Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Truyện ngắn  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 
Send Topic In ra
Truyện ngắn (Read 27958 times)
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11589
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Truyện ngắn
11. May 2006 , 17:46
 
CON DÂU MỸ - BÙI BẢO TRÚC




Bài Mama From The Train, một ca khúc của Irving Gordon do Patti Page hát, khi mới nghe lần đầu thì khó mà hiểu được bài hát định nói gì, nhất là mấy câu đầu:

Throw mama from the train, a kiss, a kiss
Wave mama from the train goodbye
Throw mama from the train, a kiss, a kiss
And don’t cry my baby don’t cry...

Cứ hiểu đằng thẳng ra, thì ai chẳng nghĩ là ném, quăng mẹ từ trên xe lửa xuống. Chắc ít (?) có người dám làm như thế. Nhưng nghe kỹ, thì mới hiểu là hãy gửi cho mẹ một chiếc hôn gió từ trên xe lửa, hãy vẫy tay chào mẹ từ trên xe lửa, hãy gửi cho mẹ chiếc hôn gió, thôi đừng khóc nữa...

Bài hát cảm động của một người không còn mẹ, nhớ lại người mẹ hiền lành, quê mùa, nói thứ tiếng Anh không chỉnh lắm, còn mang rất nhiều giọng Hà Lan ở Pennsylvania, đứng trên thềm ga xe lửa tiễn con, còn dặn con đi vui vẻ đừng khóc.

Tác giả Irving Gordon, khi viết những câu đầu của bài hát, đã cố ý dùng thứ tiếng Anh không đúng văn phạm, câu cú lộn xộn, thứ tiếng Anh của những nguời di dân Hà Lan lập nghiệp ở đông bắc Hoa kỳ gọi là Pennsylvania Dutch.

Tôi chợt nhớ lại bài hát ấy khi đi ăn với người bạn ở một tiệm ăn tối hôm qua.

Ngồi gần bàn chúng tôi là một gia đình mà chúng tôi không thể không nhìn thấy, vì khoảng cách giữa hai bàn không bao nhiêu và những người ngồi ở bàn lại ở ngay chỗ chúng tôi ngó ra. Gia đình có bốn người, cụ ông và cụ bà khoảng bẩy chục, người con trai có vợ là một cô đầm Mỹ đi cùng.

Hai cụ trông buồn bã và lạc lõng hết sức. Nhất là cụ ông, cứ ngó lên trần nhà, không nói gì, im lặng cả với cụ bà ngồi bên cạnh. Và cụ bà thì cũng buồn bã và lạc lõng không kém. Cụ không ngó cụ ông, và cũng như cụ ông, cụ cũng tránh né không nhìn người con trai và người phụ nữ mà chúng tôi đoán là con dâu Mỹ của cụ.

Cặp vợ chồng ngoài bốn mươi này trông cũng lạc lõng và buồn hết sức. Họ nói với nhau rất nhỏ, và hình như cũng không nói gì nhiều với nhau.

Chúng tôi tin chắc vấn đề của gia đình ngồi bàn bên cạnh là ngôn ngữ.

Có thể hai cụ không nói được tiếng Anh. Cô con dâu Mỹ không nói được tiếng Việt. Hai vợ chồng chỉ nói với nhau bằng tiếng Anh.

Họ không nói với nhau nhiều, có thể là họ sợ nói với nhau bằng tiếng Anh, thì hai cụ bị gạt ra ngoài câu chuyện. Mà người đàn ông nếu nói với cha mẹ bằng tiếng Việt thì lại gạt vợ ra ngoài.

Hai cụ không nói được tiếng Anh, chỉ nói tiếng Việt thì lại sợ làm như thế là gạt cô con dâu ra ngoài.

Hai vợ chồng người con nói rất nhỏ với nhau. Ông bà cụ im lặng ngồi cạnh, không ngó nhau, cũng không nhìn vợ chồng người con. Cụ ông nhìn trần nhà, cụ bà ngó đi một chỗ khác.

Bữa ăn tối im lặng một cách ngột ngạt. Sự im lặng mà nghe lại thấy toàn những tiếng động inh tai nhức óc.

Bữa ăn tối đáng lẽ đã diễn ra một cách vui vẻ, thì bốn người ngồi đó như đang phải gánh chịu những cực hình kinh khủng nhất.

Cũng không trách được ai trong cảnh như thế.

Người con trai có thể chỉ mới đây mới đón được cha mẹ từ Việt Nam qua. Hai cụ sang đến Mỹ thì một số chuyện đã xẩy ra. Mà chuyện đã xẩy ra đó thì hai cụ không thể làm gì để can thiệp được. Và cũng không nên can thiệp vào những chuyện như thế.

Không ai có thể sống hộ đời sống của người khác. Con của các cụ có đời sống riêng. Các cụ không thể can thiệp được nữa. Mà cho dù là có thể can thiệp được thì liệu sự can thiệp đó có làm cho mọi chuyện tốt đẹp hơn không, hay lại càng làm cho chuyện khó khăn thêm?

Hai cụ có thể trước đây ở Việt Nam đã có một đời sống rất khác. Cụ ông có thể lầu lầu tiếng Pháp, cụ bà có thể tiếng Việt giọng sông Cửu long hết sức quyến rũ.

Sang Mỹ, hai cụ phút chốc trở thành những người câm và điếc. Người con trai mà hai cụ gửi gấm cho người quen giúp vượt biên sang Mỹ, được cho đi học tử tế, kiếm được công việc xứng đáng, và đời đưa đẩy đến một cuộc sống mà cha mẹ không nghĩ tới. Người con trai đón được cha mẹ sang Mỹ, tưởng làm vui lòng cha mẹ lúc tuổi già cuối đời.

Nhưng bữa tối tại nhà hàng hôm qua hình như không được như cả hai phía vẫn mong muốn. Người con trai không có lỗi gì. Người con dâu thì lại càng không một sai lầm nào.

Hai cụ cũng không có điều chi sai lầm. Chỉ tại ngôn ngữ bất đồng.

Người con trai đến nước Mỹ khi còn rất nhỏ, tiếng Việt lúc ấy chưa có được bao nhiêu, và nay thì có thể đã quên gần hết. Vài câu chào hỏi xong thì không còn gì để nói nữa. Tiếng Việt đã cạn gần hết. Còn hai cụ, những bài học tiếng Anh thời còn đi học nay cũng đã quên nhiều, không còn để lại được bao nhiêu. Không lẽ cứ Anglais Vivant "Đây là ông Brown, ông Brown là một người đàn ông, đây là Jock, Jock là một con chó, Jock là một con vật, Jock không phải là người..."

Thôi thì đành im vậy, nói ra con dâu nó cười chết.

Nhưng thưa cụ, tại sao cụ lại nghĩ thế. Ít nhất cụ cũng có cuốn Anglais Vivant lót lòng. Cụ cứ nói đi. Chắp mãi thì cũng thành câu: "Cá thì ngon, cám ơn con, cám ơn, mẹ yêu các con, cám ơn đã yêu con trai của bố..."

Dễ mà các cụ. Cứ nói đại đi, đừng sợ ai cười. Cô con dâu Mỹ nếu có nói được vài ba câu như thế bằng tiếng Việt các cụ có cười không? Các cụ chắc chắn sẽ yêu cô con dâu với hai ba câu tiếng Việt ấy chứ?

 BÙI BẢO TRÚC
 Thư Gửi Bạn Ta
 Ngày 13-04-2006




Back to top
« Last Edit: 11. May 2006 , 17:47 by Dau Do »  

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #1 - 11. May 2006 , 20:28
 
MẸ TÔI

Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry
(Một câu chuyện cảm động của một tác giả vô danh nhận được qua e-mail của một người bạn ở Malaysia, mong được chia sẻ với mội người)

Suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ tôi. Lý do chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi.

Mẹ tôi làm nghề nấu ăn để nuôi tôi ăn học. Một lần bà đến trường để kiếm tôi làm tôi phát ngượng. Sao bà lại có thể làm như thế với tôi? Tôi lơ bà đi, ném cho bà một cái nhìn đầy căm ghét rồi chạy biến. Ngày hôm sau, một trong những đứa bạn học trong lớp la lên: - Ê, tao thấy rồi. Mẹ mày chỉ có một mắt!

Tôi xấu hổ chỉ muốn chôn mình xuống đất. Tôi chỉ muốn bà biến mất khỏi cuộc đời tôi. Ngày hôm đó đi học về tôi nói thẳng với bà:

- Mẹ chỉ muốn biến con thành trò cười! Mẹ tôi không nói gì. Còn tôi, tôi chẳng để ý gì đến những lời nói đó, vì lúc ấy lòng tôi tràn đầy giận dữ. Tôi chẳng để ý gì đến cảm xúc của mẹ. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi nhà, không còn liên hệ gì với mẹ tôi. Vì thế tôi cố gắng học hành thật chăm chỉ, và sau cùng, tôi có được một học bổng để đi học ở Singapore. Sau đó, tôi lập gia đình, mua nhà và có mấy đứa con. Vợ tôi là con nhà gia thế, tôi giấu nàng về bà mẹ của mình, chỉ nói mình mồ coi từ nhỏ. Tôi hài lòng với cuộc sống, với vợ con và những tiện nghi vật chất tôi có được ở Singapore. Tôi mua cho mẹ một căn nhà nhỏ, thỉnh thoảng lén vợ gởi một ít tiền về biếu bà, tự nhủ thế là đầy đủ bổn phận. Tôi buộc mẹ không được liên hệ gì với tôi.

Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già trông có vẻ lam lũ đứng trước cửa, mấy đứa con tôi có đứa cười nhạo, có đứa hoảng sợ. Tôi vừa giận vừa lo vợ tôi biết chuyện, hét lên:

- Sao bà dám đến đây làm con tôi sợ thế? Đi khỏi đây ngay!

Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời: - Ồ, xin lỗi, tôi nhầm địa chỉ! Và lặng lẽ quay đi. Tôi không thèm liên lạc với bà trong suốt một thời gian dài. Hồi nhỏ, mẹ đã làm con bị chúng bạn trêu chọc nhục nhã, bây giờ mẹ còn định phá hỏng cuộc sống đang có của con sao? Một hôm, nhận được một lá thư mời họp mặt của trường củ gởi đến tận nhà, tôi nói dối vợ là phải đi công tác. Sau buổi họp mặt, tôi ghé qua căn nhà của mẹ, vì tò mò hơn là muốn thăm mẹ. Mấy người hàng xóm nói rằng mẹ tôi đã mất vài ngày trước đó và do không có thân nhân, sở an ninh xã hội đã lo mai táng chu đáo.

Tôi không nhỏ được lấy một giọt nước mắt. Họ trao lại cho tôi một lá thư mẹ để lại cho tôi:

"Con yêu quý,

Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con. Mẹ xin lỗi về việc đã dám qua Singapore bất ngờ và làm cho các cháu phải sợ hãi. Mẹ rất vui khi nghe nói con sắp về trường tham dự buổi họp măt, nhưng mẹ sợ mẹ không bước nổi ra giường để đến đó nhìn con. Mẹ ân hận vì đã làm con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở đây. Con biết không, hồi con còn nhỏ xíu, con bị tai nạn hỏng mất một bên mắt. Mẹ không thể ngồi nhìn con lớn lên mà chỉ có một mắt, nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có để bác sỉ có thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận về việc đó. Mẹ rất hãnh diện vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh vì những gì mẹ đã làm được cho con. Con đã nhìn thấy cả thế giới mới, bằng con mắt của mẹ, thay cho mẹ.

Mẹ yêu con lắm,

Mẹ..."



Cry Cry Cry Cry
Back to top
« Last Edit: 11. May 2006 , 20:36 by Mien_Du_Dalat »  

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
da huong
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4726
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #2 - 11. May 2006 , 20:46
 
Mien_Du_Dalat wrote on 11. May 2006 , 20:28:
MẸ TÔI

Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry Cry
(Một câu chuyện cảm động của một tác giả vô danh nhận được qua e-mail của một người bạn ở Malaysia, mong được chia sẻ với mội người)

Suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ tôi. Lý do chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi.

Mẹ tôi làm nghề nấu ăn để nuôi tôi ăn học. Một lần bà đến trường để kiếm tôi làm tôi phát ngượng. Sao bà lại có thể làm như thế với tôi? Tôi lơ bà đi, ném cho bà một cái nhìn đầy căm ghét rồi chạy biến. Ngày hôm sau, một trong những đứa bạn học trong lớp la lên: - Ê, tao thấy rồi. Mẹ mày chỉ có một mắt!

Tôi xấu hổ chỉ muốn chôn mình xuống đất. Tôi chỉ muốn bà biến mất khỏi cuộc đời tôi. Ngày hôm đó đi học về tôi nói thẳng với bà:

- Mẹ chỉ muốn biến con thành trò cười! Mẹ tôi không nói gì. Còn tôi, tôi chẳng để ý gì đến những lời nói đó, vì lúc ấy lòng tôi tràn đầy giận dữ. Tôi chẳng để ý gì đến cảm xúc của mẹ. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi nhà, không còn liên hệ gì với mẹ tôi. Vì thế tôi cố gắng học hành thật chăm chỉ, và sau cùng, tôi có được một học bổng để đi học ở Singapore. Sau đó, tôi lập gia đình, mua nhà và có mấy đứa con. Vợ tôi là con nhà gia thế, tôi giấu nàng về bà mẹ của mình, chỉ nói mình mồ coi từ nhỏ. Tôi hài lòng với cuộc sống, với vợ con và những tiện nghi vật chất tôi có được ở Singapore. Tôi mua cho mẹ một căn nhà nhỏ, thỉnh thoảng lén vợ gởi một ít tiền về biếu bà, tự nhủ thế là đầy đủ bổn phận. Tôi buộc mẹ không được liên hệ gì với tôi.

Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già trông có vẻ lam lũ đứng trước cửa, mấy đứa con tôi có đứa cười nhạo, có đứa hoảng sợ. Tôi vừa giận vừa lo vợ tôi biết chuyện, hét lên:

- Sao bà dám đến đây làm con tôi sợ thế? Đi khỏi đây ngay!

Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời: - Ồ, xin lỗi, tôi nhầm địa chỉ! Và lặng lẽ quay đi. Tôi không thèm liên lạc với bà trong suốt một thời gian dài. Hồi nhỏ, mẹ đã làm con bị chúng bạn trêu chọc nhục nhã, bây giờ mẹ còn định phá hỏng cuộc sống đang có của con sao? Một hôm, nhận được một lá thư mời họp mặt của trường củ gởi đến tận nhà, tôi nói dối vợ là phải đi công tác. Sau buổi họp mặt, tôi ghé qua căn nhà của mẹ, vì tò mò hơn là muốn thăm mẹ. Mấy người hàng xóm nói rằng mẹ tôi đã mất vài ngày trước đó và do không có thân nhân, sở an ninh xã hội đã lo mai táng chu đáo.

Tôi không nhỏ được lấy một giọt nước mắt. Họ trao lại cho tôi một lá thư mẹ để lại cho tôi:

"Con yêu quý,

Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con. Mẹ xin lỗi về việc đã dám qua Singapore bất ngờ và làm cho các cháu phải sợ hãi. Mẹ rất vui khi nghe nói con sắp về trường tham dự buổi họp măt, nhưng mẹ sợ mẹ không bước nổi ra giường để đến đó nhìn con. Mẹ ân hận vì đã làm con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở đây. Con biết không, hồi con còn nhỏ xíu, con bị tai nạn hỏng mất một bên mắt. Mẹ không thể ngồi nhìn con lớn lên mà chỉ có một mắt, nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có để bác sỉ có thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận về việc đó. Mẹ rất hãnh diện vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh vì những gì mẹ đã làm được cho con. Con đã nhìn thấy cả thế giới mới, bằng con mắt của mẹ, thay cho mẹ.

Mẹ yêu con lắm,

Mẹ..."



Cry Cry Cry Cry



Cry Cry Cry Cry Cry  bà chị lụ đạn ơi , bà chị làm em khóc đêm nay nè. Cao cả thay tình mẹ ! Cry Cry Cry Cry Cry Cry

Kể cho chị nghe nè. Hôm qua trường học thằng bé con em có tổ chức Mother Day Mass. Lể dành cho tất cả bà mẹ của học sinh trường. Mỗi đứa con nhận được hoa hồng đem đến tặng mẹ. Lúc thằng bé nhà em đem hoa hồng đến cho em , ôm em và nói " I love you " là em òa khóc. Cry Cry Cry Thằng bé con vội vàng ôm cứng em và bảo " Momy ơi , đừng khóc , người ta nhìn momy kìa ". Lau vội nước mắt và nhìn chung wanh , ai cũng nhìn mình , đúng là lãng òm !Lúc tan lễ về, ngồi lái xe nhớ lại , khóc nữa. Vô duyên tệ !!!!!

Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #3 - 11. May 2006 , 22:28
 
Quote:
CON DÂU MỸ - BÙI BẢO TRÚC




Bài Mama From The Train, một ca khúc của Irving Gordon do Patti Page hát, khi mới nghe lần đầu thì khó mà hiểu được bài hát định nói gì, nhất là mấy câu đầu:

Throw mama from the train, a kiss, a kiss
Wave mama from the train goodbye
Throw mama from the train, a kiss, a kiss
And don’t cry my baby don’t cry...

Cứ hiểu đằng thẳng ra, thì ai chẳng nghĩ là ném, quăng mẹ từ trên xe lửa xuống. Chắc ít (?) có người dám làm như thế. Nhưng nghe kỹ, thì mới hiểu là hãy gửi cho mẹ một chiếc hôn gió từ trên xe lửa, hãy vẫy tay chào mẹ từ trên xe lửa, hãy gửi cho mẹ chiếc hôn gió, thôi đừng khóc nữa...

Bài hát cảm động của một người không còn mẹ, nhớ lại người mẹ hiền lành, quê mùa, nói thứ tiếng Anh không chỉnh lắm, còn mang rất nhiều giọng Hà Lan ở Pennsylvania, đứng trên thềm ga xe lửa tiễn con, còn dặn con đi vui vẻ đừng khóc.

Tác giả Irving Gordon, khi viết những câu đầu của bài hát, đã cố ý dùng thứ tiếng Anh không đúng văn phạm, câu cú lộn xộn, thứ tiếng Anh của những nguời di dân Hà Lan lập nghiệp ở đông bắc Hoa kỳ gọi là Pennsylvania Dutch.
.............


Cám ơn chị Đ Đ, bài viết hay quá, để phụ họa, mời quý vị nghe bài Mama From The Train do Patti Page  trình bày
----------------------------

...


Mama From The Train

Patti Page

Throw mama from the train a kiss, a kiss
Wave mama from the train a goodbye
Throw mama from the train a kiss a kiss
And don't cry, my baby, don't cry

How I miss that sweet lady with her old-country touch
Miss her quaint broken English called *Pennsylvania Dutch*
I can still see her there at the station that day
Calling out to her baby as the train pulled away

Throw mama from the train a kiss, a kiss
Dry mama all your tears, won't you try?
Throw mama from the train a kiss, a kiss
And eat mama up all her pie

Can't believe that she's gone now, it's a lonely old town
Yet I know that her heavenly love keeps looking down
'cause whenever I happen to be passing through
I could swear she was there with the warmth I once knew

And I
Throw mama from the train a kiss, a kiss
Wave mama from the train a goodbye
Throw mama from the train a kiss, a kiss
And she throws one back from up high


...

Mama From The Train




   
Back to top
 
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #4 - 11. May 2006 , 23:37
 
da huong wrote on 11. May 2006 , 20:46:
Cry Cry Cry Cry Cry  bà chị lụ đạn ơi , bà chị làm em khóc đêm nay nè. Cao cả thay tình mẹ ! Cry Cry Cry Cry Cry Cry

Kể cho chị nghe nè. Hôm qua trường học thằng bé con em có tổ chức Mother Day Mass. Lể dành cho tất cả bà mẹ của học sinh trường. Mỗi đứa con nhận được hoa hồng đem đến tặng mẹ. Lúc thằng bé nhà em đem hoa hồng đến cho em , ôm em và nói " I love you " là em òa khóc. Cry Cry Cry Thằng bé con vội vàng ôm cứng em và bảo " Momy ơi , đừng khóc , người ta nhìn momy kìa ". Lau vội nước mắt và nhìn chung wanh , ai cũng nhìn mình , đúng là lãng òm !Lúc tan lễ về, ngồi lái xe nhớ lại , khóc nữa. Vô duyên tệ !!!!!



Cry Cry Cry Cry
Thì MD cũng dzô dziên hổng khác gì DH, Embarrassed Embarrassed
vừa đọc vừa hóc, mít ướt wa' xá! Cry Cry Cry
siu mờ trên đời có thằng con bất hiếu đến thế! Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes
ừa! nhưng mờ bộ hóc là dzô dziên siu ??? ??? ???
Cry Cry Cry Cry

Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
otgh
Gold Member
*****
Offline



Posts: 7180
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #5 - 12. May 2006 , 04:57
 
Mien_Du_Dalat wrote on 11. May 2006 , 23:37:
Cry Cry Cry Cry
Thì MD cũng dzô dziên hổng khác gì DH, Embarrassed Embarrassed
vừa đọc vừa hóc, mít ướt wa' xá! Cry Cry Cry
siu mờ trên đời có thằng con bất hiếu đến thế! Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes
ừa! nhưng mờ bộ hóc là dzô dziên siu ??? ??? ???
Cry Cry Cry Cry



Hihihi .... Chắc hồi xưa dzừa gánh nước dzừa hóc nên ...  thùng nước lúc nào cũng đầy tràn, không vơi mất 1 giọt  ...   Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes Chỉ có điều nước gánh thì lại hơi mặn 1 chút !!! Xài để luộc rau mà không cần nêm muối  !!! he hê hê ... Grin Grin Grin Grin Grin Như dzị hóc là hữu ích mà đâu có dzô dziên gì á đâu ???  Wink Grin Grin Grin

Back to top
« Last Edit: 12. May 2006 , 04:58 by otgh »  

OTGH
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #6 - 13. May 2006 , 22:02
 
Quote:
Hihihi .... Chắc hồi xưa dzừa gánh nước dzừa hóc nên ...  thùng nước lúc nào cũng đầy tràn, không vơi mất 1 giọt  ...   Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes Chỉ có điều nước gánh thì lại hơi mặn 1 chút !!! Xài để luộc rau mà không cần nêm muối  !!! he hê hê ... Grin Grin Grin Grin Grin Như dzị hóc là hữu ích mà đâu có dzô dziên gì á đâu ???  Wink Grin Grin Grin



nhờ hóc nên mắt mới sáng sủa đó ỔNG à! khỏi cần nhỏ thuốc trị đỏ mắt hay mắt long lanh Cheesy Cheesy Cheesy
Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #7 - 13. May 2006 , 23:02
 
Lại chuyện chui rào ăn cắp hoa! kể chuyện dài cho cả nha `nghe ...

MD nhớ hồi xưa khi còn học ở trung học. Trường BTX ở Dalạt sát bên cạnh Giáo Hoàng Học Viện, là trường Thần Học dạy các sinh viên trở thành Linh Mục. Học viện này có vườn hoa hồng rất đẹp, vườn hoa lại trồng sát hàng rào nhìn qua sân trường BTX. Mỗi mùa hoa hồng nở là bọn học trò con gái rủ nhau ăn trộm hoạ Phải tội các Frerè lại nuôi chó Bec-gê thật là dzữ dzằn, mà hàng rào thì không phải là cái hàng rào hiền lành như nhà của Xuân Dàọ mà lại là hàng rào kẽm gai mới chết chứ!

Một hôm, vì yêu hoa wá xá! nhìn thấy hoa hồng nở dầy vườn của Học viện, bọn con gái xúi nhau, chui rào ăn trộm, chẳng có đứa nào chịu chui rào, chỉ có MD là thuộc loại  nhỏ con, bụi đời, đồng ý chịu chui rào, nhưng hai đứa bạn gái phải ra sức  kéo  cái lổ hàng rào lớn ra để MD có thể thu mình chui qua lọt, nhờ nhỏ con nên cũng có lợị

MD đã chui qua cái lổ hàng rào thật là êm ả, bẻ một mớ hoa hồng, nhưng còn pha/i chọn những hoa hàm tiếu thật tươi,  vì đi ăn trộm phai trộm cho đáng chứ lị!

đang lui cui ôm mớ bông, nhưng hoa hồng có gai đâm đau tay quá! tính bẻ cái lá chuối rừng gói lại, thì nghe tiếng chó sủa, nhìn lên thấy anh chàng Bec-gê đang chạy tới!

chời ơi! hồn vía lên mây, bông hoa gì thảy ngay xuống đất, chạy chui qua hàng rào, thì nghe "xoạt", không hiểu chuyện gì!? lọt qua khỏi hàng rào, hai đứa bạn gái, chúng nó chạy trước mất tiêu! nhìn lại nghe có  tiếng người đuổi chó !? MD chạy được một đoạn rờ ra sau thấy mất tiêu cái vạt áo dài, rờ trên vai thấy cái áo lạnh lủng một lổ ..huu.

chời ơi! bây giờ làm sao đây!? đi dzìa mà không có cái vạt áo dài sau thì Má uýnh chết! MD quay trở lại, ngồi thật êm ngay cái lổ hàng rào nghe động tịnh, không nghe tiếng Chó nữa, ghé mắt dòm không thấy cái vạt áo đâu! MD quyết định chui qua tìm cái  vạt áo dài! Vừa mới nhắm mắt, nhắm mũi chui qua khỏi cái lổ, cái đầu MD đụng ngay cái bàn tay đang chực kéo MD đứng dậy . nhìn lên thấy một ông Frerè trẻ đang cười, tay cầm cái vạt áo dài ?! chời ơi muốn độn thổ ma `chết luôn cho rồi! MD quê quá! giựt lấy vạt áo, chui vội qua lại hàng rào, cái áo len bị móc đứt chỉ ngay vai áo bung ra làm lủng một lổ lớn. Lúc ấy MD còn nghe ông Frere kêu "đừng có sơ...". MD chạy luôn một mạch về lớp, nhưng không vô lớp, trốn học luôn,  ..hic..hic... MD dấu cái vạt áo trong bụng, về tới nhà, lừa không thấy Má thì chạy vào nhà thay áo ra dấu ngay dưới nệm giường, nhảy lên giường chùm mền ...bi.nh...hic..hic..

Chiều con nhỏ bạn gái về ghé đưa cho cái cặp và ... nguyên một bó hoa hồng gói trong lá chuối đưa cho MD. MD trợn mắt hỏi ":tụi bay dám chui qua rào lấy hả", bọn con gái nói: tao không thấy mầy về, nên chạy lại tìm thấy bó hoa hồng này để cạnh cái lổ chui rào của mày, nên đem về.!!..hiii... hôm đó MD bị ăn bánh tét nhân mây, cái tội rách áo!

Từ đó MD trốn luôn!!! nhưng ông Frere trẻ kia lại đi tìm..??!! Tongue

thui hổng kể nữa Cry

Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11589
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #8 - 14. May 2006 , 04:22
 
Í trời, sao ngừng ngang xương dzị  ??? ???
Back to top
 

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11589
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #9 - 14. May 2006 , 04:25
 
Mien_Du_Dalat wrote on 13. May 2006 , 23:02:
Lại chuyện chui rào ăn cắp hoa! kể chuyện dài cho cả nha `nghe ...
....
Từ đó MD trốn luôn!!! nhưng ông Frere trẻ kia lại đi tìm..??!! Tongue

thui hổng kể nữa Cry



Chời ơi ! Sắp tới chổ lâm ly sao tự nhiên nhỏng nhẽo dzị  Roll Eyes Roll Eyes. MD ơi kể tiếp đi chứ, Đ Đ lượm dìa cho MD bó hoa hồng nè, chi thiếu món lá chuối để gói thôi  Tongue Tongue  Grin

...


Back to top
 

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #10 - 14. May 2006 , 09:48
 
Quote:
Chời ơi ! Sắp tới chổ lâm ly sao tự nhiên nhỏng nhẽo dzị  Roll Eyes Roll Eyes. MD ơi kể tiếp đi chứ, Đ Đ lượm dìa cho MD bó hoa hồng nè, chi thiếu món lá chuối để gói thôi  Tongue Tongue  Grin

...




