường , đọc thơ Cang viết cô cũng an tâm nhưng bây giờ thì lại hoàn toàn đổi khác không biết Cang đang nghĩ và làm gì ...Sao lại ra đi vội vã như thế mà hỏi thẳng bác Bảy chắc là Cô Út mắc cỡ không dám ...Bởi thế cô Út cứ nằm lỳ trong phòng mà giọt ngắn giọt dài
Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 10:48 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3612
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #144 - 26. Aug 2013 , 18:32
 
TA GIÀI PHÓNG NHAU 

CHƯƠNG II

Sáng hôm đó Cang đón ghe máy ra tỉnh , trên đường đi Cang đã đủ thì giờ để tính toán những việc cần làm phải làm , và việc gì làm trước làm sau nhất là cái lý do mà Cang sẽ tạo ra để nói cho xuôi khi thi hành những công việc đó , nói là vậy chứ khi ra tới nhà trọ , sau khi chào hỏi Cang quá mệt mỏi lao đầu vào phòng nằm và ngủ thiếp đi cho tới bữa cớm tối , nếu bác Hai không cho người gọi thì có lẽ Cang sẽ ngủ qua đêm không chừng
Cang bò dậy ể oải ra ăn cơm , sao những miếng cơm lùa vào miệng nó tẻ nhạt quá chừng , nhưng Cang cũng cố nuốt cho trôi, sau bữa cơm , Cang vào phòng lấy ra cái phong bì mà trong đó Cang cất tiền , Cang bắt đầu câu chuyện
- Bác hai cho con gởi số tiền ăn và tiền nhà tháng này , chắc con ở lại đây hết ngày mai , sáng thứ ba con phải trở lại quê bác Hai ạ
- Sao dzậy ? rồi việc học của bay ra sao ?
- Dạ má con bệnh , con phải dzề chăm sóc cho bả ...Con sẽ nhờ thằng Trường bạn của con chắc bác Hai nhớ , nó chép bài ra làm hai gởi cho con , con cố gắng tự học ở nhà rồi đi thi bác Hai à
Bà Hai tính nhẩm số tiền từ đầu tháng đến nay cũng không có là bao, chỉ mới hơn một tuần nên bà nói
- Thôi bay có chuyện phải đi thì cứ đi , việc báo hiếu mẹ cha không thể không làm mà được , còn số tiền đó cất đi cứ như tao giúp cho bả thang thuốc mong sao bệnh tình bả mau khỏe lại , ừa mà khi nào có ghé tỉnh nhớ tạt thăm tao nha
Cang đưa qua đưa lại số tiền cơm cho bác Hai nhưng bác nhất định không chịu nhận ,cuối cùng Cang nhét bao thơ vào túi quần nói cám ơn rồi vô phòng ...Giờ này Cang không thể ngủ được , nằm đó chàng thấy nhớ Út Lành quá chừng , Chắc là Út Lành buồn lắm cách xa nhau đã gần bốn tháng rồi đó , thế mà chàng về không kịp nhìn mặt nhau đã ra đi ...Nhất là bây giờ Út Lành lại mang cái bụng bầu , không biết lớn chưa cũng đã bốn tháng rồi còn gì ...Nằm mãi ngủ không được , Cang bò dậy chạy ra quán tạp hóa ở đầu đường mua gói thuốc Ruby , Hằng ngày Cang đâu dám xài sang như vậy nhưng nay có số tiền của bác Hai không nhận nên dư ...
Cang nằm đốt thuốc đến vàng ngón tay , và suy nghĩ lan man qua bao nhiêu chuyện dùng dằng nửa muốn đi nửa muốn ở lại rồi ra sao thì ra ... Làm trai là phải có trách nhiệm với những gì mình đã gây ra ..Nhưng không biết từ lúc nào Cang đã nhuần nhuyễn cái lý tưởng là vào bưng là đem đời trai dâng hiến cho non sông tổ quốc , là vì dân cứu nước khỏi ách thống trị của nhà độc tài Ngô Đình Diệm , là đuổi Mỹ có ý đồ xâm lăng , xua đuổi bọn đế quốc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam giành lấy độc lập và thống nhất hai miền nam băc ..Cái lý tưởng mà Cang mới khoác lên mình đêm qua nó to hơn cả tình yêu Cang dành cho Út lành , chính vì điều đó cũng đã xoa dịu những bứt rứt trong lòng hắn , Cang cứ coi như đã tìm ra con đường giải thoát , Thế rồi Cang thiếp đi trong giấc ngủ về sáng
Sáng hôm sau Cang cũng mặc quần áo bình thường như đi học để đến trường , Cang muốn vào trường để xin cái học bạ , dù sao cũng cần chứng minh rằng Cang đang học lớp đệ tứ trường trung học tỉnh dù chưa thi bằng Thành Chung , nhưng có nhiều cơ quan họ cũng cho rằng nó có giá trị tương đương ...Cô thơ Ký hỏi thăm Cang tại sao lại bỏ học , Cang cũng nói lý do như hôm qua đã thưa với bác Hai , Má Bệnh không người chăm sóc nên phải về quê phụng dưỡng cho má ..Cô thư ký tỏ ra rất buồn khuyên Cang cố gắng tìm giải pháp khác xem có thể được hay không vì Cang bỏ học không thi rất uổng , Cang là một học trò xuất xắc của trường nên ai cũng quí mến , khi đưa học bạ sang cho ông Hiệu Trưởng ký ông cũng ngồi khuyên Cang như vậy ...Nhưng không còn phương pháp nào khả dĩ có thể thực thi , ông HT đề nghị ông sẽ nhớ thày Viễn sao chép bài rồi gởi về quê cho Cang khuyên Cang cố gắng học để rồi cuối năm ổng sẽ nộp đơn cho Cang đi thi ... Lời đề nghị này chính ra Cang sẽ nhờ Trường nhưng nếu được thày Viễn thì chắc chắn bài vở đầy đủ hơn Trường, hơn thế nữa còn vấn đề giấy học trò để sao chép Trường sẽ phải mua ...Biết tính sao trả như thế nào cho phải lễ , Được lời như mở tấm lòng Cang hoan hỉ cám ơn ông Hiệu Trưởng rồi xuống lớp gặp Thày Viễn là thày phụ trách lớp của Cang , nói sơ qua dự tính của ông Hiệu Trưởng xem ý thày thế nào , thật may mắn thày nhận lời ngay , thế là Cang chào thêm vài ba nggười bạn thân quen nữa rồi ra đi
Mọi việc dự định làm sáng nay đều xuông xẻ và tốt đẹp hơn cả Cang dự tính , từ giã bạn bè ra đi cũng nhiều lưu luyến nhưng biết sao hơn , thôi thì hẹn gặp lại nhau khi đất nước thanh bình
Cang trở về nhà trọ , ăn cơm trưa với bác Hai , sau đó vào phòng tính thu dọn tất cả các bài vở giấy tờ , các dụng cụ vặt vãnh cho vào bao để sẵn sàng ra đi , nhưng vừa ngả lưng trên giường , Cang cảm thấy mệt mỏi và thiếp đi trong giấc ngủ trưa ...
Khi Cang chồm dậy đã ba giờ chiều , giờ này không còn đò máy về quê ...Cang ra sau vườn múc nước tắm , thay quần áo xong không biết làm gì cho hết buổi chiều , Cang khoác áo ra chợ đi lòng vòng quanh hai dẫy phố ..Cang không có ý định mua bất kỳ món gì , nhưng lâu rồi vì bận học tuy ở ngay đây mà hình như Cang chưa bao giờ dạo chơi qua Phố chợ như hôm nay ...Cang ghé vào một tiệm bán quần áo , Cang nẩy ra ý muốn mua một món hàng gì đó mang về tặng Út Lành như một lời xin lỗi và cũng là kỷ niệm cho những ngày tạm xa nhau ...Đưa mắt nhìn qua tủ kiếng , Cang thấy một cây kẹp tóc với hình con bướm trắng thật xinh , chắc là Út Lành sẽ thích vì nàng có một mái tóc dài óng mượt , chuyên gội bằng dầu dừa nên lại càng bóng , nhưng coi giá Cang thấy hơi nhiều tiền ...Với số tiền đó chàng có thể mua được hai gói thuốc Ruby , nghĩ thế nên Cang không mua bước ra khỏi tiệm
Ngang qua một quán bán hủ tiếu , tuy không đói nhưng tự dưng Cang cảm thấy thèm , chàng bước vào kêu một tô xí quách , với một chai bia lớn , bia con cọp , mà có lẽ đây là lần đầu tiên Cang được thưởng thức vị ngọt của bia , Cang cảm thấy thèm không phải là bây giờ mới thèm nhưng đã thèm từ lâu mà không dám mua uống , nhưng chiều nay nghĩ đến ngày mốt sẽ vào bưng , ở trỏng chắc là không có những thứ xa xỉ này ...Nên Cang càng muốn được hưởng thụ cho biết mùi với đời
Ở dưới quê đôi khi thay mẹ đi dự những tiệc cưới, hỏi hay giỗ kỵ , Cang đã từng uống rượu , nhưng chỉ là loại rượu Đế ngon , trong vắt rót ra có sủi bọt vài sợi lăn tăn là cùng , còn đây trong ly đá cối bia được rót ra , với cả một dề bọt trắng xóa phủ kín mặt ly , mới chạm vào đầu lưỡi Cang cảm nhận được vị hơi đăng đắng , nhưng sau đó là vị ngọt dễ chịu khi chạy qua cổ họng chứ không nóng rát như rượu Đế ...Cang thấy mình lớn hẳn lên mặc dù chàng mới chỉ là cậu thanh niên mười bảy tuổi ,Cang lại kêu thêm một gói thuốc Ruby ..Sau khi đã tính tiền ra về trời đã chiều mặt trời đã tắt , một mình nằm trong căn phòng trọ vắng vẻ với hơi men ngà ngà của chai bia đầu đời , Cang đốt thuốc hút và cảm thấy nhớ Út Lành quá chừng ... Cang ân hận nếu như mình không ăn uống và hút thuốc thì đã có dư tiền để mua cái kẹp tóc bướm trắng kia tặng cho Út Lành , Đằng này mình chỉ biết hưởng thụ ích kỷ một mình , nhưng rồi chàng lại tự an ủi , ừa mà mua cái kẹp cho Út lành , thì Út Lành cũng kẹp tóc rồi mình ra đi đâu có được ngắm mái tóc dài óng mượt của nàng ...Thôi lỡ rồi
Sáng hôm sau Cang dậy gom hết quần áo , sách vở kể cả những tờ giấy nháp bỏ vào túi sách , rồi ra chào bác Hai từ giã , bác Hai chỉ nói với theo
- Khi nào có rảnh hay có dịp qua tỉnh thì nhớ ghé thăm tao nha , cho tao gởi lời thăm bả chúc bả mau lành bệnh !
- Dạ con cám ơn bác Hai con sẽ chuyển lời tới má con , thôi chào bác Hai con dzìa !
Đứng ở bến sông đợi tàu đò vê quê , nhìn sinh hoạt của khu dân cư gần đó có lẽ là lần cuối , Cang cảm thấy có một nét gì rất thanh bình ...Như những đứa trẻ chơi cù trên sân nhóm khác vài đứa con gái đang nhảy lò cò , bến sông các cô gái gánh nước mướn nói cười vui vẻ , cùng với những đứa trẻ đang nô đùa tắm dưới sông
Chợt Cang cảm thấy rất yêu hoạt cảnh đó , như vậy mình vào bưng đi làm cách mạng , giải phóng , cách mạng cái gì, giải phóng ai khi họ đang an vui , và tất cả những người kia toàn là những người tử tế ...Cang chả có điều gì cần phải cách mạng cái xã hội , với những người như Thày Hiệu Trưởng , như thày giáo Viễn , như bác Hai ...
Thế rồi tàu đò đến Cang nhảy lên đò và cắt đứt những tư tưởng đang nghĩ ...
Đò máy chạy ào ào trên sông Cang đưa mắt quan sát , hai ven bờ , với những đồng lúa xanh ngát , lúa bây giờ đang thời con gái , nước ruộng lấp xấp , thật đẹp lâu lâu lại có một một con trâu với chú bé ngồi trên lưng hay cánh có trắng đang nghỉ chân  trên đó ...
Có những lúc Cang muốn quay trở lại để học tiếp lấy bằng thành chung , cưới Út Lành và nuôi con , bình thường như mọi người , với cái bằng thành chung thời buổi đó đi kiếm việc không khó , chắc hắn Cang sẽ kiếm được tiền để gầy dựng một mái ấm gia đình nho nhỏ không phải chỉ là mơ ước ... Nhưng rồi Cang lại nghĩ , biết học xong đi thi có đậu không ? lỡ rớt thì sao , chắc chắn ông Hội Đồng Sang sẽ không gả Út Lành cho Cang nếu Cang không giựt được cái bằng Thành chung kỳ này , cho đến đậu còn chưa chắc chứ đừng nói là rớt , vì ngoài Cang ra còn có nhiều người trên tỉnh với môn đăng hậu đối , với những chàng đẹp trai con nhà giầu đã có công ăn việc làm chắc chắn ngoài tỉnh còn đang dòm ngó Út Lành ...Có chăng là nhờ Út lành làm reo với cái bụng bầu , để cho ông Hội Đồng Sang ngại tiếng tăm , miệng đời mà gả cho Cang ...Nghĩ như vậy nên Cang yên lòng ra đi cho lý tưởng hiến đời trai cho non sông đất nước , làm cách mạng lật đổ ngụy quyền Sài Gòn lật đổ gia đình trị độc tài Ngô Đình Diệm , cứu tổ quốc giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của Đế Quốc Mỹ .
Ở đời đôi khi người ta phải tạo ra những cứu cánh cho cuộc sống , Cang hiện tại cứ yên trí đó là lý tưởng của mình , đó là cái cứu cánh của cuộc đời
Cang về tới nhà chào mẹ xong vào phòng nằm , nửa Cang muốn hẹn gặp Út Lành nửa lại sợ nếu gặp mặt và cho nàmg biết nàng sẽ khóc bù lu bù loa , chuyện bí mật không giữ được anh Ba Chạy đã dặn rất kỹ không được cho ai hay chuyện này ...Không phải là Cang không tin Út Lành , nhưng Cang biết rất rõ Út Lành sẽ khóc nếu chàng cho Út Lành hay chuyện dự trù vào bưng của Cang. Út Lành sẽ níu kéo và có thể còn làm lớn chuyện , sẽ thưa chuyện nàng đang có bầu với Cang để nhờ tình thương con của ông Hội Đồng Sang can thiệp ...Với áp lực đó vì muốn giữ đạo hạnh cho gia đình vì không muốn mang tiếng là nhà có con gái chửa hoang , có thể ông Hội Đồng Sang sẽ nuốt đắng mà chấp nhận , nhưng nếu ông không chấp nhận thì sao !!, chuyện gì sẽ xẩy ra , chắc chắn Cang sẽ bị ông Hội Đồng Sang lôi đầu vào bóp nằm ở trỏng để đền tội , rồi nữa chuyện bỏ học của Cang sẽ được mọi người biết và Cang đang nói dối , bà Bảy đâu có bệnh vậy Cang nghỉ học vì lý do gì , có thể họ sẽ hiểu ra Cang có ý định trốn vào bưng để trốn tránh trách nhiệm ...Lúc này thì hỡi ơi có muốn vào Bưng cũng không còn cơ hội để thực hiện
Chi bằng Cang cứ âm thầm ra đi , sau này đúng theo lời hứa của anh Ba Chạy , Cang sẽ được hoạt động ở vùng này , Cang sẽ quay trở về giữa đêm tối như anh Ba Chạy , sẽ đến thăm Út Lành , như anh Ba Chạy tuy vào bưng hoạt động thế mà chị Ba ở nhà vẫn có bầu và đẻ năm một ...Chuyện đó làng nước biết rất rõ và còn biết rằng chị ba rất chung thủy với chồng chưa bao giờ lăng loàn hay xàm sỡ với trai khi chồng đi vắng , Chị ba luôn luôn sống chung với mẹ chồng .
Như vậy thì cứ đợi khi Cang đã trở thành cán bộ cho mặt trận xong Cang sẽ trở về thú tội với Út Lành và tin tưởng rằng Út Lành cũng sẽ tha thứ cho Cang , còn chuyện ông Hội Đồng Sang lúc đó không thành vấn đề nữa , ông Sang bằng lòng thì tốt đẹp bằng không ông mà cứng đầu không chịu gả con gái thì chỉ cần trói gò ông lại ,bịt mắt dắt đi sau đó treo vào cổ cho ông bản án Cường hào ác bá địa chủ , thế là xong , gả Út lành làm vợ lớn cho Cang chứ làm vợ lẽ chắc chắn ông Sang cũng đành chịu nghĩ đến đây Cang chợt mỉm cười sung sướng .
Chuyện Cang sắp trốn vào bưng Cang chỉ cho mình bà Bảy hay vì Cang biết mẹ rất yêu thương mình hơn nữa bà Bảy tính tình ít nói lại kiên cường , khi được Cang cho biết tin không vui ấy bà bảy chỉ thở dài , chứ không còn biết nói gì hơn , chuyện sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó , Cang đang bước đi đúng con đường của Ông Bảy ngày xưa đã đi , có lúc bà bảy tỏ ra hối hận đã đốt mất bản án treo ở ngực của ông Bảy lúc ông bị người ta giết .. Có lẽ lúc đó Cang còn quá nhỏ không nhớ chuyện gì trong khi bà Bảy lại ít nói ít gần gũi con không muốn tâm sự cùng con những chuyện buồn mà bà nghĩ chỉ mình bà gánh vác cũng đủ để cho con được vô tư ...Tới bây giờ thì mọi chuyện đã lỡ dĩ bà chẳng biết nói gì hơn , bà cũng nghĩ như Cang Mặt Trận không phải là Cộng Sản , mặt trận là do những nhà trí thức tư bản miền nam bất mãn với chế độ độc tài Ngô Đình Diệm rồi cùng nhau thành lập để cứu nguy dân tốc khỏi bị thống trị của đế quốc Mỹ đang cho người sang thăm dò lập đầu cầu đổ bộ quân của chúng sang sau này ...Thì ông Bảy khi xưa cũng vậy ông Bảy chỉ đi tập kết theo tiếng gọi non sông để chống lại thực dân Pháp đã đến đô hộ Việt Nam cả gần trăm năm , ông Bảy nào có ý định gia nhập đảng công sản Việt nam hay đảng cộng sản Đông Dương đâu cơ chứ , vì không muốn gia nhập đảng cộng sản ông đã bỏ về sau chiến tranh và ông đã bị trả giá mang bản án : ĐỨA PHẢN ĐỘNG
Bà bảy lại trước bàn  hương án của chồng lấy ba nén nhang , lạy chồng như tạ lỗi cùng chồng,bà đã không biết dậy con , bà không hề hở môi than oán , Cang đưa cho bà lá thư nhờ bà trao lại cho Út lành sau khi Cang đã đi , bà cũng nhận nhưng trong lòng dâng tràn đau xót ....