Chị Đ Đ ui!
MD nói là MD đi chốn rùi mờ Tongue Tongue Tongue Embarrassed
tại ỔNG là ông Frere sắp ra làm Linh Mục, nên sợ lắm Tongue
Cảm ơn chị , bó hoa này giống y chang đó nha!
Wink Cheesy
Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
otgh
Gold Member
*****
Offline



Posts: 7180
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #11 - 14. May 2006 , 12:13
 
Mien_Du_Dalat wrote on 14. May 2006 , 09:48:
Chị Đ Đ ui!
MD nói là MD đi chốn rùi mờ Tongue Tongue Tongue Embarrassed
tại ỔNG là ông Frere sắp ra làm Linh Mục, nên sợ lắm Tongue
Cảm ơn chị , bó hoa này giống y chang đó nha!
Wink Cheesy


Hahaha.... Sao lại nhắc tới ỔNG nửa dzồi  , rồi lại nói ỔNG sắp làm Linh Mục  !!!  ỔNG tu sơ sơ hà mà đâu ngờ ...lên chức nhanh dzị ???  Grin Grin Grin
Back to top
 

OTGH
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #12 - 14. May 2006 , 20:11
 
Quote:
Hahaha.... Sao lại nhắc tới ỔNG nửa dzồi  , rồi lại nói ỔNG sắp làm Linh Mục  !!!  ỔNG tu sơ sơ hà mà đâu ngờ ...lên chức nhanh dzị ???  Grin Grin Grin


thui đi Ông nội, ỔNG mờ làm được Linh Mục thì chắc cả ngày ỔNG rên rỉ "vì tui là Linh Mục....nên em hổng đi nhà thờ" Cheesy Cheesy Cheesy
Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
otgh
Gold Member
*****
Offline



Posts: 7180
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #13 - 14. May 2006 , 21:04
 
Mien_Du_Dalat wrote on 14. May 2006 , 20:11:
thui đi Ông nội, ỔNG mờ làm được Linh Mục thì chắc cả ngày ỔNG rên rỉ "vì tui là Linh Mục....nên em hổng đi nhà thờ" Cheesy Cheesy Cheesy


Đúng dzồi ! Đúng dzồi ! Sao mà biết hết dzậy ta ... Wink Wink Grin Grin Grin Grin
Back to top
 

OTGH
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #14 - 14. May 2006 , 22:00
 
Quote:
Đúng dzồi ! Đúng dzồi ! Sao mà biết hết dzậy ta ... Wink Wink Grin Grin Grin Grin


uhm! chúng tim đen Shocked Shocked Shocked
MD nói thiệt hồi đó tại mình còn nhỏ xíu hổng biết gì! chỉ hay nghịch ngợm hổng có để ý tới bọn con trai! bọn con gái cứ xúm lại xỉa xói " nếu mi mờ để ỔNG gặp là mi bị tội đó!" ??? ??? ??? làm con nhỏ sợ tội muốn chớt! Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes
uhm! bi chừ nghĩ lại "tội gì chứ ??? ỔNG đi tìm mình mờ, mình có tìm ỔNG đâu mờ nói mình có tội ??? ???Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes
sau này nghe ỔNG cũng xuất tu, ý mờ hổng phải vì MD đâu nha!
MD chỉ có gặp một lần mà chạy muốn chớt! mấy lần sau thấy ỔNG đứng trên cửa sổ nhìn xuống, để cho MD tự do ăn trộm hoa..hii..hii.. hình như ỔNG nhốt chó lại, nên hổng nghe chó sủa..hii..hii..
Rồi có một lần nữa đi trại Lửa Hồng, được tổ chức tại Học Viện này, lúc đó lên lớp đệ Tứ, các học sinh của các trường trung học về tham dư. MD lại gặp...... nhưng là một Frere khác Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes ??? ??? ???
Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided
Back to top
« Last Edit: 14. May 2006 , 22:03 by Mien_Du_Dalat »  

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #15 - 14. May 2006 , 22:12
 
nhận được câu chuyện này do người bạn gởi cho, gởi cả nhà đọc cho vui
Cry Cry Cry Cheesy Cheesy

Nhân ngày lễ tạ ơn Mẹ  ,
    Khải xin gửi đến các anh chị và các bạn một câu chuyện có thật mà nhân vật chính ..Davis  , người kể câu chuyện này cũng đã ngủ yên  trong  vĩnh hằng  cách đây không lâu ...
   ********************************************

    Ngày nhớ ơn mẹ , hay  còn đ-ược gọi là  Mother Day .....Davis không về thăm mẹ anh được ..Me. anh ở xa  . Anh có một  cái hẹn trong sở làm của anh  vào cuối  tuần với một khách hàng mới của công ty ...Anh quyết định  sẽ mua hoa gửi tặng cho mẹ thay  vì  về thăm  vì anh không muốn bỏ lở một cơ hội kinh doanh ...
    Davis ra cửa hàng bán hoa ...Anh đi tìm một bó hoa thật đẹp cho mẹ anh ...Nhưng thay vì tìm  mua hoa anh lại chú ý đến một đứa bé  vào khoảng 14 - 15 tuổi  mà cử chỉ trông hơi khác thường ..
     Thằng bé nhìn những bông hoa  và soi mói  nhìn vào giá tiền của bó hoa   , rồi nó cho  tay vào túi quần , chậm rã i lôi ra và đếm từng đồng bạc ..rồi nó lại bỏ tiền trở lại vào  trong túi quần ..mắt nó hơi buồn   và lại tiếp tục  nhìn sang những bó hoa khác ..thỉnh thoảng nó  dừng lại trước một vài bó hoa mà nó ưa thích ...Thằng bé lại  đem tiền ra đếm và buồn bã  bỏ tiền vào lại trong túi  quần ...
     Thằng bé muốn mua hoa  mà không đủ tiền để trả . Davis  tiến  lại gần thằng bé và  anh  khám phá ra một điều là thằng bé cũng muốn mua hoa để tặng cho mẹ của nó nhân ngày lễ tạ ơn...
     Davis bảo thằng bé  " Cháu muốn mua bó hoa nào thì cứ nói .. nếu thiếu tiền thì chú  sẽ  cho phần còn  thiếu .."  Thằng bé  mừng  rở  chọn ngay một bó hoa  va ` cám ơn  Davis  rối rít ...
     Vì cảm kích tấm lòng của thằng bé ...Davis  muốn  đưa nó về  nhà ....Anh chở thằng bé về nhà  của nó nhưng thằng bé lại chỉ về hướng khác ...Nó bảo anh chở nó về   một nghĩa trang ở cách đó không xa lắm ...
      Davis  vô  cùng ngạc nhiên  và  cảm động khi nhìn thấy thằng bé ôm bó  hoa và quỳ xuống trước một nấm mộ mà cỏ được  cắt xén  khá tươm tất ..Nó đặt  bó hoa  trước tấm mộ bia của mẹ nó  ..và nó quay lại  nói cùng Davis  : " Mẹ của cháu  mất được hơn một năm rồi ..."..
     Ngẹn ngào và cảm phục trước tấm lòng của thằng bé ..Davis không cầm được nước mắt ....
     Davis  gọi về  văn phòng của mình và anh  xin  đời lại ngày hẹn vào tuần sau ..Anh mua lấy bó hoa đẹp nhất , anh lái xe về  thăm mẹ  trong ngày hôm ấy ..anh quyết định gặp mẹ anh vì anh nghĩ rằng    anh còn mẹ , anh còn hạnh phúc và may mắn hơn thằng bé ....
     Trên  con đường về thăm mẹ của anh trong ngày lễ tạ ơn ..Hình ảnh của thằng bé ôm bó hoa đặt bên cạnh mộ bia của mẹ nó  làm Davis  càng thấy yêu quí mẹ anh nhiều hơn ...

         Cầu nguyện ơn trên ban phước lành đến các  bà Mẹ  của tất cả những anh , chị và các bạn còn bên cạnh mình những người Mẹ kính yêu...
        
         NHK.
Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
otgh
Gold Member
*****
Offline



Posts: 7180
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #16 - 15. May 2006 , 05:08
 
Mien_Du_Dalat wrote on 14. May 2006 , 22:00:
uhm! chúng tim đen Shocked Shocked Shocked
MD nói thiệt hồi đó tại mình còn nhỏ xíu hổng biết gì! chỉ hay nghịch ngợm hổng có để ý tới bọn con trai! bọn con gái cứ xúm lại xỉa xói " nếu mi mờ để ỔNG gặp là mi bị tội đó!" ??? ??? ??? làm con nhỏ sợ tội muốn chớt! Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes
uhm! bi chừ nghĩ lại "tội gì chứ ??? ỔNG đi tìm mình mờ, mình có tìm ỔNG đâu mờ nói mình có tội ??? ???Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes
sau này nghe ỔNG cũng xuất tu, ý mờ hổng phải vì MD đâu nha!
MD chỉ có gặp một lần mà chạy muốn chớt! mấy lần sau thấy ỔNG đứng trên cửa sổ nhìn xuống, để cho MD tự do ăn trộm hoa..hii..hii.. hình như ỔNG nhốt chó lại, nên hổng nghe chó sủa..hii..hii..
Rồi có một lần nữa đi trại Lửa Hồng, được tổ chức tại Học Viện này, lúc đó lên lớp đệ Tứ, các học sinh của các trường trung học về tham dư. MD lại gặp...... nhưng là một Frere khác Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes ??? ??? ???
Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided Undecided

 
Hahaha.... Bửa nay ỔNG mới có thì giờ đọc chuyện ăn chộm hoa hồng và ông Frere trẻ !!! Ai biểu gọi ông Frere là "ỔNG" làm tui tưởng nói tui chứ  ...so dzi nghen !!! Mà cũng là 1 kỷ niệm đẹp hồi xưa.... bị rách áo nhưng rất nhẹ nhàng và nhớ đời hỉ ??  Wink Wink Wink Grin Grin Grin Hèn chi có nhiều ổng xuất viện hổng thèm tu nửa  ... vì thấy tu thì lỗ lã wa' mà ... Grin Grin

Back to top
 

OTGH
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #17 - 15. May 2006 , 16:12
 
Mien_Du_Dalat wrote on 14. May 2006 , 09:48:
ông Frere sắp ra làm Linh Mục,


Hihihi, khổ đời quá đi Miên Du à  Grin

Tu dòng Frère là khác mà tu để thành linh mục là khác hoàn toàn , chú không phải mấy Frère tu già rồi thành linh mục má ơi  Roll Eyes 
Trong d/d có nhiều người công giáo mà mấy bỮa rồi hỏng ai chịu vô giải thích dùm , làm phật tử phải nhào ra cải chính.   Undecided Grin
Back to top
 
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #18 - 15. May 2006 , 18:49
 
Quote:
Hihihi, khổ đời quá đi Miên Du à  Grin

Tu dòng Frère là khác mà tu để thành linh mục là khác hoàn toàn , chú không phải mấy Frère tu già rồi thành linh mục má ơi  Roll Eyes  
Trong d/d có nhiều người công giáo mà mấy bỮa rồi hỏng ai chịu vô giải thích dùm , làm phật tử phải nhào ra cải chính.   Undecided Grin


MY ui! kêu lớn lên, Cóc thiền là Tu xuất đó Cheesy Cheesy Cheesy
Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #19 - 18. May 2006 , 00:35
 
Made In Việt Nam

Tiểu Tử

...

Lẽ ra bữa nay bác sĩ Lê không nhận bịnh nhân vì là ngày nghỉ trong tuần của ông. Nhưng hôm qua, trong điện thoại, nghe giọng cầu khẩn của người bịnh ông không nỡ từ chối. Người đó – ông đoán là một cô gái còn trẻ – nói chuyện với ông bằng tiếng Mỹ. Cô ta hỏi ông nhiều lần :

- Có phải ông là bác sĩ Lee không ?

Tên ông là Lê. Cái tên Việt Nam đó ở xứ Mỹ này người ta viết là " Lee ", nên ông được gọi là " ông Lee " ( Li ).

Ông ôn tồn trả lời nhiều lần :

- Thưa cô, phải. Tôi là bác sĩ Lee đây.

- Phải bác sĩ Lee chuyên về châm cứu và bắt mạch hốt thuốc theo kiểu á đông không?

- Thưa cô phải.

- Có phải phòng mạch của bác sĩ ở đường Green Garden không ?

Bác sĩ Lê, đã ngoài sáu mươi tuổi, tánh rất điềm đạm, vậy mà cũng bắt đầu nghe bực ! Tuy nhiên, ông vẫn ôn tồn :

- Thưa cô phải. Xin cô cho biết cô cần gì ?

Giọng cô gái như reo lên :

- Vậy là đúng rồi ! Con Cathy bị bịnh suyễn nói bác sĩ chữa bịnh hay lắm. Cả nhà nó, kể luôn ba má ông bà nó đều đi bác sĩ hết.

Đến đây thì ông bác sĩ già đó không kềm được nữa, ông xẵng giọng :

- Cám ơn cô. Bây giờ xin dứt khoát cho tôi biết coi cô muốn cái gì ?

Giọng bên kia đầu dây như lắng xuống :

- Tôi xin lỗi bác sĩ. Xin lỗi. Tôi muốn xin bác sĩ cái hẹn cho ngày mai. Tôi bịnh…

- Mai là ngày nghỉ trong tuần, phòng mạch không có mở cửa. Ngày khác vậy.

- Ngày mai cũng là ngày nghỉ của tôi nữa, bác sĩ à.

- Cô đã bịnh thì cứ xin nghỉ để đi bác sĩ, ngày nào lại không được !

Một chút im lặng ở đầu dây bên kia rồi giọng người con gái bỗng nghe thật buồn :

- Họ đâu có cho nghỉ, bác sĩ. Họ nạt vô mặt :" Mầy muốn nghỉ thì mầy nghỉ luôn đi. Thiếu gì đứa muốn vào làm chỗ của mày. Mày biết không ?"

Giọng nói như nghẹn ngang ở đó, rồi tiếp :

- Không có việc làm là chết, bác sĩ à…

Ông bác sĩ già làm thinh, suy nghĩ. Đầu dây bên kia, cô gái van lơn :

- Xin bác sĩ thông cảm. Tôi sợ bịnh nặng hơn, không đi làm nổi nữa là mất việc. Xin bác sĩ thông cảm. Xin thông cảm.

- Ờ thôi, để tôi ráng giúp cô. Sáng mai, chín giờ. Phòng mạch của tôi ở số…

- Cám ơn bác sĩ. Cám ơn ! Con Cathy có chỉ phòng mạch của bác sĩ rồi.

- Xin lỗi. Cô tên gì ?

- Kim. K, I, M.

Bác sĩ Lê vừa ghi vào sổ hẹn vừa nghĩ :" Tội nghiệp ! Chắc lại đi làm lậu nên mới bị người ta hâm he như vậy. Theo cách phát âm thì cô này có vẻ là người á đông. Tên Kim chắc là Đại Hàn. Để mình phải phone lại cô Cathy hỏi cho chắc ý kẻo gặp thứ lưu manh thừa dịp ngày nghỉ không có cô phụ tá, nó 'su' mình thì khổ ! "

...

Đúng chín giờ, chuông cửa phòng mạch reo. Ông bác sĩ già bước ra mở cửa. Đứng trước mặt ông là một cô gái á đông còn trẻ, ăn mặc theo kiểu " punk " : quần áo có tua có tụi, tóc dựng đứng hỗn loạn như con gà xước, đeo nhiều vòng sên bằng bạc to như dây lòi tói, đầy cổ đầy hai cườm tay, mang cái xắc đỏ cũng có tua có tụi. Bác sĩ Lê, quá đỗi ngạc nhiên, chưa kịp hỏi gì, thì cô gái nói bằng tiếng Mỹ rất lưu loát :

- Chào bác sĩ. Tôi là Kim, bịnh nhân đã gọi điện thoại cho ông hôm qua. Tôi có làm cho bác sĩ chờ không ?

Bác sĩ Lê chưa hết ngạc nhiên, trả lời một cách máy móc :" Không ! Không !". Rồi ông bước tránh qua một bên :" Mời cô !"

Vào phòng mạch, ông đưa cho cô cái áo blouse trắng ngắn tay :

- Cô đến phía sau bình phong bỏ hết quần áo chỉ mặc quần lót thôi, rồi khoác ngược áo blouse này, lưng áo nằm về phía trước.

Trong lúc cô gái loay hoay làm theo lời dặn, ông bác sĩ già gọi phone về nhà, nói bằng tiếng Việt :

- Bịnh nhân của anh tới rồi, đang thay đồ. Chắc một giờ nữa là xong. Em đợi anh về rồi mình đi chợ.

Cô gái bỗng ló đầu ra khỏi bình phong mỉm cười nhìn ông, gương mặt thật rạng rỡ, định nói gì nhưng rồi không nói, thụt đầu vào tiếp tục cởi quần áo.

Một lúc sau cô ta bước ra, mắt ngời lên sung sướng, nói bằng tiếng Việt, giọng như reo lên :

- Bác sĩ là người Việt Nam mà con cứ tưởng là người Tàu ! Tên " Lee " nghe Tàu trân !

- Ủa ! Vậy mà tôi cứ nghĩ cô là người Đại Hàn chớ !

Rồi cả hai cùng cười, cái cười rất sảng khoái. Tình đồng hương trên đất khách bỗng thấy thật ấm, thật đầy…Ông bác sĩ già nhìn cô bịnh nhân trẻ mặc áo blouse trắng đứng trước mặt ông mà không còn thấy cô gái " punk" hồi nãy nữa !

Ông đưa cho cô cái dĩa, rồi vừa chỉ cái giường cao vừa nói :

- Cô cởi hết đồ nữ trang để vào đây, rồi lên nằm trên này để tôi chẩn mạch.

Cô gái làm theo như cái máy.

Phòng mạch được trang trí rất đơn sơ, nhưng thật yên tịnh. Trong không khí có mùi thơm dìu dịu của moxa ( ngải cứu, đốt lên để hơ huyệt ). Cái giường khám bịnh cao ngang tầm tay của bác sĩ. Ở một đầu giường có gắn thêm một vòng bằng da để chịu cái đầu của bịnh nhân, và khi bịnh nhân nằm sấp để châm cứu trên lưng thì mặt người bịnh nằm trọn trong vòng da. Như vậy, người bịnh không cảm thấy khó chịu nhờ khoảng trống ở giữa vòng da giúp người bịnh vẫn thở đều đặn và mắt được nhìn thoải mái xuống sàn nhà.

Bác sĩ đặt hai bàn tay lên cánh tay trần của cô gái, ôn tồn hỏi :

- Cô bịnh làm sao ? Nói tôi nghe.

- Con ngủ không được, đêm nào cũng trằn trọc tới khuya. Hay bị chóng mặt. Đang đứng làm việc, tự nhiên muốn sụm xuống làm sợ toát mồ hôi. Con lo quá, bác sĩ. Mất việc làm chắc con chết quá, bác sĩ !

Ông Lê bóp nhẹ cánh tay bịnh nhân :

- Cô yên tâm. Có tôi đây. Mà…cô có uống rượu không ?

- Không. Dạ thưa không.

- Cô có hút thuốc không ?

- Dạ thưa có. Hút cũng nhiều…

- Cô có xì ke ma túy gì không ? Nói thiệt tôi nghe.

- Mấy thứ đó con không dám rớ. Hồi ở bên nhà thằng anh con chết vì ba cái thứ ôn dịch đó, bác sĩ à. Vì vậy, con sợ lắm !

- Cô le lưỡi tôi coi.

- Ùm. Được rồi. Bây giờ cô nằm yên, để hai tay xuôi theo thân mình, nhắm mắt, thở đều đặn.

Ông bác sĩ già đứng cạnh giường đặt mấy đầu ngón tay lên cườm tay cô gái, chăm chú bắt mạch. Một lúc sau, ông bước vòng qua phía đối diện bắt mạch tay bên kia. Bộ mạch nói lên một sự rối loạn tâm thần. Cô gái này chất chứa quá nhiều ẩn ức nên sanh bịnh. Ông nhìn cô gái đang nhắm mắt thở đều : gương mặt Việt Nam đó, bỏ đi món tóc "punk", vẫn toát ra nét nhu mì dễ thương. Ông cảm thấy tội nghiệp cô bịnh nhân trẻ này và thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đã đưa đẩy cô ta trôi qua xứ Mỹ để có một cuộc sống mà ông đoán là thật bấp bênh, qua cuộc nói chuyện trong điện thoại. Ông nói :

- Bây giờ, cô nằm sấp xuống để tôi châm trên lưng.

Cô gái mở choàng mắt nhìn ông, mỉm cười, một nụ cười đầy tin tưởng. Ông bác sĩ nói tiếp :

- Cô đừng sợ. Châm không có đau. Còn nhẹ hơn kiến cắn nữa.

Cô gái trở mình nằm sấp, hai vạt áo blouse rớt xuống hai bên, bày ra cái lưng thon thon với nước da ngà ngà. Theo thói quen, trước khi châm, bác sĩ vuốt lưng bịnh nhân vài lần để bịnh nhân đỡ bị stress. Lần này, khi vuốt xuống thắt lưng, ông để ý thấy dưới làn vải mỏng của quần lót có một vết bầm nằm vắt ngang phía trên của mông. Ngạc nhiên, ông hỏi :

- Cô bị ai đánh hay sao mà bầm vậy ?

Cô gái cười khúc khích :

- Bác sĩ coi đi !

Ông già kéo quần lót xuống một chút, thì ra không phải vết bầm mà là hàng chữ xâm màu chàm : Made In VietNam ! Ông bật cười, vừa kéo lưng quần lót lên vừa nói :

- Cha…Bạo quá há !

Cô gái hơi rút cổ cười khúc khích vài tiếng nữa rồi im. Chắc cô đang sống lại với một vài kỷ niệm nào đó. Ông bác sĩ già áp hai lòng bàn tay lên lưng bịnh nhân, nhưng bây giờ sao ông không còn thấy cười được nữa. Hàng chữ " Made In VietNam" nhắc cho ông rằng con người nằm đây là sản phẩm của quê hương ông, cái quê hương đã mấy chục năm xa cách, cái quê hương mà ở đó ông không còn ai để nhớ, nhưng ông còn quá nhiều thứ để nhớ. Những thứ cũng mang dấu ấn " Made In VietNam ", từ con trâu cái cày, từ mảnh ruộng vườn rau, từ hàng cau rặng dừa, từ con đường đất đỏ đến con rạch nhỏ uốn khúc quanh quanh…Chao ơi ! Bỗng nhiên sao mà nhớ thắc thẻo đến muốn trào nước mắt…

Ông bác sĩ vuốt lưng cô bịnh nhân thật chậm để cho niềm xúc động lắng xuống tan đi. Ông có cảm tưởng như ông đang sờ lại được quê hương, có chỗ cao chỗ thấp, có phù sa đất mịn…Tự nhiên, ông muốn nói lên một tiếng " cám ơn ". Ông muốn cám ơn cô bịnh nhân đã mang quê hương đến với ông bằng hàng chữ nhỏ xâm trên bờ mông, chỉ vỏn vẹn có một hàng chữ nhỏ. Và ông cũng muốn nói với cô, nói một cách thật tình, không văn chương bóng bẩy, nói như ông nói cho chính ông, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi :" Tôi cũng made in VietNam đây !". Nhưng rồi ông làm thinh tiếp tục vuốt lưng người bịnh. Ông biết rằng cô gái không thể nào hiểu được ông, một bác sĩ già vừa quá sáu mươi, đã gần nửa tuổi đời lưu vong trên xứ Mỹ, có đầy đủ tiền tài danh vọng mà cũng xâm hàng chữ " Made In VietNam", xâm ở trong lòng…

Bác sĩ im lặng dò huyệt châm kim. Bỗng cô bịnh nhân nói, giọng buồn buồn, làm như cô vừa xem lại hết một đoạn phim đời nào đó :

- Thằng bồ của con xâm cho con để làm kỷ niệm hồi tụi này còn ở Louisiana. Ảnh là thợ xâm…

- Ủa ! Rồi sao bây giờ cô ở đây ?

- Con theo ba má con dọn về Cali, ổng bả nói ở Cali bạn bè nhiều làm ăn dễ.

- Ờ…người Việt mình thích ở miền nam Cali lắm.

Ngừng một chút bác sĩ lại nói, trong lúc hai tay vẫn tiếp tục châm kim :

- Ở Cali khí hậu tốt hơn nhiều tiểu bang khác. Mà…ba má cô làm gì ?

Cô gái làm thinh một lúc mới trả lời, giọng ngang ngang :

- Qua đây rồi ổng bả đá đít nhau. Bả lấy thằng Mễ chủ pressing , còn ổng thì chó dắt ổng ôm được một bà Mỹ goá chồng có tài sản.

- Vậy rồi cô ở với ai ?

- Với ba con. Bà Mỹ cho con đi học college, ba con lái xe đưa rước.

- Vậy mà sao hôm qua, trong phone, cô nói cô đi làm ?

Giọng cô gái như nghẹn lại :

- Khổ lắm bác sĩ.

Cô ngừng một chút để nén xúc động rồi nói tiếp :

- Ba con ỷ có bà Mỹ nuôi, không chịu đi làm. Tối ngày cứ đi nhậu với bạn bè, rồi nay đổi xe, mai đổi xe…Con nói ổng, chẳng những ổng không nghe mà còn chửi con: "Tiên Tổ mày ! Tao đem mày qua đây đặng mày dạy đời tao hả !"

Lại ngừng một chút mới nói được, nói như trút hết ẩn ức còn lại :

- Có lần ổng xáng cho con mấy bạt tay đau điếng…

Rồi nghẹn ngào :

- Lần đó, con bỏ nhà đi hoang…

Nói xong, hít một hơi thật sâu rồi thở hắt ra một cái như vừa làm xong một việc gì thật khó !

Ông bác sĩ im lặng, tiếp tục châm, mà nghe thương hại cô bịnh nhân vô cùng. Cô ta cỡ tuổi con gái út của ông. Con gái út của ông đang học đại học, còn cô này thì đang sống trong hoàn cảnh quá bấp bênh. Cả hai đều Made In VietNam hết !

Châm xong, ông đặt tay lên cánh tay trần của bịnh nhân, vuốt vuốt như vuốt tay một đứa con đang cần được vỗ về an ủi :

- Cô cứ nằm yên như vầy độ mười lăm phút, nghen.

Tiếng " dạ " bỗng nghe như đầy nước mắt.



Sau khi gỡ kim, ông bác sĩ bóp tay bóp chân bịnh nhân một lúc rồi nói :

- Bây giờ thì cô mặc quần áo vào được rồi.

Cô gái ngồi lên nói " cám ơn " mà đôi mắt vẫn còn mọng nước. Cô bước vào sau bình phong, chậm rãi mặc quần áo, làm như cô muốn những xúc cảm hồi nãy có thời gian để thấm sâu vào lòng…

Khi cô bước ra, gương mặt cô đã trở lại rạng rỡ. Cô mỉm cười nhìn ông bác sĩ, rồi, vừa mở cái xắc đỏ vừa hỏi :

- Bao nhiêu vậy, bác sĩ ?

- Không có bao nhiêu. Chừng chữa xong rồi cô hãy trả.

- Bác sĩ cho con trả mỗi lần, chớ đợi hết bịnh, tiền đâu con trả. Cái thứ đi làm lậu như con…

- Cô yên tâm. Rồi mình tính.

Ông bác sĩ đưa dĩa  nữ trang :

- Cô đừng quên mấy thứ này.

Cô gái phì cười, không đeo vào người mà trút hết vào xắc, rồi hỏi :

- Chừng nào con trở lại nữa, bác sĩ ?

- Tuần tới, cũng ngày này giờ này.

Bác sĩ mở tủ thuốc, chọn lấy ra hai chai có dán nhãn sẵn, trao cho bịnh nhân :

- Trên nhãn có ghi liều lượng: mỗi ngày, cô uống sáng trưa chiều, mỗi thứ hai capsule.

Ra đến cửa phòng mạch, ông bác sĩ già cầm bàn tay cô bịnh nhân trong hai bàn tay của ông, lắc nhẹ :

- Bớt hút thuốc đi, nghen ! Từ từ rồi tôi sẽ chữa cho cô vụ ghiền thuốc nữa.