Đêm thứ tư,Ba Chạy mò đến gõ cửa có lẽ khuya hơn đêm trước ,Bà Bảy ra mở cửa nhưng không hỏi như hôm trước , vì bà đã đoán ra được là ai rồi , Ba Chạy thì vẫn lách mình vào lẹ làng và gọn như lần trước , Cang cũng đã bước ra sẵn sàng lên đường ...
-Cậu đã sẳn sàng cả chưa , thôi chúng ta đi , bên ngoài còn anh em đang đợi !
Cang tiến lại cầm tay mẹ muốn nói điều gì đó nhưng nghẹn ngào không thốt ra được
Ba Chạy lại dục
- Thôi chúng ta đi , bên ngoài còn anh em đang chờ chúng ta
Hắn gật đầu chào bà Bảy rồi cầm tay Cang lách ra khỏi cửa , bên ngoài bóng tối ấp đến , Cang như vừa bước vào một không gian nào đó hoàn toàn xa lạ, gió khuya lành lạnh , chàng riu ríu bước theo Ba Chạy như đứa trẻ được bố dẫn đi trong đêm , lạ một điều là chính con đường này , những lần hẹn hò cùng Út Lành đêm có về khuya Cang vẫn không hề sợ sệt vì đã quá quen thuộc , nhưng đêm nay cái cảm giác an toàn trong Cang đã biến mất , Cang bước theo Ba Chạy mà như kẻ trộm lần mò trong đêm lòng lo sợ bị phát giác , bởi thế mà trán chàng lấm tấm những giọt bồ hôi ..
Đi gần hết con đường ở cuối làng thì Ba Chạy cùng bốn anh em khác đưa Cang rẽ xuống ruộng rồi đi thẳng đến khu rừng trước mặt
Đêm đó Cang được chỉ định ngủ trong một túp lều lá bốn bề không có vách , không bàn ghế , dĩ nhiên là cũng không giường chiếu , một người trong bọn đưa cho Cang mượn một cái bao dệt bàng cói , mà sau này Cang mới biết nó có một tên gọi là cái móp , cái móp như một cái bao bố khá to tìm chỗ nào bằng phẳng trải móp xuống , móp có hai lớp , người mình chui vào giữa , lớp dưới làm chiếu lớp trên làm chăn vừa ấm vừa tránh được muỗi
Vì đi đêm khuya nên mệt, khi Cang thức dậy thì mặt trời đã lên , ánh nắng đã xuyên qua những cây rừng che kín trên đầu Cang nhìn quanh không nghe tiếng động , tất cả vắng lặng như đây là rừng hoang không một bóng người lai vãng
Không lâu Ba Chạy đã đến bên hỏi
- Dậy rồi hả đêm ngủ ngon không ? thôi lo dẹp móp rồi đi theo tôi
Cang riu ríu làm theo mệnh lệnh của Ba Chạy , Sau đó Ba Chạy đưa Cang vào sâu nữa trong rừng , đường càng đi rừng càng rậm trên đầu những cành cây đan kín từng tầng từng lớp , với vận tốc đi đêm qua Cang nghĩ chỗ này không xa nhà là bao tuy nhiên Cang chịu không thể đoán ra nơi đây là đâu ...
Ba Chạy rất thận trọng nhìn trước ngó sau rồi mới khom minh , vén dạt gốc cỏ lau sang một bên để lộ ra một miệng đường hầm hẹp chỉ vừa một người tụt xuống với chiều thẳng đứng
Ba Chạy hất hàm nói với Cang
- Cậu xuống trước đi
Cang tuân lệnh bước tới miệng hầm thòng hai chân xuống trước rồi dùng hai cánh tay giang ra treo thân hình tòng teng trên miệng hầm , Ba Chạy mách
- Buông người xuống sẽ chạm đất không té đâu
Cang làm theo và quả thật chân chạm đất vững vàng , tới lượt Ba Chạy tụt xuống gọn gàng như một con mèo nhảy từ trần nhà xuống đất , sau đó Ba Chạy còn nhến chân lên đưa tay kéo nắp hầm lại như cũ , thế là đường hầm trở nên tối om Cang phải tránh qua một bên nhường bước cho Ba Chạy bước trước , Bây giờ thì Ba Chạy luồn chui nhanh nhẹn như một con chuột trong hang , đi sâu vào chừng mười thước thì đường hầm chợt rộng ra , và từ xa có ánh sáng , đúng là "ánh sáng cuối đường hầm"làm cho người ta tin tưởng vững tâm ...Khu vực chỗ có ánh sáng khá rộng ở đó có năm bảy người đang ngồi ăn sáng và chụm đầu nói chuyện , Cang thoáng nhìn thấy bóng của Tài , Tài cũng nhận ra Cang nên đứng dậy mừng rỡ Cang hỏi
- Anh Tài vào đây hồi nào ?
- đêm qua hình như chúng mình đi cùng tuyến đường mà ...
Bây giờ nhớ lại Cang nhớ rằng sau khi đã rẽ xuống ruộng đi được khoảng nửa giờ thì trong đoàn hình như có thêm một nhóm  nữa hoà nhập vào , tuy nhiên theo chỉ thị của Ba Chạy khi đi trong đêm như vậy , cấm không ai được lên tiếng nói chuyện , kể cả thở cũng cố thở cho nhẹ ...Bây giờ Cang mới cảm thấy Mặt trận tổ chức hết sức chu đáo và bí mật ...
Ba Chạy lại lấy cho mình một củ khoai và cũng lấy đưa cho Cang hai củ nhỏ hơn , đó là phần ăn sáng của tất cả các Kháng Chiến quân ... Phần ăn sáng này đã được các anh nuôi nấu từ sớm trong một căn hầm có nhiều đường cong gọi là bếp Hoàng Cầm , vì nhiều đường cong , khói bốc lên cứ cắm đầu vào đất , đến lúc thoát ra được bên ngoài thì đã loãng , tránh được sự quan sát của những người trên mặt đất
Ăn sáng xong Ba Chạy dẫn Cang đến gặp một người mà lúc đó Cang nghĩ là làm lớn lắm , ông là chính ủy đại đội , Cũng là Thủ Trưởng cái căn cứ địa này ...
Căn cứ địa đã có từ thời chống pháp trước năm 1946 , sau này khi anh em tập kết ra bắc thì trung ương vẫn gài người ở lại giấu vũ khí , gìn giữ tu bổ căn cứ , Và người đàn ông này đã có mặt ở chõ này ngay từ thời đó ...Đây là Ông Tám Nhang , Tám Nhang trông tầm thước người rất mạnh , da hơi đen ăn mặc giản dị , Ba Chạy tiến tới trước mặt Tám Nhang đứng nghiêm dơ tay chào
- Anh Tám đây là Cang mà tôi đã nói chuyện với anh hôm trước , Cang đang học chương trình để cuối năm nay thi bằng Thành  Chung
Cang cũng bước lên một bước đứng nghiêm và cúi đầu chào rất cung kính ...
Tám Nhang chỉ hất hàm ra lệnh cho Cang ngồi xuống manh chiếu trống kế bên ..
- Cậu Cang tới tối hôm qua hả
- Dạ tới tối hôm qua thưa anh Tám
Rồi quay qua ông Tám hỏi Ba Chạy
- Tối qua chú đưa được bao nhiêu người về đây với cách mạng
- Thưa anh Tám chỉ tối qua thôi, toán em dẫn về được 6 người còn ..
Tám Nhang đưa tay ra hiệu cho Ba Chạy ngừng nói
- Tôi biết , mấy tháng nay chú làm việc rất tốt ,đạt chỉ tiêu , tôi sẽ đề nghị lên trên về khả năng của Chú ...Chắc cũng đủ túc số cho một chuyến đi R rồi đấy nhỉ , chú nhớ lo vấn đề giao liên để đưa họ đi R nhé , càng sớm càng tốt ở lại đây đông quá không có lợi chỉ làm dễ bị trống lưng hơn nữa vấn đề anh nuôi cũng không thể cáng đáng mãi với số người đông như vậy , chú hiểu không
- Da em nhận rõ thưa anh Tám ...
- Vậy chú đi lo chuyện của chú đi còn Cang để đây tôi muốn nói chuyện thêm với chú ấy
Ba Chạy chào rồi bước ra chỉ còn lại mình Cang và Tám Nhang , Tám quay qua hỏi Cang
- Chú gia đình có đông anh em không ?
- dạ có mình tui thôi anh Tám , má tui có thêm hai người con nhưng đều chết từ hồi còn rất nhỏ , bởi thế tui coi như con một mà lại mang thứ Tư
Tám Nhang gật gù xem ra đã hiểu rõ
- Ồ thì ra là thế , rồi hai bác như thế nào còn sống cả chứ
- Da ba tui mất lâu rồi , ngay sau ngày kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp về nước vừa thành công thì ba tui mất
- còn má chú như thế nào chắc gia đình nhiều ruộng đất lắm hả chứ không sao lo cho chú việc học hành như thế này được
- Dạ không có đâu anh Tám má tui chỉ đi làm mướn , bà đã sống như vậy từ khi còn đang chiến tranh chống thực dân Pháp vì thời đó ba tôi đâu có ở nhà , sau khi kháng chiến thành công thì ba tôi mất , bà lại tiếp tục gánh thuê cắt mướn dành dụm tiền để chăm lo cho tôi ăn học , gia đình tôi thuộc giai cấp vô sản đó chứ

     - thôi được , tui nghe lời Ba Chạy muốn giúp chú ở lại đây cho gần nhà , nhớ rằng không được trốn về thăm nhà khi chưa có lệnh của tôi đấy nhá , tôi sẽ xin với cấp trên để chú lại đây làm thư ký cho tôi , chú bằng lòng không ?

Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 11:30 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3612
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #145 - 26. Aug 2013 , 18:35
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU 

CHƯƠNG III

Nghe nói có chuyến đi R , Cang quả thật không hiểu R là cái gì, chỗ nào nhưng chắc là căn cứ to hơn ở đây và có lẽ cũng xa đây lắm , máu giang hồ Cang cũng muốn đi cho biết , nhưng nghĩ tới tình cảnh của mẹ, của Út lành ,được ở gần nhà là nhất rồi nên Cang gật đầu ưng thuận
- Dạ tùy thuộc ở anh Tám và anh Ba phân công thế nào thì em nghe theo thế đó
- Tốt , rồi Tám Nhang đưa tay gõ nhẹ vào cái chuông trước mặt , tức khắc có hai người lính kháng chiến xuất hiện ,
- Đây là cang , Minh mày dẫn Cang tới văn phòng tao chỉ cho Cang những giấy tờ mà mày chưa làm xong để Cang tiếp tục hoàn tất bây giờ là hai đứa bay đó , tất cả những gì Cang không hiểu không biết bay đều phải giải thích và hướng dẫn đàng hoàng cho Cang biết không
- Da em hiểu thưa anh Tám
- Tám Nhang hất hàm ra dấu Cho Minh như bảo xong rồi lui ra
Minh đưa Cang đến một căn hầm khá rộng , có đủ ánh sang từ ngoài trời …Với những vệt nắng rọi trên nền như vệt nắng xuyên qua mái dột , những vệt nắng đang lung linh nhảy múa theo ngọn gió trưa ru êm nhè nhẹ
Trong căn hầm có kê một chiếc bàn hình chữ nhật nhỏ và ba cái ghế , ở một góc hầm có một cái tủ đứng trông đã cũ lắm rồi
Minh chỉ chiếc ghế ,
-      Cang ngồi đây đi , rồi Minh chạy đến bên cái tủ đứng , lấy đưa đến cho Cang một quyển tập giấy học trò
Minh ngồi xuống chiếc ghế cạnh Cang rồi lật cho Cang xem , trên quyển tập đó có những dòng chữ nghệch ngoặc , nói theo bình dân là trông như gà bới , không biết của ai viết mà giống như của đứa trẻ lớp ba lớp tư ...Thấy Cang nhìn soi bói vào những hàng chữ kia Minh hiểu nên giải thích
-phần đầu là của anh Tám Nhang , phần sau này anh Tám Nhang giao cho tôi nên tôi cũng cố làm theo ý ảnh muốn , bây giờ tôi giao lại cho anh , Anh Tám muốn mỗi ngày đều ghi lại trên quyển sổ này những sinh hoạt của căn cứ địa , chuyện gì đã xẩy ra , như mấy lần trong ngày có tiếng máy bay bay ngang , đêm qua có bao nhiêu nggười đến , rồi mai mốt đây có bao nhiêu người đi , công việc dễ ẹc nhưng phải nhớ và liên hệ với những nơi đó để lấy tên người đến và người đi , không được ghi thiếu , anh Tám kiểm soát hoài ...
Cang thắc mắc qua chuyện khác
- rồi tôi ăn ở đâu , ngủ ở đâu , tối qua anh Ba Chạy cho tôi ngủ trong cái móp trên nền nhà ở bià rừng
- Vậy hả , thôi ngủ chung với bọn tôi đi , bọn tôi hiện có ba người , tôi , Lương ,Tính ..Còn ăn thì xuống nhà anh nuôi , trưa chúng ta đều đến đó lãnh khẩu phần ăn rồi kiếm chỗ nào đó ngồi ăn chung ...Ừa còn tắm ,chiều  bọn tôi ,thường kéo nhau ra con suối ở phía tây ...Tắm và lấy nước về uống , chiều nay đi theo bọn tôi nha , như nhớ ra điều gì Minh chạy lại mở tủ lôi ra một cái bọc vải khá cũ nhìn kỹ hình như có nhưng vệt máu đọng trên đó
- Đây là gia tài của Chiến nó đã chết hồi tháng trước khi đi vào làng , bị lính phát giác và bắn chết may quá lấy được xác của nó về đây , rồi Minh lôi trong bao ra gồm có một cây dao găm , hai trái lựu đạn , tất cả ba vật dụng này đều được gói trong bọc ny lông rất cẩn thận ...Mò mãi Minh lấy thêm ra được một vật gì trong bọc ny lông rất kỹ đưa cả cho Cang , thôi anh Cang giữ luôn đi để phòng thân  đây là lọ thuốc trị rắn cắn nghe nói ...Rất công hiệu
Cang ngần ngừ cầm lấy lọ thuốc trị rắn của người tên Chiến nào đó , lọ thuốc được bọc trong nhiều lớp ny lông và cuốn giây thung rất chắc , cả hai trái lựu đạn và cây dao găm cũng vậy , Cang chợt có ý nghĩ  không biết khi có việc khẩn cấp cần xử dụng thì phải làm sao ??
Nhưng Minh đẩy cho Cang thì Cang cũng giữ lấy trong lòng trộm nghĩ rằng hy vọng những thứ này không phải dùng tới , chỉ là bảo quản dùm người đã chết mà thôi
Minh dặn thêm
-Chút nữa tới giờ ăn trưa xuống nhà anh nuôi nhớ mang theo cuốn sổ này anh Cang sẽ gặp anh Ba Chạy ở đó và xin tên những người mới tới tối qua nha , tất cả , muốn gặp mặt hầu như dễ dàng nhất là gặp tại nhà anh nuôi và làm việc tại chỗ luôn , tới đó gặp tôi sẽ giới thiệu với anh Cang những người mà sau này cần biết để làm việc
Kể từ đó Cang đi đâu cũng cầm theo cuốn tập giấy học trò kia , cũng như trên tuí áo lúc nào cũng có hai cây viết nguyên tử một đỏ một xanh ..Anh em trên khung hay gọi Cang bằng cái danh xưng khá kêu - bí thư đại đội
Sinh hoạt nơi đây rất thoải mái , sáng là giờ ăn sáng , cùng trong giờ ăn sáng này anh Tám Nhang luôn luôn có mặt để nhận những bá cáo trong ngày , cũng như anh Tám sẽ chỉ đạo cho các bộ phận những công tác cụ thể cần làm , ngoài ra những ai không có công tác giao phó thì muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì cũng được nhưng tránh không nên ra khỏi bìa rừng và nhất là khi nghe có tiếng máy bay thì phải nhanh chân ẩn núp , không để cho máy bay quan sát thấy có bóng người ...
Với công việc Tám Nhang giao phó cho Cang , quả thật chẳng có gì để làm , nên thời gian này Cang quá rảnh rỗi , rảnh rỗi hơn thời còn đi học , sáng tụ tập ăn sáng , bữa thì khoai ngày thì sắn ( khoai mì ), trưa hai chén cơm lửng với miếng khô lóc , khô sặc ...Rau xanh ngày có ngày không thường là rau rừng , như rau dền rau ngót ...đấy là cơ bản còn ai muốn có thêm để bồi dưỡng thì tự túc do người nhà gởi vô , hay đôi khi được công tác về qua làng tiện ghé nhà gói mang theo ...Ở đây đã hơn ba tháng , những buổi chiều mưa không đi đâu được , mưa rừng thì mưa đến thúi đất không ngừng , nằm trong móp nghe Minh ca vọng cổ , thêm tiếng đàn của Tính ôi sao nó buồn rười rượi lại nhớ Út Lành kinh khủng nhớ cả má nữa, nhớ ánh đền điện ở tỉnh nhớ hết mọi người  ... Thế mà xin với anh Tám mấy lần rồi anh Tám vẫn chưa cho ghé về thăm nhà
- Lần thì anh Tám nói còn sớm quá để đó anh tính cho , lần thì anh Tám nói đêm nay Ba Chạy rất vội chỉ đi ngang thôi không  ghé chờ lâu được , lần cuối cùng này thì anh Tám thẳng thừng từ chối ,
-Thằng Hội Đồng Sang là tay Cường hào ác bá địa chủ hút máu cần phải tiêu diệt , bởi thế chú đừng có những liên lạc với hắn nữa , kẻo đôi khi thiệt hại cả đến bản thân
Nghe anh Tám nói Cang thấy lạnh người , nhưng thầm nghĩ mình đâu có liên lạc với ông Hội Đồng mình chỉ muốn thăm Út Lành thôi mà ... Nghĩ như vậy nhưng Cang chỉ còn biết cúi đầu vâng dạ không dám nói ra.

    Thời gian sau này Cang mới hiểu , tại sao Tám Nhang lại giữ Cang lại đây cho gần nhà mà không cho về thăm !
Tám Nhang chả tốt lành gì với Cang , cũng chẳng phải vì nể Ba Chạy mà Tám Nhang giữ Cang ở lại đây ... Chẳng qua là thời gian sau này lệnh từ Trung Ương Cục đưa xuống , khuyến khích tất cả các bộ phận hãy tranh thủ để tìm cách phấn đấu nâng cấp văn hoá cho các anh em kháng chiến quân vì hoàn cảnh đất nước , vì sự kìm kẹp của Ngụy quyền Sài Gòn mà các anh đã không được đi học ...đa số vào bưng rất sớm đã lâu,nên bây giờ đương nhiên trở thành những cấp lãnh đạo nồng cốt của mặt trận , nhưng tiếc rằng không có văn hóa , nhiều người không biết đọc biết viết , bởi thế trong hàng ngũ nẫy sinh những sự phân hóa bất phục của một số lớn sau này vào bưng có văn hoá cao hơn , nhất là một số trí thức của miền nam như bác sĩ kỹ sư luật sư , thì chất xám đã đạt tới ngoại hạng , càng khó làm việc chung
Bởi lý do đó Trung Ương Cục muốn các bộ phân tranh thủ lập ra những lớp học chữ ban đêm khuyến khích các kháng chiến quân phấn đấu thi đua học chữ...Nhìn lại tất cả kháng chiến quân trong căn cứ địa này mà Tám Nhang đang làm thủ trưởng , thì chẳng có ai có khả năng dậy học , người có học cao nhất là Minh chỉ mới học xong lớp ba trường làng , Còn Tám Nhang trước ngày tập kết chưa bao giờ được cắp sách đến trường , Tám Nhang biết đọc chữ và nghệch ngoặc chút đỉnh cũng nhờ bạn bè chỉ sau này ...Bởi thế Tám Nhang ra lệnh cho Ba Chạy hãy mau tuyển nhận một người có bằng Tú tài hay ít nhất cũng có bằng Thành Chung mang về cho cách mạng để rồi Tám Nhang sẽ tổ chức lớp học đêm ...Ngặt vì Cang chưa thi bằng Thành Chung , nhưng hiện tại cũng không có ai có văn hóa hơn Cang ...Nên Tám Nhang vẫn lưu Cang tại đó ...
   Những người theo cách mạng đã lâu họ học được cách đối xử rất được lòng người là không bao giờ nói thẳng mục đích , nếu có thể vì vậy mà làm cho người kia trở thành cao ngạo hay gây khó khăn , mà luôn luôn tạo ra những điều ân nghĩa ,những công cán mà kẻ được giao phó công tác cứ nghĩ rằng đang được hưởng ơn mưa móc từ các người chỉ đạo , như Cang đang hiểu là nhờ có anh Ba Chạy nói với Tám Nhang thì Cang mới được lưu lại đây cho gần nhà ..Và ngay cả Tám Nhang cũng vì có cảm tình với Ba Chạy vì Ba Chạy là cán bộ cốt cán làm việc tốt nên nhận lời Ba Chạy mà giúp Cang
Cang biết hết những điều đó vì ,Tám Nhang một sáng kia đã tìm Cang trao đổi :
- Chú Cang nay không đi đâu sao ?
- Dạ không anh Tám , lười quá , Minh nó rủ ra ngoài kiếm rau rừng về bồi dưỡng mà em không đi , chắc tụi nó đi rồi
Tám Nhanh kéo ống quần ngồi chồm hổm xuống cạnh Cang
-nè tui hỏi chú , chú nhắm có thể đứng lớp được không ?
Cang ngạc nhiên hỏi lại
- Đứng lớp gì anh Tám , trong này mình có trường học nữa sao ?
Tám Nhang vừa vê thuốc rê vừa trả lời
- không phải , tui định tổ chức lớp học bổ túc văn hoá cho các anh em kháng chiến quân trong này , họ cần tránh nạn mù chữ chú Cang biết không đó là lệnh trên Trung Ương Cục chỉ đạo ...Chú nhắm được tôi sẽ cho anh em chuẩn bị dựng lớp ngay chỗ căn hầm kế nhà anh nuôi, tôi nhắm chỗ đó đủ rộng cho chừng 100 người ngồi chú nghĩ sao
- Trời gì mà đông quá dzậy anh Tám , thôi chia hai , hay chia bốn càng tốt anh Tám à , Lớp sáng lớp trưa lớp chiều và lớp tối ...Làm như vậy rất tiện lợi cho anh em theo học , hơn nữa công tác của căn cứ không bị đình trệ , tùy vào ai rảnh giờ nào thì vô lớp giờ đó , hay muốn  theo hai lớp cũng được đâu có sao
Tám Nhang nghe nói mừng rỡ
- tôi sợ chú mệt đứng lớp không nổi chứ !
- dạ anh Tám chọn thêm chừng ba người nữa cùng đứng lớp với em có như vậy mới dễ dàng và hiệu quả
Tám Nhang vò đầu bứt tóc
- biết tìm đâu bây giờ , trong đây đâu ai có văn hóa đủ khả năng đứng lớp chú ơi , Biết đọc biết viết như thằng Minh cũng chỉ đếm được vài ba người
Cang sáng mắt mừng rỡ
- Được đó anh Tám , mình phân biệt ra bốn lớp , có lớp vỡ lòng , lớp tập viết , lớp tập đọc và lớp văn hoá ...Để cho mấy người như Minh đứng những lớp kia , có thắc mắc gì em sẽ phụ giảng , còn em sẽ đứng lớp văn hóa anh Tám thấy sao
Tám Nhang như gỡ được trói reo vui , móc túi lôi ra bọc thuốc rê thảy lại trước mặt Cang nói
- Nè vấn thuốc đi chú , thuốc Gò Vấp đó nha tôi nhất trí với chú ...
Cang lấy gói thuốc vấn một điếu đưa lên môi châm lửa , sau khi nhả khói
- chà thuốc này ngon quá anh Tám , lâu ghê mới thấy được mùi thuốc này , đâu thua gì Ruby hả anh tám
Tám Nhang lấy làm hãnh diện nói thêm
-Đã nói rồi thuốc này là Gò Vấp thứ thiệt đó nhờ mấy anh trên  T bữa trước về thành mua hộ đó chứ ở gần đây có tiền cũng không có thuốc chú à ..Nói xong Tám Nhang lấy gói thuốc cuốn lại cẩn thận nhét vào túi xong chống gối đứng dậy
- Chuyện tôi trao đổi với chú hôm nay , chúng ta sẽ bắt đầu từ tuần sau nha chú , chú viết dùm một cái thông báo dán ở nhà Nuôi cho anh em biết mà lo đăng ký , còn tôi sẽ cố kiếm ít tập vở học trò , ít phấn một cái bảng chú thấy cần không
- Dạ cần chứ anh , nếu được xin anh cho một ít cây viết chì nữa cứ tính một tập vở là một cây viết chì nheng
- rồi nhất trí để tui cho người lo vụ này
Ba ngày sau Tám Nhang cho treo một tấm bảng đen khá to trên vách căn hầm kế bên nhà anh nuôi , và giao cho Cang 100 cuốn vở học trò cùng với 100 cây viết chì ...Tám Nhang cũng không quên kiếm cho Cang đủ ba người phụ giáo Minh , Thành và  Thu
Minh thì Cang đã biết học lực mới có lớp ba , còn Thành   thì mới hết lớp tư
Đặc biệt là Thu , có biệt danh là Thu Ba , vì cô tên Thu lại là thứ Ba nên anh em cho đọc ngược lại . Thu Ba người Đà Nẵng , không biết do ai móc nối mà trôi dạt tới đây , Thu Ba gia nhập mặt trận lúc còn rất trẻ , khi nàng mới có mười lăm ,  Thu Ba học xong lớp nhất thi bằng tiểu học không đậu ..Giận đời , nghĩ rằng thày HT cũng là ông Trưởng Ty Tiểu Học trong tỉnh lỵ đã cố tình đánh rớt mình , vì thế Thu Ba kiếm cách trả thù ... Thày Hiệu Trưởng có đứa con gái tên Liễu bằng tuổi Thu Ba , nên dễ làm quen và trở thành bạn , hôm đó Thu Ba rủ Liễu đi tắm sông , biết Liễu bơi không giỏi Thu Ba vẫn dìu Liễu ra tới giữa dòng , nước chảy xiết Thu Ba vờ như đuối sức buông Liễu ra , thế là Liễu không chống cự được với dòng nước chảy mạnh , Liễu chết , Thu Ba sợ nên tìm cách vào Bưng ...Thu Ba không đẹp , da đen tóc dài có duyên , đang công tác ở đội anh nuôi ......Lúc này Cang đương nhiên trở thành " Cán Bộ Văn Hóa " và là thủ trưởng của trường văn hoá bổ túc , trưa đó Cang cho gọi cả ba người đến gặp Cang làm việc
Cả bốn người ngồi chồm hồm chụm đầu vào nhau , hút thuốc rê làm việc
sau khi đã giới thiệu biết nhau Cang lên tiếng trước
- Như các chú đã biết đây là vấn đề trọng đại  , chúng ta đang là những chiến sĩ cách mạng chống nạn mù chữ ...Tôi muốn các chú và cô Thu Ba phải phấn đấu triệt để hy vọng sau một năm chúng ta sẽ đạt chỉ tiêu , các anh em lớp vỡ lòng sẽ biết đánh vần , lớp tập đọc , sẽ biết coi nhật trình ...lớp tập viết sẽ có thể tự viết được những bức thư gởi về thăm nhà chứ không như bây giờ các chú ấy phải nhờ anh em viết dùm ...còn lớp văn hóa do tôi đảm nhận ...
Đó còn ba lớp vậy tùy vào khả năng các chú muốn chọn lớp nào cho tôi biết ...Nhớ là chúng ta phải thành lập chương trình và có giáo án trươc khi vào đứng lớp , tôi không muốn chúng ta làm thì láo bá cáo thì hay như các cán bộ trong đây thường làm , chúng ta là cán bộ văn hoá phải nêu gương sáng cho mọi người , không được như thày trò thì cũng phải đạt được tương tự như thế , các chú quán triệt chưa , ba tiếng  Dạ cất lên rất râm ran rõ ràng
Minh nói , tôi xin anh Cang cho tôi đảm nhận lớp  vỡ lòng 
  Không được , lớp vỡ lòng nên để cho Thu Ba đảm nhận , bởi vì là lớp cơ bản nếu cơ bản hỏng thì sau này sẽ hỏng , như xây nhà mà nền không vững, xi măng cốt trúc thì sẽ xụp thôi ...Đề nghị hai chú đảm nhận hai lớp kia thôi vầy nhé chú Minh lớp đọc , chú Thành lớp viết , nhất trí chưa , nếu đã nhất trí thì buổi làm việc đến đây chấm dứt ...Tôi sẽ bá cáo việc này tới anh Tám , để giảm bớt công tác cho các chú . Cả bốn người đưa tay chống đầu gối đứng lên miệng hô
- Nhất trí !
Thế là lớp văn hóa bổ túc đã được thành hình , đã có nơi để học , là căn hầm cạnh căn tin nhà bếp Hoàng Cầm ..Đã có đầy đủ học cụ như bảng như phấn tập và viết chì , nay lại thêm ban giảng huấn thật là hùng hậu , tinh thần cao do Cang chỉ đạo , bây giờ chỉ còn tùy vào các chiến sĩ kháng chiến quân có chịu khó để đăng ký theo học hay không mà thôi , thông báo đã dán rồi mà sao chưa thấy người đăng ký , việc này chắc phải nhờ anh Tám qui tụ và lên lớp một buổi thì may ra mới có người theo học
Buổi lên lớp được tổ chức ngay trong căn hầm mà sau này sẽ là phòng học :
Mở đầu anh Tám Nhang nói :
- hôm nay tôi cho gọi các anh về đây là để giới thiệu với các anh ban giảng huấn trường học " Khai Hóa ' của chúng ta :
xin các anh cho một tràng pháo tay cho thày Tư Cang ... Là cán bộ văn hóa nồng cốt của trường ...Anh Cang sắp thi bằng thành chung với đầy hy vọng sẽ đậu cao nhưng vì nghĩ cái bằng thành chung do ngụy quyền cấp phát sẽ không có chất lượng nên anh Cang đã vào đây theo Cách mạng ...
Rồi lần lượt Tám Nhang giới thiệu tương tự ba người kế tiếp , cứ mỗi người được giới thiệu Tám Nhang đều ngưng chừng 30 giây , để xin anh em cho một tràng pháo tay , thế là cả căn hầm tiếng vỗ tay rào rào , thật là hoành tráng
Sau hết Tám Nhang đã mượn câu nói của cụ Phan Bội Châu mà rằng :
- chắc các anh cũng nhất trí với tôi : Tiếng Việt còn , thì người Việt còn , đất nước Việt Nam còn chúng ta sẽ đánh cho Mỹ cút ngụy nhào quyết định đạt được thành công , nhất trí ...Chờ cho tiếng hô nhất trí của cả hơn một trăm người cùng tiếng vỗ tay râm ran tưởng như không ngừng xong Tám Nhang đưa tay ra hiệu chấm dứt ....

    Sau buổi lên lớp của Tám Nhang quả thật có kết quả rất tốt , các kháng chiến quân thi đua nhau đăng ký , cho cả bốn lớp , mỗi lớp được chừng gần 30 người
Tư Cang cho chia ra thời khóa biểu như sau
- lớp tập đọc do Minh đảm nhiệm học buổi sáng sớm   , lớp tập viết từ sau giờ ăn trưa   , sau đó là lớp vỡ lòng do Thu Ba đảm nhận buổi cơm chiều, lớp văn hóa của Cang chỉ học một tuần ba giờ thứ hai thứ tư và thứ sáu ..Phòng học cũng lưu động tùy vào lúc nào có phòng trống , còn ba lớp kia học 2 giờ mỗi ngày
Việc lấy tư liệu để dậy , Minh phải đi thu tất cả các tờ nhật trình cũ mới gì cũng được miễn là còn có chữ và có thể đọc được mang vào lớp , sau đó Minh tự đọc một đoạn thông tin xong chỉ thị cho người kế tiếp đọc những thông tin kế tiếp , việc học thật là uyển chuyển và đạt hiệu quả cao . Minh thường ngồi nghe sau đó giải thích cho tất cả các học viên hiểu phải ngắt câu ở đâu , ngưng nghỉ lấy hơi cho đúng nơi đúng chỗ tương tự như ca Vọng Cổ phải biết ngân biết lên biết xuống theo tiếng đàn ... Các học viên rất lấy làm hồ hởi
-Lớp tập viết cũng tương tự , Thành đi thu được những quyển truyện ngắn những tờ đặc san của các bộ phận trước đây làm để mừng xuân đón Tết , rồi lấy các bài ngăn ngắn trong đó , đọc cho các học viên tập viết như viết chính tả , chỉ có một điều trở ngại nếu tập viết như thế sẽ rất tốn giấy ,đa phần các học viên viết thì ít mà xé vất đi thì nhiều  Thành đã bá cáo lên trên mà vẫn chưa được giải quyết 
Lớp vỡ lòng của Thu ba , cũng không có trở ngại , Thu Ba cho tập viết và học thuộc lòng 26 chữ cái trước , thời gian này đã chiếm hết hơn một tháng các học viên mới đạt chừng 50% nhận được mặt chữ ...Vì là lớp cơ bản cần phải học tập thật kỹ nên chiều chiều Cang hay đến lớp để phụ Thu Ba đứng lớp cho nghiêm chỉnh , khi Thu Ba đứng giảng trên bảng thì Cang hay ngồi chung với các học viên chỉ bảo riêng một cách tận tình ...Nhờ vậy thành quả cũng tốt hơn
Lớp văn hóa của Cang , lúc trao đổi với Tám Nhang Cang đã hăng say phóng đại , chứ thực sự Cang chẳng biết sẽ hướng dẫn điều gì cho các cán binh đã biết viết đọc  tạm , nhưng lỡ phóng lao rồi thì phải theo lao
Hôm vào đứng lớp Cang lần đầu
- Thưa các đồng chí , như đồng Chí Tám Nhang đã nói , hôm nay tôi chỉ nhấn mạnh thêm : Ca dao còn thì dân tộc Việt Nam còn " từ rất xa xưa ca Dao đã đi vào lòng của dân tộc ta , qua các câu nói hằng ngày qua các bài ca quan họ , qua các khúc hát ru em , như vậy ở lớp này tôi xin giới thiệu với các đồng chí một số ca dao hay những bài hát ru con từ thuở còn nằm trong nôi mà tôi còn nhớ , song song với việc này , sau giờ học nếu đồng chí nào , nhớ những câu hát thì xin biên lại thứ tư đưa cho tôi , rồi chúng ta cùng đào sâu , những câu hò bài hát ấy các đồng chí nhất trí không
Tất cả gần ba mươi cái miệng đều hô to
- Nhất trí ,cùng tiếng vỗ tay rào rào

Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 13:06 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3612
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #146 - 26. Aug 2013 , 18:37
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU

CHƯƠNG IV

Đợi tiếng vỗ tay chấm dứt , Cang cầm phấn viết lên bảng câu :

" dzí dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó đi
Khó đi mẹ dẫn con đi
Con đi trường học mẹ đi trường đời "
Đây là bài hát ru em Nam bộ của chúng ta , đấy các đồng chí thấy từ ngàn xưa các cụ đã đoán được ngày hôm nay chúng ta có những lớp học như thế này , trong câu chót này :
" Con đi trường học mẹ đi trường đời " tả cảnh hai mẹ con cùng phải đi học , con đi học chữ , còn mẹ cũng phải phấn đấu tránh nạn mù chữ cố học chữ quốc ngữ để giúp đời ...
Đại khái Cang cứ thuộc câu nào nói câu nấy và dĩ nhiên là nói thao thao như con vẹt , chả biết đúng hay sai , cứ nói xong thì kêu gọi học viên cho một tràng pháo tay thế là tất cả đều vui vẻ
Hay :
" con cò con vạc con công
Sao mày dẵm lúa của ông vậy cò
Không không tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái vac nó ngờ cho tôi
Không tin ông đến mà đôi
Mẹ con nhà nó  còn ngồi ở kia "
Thưa các đồng chí lại đây là bài hát ru em từ miền bắc bộ , bài này cho chúng ta thấy rõ bọn cường hào ác bá phú ông ... Chỉ buộc tội cho những người lao động bần cố nông như Cò , rồi nữa các cụ cũng đã nói lên được , cung cách của xa hội ta thời bây giờ , nếu cần thì lập ngay một toà án nhân dân để xét xử , tránh những hàm oan bất công trong xã hội ...Bài hát hay quá phải không các đồng chí , xin một tràng pháo tay ...
- Nói thao thao như vậy nhìn đồng hồ cũng đã gần hết giờ , Cang dặn
Các đồng chí nào chưa thuộc hai bài hát này xin lấy tập vở ra chép lại và học thuộc lòng , chép xong thì giải tán , nhớ lần sau ai có những câu ca dao hay các bài hát ru em nhớ đưa cho tôi nhé để chúng ta cùng đào sâu học hỏi , chào tất cả
Thế là Cang buông cúc phấn bước ra trong tiếng vỗ tay
Cứ như thế một tuần ba lần , lớp văn hóa của Cang trở nên vui nhộn và hào hứng , học viên tăng lên , Cang vẫn lấy các bài hát ru em để làm giáo án học tập , mà bài nào Cang giảng cũng là bài có lợi bài đó cứ như là viết riêng cho cánh Mạng , còn bài nào không lợi thì Cang bỏ qua một bên như :