Ngập ngừng một chút rồi ông nói, giọng ôn tồn :

- Tôi muốn nói với cô điều này…

Cô gái chớp chớp mắt chờ. Chắc là lần đầu tiên cô được một ông già cầm tay một cách ân cần như vậy. Bác sĩ nói :

- Mình là người Việt Nam, ăn mặc theo " punk " không hạp với con người với bản chất của mình chút nào hết. Cô đâu có xấu mà cô làm cho xấu đi, uổng lắm ! Mình phải xứng đáng là Made In VietNam, chớ cô.

Cô gái nhìn vào mắt ông bác sĩ, không nói gì hết, chỉ siết tay ông già một cái thật mạnh, rồi bước ra xe, một chiếc xe hơi cũ mèm phải đề tới bốn lần mới nổ máy !



*      *      *



Ông bác sĩ Lê ngồi uống cà phê với tôi ở khu Phước Lộc Thọ ( Orange County – Nam Cali ). Ông kể tiếp :

- Anh biết không, lần sau cô Kim đến phòng mạch, ăn mặc chải gỡ rất dễ thương. Chẳng có chút gì " punk " hết ! Lần khám bịnh đó, tôi có hỏi cổ sao không về sống với thằng bồ ở Louisiane có phải hơn là sống cù bơ cù bất ở Cali. Cổ nói như mếu :" Ảnh có vợ rồi ". Tôi biết : như vậy là cổ kẹt thiệt. Tôi đem chuyện này kể cho vợ tôi nghe. Bả cảm động lắm nên đề nghị giúp tiền cho cổ học một cái nghề gì đó, uốn tóc, làm nail chẳng hạn, để có công ăn việc làm  vững chắc hơn là đi làm lậu tầm bậy tầm bạ.

Tôi nói chen vào :

- Chắc gì cổ chịu. Nghe anh kể, tôi đoán chị này cũng tự ái lắm.

- Anh nói đúng. Cổ từ chối hoài. Sau nhờ vợ tôi mời cổ về nhà khuyên nhủ, coi như là trong thân tình, cổ mới chịu. Hôm đó, cổ ôm vợ tôi vừa khóc vừa nói :" Con cám ơn ông bà. Cám ơn ông bà ".

- Sau đó cổ có đi học thiệt không ?

- Có. Học làm nail. Học giỏi nữa là khác.

- Cổ bây giờ ra sao rồi ?

- Mới đầu làm thợ, làm công cho người ta. Bây giờ vừa làm thợ vừa làm chủ. Khá lắm !

- Mừng cho cổ, há !

- Cổ xách đồ nghề tới làm nail cho vợ tôi, con út và hai con dâu tôi thường lắm. Làm không lấy tiền. Cổ cứ nói với mấy con tôi :" Tôi chịu ơn ông bà bác sĩ biết đời nào mới trả cho hết, mấy cô biết không ? Tôi không dám nói ra, chớ mỗi lần tôi cầm bàn tay của bà bác sĩ để làm nail, tôi vẫn nghĩ không có bàn tay này thì làm gì tôi thoát ra khỏi hoàn cảnh của tôi hồi đó để có những gì tôi có hôm nay…"

- Dễ thương quá !

- Noel, ngày Tết…cổ đều mang quà đến tặng vợ chồng tôi.

- Con người ở có tình có nghĩa quá, anh há !

- Đã hết đâu ! Cổ còn nhớ đến ngày giỗ của ba má tôi nữa. Mấy ngày đó tụi con tôi có đứa quên chớ cô ta không bao giờ cô ta quên. Ngày đó, cô đem đồ tới cúng và ở lại phụ vợ tôi nấu nướng dọn giẹp nữa. Cho nên vợ tôi quí cô ta lắm !

Nói xong, bác sĩ Lê vỗ vai tôi, cười :

- Anh thấy không ? Cô ta mới đúng là " Made In VietNam " đó ! Còn nguyên chất, hè !

Ông Lê vui vẻ cầm tách cà phê vừa nhâm nhi vừa nhìn quanh. Người Việt Nam đi đầy trong thương xá. Cung cách có hơi khác nhưng nói năng thì y hệt như ở bên nhà. Một vài tiếng chửi thề rớt rơi đâu đó, nghe rất tự nhiên. Bỗng ông quay sang hỏi tôi mà nghe như ổng tự hỏi ổng :

- Không biết ở xứ Mỹ này, đồng hương lưu vong, có ai lâu lâu nhớ lại rằng mình "Made In VietNam ", không ?

- Có chớ anh ! Nhưng cũng có người chẳng những không nhớ mà còn tự đóng cho mình con dấu " Made In USA " nữa, anh à. Thứ đó bây giờ thấy cũng nhiều !

Tôi đưa tách lên môi uống ngụm cà phê cuối cùng, bỗng nghe cà phê sao mà thật đắng…
Back to top
 
 
IP Logged
 
otgh
Gold Member
*****
Offline



Posts: 7180
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #20 - 18. May 2006 , 07:03
 
Quote:
Made In Việt Nam

Tiểu Tử

...



Kổm ơn SP Phu De cho mọi người đọc bài Made in Việt Nam này  ... Hay wa' nghen !!!  Wink Wink Grin Grin Grin
Back to top
 

OTGH
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #21 - 18. May 2006 , 08:54
 
Quote:
Kổm ơn SP Phu De cho mọi người đọc bài Made in Việt Nam này  ... Hay wa' nghen !!!  Wink Wink Grin Grin Grin


siu mờ cô gái này hên wa' nghen! gặp được ông bác sĩ thiệt tốt đó! hổng biết ổng ở đâu? hồi đó MD mới qua siu hổng tìm thấy ổng cà! chỉ gặp toàn "Made in xạo" hông hà! Shocked Shocked Shocked
Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
otgh
Gold Member
*****
Offline



Posts: 7180
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #22 - 18. May 2006 , 10:22
 
Mien_Du_Dalat wrote on 18. May 2006 , 08:54:
... hồi đó MD mới qua siu hổng tìm thấy ổng cà! chỉ gặp toàn "Made in xạo" hông hà! Shocked Shocked Shocked

Mai mốt mà có nói về mấy ông "Made In Xạo" thì cứ tự nhiên nói  ....  Tongue Tongue Nhưng làm ơn đừng có quote cái post của OTGH rồi nói  "Made In Xạo" , người ta hiểu lầm ỔNG xạo làm sao  ???  Sad Sad Sad Grin Grin  Hay là lần này cố tình quote đó để ai gặp OTGH cũng ....chạy trước !!! Chỉ còn có MD thui ha ... Wink Wink Wink Grin Grin Grin


Back to top
 

OTGH
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #23 - 18. May 2006 , 13:57
 
Quote:
Mai mốt mà có nói về mấy ông "Made In Xạo" thì cứ tự nhiên nói  ....  Tongue Tongue Nhưng làm ơn đừng có quote cái post của OTGH rồi nói  "Made In Xạo" , người ta hiểu lầm ỔNG xạo làm sao  ???  Sad Sad Sad Grin Grin  Hay là lần này cố tình quote đó để ai gặp OTGH cũng ....chạy trước !!! Chỉ còn có MD thui ha ... Wink Wink Wink Grin Grin Grin




Cheesy Cheesy Cheesy Cheesy Cheesy
đâu đo' á! Grin Grin Grin Grin Grin Grin
Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #24 - 19. May 2006 , 00:12
 
Nội

Tiểu Tử
                                                                                                                    

         ...
- Nội xuống kìa !                                              

         - Nội xuống ! Ê ! Nội xuống !

         - Nội xuống !

         Bầy con tôi reo mừng, chạy ùa ra ngõ. Ngoài đó, tiếng xích lô máy cũng vừa tắt.

         Trong buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tôi, im lặng.Tôi hiểu : bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và hai đứa lớn sẽ vượt biên ? Sáng sớm mai là đi rồi …

         Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ :

         - Không sao đâu. Để anh lựa lúc nói chuyện đó với má.

         Khi vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa xách giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói, hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà nội chúng nó từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh trái thịt thà… Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được thay thế bằng những món ăn do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm-nếm. Nhờ vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất vào tay Việt Cộng… Mấy con tôi thường gọi đùa bà Nội bằng « trưởng ban hậu cần »  hoặc chị «  nuôi » và lâu lâu hay trông có bà nội xuống. Và lúc nào câu chào mừng của chúng nó cũng đều giống như nhau : «  Nội mạnh hả Nội ? Nội có đem gì xuống ăn không Nội ? ». Mới đầu, tôi nghe chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu thốn triền miên của chế độ xã hội chủ nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn thôi !

          Con gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay cặp-kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lúc nào xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở điều đó và thường nói :  « Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể chuyện thôi ! ».Thật ra, nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại, bà nó cho đó là một thi vị của tuổi thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe, để lâu lâu bà cười chảy nước mắt.

          Tôi hỏi má tôi :

          - Sao bữa nay xuống trưa vậy nội ?

          Vợ chồng tôi hay gọi má tôi bằng « nội » như các con. Nói theo tụi nó, riết rồi quen miệng. Lâu lâu, chúng tôi cũng có gọi bằng « má » nhưng sao vẫn không nghe đầm-ấm nồng-nàn bằng tiếng « nội » của các con. Hồi cha tôi còn sống, tụi nhỏ còn gọi rõ ra « ông nội » hay « bà nội ». Cha tôi mất đi, ít lâu sau, chúng nó chỉ còn dùng có tiếng « nội » ngắn gọn để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn nhưng âm thanh lại đầy trìu mến.   

          Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời :

          - Thôi đi mầy ơi !… Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch ! Tao lên xe hồi sáng chớ bộ. Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon ghi-gô mỡ nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không nghe. Cứ đề quyết là tao đi buôn lậu !

          Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà đang phân trần ở Trảng Bàng :

          - Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mở nước ? Ai đó nghĩ coi ! Nội tiền xe đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu dại vậy hổng biết !

          - Ủa ? Rồi làm sao nội đi được ? Bộ tụi nó giữ lại lon mỡ hả nội ? Con gái lớn tôi chen vào.

          - Dễ hôn ! Nội đâu có để cho tụi nó « ăn » lon mỡ, con ! Mỡ heo nội thắng đem xuống cho tụi con chớ bộ.

          Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong lúc các con tôi quây quần lại nghe :

          - Cái rồi … cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi nó muốn giải đi đâu thì giải.

          Nghe đến đây, bầy con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội tụi nó kể những chuyện « gan cùng mình » của bà nội hồi xưa khi cùng chồng vào khu kháng chiến, nhứt là giai đoạn trở về hoạt động ngầm ở thành phố sau này, trước hiệp định Genève…

          Con út nóng nảy giục :

          - Rồi sao nữa nội ?

          - Cái rồi… lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ… cở đứng bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang. Nó đi qua khỏi rồi chớ, nhưng chắc nó nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi : « Ũa ? Bà Tám đi đâu mà ngồi đó vậy ? » Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giáo Chén ở Tha-La, tụi bây không biết đâu. Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe thì đã trưa trờ rồi… Ti ! Kiếm cây quạt cho nội, con !   

...

          Ti là tên con út. Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình rồi đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nó bớt cong .Má tôi đem từ Gò Dầu xuống bốn năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói : « Nội thấy ba má tụi con gỡ bán hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con xài. Kệ nó, xấu xấu vậy chớ nó lâu rách ».

          Con út cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói : tối nay nó có « bạn » ngủ chung để kể chuyện ! Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi vào buồng mấy đứa con gái, từ trong đó hỏi vọng ra :

          - Nội ăn gì chưa nội ?

          - Khỏi lo ! Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ ra coi có hư bể gì không cái đã.      

          Rồi mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau. Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng dào dạc. Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng có gì thay đổi. Vẫn loại quần vải đen lưng rút, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi thật đặc biệt do má tôi tự cắt may : miệng túi cao lên tới ngực chớ không nằm dưới eo hông như những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa : « Cha… bộ sợ chúng nó móc túi hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội ? » Má tôi cười : « Ậy ! Vậy chớ túi này chứa nhiều thứ quí lắm à bây ». Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn thận ghim miệng túi lại bằng cây kim tây !

          Tôi là con một của má tôi. Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò Dầu, quê tôi, má tôi ở luôn trên đó. Nói là để châm sóc mồ mả và vườn tược cây trái. Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất thương mấy đứa cháu. Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích - dạo đó, Việt cộng hay bắn hỏa tiễn vào Gò Dầu về đêm – má tôi thường chắc lưỡi nói : « Thiệt… không biết cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô, hổng làm gì ráo ». Cái « xứ » Sàigòn, đối với má tôi, nó « tù chân tù tay » lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất đai rộng rãi, cây trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách cuốt xách dao ra làm vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất của các anh bà con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần. Các anh chị bà con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ. Cho nên, dù ở một mình trên đó, má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bầy con tôi thì xuống chơi với chúng nó năm bảy bữa rồi về. Má tôi hay nói đùa là « đi đổi gió » ! 

          Mấy năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn chật. Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để ăn. Má tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang « cái gì để ăn » cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ rằng lẽ ra tôi phải nuôi má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi lăm còn má tôi thì tuổi đã về chiều. Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân viên nhà nước xã hội chủ nghĩa với lương kỹ sư « bật hai trên sáu », tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại chính má tôi phải cắt-ca cắt-củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi, giống như má tôi mớm cơm đút cháo cho tôi thuở tôi còn thơ ấu ! Thật là một « cuộc đổi đời » ( Việt Cộng thường rêu rao : « Cách mạng là một cuộc đổi đời » ). Nhưng cuộc đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước !

          Lắm khi tôi tự hỏi : « Rồi sẽ đi đến đâu ? ». Bấy giờ tôi đã trở thành « trưởng ban văn nghệ » của cơ quan, một lối đi « ngang » mà nhờ đó tôi còn được ở lại với sở cũ. Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp chánh của tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không « đạt yêu cầu ». Thành ra, tối ngày tôi chỉ lo cho đoàn « nghiệp dư » của cơ quan tập dượt hát múa. Thật là hề. Còn về phần các con tôi, tương lai gần nhứt là đi đánh giặc Kampuchia, tương lai xa hơn thì thật là mù mịt !

          Trong lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người. Vậy là chúng tôi lấy quyết định cho hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và mấy đứa nhỏ, kể cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má tôi lo. Ai chẳng biết vượt biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi không thoát là bị tù đày chẳng biết ở đâu, may mà đi thoát cũng chưa chắt là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số những người đi thoát, hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, « vượt biên » là đi vào miền vô định…

          Theo chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó. Tôi thắc mắc hỏi : « Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội? ». Bạn tôi cười : « Ai cũng nghĩ như anh hết. Tụi Việt Cộng cũng vậy. Cho nên hể có trăng sáng là tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết. Hiểu chưa ? »

          Bữa nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như vậy là chúng nó sẽ hiểu. Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi sau đó vợ tôi sẽ liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay. Chừng đó thì « sự đã rồi »…

          Bây giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không được .Đành phải nói cho má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây ? Và nói làm sao đây ? Liệu má tôi có biết cho rằng tôi không còn con đường nào khác ? Liệu má tôi có chấp nhận cho tôi không giữ tròn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con ? Liệu má tôi… liệu má tôi… Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng thấy ở đâu câu trả lời…

          Tôi ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày xưa đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì, một ít khoai lan, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có. Cho nó giống với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải « tăng gia » cho đúng « đường lối của nhà nước » . Thật ra, trồng trọt bao nhiêu đó, nếu có… trúng mùa đi nữa, thì cũng không đủ cho bầy con tôi « nhét kẻ răng » ! Vậy mà tên công an phường, trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen : « Anh chị công tác tốt đấy chứ. Tăng gia khá nhất khu phố đấy ! Các cháu tha hồ mà ăn ». Anh ta không biết rằng mấy nhà hàng xóm của tôi, muốn « tăng gia », họ đã phải đào cả sân xi-măng hoặc sân lót gạch, thì lấy gì để « làm tốt » ?

          Khi tôi trở vào nhà thì con út đang gãi lưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách. Tôi tự hỏi : « Lạ quá ! Chỉ có mình mình bú hồi đó mà sao làm teo vú nội đến như vậy được ? ». Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai cái núm đen đó đã nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ nghe má tôi kể lể công lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len lén từ phía sau lòn tay măn vú má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ lại :

          - Đừng ! Nhột !Thằng chơi dại mậy !

          Rồi má tôi cười văng cốt trầu. Con Ti la lên :

          - Má ơi ! Coi ba măn vú nội nè !

          Tôi cười hả hê thích thú. Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới lên ba lên năm…Và cũng trong khoảnh khắc đó, tôi đã quên mất rằng má tôi đã gần tám mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc ! Và cũng quên mất rằng từ ngày mai trở đi, có thể  tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi nữa, để măn vú khi bất chợt thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm nay…

          Chiều hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật tươm tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nấu canh chua lá giang, một loại giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới có. Món này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói : « Canh chua phải nêm cho cứng cứng nó mới ngon ». Mà thật vậy. Tô canh nóng hổi, bốc lên mùi thơm đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá giang, mùi mặn đằm thấm của nước mắm và mùi tiêu mùi hành… Húp vào một miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh tô canh chua là tộ cá kèo kho tiêu mà khi mang đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn vừa nồng cay lại vừa béo, bỡi vì trong cá kho có tóp mỡ và trước khi bắt xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước gọi là « để cho nó dằn » ! Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành ra khi cắn vào đó, mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng cá lên gấp bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món phụ nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà…

          Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt. Nội hỏi :

          - Bộ cay hả ?

          Vợ tôi “dạ”, tiếng “dạ” nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra nhà sau. Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia đình còn xum họp bên nhau. Rồi sẽ không còn bữa cơm nào như vầy nữa. Gia đình sẽ chia hai. Những người đi, rồi sẽ sống hay chết ? Còn những người ở lại, ai biết sẽ còn tan tác đến đâu ? Tôi làm thinh, cắm đầu ăn lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra, tôi đang cần nuốt thật nhanh thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng… để đè xuống, nén xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn đồ ăn, nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con, ngần đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại nữa. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh người đang hấp hối, trong giây phút cuối cùng lưỡi đã cứng đơ mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối những người thương để rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi cũng giống như người đang hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở tâm hồn, cũng một lần vĩnh biệt, và cũng sẽ bước vào một cõi u-minh nào đó, một cõi thật mơ hồ mà mình không hình dung được, không chủ động được !   

          Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái :

          - Nè ! Ngon lắm ! Ăn đi ! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn !

          Ý má tôi muốn nói rằng ở với Việt Cộng riết rồi đến loại cá kèo cũng sẽ khan hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của tôi, lời má tôi nói lại có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như : ”Má cho con ăn lần này lần cuối. Ăn đi con ! Ăn cho ngon đi con !”. Tôi ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm lại được. Nếu không có mặt bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi mà khóc, khóc thật tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật tôi từ bao nhiêu lâu nay… Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi trạo trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc !

          Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên :

          - Ủa ? Mày cũng bị cay nữa sao ?

          Rồi bà chồm tới nhìn vào tộ cá. Các con tôi nhao nhao lên :

          - Đâu có cay, nội.

          - Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai ?

          - Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.

          - Con ăn được mà nội. Có cay đâu ?

          Các con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt !

          Tôi đặt chuyện, nói tránh đi :

          - Hổm rày nóng trong mình, lưỡi của ba bị lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.

          Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm trong miệng nghe như là sạng sỏi, nuốt không trôi…

          Sau bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các con, có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang nhai kềm lại trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu. Những thanh âm đó toát ra một sự vô tư, nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói chuyện vượt biên với má tôi hay không ? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp nội… Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi lui suy nghĩ đắn đo. Vợ tôi còn lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng không giúp gì tôi được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong. Tôi bèn vào buồng ngủ, trải chiếu dưới gạch-từ lâu rồi, vợ chồng tôi không còn giường tủ gì hết- rồi tắt đèn nằm trong bóng tối, gác tay lên tráng mà thở dài…

          Thời gian đi qua… Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ được vẽ những lằn ngang song song trắng đục. Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe tiếng cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai đứa lớn ngoài phòng khách, để trằng trọc suốt đêm chờ sáng.

          Bỗng cửa phòng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng vào trong hỏi nhỏ :

          - Ba con Ti ngủ chưa vậy ?

          Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe :

          - Dạ chưa, má.

          Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói :

          - Coi bộ nực hả mậy ?

          - Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.

          Tôi nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc. Tay má tôi vẫn quạt đều. Rồi má tôi hỏi:

          - Tụi bây còn gì để bán nữa hông ?

          - Dạ…

          Tôi không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái sườn, không ai chịu chở đi. Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ thờ nhỏ và bộ xa-long mây “sứt căm gãy gọng”. Ngoài ra, trên tường có chân dung “Bác Hồ” dệt bằng lụa và nhiều “bằng khen”,”bằng lao động tiên tiến”… những thứ mà nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm lấy ! Bỗng tôi nhớ có một hôm tôi nói với bầy con tôi : ”Ba tự hào đã giữ tròn liêm sỉ từ mấy chục năm nay. Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng không được, đem ra chợ trời bán cũng chẳng có ai mua. Sao ba thấy thương các con và tội cho ba quá !”. Lúc đó, tôi tưởng tượng thấy tôi đứng ở chợ trời, dưới chân có tấm bảng đề “Bán cái liêm sỉ, loại chánh cống. Bảo đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ”. Thật là khùng nhưng cũng thật là chua chát !

          Nghe tôi “dạ” rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói:

          - Rồi mầy phải tính làm sao chớ chẳng lẽ cứ như vầy hoài à ? Tao thấy bầy tụi bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết sức.

          Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định :

          - Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai mốt cũng theo ông theo bà. Mày đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa. Chớ đừng vì tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó. Mầy liệu mà đi, đi ! Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi ! Ở đây riết rồi chết cả chùm. Không chết trận trên Miên thì cũng chết khùng chết đói. Thà tụi bây đi để tao còn thấy chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm vài năm nữa. Mày hiểu hôn ?

          Nghe má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn. Và tôi thật xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên để vui mà sống với ít nhiều hy vọng ! Thật là ngược đời : có người mẹ nào lại muốn xa con ? Chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa mới xảy ra những chuyện “đổi đời” như vậy !

          Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ :

          - Má à ! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này, con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơ để vượt biên.

          Tôi nghe tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi yên lặng. Một lúc lâu sau, má tôi mới nói :

          - Vậy hà…

          Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang trong cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng nói :

          - Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì xin má thương tụi nó …

          Nói tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống như hồi nhỏ má tôi dỗ về tôi để tôi nín khóc.

          Một lúc sau, má tôi nói :

          - Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.

          Rồi bước ra đóng nhẹ cửa lại. Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn cầy trên bàn thờ. Tiếp theo là mùi khói nhang, chắc bà nội mấy đứa nhỏ đang cầu nguyện ngoài đó.

Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang nằm trong một cơn mộng…

          Năm giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi đứa một túi nhỏ quần áo. Chúng nó không có vẻ gì ngạc nhiên hay xúc động hết. Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và chuẩn bị tinh thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh. Nước mắt đêm qua đã giúp tôi lấy lại quân bình. Thật là mầu nhiệm !

          Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi. Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.

Tôi chỉ nói có mấy tiếng :

          - Con đi nghe má !

          Rồi bước ra khỏi cổng.



-oOo-



           Lần đó, tôi đi thoát.

          Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.

          Mấy ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện “bên nhà” cho tôi nghe, hết chuyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những chuyện về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.

          Tụi nó kể :

          “Ba đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây Ninh rước ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi bời, tới nay sao không thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay chết nữa. Nói rồi, nội khóc thật mùi-mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan tin thiệt, họ an ủi nội mấy câu rồi từ đó không thấy trở lại nữa”.

          Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục : “Nội hay thiệt !”.

          Nghe kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp dù sự việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y hệt. “Ba con Ti đi không biết sống hay chết” vẫn là câu hỏi lớn đè nặng tâm tư của má tôi. Bề ngoài má tôi làm ra vẻ bình tĩnh để an lòng con dâu và cháu nội, nhưng là một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện cho các cán bộ, nó đã có dịp bể tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt…

         “Rồi sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày nào cũng đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu lâu, nội về Gò Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xuống tiếp tế cho tụi con. Thấy nội già mà lên lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có can ngăn nhưng nội nói nội còn mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti lấy chồng nội mới chịu theo ông theo bà !”.

          Tôi biết : má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu… Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương. Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng sống thêm vài ba năm nữa ! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết ! Má ơi ! Con biết : cây cau già bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non …

          Theo lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh về báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng như hội. Tụi nó nói : “Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ Phật gõ chuông liên hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông giống như báo tin vui cho hàng xóm !”

         “Mấy hôm sau, bỗng có công-an phường lại nhà. Công an đến nhà là lúc nào cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài ngõ, trong này nội niệm Phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện ba về Tây Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc…”

          Mấy con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh viễn không bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.

        “ Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì má buồn rầu đã bỏ nhà đi mất. Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủi :

          - Bà cụ đừng có lo ! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ yên chí !”. Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó cho tụi con nghe, rồi nói : “Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi mà nội muốn xỉu luôn ! Không phải vì cảm động mà vì sợ ! Ở với tụi nó, thà chết sướng hơn !”

          Vợ con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt -hay đúng ra để vĩnh biệt- tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi khóc với bầy cháu nội. Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cần tìm hiểu tại sao mình khóc, chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc thân thể gầy còm càng nhẹ đi, làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho con người để nói lên tiếng nói đầy câm lặng.

          Bầy bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ. Tôi hình dung thấy những cặp mắt thơ ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê-dại, không biết thương cho bạn mình đi hay thương cho thân phận mình, người ở lại với đầy chua xót…

          Mấy con tôi nói : ”Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu nguyện”.



-oOo-



         Tôi làm việc ở Côte d'Ivoire ( Phi Châu ), cách xa vợ con bằng một lục địa, và cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi hay ra một bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve chân cát, tiếng sóng nhẹ nghe như thì thào… những thứ đó làm như chỉ dành cho riêng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như được dỗ về an ủi. Những lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô cùng. Trên đời này má tôi là người duy nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ cho đến khi trên đầu tôi đã hai thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương, cũng chính trong vòng tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi con… Lúc nào tôi cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương thật rộng rãi bao la, thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi đang nhìn trước mặt.

          Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả…

...


Tiểu Tử
Back to top
 
 
IP Logged
 
DongVan
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 270
KHÓM XẢ VƯỜN SAU   Re: Truyện ngắn
Reply #25 - 28. May 2006 , 04:03
 
KHÓM XẢ VƯỜN SAU   


Đồng Văn


Dẫy nhà bốn căn , nóc bằng , tường sơn màu hồng ; cũ lắm rồi. Nhiều chỗ đã tróc sơn , phô ra cái màu xám đen của áo hồ.

Men theo con đường mòn , vài ngọn cỏ xanh đang vươn mình trổi dậy , sau nhiều ngày của mùa đông , chúng gan lì chịu đựng ,ẩn núp dưới lớp đất khô cằn của những dấu chân người.

Theo lời chỉ dẫn của Bằng , Luận vòng ra phía đằng sau của dẫy nhà , thì trông thấy Hùng đang lom khom bên cụm xả sát chân cái hàng rào gỗ , nhiều chỗ đã xô lệch ngả nghiêng.

Nắng đã ấm , mùa xuân thật sự đã trở về. bởi những lá xả non , xanh màu lá mạ , vừa đâm chồi lên , nổi bật bên những chiếc lá già, đã tàn úa , khô héo , gẫy gập quấn quanh trong một bụi xả khá lớn.

Hùng là chồng của chị Thuỷ, người chị bà con rất xa của Luận. Xa đến nỗi chính Luận cũng không biết đã có những liên hệ gia tộc như thế nào. Chỉ nhớ khi còn bé , Luận có được ba dẫn đến thăm hai bác ( cha mẹ của chị Thuỷ ) một vài lần. Những lần đó Luận rất thích , vì nhà hai bác giầu , giầu lắm. Cho Luận tha hồ là bánh kẹo , có cả nho táo , là những loại trái cây đắt giá mà gia đình Luận chưa bao giờ có , nhưng kể từ khi ba Luận mất , tính ra cũng cả chục năm rồi , thì Luận không còn đến thăm hai bác nữa.