“Con cò lặn lội ven sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng hát nỉ non
Còn giời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa "

Cang cho rằng ủy mị văn hóa đồi trụy , không nêu cao tinh thần phấn đấu của Cách mạng , làm cho tình thần anh em xuống thấp ...
Nhưng thời gian trôi qua những câu ca dao những bài hát ru em cũng dần cạn ...Cang liều đưa cả thơ của các nhà thơ lớn vào chương trình học tập ...Cang nhớ câu nào thì cho học tập câu nấy chẳng hạn :

             "Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông
Một người chín nhớ mười mong một người "

Hai câu thơ này của Thi Sĩ Nguyễn Bính Cang diễn giải như sau , các đồng chí thấy chưa Nguyễn Bính là nhà thơ của Cách mạng , thôn đoài đây là miền tây có thành phố Sài Gòn , còn thôn đông ý chỉ vùng đất Tây Ninh có Cục R của chúng ta đóng ở đó , như thế đã rõ ,những người trong thành đang mong đang ngóng chúng ta về Giải Phóng
       Hay là :
          " Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn
...
Giá đừng có giậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng "

    Tới đây thì không còn gì để chối cãi hay phản biện là Nguyễn Bính không phải là nhà thơ của Cách Mạng
Các đồng chí thấy , chỉ có một cái giậu mùng tơi , thân trai  như Nguyễn Bính hay chúng ta chỉ nhẹ gót là vọt qua ngay , thế mà Nguyễn Bính phải ao ước cái giậu kia đừng có , bởi vì cái giậu mùng tơi chính là ranh giới ngăn cách tầng lớp tư bản và vô sản ...Mà chủ thuyết xã hội là đại đồng là xóa bỏ cách ngăn , là bình đẳng xã hội , làm thế nào để xóa đi cái giậu mùng tơi kia chắc các đồng chí đã biết , chính vì vậy mà chúng ta phải ngồi đây hôm nay để cống hiến đời trai cho non sông cho dân tộc ,để tranh đấu nhất định tiến tới thành công là xóa tan mọi ranh giới giầu nghèo , phải tiêu diệt giới địa chủ , lũ cường hào ác bá hút máu nhân dân Các đồng chí có nhất trí không
lại một tiếng hô đồng loạt
-      Nhất trí và tiếng vỗ tay  râm ran …
Từ ngày lớp học bổ túc được thành hình hoạt động hữu hiệu , Cang rất hồ hởi , bận rộn với công tác , giúp các lớp khác, cũng như chính lớp của Cang thành lập giáo án ...Ngày không phải đứng lớp thì Cang lại mon men đến lớp học vỡ lòng để giúp Thu Ba ... Kể từ đó hai người trở nên thân cận , Thu Ba thường hay tranh thủ lấy thêm thức  ăn dưới nhà bếp để hai người có thứ mà bồi dưỡng , rồi họ ăn chung ...Cang đã quên hẳn chuyện nhà , chuyện cô Út Lành .Cũng đã hơn hai năm kể từ ngày Cang vào bưng , thế mà chưa được một lần về thăm
Ngày nọ Cang bị cảm sốt nhức đầu và chảy mũi , Thu Ba rất lo lắng sang tận nơi chăm sóc cho Cang , từng chén cơm ly nước.
Trong cơn nóng sốt , Cang cảm động đưa cánh tay quàng lấy vai Thu Ba kéo nằm xuống tấm chiếu trải ở góc hầm , giờ này tất cả đã đi lao động , Căn hầm chỉ còn hai người , Thu Ba có thể gỡ tay Cang ra được nhưng không hiểu tại sao Cô cũng ngả người theo , và môi chạm môi , họ hôn nhau thắm thiết
Nửa tiếng đồng hồ sau Thu Ba ngồi dậy thút thít khóc ...
- Bây giờ biết làm sao ? nếu để trên biết được chúng ta hủ hóa , thì chắc chắn sẽ bị , cách ly và hạ tầng công tác
Cang nghe thế cũng vội ngồi bật dậy
- Em đừng lo , anh sẽ xin phép với cán bộ trên khung , sau đó chúng ta làm đám cưới với nhau thì đâu còn là hủ hóa nữa đúng không  ?
Nói là nói vậy để an ủi Thu Ba , chứ quả thật Cang cũng hiểu bây giờ mà xin được phép cưới hỏi nhau trong cùng bộ phận như thế này rất khó , vì chiến dịch " tam khoan" đang được phát động
_" khoan yêu
Nếu lỡ yêu rồi thì khoan lấy
Nếu lỡ lấy rồi thi khoan đẻ "
Họ sẽ viện cớ vì nhưng lý do này mà làm khó dễ ngăn cản ...
Mà cố tình vi phạm thì việc gì sẽ xẩy ra Cang và Thu Ba đều rõ
Nhưng biết làm sao hơn bây giờ , họ đã yêu nhau từ lúc nào không biết , cho đến sáng nay khi bàn tay của Cang chạm vào người Thu Ba thì như có một lực thu hút mà cả hai người không thể tách ra được
Cang thở dài
- thây kệ tới đâu thì tới
Họ đã nghĩ tới cách liều lĩnh là bỏ bưng trốn về thành , nhưng chỉ nghĩ tới thôi đã thấy lạnh người vì họ mường tượng ra những lần xử các tội phạm trước ... Không tiếc một viên đạn tặng cho những người can vào tội phản đảng ...
Sau đó họ vẫn lén lút yêu nhau , khi ngoài rừng lúc sau bụi chuối bên bờ suối ...Và cái khó giải quyết nhất là một ngày Thu Ba thông báo cho Cang biết là nàng đã có bầu ...Một đứa con mà cả hai đều không muốn có trong giai đoạn này , Cang xúi Thu Ba đi phá , nhưng biết tìm ai giúp , nàng đã cố tình lăn xả vào công tác cố ý vác những vật nặng quá sức chỉ mong rằng sẽ hư thai , nhưng cái đứa trẻ oan nghiệt kia hình như ông trời đã bảo vệ , nó cứ trơ trơ và mỗi ngày mỗi lớn ...
Rồi chuyện gì đến đã đến , trong lán xầm xì chuyện Thu Ba đang có chửa ...Với  ai !
Không để cho chuyện đó kéo dài lâu , Tám Nhang cho gọi Cang lên khung
- Đồng chí biết tại sao tôi cho gọi đồng chí lên làm việc hay không ?
Nghe Tám Nhang gọi mình bằng đồng chí thay vì chữ chú xưng anh thân mật như thường xẩy ra , Cang bắt đầu lo
- Thưa anh Tám không
Sắc mặt Tám Nhang thêm lạnh lùng
- Người ta đang đồn rằng Thu Ba đã có chửa và người gây nên cái bầu oan nghiệt kia là Đồng Chí , điều đó có đúng không ?
Cang mặt mày tái mét năn nỉ
- Thưa anh tám em và Thu Ba yêu nhau thật lòng ...Chúng em muốn lấy nhau và em nhận hết trách nhiệm do mình gây ra
- Đồng chí nói thì dễ nhưng mặt trận đang cần những thanh niên thanh nữ , để cùng phấn đấu đánh đuổi Mỹ Ngụy bây giờ hai người chỉ biết ích kỷ , thương yêu nhau , lo cho nhau rồi người khác cũng vậy thì hỏi còn ai lo cho non sông cho dân tộc ...Hơn nữa hai đồng chí chưa được phép quan hệ tình dục mà bây giờ Thu Ba đã có bầu , việc này không phải nhỏ , hai đồng chí mang tội gì biết không ? Hủ hoá , tồi bại
Cang chỉ còn biết ngồi lặng thinh đưa đôi mắt lạc thần mà nhìn Tám Nhang kết tội
- Thôi được rồi tôi cho đồng chí biết thế và để cán bộ khung trao đổi với nhau xong sẽ áp dụng , và cho đồng chí biết sau , à mà nhớ đừng nghĩ đến những chuyện liều lĩnh như phản đảng nghe chưa , tôi cho chú biết không thoát được đâu , chi bằng ở lại chịu hạ tầng công tác tôi sẽ cố gắng làm việc với các cán bộ trên khung can thiệp cho đồng chí càng nhẹ tội càng tốt , vì bao nhiêu công tác đồng chí đã hoàn thành rất tốt đẹp ...Thôi Đồng chí về đi và tiếp tục công tác như chưa có buổi làm việc hôm nay , khi nào khung ra lệnh thì mới thi hành
Cang đứng dậy chào Tám Nhang  bước ra , lòng đầy ngao ngán thôi thì cứ kệ :
“ cũng liều nhắm mắt đưa chân
Thử xem con tạo xoay vần về đâu”.
Rừng chiều , đang mưa , giờ này Thu Ba đang đứng lớp , Cang cũng chán nản không muốn ghé , Cang về lán chui đầu vào móp nằm bẹp như một xác chết
Hai tuần lễ sau Tám Nhang lại cho gọi Cang lên làm việc
-nhờ vào thành tích công tác tốt , luôn nêu cao tinh thần phấn đấu để tránh nạn mù chữ cho các anh em kháng chiến quân ...Nhờ vào đức độ cách mạng luôn phục vụ tốt , không hề đòi hỏi thăm nhà đã dứt khoát ly khai gia đình   ...Với những ưu điểm đó tất cả cán bộ trên khung trao đổi với nhau và quyết định , chỉ hạ tầng công tác đồng chí ...
Từ nay lớp văn hóa của đồng chí được Thu Ba đảm nhận , cô ta không có tội gì , tất cả là do Đồng chí gây nên , Thu Ba chỉ là nạn nhân của sự thiếu nhân phẩm thiếu đạo đức mà đồng chí đã tạo cho nàng phải mang bầu ... Thu Ba sẽ sinh con và con đó sẽ trả lại cho xã hội ...Đó là món nợ ân tình mà đồng chí còn thiếu tất cả anh em và nhân dân ...Công tác mới của đồng chí là gia nhập pháo đội do đồng chí Thôn làm thủ trưởng , vậy sau đây đồng chí phải khẩn trương đến nhận lãnh công tác mới ...Đồng chí còn có điều gì không bằng lòng với việc hạ tầng công tác này , cứ nêu lên chúng ta cùng nhau giải quyết
- Thưa không , cám ơn anh Tám cùng cán bộ trên khung đã nhẹ tay và nhất là không có hình phạt đến với Thu Ba , điều đó là chính đáng em gây ra thì chỉ mình em chịu trách nhiệm
Tám Nhang cho xử vụ việc rất công bằng , phạt nặng Cang nhưng nâng cấp Thu Ba ...Không phải vì Thu Ba không có lỗi , nhưng vì thiếu cán bộ văn hóa , nếu hạ tầng luôn cả Thu Ba thì lấy ai đứng lớp ..Còn có một điều thầm kín nữa mà chỉ riêng Tám Nhang biết , đó là từ khi để ý Thu Ba xem nàng có thật mang bầu không ! thì tự nhiên Tám Nhang thấy Thu Ba có những điểm khêu gợi , mà từ lâu rồi Tám Nhang không để ý
Nhất là khá lâu rồi Tám Nhang không dám về thăm nha , từ cái đêm bị bắn hụt ...
Đêm ấy Tám Nhang về thăm vợ , trời mới tối hai người vào giường , Tám Nhang để nguyên đèn sáng , chị Tám cứ ngỡ chồng thèm khát vội vã nên cũng chả nên tiếng phàn nàn
Giữa lúc hai người đang hùng hục ... thì bọn lính trên đồn kéo đến bao vây nhà của Tám Nhang , , bọn chúng nhìn qua kẽ lá thấy rõ mồn một qua lớp vải màn trắng Tám Nhang đang làm tình với vợ   ...Nên ngây người đứng ngắm
Có tiếng đạp cửa bước vào , thấy động Tám Nhang tay quơ cây đèn dầu tắt ngủm , rồi tay ôm quần áo phóng ra ngoài , nhờ ánh đèn bị tắt bất ngờ làm cho bọn chúng bị chóa mắt không kịp phản ứng Tám Nhang cắm đầu chạy miết trên đường ruộng không dám ngừng vì có những loạt đạn còn bắn theo ...Cả nửa tiếng đồng hồ sau Tám Nhang chậm lại nghe ngóng và chắc chắn không còn ai đuổi theo , Tám Nhang mới dừng chân bên một lùm cây để mặc quần áo ...
Từ đó đến nay cũng đã gần cả năm với số tuổi 40 đang sung mãn , Tám Nhang nhìn thấy Thu Ba tự dưng khó cầm lòng , nhất là bây giờ Thu Ba đang mang bầu thì có gì chăng nữa cũng chả thay đổi Tám Nhang mỉm cười nham hiểm " chỉ là thêm tay thêm chân thôi " ai biết mà lo , cái thằng gây ra tội thì đã bị đẩy đi rồi ...
Phần Thu Ba cũng sẵn sàng chịu tội nếu mà Tám Nhang cho gọi lên làm việc nhưng không , Thu Ba đã không bị Hạ tầng công tác mà lại còn cho đảm nhận luôn chức vụ Cán Bộ Văn hoá thay thế cho Cang , ơn này do Tám Nhang cứ nhắc đi nhắc lại với Thu Ba , nhờ anh can thiệp mới được như vậy , ...Có ơn thì phải trả mà trả bằng cách nào , chỉ còn biết chiều chuộng Tám Nhang khi hắn đòi hỏi mà thôi, không vốn mà có mất mát gì đâu , khi giao du với Cang Thu Ba cũng chỉ là muốn thoả mãn bản thân , cũng như trả ơn cho Tư Cang đã giúp đỡ chứ nàng đâu có tình yêu với Cang ..Trước kia khi ân ái với Cang thì còn nhiều lo sợ , chứ bây giờ đối với Tám Nhang thì khác hẳn , còn ai dám bắt tội Nhang , mà lấy gì làm bằng chứng để bắt tội Tám Nhang , cái bầu này là do Cang gây ra và Cang đã lãnh nhận ...
Nói về Cang , khi đã biết rõ mình bị hạ tầng công tác , cho ra toán Pháo đội , Cang về lán gom chút quần áo , không quên lấy luôn cây dao găm , hai trái lựu đạn và lọ thuốc rắn của Chiến mà Minh đã giao cho từ ngày mới vào bưng , Tất cả bỏ vào cái túi sách tay mà Cang đã mang từ ngoài vao đây , chào bạn bè rôi đi qua lán bên cạnh tìm gặp Thôn , để nhận công tác.
Thôn có bí danh là Thôn Lèo , có dáng người cũ kỹ da mốc thếch đen đủi giống nông dân hơn là anh cán binh kháng chiến cách mạng , Thôn đang ngồi hút thuốc lào .
Cang bước tới trước mặt Thôn giơ tay chào miệng nói
- Dạ chào anh Thôn , tôi là Cang , sáng nay được  anh Tám Nhang nói qua đây nhận công tác với pháo đội , , không biết anh Thôn có nghe anh Tám hay ai nói tới điều đó chưa
Thôn nghếch hàm nhả khói rồi gục gặc cái đầu miệng nói
- Có tôi có nghe nói và cũng có ý đang chờ chú đây ...Hút thuốc không ngồi xuống đây làm một điếu rồi anh em mình nói chuyện
Cang kéo ống quần cho cao lên rồi ngồi xuống đất bên cạnh Thôn đưa tay móc bọc thuốc rê ra mời lại Thôn
- Dạ tui không hút được thuốc lào , tui có thứ này anh Thôn vê một điếu nhé
Thôn mừng rỡ
- được được cám ơn chú , chú đang công tác bên văn hóa trước đây đúng không , sao anh Tám lại đưa chú qua cho tôi nhỉ ?
Cang đưa tay vò đầu
- chuyện dài dòng lắm anh Thôn à , từ từ rồi anh cũng biết , hoặc bữa nào rảnh tui sẽ kể anh nghe
Thôn châm lửa điếu thuốc rê phực cháy rồi phun khói trắng bay đầy trong không khí ẩm khói không bay cao được
- Ừa , chú có biết bên pháo đội mình đang  làm gì không ?
- Da cũng chỉ nghe nói chứ chưa quán triệt thưa anh Thôn !
- Dạo này trong chiến dịch khuấy phá thành thị để giải vây nông thôn , ở trên họ muốn chúng ta mỗi đêm phải mang súng đi bắn vào thành , không nhiều mỗi đêm chừng từ năm tới mười trái ...Đội ta có tất cả là năm anh em , nay thêm chú là sáu , chúng ta có một 61 , một 82 ba súng trường bá đỏ , , mọi khi tôi cũng phải phụ mang đạn , nay có chú thì tôi khỏi , một người mang nòng phóng , một người mang chân và một người mang đạn , cứ thay phiên nhau chú ạ , tôi  sẽ chia cắt rất công bằng ,...Chú theo tôi tới đây
Cang đi theo Thôn tới một căn hầm khác ở đó có cửa khóa cẩn thận ... Thôn mở cửa , bên trong lộ ra những cây súng lạnh như thép nằm im đấy chờ đợi ..., đây là kho vũ khí và đạn dược của ta , mỗi chiều các chú đến đây nhận lãnh súng đạn rồi tôi đưa đi đào hầm bố trí ...Sau khi bắn xong , chúng ta quay trở về nếu không có gì trở ngại thì súng đạn lại được bỏ vào đây , không ai được mang súng về lán ...Chú đã biết bắn súng trường chưa
Cang lắc đầu , Thôn tiếp
- Bữa nào rảnh tôi sẽ hướng dẫn chú cách bắn súng và cách lau chùi , súng đạn phải cần được lau chui thật sạch thì mạng mình mới an toàn chú ạ , công tác của chúng ta không khó , cũng không quá nguy hiểm nhưng đôi khi cũng đụng đầu chúng hay bị lộ lưng chạy thục mạng chứ không phải là tối vác súng đi bắn chơi , khuya vác súng về , rồi cả ngày nằm ngủ , mà được nuôi ăn ...Đi vài ba tối chú sẽ hiểu thêm lời tôi nói , chú thử nhấc cái nòng phóng này xem nặng nhẹ thế nào , , Cang cúi xuống dùng cả hai tay ôm nhấc bổng lên
-Ừa cũng không nặng lắm
- tôi đâu nói với chú là nó nặng , nhưng đường đi trên ruộng ban đêm lại đi xa , rồi nó sẽ nặng dần , chú sẽ nhận thấy ...Thôi chúng ta ghé qua Lán tôi giới thiệu chú với 4 tên kia trong đội để làm quen , cũng như cho chú tìm được chỗ ngủ sáng mai ....


Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 13:35 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3612
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #147 - 26. Aug 2013 , 18:39
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU 

CHƯƠNG V

Gọi là lán chứ thực ra đó chỉ là một khúc quanh của căn hầm , vừa tối vừa hôi mùi ẩm thấp ...Gặp 4 người kia đang ngồi nhai khoai mì , đó là Hương , Tâm , Sanh ,và Nhiều , sau khi Thôn giới thiệu Cang , chào hỏi xong xuôi , Cang cũng được mời ngồi xuống cùng nhai khoai mì với họ Thôn nói :
- Đội chúng ta không theo nhà bếp của D , mà cũng không có anh nuôi , vì chúng ta đi về thất thường , khi họ đang ăn thì mình cần phải đi , khi họ đã ăn xong mình mới về tới , bởi vậy đội ta được lãnh khẩu phần  tươi mang về tự nấu lấy ...Vấn đế nấu nướng cũng chia phiên , không được tị nạnh , còn hôm nào kiếm được thêm những món ăn cải thiện thêm cho bữa ăn thì khác có thể cùng nhau nấu nếu phiên người đó không biết nấu món đó như thế nào ....Nếu anh em không tiếp tay để hắn tự biên tự diễn rồi làm hư món ăn thì uổng phí  vì ăn không được , ấy nhưng khi nhờ người khác phụ mình nấu ăn thì khi tới phiên của họ mình cũng phải lo trả công ...Thôi từ từ thì sẽ hiểu ...
- Ăn xong tụi bay dẫn Cang tìm chỗ ngủ nha , hướng dẫn thêm cho Cang những gì Cang chưa biết , đang từ cán bộ văn hóa nay xuống nhập đội mình chắc sẽ có nhiều bỡ ngỡ lạ lùng lắm đấy , từ nay 6 anh em mình coi nhau như chân như tay , vì  rồi sống chết có nhau đó
Hương người có vẻ chững chạc và cũng là người lớn tuổi nhất trong đội thì phải, lên tiếng :
- Anh Thôn khỏi lo , tụi tôi biết điều gì cần làm mà , nhất là anh Cang lại là Cán Bộ Văn Hóa mà chúng tôi cũng có dịp ngưỡng mộ trước đây thì nay gặp dịp cũng phải đối xử cho tử tế mới phải phép chứ ..
Cang xoa hai bàn tay vào nhau :
_ Dạ được các anh cho gia nhập đội và được sự tiếp đón của các anh như thế này tôi rất lấy làm hãnh diện và vui được công tác chung với các anh
Không đợi Cang nói hết Sanh vội nói :
- bữa nào rảnh chúng ta được anh Cang đọc cho nghe thơ Nguyễn Bính thì hết xẩy Nha anh cang nhớ nha
Cả năm người cùng rộ lên cười vui vẻ
Kể từ đó Cang trở thành anh Cán binh , du kích  thực sự , có những buổi chiều anh em còn đang ngồi tán dóc , trời mới nhá nhem tối Thôn xuất hiện thúc hối ,
- Đi chúng ta cần đi sớm , nay lên mạn hướng bắc , đường đi khó lại xa , cần tranh thủ tới đó sớm làm ăn xong về sớm , còn ngủ , không thôi là hết đêm ... Thế là cả bọn lục đục người vác súng trường người vác đạn cối người vác chân kẻ vác nòng ra đi
Những đêm bắn phá như vậy , chỉ chừng hai trái đạn đầu được phóng đi là trong thành đèn điện bật sáng và còi hụ vang lên inh ỏi , rồi trên trời xuất hiện chiếc máy bay đầm già dễ ghét cứ bay tuốt trên trời cao mà nhòm xuống , nó bay qua chừng hai vòng là đạn 105 trong thành sẽ đáp lễ ...Bữa thì rớt xa lắc , có bữa rớt ngay cạnh hầm , , khi mà đạn trong thành phản pháo thì chiếc đầm già cũng tránh xa nên không còn quan sát được , những lúc đó nếu đạn cửa địch còn rớt xa thì tranh thủ bắn thêm đợt hai đợt ba , rồi lo dọn dẹp chém dè ...
Bởi vậy phải thay đổi địa điểm luôn tránh đi trở lại điểm cũ vì máy bay đầm già sẽ quan sát chấm được toạ độ , chúng bắn ra là vỡ đầu bỏ mạng
Mỗi đêm bắn chừng ba đợt , mỗi đợt ba trái , mục đích là khuấy rối làm cho người dân luôn lo sợ nhìn thấy mối bất an trong thành phố mà trở lại nông thôn ..
Từ khi lão điên khùng nghiện ngập Ngô Đình Nhu , cho thành lập chương trình Ấp Chiến lược , nói là dùng nông thôn để giải vây thành thị , phá tan kế hoạch của cách mạng là lấy nông thôn bao vây thành thị
Những người dân ở rải rác trên ruộng đồng của họ , không thể kiểm soát " Ngày Quốc Gia , đêm Việt Cộng " bởi thế chính quyền Ngụy khuyến khích tất cả trở vào lập ấp , trong ấp chỉ có nhà ở và mảnh vườn trồng rau , còn ruộng đồng thì vẫn giữ nguyên , sáng lính quốc gia giữ an ninh cho họ trở ra canh tác như cày bừa , gặt hái ..Chung quanh ấp được cấp phát các cọc sắt và giây kẽm gai để rào rất kiên cố , ngoài ra còn cho lập hệ thống báo động , nếu phát giác đêm có người lạ vào ấp , vì thế bên Cách mạng mất hết nơi nương tựa , mất nguồn lương thực , mất tiền thu thuế ...Bởi thế Cách Mạng cho đi bắn phá thành thị để xua đuổi người dân trở về cố hương ...Ngoài ra Cách mạng còn một đội du kích , chuyên lo đào đường đắp mô và gài mìn , trên các tuyến đường dẫn về thủ đô Sài Gòn của Ngụy quyền
Và ngay ở Sài Gòn hay những thành phố lớn cũng bị đạn pháo của Cách mạng bắn vào , rồi những toán đặc công , gài mìn , cho nổ  " plastics " , gài chất nổ TNT ở những nơi có đông người quy tụ như rạp hát , vũ trường ...
Một sáng kia , hôm đó Cang có nhiệm vụ làm anh nuôi cho đội nên phải sang khu nhà bếp để lãnh thực phẩm tươi ... Tình cờ Cang gặp Trường , người bạn học chung lớp khá thân khi xưa , hai người gặp lại nhau rất mừng rỡ
Trường mới vào bưng tối hôm qua , thế mà họ đã xa nhau gần mười năm , biết bao nhiêu thay đổi trong thành được Trường kể lại
Từ ngày Cang nghỉ học nói là về quê , phụng dưỡng mẹ già đang lâm bệnh ..Tuy nhiên sau đó họ biết là Cang đã Vào bưng theo Cách mạng , từ ông Hiệu trưởng , Thày Viễn va một số bạn bè của Cang đều bị bọn cảnh sát và an ninh mời đi làm việc nhiều lần ...Đâu đã yên , đêm về những người này lại lơm lớp lo sợ , không biết mình có làm gì xích mích với Cang hay không , mỗi lần đang đêm nghe chó sủa là mỗi lần mất ngủ lo sợ biết đâu Cang cho người đến gõ cửa dẫn đi ...Trường nói :
- Tụi tao bị tình trạng " quan tha ma bắt " bởi vậy năm đó tao thi rớt , ...Thế nên tao hận mấy thằng cảnh sát trong thành, ừa mà mày còn nhớ thày Viễn không ?
Cang hối hả
- Nhớ sao quên được thày
- Thày mới chết cách đây chừng hai tháng
- Sao thày chết ?
- đêm đó nhà ổng trúng đạn pháo , cả nhà chết hết luôn
Nghe thế Cang quay mặt đi nơi khác dấu tiếng thở dài thầm nói
- Chiến tranh là tàn ác , không thể tránh được những hy sinh bởi sự lầm lẫn
Hai người còn nhiều chuyện nữa để nói nhưng Trường tới giờ phải làm việc ... Và đấy cũng là lần chót Cang gặp lại Trường vì ngay ngày hôm đó Trường trong nhóm đi R , và ba tháng sau Cang nghe tin Trường chết vì bom B52 ...

Chiến tranh mỗi ngày mỗi leo thang , Thôn cũng đã chết vì bị đạn phản pháo trong thành ra ...Trái đạn rơi ngay kế hố đào của Thôn , đúng là " Trời kêu ai nấy dạ " ...Từ đó Cang phải tạm thời thay thế chỗ Thôn , để đêm đêm thi hành nhiệm vụ , và mới đây ở trên còn chỉ thị cho Cang công tác thêm với đội du kích , ngoài những đêm vẫn pháo bừa bãi vào thành , thì đêm nào đội du kích cần đội pháo đi theo để bắn tiếp hơi cho du kích quân tấn công vào đồn , pháo đội cũng phải đi cùng , bây giờ du kích không còn ẩn mặt chỉ gài mìn bắn sẻ như trước đây nữa , du kích đã dấn thân , đi điều nghiên , sau khi đã điều nghiên rõ ràng từng đường đi nước bước , rồi lập sa bàn thực tập tấn công cho nhuần nhuyễn , sau đó là thực hành , họ đi bắn phá rồi xung phong cướp đồn , những đồn này đa số là những đồn do lính " nghĩa quân " đóng giữ
Một hôm Cang được tư Phong , thủ trưởng của đội du kích cho biết đêm đó sẽ đi làm ăn ...Mục tiêu của đêm đó là ấp Thạnh Trị ...
Nhìn trên sa bàn Cang nhận ra đây chính là làng của Cang nơi có mẹ già đang sống , có Hội Đồng Sang và nhất là có Út lành , và không biết con của Út lành và Cang là trai hay gái , chắc giờ cũng đã lớn bộn , mười ba mười bốn tuổi rồi còn gì !
Cang bồi hồi , ngồi trao đổi với Phong , bí danh Xung Phong , về vị trí đặt pháo cũng như các mũi tấn công của đội du kích ...Ngay chiều đó cả hai đội sau khi đã thực tập trên sa bàn , cả hai đội được nhà bếp anh nuôi cho bồi dưỡng một bữa cơm gà có cả rượu để liên hoan ăn mừng chiến thắng (?)
Sau tiệc liên hoan về , Cang đốt đèn dầu chúi mũi vào địa đồ , điều nghiên  thật kỹ những chấm đỏ , rồi làm những bài toán ..Đạn đạo thật kỹ như lời thơ của Quang Dũng :

"Này anh lính chiến
Người bạn pháo binh ,
anh rót cho khéo nhé
Kẻo lầm nhà tôi
Nhà tôi ở dưới chân đồi
Có giàn thiên lý có người tôi thương "

Và đêm hôm đó họ kéo quân về làng lúc mặt trời vừa khuất bóng , họ đã chọn ngày , trăng hạ tuần ...Nên giờ họ ra đi trời tối đen như mực và đã tính toán thật kỹ chỉ khi đã cướp được đồn lúc đó mới là giờ trăng lên ...Họ rất tin tưởng sẽ thành công nên mới dự liệu như vậy , không sợ đường rút nếu trong trường hợp thất bại , sẽ có trăng sáng khiến địch dễ truy lùng ...Tất cả các bộ phận phải đến điểm hẹn an toàn lúc 11:00 đêm , 11hoahong.gif05 pháo đội sẽ khai hỏa một trái điều chỉnh , đã có ba hoa tiêu chiếm giữ các vị trí cao như những ngọn cây dễ quan sát để điều chỉnh cho pháo bắn chính xác , sau trái điều chỉnh , là ba trái bắn thử , sau đó nếu đạt được chỉ tiêu thi bắn phủ đầu bằng tất cả số đạn mang theo chỉ trừ lại khoảng 10 trái bắn đoạn hậu cho cánh quân rút an toàn , hôm đó Cang cho mang theo 100 trái 61 và 50 trái 82 ...
Sau khi bắn phủ đầu đội du kích sẽ đồng loạt tấn công vào lúc 0:00 giờ ...Thu nhặt chiến lợi phẩm . trong vòng 30 phút ,khi trăng vừa nhô khỏi ngọn cây là chém dè ..Và pháo đội bắn thêm mười trái đạn chót vào đồn như lời tiễn biệt và cũng để chắc chắn không còn ai có thể ngóc đầu bắn theo đoàn quân rút lui ...

Đêm hôm đó , tất cả đều diễn ra rất tốt , chỉ ngoại trừ một trở ngại nhỏ , khi cánh quân bên trái tiến sát hàng rào , hai chiến binh tiền phong tiến lên dùng kéo cắt kẽm gai thì bất thình lình lựu đạn nổ ...Không hiểu tại sao còn xót lại trái lựu đạn đó ...Trong khi chập tối bên đặc công đã được thông báo là tất cả lựu đạn đã được tháo gỡ ...
Trái lựu đạn nổ làm hai chiến binh chết tại chỗ và vì lo lấy xác , làm chậm mất mấy phút
Lực lượng trong đồn , danh sách chính thức là 87 người ...Nhưng con số này không bao giờ đầy đủ , đêm hôm đó con số chính sác chỉ có 65 người tất cả đều bị giết , bởi loạt đạn pháo đã làm chúng chết và bị thương hơn một nửa , , khi quân cách mạng tấn công , thì chỉ còn chừng 20 tay súng bắn hoảng loạn , và chúng cũng đều bị giết sau đó ...
Cang đi theo Phong vào đồn để quan sát thành tích , Trong hơn sáu mươi xác chết nằm kia , Cang cố tìm xem có nhận được ai không , nhưng đa số chúng là thanh niên mới lớn mà Cang xa cách làng cũ đã hơn mười năm nên không thể nhận mặt , chỉ có một xác nằm ngay cửa hầm có đặt máy truyền tin thì Cang ngờ ngợ là chú Sáu Siêng ở gần nhà Cang , Cang lấy chân hất cho xác đó nằm ngửa hẳn lên để nhìn mặt rồi cúi người xuống nhặt cây súng nằm cạnh xác chết  ...Có tiếng còi rút quân Cang và Phong vội vả rời đồn .
Đoàn quân chiến thắng về tới căn cứ địa vào lúc 7:00 sáng trong tiếng hoan hô reo mừng
Cang cho pháo đội mang súng vào kho cất xong thì giải tán để họ về ngủ ...Riêng Cang cứ mãi bồi hồi ,đêm ấy Cang hy vọng sẽ bắt sống được tù binh để Cang hỏi thăm về tình trạng mẹ cũng như Út lành , nhưng không may tất cả đã chết hết ...
Khoảng 5:00 chiều là cuộc họp tất cả các bộ phận , để bình bầu và tự phê ...May mắn Cang gặp được Hùng là cán bộ điều nghiên ...Nhờ khi Hùng tự giới thiệu và nhận xét về cuộc tấn công , chiến thắng , chỉ lên án toán đặc công làm việc xơ ý để cho hai chiến binh bị chết oan , ngoài ra mọi việc đều đạt thành tích tốt
Cang tìm gặp Hùng , để hỏi về gia đình ông Hội Đồng Sang , thì Hùng kể tường tận như sau :
Khi biết Út lành chửa hoang , ông Hội Đồng Sang giận lắm chửi và đánh Út lành một trận thừa chết thiếu sống , sau đó đuổi út Lành ra sống ở cái chòi nuôi vịt ngoài ruộng ...Nhưng đến khi Út Lành sanh con , ông Bà hội Đồng có ghé lại thăm , tự nhiên tình cha con ông cháu thiêng liêng sao đó , vì quá thương thằng nhỏ nên ông Hội Đồng cho Út trở về nhà , năm năm sau khi có chương trình " Người Cày có ruộng " của chính phủ Thiệu , ông Hội đồng thấy ở quê không được an toàn , nhất là cả hai người con trai của ông đã đi sĩ quan ngụy , nên ông đã bán hầu hết số ruộng của ông cho ngụy quyền để họ chia cho những tá điền của ông , rồi đưa gia đình về tỉnh ...Sau đó không biết rõ sống ở đâu ...Mẹ Cang thì đã chết ...
Nhiêu đó thông tin đã an tâm và từ đó vốn đã không  quan tâm đến gia đình đến Út lành , sau này Cang còn lạnh lùng hơn khi biết gia đình ông Hội Đồng Sang cùng Út lành về thành ...Và hai người anh của Út Lành đã trở thành sĩ quan cho ngụy .. Mẹ lại chết rồi , nên Cang không còn lý do gì để vương vấn cái quá khứ mà Cang đã bỏ chạy xa lánh cách đây hơn mười năm
Cuộc chiến tranh tàn sát vẫn diễn ra , đêm đêm Cang vẫn dẫn pháo đội về thành bắn phá ... Ngược lại căn cứ địa cũng có lần bị chúng phát giác , cho máy bay thả bom , rồi xe tăng tiến vào càn quét xóa sách các hầm hố ...Các cán binh của Cách mạng trong vụ ấy chết hơn một trăm người ...Riêng pháo đội của Cang chết ba người và thiệt hại nhất là cây pháo 82 vì nặng quá không kịp mang theo , Kể từ đó tất cả các bộ phận được tụ tập vào sâu thêm trong rừng ...phân tán mỏng mỗi bộ phận một lán nhỏ nằm cách xa nhau , chỉ khi nào cần thiết các thủ trường mới được gọi về làm việc rồi lại trở ra lán ...Giai đoạn này pháo đội tuy bị khiển trách vì làm mất cây pháo 82 nhưng không phải công tác bắn phá hằng đêm như trước ...