Nhưng sang đây cuộc sống tha hương , khi liên lạc được với nhau , một chút tình thân là quí." Giọt máu đào , hơn ao nước lã ". Như chiếc lá xả già úa kia , đã rã rời nhàu nát còn cố quấn lấy gốc cây quanh bụi , để giữ một chút hơi ấm , cho những lá non đâm chồi xanh tươi.

Nghe có tiếng chân người , Hùng ngẩng đầu lên , trông thấy Luận , cất tiếng reo :
- Kìa cậu Luận , cậu mới xuống , Mợ và các cháu xuống cả chứ ?
Luận bước những bước dài hơn , đến bên Hùng với cái bắt tay xiết chặt
- Thưa vâng , anh chị cho gọi xuống nguyện giỗ cho hai bác , chúng em nào dám từ. Anh đang làm gì đây ?
Hùng đưa tay chỉ những ngọn húng nhũi , vừa mới chui ra khỏi đất , bên chân tường , những ngọn húng thật mập , có màu tía , dính một vài chiếc lá quăn quăn nhỏ xíu , trông như những con giun. Những con giun đang vươn mình trong nắng ấm , của một buổi sáng , những con giun đã chui ra khỏi đất vì cơn mưa rào ngập nước đêm qua
- Nhà này họ mới dọn đi , anh sang hái lấy ít rau thơm kẻo uổng , lại thấy bụi xả tốt quá , đánh mang về trồng cậu ạ. Cậu đã vào nhà chưa ?
- Em đưa nhà em với các cháu đến chào chị rồi , cả anh chị An nữa . Hỏi anh cháu Bằng mới chỉ em qua đây. Bây giờ họ đang ở cả bên nhà , thật vui vẻ hết sức. Ngày cuối năm , em thấy anh chị tổ chức nguyện giỗ như thế này , thật là hay lắm . Trước là nhớ đến ông bà , tổ tiên theo phong tục cổ truyền của chúng mình , sau là dịp gặp gỡ nhau. Cả năm rồi , mọi người đều bận công việc , vất vả với đời sống. Khó lắm mới có dịp gặp nhau đông đủ ý nghĩa như thế này anh nhỉ !
Bỗng dưng Hùng buông tiếng thở dài. Đưa mắt nhìn quanh như sợ có ai dòm ngó hai người đang đứng nói chuyện. Mặc dù biết chẳng có ai , Hùng cũng nhỏ giọng hẳn xuống , chỉ mình Luận nghe được mà thôi
- Buồn quá cậu luận ạ , năm nay chúng tôi nào có muốn tổ chức gì. Tại chú dì An (An là em gái ruột của chị Thuỷ ). Nghỉ hè xuống chơi , khi xuống tới nơi họ mới cho chúng tôi biết là đã mời cậu mợ
Nghe Hùng nói , Luận chợt nhìn xuống khóm xả dưới chân. Một chút xót xa cho những chiếc lá già còn quấn quanh trong bụi , rồi chúng cũng bị đẩy ra xa , tan biến , Luận nói :
- Vâng hình như dạo này sức khoẻ của chị không được tốt phải không anh ?
Hùng vội đưa tay chận lại
- Không phải vậy , cháu Tâm nó chết rồi cậu Luận ạ
Luận như không tin ở chính tai mình :
- Ai chết ! Anh nói gì vậy ?
Gương mặt Hùng méo xệch , hằn rõ nét thương tâm , đôi môi mấp máy , nói như đang khóc :
- Tâm. Cháu Tâm nó chết rồi nhưng chị muốn dấu cậu mợ
- Lạy Chúa tôi ! Tại sao lại xẩy ra chuyện đau thương như vậy ?
Hùng lại thở dài :
- Cháu nó chết trong đêm Noel , cháu nó dại dột quá cậu ạ
Qua phút bàng hoàng và xúc động khi nghe tin đứa cháu gái đã mất , Luận cất tiếng hỏi Hùng như trách móc :
- Cháu chết như thế nào ? Tại sao anh chị lại phải dấu chúng em ?
Với giọng nói đầy xúc động , vì phải nhắc lại chuyện buồn của đứa con gái, mà vợ chồng Hùng rất thương yêu. Hơn nữa Hùng muốn thật thấp giọng , để ngoài Luận ra không còn ai nghe được Hùng thiều thào như tiếng gió kể :
- Nó yêu quá cậu ạ ,nó yêu một anh con trai học trên nó ba lớp , anh ấy tên Sơn , năm vừa rồi Sơn đã ra trường va có việc ở trên " Lốt " , cho gần nhà của Sơn. Khi anh ta còn học ở đây , cháu Tâm có dẫn Sơn về nhà chơi mấy lần , chuyện tình cảm của cháu chúng tôi hoàn toàn không cấm cản gì cả. Sơn cũng được , hiền lành. Chỉ ngặt một điều Sơn không phải là đạo Công Giáo. Sơn lại là con một , và chính vì vậy ông bà bố mẹ của Sơn tỏ ý không muốn Sơn theo đạo
Chiều hôm thứ sáu , cháu Tâm nó xin phép nhà tôi được lên trên " Lốt " để cùng Sơn đi lễ nửa đêm. Thấy trời lạnh và mưa gió , nhà tôi không bằng lòng , nhưng nó cứ kèo nài đòi đi , đâu nhà tôi có mắng nó mấy câu. Sau đó nó vẫn lái xe ra đi. Tuổi trẻ bên này cậu biết đấy , khuyên bảo chúng nghe lọt lỗ tai thì tốt , bằng không phải chịu vậy
Đêm Noel nó muốn dành cho Sơn một sự ngạc nhiên , nó đi lên đó mà không gọi điện thoại trước , khi lên tới trên ấy gia đình nhà Sơn đang có khách. Khách là hai ông bà bạn của cha mẹ Sơn , lại có mang theo một cô con gái cũng tầng tuổi cháu Tâm. Theo lời kể lại của Sơn , thì người con gái ấy chính là người mà mẹ Sơn muốn giới thiệu cho Sơn , khi Tâm nó biết vậy , nó giận hờn rồi bỏ về
Cậu ạ , đêm ấy chúng tôi đợi cơm không thấy cháu về , đợi hết ngày thứ bảy , thì cảnh sát báo tin cho chúng tôi cháu đã chết , đấy cậu thấy có đau lòng không ?
Sợ Hùng vì quá xúc động mà ngưng câu chuyện , Luận vội dục :
- Nhưng tại sao mà cháu chết ?
- Theo như lời kể của cảnh sát , khi họ phát giác ra xe của cháu đậu bên lề freeway. Cháu đã chết , bình an như ngủ , bên mình của cháu trên nệm xe còn lại một hộp thuốc nhức đầu , đã uống hết. Theo sự điều tra của họ và khám nghiệm của bác sĩ , họ đã quả quyết cháu đã chết vì hộp thuốc đó : Cháu tự tử

Luận thở dài chán nản , pha chút bàng hoàng như vừa trải qua một cơn ác mộng
Hùng đặt tay lên vài Luận
- Cậu ạ , cháu quá điên rồ , dại dột. Chúng tôi thương yêu cháu lắm.Nhưng dù sao cháu nó cũng đã chết rồi , chuyện còn lại là phải lo cho những người còn sống. Hôm đưa xác cháu về. Chúng tôi có vào trình cha , xin cha làm phép xác và theo chân cháu ra huyệt cho đủ nghi thức Công Giáo. Giữa cha và chúng tôi tương đối cũng là chỗ quen biết , thế mà cha không nhận lời. Cha nói - " Con người này đã cướp đoạt quyền năng của Thiên Chúa , đã tự ý bán linh hồn cho ma quỷ. " Cha từ chối và đã không làm bất cứ một nghi thức nào về tôn giáo cho cháu. Chính vì vậy nhà tôi buồn lắm , nửa vì thương con , nửa sợ tiếng đến thiên hạ chê cười , nên nhà tôi đã quyết định dấu hết mọi người. Ngoại trừ chú dì An
Hôm mang xác cháu ra nghĩa địa theo quan tài chỉ có bảy người , đi chôn con mà như đi chạy trốn , cậu thấy có đau lòng không ! Vì quá thương con , thêm phần tủi hổ , mà không thể chia sẻ cùng ai , hơn hai tháng nay nhà tôi đêm nào cũng nằm khóc . Rồi lại nữa đâm giận cả cha , ý chừng như muốn bỏ cả đạo , từ hôm đó đến nay không còn kinh hạt hay đến nhà thờ nữa cậu ạ. Cả thằng Bảo , thấy mẹ và em nó như vậy , nó cũng đâm ra điên khùng , ở nhà cứ mở miệng là nó nói xấu nói hành đến cha , thành ra bây giờ gia đình tôi buồn lắm , Cậu nghĩ tôi phải làm sao bây giờ ?
Luận đưa tay nắm chặt lấy bàn tay của Hùng , như cố tình chia đến Hùng chút nghị lực , sẻ bớt chút thương đau trong lòng :
- Quả thật em không hề biết gia đình anh chị lại phải gánh chịu những nỗi đau buồn như thế , Ngay bây giờ em cũng chẳng biết phải làm sao , nói gì để có thể an ủi , san sẻ những đau thương ấy cùng chị , nhưng theo em , phải làm bằng cách nào đó cho chị có thể nói ra những uất ức trong lòng , thi những buồn đau kia cũng sẽ vơi đi rất nhiều
Hùng gật đầu đồng ý :
- Tôi cũng nghĩ như cậu. Nhưng mà này cậu ạ , cho tới giờ này chị cũng vẫn chưa muốn cho cậu mợ biết chuyện của cháu. Tôi xin cậu giữ kín chuyện tôi vừa nói với cậu đấy nhé ,đừng cho mợ biết và cũng đừng hỏi gì về cháu Tâm , vì cứ hỏi đến cháu thì thể nào chị cũng khóc , cũng la lối và như thế sẽ làm mất vui đi buổi họp mặt cuối năm
-Thưa anh , em xin vâng lời

Hùng lấy chân đạp mạnh lên lưỡi xẻng cắm ngập sâu xuống mặt đất , rồi bẩy bung khóm xả lên. Hùng lấy khóm xả bỏ vào cái chậu nhựa màu đen , loại chậu người ta thường ương cây kiểng để bán , hay những bồng hoa cúc , hoa hồng
- Thôi chúng ta về

Luận bê dùm khóm xả ,còn Hùng đập mạnh lưỡi xẻng xuống đám cỏ cho rớt hết những đất ướt còn dính trên lưỡi , xong hai người men theo lối cũ ra về. Tới nhà hai người vòng ra sân sau. Luận cất tiếng hỏi Hùng hơi to , như muốn báo cho mọi người trong nhà biết hai người đã về tới:
- Bây giờ anh tính trồng nó ở đâu đây?
Hùng đưa mắt đảo quanh mảnh vườn , cái vuông đất chỉ to bằng một tấm chiếu, kể ra thì cũng đã kín , nào ớt , ngò , húng quế , húng nhũi , rau răm....
Hùng đưa tay chỉ cái gốc cây , gốc cây soan già đã chết lâu năm. Người ta cưa ngang thân của nó , chỉ còn chừa lại cái gốc , tính từ mặt đất , nó còn chiều cao của một cái ghế đẩu , chính trên gốc cây này , lần trước Luận xuống thăm , Tâm còn ngồi ở đó hát cho cậu nghe những bài hát của quê hương
- Cậu bỏ đây cho tôi , mai tính sau , thôi vào nhà cậu ạ
Luận bỏ chậu xả trên gốc cay soan , rồi theo Hùng vào nhà

Gieo mình xuống chiếc ghế salon cũ , nệm đã sờn rách nhiều chỗ. Đầu óc Luận nặng chịch như đang lên cơn sốt nặng...

Khi các món ăn đã xong , tất cả mọi người kéo nhau lên phòng khách , đọc kinh nguyện giỗ , sau đó thì nhập tiệc. Mọi người ăn uống , nói cười vui vẻ.Ở đây đã thấy cái không khí của ngày Tết , cái không khí đoàn tụ , hợp quần của một đại gia đình. Như thói quen , sau khi tiệc xong. Trời cũng đã chiều, Luận , Hùng , Thi chồng của chị An và Văn một người khách thân của gia đình Hùng. Đủ bốn tay , họ rủ nhau chơi đánh phé mua vui. mấy người đàn bà thì ngồi nói chuyện mua sắm , lâu lâu lại đòi đứng sau lưng chồng coi tẩy ké , nếu có những ván bài to

Hôm nay người vui vẻ nhất có lẽ là An , vì An đang mang lại được niềm vui cho Thuỷ , đã tạo được cái sinh khí cho gia đình , mà đã từ lâu nó ủ rũ , đượm màu tang tóc. Trong khi đó Luận mãi bị ám ảnh đến cái chết của Tâm , lại thấy chị Thuỷ tiều tuỵ , già hẳn đi , thì lòng chàng càng thêm đau xót rối bời

Người đàn bà ấy đã chịu quá nhiều đau khổ. Từ một tiểu thư đài các , sống trong nhung lụa. Lớn lên lập gia đình vẫn được giầu sang. Rồi cảnh đổi đời sau năm 1975 , hai vợ chồng dẫn ba đứa con , chạy loạn sang đây với hai bàn tay trắng. Nhưng những điều đó không làm cho Thủy buồn. Chị vẫn giữ được nụ cười , nét trẻ trung của một người còn đang ham sống. Mặc dù ngày tám tiếng giam mình trong sở với giá lương căn bản bốn đô một giờ. Chiều về Thủy và chồng thường lái xe dạo quanh những chợ , những công xưởng , để lượm thùng giấy carton đem bán , có như thế mới tạm đủ tiêu dùng cho gia đình và cho ba đứa con đi học

Chính vì thế , ngoài một chút tình thân , máu mủ , Luận còn kính mến chị vì theo Luận , chị là người đàn bà đảm đang , dám xả thân để sống. Nhưng bây giờ thấy Thuỷ tàn héo như một loài cỏ úa của mùa đông , Luận đã không ngăn được tiếng thở dài. Đôi khi Thủy cũng cười , nhưng Luận biết chỉ là nụ cười gượng , cười như mếu , lắm lúc Luận nghĩ , phải chi Thủy khóc có lẽ làm cho Luận dễ chịu hơn

Ngồi đánh bài , mà đầu óc Luận ngổn ngang trăm mối , khiến cho Luận thua mấy ván liền. Ván bài ấy Thi thấu cáy vụng về , thế mà Luận chẳng thèm coi con tẩy ,vất bài vào đĩa ngang xương. Thu vợ của Luận đang ngồi sau lưng chồng liền nhéo chồng một cái thật đau. Mọi người nhìn thấy cảnh tượng đó liền phá lên cười. Thi pha trò :
- Ấy người ta bảo đen bạc thì đỏ tình , tại sao hôm nay cậu Luận lại đen cả hai thứ vậy nhỉ ?
An tiếp lời chồng
- Người ta nhéo yêu mà !
Sau câu nói của vợ chồng Thi , mọi người lại được trận cười vui vẻ. Luân đứng dậy quay qua bảo vợ :
- Em kéo dùm anh mấy ván nhé
Rồi Luận mở cửa bước ra sân sau , mọi người còn lại vẫn tiếp tục canh bài. Khoảng mười lăm phút sau vẫn không thấy Luận trở lại. Hùng hỏi Thu
- Cậu Luận đi đâu vậy mợ ?
Thu cũng đang mong chồng trở lại , vì Thu đã thua gần hết tiền láng , nghe Hùng hỏi , Thu liền đẩy ghế đứng dậy
- Em cũng không biết , để em ra xem
Thu chỉ hé cửa , đưa đầu ra nhìn quanh tìm chồng , bỗng dưng Thu hét lên thất thanh :
- Giêsu Maria lạy Chúa tôi !!
Rồi cánh cửa đóng sập lại theo tiếng hét của Thu. Mọi người còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì. Thì cánh cửa lại xịch mở , làm cho Thu co rúm người lại , gương mặt tái xanh vì sợ. Nhưng người mở cửa ấy chính là Luận
-Chuyện gì vậy ? Luận hỏi vợ
Thu vẫn chưa hoàn hồn thiều thào trong cơn sợ
- Ma !....Anh có thấy ma không ?
Luận không trả lời , dìu vợ trở lại chỗ ngồi rồi cất tiếng to hỏi Thuỷ :
- Chị Thuỷ cháu Tâm đâu rồi ?
Luận đưa ra câu hỏi bất ngờ , giữa lúc mọi người còn đang bàng hoàng , nhất là Thủy càng thêm bối rối , An liền đỡ lời cho chị :
- Cháu Tâm đi chơi chưa về
Luận chồm tới chụp lấy vai Hùng lắc mạnh , hét lớn :
- Anh Hùng , anh nói đi có phải cháu Tâm chết rồi không ?
Thật Hùng không ngờ , Hùng đã dặn kỹ Luận , thế mà Luận lại mang ra nói , còn Thu thì kinh ngạc tưởng chừng như chồng bị ma nhập
- Anh....
Không để ý tới tiếng gọi của vợ , Luận buông vai Hùng ra , đi đi , lại lại , bằng một giọng trầm trầm Luận nói :
- Tất cả mọi người trong căn nhà này , ai cũng dấu vợ chồng tôi , nhưng tôi đã biết , cháu Tâm đã chết ,vì tôi vừa gặp cháu ở đằng sau. Nhưng các người có biết không , tất cả đều lầm , một đứa con gái ngoan hiền như nó , thì tôi hỏi các người làm sao có thể tự tử
Ngưng một chút , Luận đưa mắt quan sát trên gương mặt từng người , tất cả đều im lặng , riêng Thuỷ , nước mắt ràn rụa , bờ vai đã rung lên theo tiếng nấc , Luận tiếp :
- Lúc nãy khi tôi vừa mở cửa ra sân sau , tôi thấy một người con gái , tóc dài , mặc áo trắng ngồi trên gốc soan già. Tưởng là mình bị hoa mắt bởi bóng tối ngoài sân. Nhưng khi định thần nhìn kỹ lại , thì tôi vẫn thấy bóng trắng đó ngồi nguyên đấy và nàng đang khóc. Biết là mình không nhìn lầm , nhưng làm gì có người con gái lại ngồi trong giữa bóng đêm , ngoài sương gió , chắc là ma. Nghĩ thế tôi liền đưa tay làm dấu thánh giá rồi hỏi :
- Người là ai ? Làm gì nơi đây ?
Tức thì vẳng theo hơi gió , có một giọng nói rất nhẹ nhàng và quen thuộc :
- Cháu là Tâm , cháu đã chết , nhưng từ ngày cháu chết đến nay hồn cháu vẫn lẩn quẩn nơi đây
- Vậy cháu muốn gì ? và tại sao cháu chết ?
- Đêm Noel cháu đi lên Los. để gặp Sơn , Sơn đã làm cháu giận quá , cháu lái xe về , đang ở trên freeway , bỗng dưng cháu thấy nhức đầu và chóng mặt , chứng bệnh này cháu đã bị khoảng ba tháng trước rồi , cứ những lần căng thẳng thì cháu bị như vậy. Bởi thế nên bên mình của cháu lúc nào cũng có hộp thuốc. Nghĩ rằng lái xe trong cơn bệnh như vậy không an toàn , nên cháu đã dừng lại bên lề lấy thuốc ra uống , đợi mười phút sau , cơn nhức đầu vẫn không bớt. Lúc đó cháu lại nghĩ đến ba mẹ đang đợi cháu ở nhà , nên cháu uống thêm hai viên nữa , đấy cũng là hai viên thuốc cuối cùng trong hộp , sau đó cháu như bị hôn mê , và vì trời lạnh quá nên cháu đã chết
Tiếng nói tới đó thì ngưng dành cho những tiếng nức nở , tôi vội hỏi tiếp :
- Thế cháu về đây làm gì ? có những uẩn khúc nào chăng , cháu muốn cậu giúp những gì ?
- Cái chết của cháu gây ra sự hiểu lầm cho mọi người , họ nghĩ cháu tự tử , làm mẹ cháu thương tâm và tủi nhục , anh Bảo cũng nghĩ thế mà giận cháu. Nhờ cậu nói lại với mẹ cháu rằng , cháu chết rất an lành , xin mẹ đừng buồn nữa . Nếu có nhớ đến cháu xin mọi người đọc kinh cầu nguyện cho cháu....
Khi cháu Tâm vừa nói tới đây thì cũng là lúc nhà tôi mở cửa bước ra và la hoảng lên. Tôi chợp mắt nhìn lại thì không thấy cháu nữa
Luận vừa kể xong thì Thuỷ òa lên khóc to , với một cử chỉ rất thành kính. Luận tiến lại thắp sáng lên hai ngọn nến , rồi nói với mọi người
- Xin mọi người hãy đọc cho cháu một kinh Vực Sâu. Nói xong Luận dưa tay làm dấu cất kinh , mọi người đều đọc theo , người đọc to nhất là tiếng của Thủy

Đêm ấy trên đường lái xe về nhà. Nhìn con đường sâu hun hút trong bóng đêm , nghĩ đến cái chết của Tâm bên lề đường. Thu quay sang nhìn chồng :
- Ghê quá anh nhỉ ?
Luận hỏi lại :
- Em nói cái gì ghê
- Chuyện cháu Tâm hiện về , anh không sợ sao ?
Luận lắc đầu :
- Không , còn em ?
- Còn phải hỏi. Lần đầu tiên em thấy ma đó
Nói xong Thu rùng mình, Thu vội ngồi sát lại cạnh chồng , Thu cảm thấy sợ cả cái bóng đen bên cửa kính
Đốt lên điếu thuốc , Luận chậm rãi hỏi Thu :
- Em cũng tin là có mà à ?
Thu gật đầu :
- Sao lại không , mắt thấy thì hỏi sao không tin cho được !
- Em thấy gì ?
- Thì một người áo trắng tóc dài như anh đã thấy vậy
Kéo một hơi thuốc dài , như sắp sếp lại cầu chuyện , Luận chậm rãi kể :
- Cái bóng trắng đó chính là gốc soan già đã mục , trải qua sương gió của mùa đông , thân gỗ đã mục rữa vì ẩm ướt , hôm nay chợt nắng ấm , xuân về rồi , trong lớp gỗ mục ấy có chứa mợt loại lân tinh , mà trong bóng đêm nó sáng lên một ánh sáng mờ màu bạc. Còn trông giống hình người con gái thì tại vì , trưa nay anh đã vô tình đặt trên đó một chậu xả , những lá xả già rũ héo tả tơi , có khác nào suối tóc một người con gái , phải không em !

Nghe lời giải thích của Luận rất hợp lý , Thu cảm thấy tạm yên tâm , nhưng khi nhìn ra cửa kính , bóng đêm vẫn dầy đặc , Thu rùng mình tự hỏi :
- Có thật chỉ là khóm xả trên gốc soan mục , hay Luận đã tìm một giải thích cho mình yên tâm


Back to top
 
 
IP Logged
 
DoQuan
Gold Member
*****
Offline


Boycott Red China

Posts: 681
Re: Truyện ngắn
Reply #26 - 29. May 2006 , 21:36
 
Hông ngờ anh Đồng Văn ngoài tài làm thơ có có khiếu viết truyện ngắn đầy kịch tính rất lôi cuốn nhen. Mong sẽ được đọc thêm các tác phẩm khác của anh.
ĐQ
Back to top
 

1) Không mua hàng Made in China&&2) Không du lịch hay travel bằng hàng không China&&3) Không giao dịch và mua bán với China
 
IP Logged
 
da huong
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4726
Gender: female
Re: KHÓM XẢ VƯỜN SAU   Truyện ngắn
Reply #27 - 30. May 2006 , 14:25
 
DongVan wrote on 28. May 2006 , 04:03:
KHÓM XẢ VƯỜN SAU  


Đồng Văn





Cám ơn anh ĐV nha. Những truyện của anh bao giờ cũng dẫn đến  một kết cuộc " có hậu ".

Mong được thưởng thức thêm những câu chuyện khác.

Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #28 - 15. Jun 2006 , 10:05
 

...

Như Khói Như Sương


Chị ơi trong nắng hanh vàng cũ
Thấp thoáng màu xanh vạt áo dài
Tóc chị nhuộm hồng hoa phượng vĩ
Phượng của mùa thi, chị của ai ?