Hôm mà căn cứ địa bị tấn công , may mắn cả hai mẹ con Thu Ba đều chạy thoát ...Nhưng dĩ nhiên lớp học chữ bổ túc không còn , nên Thu Ba cũng " thất nghiệp "
Với cái tuổi gần 40 , sống trong điều kiện dinh dưỡng kém , lao động nhiều , nên Thu Ba đã tắt đường kinh hơi sớm , mà khi người phụ nữ tắt đường kinh rồi thì vấn đề ân ái chỉ như là nhiệm vụ chứ không còn mang lại đam mê thích thú , bởi thế để thoát cái cảnh như một cô " Hộ lý " cho Tám Nhang , phản đối thì sợ Tám Nhang trù ẻo ,nên Thu Ba đành xin gia nhập đại đội du kích ..Được mang súng tìm giặc để đánh , lập những chiến công như cướp được đồn địch là niềm vui hãnh diện ...Cho người du kích quân ,
Đêm đó đại đội du kích có nhiệm vụ tấn công một đồn nghĩa quân nhỏ của địch , nằm chận ngay giữa đường giao liên của phe cách mạnh ...Thu Ba được giao nhiệm vụ quan sát để điều chỉnh cho pháo đội
Vì lầm lẫn định sai các vị trí gốc cây bên đường ...Pháo đội đã bắn lệch mục tiêu , thay vì bắn vào đồn , trái đạn quái ác lại rơi ngay vị trí Thu Ba đang ản núp , làm  Thu Ba chết ngay tại chỗ ...Nhưng đêm hôm ấy khi họp để tự phê , thì tất cả đều quy tội cho súng pháo của địch trên thành bắn yểm trợ gây nên cái chết của Thu Ba ...Bởi vậy vì thương mẹ lòng thù hận trào dâng lên lòng  đứa trai trẻ mới mười lăm tuổi ...Thằng Hoá xung phong ngay vào đại đội du kích mong sẽ đi trả thù cho Mẹ , nó sung sướng và thích thú khi được giữ cây súng trường bá đỏ , mặc dù khi đeo súng trên vai , nòng súng muốn chạm đất vì có vẻ như súng dài hơn người
Rồi một buổi chiều kia khi giao liên cho biết địch đang mở cuộc hành quân bố ráp , Đại đội được lệnh sơ tán , tránh đụng độ thì một mình Hoá ở lại , nó leo  lên ngọn dừa ở ngay bìa rừng nằm đó chờ đợi , chiều đó khi cánh quân của ngụy về ngang , súng nó đã được cột cứng vào tàu dừa , nó chỉ việc nhắm và bóp cò ..." cắc bùm " một tiếng nổ khô khan vang ra phe ngụy một thân người ngã xuống , nhanh chóng phe địch đã tìm được chỗ ẩn núp , và họ cho súng nổ xối xả lên ngọn dừa chỗ Hóa đang ẩn núp , sau loạt súng đầu , may mắn Hóa không trúng đạn , nó quá hoảng sợ đã lột áo thung trắng cột lên đầu súng giơ cao lên làm cờ hàng ...Ngụy quân bảo nó ném súng xuống trước , rồi từ từ leo xuống ... họ bắt Hóa và trói hai cánh tay của nó ra đằng sau ...Sau một hồi tra hỏi , Hóa trả lời không biết , trời cũng đã tối nên họ dẫn Hóa theo ...Đi được một khoảng đường , nhìn thấy trời đêm Hóa nghĩ thầm nếu mình phóng chạy may ra thoát được ...vì Hoá đã quen với rừng sâu bóng tối , trong khi đó địch không thích nghi với nơi này , nghĩ vậy và chờ cơ hội Hóa phóng chân chạy thật , nhưng không may loạt đạn đầu tiên Hóa đã trúng đạn và nó chết tức khắc khi hai cánh tay còn đang bị trói , có người chụp được tấm hình này , gởi về R sau đó họ mang ra ngoại quốc tuyên truyền là lính ngụy tàn ác sát hại trẻ em , và sát hại ngay cả tù binh khi tù binh đó đã đầu hàng ....Chuyện này tạo ra một sì căng đan làm cho người sĩ quan Ngụy chỉ huy cánh quân kia bị mất chức đưa ra toà án quân sự sau đó được đưa về làm đồn trưởng nghĩa quân tại ấp Thạnh Trị , Chàng Thiếu úy đồn trưởng này lại chính là Cương con trai của Út lành ... 

Lại nói về Út Lành , sau ngày Tư Cang trốn vào bưng , cả làng đồn ầm rằng Út Lành đã có bầu với Tư Cang , và cái bụng của Út Lành càng ngày càng bự " giấy không thể gói được lửa , hơn nữa Út Lành cũng buồn rầu chán nản vì bị tình phụ nên , một liều năm bảy cũng liều , khi tiếng đến tai ông Hội Đồng Sang Ông cho gọi Út Lành ra mà hỏi
-Mày có bầu với ai ...Thằng nào cho tao biết ?
Út Lành tỉnh bơ trả lời
-Dạ anh tư Cang đó ba , nhưng anh Tư vào bưng rồi !
Ông Hội Đồng mặt đỏ bừng bừng đập bàn hét
-nó vào bưng rồi , sao mày biết , rồi cái bầu đó bay tính sao đây
Út lành lại từ tốn trả lời
- Bác Ba bên nhà cho con biết anh Tư đã vào bưng theo Cách Mạng , còn có bầu thì đẻ chớ sao ba ...
Ông Hội Đồng nghe thế thì càng tức giận ông nói
-A con này mày nói giỏi đó nha , được rồi tao không có đứa con hư đốn như bay , kể từ giờ phút này ra khỏi nhà tao nghe chưa - Bà Hội Đồng thương con gái năn nỉ ,- Ông nói vậy sao được đứa nào thì cũng do mình sinh ra , chúng nó là con mình , bây giờ lỡ dĩ rồi ông từ nó , ông đuổi nó đi , một thân một mình , bụng mang dạ chửa biết ăn đâu ở đâu ...
- Thây kệ nó , ai kêu nó ngu nó dại thì để nó đi chết cho rồi , tôi đâu còn mặt mũi nhìn bà con lối xóm
-Bà Hội Đồng lại xuống nước năn nỉ thêm
-Ông có đuổi nó đi hay giết chết nó thì ông cũng đâu gột rửa được cái tiếng này ,mà coi chừng còn mang thêm tiếng ác với con nữa , thôi tôi xin ông " Con dại cái mang " ông có nóng có giận thì mắng chửi tôi vì tôi không biết dậy con gái , Út mau lại đập đầu xin lỗi để ba tha cho
Nghe má nói vậy Út Lành liền chạy lại trước mặt ông Hội Đồng Sang vừa lạy vừa nói
- Thưa ba con xin lỗi ba đã làm cho ba chịu tiếng xấu ...Xin ba tha lỗi cho con
Ông Hội Đồng Sang không biết nói gì hơn , đành dịu giọng nói
- được rồi , tao lỡ sinh ra đứa hư đốn như bay , thôi thì tao chia gia tài này cho bay ra sống riêng , tao không còn trách nhiệm hay muốn nhìn mặt bay nữa nghe không , Tao cho bay mảnh ruộng bên chòi vịt đó , mảnh ruộng đó cũng gần mười mẫu , nếu biết làm ăn một đời cũng không hết , ừa cho bay luôn bày vịt , thôi thì bay dọn ra đấy trông coi bày vịt thế thằng Tám Bò ăn ở luôn ngoài đó ...
Bà Hội  Đồng và Út Lành như bằng lòng với sự đặt để đó của ông Hội Đồng , từ đó Út Lành dọn ra chòi vịt sống , cũng là để trông coi vịt thế Tám Bò ,nó về giúp việc cho ông Hội Đồng ...Tuy gọi là chòi chứ thực ra nó là một căn nhà sàn nhỏ ...Một mình sống ở đó rất mát mẻ ... hơn nữa tuy ở riêng chứ thật ra Út Lành cũng đâu phải lăn vào bếp mà lo cái ăn thức uống ...Vì bà Hội Đồng thương con nên mỗi ngày đều lén ông Hội Đồng mà cho con Hai Nhẫn đưa cơm ra cho cô Út ...Việc này ông Hội Đồng biết nhưng cũng vờ đi ...
Đến sau ngày Út Lành nằm cữ sinh được thằng con trai thật bụ bẫm , bà hội Đồng ra thăm con và ở luôn ngoài đó cả tuần lễ , sau đó về nhà khoe với ông Hội Đồng , vì là đứa cháu ngoại đầu tiên nên ông cũng bồi hồi , muốn nhìn mặt nó xem nó giống ai .Chiều đó ông chống gậy ra chòi vịt , vào thăm cháu ngoại , ông cảm thấy một niềm vui dào dạt , một tình thương chan chứa dâng lên , ông thấy cảnh đơn thân của Út Lành thì la con Hai Nhẫn
-Sao bay để bầy hầy thế kia , sao không quét dọn cho sạch sẽ cho cô út , hay thôi út à dọn về nhà đi để má bay dễ bề chăm sóc cho bay chứ sinh để thế kia lỡ đêm hôm bịnh hoạn đâu ai săn sóc được , nhất là thằng nhỏ còn trong tháng dễ sài bẹn lắm , ngoài này vách trống gió máy thế này tao thấy không đặng rôi , dọn về nhà đi ...
Thế là Út Lành ôm con dọn về nhà ..Và dĩ nhiên hai ông bà Hội đồng cưng cháu ngoại hết biết ...
Thằng nhỏ được ông ngoại đặt tên là Lê mạnh Cương , vì không có cha nên mang họ mẹ , trời thương nó mạnh kỏe mau lớn , càng lớn càng thông minh và ngoan , điều này làm ông Hội Đồng càng cưng cháu ...
Sống ở thôn được ít năm nữa , vì tình trạng an ninh , vì thương cháu phải đi xa tới trường , ông Hội Đồng sang quyết định bán hết ruộng đất cho chính phủ , nhân dịp chiến dịch " Người Cày Có Ruộng " được khỏi xướng , rồi họ đưa nhau về tỉnh sống ...
Cương học giỏi , ngoan nên được ông bà ngoại cùng mẹ thương yêu hết mức , Năm đó chiến tranh đã dữ dội , Miền Nam bắt đầu thiếu lính nên  động viên ...Cương thi đậu tú tài I  chàng xung phong tình nguyện đi lính  , và  vào trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức , sau chín tháng huấn luyện , Cương Tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy , ngày ra trường Cương chọn về Sư Đoàn 7 ... Để có cơ hội phục vụ , góp tay súng để bảo vệ xóm làng ...
Một năm sau Cương được thăng chức Thiếu úy và nắm Trung đội trưởng ... Hôm đó hành quân bố ráp cố ý lùa bọn du kích ra xa xóm thôn , lính của Cương vô ý bị bắn sẻ ...Cương giận lắm khi bắt được tên du kích ,Cương chỉ muốn nổ một phát súng vào đầu nó để trả thù cho người anh em vừa bị nó sát hại , hơn nữa nếu bắt nó theo làm tù binh , mai kia đi lên đi xuống với an ninh cũng mệt ,  nhưng khi nhìn thấy mặt thằng du kích còn non choẹt thì sự tội nghiệp  nó lấn hết cả sự giận hờn ...Chẳng may tối đó trên đường dẫn tù binh về  Hậu cứ , trên đường đi nó bỏ chạy buộc lòng Lính của Cương phải bắn theo , hắn trúng đạn và chết ...

Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 16:44 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3612
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #148 - 26. Aug 2013 , 18:41
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU 

CHƯƠNG VI


Không biết trong trung đội của Cương có ai làm nội tuyến chụp được cái xác chết nằm co quắp của tên du kích với vẻ mặt quá trẻ , để đưa lên báo ngoại quốc ,với lời tuyên truyền , lính miền Nam bắn giết trẻ em vị thành niên để cưỡng bách tong quân , nhằm phong trào Phản chiến tại Mỹ đang dâng cao nên họ triệt để khai thác ...
Ra toà Cương bị oan nhưng cũng làm Cương vui vẻ thi hành nhiệm vụ mới là về ngay ấp Thạnh Trị làm đồn trưởng , đấy là nơi chôn nhau cắt rốn là quê hương mà Cương yêu quí quyết một lòng bảo vệ , cái chòi vịt và mảnh ruộng Út Lành đã sống trước những ngày sinh ra Cương , ông Hội Đồng Sang vì yêu cháu vẫn còn giữ ...

Những người thân với Út Lành , đã tó mò muốn tìm hiểu nhưng từ ngày Cang ra đi Út Lành không hề hở môi nhắc lại chuyện tình đó , Không biết rằng Út Lành còn yêu hay hận mà ngay đến Cương đứa con yêu quí Út Lành coi như đó là cuộc đời của nàng thế mà có đôi lúc Cương hỏi
- Má Ba của con là ai , Ba đi đâu mà con không bao giờ thấy ?
Út Lành cũng chỉ thở dài mắt nhìn xa xôi không trả lời ,
Lại có những chàng trai buông lời tán tỉnh hay nhờ người giới thiệu làm quen , đều bị Út Lành từ chối
Cuộc tình của Cang với Út Lành trở nên huyền bí không ai biết được trái tim Út Lành đang hướng về đâu ...

Riêng về Cang ở trong bưng " sống lâu nên lão làng "Nhang đã chết , không những Nhang chết mà có cả thêm ba người thay thế nối tiếp Nhang cũng đều đã chết , bởi vậy Cang lên thay thế chức thủ trưởng căn cứ địa , là nơi tập trung tuyển chiến sĩ cho cách mạng , là nơi xuất phát những trận tấn công đồn bót , bao gồm cả vùng Châu Thổ Sông Cửu Long...Là nơi cung cấp những cán bộ giao liên , khi có những lực lượng Chính Quy hành quân mượn đường đi ngang , hay tạm thời dưỡng quân nơi căn cứ
Khoảng vào cuối tháng ba năm 1975 , căn cứ địa của Cang trở nên tấp nập và các công việc bận rộn tăng lên gấp năm mười lần ...
Từ cấp tiểu đoàn đi ngang đến cấp trung đoàn rồi xư đoàn dừng chân đóng trại chờ ngày đi xuống Cần Thơ tấn công vào bộ tư lệnh vùng IV ( bốn ) ,lại có cả các bộ phận đại pháo , xe tăng ...Làm cho  các chiến sĩ quanh căn cứ tuy bận bịu nhưng rất hồ hởi vì  biết rằng sẽ có một cuộc tổng tấn công nữa như Tết Mậu Thân ( 1968 ) nhưng chắc lần này sẽ thành công vì quân đội nhân dân mang qua quá nhiều từ nhân sự đến vũ khí , nhiều tới độ hầu như không cần sự tiếp tay của các lực lượng nhân dân vũ trang nơi đây , họ chỉ nhận trợ giúp qua các cán bộ Giao Liên ...
Và quả thật như lời đồn đoán , ngày 30 tháng Tư năm 1975 , quân đội nhân dân , cũng như Mặt trận giải Phóng Miền Nam không tốn xương máu , hay súng đạn thêm nữa mà đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố lời đầu hàng của Tổng Thống chính quyền Ngụy ...Phe ta chỉ còn chờ giờ vào tiếp thu
Cũng có vài nơi , gặp những sự chống đối của bọn ngụy ngoan cường , làm một số bộ đội chết oan trong "giờ thứ 25 "
10 ngày sau ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất , và hầu như trên toàn cõi nước ta đã im tiếng súng ...Cang trở về thôn cũ , tìm lại di tích ngày xưa , nhưng quả thật ,
" người xưa không còn , cảnh củ đã đổi " và tất cả sự phồn thịnh ấm no của  dân chúng đã làm cho Cang choáng ngộp , và Cang bẽ bàng tự hỏi , mình giải phóng cho ai đây ...
La cà nơi đây để tìm hiểu xem giờ này Út lành và gia đình ông Hội Đồng Sang ở đâu , mãi cả tháng sau , Cang mới biết tên sĩ quan Ngụy thủ trưởng đồn này tên là Lê Mạnh Cương chính là con trai của Út Lành ...
Hướng về trại tập trung rồi theo dõi hầu hết các danh sách sĩ quan Ngụy trình diện học tập cải tạo ... Cang đã tìm được nơi Cương đang ở , một buổi chiều Cang tìm đến thăm Cương ...
Cương nhất định khước từ không bằng lòng ra gặp mặt vì Cương không muốn các chiến hữu bạn bè hiểu lầm là gia đình Cương có liên hệ với mặt trận ... Mãi tới lần thư tư cán bộ trại phải hù dọa Cương mới ra gặp mặt Cang , quả thật Cương chưa hề biết , dù chỉ là nghe nói ...đến nhân vật Cang người mà đang đứng trước mặt Cương là quan hệ thế nào
Cang kể rành mạch về đời sống của Út Lành của gia đình ông hội Đồng Sang của 20 năm về trước ...rồi cang muốn biết điạ chỉ của Út Lành đang sống để chàng tìm đến chào hỏi ...
Cương ,cương quyết từ chối tiết lộ những chi tiết ấy về Mẹ cũng như của bà ngoại , Ông Ngoại lúc này đã chết , vì Cương cho rằng biết đâu chỉ là những mối thù cá nhân , những ân oán ngày xưa của một tá điền đối với ông điền chủ
Cuối cùng Cang phải lên khung xem lý lịch của Cương ...
xem xong Cang trở lại gặp Cương và lần này thì Cang trở nên cứng rắn đầy hiểm ác
- Anh Cương không thành thật khai báo ...
Cương hơi tái mặt nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh
- Tôi không hiểu cán bộ nói gì ?
Cang cười một tiếng rất khô rồi nhẹ nhàng nói
- Anh cương không ghi những ngày ở bên Xư Đoàn 7 , và đã phạm lỗi gì để bị phạt đưa về Tiểu khu , anh tính dấu nhẹm điều đó sao ?
- Cương quả thật trở nên bối rối không ngờ tên cáo già này đã biết hết về quá khứ của Cương , nhưng cũng cố chống chế
-Việc đó đã qua quá lâu rồi , nên tôi cũng quên nay nhờ cán bộ nhắc tôi mới nhớ , thành thật xin lỗi cán bộ , tôi sẽ xin điều chỉnh hồ sơ của tôi
Cang đưa tay ngăn Cương lại rồi chậm rãi nói :
- nếu việc đó tiết lộ ra anh Cương biết chuyện gì sẽ xẩy đến với bản thân , tôi nghĩ là một sĩ qun Ngụy anh Cương có đủ chất xám để hiểu được điều đó , bây giờ chúng  ta quan hệ trao đổi nếu anh Cương cho tôi biết địa chỉ của bà út Lành , thì trái lại tôi sẽ giữ kín chuyện năm xưa cho anh Cương , chuyện đó tới đây coi như đã xoá và hồ sơ lý lịch của anh Cương coi như đã thành khẩn khai báo ...Anh cương nghĩ sao ? trao đổi như thế được không ?
Cương hỏi lại
- Làm sao tôi có thể tin được cán bộ là sẽ không tiết lộ
- Chuyện đó Anh Cương không có con đường chọn lựa , một là vui vẻ với nhau cố gắng tin tưởng nhau , hai là Cuộc đời của anh Cương sẽ chấm dứt ở trong này ...Mà rồi với khả năng của tôi anh Cương tin đi, tôi sẽ tìm được chỗ ở của Út Lành

Nghe Cang nói với giọng điệu thật tự tin , Cương suy nghĩ nhanh , có lẽ Cang nói đúng , Cương đâu còn con đường chọn lựa , " cá đã nằm trên thớt " , nếu Cang bá cáo với cán bộ trên khung , thì hẳn là một sự trả thù sẽ được diễn ra , như họ vẫn thường nói
- các anh có nợ máu với nhân dân với các chiến sĩ cách mạng
Chuyện thằng bé 15 tuổi kia bắn chết người lính của Cương thì không cần kể tới , nhưng lính của Cương bắn chết thằng bé mười  lăm tuổi là chuyện có thật và đã là sì căng đan một thời ...Bây giờ nếu cương quyết giữ bí mật chỗ ở của mẹ thì chắc chắn Cang sẽ nổi giận và bá cáo , rồi với cái địa chỉ giả kia Cương đã khai báo trong hồ sơ lý lịch Cang vẫn có thể mò ra chỗ ở của bà ngoại và mẹ ...Có thể cũng chẳng sao vì ông ngoại đã chết ...
Nghĩ thế Cương xin Cang một mẩu giấy , mượn cây viết , rồi ghi địa chỉ của Mẹ đưa cho Cang
Cang đưa tay nhận , địa chỉ và dặn Cương , anh có muốn viết thư cho bà Út Lành không , muốn viết thư thì viết đi tôi sẽ trao cho bà Út Lành dùm cho ...
Không cần suy nghĩ Cương đưa tay nhận tờ giấy Cang trao
Cang dặn thêm
-Viết ngắn gọn những điều cần thiết thôi , không nên kể về đời sống nơi đây bằng sự than oán ... hãy chứng tỏ là thành khẩn học tập tiến bộ mong Đảng và nhân dân tha thứ thì sẽ sớm được khoan hồng , biết không
Cang gật đầu rồi ngồi xuống húy hoáy viết mấy dòng , chỉ là lời thăm hỏi , và thông báo cho mẹ an tâm con nơi đây nhờ ơn Cách mạng khoan hồng , cuộc sống thật thoải mái ...Có Cán bộ Cang làm chứng có  gì mẹ hỏi thêm cán bộ ..
Cang cầm thư gấp bỏ vào túi xong quay gót thật nhanh ..
Cương nhìn theo bóng Cang tràn dâng một chút tình cảm khó diễn tả ...
Ra khỏi trại Cang kêu xe chạy thẳng về tỉnh và vào thăm Út Lành ...Thực ra Cang chẳng còn tí tình yêu nào dành cho Út Lành , nhưng đó lại là mối tình đầu nên đôi khi xao xuyến khi nhắc đến hơn nữa Cang cũng muốn biết Cương có phải là con của Cang hay không ...
Chào hỏi nhau như một người khách lạ ,Cang rút trong túi ra lá thư Cương mới viết trao cho Út Lành
- đây là thư của cậu Cương mới trao cho tồi sáng nay nhờ tôi trao lại cho bà
Nghe nói có thơ của Cương Út Lành mừng rỡ , dù sao mẹ con cũng đã chia cách gần ba tháng rồi , bặt vô âm tín , trong khi cán bộ phường nói chỉ đi học tập có 10 ngày ...Không nói ra chứ tất cả những người có con , có chồng ra trình diện đều lo lắng sợ một điều không may cho người thân
Út Lành đọc vội lá thư ngắn xong quay qua hỏi Cang
- thưa cán bộ nó ở trỏng có khỏe không , chắc giờ này ốm lắm , quần áo có đủ mặc không hôm đi nó chỉ mang theo có hai bộ đồ ....Bao giờ thì nó được về hay tôi có thể đến thăm nó , trời ơi đất nước đã thanh bình thống nhất rồi hai bên hết đánh nhau , quên thù nghịch sao còn giam giữ nó lâu quá vậy , hơn nữa cha nó cũng là người vào bưng theo cách mạnh đó chớ , nó là con em của cách mạng mà không được sớm khoan hồng à !!!
Cang nghe Út Lành hỏi một giây dài , mà chỉ chú ý được câu duy nhất và đối với Cang cũng là quan trọng nhất
"Cha nó cũng vô bưng theo cách mạng "
Như thế đã rõ Cương chính là con của Cang ...quan sát cảnh sống của Út Lành ...Một đời sống phồn vinh mà Cang không thể tưởng tượng được , đành rằng Út Lành là con của đại điền chủ nhưng thời đó trải qua đã lâu , hơn nữa  hầu như tất cả những người dân ở tỉnh đều có cuộc sống sung túc ấm no dư giả so với những gì mà Cang nghe kể trong mấy năm gần đây ...Cang đâm ngại ngùng không dám tự giới thiệu và nhận lại Út Lành ...Cang chỉ nói là một cán bộ trong trại đi phép về ngang nên trao thư dùm Cương ...Vì trời đã tối , nên Cang nấn ná ở lại với lý do bây giờ không biết đường để tìm thân nhân ...vì đã xa cách lâu rồi không gặp , Út Lành liền mời Cang
- Vậy Cán Bộ cứ ở lại đây qua đêm , mai  trời sáng Cán Bộ muốn đi đâu , tôi sẽ hướng dẫn ,chứ bây giờ đã tối đi đêm trong thời buổi này không mấy an toàn ...
- Được lời mời Cang bằng lòng ngay , và Cang cũng được Út Lành mời ăn cơm tối cùng gia đình , chỉ là cơm tối thường ngày mà Cang có cảm tưởng như Út Lành đã chuẩn bị tiệc để chào đón Cang thật thịnh xoạn
- Khi ngồi ăn cơm Cang mới nhẩn nha hỏi chuyện gia đình , lúc này Cang mới biết từ ngày đó tới giờ Út Lành vẫn ở vậy nuôi con ...Cang cảm động quá nên mới nói
-Út Lành , bộ bà không nhận ra tôi thật sao , Tôi là Cang nè ...
Út Lành nói như hét lên
- Trời anh Cang thiệt hả , hèn chi tui cứ thấy nụ cười quen quen
Sau khi hai người nhận lại nhau , có những giọt nước mắt của mừng , của đau khổ họ tâm sự với nhau tới sáng , như thuở nào hai người lúc mới quen nhau ,ở chân đụn rơm họ cũng đã ngồi bên nhau mặc sương lạnh để chờ bình minh ...
Mối tình sau hai mươi lăm năm xa cách bây giờ mới nối lại , chìm ngập  trong hạnh phúc ...
Họ sống với nhau hơn một tuần còn hạnh phúc yêu thương tưởng hơn cả tuần trăng mật của đôi uyên ương mới cưới , nhưng rồi chiều hôm đó Cang chợt nhớ có hẹn với Gái , một nữ cán bô xinh trẻ đẹp dễ thương hơn út lành từ bắc vào , mà Cang đã quen , trong những ngày bộ phận của Gái dưỡng quân tại căn cứ địa của Cang , hai người đã hẹn nhau vào ngày hôm sau sẽ đón chuyến xe lửa Thống Nhất trở về bắc , và ở đó theo Gái sẽ cho Cang ra mắt cha mẹ và xin làm đám cưới với Cang ...
Cuộc chia tay có đầy nước mắt , Út Lành đã dúi vào túi áo cho Cang mấy trăm đồng , tiền mới , lại thấy Cang thích nghe radio ( cái đài ) nên đã trao luôn cái radio ba băng cho Cang , thêm cái đồng hồ đeo tay của ông Hội Đồng nhà giữ lại làm kỷ niệm khi ông chết , Út Lành cũng trao luôn cho Cang
Cang vui vẻ nhận hết rôi ra đi nói dối là phải trở về F vì đã hết phép ...Hứa hẹn sẽ thu dọn và có thể sẽ được cấp phát nhà sẽ đưa Út Lành đến đó cùng chung sống bù đắp cho những ngày xa cách ...
Thế là Cang vừa có tiền vừa có quà , theo chân cô cán bộ xinh đẹp về Bắc làm lễ ra mắt gia đình ...
Nhưng Cang đâu biết tình cảnh người dân đất Bắc , lúc này tuy đảng cộng sản đã chiến thắng , đã thống nhất được đất nước , chấm dứt cuộc chiến tranh tương tàn ... Nhưng sức dân đã cạn kiệt với hơn hai mươi năm thắt lưng buộc bụng , tất cả tuôn vào Chiến trường miền Nam , thanh niên thanh nữ đi B trên quê hương vốn nghèo sẵn nay chỉ còn lại ông già bào lão ngày ngày trông ngóng còn cháu bình yên trở về , nên càng sác sơ đói khổ ...Bởi thế vì nghe tuyên truyền là miền Nam bị Mỹ Ngụy bóc lột người dân trong Nam sống cùng sống cực , và người dân trong Nam sống những nơi ấp , nơi Khu ... Tất cả đều nguy hiểm hung hãn , cứ thấy bộ đội ta xuất hiện là bắn giết xua đuổi , chẳng bao giờ nuôi nấng cho ăn như các bà mẹ miền bắc
Bởi thế khi thấy Cang là người miền Nam ...Gia đình của cô Băc kỳ hoàn toàn phản đối ...Thêm vào đấy Cô Cán Bộ sau những ngày chinh chiến trở về trong chiến thắng vinh quang thì được làng trên xóm dưới tiếp đón vui vẻ trong khi anh chàng du kích miền Nam thì bị kinh rẻ như một loại người phản bội ...và nguy hiểm đối với người dân ngoài Bắc
Cô gái cán bộ đâu còn thì giờ nghĩ tới Cang , để dưa Cang đi thăm phố phường như những ngày bên nhau trong Nam mơ mộng
Vi thế Cang cảm nhận được sự chán chường niềm tủi hổ ...Của một người dâng trọn đời trai vì  lý tưởng vào bưng làm cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị độc tài , thoát đời sống nô nệ của đế quốc Mỹ .. thế mà giờ đây bị đối xử không công bằng
Nhất là những ngày sau đó khi trở về miền Nam thì không phải chỉ mình cang là đau đớn cảm nhận sự bất công ê chề như thế , mà tất cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , từ trên xuống dưới hầu như bị quên lãng ...Từ từ tan hàng trong tủi hổ uất hận
Bởi những người này sau khi về sum họp với gia đình , thì thấy bị xa cách , bởi hai cuộc sống hoàn toàn trái ngược , và tư tưởng thì còn nguy hiểm hơn nữa bởi người dân sống phóng khoáng tự do đã quen ...Nay phải sống với những người từ rừng sâu trở về thành phố ,lạc hậu đến mấy chục năm ...Chỉ còn tình thân máu mủ ruột thịt mới chấp nhận họ chứ xóm giềng đều khinh rẻ ngăn cách
Sau khi Cang đi ...Út Lành biết mình bị lừa thêm một lần nữa ...Tuy nhiên Út Lành vẫn sẵn sàng tha thứ nếu Cang biết sửa đổi mà trở về với tình yêu chân chính với con tim nóng bỏng như thuở nào dưới chân đụn rơm của quê hương ngày xưa thanh bình
Nhưng Cang cảm thấy tủi hổ và chắn chường của một con người bị xã hội ngược đãi ... Nên Cang đâm ra rượu chè be bét để giải sầu tìm quên , mà say sưa như thế thì được bao lâu , nay anh mai tôi , đến lúc cũng cạn kiệt ,Bởi thế Cang sống cuộc sống rất đau khổ như kẻ không nhà ...Nay say ngủ chân cầu mai say ngủ cuối chợ
Thế mới biết những kẻ bị lừa gạt cuộc đời những kẻ bị lầm lạc lý tưởng đã đau khổ đến chừng nào ...
Ba năm sau , khi Cương được thả ra từ Trại tù cải tạo , Cương trở về tỉnh , sống chung với Mẹ , trái với Cang Cương còn được bà con xóm giềng thương xót ,là một kẻ thua trận ...Tuy thế Cương cảm thấy không thể sống với những con mắt của công an , của chính quyền địa phương lúc nào cũng rình rập coi Cương như kẻ thù địch ...Cương cũng không dám nhận lòng thuơng xót của láng giềng ...
Bởi vậy Cương gom góp tất cả gia tài của Mẹ ...Tổ chức một chuyến vượt biên ...
Những lần Út Lành đi thăm nuôi con trong tù , Út lành đã tâm sự và cho Cương biết Cang chính là Cha ruột của Cương , nghe tin này Cương bàng hoàng , đau xót , buồn thay cho  một quê hương chiến tranh tương tàn , đưa đến cha con bắn giét lẫn nhau , làm thế nào mà để đến độ cha con đứng ỡ hai đầu chiến tuyến …Khi ra tù Cương có vài lần tìm gặp Cang , khuyên Cang bỏ cuộc sống bê tha như hiện tại mà quay về làm lại cuộc đời với Mẹ và Con nhưng Cang  hình như đã bị loài sâu rượu khống chế , hoàn toàn không còn khả năng tự vệ chỉ còn chạy theo phục vụ cho rượu như ngày xưa đã lầm lỡ , bỏ Út Lành trốn vào bưng , tưởng là phục vụ lý tưởng , có ai ngờ đó chỉ là cái cứu cánh để an ủi những kẻ trốn chạy …Như bây giờ tưởng lấy rượu giải sầu , thì ngược lại càng sầu thêm và tự hủy họai cuộc đời
Không thuyết phục được Cang , Cương đành bí mật dẫn mẹ xuống thuyền vượt biên ra nước ngoài
Với con thuyền mong manh , vượt biển thoát được  cơn nguy hiểm đúng là trời phù hộ , Hai Mẹ co Út lành đến đệ tam quốc gia tạm cư , những ngày đầu làm quen với xã hội mới , với bao nhiêu vất vả và nhọc nhằn ...Út Lành lao đầu đi làm việc ở những tiệm ăn , lãnh thêm hàng về nhà may vào buổi tối , để lấy tiền cho Cương trở lại trường học ...
Trong những ngày này Cương vẫn biết Mẹ hay nhận được thơ của Cang , có lần Cương mở ra coi thử , từ đầu tới cuối , trong thư chỉ là tả oán cảnh nghèo túng thiếu rồi xin giúp đỡ...
Và Út Lành cũng lén con đi gửi tiền dành dụm được về để giúp Cang , Cương biết nhưng không phản đối Mẹ , vì nghĩ rằng Mẹ giúp Ba cũng là điều nên làm , mặc dù ngày xưa Ba đã đối xử với Mẹ quá tệ
Rồi hôm nghe tin Cang mất Út Lành cũng tức tốc mua vé máy bay về lo đám táng cho Cang " Nghĩa tử là nghĩa tận "
Sau sáu năm miệt mài với trường lớp  , trời thương Cương cũng đã tốt nghiệp và có công việc làm tốt , lúc này Út Lành mới bớt công việc , để có thể hưởng nhàn
Ngồi nghĩ lại quãng đời đã qua , quả thật quá nhiều gian truân vất vả , cuộc chiến phi lý đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng ...Chết bằng cách này hay chết bằng cách khác họ đã giải phóng cuộc đời cho nhau , đã lấy mất sự sống để không còn biết khổ đau ...và với bao nhiêu năm Thống nhất đất nước họ đã làm cho miền Nam từ phồn vinh giả tạo , trở thành nghèo đói tụt hậu như Miền bắc , ai giải phóng ai đây

                           HẾT
Kahat
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 17:11 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Vu Ngoc Mai
Gold Member
*****
Offline


Giáo Sư Cố Vấn

Posts: 3463
Re: Truyện ngắn
Reply #149 - 27. Aug 2013 , 16:55
 
Lethikinhhoang wrote on 26. Aug 2013 , 18:41:
TA GIẢI PHÓNG NHAU (tiép theo )

CHƯƠNG VI

của Cương có ai làm nội tuyến chụp được cái xác chết nằm co quắp của tên du kích với vẻ mặt quá trẻ , để đưa lên báo ngoại quốc ,với lời tuyên truyền , lính miền Nam bắn giết trẻ em vị thành niên để cữơng bách tong quân , nhằm phong trào Phản chiến tại Mỹ đang dâng cao nên họ triệt để khai thác ...
Ra toà Cương bị oan nhưng cũng làm Cương vui vẻ thi hành nhiệm vụ mới là về ngay ấp Thạnh Trị làm đồn trưởng , đấy là nơi chôn nhau cắt rốn là quê hương mà Cương yêu quí quyết một lòng bảo vệ , cái chòi vịt và mảnh ruộng Út lành đã sống trước những ngày sinh ra Cương , ông Hội Đồng Sang vì yêu cháu vẫn còn giữ ...

Những người thân với Út lành , đã tó mò muốn tìm hiểu nhưng từ ngày Cang ra đi Út Lành không hề hở môi nhắc lại chuyện tình đó , Không biết rằng Út Lành còn yêu hay hận mà ngay đến Cương đứa con yêu quí Út Lành coi như đó là cuộc đời của nàng thế mà có đôi lúc Cương hỏi
- Má Ba của con là ai , Ba đi đâu mà con không bao giờ thấy ?
Út Lành cũng chỉ thở dài mắt nhìn xa xôi không trả lời ,
Lại có những chàng trai buông lời tán tỉnh hay nhờ người giới thiệu làm quen , đều bị Út Lành từ chối
Cuộc tình của Cang với Út Lành trở nên huyền bí khôngai biết được trái tim Út Lành đang hướng về đâu ...