LTN


Tôi quen chị vào năm học lớp đệ tam. Hồi ấy tôi 17 và chị chắc cũng chỉ hơn tôi độ một hay hai tuổi là cùng. Một buổi sáng thầy giám học dẫn chị đến lớp và giới thiệu chị với chúng tôi
-Thầy giới thiệu với các em. Trò Nguyễn thị Hoàng Yến, kể từ ngày hôm nay sẽ là học sinh lớp đệ tam A1 của trường chúng ta.
Chị dáng nhỏ nhắn thanh tú, mái tóc dài thẳng tắp, đôâi mắt to đen, nước da trắng như miếng cùi dừa. Chị khép nép ôm cặp da trước ngực đầu hơi cúi xuống để tránh né những đôi mắt hóm hỉnh của bọn nam sinh chúng tôi.
Sau lời giới thiệu là một tràng pháo tay vang dội của toàn lớp học. Tiếp theo đó là những tiếng hít hà, chặc lưỡi, xầm xì, thật ồn ào. Giáo sư phụ trách lớp hình như cũng vui lây bởi cái không khí xôi động của tuổi trẻ. Ông cầm cái thước gõ lên bảng ra dấu im lặng một cách dịu dàng hơn so với những lần trước.
Chị được sắp ngồi ở bàn thứ ba, cuối cùng của nữ sinh. Tiếp giáp sau lưng chị trở đi là dẫy bàn của nam sinh. Lớp học tổng cộng 45 người nay có thêm chị là 46. Tất cả được chia làm ba dẫy. Nữ sinh được ngồi ở dẫy giữa. Tôi ngồi ở dẫy bên tay phải chị, và thấp hơn chị ba hàng ghế. Ở vị trí này tôi được nhìn thấy chị một cách rõ ràng và hợp lý nếu có ai nhìn tôi thì cũng tưởng tôi đang chăm chú nhìn lên bảng mà thôi. Vì thế cho nên tôi tha hồ chiêm ngưỡng chị mà không sợ bị ai bắt gặp.
Phải công nhận rằng khi nhìn chị với một góc độ nghiêng nghiêng chị giống như một bức tranh vẽ tuyệt vời. Trong trái tim mới lớn của tôi hình ảnh chị tràn ngập như cơn hồng thủy, nhất là lúc chị đăm chiêu nhìn theo viên phấn trắng đang múa may trong tay giáo sư trên bảng. Cái khoảng cách giữa tôi và chị xa vừa đủ cho tôi thấy được những sợi mi dài của chị chớp chớp trên cặp mắt to đen. Chị hơi móm nên nhìn nghiêng lại càng thêm duyên dáng.
Tôi là một nam sinh có lẽ nhỏ tuổi nhất so với các bạn, tánh tình nhút nhát. Chưa bao giờ tôi dám dơ tay phát biểu một vấn đề gì, ngoại trừ giáo sư chỉ định. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi tôi không thuộc loại học sinh giỏi, ít khi tham dự vào đám đông, và nhất là tự ti về giọng nói của mình.
Khi gia đình tôi di cư vào Nam thì ông cụ tôi lại chuyển về miền cố đô này, giọng Bắc của tôi thật lạc lõng giữa những tiếng líu lo như chim hót của các cô gái Huế. Tôi nhớ, có lần trong giờ giảng văn tôi được thầy giáo chỉ định đọc và phân tách một đoạn văn của nhà văn Nguyễn Tuân. Tôi hơi mất bình tĩnh nhưng cũng bắt đầu đọc. Những dòng chữ đang lướt dưới mắt tôi một cách êm ả, và lưỡi tôi cũng bắt đầu trôi chảy trong bài văn xuôi mà tôi đã nhiều lần đọc tại nhà, thì bỗng nhiên ở sau lưng tôi bỗng phát ra một giọng nói kỳ dị mà tôi cứ đinh ninh giống hệt như tôi:
- Nạy nhà bát cho nhà cháu xin điếu thuốc nào a. “bát”
Sau câu nói cả lớp ồ lên cười rầm rầm. Tôi có cảm tưởng như mình đang bị đày ải bởi cơn mắc cỡ, lưỡi tôi ríu lại và nói không nên lời. Đó là những cực hình mà tôi đã phải chịu đựng suốt nhiều năm trung học. Hình như vào thời ấy, ở Huế tìm được một người nói tiếng Bắc như tôi rất hiếm hoi, cho nên các bạn học thường nhái giọng Bắc của tôi để làm một trò đùa thật vô tư. Nhưng họ có biết đâu từ đó trong lớp học tôi trở thành một người câm không bao giờ dám lên tiếng phát biểu.
Chính vì lý do đó, tôi ít bạn bè, thích ngồi một mình ngó mông lung ra ngoài khung cửa sổ. Trong giờ ra chơi tôi thường hay đứng xớ rớ ở một góc hành lang nhìn vẩn vơ ra ngoài đường. Có lẽ chị thấy tôi có vẻ khác lạ và cô đơn trước tuổi mình như thế nên hình như chị cũng có vẻ quan tâm đến tôi. Có lần thấy tôi ngồi lặng thinh cắm cúi đọc một cuốn sách, chị tằng hắng một tiếng nhỏ, tôi ngẩng đầu lên, thấy chị đưa tay vẫy vẫy về hướng tôi, tôi tưởng chị vẫy một người khác, nên vẫn cúi xuống đọc tiếp. Chợt nghe tiếng chị gọi nhỏ:
- Khiêm, lại đây chị nói nghe nì
Tôi tưởng mình nghe lộn, xong vẫn ngần ngừ đi tới lí nhí trong miệng:
- Chị Yến gọi Khiêm hả ?
Chị gật đầu chỉ tay xuống chỗ ngồi sau lưng, bảo:
- Khiêm ngồi xuống đây đi,
Tôi ngượng ngập ngồi xuống, ngước mắt nhìn chị. Bóng dáng chị choáng ngợp trong không gian, và tôi thật là bé nhỏ trước chị. Lần đầu tiên tôi được ngồi gần chị như thế, dù vẫn cách chị một khoảng cách mặt bàn. Nhưng vậy cũng đủ cho tôi có được một cảm giác lâng lâng tuyệt vời. Chị như một bà tiên, yêu kiều diễm lệ và tuyệt đối trong trái tim non nớt của tôi. Những cái rung động thánh thiện của tuổi thơ quả là phút giây kỳ diệu. Tôi nhìn thấy một mảng tóc lòa xòa trước khuôn mặt ôn nhu của chị như một vạt mây đêm che nửa vầng trăng. Đôi mắt chị bao dung dịu hiền trú ẩn dưới đôi mi dài diệu vợi. Chị nhìn tôi có chút đăm chiêu lẫn như thương hại.
Sau một phút im lặng chị khẽ hất đầu để một mảng tóc lòa xòa trước mặt chị chếch về một bên. Cái động tác cực kỳ duyên dáng ấy như một ấn tượng tiềm ẩn trong tôi, sau này hễ gặp một cô gái nào có mái tóc dài, cũng có cái động tác hất đầu nhẹ một cách duyên dáng như thế, trước mắt tôi hình ảnh chị lại hiển hiện vẹn toàn. Chị hỏi:
- Sao Khiêm không ra ngoài chơi với bạn
Tôi run run trả lời, nửa lo âu về giọng nói của mình, nửa vui mừng:
- Dạ, Khiêm không thích ra ngoài.
- Khiêm đang đọc sách chi rứa?.
Tôi vừa đưa sách cho chị vừa nói:
- Dạ Khiêm đọc cuốn sách dịch này
Chị cầm cuốn sách nói:
- Khi mô coi xong cho chị mượn được không?. Chị cũng thích đọc loại truyện ni lắm.
Tôi mừng rỡ khẽ dạ một tiếng nho nhỏ.
Chị cười nhìn tôi nói:
- Con trai chi mà nhát rứa.
Từ đó tôi quen chị dần dần, nhưng không bao giờ tôi dám đến chị trước. Chỉ khi nào chị gọi thì tôi mới đến ngồi nói chuyện với chị thôi. Có lần trong giờ ra chơi, tôi cùng với mấy người bạn đi ngang qua bàn chị, chị thản nhiên gọi:
- Khiêm có xuống văn phòng cho chị nhờ chút việc.
Tôi mau mắn nhận lời. Bởi được chị nhờ quả là một sự ân sủng to lớn đối với tôi
- Khiêm đóng học phí cho chị, còn dư 5 đồng mua cho chị một gói ô mai nhé.
Tôi sung sướng phóng như bay xuống văn phòng như một đứa trẻ. Có lẽ niềm vui lớn quá át cả tiếng của thằng Sâm rỗ đang lầm bầm vừa chạy theo tôi vừa chửi:
- Tổ cha mi thằng Khiêm. Răng mi để cho con Yến móm sai mi rứa
Tôi phân trần với thằng Sâm giọng như năn nỉ
- Chị ấy nhờ một chút có sao đâu, đằng nào mình cũng xuống dưới nhà mà
Thằng Sâm rỗ vẫn tiếp tục sỉ vả tôi thậm tệ:
- Mụ nội mi thằng ngu,
Khi tôi mang ô mai cho chị. Chị bảo tôi ngồi xuống bên cạnh nói:
- Ngày mai thằng Thể ngồi sát phía sau chị nó nghỉ học luôn rồi, Khiêm lên đây ngồi với chị nhé. Đừng ngồi gần thằng Sâm rỗ nữa. Thằng đó cao bồi lắm. Không lo học cứ lo đi nghể gái
Tôi ngập ngừng hỏi chị:
- Lỡ nó đi học lại thì sao chị
- Không mô. Chị ở gần nhà nó chị biết mà, nó vô học ở Sao Mai Đàn Nẵng.
Hôm sau tôi đến ngồi sát sau lưng chị thay chỗ thằng Thể. Những giờ ra chơi chị cũng giống như tôi ít khi ra ngoài, và tôi với chị từ đó thân nhau hơn. Chị khuyến khích tôi rất nhiều, giúp tôi tự tin giọng nói của mình.
- Khiêm nói tiếng Bắc nghe dễ thương lắm, chị thích nghe các xướng ngôn viên đài phát thanh nói giọng Bắc hơn là giọng Huế của chị.
Thú thật nghe chị nói tôi cứ lịm người đi vì sung sướng. Tôi bâng khuâng nhìn đôi môi chị đỏ hồng như trái mận bất chợt có một cảm giác chua chua ngọt ngọt nơi đầu lưỡi thấm dần trong huyết quản. Tóc chị bay bay theo gió, thoảng mang đến tôi mùi trầm hương thuần khiết. Trước mặt tôi chị là một thiếu nữ toàn bích, kiêu sa và thánh thiện.
Từ đó hình ảnh chị càng ngày càng sống trong lòng tôi mãnh liệt. Tôi tôn vinh chị nhự con chiên tôn thờ thánh nữ. Bởi chị chính là một chỗ dựa tuyệt vời cho những bước chân mới lớn đang run rẩy chập chững của tôi.
Mười bẩy tuổi với cái thời của tôi hồi đó, tôi chỉ là một cậu bé cỏn con từ thể xác lẫn tâm hồn. Tôi đích thực là một cậu nhỏ trước một chị Yến của tôi tràn đầy nhan sắc. Tôi âm thầm mang hình bóng chị vào từng trang nhật ký, và tâm hồn tôi cũng bắt đầu trưởng thành từ đó.

*

Qua mùa học sau tôi vẫn dành một chỗ ngồi sau lưng chị. Lớp học bây giờ đông hơn. Chị vẫn luôn luôn mang chiếc áo dài mầu xanh da trời, khác với mấy chị cùng lớp. Năm nay là mùa thi tú tài phần I cho nên vào niên học là chúng tôi bắt đầu căng thẳng. Vì đây là giai đoạn nguy hiểm đối với các học sinh Nam. Nếu rớt sẽ phải động viên đi trung sĩ. Phần nữ sinh thì cứ yên chí lớn. Bất quá rớt thì đi lấy chồng cũng chẳng sao.
Tôi đã lên 18, bắt đầu biết chải đầu tém hai bên, và trước trán để tóc lòa xòa cho có vẻ bụi. Quần ống 15 ngắn trên mắt cá. Chân đi giầy da, dưới đế có gắn đinh để khi bước đi trên thềm xi-măng phát ra những tiếng kêu cồm cộp. Tất cả những thời trang này đều do thằng Sâm rỗ thuyết phục tôi:
-Mi phải ăn mặc cho đúng mốt, không thì trông mi giống mấy thằng dưới sịa lên phố quá.
Hằng ngày sau giờ tan học thằng Sâm thường rủ tôi đạp xe chạy một vòng qua trường Đồng Khánh, rồi qua cầu Trường Tiền, đi dọc theo con đường Trần Hưng Đạo, băng qua Gia Hội. Chỉ mất khoảng hơn nửa giờ là mọi người có thể nhận diện ra nhau nơi thành phố nhỏ nhoi này một cách dễ dàng. Chúng tôi cứ sánh vai nhau song song hai chiếc xe đạp đi lên đi xuống cho đến khi nào chán mới trở về. Nhà chị ở đối diện với tiệm mè xửng Song Hỉ gần cửa thành nội. Mỗi lần trên đường về nhà, chúng tôi bắt buộc phải ngang nhà chị. Nhà tôi ở đường Âm Hồn, còn nhà thằng Sâm ở tuốt trong nội thành gần hồ Tịnh Tâm. Bao giờ cũng thế khi chúng tôi nhìn vào đều thấy dáng chị thấp thoáng trong khung cửa sổ. Chị đã về trước chúng tôi từ lâu, thường mặc bộ đồ bộ ngắn tay mầu tím nhạt có điểm những cành hoa mầu tím đậm hơn. Trông chị càng nhỏ nhắn trong bộ đồ mặc ở nhà. Thằng Sâm rỗ thường nhìn vô nói oang oang :
-Mi ngó con Yến móm tề, trông nó mặc bộ đồ tau muốn ở tù quá.
Tôi lườm thằng Sâm rỗ, không nói. Bởi mỗi lần tôi bênh vực chị thì thằng Sâm lại nhìn tôi nói một cách nham nhở:
-Bộ mi mê con Yến móm rồi à.
Tôi rất sợ khi nghe thằng Sâm nói vậy. Tôi ngại nó khám phá ra sự thật về tôi. Bởi đối với tôi, những khám phá của nó là một sự xúc phạm nặng nề làm nhơ bẩn đến thanh danh chị. Tôi phản đối một cách mạnh mẽ:
-Mi ưa nói bậy bạ, tao coi chị như chị của tao thôi.
Thằng Sâm thấy tôi nổi cáu nó vội cười xoa dịu tôi rồi phóng xe một mạch không nói năng gì.
Một lần chị bắt gặp tôi mặc áo sơ mi không gài nút ngực, chị gọi tôi lại, vừa gài nút áo cho tôi vừa cằn nhằn:
-Dạo này chị thấy Khiêm hơi đổi khác. Hay đi chơi với thằng Sâm rỗ. Tan lớp không chịu đi về ngay còn đi lòng vòng nghể gái với thằng Sâm phải không? Chị ghét thằng Sâm lắm. Thằng ni mất dạy rứa mà Khiêm đi chơng “nghể” hắn.
Tôi lí nhí chối:
-Dạ đâu có. Tan học là Khiêm về ngay mà.
Chị cười nhìn tôi đăm đăm:
-Chiều mô chị cũng thấy Khiêm đi ngang nhà chị cùng với thằng Sâm, có không nì?
Tôi ngượng ngùng nhìn xuống đất không trả lời. Thì ra chị đã nhìn thấy tôi tất cả. Nhưng không biết chị có nhìn thấy rõ tận trong tâm khảm tôi hay không? Nếu chị thấy được chắc là tôi trốn học luôn không dám nhìn chị quá.

*

Thời gian cứ thế dần trôi. Mang theo những quãng ngày thơ của tôi quấn quít theo hình bóng chị. Tôi ít đi chơi dần với thằng Sâm, sợ chị bắt gặp. Sau những đêm chúi mũi vào sách vở tôi thường ngồi lặng thinh tay viết viết xóa xóa những chữ thật vô nghĩa. Thoảng có đôi khi cúi xuống nhìn thấy tên chị đã được tô đậm nét tự bao giờ. Tôi hoảng hốt như một tên tội phạm vội vàng xóa bỏ. Nhưng tên chị chỉ xóa bỏ được trên trang giấy trắng, mà không thể nào xóa bỏ được trong sâu thẳm hồn tôi. Đêm như một nhân chứng tội nghiệp nhìn tình tôi tật nguyền, vô vọng. Có khi tôi gục đầu xuống bàn học ngủ thiếp. Dĩ nhiên trong mơ dầy đặc bóng hình chị. Tà áo xanh và mái tóc thề huyền ảo.
Mùa thi năm ấy tôi và thằng Sâm rỗ may mắn được đậu vớt. Nhưng dù vớt hay không thì cũng là đậu. Khỏi phải đi lính và được lên ngồi ở lớp đệ Nhất đã quả là niềm vui cực đại của tôi. Chị yến không may. Hôm coi kết quả tôi gặp chị. Nét mặt chị vẫn bình thường không vui không buồn. Lúc nào cũng điềm đạm ôn nhu. Khi biết tôi đã đậu, chị mừng một cách lạ kỳ. Chị reo lên như thể đó là kết quả của chính mình. Tôi đọc được trong mắt chị sự chân thành ấy. Chị đập nhè nhẹ lên vai tôi, nói:
-Chị cứ lo Khiêm rớt.
Xong chị tiếp lời không kịp để tôi nói:
-Để chị thưởng Khiêm một chầu ciné, chiều thứ bẩy này ở Châu Tinh có chiếu phim hay lắm.
Chị vừa nói vừa móc bóp đưa tiền cho tôi bảo:
-Khiêm mua hai vé hạng nhất cho hai chị em mình nhé.
Tôi bàng hoàng chưa kịp phản ứng thì chị đã vội dắt xe đạp đi thẳng đến chỗ đám đông con gái.
Buổi chiều thứ bẩy tôi đứng chờ chị rất sớm ở cổng rạp. Tôi thấy dáng chị từ xa đi tới. Chị mặc chiếc quần Jean xanh và một chiếc áo pull mầu huyết dụ trông càng nổi bật nước da trắng hồng của chị. Chiếc áo dài làm chị trang nghiêm bao nhiêu thì bộ đồ jean khiến chị trẻ trung bấy nhiêu. Thấy những cặp mắt của mọi người nhìn chị một cách trầm trồ tôi thầm hãnh diện biết bao khi được đi sóng đôi bên chị vào rạp. Chị thì hồn nhiên còn tôi lại ngượng ngùng khó tả, tôi cứ tưởng tượng có hàng trăm cặp mắt đang chằm chằm nhìn vào tôi, vì thế tôi lính quính cắm đầu vẹt đám đông đi về phía trước. Chị rượt theo và nắm tay tôi cằn nhằn:
-Khiêm đi mô mà cứ cắm đầu chạy trước không chờ chị rứa?
Bàn tay chị vẫn nắm chặt tay tôi, một cảm giác mềm mại nồng ấm chuyền qua lớp biểu bì da xuyên lên trung khu thần kinh khiến tôi choáng váng. Quả thực trong thánh kinh khi xưa có diễn tả khi Chúa đụng bàn tay vào người bại liệt thì lập tức người bại liệt đứng dậy đi đứng như người bình thường, điều đó xưa nay tôi vẫn bán tín bán nghi. Nhưng hôm nay rõ ràng khi chị nắm tay tôi, tôi cũng mang cái cảm giác của người bại liệt. Chỉ khác một điều là thay vì đôi chân bệnh hoạn của người bại liệt kia khỏe lại, thì đôi chân đang khỏe mạnh của tôi lại bỗng dưng như muốn bại liệt đi. Bây giờ đến lượt chị phải kéo tôi len lỏi vào hàng ghế như kéo một đứa bé lên ba.
Cuốn phim diễn tả một mối tình trái ngang của đôi trai gái. Tôi trộm nhìn chị trong ánh sáng mập mờ của rạp chiếu. Tôi thấy chị đẹp hơn cả người nữ vai chánh trong phim. Chị say mê theo dõi cuốn phim và không màng gì đến tôi. Còn tôi thì lại say mê nhìn gương mặt nghiêng nghiêng kiều diễm của chị. Có đôi lúc vô tình chị ngả đầu dựa lên vai tôi và nắm chặt tay tôi. Thời gian như ngừng lại và tôi như trôi lềnh bềnh trên dòng sông hạnh phúc một chiều. Tôi ngồi im bất động, chỉ sợ một sự đụng chạm nào do tôi gây ra là một sự mộ phạm đến chị. Cứ như thế tôi tan biến trong trí tưởng muôn trùng, không hiểu trên màn ảnh đã diễn tiến ra sao cho đến cuối giờ.

*

Năm học đệ Nhất tôi không được ngồi gần chị nữa. Chị phải ở lại lớp cũ. Nhưng tôi với chị vẫn chung một trường. Bây giờ muốn gặp được chị thật là khó. Tôi không dám xuống lớp thăm chị. Bởi bọn học trò thì bao giờ cũng lắm chuyện và tò mò, nên tôi cứ luôn luôn giữ một khoảng cách để bảo vệ cho chị.
Mỗi buổi sáng thứ hai chào cờ là niềm hạnh phúc của tôi. Tôi có thể thấy chị sáng rực trong bầy con gái đứng đối diện. Chị vẫn ban cho tôi nụ cười như hôm nào, và chiếc áo mầu xanh vẫn gói tròn thân hình con gái của chị. Bỗng dưng tôi thương màu xanh của mây trời vô xiết kể.. Tôi nhái thầm câu thơ của Nguyên Sa Áo chị vàng tôi về thương hoa cúc, áo chị xanh tôi mến lá sân trư “Áo
Một buổi chiều thứ bẩy, tôi đang mệt mỏi với cuốn vạn vật dầy cộm, thì thằng Sâm hiện đến. Từ ngày nó đổi qua lớp toán tôi với nó ít gặp nhau, nay thấy nó đến tôi thật mừng. Dẫu sao tôi cũng chỉ có nó là thằng bạn duy nhất, ngoài cái tánh hay lỗ mãng với con gái, nhất là đối với chị, thì nó là một thằng bạn khá tốt và chân thật đối với tôi.
-Đi đâu mà lâu quá không ghé tao?
Tôi vừa mở cửa vừa nói:
Thằng Sâm cười cười:
-Tưởng qua ban toán nhàn hạ, ai dè khó quá nên tau phải đi học thêm toán buổi chiều nên bận quá.
Rồi hắn tiếp:
-Mặc quần áo đi chơi.
Vài phút sau chúng tôi đã lượn vòng khắp phố, sau đó đi dọc lên hướng cầu Bạch Hổ. Gió mát từ lòng sông thổi lên lồng lộng. Hai đứa hát vang rồi đi ngược trở về. Khi ngang qua đài phát thanh Huế sắp sửa lên cầu Trường Tiền thằng Sâm bỗng nhiên chỉ tay về phía trước la lơn:
-Mi ngó con Yến móm đang đi chơi với bồ kìa.
Tôi nhìn theo hướng tay nó. Thấy chị cũng với chiếc áo xanh dịu hiền ngồi sau chiếc xe Vélo solex, tay ôm ngang lưng gã con trai. Chiếc xe chạy ào qua mặt chúng tôi. Tôi nhận ra gã con trai là anh Thoảng. Anh đang học năm cuối Đại Học Sư Phạm. Thằng Sâm vừa nhìn theo vừa lẩm bẩm chửi tục:
-Rứa mà tau tưởng nó đàng hoàng lắm. Ngồi trong lớp giả bộ nghiêm trang. Té ra cũng như ngựa thượng tứ thôi chứ có chi mô.
Tôi nhìn thằng Sâm thấy nó bực tức một cách thật vô lý. Tôi cằn nhằn nó:
-Mày chỉ có nói bậy bạ. Chị Yến đẹp vậy, dĩ nhiên chị có bồ là chuyện thường có sao đâu mà mày nổi nóng. Tao thấy anh Thoảng xứng với chị quá chừng.
Thằng Sâm im lặng, hai đứa nín thinh trở về. Tôi nhìn thấy dòng sông hương bỗng dưng nhăn mặt lạnh lùng. Tôi nghe thấy chính lòng tôi đang khóc. Cả cơn gió mát buổi chiều cũng trở thành gay gắt khó chịu.

*

Mùa thi năm ấy chị Yến bỏ học đi lấy chồng. Phượng đã nở đầy xứ Huế. Phượng bay trong gió, rơi trên nóc nhà thờ. Phượng quấn quít trên tóc trên vai bầy con gái. Phượng rơi ngập phố vui. Phượng nhuộm hồng lối vào nhà chị, lẫn với xác pháo vu quy, lẫn với môi hồng áo đỏ. Chị đã quên hẳn thằng bé Bắc Kỳ nhút nhát. Bởi trong ngày vui cực đại chị có quyền quên đi những điều không cần thiết.
Và cũng mùa thi năm ấy tôi thi rớt. Nhưng nếu có đậu thì cũng chẳng có nghĩa gì vì có còn ai mừng và thưởng cho tôi nữa đâu. Vậy tôi rớt còn mang nhiều ý nghĩa hơn.
Cuối năm sau tôi bỏ Huế vào Sàigòn. Dĩ nhiên trong mớ hành trang của tôi trĩu nặng hình bóng chị. Tôi không thể nào quên được tà áo xanh, đôi mắt có hàng mi cong và giọng nói như rót mật vào lòng của chị.
Cho mãi đến bây giờ đã hơn nửa đời người, trải qua bao biến đổi, tôi đã trở thành một người đàn ông luống tuổi, tâm hồn chai lỳ như viên đá cuội. Song vẫn không thề nào quên được cái cảm giác khi được chị nắm tay len lỏi vào trong rạp ciné thuở ấy. Thì ra cái hạnh phúc nửa vời vẫn mãi mãi là thứ hạnh phúc không dễ phai nhòa.

Lưu Trần Nguyễn

Back to top
« Last Edit: 15. Jun 2006 , 10:11 by khieulong »  
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #29 - 18. Jun 2006 , 06:43
 
GẶP NHÀ VĂN NGUYỄN TUÂN

Nhã Ca

Xế chiều. Chẳng nhớ là ngày nào, hình như cả tháng trước Giáng Sinh, khi anh Mai Thảo còn trong nhà, Trịnh Công Sơn có lần trở lại cửa hàng.
“Bà Nhã. Anh Nguyễn Tuân muốn gặp bà. Anh ngồi trên xe xích lô kìa.”
Xích lô đang đậu bên kia đường. Tôi bảo Sơn:
“Ông biết mà, tôi bận lo kiếm ăn, không văn chương chữ nghĩa gì nữa, không tiện gặp. Nhờ ông chuyển lời tôi cáo lỗi và kính thăm ông cụ.”
Mới cách đây không lâu, một bạn tới nói nhà thơ Lưu Trọng Lư từ Bắc vào, có lòng muốn gặp, tôi cũng đã trả lời tương tự.
Thơ Lưu Trọng Lư thời tiền chiến, chắc mãi mãi tôi sẽ còn trân trọng. Văn Nguyễn Tuân cũng vậy. Đọc Vang Bóng Một Thời, Chùa Đàn, cả bài tùy bút Phở ông viết hồi Nhân Văn Giai Phẩm, quả có một thời tôi đã khiếp phục về chữ nghĩa tài ba của ông. Nhưng gặp để làm gì lúc này?
“Bà Nhã à. Bà nên dịu đi một chút. Tụi này thấy bà vậy, thật không yên tâm chút nào. Anh Nguyễn Tuân là người được nể trọng…Bà hiểu, tôi chỉ muốn bà được yên để lo nuôi các cháu.”
Sơn nói, giọng ôn nhu, dỗ dành. Phải cám ơn lòng tốt của Sơn thôi.
“Sơn coi, cửa hàng bề bộn, toàn đàn bà son phấn không hà. Biết làm thế nào…”
“Bọn này có chương trình đưa anh Nguyễn Tuân tới uống đằng Cửu Long. Bà tới liền nghe.”
Cửu Long là nhà hàng Hoàn Mỹ, Majestic cũ, hiện là nơi ăn nhậu sang trọng nhất thành phố.
“Tới liền e kẹt. Còn cửa hàng, đâu bỏ đi được. Phải kiếm đủ gạo đã…”
“Thôi thì thu xếp thế này. Ở Cửu Long ra, cả bọn họp bên nhà Nguyễn Hải ngay kế Mini Rex. Tên này xếp xòng bên Nghiên CứuVăn Hóa. Đây lại đó chỉ cách mấy bước à. Bà sang chút nghe.”
Sơn chỉ số nhà, rồi tất tả bỏ đi.
Thôi kệ. Cứ sang.
Mang lại cái áo bà ba đem về từ nhà tù, túm tóc bằng sợi dây thung, sau 5 giờ, tôi tới.
Căn phố đẹp ngay mặt tiền đường Lê Lợi. Bấm chuông. Tư sản mới có khác. Một bà vú ra mở cửa. Chủ nhà trông tướng tá phương phi.Bộ râu kiểng không che hết nốt ruồi bự. Đúng tướng diện lọai người suốt đời được ăn ngon mặc đẹp. Hèn chi, cách đây không lâu, con cháu có việc đi ra ngoài, về kể: Từ rạp Rex tới Ngã tư Công Lý-Lê Lợi, bị công an giao thông chặn đường. Nghe nói vì có bà Võ Nguyên Giáp tới thăm bà con trong khu này. Chắc chỉ là chủ nhà này thôi.
“À, đây là chị Nhã Ca phải không. Mời chị. Mình lên lầu.”
Một tầng lầu. Lại một tầng lầu nữa. Dòm qua, phòng nào cũng bàn ghế, sa lông, rèm cửa. Thời trước, ngay cạnh Mini Rex mà sang trọng được mức này, cũng là tay chẳng vừa. Bước lên nữa. Cửa mở.
“Mời chị. Đây rồi.”
Đông gớm. Xem còn ai nào. Kìa, Sơn Nam. Nhiếp ảnh gia Ngọc Tùng. Trịnh Công Sơn. Ngồi cạnh Sơn? À, nhớ rồi, Phạm Nhuận. Nhiều người nữa, không biết là những ai, tất cả quây quần quanh ông già tóc bạc chấm vai.
“Chào Bác.”
Tôi nói với ông Nguyễn.
“Ê. Nhã Ca đây hả. Ngồi xuống. Ngồi. Không gọi bác. Gọi bằng anh.”
“Dạ. Thì xin phép anh.”
Đã tính bỡn: cả nước chỉ có một ông Bác Hồ thôi, chắc anh kiêng. May sao ngừng kịp.
Chả biết mặt mũi ra sao mà ông Nguyễn gật gù.
“Thôi nghe. Anh em cả. Ngồi xuống. Nhã Ca uống được thứ này chứ?”
Chai rượu có hình ông già đội mũ, cầm ba toong. Rượu vàng sóng sánh.
“Whisky Scott cơ à?”
“Nhã phải nhớ, anh Nguyễn Tuân mà. Luôn luôn phải Scott thứ thiệt chứ.” Sơn cười, nói.
Khó tin. Hẳn là chỉ mới thấy lại thứ này từ ngày vào miền Nam.Ông Nguyễn đang nhìn tôi. Chắc thấy khó ưa rồi. Đành sửa lại cái mặt.
“Thì uống.”
Hình như mọi người đang thi nhau trổ tài nói. Đùa nhiều. Cười nhiều. Đến lượt tôi ngắm lại ông Nguyễn. Tóc bạc phơ, mỏng mịn như tơ, dài rủ xuống vai. Mặt xương. Trán cao. Hói kiểu cách. Miệng mỏng. Ăn nói duyên dáng.
Thấy tôi nhìn, ông Nguyễn cười, né người sang một bên, hỏi:
“Đẹp. Phải không. Nhã Ca?”
Nơi ông Nguyễn vừa nghiêng người, nhô ra hai bông hoa súng nở bung, đỏ lóet. Chờ tôi thấy rõ bông hoa rồi, ông nói thêm.
“Hoa súng đấy.”
Tôi đã nhìn rõ hơn. Dựa sát vách tường, ngay bên ghế ông Nguyễn ngồi, từ một bịch ni lông cột lùi xùi để dưới sàn nhà, có hai cọng bông súng vươn lên.
Một người nào đó giải thích:
“Hai bông súng trong hồ cảnh ở Majestic đấy. Ngay cạnh bàn rượu. Anh Nguyễn Tuân thích lắm, bảo hoa đẹp thế này, chỉ có chúng ta mới xứng đáng thưởng thức. Vậy là bọn này ngắt hoa mang về đây. Chị thấy hay không?”
“Hay lắm.” Tôi nói.
“Phải có một tấm ảnh chụp với cô em Nhã Ca chứ.”
Ông Nguyễn nói. Nhiếp ảnh gia Ngọc Tùng vội vã cầm máy hình đứng dậy. Thì chụp.
“Ảnh mầu cơ. Nào. Lại gần đây. Cạn ly.” Ông Nguyễn bảo tôi.
Cạn ly thật. Một người nào đó châm thêm khi ly rượu trên tay ông Nguyễn vừa cạn.
“Chị Nhã Ca, một ly nữa.”
“Cám ơn. Xin đủ.” Tôi nói.
“Nhã Ca giờ còn viết không? Ông Nguyễn hỏi.
“Buôn bán.”
“Giỏi nhỉ. Đàn bà, miền nào cũng giỏi. Cứ lúc hữu sự mới thấy cái tài giỏi của họ.”
“Chắc không giỏi nấu nướng bằng mấy đàn ông đâu. Món Phở anh tả hồi Nhân Văn Giai Phẩm, lâu nay, có thêm thắt được chút gia vị nào chưa?” Tôi hỏi.
“À há. Chị Nhã Ca. Hồi nẫy khi chị chưa tới, anh Nguyễn Tuân có nói không biết Nhã Ca ra sao mà ai cũng gọi là cọp cái, nó có răngnanh à? Đó, bây giờ anh nhìn coi. Chị Nhã Ca bình thường như mọi người. Không có răng nanh.”
Giọng có vẻ quen. Tôi nhìn lại. Phạm Nhuận. Nhà thơ trẻ này mặt mũi đôn hậu, nụ cười hiền lành, lời lẽ thường ôn nhu. Hôm nay, sao có gì khác thường? Tôi không có răng nanh, mà đôi khi cũng lòng lang dạsói. Có cần nói điều ấy ra không? Không cần. Ông Nguyễn vẫn ôn tồn, kẻ cả:
“Viết lại đi Nhã Ca ạ. Nhã Ca viết tốt lắm. Anh có đọc một vài cuốn của cô.”
Tôi cười”
“Chắc cả Giải Khăn Sô Cho Huế?”
Ông Nguyễn cũng cười, giọng càng ôn tồn hơn:
“Anh đọc hết rồi. Chuyện cũng không có gì mới mẻ. Chỉ có một hình ảnh cô tả anh rất thích là cái nón từ trên trực thăng rớt xuống mặt biển…”
Tôi phì cười.
“Bộ ở ngòai Bắc không còn tới cả cái nón lá?”
Tôi nhớ tên cuốn sách mới của ông Nguyễn vừa thấy ở hiệu sách: Nhân dân ta đánh Mỹ giỏi thật. Đang tính thêm: Những chuyện giết chóc kiểu Mậu Thân Huế, đối với các anh ngòai Bắc, hẳn thấy là thường rồi.Đâu còn gì có thể gọi là mới. Nhưng Trịnh Công Sơn đã ngắt lời.
Sơn nói gì, tôi không nhớ rõ. Chắc cũng chỉ với ý tốt, muốn chuyển hướng câu chuyện. Cười thôi. Nhưng ông Nguyễn lại hỏi:
“Còn.. hắn? Đang được học tập cải tạo ở đâu?”
“Cái gì mà học tập cải tạo. Anh muốn hỏi về ông chồng tôi à? Tù thôi.Đi tù thì nói đi tù, việc gì phải dùng chữ hoa mỹ.”
Ông Nguyễn cười, không có vẻ gì phật ý. Tôi bắt gặp ánh mắt Phạm Nhuận nhìn sang, gật đầu kín đáo.
Có người hỏi về một bài hát mới nào đó của Trịnh Công Sơn. Sẵn đàn, mọi người yêu cầu hát nhưng Sơn từ chối, nói thôi để khi khác.
Tới lúc cáo lui rồi. Không chừng chính sự có mặt của tôi làm cụt hứng những bài ca vui vẻ. Sơn vốn không phải là người thích nói nhiều, lúc nào cũng nhỏ nhẹ, từ tốn.
Sơn Nam có nói gì không? Có. Một lúc nào đó, nhìn cái áo bà ba tôi tha từ nhà tù về, anh nói:
“Nhã Ca bây giờ đứng chủ một cửa tiệm lớn ngay trên đường Tự Do, trông oai vệ quá.”
Rồi:
“Cô em chả còn dáng dấp gì một nhà văn cả. Như bà chủ hụi. Buồn năm phút.”
Đúng là căn nhà tôi đang ở cứ khiêu khích mọi người. Đã tính trả lễ. Nhưng thôi, nhìn kìa. Anh chỉ còn da bọc xương, ốm tới nỗi cả khuôn mặt, chỉ còn thấy linh động ở miệng và răng. Mới đó hồi nào, Hà Thúc Cần dựng phim Đất Khổ do tôi viết đối thọai, cạnh các nhân vật chính như Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Kim Cương, Dương Vân Quỳnh, có cả anh Sơn Nam ké vô một vai phụ. Trong vai một ông nhà văn nghèo mê đồ cổ, dù chỉ xuất hiện thoáng qua trong cảnh một quán nước ngọai ô, anh Sơn Nam lúc ấy còn linh họat, bén nhậy biết bao. Tội nghiệp anh ấy.
Tôi đứng dậy, chào ông Nguyễn. Hai cọng bông súng đã lìa gốc vẫn chờn bên vai ông. Mầu đỏ của bông súng tàn kề bên mái tóc bạc. Có hai người cùng chủ nhà tiễn khách. Phạm Nhuận:
“Nhuận bắt tay chị một cái. Chị Nhã Ca.”
Và Sơn Nam:
“Cô em. Lì xì anh đi.”
Ngó anh. Con Chim Quyên Xuống Đất ốm yếu, tong teo. Vẫn còn lòng quý mến chút Hương Rừng Cà Mau.
“Anh cầm lấy đi.”
“Thôi mà. Cầm đi. Đùa gì…”
Trịnh Công Sơn, ít lâu sau ghé lại, nhắc:
“Bà gặp anh Nguyễn Tuân đi. Có khó khăn gì, anh góp ý được.”
Xin đủ.
Đó là lần duy nhất tôi gặp ông Nguyễn. Cũng là lần duy nhất dự vào một buổi họp mặt có anh em nhà văn kẻ Nam người Bắc. Không bao giờ tôi có dịp nhìn thấy tấm ảnh mình đứng cạnh ông Nguyễn do anh Ngọc Tùng chụp.
Chỉ gặp lại Phạm Nhuận. Vài tháng sau, tới:
“Chị Nhã Ca. Nhuận tới thăm chị. Vội lắm.”
Mắt nhìn, cách chào, có vẻ lạ.
“Làm gì vội vậy. Không uống được với chị ly nước chanh hay sao?”
Hai chị em, hai ly nước chanh. Tới lúc từ giã, lại bắt tay, nắm chặt.Ai ngờ, từ giã thật. Ít lâu, nghe Nhuận đã đi thóat.
Mừng Nhuận. Bây giờ, là phần người còn ở lại.

NHÃ CA
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11589
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #30 - 18. Jun 2006 , 07:17
 
Như khói như sương


Chị ơi trong nắng hanh vàng cũ
Thấp thoáng màu xanh vạt áo dài
Tóc chị nhuộm hồng hoa phượng vĩ
Phượng của mùa thi, chị của ai ?

LTN


Anh Long à, anh có biết LTN là ai không  anh  ???  Bốn câu thơ nhẹ nhàng trên hay quá, rất là gợi hình gợi sắc  8) 8)
Back to top
 

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #31 - 18. Jun 2006 , 18:37
 
Quote:
Như khói như sương


Chị ơi trong nắng hanh vàng cũ
Thấp thoáng màu xanh vạt áo dài
Tóc chị nhuộm hồng hoa phượng vĩ
Phượng của mùa thi, chị của ai ?

LTN


Anh Long à, anh có biết LTN là ai không  anh  ???  Bốn câu thơ nhẹ nhàng trên hay quá, rất là gợi hình gợi sắc  8) 8)


Ới Đậu Đỏ cô nương ,
LTN là cái ông viêt cái câu chuyện thời một thuở học trò đó mà, và  ông ấy còn là tác giả của bài thơ mà Tím Em rất thích dưới đây....


...

Tóc xoã ngang lưng .


Mai anh đi bé có buồn không
Mai anh đi nhơ' bé vô cùng .
Nhớ buổi chiều về nghiêng bóng xê .
Nhớ môi cười áo trắng mông lung.

Mai anh đi đường xa xa lắm .
Đời con trai như vó ngựa hồng .
Tuổi bé bình yên như cơn nắng .
Tuổi anh buồn như lá mùa đông .

Mai anh đi bé buồn hay vui
Xác lá nào rơi xuống ngậm ngùi .
Thành phố sáng mai thành kỷ niệm
Anh đi rồi chắc nhớ không nguôi

Mai anh đi lòng không dám hẹn
Bởi xa rồi kỹ niệm cũng bay
Như giọt nắng phai nhoà trên tóc
Như buổi chiều đổ xuống ngàn cây

Mai anh đi bé có buồn không .
Mai anh đi nhớ be vô cùng .
Nhớ dáng học trò em đến lớp .
Nhớ môi hồng tóc xoã ngang lưng .


Lưu Trần Nguyễn



Back to top
« Last Edit: 18. Jun 2006 , 18:43 by khieulong »  
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #32 - 22. Jun 2006 , 17:50
 


...

CÁNH HOA PENSÉE


"Đời như giấc mộng tình như ảo
Nào biết gì đâu để đợi chờ"



Không biết tại sao tôi vẫn nhớ anh, dù thời gian trôi đi đã gần bốn mươi năm, mỗi lần hồi tưởng lại những kỷ niệm thời đi học, tôi lại nghe trong lòng rưng rưng một nỗi buồn dìu dịu. Mỗi năm khi mùa Xuân trở lại, nhìn những đóa hoa pensée trước sân nhà, rung rinh những cánh hoa màu nâu, tím, vàng rực rỡ, dưới ánh nắng dịu dàng một sáng mùa Xuân nơi xứ người, lòng tôi lại nao nao nhớ về những đóa pensée ngày trẻ tuổi.

Tôi gọi anh là "người anh đồng môn", chỉ vì khi tôi đang học năm cuối Trung học đệ nhất cấp, anh đã sắp sửa ra trường để lên Đại Học. Anh học cùng lớp với người chị kế của tôi, cho nên vì thế hai người khá thân nhau, thành ra tôi không bao giờ nghĩ thứ tình cảm đầu đời dễ thương ấy anh lại dành cho tôi, cô bé nghịch ngợm và chỉ tìm dịp để trêu ghẹo anh mỗi lần gặp.

Anh hiền, hiền lắm, dáng dấp thư sinh, trông chững chạc vì tính ít nói, lại thêm đôi mắt hơi buồn nên lúc nào trông cũng như chìm trong mộng. Mỗi lần đến thăm chị em tôi, bao giờ anh cũng mang theo cuốn sách mới. Sách vừa xuất bản còn nóng hổi, chị em tôi chuyền tay nhau đọc trước, sau mới tới lượt anh. Đó là mấy cuốn tiểu thuyết của các nhà văn nổi tiếng thời ấy, viết về chiến tranh và những câu chuyện tình tiền tuyến hậu phương đẫm đầy nước mắt. Tâm hồn chị em tôi thật đa cảm, dễ khóc dễ cười, dành nhau những cuốn tiểu thuyết anh đem tới trong khi anh chỉ cười với đôi mắt hiền khô. Để không thể ngờ, mấy chục năm sau tôi có dịp hồi tưởng những kỷ niệm xưa thời đi học, anh lại là nhân vật chính cho câu chuyện "Đóa hoa Pensée" của tôi.

Khi mùa Xuân đến, anh và người bạn cùng lớp đến rủ chị em tôi đi chợ Tết, tôi thường kéo theo một, hai đứa bạn nữa. Lúc bị vây quanh bởi một lũ con gái nghịch ngợm, tự nhiên các chàng bắt đầu khớp, vốn ít nói anh càng ít nói hơn, vẫn chỉ hay cười. Chợ hoa nằm gần bờ sông, mỗi năm người ở trong quê chở vào thành phố những chuyến đò đầy hoa, không biết bao nhiêu loại hoa đẹp. Những chậu mai vàng đầy nụ, đứng chen chân với các loài hoa cúc, thược dược, hoa mẫu đơn nhiều màu sắc, khiến khu chợ hoa càng hấp dẫn hơn nhờ bóng dáng của các cô thiếu nữ xinh tươi, với những tà áo màu vờn bay trong gió.

Thuở ấy tâm hồn chúng tôi còn tràn ngập một màu xanh của tuổi học trò, hình ảnh của chiến tranh như mờ nhạt nơi những chiến trường xa, sự mất mát của người lính ngoài tiền tuyến chưa làm quặn lòng người hậu phương bao nhiêu, nhất là ở tuổi " ăn chưa no, lo chưa tới" của đám trẻ thành phố. Chỉ vài năm sau, khi người bạn của mình lên đường nhập ngũ, rồi vĩnh viễn đi vào lòng đất mẹ, khi ấy chúng tôi mới đủ lớn khôn để nghĩ về sự mất mát quá lớn lao ấy thì tất cả đã muộn màng.

Năm nào cũng vậy, mỗi khi Xuân về, anh không quên tặng cho tôi một tấm thiệp Xuân. Bên ngoài bao giờ cũng có hình con én ngậm thiếp chúc Xuân, bên trong dưới tấm giấy kính mờ mờ, một cành hoa pensée vàng, tím được ép khô, màu sắc vẫn tươi tắn. Tôi có cái thú từ hồi còn bé, hay để dành những tấm thiệp chúc Xuân làm kỷ niệm, nhìn những tấm thiệp to nhỏ bày đầy trên bàn học, tôi có cảm tưởng mùa Xuân lúc nào cũng rộn rã quanh mình.

Tấm thiệp chúc Xuân của anh rất đặc biệt, năm nào cũng gửi ngày tháng giống nhau, dù ngày Tết hằng năm có thay đổi. Mãi sau này anh không còn nữa, khi lật lại chồng thư cũ thuở còn đi học, vô tình tôi đã nhận ra điều đó. Cánh hoa pensée như một tín hiệu của tình yêu được lập đi lập lại nhiều lần, tiếc thay, tôi đã không hiểu hay không muốn hiểu, và khi ngồi lật lại chồng thư cũ, nhìn những tấm thiệp của người anh đồng môn năm cũ, tôi thực sự đã rơi những giọt nước mắt muộn màng cho một người đã ra đi.

Tấm thiệp Xuân năm xưa cũng kín đáo như tâm hồn anh, có lẽ vì khi anh nhập ngũ, tôi còn quá non nớt để bước chân vào cuộc đời của một người lính, nên vì thế mà anh im lặng. Năm nào trong tấm thiệp Xuân cũng chỉ làhàng chữ nắn nót rất đẹp: "Gửi người một đóa pensée", chỉ thế thôi, ngày tháng của mùa Xuân và tên người gửi. Thuở ấy, khi nhận tấm thiệp chúc Xuân của anh, tôi thích lắm, vì nó là một trong những tấm thiệp đẹp nhất trong nhiều tấm thiệp của bạn bè, tôi thích vẻ đẹp rực rỡ của hoa pensée, nâng niu nó vì thích tấm thiệp, chứ chưa hiểu hết nỗi lòng của người tặng.

Sau này có dịp tôi đọc được bài của ai đó viết về hoa Pensée, với câu chuyện tình thật đẹp và nhiều nước mắt của một đôi tình nhân. Tôi không nhớ rõ vì hoàn cảnh nào mà người con trai phải ra đi , vượt qua bao nhiêu núi non hiểm trở, để rồi cuối cùng một chiều kia, anh ta đã không bao giờ trở lại. Xác thân anh được vùi chôn nơi rừng sâu, bên một bờ suối vắng. Từ đó trên nấm mộ của người thanh niên si tình kia, mọc lên những bụi cây thấp nhỏ, nở ra nhiều đóa hoa đầy màu sắc tươi thắm, người ta đặt tên cho nó là hoa Pensée, có nghĩa là Thương Nhớ.

Năm ấy chiến trường cần những người trai trẻ, chiến tranh bùng nổ khắp nơi, lệnh tổng động viên được ban hành cho nên anh cũng phải xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ. Một số bạn cùng trường cũng phải ra đi, không khí của những buỗi tiễn đưa đã gieo một nỗi buồn mênh mang vào tuổi học trò hồn nhiên, vô tư lự. Chúng tôi bắt đầu cảm nhận được nỗi buồn của sự biệt ly, có những cặp tình nhân tuổi học trò đã thổn thức với nhau trước cảnh người đi kẻ ở:

"Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)


Trước ngày anh ra đi, chúng tôi có một buổi tiệc tiễn đưa, bạn bè anh dăm người, lũ con gái loi nhoi hay ríu rít nói chuyện, hôm ấy bỗng dưng cũng buồn ngơ ngẩn. Đêm ấy trời mưa, một đám bạn trẻ quây quần bên nhau trong căn phòng khách nhà anh, khói thuốc mờ với những ly cà phê đắng. Khuôn mặt ai cũng đăm chiêu lặng lẽ, nghe tiếng mưa rơi rả rích ngoài hiên, thoảng vào căn phòng ấm chút gió khuya lành lạnh. Trong không khí buồn buồn của ngày cuối cùng bên nhau, người bạn anh ôm cây đàn " guitar", đệm theo tiếng hát mượt mà của cô bạn gái:

"Chỉ còn một đêm nay nữa thôi, mai chúng ta mỗi người một nơi. . . Nhìn hành trang lệ rưng cuối mi, cố nén trong tim một điều gì. . ."

Tiếng hát ngân lên những âm điệu buồn buồn trước giờ ly biệt, tôi thấy anh ngồi im lặng trong góc tối, ngó mông lung vào một nơi nào đó rất xa xăm. Đôi lần ánh mắt ấy nhìn tôi thật lặng lẽ rồi quay đi, hình như có tiếng thở dài rất nhẹ khiến tôi trở nên lúng túng, cố tránh tia nhìn đằm thắm của anh.

Đêm đã khuya, mọi người phải từ giã nhau để mai anh lên đường sớm. Trên mặt bàn còn lại những mẩu thuốc cháy dở, những chiếc ly không, lúc ấy tôi mới rùng mình vì cái lạnh của cơn mưa đêm, luồn vào tâm tư nỗi buồn của sự chia biệt. Ngày mai, chúng tôi đã có hai cuộc sống khác hẳn nhau, những người còn lại vẫn cắp sách đến trường, những người sắp đi vào miền gió cát. Chẳng biết những gì sẽ xảy đến với những người trai thời ly loạn, khi chiến tranh vẫn giăng bủa trên mọi miền của đất nước.

Giây phút chia tay, các bạn đều lần lượt nắm lấy tay anh nói những lời chúc an lành, bởi vì từ nay anh đã thực sự rời ngưỡng cửa học đường, giã từ sách vở, giã từ mái nhà thân yêu để bước vào con đường chiến chinh gian khổ, sẽ đối mặt sống chết với hiểm nguy của chiến trường. Tôi là người cuối cùng từ biệt anh, lúc nắm lấy tay tôi, anh xiết nhẹ, bàn tay anh nóng ấm như chuyển gửi vào đó bao yêu thương mà anh chưa dám ngỏ. Đôi mắt anh quyến luyến một tình cảm tha thiết, anh dặn tôi chăm học, khi nào được về phép anh sẽ đến thăm chị em tôi. Tự nhiên tôi lúng túng rụt tay về, trong bóng tối tôi nhìn thấy tia nhìn nồng nàn trong đôi mắt anh. Đôi mắt của người anh "đồng môn", sau này khi anh không còn nữa, mỗi lần nhớ đến anh, tôi vẫn nghe lòng thổn thức. . . .

Anh đi xa, nhưng mùa Xuân đầu tiên ở quân trường, anh vẫn không quên gửi về tặng tôi tấm thiệp và bản nhạc "Cánh hoa Pensée", với những lời ca mà tôi chỉ còn nhớ rất mù mờ:

"Ngày nao xa em anh gửi lại. Gửi trao cho em một cành hoa. Hoa Pensée là màu hoa yêu thương. . . ."

Lần về phép đầu tiên trong đời lính, anh ghé vào thăm chị em tôi. Trong màu áo trận, anh chững chạc hẳn ra vì nắng gió quân trường, mái tóc hớt ngắn, nước da đậm đà khỏe mạnh, nhưng đôi mắt thì vẫn buồn làm sao! Anh kể cho chị em tôi nghe về thời gian huấn nhục ở quân trường, biết bao cực nhọc với phương châm "thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu". Ngày anh ra đơn vị, mỗi lần về phép anh lại đến thăm, lại kể chuyện chiến trường, anh nói mạng mình "lớn" lắm nên bao nhiêu lần đụng trận mà đạn không dám đụng vào anh. Tôi hết còn dám chọc ghẹo anh như ngày xưa, còn anh thì dày dạn phong trần, có làm mấy câu thơ tặng tôi trước ngày trở ra đơn vị:

"Mai về thăm lại ngôi trường cũ
Thăm bạn bè xưa tuổi học trò
Nhìn ai chưa nói lời thương nhớ
Để lại ra đi chẳng hẹn hò"


Sau này tôi ít được gặp anh, chiến tranh đã đẩy anh đi những bước thật dài để người lính ấy càng ngày càng trưởng thành trong binh lửa. Mỗi lần nhận thư anh từ một nơi xa xôi nào đó, những địa danh xa lạ, đọc những dòng chữ thân thương của anh tôi lại nhớ đôi mắt anh trong buổi tối chia tay nhau trước ngày nhập ngũ. Sao mắt anh buồn ơi là buồn, hình như đó là dấu hiệu báo trước cuộc sống ngắn ngủi của anh trên cõi đời này, người lính trẻ tội tình của thế kỷ hai mươi, khi anh ra trường, lao vào cuộc chiến để đối đầu với lằn tên mũi đạn.

Tôi vẫn là cô nữ sinh bé bỏng, lòng cũng biết xôn xao với những rung cảm đầu đời, nhưng tình yêu của anh tôi vẫn thấy xa vời lắm. Có lẽ tôi chưa yêu anh, tình cảm có một lúc nào đó cũng để lại trong tôi chút bâng khuâng, nhưng để đáp lại tiếng lòng của những đóa pensée, tôi ngại ngần lắm. Những đêm dài bất chợt nhìn ánh hỏa châu bừng sáng ở một góc trời, tiếng bom đạn rền rền ở vùng xa vọng về thành phố, tôi có đôi lần nghĩ đến anh, thầm cầu nguyện cho anh được trở về bình yên.

Đã gần bốn mươi năm rồi, một khoảnh khắc của thời gian nhưng cũng là một đoạn đường dài để con người trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, đau khổ. Lần lượt những hình ảnh thân quen trong quá khứ có giây phút trở về, tôi lại nhớ đến anh, nhớ đến những đóa pensée rung rinh mỉm môi cười mỗi mùa Xuân tới. Tôi vẫn muốn gọi anh bằng mấy chữ dễ thương: "người anh đồng môn", vì hình ảnh anh vẫn hiển hiện trước mắt tôi. Tôi nói "hiển hiện" là vì anh đã không về nữa, chỉ còn hình ảnh người trai trẻ năm xưa trong lòng tôi, đôi mắt dễ thương, nụ cười dễ thương, cái xiết tay ấm áp trong buổi chia tay lúc anh lên đường nhập ngũ.

Đời lính đưa anh đi xa rồi lại về gần, cuối cùng, anh đã bỏ mình trong một trận đánh, bên dòng sông quê mẹ. Hôm ấy hai cánh cửa sắt nhà anh mở toang, tôi đi lại nhiều lần nhìn vào chiếc quan tài phủ cờ với những vòng hoa tang, ngọn nến bập bùng hắt lên di ảnh "người anh đồng môn" của tôi, người lính trẻ đã nằm xuống khi tuổi còn thanh xuân.

Tôi vẫn không đủ can đảm bước vào để nói lời từ biệt "người anh đồng môn" dễ thương ấy, vì tôi biết rằng thế nào mình cũng khóc, hoặc để người khác biết được nỗi buồn đã chớm nở trong trái tim, như lần đã rụt tay về vì sợ anh ngỏ với tôi nỗi niềm thương nhớ của những đóa pensée. Không biết ở bên dòng sông nơi anh nằm xuống, dòng máu đỏ của người lính đã loang chảy vào lòng đất, có mọc lên những bông hoa pensée đầy thương nhớ không nhỉ ?

Lần cuối cùng anh về với cha mẹ, anh em, với bạn bè rồi ra đi mãi mãi. Lần cuối cùng tôi cũng muốn nói với anh một điều: "Bây giờ thì em đã hiểu về những đóa Pensée của anh mỗi mùa Xuân tới."



CỐ NHÂN


Đôi khi nhìn mãi lên trời
Tìm trong mây ảo bóng người năm xưa
Nghe vườn rung lá thu mưa
Lao xao trong nắng lời xưa thầm thì
Kể từ gió cuốn mây đi
Đời xa xa mãi mong gì thấy nhau
Người về đâu ta về đâu
Trần gian rồi cũng nát nhầu tuổi tên
Thôi đành đợi gió trăng lên
Chút mây phiêu bạt sẽ quên ít nhiều
Những chiều gió thổi hiu hiu
Màu hoa năm ấy là màu mến thương
Người giờ như gió như sương
Đời là hai chữ "vô thường" thế thôi


Nguyên Nhung



Back to top
« Last Edit: 22. Jun 2006 , 17:52 by khieulong »  
 
IP Logged
 
KHuong
Full Member
***
Offline



Posts: 234
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #33 - 28. Jun 2006 , 09:56
 
Ông Nguyễn Yên, sinh trưởng ở xứ Huế, lúc trẻ chưa xong trung học, gặp thời chiến tranh, phải gia nhập quân đội, và được huấn luyện làm trung sĩ y tá. Sau bao năm theo gót chiến binh sống chết, mãn hạn trở về, cha mẹ đều qua đời, ông lưu lạc vào Quảng Nam sinh sống với nghề chích dạo và gá nghĩa với một cô thợ may vùng nầy. Nhờ có nghề, hai vợ chồng cũng dễ dàng đắp đổi qua ngày, không đến nổi quá khổ. Dù trải qua bao tang thương của đất nước, hai người vẫn lai rai sinh dưởng được 4 cậu con trai.

Từ khi vào làm chủ Miền Nam, “Đỉnh CaoTrí Tuệ” đã vẽ ra những khẩu hiệu như: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa”, “Yêu xe hơn yêu con, quý xâng hơn quý máu”, “Sự nghiệp Bác Hồ sống mãi trong quần chúng ta”.

Không hiểu họ tiến mạnh lên ngã nào, Xã Hội Chủ Nghĩa là sao, nhưng mỗi ngày ông Yên thấy cái gì cũng khó khăn, phải mua qua tờ hộ khẩu, và Xếp Hàng Cả Ngày, với bo bo, khoai sắn sống cầm hơi. Đi đâu ít hôm cũng phải xin giấy tờ. Dân tình chịu hết nỗi, nên ai có thể, đã lạy dài trước ảnh Bác trên bàn thờ, dâng trọn cửa nhà, tài sản cho Bác và Đảng. Rồi tìm mọi cách  liều thân trước tầm súng AKA của C.A. Biên Phòng, để có dịp được thí mạng với hải tặc và đại dương sóng cả.