Riêng về Cang ở trong bưng " sống lâu nên lão làng "Nhang đã chết , không những Nhang chết mà có cả thêm ba người thay thế nối tiếp Nhang cũng đều đã chết , bởi vậy Cang lên thay thế chức thủ trưởng căn cứ địa , là nơi tập trung tuyển chiến sĩ cho cách mạng , là nơi xuất phát những trận tấn công đồn bót , bao gồm cả vùng Châu Thổ Sông Cửu Long...Là nơi cung cấp những cán bộ giao liên , khi có những lực lượng Chính Quy hành quân mượn đường đi ngang , hay tạm thời dưỡng quân nơi căn cứ
Khoảng vào cuối tháng ba năm 1975 , căn cứ địa của Cang trở nên tấp nập và các công việc bận rộn tăng lên gấp năm mười lần ...
Từ cấp tiểu đoàn đi ngang đến cấp trung đoàn và xư đoàn dừng chân đóng trại chờ ngày đi xuống Cần Thơ tấn công vào bộ tư lệnh vùng IV ( bốn ) ,lại có cả các bộ phận đại pháo , xe tăng ...Làm cho  các chiến sĩ quanh căn cứ tuy bận bịu nhưng rất hồ hởi vì  biết rằng sẽ có một cuộc tổng tấn công nữa như Tết Mậu Thân ( 1968 ) nhưng chắc lần này sẽ thành công vì quân đội nhân dân mang qua quá nhiều từ nhân sự đến vũ khí , nhiều tới độ hầu như không cần sự tiếp tay của các lực lượng nhân dân vũ trang nơi đây , họ chỉ nhận trợ giúp qua các cán bộ Giao Liên ...
Và quả thật như lời đồn đoán , ngày 30 tháng Tư năm 1975 , quân đội nhân dân , cũng như Mặt trận giải Phóng Miền Nam không tốn xương máu , hay súng đạn thêm nữa mà đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố lời đầu hàng của Tổng Thống chính quyền Ngụy ...Phe ta chỉ còn chờ giờ vào tiếp thu
Cũng có vài nơi , gặp những sự chống đối của bọn ngụy ngoan cường , làm một số bộ đội chết oan trong "giờ thứ 25 "
10 ngày sau ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất , và hầu như trên toàn cõi nước ta đã im tiếng súng ...Cang trở về thôn cũ , tìm lại di tích ngày xưa , nhưng quả thật ,
" người xưa không còn , cảnh củ đã đổi " và tất cả sự phồn thịnh ấm no của  dân chúng đã làm cho Cang choáng ngộp , và Cang bẽ bàng tự hỏi , mình giải phóng cho ai đây ...
La cà nơi đây để tìm hiểu xem giờ này Út lành và gia đình ông Hội Đồng Sang ở đâu , mãi cả tháng sau , Cang mới biết tên sĩ quan Ngụy thủ trưởng đồn này tên là Lê Mạnh Cương chính là con trai của Út lành ...
Hướng về trại tập trung rồi theo dõi hầu hết các danh sách sĩ quan Ngụy trình diện học tập cải tạo ... Cang đã tìm được nơi Cương đang ở , một buổi chiều Cang tìm đến thăm Cương ...
Cương nhất định khước từ không bằng lòng ra gặp mặt vì Cương không muốn các chiến hữu bạn bè hiểu lầm là gia đình Cương có liên hệ với mặt trận ... Mãi tới lần thư tư cán bộ trại phải hù dọa Cương mới ra gặp mặt Cang , quả thật Cương chưa hề biết , dù chỉ là nghe nói ...đến nhân vật Cang người mà đang đứng trước măt Cương là quan hệ thế nào
Cang kể rành mạch về đời sống của Út Lành của gia đình ông hội Đồng Sang của 20 năm về trước ...rồi cang muốn biết điạ chỉ của Út Lành đang sống để chàng tìm đến chào hỏi ...
Cương ,cương quyết từ chối tiết lộ những chi tiết ấy về Mẹ cũng như của bà ngoại , Ông Ngoại lúc này đã chết , vì Cương cho rằng biết đâu chỉ là những mối thù cá nhân , những ân oán ngày xưa của một tá điền đối với ông điền chủ
Cuối cùng Cang phải lên khung xem lý lịch của Cương ...
xem xong Cang trở lại gặp Cương và lần này thì Cang trở nên cứng rắn đầy hiểm ác
- Anh Cương không thành thật khai bào ...
Cương hơi tái mặt nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh
- Tôi không hiểu cán bộ nói gì ?
Cang cười một tiếng rất khô rồi nhẹ nhàng nói
- Anh cương không ghi những ngày ở bên Xư Đoàn 7 , và đã phạm lỗi gì để bị phạt đưa về Tiểu khu , anh tính dấu nhẹm điều đó sao ?
- Cương quả thật trở nên bối rối không ngờ tên cáo già này đã biết hết về quá khứ của Cương , nhưng cũng cố chống chế
-Việc đó đã qua quá lâu rồi , nên tôi cũng quên nay nhờ cán bộ nhắc tôi mới nhớ , thành thật xin lỗi cán bộ , tôi sẽ xin điều chỉnh hồ sơ của tôi
Cang đưa tay ngăn Cương lại rồi chậm rãi nói :
- nếu việc đó tiết lộ ra anh Cương biết chuyện gì sẽ xẩy đến với bản thân , tôi nghĩ là một sĩ qun Ngụy anh Cương có đủ chất xám để hiểu được điều đó , bây giờ chúng  ta quan hệ trao đổi nếu anh Cương cho tôi biết địa chỉ của bà út Lành , thì trái lại tôi sẽ giữ kín chuyện năm xưa cho anh Cương , chuyện đó tới đây coi như đã xoá và hồ sơ lý lịch của anh Cương coi như đã thành khẩn khai báo ...Anh cương nghĩ sao ? trao đổi như thế được không ?
Cương hỏi lại
- Làm sao tôi có thể tin được cán bộ là sẽ không tiết lộ
- Chuyện đó Anh Cương không có con đường chọn lựa , một là vui vẻ với nhau cố gắng tin tưởng nhau , hai là Cuộc đời của anh Cương sẽ chấm dứt ở trong này ...Mà rồi với khả năng của tôi anh Cương tin đi, tôi sẽ tìm được chỗ ở của Út lành

Nghe Cang nói với giọng điệu thật tự tin , Cương suy nghĩ nhanh , có lẽ Cang nói đúng , Cương đâu còn con đường chọn lựa , " cá đã nằm trên thớt " , nếu Cang bá cáo với cán bộ trên khung , thì hẳn là một sự trả thù sẽ được diễn ra , như họ vẫn thường nói
- các anh có nợ máu với nhân dân với các chiến sĩ cách mạng
Chuyện thằng bé 15 tuổi kia bắn chết người lính của Cương thì không cần kể tới , nhưng lính của Cương bắn chết thằng bé mười  lăm tuổi là chuyện có thật và đã là sì căng đan một thời ...Bây giờ nếu cương quyết giữ bí mật chỗ ở của mẹ thì chắc chắn Cang sẽ nổi giận và bá cáo , rồi với cái địa chỉ giả kia Cương đã khai báo trong hồ sơ lý lịch Cang vẫn có thể mò ra chỗ ở của bà ngoại và mẹ ...Có thể cũng chẳng sao vì ông ngoại đã chết ...
Nghĩ thế Cương xin Cang một mẩu giấy , mượn cây viết , rồi ghi địa chỉ của Mẹ đưa cho Cang
Cang đưa tay nhận , địa chỉ và dặn Cương , anh có muốn viết thư cho bà Út Lành không , muốn viết thư thì viết đi tôi sẽ trao cho bà Út Lành dùm cho ...
Không cần suy nghĩ Cương đưa tay nhận tờ giấy Cang trao
Cang dặn thêm
-Viết ngắn gọn những điều cần thiết thôi , không nên kể về đời sống nơi đây bằng sự than oán ... hãy chứng tỏ là thành khẩn học tập tiến bộ mong Đảng và nhân dân tha thứ thì sẽ sớm được khoan hồng , biết không
Cang gật đầu rồi ngồi xuống húy hoáy viết mấy dòng , chỉ là lời thăm hỏi , và thông báo cho mẹ an tâm con nơi đây nhờ ơn Cách mạng khoan hồng , cuộc sống thật thoải mái ...Có Cán bộ Cang làm chứng có  gì mẹ hỏi thêm cán bộ ..
Cang cầm thư gấp bỏ vào túi xong quay gót thật nhanh ..
Cương nhìn theo bóng Cang tràn dâng một chút tình cảm khó diễn tả ...
Ra khỏi trại Cang kêu xe chạy thẳng về tỉnh và vào thăm Út Lành ...Thực ra Cang chẳng còn tí tình yêu nào dành cho Út Lành , nhưng đó lại là mối tình đầu nên đôi khi xao xuyến khi nhắc đến hơn nữa Cang cũng muốn biết Cương có phải là con của Cang hay không ...
Chào hỏi nhau như một người khách lạ Cang rút trong túi ra lá thư Cương mới viết trao cho Út Lành
- đây là thư của cậu Cương mới trao cho tồi sáng nay nhờ tôi trao lại cho bà
Nghe nói có thơ của Cương Út Lành mừng rỡ , dù sao mẹ con cũng đã chia cách gần ba tháng rồi , bặt vô âm tín , trong khi cán bộ phường nói chỉ đi học tập có 10 ngày ...Không nói ra chứ tất cả những người có con , có chồng ra trình diện đều lo lắng sợ một điều không may cho người thân
Út Lành đọc vội lá thư ngắn xong quay qua hỏi Cang
- thưa cán bộ nó ở trỏng có khỏe không , chắc giờ này ốm lắm , quần áo có đủ mặc không hôm đi nó chỉ mang theo có hai bộ đồ ....Bao giờ thì nó được về hay tôi có thể đến thăm nó , trời ơi đất nước đã thành bình thống nhất rồi hai bên hết đánh nhau , quên thù nghịch sao còn giam giữ nó lâu quá vậy , hơn nữa cha nó cũng là người vào bưng theo cách mạnh đó chớ , nó là con em của cách mạng mà không được sớm khoan hồng à !!!
Cang nghe Út Lành hỏi một giây dài , mà chỉ chú ý được câu duy nhất và đối với Cang cũng là quan trọng nhất
"Cha nó cũng vô bưng theo cách mạng "
Như thế đã rõ Cương chính là con của Cang ...quan sát cảnh sống của Út Lành ...Một đời sống phồn vinh mà Cang không thể tưởng tượng được , đành rằng Út Lành là con của đại điền chủ nhưng thời đó trải qua đã lâu , hơn nữa  hầu như tất cả những người dân ở tỉnh đều có cuộc sống sung túc ấm no dư giả so với những gì mà Cang nghe kể trong mấy năm gần đây ...Cang đâm ngại ngùng không dám tự giới thiệu và nhận lại Út Lành ...Cang chỉ nói là một cán bộ trong trại đi phép về ngang nên trao thư dùm Cương ...Vì trời đã tối , nên Cang nấn ná ở lại với lý do bây giờ không biết đường để tìm thân nhân ...vì đã xa cách lâu rồi không gặp , Út lành liền mời Cang
- Vậy Cán Bộ cứ ở lại đây qua đêm , mai  trời sáng Cán Bộ muốn đi đâu , tôi sẽ hướng dẫn ,chứ bây giờ đã tối đi đêm trong thời buổi này không mấy an toàn ...
- Được lời mời Cang bằng lòng ngay , và Cang cũng được Út Lành mời ăn cơm tối cùng gia đình , chỉ là cơm tối thường ngày mà Cang có cảm tưởng như Út Lành đã chuẩn bị tiệc để chào đón Cang thật thịnh xoạn
- Khi ngồi ăn cơm Cang mới nhẩn nha hỏi chuyện gia đình , lúc này Cang mới biết từ ngày đó tới giờ Út Lành vẫn ở vậy nuôi con ...Cang cảm động quá nên mới nói
-Út Lành , bộ bà không nhận ra tôi thật sao , Tôi là Cang nè ...
Út Lành nói như hét lên
- Trời anh Cang thiệt hả , hèn chi tui cứ thấy nụ cười quen quen
Sau khi hai người nhận lại nhau , có những giọt nước mắt của mừng , của đau khổ họ tâm sự với nhau tới sáng , như thuở nào hai người lúc mới quen nhau ,ở chân đụn rơm họ cũng đã ngồi bên nhau mặc sương lạnh để chờ bình minh ...
Mối tình sau hai mươi lăm năm xa cách bây giờ mới nối lại , chìm ngập  trong hạnh phúc ...
Họ sống với nhau hơn một tuần còn hạnh phúc yêu thương tưởng hơn cả tuần trăng mật của đôi uyên ương mới cưới , nhưng rồi chiều hôm đó Cang chợt nhớ có hẹn với Gái , một nữ cán bô xinh trẻ đẹp dễ thương hơn út lành từ bắc vào , mà Cang đã quen , trong những ngày bộ phận của Gái dưỡng quân tại căn cứ địa của Cang , hai người đã hẹn nhau vào ngày hôm sau sẽ đón chuyến xe lửa Thống Nhất trở về bắc , và ở đó theo Gái sẽ cho Cang ra mắt cha mẹ và xin làm đám cưới với Cang ...
Cuộc chia tay có đầy nước mắt , Út Lành đã dúi vào túi áo cho Cang mấy trăm đồng , tiền mới , lại thấy Cang thích nghe radio ( cái đài ) nên đã trao luôn cái radio ba băng cho Cang , thêm cái đồng hồ đeo tay của ông Hội Đồng nhà giữ lại làm kỷ niệm khi ông chết , Út Lành cũng trao luôn cho Cang
Cang vui vẻ nhận hết rôi ra đi nói dối là phải trở về F vì đã hết phép ...Hứa hẹn sẽ thu dọn và có thể sẽ được cấp phát nhà sẽ đưa Út Lành đến đó cùng chung sống bù đắp cho những ngày xa cách ...
Thế là Cang vừa có tiền vừa có quà , theo chân cô cán bộ xinh đẹp về Bắc làm lễ ra mắt gia đình ...
Nhưng Cang đâu biết tình cảnh người dân đất Bắc , lúc này tuy đảng cộng sản đã chiến thắng , đã thống nhất được đất nước , chấm dứt cuộc chiến tranh tương tàn ... Nhưng sức dân đã cạn kiệt với hơn hai mươi năm thắt lưng buộc bụng , tất cả tuôn vào Chiến trường miền Nam , thanh niên thanh nữ đi B trên quê hương vốn nghèo sẵn nay chỉ còn lại ông già bào lão ngày ngày trông ngóng còn cháu bình yên trở về , nên càng sác sơ đói khổ ...Bởi thế vì nghe tuyên truyền là miền Nam bị Mỹ Ngụy bóc lột người dân trong Nam sống cùng sống cực , và người dân trong Nam sống những nơi ấp , nơi Khu ... Tất cả đều nguy hiểm hung hãn , cứ thấy bộ đội ta xuất hiện là bắn giết xua đuổi , chẳng bao giờ nuôi nấng cho ăn như các bà mẹ miền bắc
Bởi thế khi thấy Cang là người miền Nam ...Gia đình của cô Băc kỳ hoàn toàn phản đối ...Thêm vào đấy Cô Cán Bộ sau những ngày chinh chiến trở về trong chiến thắng vinh quang thì được làng trên xóm dưới tiếp đón vui vẻ trong khi anh chàng du kích miền Nam thì bị kinh rẻ như một loại người phản bội ...và nguy hiểm đối với người dân ngoài Bắc
Cô gái cán bộ đâu còn thì giờ nghĩ tới Cang , để dưa Cang đi thăm phố phường như những ngày bên nhau trong Nam mơ mộng
Vi thế Cang cảm nhận được sự chán chường niềm tủi hổ ...Của một người dâng trọn đời trai vì  lý tưởng vào bưng làm cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị độc tài , thoát đời sống nô nệ của đế quốc Mỹ .. thế mà giờ đây bị đối xử không công bằng
Nhất là những ngày sau đó khi trở về miền Nam thì không phải chỉ mình cang là đau đớn cảm nhận sự bất công ê chề như thế , mà tất cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , từ trên xuống dưới hầu như bị quên lãng ...Từ từ tan hàng trong tủi hổ uất hận
Bởi những người này sau khi về sum họp với gia đình , thì thấy bị xa cách , bởi hai cuộc sống hoàn toàn trái ngược , và tư tưởng thì còn nguy hiểm hơn nữa bởi người dân sống phóng khoáng tự do đã quen ...Nay phải sống với những người từ rừng sâu trở về thành phố ,lạc hậu đến mấy chục năm ...Chỉ còn tình thân máu mủ ruột thịt mới chấp nhận họ chứ xóm giềng đều khinh rẻ ngăn cách
Sau khi Cang đi ...Út Lành biết mình bị lừa thêm một lần nữa ...Tuy nhiên Út Lành vẫn sẵn sàng tha thứ nếu Cang biết sửa đổi mà trở về với tình yêu chân chính với con tim nóng bỏng như thuở nào dưới chân đụn rơm của quê hương ngày xưa thanh bình
Nhưng Cang cảm thấy tủi hổ và chắn chường của một con người bị xã hội ngược đãi ... Nên Cang đâm ra rượu chè be bét để giải sầu tìm quên , mà say sưa như thế thì được bao lâu , nay anh mai tôi , đến lúc cũng cạn kiệt ,Bởi thế Cang sống cuộc sống rất đau khổ như kẻ không nhà ...Nay say ngủ chân cầu mai say ngủ cuối chợ
Thế mới biết những kẻ bị lừa gạt cuộc đời những kẻ bị lầm lạc lý tưởng đã đau khổ đến chừng nào ...
Ba năm sau , khi Cương được thả ra từ Trại tù cải tạo , Cương trở về tỉnh , sống chung với Mẹ , trái với Cang Cương còn được bà con xóm giềng thương xót ,là một kẻ thua trận ...Tuy thế Cương cảm thấy không thể sống với những con mắt của công an , của chính quyền địa phương lúc nào cũng rình rập coi Cương như kẻ thù địch ...Cương cũng không dám nhận lòng thuơng xót của láng giềng ...
Bởi vậy Cương gom góp tất cả gia tài của Mẹ ...Tổ chức một chuyến vượt biên ...
Những lần Út Lành đi thăm nuôi con trong tù , Út lành đã tâm sự và cho Cương biết Cang chính là Cha ruột của Cương , nghe tin này Cương bàng hoàng , đau xót , buồn thay cho  một quê hương chiến tranh tương tàn , đưa đến cha con bắn giét lẫn nhau , làm thế nào mà để đến độ cha con đứng ỡ hai đầu chiến tuyến …Khi ra tù Cương có vài lần tìm gặp Cang , khuyên Cang bỏ cuộc sống bê tha như hiện tại mà quay về làm lại cuộc đời với Mẹ và Con nhưng Cang  hình như đã bị loài sâu rượu khống chế , hoàn toàn không còn khả năng tự vệ chỉ còn chạy theo phục vụ cho rượu như ngày xưa đã lầm lỡ , bỏ Út lành trốn vào bưng , tưởng là phục vụ lý tưởng , có ai ngờ đó chỉ là cái cứu cánh để an ủi những kẻ trốn chạy …Như bây giờ tưởng lấy rượu giải sầu , thì ngược lại càng sầu thêm và tự hủy họai cuộc đời
Không thuyết phục được Cang , Cương đành bí mật dẫn mẹ xuống thuyền vượt biên ra nước ngoài
Với con thuyền mong manh , vượt biển thoát được  cơn nguy hiểm đúng là trời phù hộ , Hai Mẹ co Út lành đến đệ tam quốc gia tạm cư , những ngày đầu làm quen với xã hội mới , với bao nhiêu vất vả và nhọc nhằn ...Út Lành lao đầu đi làm việc ở những tiệm ăn , lãnh thêm hàng về nhà may vào buổi tối , để lấy tiền cho Cương trở lại trường học ...
Trong những ngày này Cương vẫn biết Mẹ hay nhận được thơ của Cang , có lần Cương mở ra coi thử , từ đầu tới cuối , trong thư chỉ là tả oán cảnh nghèo túng thiếu rồi xin giúp đỡ...
Và Út Lành cũng lén con đi gửi tiền dành dụm được về để giúp Cang , Cương biết nhưng không phản đối Mẹ , vì nghĩ rằng Mẹ giúp Ba cũng là điều nên làm , mặc dù ngày xưa Ba đã đối xử với Mẹ quá tệ
Rồi hôm nghe tin Cang mất Út Lành cũng tức tốc mua vé máy bay về lo đám táng cho Cang " Nghĩa tử là nghĩa tận "
Sau sáu năm miệt mài với trường lớp  , trời thương Cang cũng đã tốt nghiệp và có công việc làm tốt , lúc này Út Lành mới bớt công việc , để có thể hưởng nhàn
Ngồi nghĩ lại quãng đời đã qua , quả thật quá nhiều gian truân vất vả , cuộc chiến phi lý đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng ...Chết bằng cách này hay chết bằng cách khác họ đã giải phóng cuộc đời cho nhau , đã lấy mất sự sống để không còn biết khổ đau ...và với bao nhiêu năm Thống nhất đất nước họ đã làm cho miền Nam từ phồn vinh giả tạo , trở thành nghèo đói tụt hậu như Miền bắc , ai giải phóng ai đây

                           HẾT
Kahat


Kahat thân,
Cô đã say sưa đọc bài của em sáng sớm khi vừa thức dậy.  Truyện ngắn mà dài và hấp dẫn quá.
À em coi lại đoạn cuối, hình như viết lộn Cương thành Cang, vì Cương đi học và tốt nghiệp, còn Cang thì đã chết rồi.
Cô chờ xem những truyện kế tiếp của em.
Cô Ngọc Mai
Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 8 9 10 11 
Send Topic In ra