Không đũ tiền lo cho cả nhà cùng đi, vợ chồng ông Yên cũng dốc sạch, chạy cho cậu con trai thứ nhì là Nguyễn Danh, lúc đó vừa 16 tuổi, theo mấy người quen đi chui vượt biển, mong bắt một nhịp cầu cho gia đình mình được thông hơi ra ngoại quốc, kiếm chút tiếp tế về sau, và khẩn cấp nhất là tránh cho cậu nầy khỏi đi nghĩa vụ quốc tế, làm anh hùng liệt sĩ ở Cambodia.

Nhờ người tổ chức thực tâm, có mưu lược, và chuẩn bị chu đáo, chuyến đi được trót lọt sang Hồng Kông. Gặp thời Tổng Thống Jimmy Carter, hết lòng kính chúa yêu người, dùng uy tín và quyền hạn của mình kêu gọi nước Mỹ và cả thế giới cùng cứu nguy những thuyền nhân VN đang bị các nước Đông Á xua đuổi lênh đênh trên biển cả cho bảo tố, đói khát, chìm đắm, và hải tặc tung hoành, nên Danh  được nhận vào Mỹ một cách dễ dàng, và được nhà thờ ở Nam California bảo lãnh sắp đặt cho định cư.

Được sở Xã Hội Mỹ phát tiền chi tiêu, sau một thời gian học Anh văn, Danh theo các bạn VN thi thử trình độ (test), xin được vào học trường Đại Học Cộng Đồng (Community City College). Nhờ lãnh thêm tiền trợ cấp Basic Grant dễ dàng của chính phủ Mỹ và nhà trường cho làm lặt vặt có lương (work study), Danh  được thong thả có tiền ăn học liên tục hơn hai năm, và được chuyển lên Đại Học Tiểu Bang (State University), lãnh học bỗng và vay tiền học tiếp. Sáu năm sau khi trốn khỏi Vietnam, Danh  lấy được cấp bằng Kỷ sư Điện (B.S. in Electrical Engineering).

Ra trường đúng lúc kỷ nghệ điện tử đang lên mạnh ở California, Danh được thuê làm kỷ sư với mức lương khởi đầu khá hậu hỷ, $60,000/năm. Danh  thay xe mới, áo quần tươm tất, không khác gì một kỷ sư người Mỹ. Đúng như ta đã thường nghe:“Cộng Sản là xứ của Chính Ủy (Bí Thư), còn Tư Bản là xứ của Kỷ Sư”.

Rồi Danh  kết hôn với một cô Việtnam tị nạn CS, gốc Cần-Thơ cùng làm một hảng. Vợ chồng chung nhau mua một căn nhà 2 tầng mới cất, khá đẹp ở một khu trung lưu, thuộc vùng ngoại ô San Diego, trả trước 10%, phần còn lại vay ngân hàng trả góp. Mọi vật dụng, xe cộ 2 chiếc đều mới mẻ. Cuộc sống thật là hanh thông, hạnh phúc, không thua gì mấy ông kỷ sư Mỹ.

Thong thả, Danh  nhớ lại những ngày còn thơ ở Quảng Nam, nhớ đến cha mẹ và các anh em của chàng. Chàng thành công trong việc học việc làm, một phần vì trước kia cha chàng lúc nào cũng thúc đẩy, khuyến khích bên tai là con phải cố học hành. Cha chàng muốn các con thực hiện giấc mơ trường ốc, mà đời ông đã dang dở vì chiến tranh và nghèo đói. Đã nhiều lần thấy nhà chật vật, Danh  muốn bỏ học, thoát ly gia đình, ra kiếm sống cho dễ chịu hơn, như những bọn trẻ trong làng. Nhưng cha Danh  luôn khuyên răn, an ủi và bảo: “Dù tau còn lon gạo cuối cùng tao cũng cứ ráng cho mi ăn học.”

Giờ đây Danh  rất tự hào, gởi hình và thư về cho cha mẹ, cho biết chàng đã thành công như ý nguyện của cha. Danh  viết, kể rõ rằng đã có quốc tịch Mỹ, về đời sống hiện tại, gia thất, nhà cửa của chàng đều ổn định vững vàng, và bảo cả nhà lo chạy giấy tờ xin hộ chiếu để xuất cảnh. Đồng thời bên nầy Dũng nộp giấy tờ bảo lãnh cha mẹ và anh em theo diện ODP. Trong thư chàng cũng có nhắc lời cha lúc trước về “lon gạo cuối cùng” mà chàng vẫn còn nhớ . Nay Danh  đã có đầy đũ mọi điều kiện thuận lợi để bảo lãnh cha mẹ và anh em sang Mỹ đoàn tụ.

Đọc thư xong ông bà Yên, thấy mình đã đến gần tuổi 60, suy yếu rồi, lại không biết tiếng Mỹ, nghĩ qua bên đó chẳng thể làm việc gì, nhưng ông vẫn muốn đi, cốt đem thêm mấy đứa con sang Mỹ cho chúng có cơ hội tương lai. Thêm nữa trong thư, thấy Danh  còn nhắc lại mấy chữ “lon gạo cuối cùng”, làm ông Yên rất khoái, mừng con mình chân tình nhớ ơn ông. Nên không chút do dự, ông Yên xuất hết vốn, lo dịch vụ, chạy giấy tờ đi Mỹ. Qua nhiều ải khó khăn, chi đến đồng bạc cuối cùng, lo lót dịch vụ cho sớm được hộ chiếu xuất cảnh, phỏng vấn và chuyến bay.

Chẳng bao lâu sau, ông bà Yên và hai con được sang đoàn tụ với vợ chồng Danh  tại San Diego, chỉ trừ người anh trên 21 tuổi, đã có gia đình riêng, nên không được phỏng vấn chấp thuận.

Không khí đại gia đình trong tháng đầu mới sang, rất vui vẻ. Nhà rộng rãi, hai người một phòng thong thả, cơm nước cũng không tốn gì thêm nhiều. Nhà lót gạch men, không chút bụi. Phòng ngủ nào cũng trải thảm đẹp, nhà có máy trung tâm điều nhiệt, bên ngoài dù nóng hay lạnh thế nào, bên trong vẫn thoáng đãng và có nhiệt độ ấm mát thoải mái. Bếp núc nấu, nướng bằng gas tự động tối tân, sạch sẽ tiện nghi, tủ lạnh to lớn chứa đầy thức ăn, dự trữ vài ba tuần chưa hết. Máy giặt, máy sấy có sẵn trong nhà, bấm nút, nửa tiếng là giặt sấy xong. Xe cộ vào tận garage, sát cửa bếp.

Đường sá thì nơi đâu cũng tráng nhựa, hoặc béton ciment rộng rãi. Nhà nào cũng có sân cỏ trước, sau, và cây kiễng đều được cắt xén ngay ngắn mỹ thuật. Vợ chồng ông và hai con trai nhỏ rất mừng vui và thích thú. Ông thấy như đang lạc vào một cõi địa đàng trần thế, trái ngược với thiên đường khốn khổ mà Đảng đang thể hiện. nơi họ cai trị. Tiện nhất là trên lầu dưới nhà đều có ba bốn phòng tắm và bồn cầu, vòi nước nóng, nước lạnh, muốn tắm giờ nào cũng được, trong nhà thì đông không lạnh, hè không nóng.

Thật là khác xa bên quê nhà, mỗi lần đi tắm, phải lội bộ ra sông Thu Bồn, xa non cây số, mùa đông gió lạnh, nước lũ đục vàng, mỗi lần tắm là một lần ớn lạnh. Mỗi lần đi tiêu, gia đình phải lội ra cánh đồng gần nhà, ngồi ven bờ ruộng, như du kích đang dàn trận, chỉa súng phục kích bắn Tây. Khổ nhất là mùa mưa, ướt hết cả lưng mông. Lối đi thì bùn lầy dơ bẫn, đường làng thì ban đêm thường vắng vẻ tối tăm, người ta lại dùng làm chỗ phóng uế hôi thối, thuở trước không guốc dép, đi đẵm nghĩ lại mà ghê.

Vì đi theo diện ODP, người bảo lãnh có lợi tức cao, nên ông bà Yên và hai em Danh  không được hưởng một trợ cấp nào của chính phủ liên bang hay tiểu bang. Nhưng qua được đây ông rất mừng vui và bỡ ngỡ trước một đất nước giàu sang, bao la vĩ đại, cao ốc, nhà cửa đều khang trang, ngay ngắn, rộng rãi, hầu hết mọi người đều có xe hơi riêng, đi lại êm ru mà nhanh chóng, mà không thấy một chút khói bụi. Hàng tiêu thụ và thực phẩm vạn thứ tốt đẹp bày bán đầy trong thương xá và siêu thị. Một xã hội tư bản đang sống mạnh, sung túc, ăn nên làm ra, chứ không phải đang rẩy chết như kinh điển Mác Lê mà "Trí Tuệ" đã rao giảng.

Ông Yên gốc Huế, từ nhỏ đã quen với tập quán và ý thức cổ truyền, nên đầu óc cũng còn mang lắm thành kiến theo lễ nghi Khổng Giáo Đông Phương, gốc lính mà tính quan, nên nhiều tự ái, khí khái quá đáng, chuyện nhỏ có thể lờ qua, nhưng cũng trở thành vấn đề thắc mắc lớn.

Cũng như nhiều người Huế rất ăn cay, ăn ớt như chim nhồng, ông thường cắn nửa trái ớt hiểm, nhai kèm theo miếng cơm. Ớt nầy ở Mỹ cũng chẳng đắt đỏ gì, một dollar cũng có thể mua cả bát lớn, ăn cả tuần chưa hết. Sau mỗi bữa ăn, ông thường bỏ lại trên bàn dăm ba trái ớt cắn nửa chừng. Cô dâu thấy thế nói nửa đùa nửa thật: “Tía ăn kiểu nầy, nhà mình phải mua vài mẫu đất trồng ớt mới đũ cho tía ăn”. Ông Yên nghe, rất xốn xang khó chịu, và cho là con dâu vô lễ, ông bắt đầu ốt dột.

Đám ông bà Yên sang ở được hơn tháng, hóa đơn tiền nước gởi đến thấy tăng gấp đôi. Vì trước đó nhà chỉ có hai vợ chồng trẻ và 2 con nhỏ. Nay nhà thêm 2 ông bà già và 2 cậu trai, tắm giặt nhiều hơn, tăng gấp đôi là phải. Cô dâu thấy nóng mặt và đưa ra phương pháp tiết kiệm nước, bằng cách bảo đám ông Yên rằng trước khi đi ngủ, hãy cùng rũ nhau đi tiểu một lần rồi mới giật nước. Ông Yên càng bực mình thêm và cho là con dâu quá ti tiện nhỏ mọn, nên ông càng ấm ức, và trở nên mất vui.

Việt Cộng xưa nay vốn anh minh học theo sách vở Bác Mao. Lúc Mao Chủ Tịch dạy cải cách ruộng đất, đấu tố, cứ phong đại cho 5% dân quê mỗi làng là địa chủ rồi đem ra tố khổ, sỉ nhục, hành hạ, rồi hành hình man rợ. Đến sau 1985, cũng lại học theo Tàu Cộng Đặng Tiểu Bình bắt đầu dần cởi trói. Bà Yên, phụ với người con trai lớn, mở làm nghề may, còn ông lai rai chích thuốc dạo chui, cũng có thở. Ở VN, ông là người hữu dụng, ông đóng vai trò gần như một bác sĩ gia đình trong xóm làng, cung ứng y vụ đầu tiên. Ai sốt rét thì ông chích quinine, nivaquine, ai ho lâu ngày, ông chích steptomycine, ai mệt mõi thì ông chích B-Com, B12, Vit C. Ai bị nhiểm trùng thì ông chích trụ sinh, ai mệt khó thở thì ông chích huile de camphré, ai ho cảm thì ông chích Eucalyptol, hoặc cho uống Phenergan, hoặc bịnh nhân mang sẵn thuốc theo toa bác sĩ đến nhờ ông chích. Khi bịnh nặng không lành, họ mới phải đi bác sĩ, bịnh viện. Nhiều khi phải đến nhà các bịnh nhân góa phụ trong làng, ông cho lộn thuốc, chích lộn kim, lộn chỗ, chẳng hạn như chích mông, thì y khoa dạy phải chích chỗ một phần ba đo từ xương hông thẳng đến đầu xương cụt, để tránh giây thần kinh
sciatique, nhưng nhiều lần ông lại chích ngay chỗ trước đầu xương cụt, làm bịnh nhân giật bén người, như lên cơn phong đòn gánh, rên ứ hự cả chục phút mà cũng chẳng ai chết, cũng không ai than phiền, khiếu nại gì. Nhờ luôn có bệnh nhân, ông có tiền lai rai, được bà con làng xóm nể mến. Chiều chiều ông cũng có thể ra ngồi ở quán cóc, nhậu vài ly beer với bạn già, cười cợt, hề hà, vớ vẩn với cô chiêu đãi, và lãng quên thế sự tối tăm.

Sang đây, qua một thời gian ngắn, ông thấy mình không còn thích hợp vào việc gì ở xứ nầy, suốt ngày trong nhà, luôn đóng cửa, tù túng không biết đi đâu, không biết lái xe, không có bạn bè tâm sự, cũng chẳng biết làm nghề gì để phụ tiền ăn ở với con và dâu. Ông đi học tiếng Anh chữ được, chữ quên, cũng chẳng đi đến đâu. Ông đâm ra chán nản và buồn bã, vì thấy mình xó ró, khó hòa hợp, lại thêm nghĩ là con dâu là người chi li, keo kiệt, làm sao chung sống được, nên ông lại muốn quay về Việtnam, với nhà cửa đã sẵn còn của ông do vợ chồng cậu con lớn vẫn đang ở, tiếp tục nếp cũ, để có thể diện hơn.

Ông lại gởi thư cho cậu con ở VN lo thủ tục cho ông trở về. Dưới quyền các quan tân phong kiến, thủ tục ra đi đã khó, viêc trở về vĩnh viễn cũng không phải dễ, cũng đòi hỏi nhiều thủ tục rườm rà. Đối với các ngài, không phải ai muốn đi là đi, muốn về là về đâu. Thật lắm nhiêu khê và thủ tục “đầu tiên”.

Trong khi chờ đợi sự dàn xếp của cậu con bên nhà, ông Yên buồn lòng tìm đến thăm Nha sĩ Phùng, cháu gọi ông bằng cậu, đang làm ăn khá giả để cầu kiến. Ông đem tâm sự ra giải bày, ông trách con trai ông:“ thứ “hữu dũng vô mưu” không biết điều xử thế, học hành làm chi mà râu quặp như rựa, việc chi cũng để cho con vợ làm chụ, sai khiền tất cả.”

Sang đây từ 1975, Nha sĩ Phùng là người ở giữa hai thế hệ trẻ, già, đã trưởng thành bên Vietnam và sống lâu ở Mỹ, thông hiểu được tình trạng phân cách của 2 thế hệ, nên tận tình giải thích cho ông rằng:

“Xứ nầy theo chủ nghĩa cá nhân, riêng tư, chứ không theo truyền thống đại gia đình như bên ta. Lớp già bên ta và lớp trẻ lớn lên bên nầy suy nghĩ khác nhau. Vã lại trong trường học ở Mỹ, người ta chỉ dạy tính toán, khoa học, kỷ thuật và nghề nghiệp chuyên môn, chứ không dạy lễ nghi, luân lý đạo đức, cũng như lối cư xữ, tương quan giữa người với người như thế nào. Ai lo phần nấy, đặt giá trị đồng dollar lên hàng đầu, cha con anh em gì cũng bất kể, vì quyền lợi thực tế hiện tại hơn vì tình nghĩa trước sau."

"Những gia đình ngoan đạo chân chính, từ nhỏ tin tưởng vào Chúa, thì lấy công bằng, bác ái, yêu thương đồng loại, thánh kinh, lời chúa, ý chúa làm kim chỉ Nam. Theo Phật thì lấy lời Phật dạy từ bi, hỷ xã, bố thí, vị tha, hiếu kính cha mẹ, nghiệp chướng luân hồi làm đường lối. Theo Nho giáo thì lấy cương thường, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm tiêu chuẩn để hướng dẫn hành động trong xử sự, đối vật, đãi nhân và dùng làm thước đo thẩm định tư cách và giá trị mỗi người."

"Nhưng đám tuổi trẻ tị nạn sang đây một số vừa lớn lên nhiểm bị nhồi nhiểm bạo thuyết từ quê nhà, thêm ý thức tôn giáo và đạo đức gia đình lỏng lẻo, nên mọi xử sự của chúng thì loạn chiêu, không theo nguyên tắc đạo lý Đông Tây nào cả. Nguyên tắc đạo lý Phật, Nho, Á đông thì chúng chưa biết, không biết, hoặc có biết cũng bỏ, chẳng áp dụng. Còn nền văn minh tinh thần, nhân đạo của Cơ đốc Tây phương thì chúng cũng chưa thấm nhuần. Ý thức về liên hệ đại gia đình và phê phán về giá trị từ môi trường xã hội chung quanh không có. Nếu bên mình bọn trẻ cư xử sai quấy thì bị xóm làng, bà con khinh khi chê trách, nên chúng không dám, chứ bên nầy có ai hơi đâu mà khen chê chuyện ngưới khác. Do vậy giới trẻ cứ tùy tiện mà xử sự, tiền hậu bất nhất, theo cảm quan vui buồn, và lợi hại cá nhân tùy lúc và không theo một nguyên tắc nào cả, chẳng giống Mỹ, chẳng giống Việt.”

Nha sĩ Phùng lại tiếp: “Còn thế hệ già thì cố chấp, trong lòng còn nặng mang truyền thống cũ, nên rất khó mà hòa hợp. Đúng như Albert Einstein đã nói: “Phá vỡ nhân nguyên tử còn dễ hơn phá vỡ một thành kiến”. Cháu biết những điều cậu vẫn nghĩ về bổn phận con, dâu trong gia đình xưa nay sẽ không thể nào có được ở đây. Thành ra cậu mợ buồn là phải. Chứ như ông Nam, bạn cháu ở San Marcos gần đây, có mấy đứa con gái được ông đưa sang từ lúc nhỏ bé, nay đứa thì master làm ký giả TV Mỹ, lấy chồng bác sĩ Mỹ, đứa thì làm luật sư cho Mỹ, lấy chồng luật sư, đứa làm kỷ sư lâu năm lấy chồng giám đốc hảng kỷ nghệ Mỹ. Lần lượt làm đám cưới sang trọng, thấy ông ấy không bằng ai, cũng chẳng sẽ ích dụng gì cho tương lai chúng nữa, nên bắt chước nhau đều không mời ông làm gì. Nhưng mẹ và anh chị chúng cũng không khuyên trách, sui gia cũng không hề đến nhà ông thăm xã giao ít nhất một lần cho biết, hoặc hỏi thăm sao ông không có mặt. Biết lẽ đời phù thịnh, chứ ai phù suy, cho là chuyện tự nhiên phải thế, ông Nam đi chỗ khác chơi, vẫn vui vẻ chẳng thắc mắc gì, mà lại còn nghĩ rằng như thế là tốt, vì ra chỗ tiệc tùng, ông  khó kiên cử dễ bị cao mỡ cholesterol, nguy hiểm. Nếu vào trường hợp như vậy, cậu sẽ thấy khó chịu, thì đó là vì cậu chưa thích nghi.”

Ngưng một lát, Phùng lại tiếp:
“Tụi Danh mới xử như thế, mà cậu mợ đã phiền, thì cậu bịnh chết đi mất. Thằng Danh  như vậy vẫn còn tốt nhiều, còn bảo lãnh cậu qua, chứ cháu biết chuyện một góa phụ nọ ở Đồng Nai, chỉ có một con trai, ráng chạy cho hắn sang đây, rồi hắn lặn luôn, không hề thư từ. Mẹ hắn nhớ con, mõi mòn trông tin hắn, viết thư cho bạn bè hắn để tìm. Hắn lại bảo bạn hắn viết thư cho mẹ hắn nói là hắn đã chết rồi.”

Thuyết ông bà Yên một hơi dông dài, Nha sĩ Phùng kết thúc: “Thực tế thường phủ phàng, cậu mợ không giàu có, không địa vị, quyền thế, danh vọng gì ở đây, lại già yếu, lỗi thời, lỗi chỗ, thì phải chịu vậy thôi. Cậu mợ không thể nào chung sống với vợ chồng Danh  thêm nữa được, cậu mợ phải dọn ra ở riêng, càng sớm càng tốt để khỏi va chạm và sứt mẻ thêm.”

Sau đó Nha sĩ Phùng đưa tặng ông bà Yên 1,200 dollars, bảo về dùng thuê apartment một phòng ngủ cho 4 người tạm sống, và  khuyên ông bà Yên tìm mọi cách tự túc, tự lập.

Nhờ tiền nầy, ông bà Yên dọn vào apartment. Ông Yên giúp vợ nhận babysit vài ba đứa bé VN cùng khu. Hôm nào khỏe, ông mang bị đi lượm lon nhôm, mỗi khi một ít, góp lại mỗi tháng cũng bán được mấy chục dollars, phụ thêm. Hai cậu con trai nhỏ sắp đặt thời giờ, vừa đi học, vừa làm bồi bưng phở cho Việtnam ở El Cajon. Ban đầu thì Danh  hứa giúp mỗi tháng 200 dollars để phụ trả tiền thuê apartment, nhưng rốt cục chẳng cho đồng nào, rồi sau lại nói ở Mỹ phần ai nấy lo. Và từ đó vợ chồng Danh  cố tránh đám ông bà Yên. Mối liên hệ đôi bên trở nên xa lạ lạnh nhạt, không còn tới lui thăm viếng, hỏi han gì nhau nữa, coi như quên hẵn nhau.

Ban đầu, ông bà Yên lo lắng, nóng ruột chờ thủ tục dàn xếp hồi hương và lo kiếm tiền vé máy bay về cho xong. Nhưng với thời gian, ông bà Yên quen dần với nếp sống mới và hòa nhập với xã hội, như những người Mỹ nghèo. Ông bà còn phải yểm trợ cho hai cậu con nhỏ tiếp tục học, nên dần lãng quên chuyện tính trở về VN.

Một hôm, hai cậu con ông bà Yên ra khu siêu thị mua thực phẩm gặp vợ Danh  đang dẫn hai con nhỏ cùng đi chợ. Vừa trông thấy 2 chú, hai đứa cháu chạy đến ôm mừng rỡ, nhưng đã bị mẹ gọi giật lại và dẫn đi ngay ra khỏi siêu thị.

Hôm nọ gia đình người trưởng tộc của ông Yên, cũng tỵ nạn định cư tại San Diego, có tổ chức bữa giổ ông cố tam đại trong giòng họ, có mời bà con bạn bè đông đảo, có cả vợ chồng Danh  và ông bà Yên riêng rẻ. Cả bốn người đều có đến dự, nhưng tất cả đều tỉnh bơ, trà trộn trong đám khách già trẻ, coi như xa lạ, chẳng ai chào hỏi ai cả. Tệ hơn cả người lạ, vì khi gặp nhau ở một nơi như vậy, người lạ vẫn chào, thăm hỏi nhau lịch sự:
Thật là: ”Cố hương hà chính vô phương thuyết.
               Viễn xứ thâm tình vạn nẽo xa.” HP.

Thoáng 6 năm nữa lại trôi qua, hai cậu con trai nhỏ của ông bà Yên, đều đã học xong đại học 4 năm và đã tìm được việc làm tại các cơ xưởng kỹ nghệ trong vùng và cũng đã dọn ra ở riêng.

Ông bà Yên nạp đơn xin vào quốc tịch. Được thẩm vấn sơ qua, ông bà trả lời ú ớ, câu trúng, câu sai, nhưng cũng đã được ưu ái chấm đậu làm công dân Mỹ. Lấy xong chứng chỉ quốc tịch, ông bà yên cũng ráng đi bỏ phiếu bầu từ hội đồng thành phố, quốc hội, thống đốc và tổng thống. Ông bà còn ra Bưu Điện thành phố điền một lá đơn, gởi kèm vói 2 tấm ảnh và đóng lệ phí 60 dollars, vài ba tuần sau, nhận được sổ thông hành (passport) thời hạn hiệu lực 10 năm, có thể dùng đi hầu khắp các nước trên thế giới, bất cứ lúc nào, đều khỏi cần chiếu khán (visa) nhập cảnh của nước đó chỉ trừ Vietnam và vài ba nước Cộng Sản còn sót lại. Nhiều nước thấy bìa passport Mỹ không cần lật ra xem và cho đi qua ngay.

Nay cả hai ông bà đều đã qua tuổi 65, nên đã được hưởng mọi quyền lợi và trợ cấp in hệt như một cặp vợ chồng Mỹ già nghèo chính cống sinh trưởng ở xứ sở nầy:

Được bảo hiểm sức khỏe (Medicare, Medi-Cal): Khi ông bà bịnh nhẹ, nặng, đi bác sĩ, bệnh viện nào tùy ý chọn lựa, chính phủ sẽ thanh toán mọi y phí, thuốc men. Ông bà Yên còn được trợ cấp tài chánh để tiêu pha cho mọi sinh hoạt hằng ngày. Mỗi tháng chính phủ chuyển vào trương mục của ông bà đúng US$1499. Đầu tháng ra nhà bank, đút thẻ ATM rút tiền nầy ra xài.

Được trợ cấp gia cư: Ông bà đã mướn nhà apartment 2 phòng ngủ, dù giá thị trường cho mướn cao đến 1200 dollars, nhưng ông bà Yên cũng chỉ phải trả mất 1/3 số tiền được trợ cấp nói trên. Số sai biệt chính phủ sẽ trực tiếp trả cho chủ nhà.

Kể gọn bằng bài thơ sau đây:

Cảnh già ở Mỹ :
Sáu mươi lăm tuổi xứ Cờ Hoa,
Còn những ba lăm đẹp cảnh già?
Con cháu đường riêng, ngày lễnh lãng,
Của tiền quan tính, khỏi lo xa,
Xe hơi mới cũ, tha hồ lái, (dù không lái)
Xứ lạ xa gần, mặc sức qua.
Lận đận bên trời thôi vĩnh viễn,
Mừng nhau vàng tuổi hết bôn ba..HP.

Ngoài ra, vì lợi tức thấp, các cụ già còn được các hảng xe bus Mỹ, quán ăn Mỹ, một số cửa hàng và những nơi giải trí công cộng, giảm giá cho, có thể từ 10 đến 30%, và county còn cho mỗi tháng một thùng thực phẩm đóng hộp và sữa bột, sữa hộp, nước trái cây, và thức ăn sáng. Nếu đi đứng khó khăn, chính phủ sẽ cho xe lăn tự động, giường tự động, sữa Ensures, và trả tiền thuê người đến chăm sóc. Nghe đâu bác sĩ còn viết toa cho lấy cả thuốc Viagra màu xanh da trời trị bịnh bất lực, để được giỏi như hồi trai trẻ:

“May nhờ tài nghệ xứ Cờ Hoa,
Tiếp liệu xanh trời khiến mạnh ra.
Đụng độ quân nhà tay vững súng,
Đường gươm bén nhạy đúng quân ta.”HP.

Ngoài ra người già còn được hưởng các tiện nghi ưu ái như dịch vụ Senior Day Care do tư nhân điều hành. Người chưa yếu lắm, mỗi tuần 5 ngày có thể ra đó, vui chơi với nhau, xem phim, đánh cờ, tứ sắc, xài internet, nghe ca nhạc, nhảy đầm, được massage, tập tài chi,  luyện dưởng sinh, ăn sáng, ăn trưa, chở du ngoạn đó đây, có xe đưa rước từ nhà. Mọi chi phí, do chính phủ thanh toán.

Lúc yếu, cùng lắm thì vào nhà Nursing Home chờ ngày về với tiên tổ.

Rồi đến bên bờ kiếp tử sinh,
Rã rời thủ túc, xếp gươm linh,
Lữa thiêng đưa tiển vào mây khói.
Hồn phách xa chơi cõi tỉnh bình. HP

Khi dành dụm được ít nhiều, ông bà Yên lại gởi giúp con cháu và bà con bên quê nhà. Chẳng còn bận rộn kiếm sống nữa, vui cảnh thanh nhàn trong mọi điều kiện ổn định. Đói no, bịnh hoạn, tiền bạc có chính phủ lo, ông bà Yên sống với nhau như cặp vợ chồng son, mới cưới, trong căn apartment tiện nghi, một tổ ấm riêng tư, mà từ khi lấy nhau hai người chưa bao giờ có. Bất cứ giờ giấc nào, cũng có thề tha hồ ngồi trà rượu, hay bày cờ ra đánh như thơ bà Hồ Xuân Hương đã mô tả. Nhưng tiếc thay tạo hóa lại đố toàn, càng khôn khuyết niết, không gì trọn vẹn, vì tướng mã đã suy tàn, xe pháo thêm rời rã, thật là cảnh thanh bình dưới thề mà “ngọn cờ thì ngơ ngác, trống canh lại trễ tràng”.

Mấy người bạn già biết chuyện, hỏi ông Yên còn muốn trở về Viêtnam nữa không? Ông thản nhiên đáp: “Chừ ợ đây tui sượng quá, về Việtnam chi mô cho phiền rựa. Ợ đây con nó bọ, thì có chình phù lo, khỏi phai như các cụ già Nhật phải đi “tu tiên” phơi xương nùi Phù Sì băng tuyệt, hay các cụ VN nghèo còng lưng đan giò, hay bệnh đói bơ vơ chết đường, chệt chợ ở quê nhà. Nhờ chính phủ Mỳ, tui đâu cọ cần chi mô tụi vô tình, bất nghĩa đọ.”


HOPHI

Back to top
« Last Edit: 28. Jun 2006 , 10:04 by KHuong »  
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #34 - 28. Jun 2006 , 13:29
 
KHuong wrote on 28. Jun 2006 , 09:56:
Ông Nguyễn Yên, sinh trưởng ở xứ Huế, lúc trẻ chưa xong trung học, gặp thời chiến tranh, phải gia nhập quân đội, và được huấn luyện làm trung sĩ y tá. Sau bao năm theo gót chiến binh sống chết, mãn hạn trở về, cha mẹ đều qua đời, ông lưu lạc vào Quảng Nam sinh sống với nghề chích dạo và gá nghĩa với một cô thợ may vùng nầy. Nhờ có nghề, hai vợ chồng cũng dễ dàng đắp đổi qua ngày, không đến nổi quá khổ. Dù trải qua bao tang thương của đất nước, hai người vẫn lai rai sinh dưởng được 4 cậu con trai.
Cũng như nhiều người Huế rất ăn cay, ăn ớt như chim nhồng, ông thường cắn nửa trái ớt hiểm, nhai kèm theo miếng cơm. Ớt nầy ở Mỹ cũng chẳng đắt đỏ gì, một dollar cũng có thể mua cả bát lớn, ăn cả tuần chưa hết. Sau mỗi bữa ăn, ông thường bỏ lại trên bàn dăm ba trái ớt cắn nửa chừng. Cô dâu thấy thế nói nửa đùa nửa thật: “Tía ăn kiểu nầy, nhà mình phải mua vài mẫu đất trồng ớt mới đũ cho tía ăn”. Ông Yên nghe, rất xốn xang khó chịu, và cho là con dâu vô lễ, ông bắt đầu ốt dột.

Đám ông bà Yên sang ở được hơn tháng, hóa đơn tiền nước gởi đến thấy tăng gấp đôi. Vì trước đó nhà chỉ có hai vợ chồng trẻ và 2 con nhỏ. Nay nhà thêm 2 ông bà già và 2 cậu trai, tắm giặt nhiều hơn, tăng gấp đôi là phải. Cô dâu thấy nóng mặt và đưa ra phương pháp tiết kiệm nước, bằng cách bảo đám ông Yên rằng trước khi đi ngủ, hãy cùng rũ nhau đi tiểu một lần rồi mới giật nước. Ông Yên càng bực mình thêm và cho là con dâu quá ti tiện nhỏ mọn, nên ông càng ấm ức, và trở nên mất vui.

HOPHI


Đọc câu truyện này!? Roll Eyes ???
anh NDD thấy hông? chọn con dâu kiểu này thì chít chắc!
Chắc tại cô dâu này ở nhà quê, nhà có nuôi cá tra, nên nên đi tiêu trên ruộng nuôi cá, hổng bao giờ phải dội nước...hic.hic..  Roll Eyes Roll Eyes Roll Eyes
ớt xiêm, ớt hiểm ở đây đem cho ăn không hết phải đổ thùng rác, có chi mà bủn xỉn dzị chời!
Nói đi phải nói lại, MD nghĩ đây cũng do cậu con lép vợ wa' xá! hay tại ông già chồng khó chịu ??? Roll Eyes

Như gia đình của MD, có 10 người, Ông anh bảo lãnh cả nhà qua Mỹ được 7 người, còn lại 3 vì có gia đình không đi được, bây giờ thì cũng đã qua đoàn tụ đông đủ 10,  Bố MD sống ở Mỹ được 10 năm thì mất,
Khi còn sanh tiền bố MD rất được con cái và cả hàng xóm quí mến .hii... từ dâu rể đến con cái, đều nể sợ, khi nghe Bố gọi cần nói chuyện, đứa nào mắt cũng láo liên hỏi nhau có chuyện gì vây?
Khi qua mọi người cũng đều ở chung một nhà có 4 phòng ngủ, nên cũng chật
Nhưng cô con dâu cũng chẳng bao giờ dám phàn nàn,
chỉ có một hôm hôm cô con dâu có thái độ vung vẩy, như là để chén bát trên bàn mạnh tay, mặt không vui, trước mặt Bố chồng, Ông cụ không nói năng chi, đợi tối cả nhà đi ngủ ông Cụ gọi hai vợ chồng dậy hỏi chuyện xảy ra hồi chiều, cô con dâu khóc xin lỗi, tại giận chồng nên có thái độ vô phép với Bố chồng! Không biết Ông Cụ moral cái gì, cả bọn im re trong phòng không đứa nào dám hé cửa dòm!
từ đó cô con dâu không dám có cử chỉ vô lễ như vây?
Ông Cụ tính vui vẻ, văn nghệ ca hát cả ngày, thích làm việc giúp đỡ con cái, rất công bằng với cháu nội ngoại, Ông mất rồi, nhưng  các cháu vẫn nhăc, cái này của Ông Nội làm, cái ngày của Ông Ngoại!
còn anh trai và em trai của MD, nhà MD có 4 trai, được 3 dâu, cô nào cũng dạ thưa khi nói chuyện với Bố Mẹ chồng, khi có cơ sở ra ở riêng, cũng phải lựa giờ thưa chuyện với Bố Mẹ rồi dọn ra riêng. Lúc  nào Ông cũng gọi MD về hỏi : tụi nó mua nhà chổ đó có tốt không? đi gởi con có xa không? vì lúc nào Ông cũng sợ các cháu của Ông không ai trông!
Có rất nhiều gia đình bảo lành cha mẹ qua, và rất khổ tâm, chuyện Mẹ chồng nàng dâu, các Ông bà cụ lại khó khăn, con cái đi làm có một ngày nghỉ ở nhà, thì các Cụ lại bắt con phải chở đi thăm bạn bè, ngồi chờ ông bà cả giờ đồng hồ, khổ tâm vô cùng, Nhiều Ông bà Cụ được con cái chìu chuộng thì lại khó khăn, bă't bẻ đủ điều!

Riêng Bố của MD thì có lẽ ông là người có tính độc lập, khi mới qua, Ông kêu Ông anh lấy cho ông cái bản đồ, và thời khoá biểu của Xe bus chạy trong thành phố, đem về Ông ngồi nghiên cứu, một ngày, hôm sau dậy sớm, ghi địa chỉ số phone nhà bỏ vào túi, hỏi anh của MD cách gọi phone về nhà lỡ khi bị lạc, hỏi cách đi xe bus như thế nào, ông anh lớ ngớ vì hồi giờ chưa đi xe bus, Ông Cụ nói khỏi cần, lên xe thấy Mỹ làm sao, thì mình làm theo, thế là Ông Cụ đi suốt từ sáng cho đến chiều tối mới về đến nhà, mặt mũi hơn hở, mở quyển sổ ra khoe đã đi tới những chổ nào, Trong sổ Ông Cụ ghi lại những chổ đã đi đến và còn ghi lại cảm tưởng nữa, cả nhà cười thán phục Ông Cụ wa' xá!
Rồi Ông tự động đi hỏi dò, tìm trường học ESL, sau này đi thi lấy Quốc Tịch Mỹ Ông đòi thi tiếng Mỹ không thi tiếng Việt, Ông Cụ đậu cái rụp, không biết vì Ông Cụ nói tiếng Mỹ giỏi hay là vì tụi Mỹ nể ông Cụ già 78 tuổi mà thi quốc tịch không cần thông dịch Roll Eyes

Ông Cụ bảo Ở Mỹ là thiên đàng rồi, còn đòi hỏi gì nữa! con cái được học hành, có công ăn việc làm, nhà cửa đàng hòang, mình không giúp được con thì than thở cái gì! Ông Cụ thích gần gũi con cái, thích chơi với các cháu, không thích đi ra ngoài đàn đúm, có lần chở Ông Cụ đến xem hội cao niên Á Mỹ, để có gì vào chơi với các cụ cùng tuổi cho vui, nhưng Ông Cụ không thích kiểu tụ năm tụ ba chơi bài bạc, hút thuốc, Ông Cụ bảo Hội cao niên mà chẳng có ích lợi gì cho người già cả, thôi để Ông cụ về nhà chơi với các cháu, đọc sách, tập Taichi, hát Karaole mà còn khoẻ hơn nhiều;)
Ông Cụ mất hưởng thọ 79 tuổi! dâu rể, con cái chạy về đông đủ, phủ phục tang chế, ăn chay đủ 3 ngày!
Các cô con dâu nói không ai tốt như  Ông Bố chồng của các cô ấy! con dâu coi như con gái, dạy dỗ rầy la công bằng!
MD thấy
Tất cả mọi sự thành công như thế đều do tình thương chân thật mới có được!
Bố MD không phải là sĩ quan tướng tá, không có bằng cao cấp, chỉ là công nhân bình thường, nhà nghèo lắm, nhưng gia tài của Bố là sự học của các con, Bố chịu dốt để cho con học giỏi, và dạy con:
tiên học lễ, hậu học văn
chị ngã em nâng

nên anh em rất thương nhau, luôn luôn giúp đỡ nhau những lúc khó khăn Smiley Smiley Smiley
Nhìn thấy những bất hạnh của những gia đình khác mà đau lòng Undecided Undecided Undecided
Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
tấm ảnh chụp chung cuả lớp tôi
Reply #35 - 22. Jul 2006 , 08:28
 
Thiên Minh

Không biết có phải tại cái tính của tôi "kỳ cục" hay là do tôi vẫn còn nhớ...dai chuyện ngày xưa tôi học...dở?
Bởi vì cho tới bây giờ tôi vẫn còn cảm thấy "ấm ức", vì không được điểm 10 cho bài toán đố ngày xưa.
Thật ra bài toán đâu có khó lắm đâu! Chỉ tại do tôi ẩu tả không chịu kiểm tra lại cho đàng hoàng trước khi nộp bài cho thầy. Nên tôi chỉ được điểm 9 mà thôi.
Và cũng vì 9 điểm nên tôi không nhận được "phần thưởng" của thầy tôi. Thầy chỉ phát cho đứa nào đạt được 10 điểm. Phần thưởng là một tấm hình của cả lớp mà thầy đã chụp cách đó không lâu. Tôi nhớ lại buổi sáng hôm ấy sau khi vào lớp thì thầy cho chúng tôi làm một bài toán đố. Thầy nói:
- Em nào được 10 điểm thì thầy sẽ phát cho tấm hình của cả lớp chụp chung.
Nghe vậy nên tụi tôi đứa nào cũng khoái chí trong lòng và mong là mình sẽ làm toán trúng!
Sau khi chấm bài xong thầy kêu 5 đứa có điểm 10 lên nhận hình. Ai dè trong số đó lại không có tên tôi, làm tôi tức quá! Tôi nhớ là tôi làm đúng đáp số mà! Hay là tại tôi viết chữ "ẩu tả" nên bị trừ điểm, hay do tôi làm sai chỗ nào mà tôi không biết? Tôi hậm hực trong lòng nên ngồi yên và chờ đợi. Tới chừng thầy phát bài ra thì tôi mới biết điểm của tôi là 9. Lý do là vì khi viết đáp số, tôi quên không ghi ra đơn vị dấu "$ " (đồng) nên thầy tôi mới trừ đi của tôi một điểm. Chính vì thế mà tôi chẳng được tấm hình. Tôi nhớ là sau khi thằng Đạt nhận phần thưởng của nó xong và chìa tấm hình cho tôi xem, làm cho tôi càng thêm tức.
Vì trong tấm hình đó tôi ngồi ngay bàn đầu cùng với tụi thằng Trí, thằng Lũy, thằng Huy, thằng Nguyên, thằng Ba và thằng Mạng. Khi chụp hình thầy tôi kêu hai dãy bàn dồn qua một phía để chụp chung. Riêng thằng Đạt thì ngồi tuốt ở đằng sau. Nhưng nhờ có điểm 10, nên nó "có quyền" sở hữu tấm hình quý giá kia/ Tấm hình này đối với mấy thằng ngồi bàn đầu như tôi là một danh dự lớn. Mà lạ thật, cả bảy thằng ngồi hàng đầu đều lọt sổ. Chỉ có một mình tôi là gần nhự..trúng thưởng. Tưởng sao cuối cùng thì thằng Đạt lại "tự nhiên" quyết định tặng cho tôi tấm hình để giữ làm kỷ niệm. Chắc là nó "rộng lượng" hợ..thầy tôi, hay nó "thương tình" muốn làm cho tôi vui và không còn ấm ức nữa!?
Tôi nhận ngay, cám ơn nó thật nhiều, nhưng trong lòng thì cảm thấy hơi..."quê". Vì "công lao" này đâu phải do tôi, mà thật ra là do "công tình" của thằng Đạt.
Trong năm thằng được điểm 10, ngoài thằng Đạt và hai thằng nữa tôi quên tên, thì còn có Phước và Mển là hai thằng học giỏi nhất nhì trong lớp của tôi. Hai thằng này lúc nào cũng dẫn đầu lớp. Tôi cố gắng hoài mà chưa một lần nào qua mặt được chúng nó. Tôi chơi thân với hai tụi nó. Ngoài giờ học chúng tôi hay đi chơi chung và tụi nó cũng thường hay đến nhà tôi chơi mỗi khi có dịp.
* * *
Năm đó chúng tôi đang học lớp bốn trường làng, nhân dịp sắp sửa nghỉ hè, nên hai thằng Mển và Phước muốn đến nhà tôi chơi. Thật ra tôi biết là tụi nó muốn đến nhà tôi để ăn ổi. Vì nhà tôi trồng ổi rất nhiều. Tôi thường hái mang theo để đem vào lớp. Hôm đó sau giờ tan học là chúng tôi cùng hẹn hò và "trực chỉ" nhà tôi. Phải mất đến 20 phút đi bộ từ ngôi trường ở gần ngả ba trên xã, về đến nhà tôi là khu cuối ấp. Trên đường đi, ba thằng tỏ ra hăng hái lắm. Thằng Mển nói với tôi:
- Mỗi lần về quê, tao hay đi ngang nhà mầy. Nhà mầy bự mà giống... chùa quá hà?
- Hình như nhà mầy có hàng rào chung quanh nữa phải không?
Thằng Phước cũng vừa đi vừa hỏi tôi.
- Ừ đúng đó. Nhà tao bự nên mỗi lần vào nhà phải dùng cổng sau. Vì cửa sắt cổng trước bị sét nên mở rất khó khăn.
- Bộ lúc này nhà mầy ổi nhiều lắm hả? Thằng Mển chợt hỏi tôi. Nên vừa đi tôi vừa quay qua trả lời cho nó:
- Nhiều! Trái non bắt đầu ra, và một số khác già hơn thì vừa mới chín. Một chút tao sẽ dẫn tụi bây vòng lên phía cổng trước. Nơi đó có cây "ổi sẻ" trái nhỏ nhưng ruột đỏ và ngọt lắm. Bảo đảm tụi mầy ăn hoài cũng vẫn còn thấy ngon đó!
Vừa đi chúng tôi vừa nói chuyện huyên thuyên. Hai thằng bạn của tôi tỏ vẻ nôn nao lắm. Chắc là tụi nó đang... chảy nước miếng vì hình ảnh mấy trái "ổi sẻ" ở nhà tôi đang chờ đợi chúng.
Ba thằng đang đi ngon lành, tự nhiên tôi để ý thấy dưới mặt đường có mấy cái lỗ nhỏ nằm rải rác đó đây. Theo kinh nghiệm "chiến trường" của riêng tôi, thì đây là dấu hiệu "bất ổn", mà đã từ lâu tôi rất là e dè mỗi khi nhìn thấy chúng. Đã vậy hôm nay có hai thằng bạn "quý" đến nhà chơi, mà mấy cái "dấu vết" này nằm chình ình ở đây, thì tôi càng thêm lo lắng!
Tôi tự nhiên cảm thấy..."xìu" ngay, hết còn hứng thú. Bây giờ tôi mong muốn đoạn đường còn lại về nhà tôi, được dài thêm ra chừng nào hay chừng đó. Cái cảm giác này đã có trong tôi từ bấy lâu nay, chúng đã trở thành thói quen ở mỗi buổi đi học về. Nhất là mỗi khi thấy mấy cái lỗ quái ác kia xuất hiện trên đường, là tự nhiên tôi đâm rạ..hồi hộp. Tôi nhìn kỹ chúng và không thể nhầm lẫn vào đâu được... Để rồi xem, mấy cái lỗ này sẽ chạy dài từ đây về đến nhà tôi là cái chắc!
Tôi tiếp tục bước đi mà trong lòng thì không cảm thấy an tâm một chút nào hết. Hai thằng bạn đi cùng, đâu có biết ất giáp gì đâu. Tụi nó chỉ mong sao chóng đến nhà tôi để tha hồ mà ăn ổi. Chúng đâu có biết là trong bụng tôi đang hồi hộp. Tâm trạng của tôi hiện giờ là vừa lo sợ vừa hoang mang. Mới nghĩ đến cái cảnh phải đối diện tối nay và cả sáng ngày mai là chân tôi bắt đầu bước đi hết muốn nổi. Tôi muốn đuổi tụi nó trở về và hẹn vào bữa khác, nhưng tôi sợ tụi nó buồn. Nên đành làm thinh vừa đi mà trong lòng tôi vừa lo lắng. Tôi biết khi về đến nhà là chị tôi thế nào cũng kêu tôi ra trình diện. Đầu tiên là xuất trình cái thời khóa biểu cho "bả" xem. Rồi sau đó là đến mấy cuốn vở của tôi. Nếu trong đó điểm của tôi mà dưới trung bình cỡ 4-5 là coi như tôi lãnh đủ. Rồi đến cái màn khảo bài của chị tôi, là tôi cũng đủ chết. Hai cái chân của tôi kể như là hai con..."vật tế thần" cho cây chổi lông gà mà má tôi vừa mới sắm hôm qua.
Cây chổi mới này bao gồm nửa khúc đầu này là lông để cầm, nửa khúc đầu kia là cây roi mây dài và ốm. Chị tôi sẵn sàng "nẹt" nó vào chân tôi mỗi khi tôi trả lời không được. Sau đó là đến cái "mông" của tôi, cũng được dự phần "ăn cho đồng chia cho đủ". Tức là cũng "chia phần" cây roi mây vào sáng hôm sau trước khi tôi lên đường tới lớp. Tôi nhớ có một lần tôi ráng ngủ dậy thật sớm để đi học. Tôi hy vọng là chị tôi vẫn còn ngủ ở trong phòng. Nhưng tôi có ngờ đâu khi vừa ra đến cửa là chị tôi đã ngồi sẵn ngay ngạch cửa tự lúc nào. "Bả" kêu tôi đưa tập ra và bắt đầu kiểm tra bài, xem tôi đã thuộc chưa mà dám lên đường đi "ứng thí". Đây là đoạn đường "gian khổ" nhất của tôi. Vì tôi phải đứng lại tại chỗ, học bài cho tới khi nào thuộc thì mới được đị Thường thì tôi hoảng quá có nhớ được gì đâu, nên tiếp tục nước mắt lưng tròng và hai cái chân thì phải lãnh thêm vài cái roi mây mang vô trường làm kỷ niệm.
Do vậy mới nghĩ đến cái kinh nghiệm "đau thương" này là tôi cảm thấy... "lạnh người". Rõ ràng là mấy cái lỗ kia đã báo hiệu cho tôi một tương lai không "tươi sáng" lắm! Đọc đến đây chắc độc giả đang thắc mắc, không biết mấy cái lỗ gì mà "ám ảnh" tôi nhiều đến thế?! Bây giờ thì tôi xin phép được nói ngay. Dạ vâng, thưa đó chính là mấy cái lỗ nhọn bằng đầu ngón tay. Chúng để lại dấu vết trên đường, chẳng qua là từ cái gót giày (cao gót) của chị tôi. Mỗi lần bước đi là mấy cái dấu này đều "khắc ghi" trên nền đất.
Vừa đi tôi vừa suy nghĩ lung tung. Tôi vẫn thường hay thắc mắc là tại sao cả cái làng này, lại chỉ có một mình chị tôi là người mang giày cao và gót nhọn. Phải chi có thêm vài người nữa mang giày cao thì sẽ đỡ cho tôi biết mấy. Vì như vậy thì mấy cái lỗ nhọn này không phải là của chị tôi, là coi như tôi thoát nạn. Ít ra là thoát được cái màn khảo bài của chị tôi trước giờ đi học. Mà cũng thiệt là lạ, vì hình như chị tôi không bao giờ mang giày tây hay thứ gì khác. Hễ mỗi lần "bả" về quê là lại thích mang toàn là giày cao gót. Tôi nghĩ, chắc là do mặc áo dài nên chị tôi thích mang giày cao gót để hợp thời trang chăng?! Riêng "chỉ nội" cái màn mặc quần tây thôi, thì chị tôi đã có vẻ e dè, vì sợ ba má tôi "chửi" cho mà tắt bếp! Tôi tự nhủ thầm, chị tôi mới là sinh viên ngành sư phạm mà "bả" đánh tôi kiểu này.
Mai mốt ra trường đi dạy, ai mà làm học trò của chị tôi chắc là sẽ bị "bả" "hành" cho mà phải biết! Bởi vậy mà hôm nay, khi nhìn thấy mấy cái "dấu guốc" trên đường về nhà tôi, là tôi biết ngay, đây chính là của "bả"! Cuối cùng thì đoạn đường về nhà tôi cũng ngắn dần đi, khi cái cổng nhà sau đã lù lù hiện ra trước mắt. Dĩ nhiên là tôi cũng không quên kiểm tra xem mấy cái lỗ kia đâu rồi? Có dè đâu "chúng nó" cũng "trung thành" "đi theo" chúng tôi. Tức là cũng thẳng hướng nhà tôi và "nhất định" không chịu "quẹo" qua hướng nào khác! Chắc là chị tôi mới về lại đây thôi, nên mấy cái dấu guốc này còn "mới tinh" trên nền đất.
* * *
Nghe tiếng chúng tôi về tới, chị tôi (và cả má tôi) có kêu vào nhà để hỏi thăm "ba thằng tôi" về "tình hình" học tập? Dĩ nhiên là tôi đâu có...ngu khai mình học dở. Cộng với sự "phụ họa" của hai thằng bạn là chị tôi tin liền. Sẵn dịp có phần thưởng là tấm hình ngày đó cả lớp chụp chung. Thế là chúng tôi tha hồ mà khoe khoang "thành tích", để cuối cùng cả ba được khen..."là tốt đấy!". Cũng may là thằng Đạt do phải về nhà phụ má nó...tắm heo, nên không có đi cùng.
Chứ nếu không, thì chuyện "lai lịch" tấm hình nó cho tôi, thế nào cũng bị lộ tẩy! À mà tôi nhớ ra rồi, nhà thằng Đạt nuôi heo nhiều lắm. Và có cả con heo đực thật to dùng để (chuyên môn) dẫn đi cho người ta gầy giống nữa!
Sau đó thì má tôi kêu tôi dẫn Phước và Mển ra ngoài vườn kiếm ổi hái ăn. Chúng tôi chỉ chờ đợi có bấy nhiêu thôi. Nên khi được má tôi cho phép, là chúng tôi chạy liền một hơi, ra ngoài cây ổi kế bờ ao. Nơi có mấy nhánh cây đang "là đà" trên mặt nước. Chúng tôi vừa hái, vừa ăn, và vừa nhún nhảy. Làm cho nước dưới hào văng lên tung tóe.
Tuy nhiên ngay lúc này đây, tôi tạm thời quên đi những nỗi lo sợ trong lòng. Tôi hy vọng tối nay chị tôi sẽ "tha" cho tôi một kỳ tra khảo. Vì theo tôi, với "thành tích" học tập của tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Giờ có bạn bè đến chơi, nếu thấy chị tôi vui thì tôi sẵn sàng nài nỉ :
- Chị ơi, hãy cho em được "vô tư" để vui cùng chúng bạn nhé!?
*
Viết thêm - Giờ đây khi viết lại những dòng này, tôi không khỏi bồi hồi chạnh lòng nhớ lại thời trẻ nhỏ. Ngày xưa tôi ghét chị tôi, nhưng bây giờ tôi hiểu và mang ơn của "bả" nhiều hơn. Vì cũng nhờ có chị tôi "tra khảo" thường xuyên. Mà việc học hành ngày xưa của tôi cũng..."được nhờ" cho tới ngày khôn lớn. Ngay cả mấy người học trò của chị tôi cũng vậy. Họ cũng không quên "công lao" của "bả". Dù bây giờ họ tản lạc khắp nơi.
Vậy mà có người vẫn còn nhớ đến chị tôi. Có người vẫn thường liên lạc để cám ơn, để thăm hỏi chị tôi vào những ngày lễ lớn.
Thiên Minh
26 tháng 2 năm 2005

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #36 - 25. Jul 2006 , 19:36
 
...

NGƯỜI LÍNH GIÀ VÀ MÀU CỜ TỔ QUỐC

 

Tổ Quốc Tri Ân những Anh Hùng

Biệt Kích Sở Bắc, Biệt Hải, Hắc Long, Lôi Hổ, Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Lực Lượng Ðặc Biệt,
Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Không Quân, Hải Quân,
các Sư Ðoàn Bộ Binh, Thiết Giáp, Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

 
...

"Tôi sinh ra trong loạn ly của đất nước, chẳng lẻ tôi lại chết ở xứ người sao cô ?" Người lính già nhìn ra cửa chờ người bạn đến rước, anh hỏi nhưng anh dường như anh không cần câu trả lời. Mà làm sao tôi trả lời anh được!

     “Chú dán tấm lịch nầy trên cửa tủ lạnh để nhớ ngày trở lại tiếp máu nhen chú.” Tôi nói để đánh trống lảng.

     “Ðau mà được bác sỉ trị bệnh thì tôi không quên đâu cô ạ.” Lần nầy người lính già nhìn tôi, như anh tìm trong mắt tôi một nơi để gởi lại cái bị đời của anh. Một người vợ trẻ và bốn đứa con thơ.

     “Chúng cầm tù chú mấy năm hả chú?” Tôi hỏi.

     “Mười chín năm cô ạ.” Chú nhìn xuống bàn tay xương xẩu, vuốt mấy sợi tóc bạc phơ còn lại sau ba tháng “chemotherapy” rồi đội lại cái nón base ball màu xám tro vợ chú đem về ở hảng may nón để chú che cho ấm đầu. “Tôi nhảy xuống Hòa Bình năm 1966 không đầy hai tuần lể cả bọn chúng tôi bị bắt, năm 1985 chúng tôi được thả về, mấy anh em kia có người chết trước đó, có người về nửa đường chết nửa cô ơi.”

     Tôi được dịp chăm sóc anh lính Biệt Kích già nầy vì tôi làm việc trong nhà thương Northlake, nơi anh đến trị bịnh. Trong vòng hai tháng mà anh vô phòng cứu cấp ba lần, lần đầu tiên gặp anh là hôm tôi thấy xe cứu thương chở đến phòng cứu cấp một người Việt Nam, hai người Mỹ to lớn đẩy băng-ca trên đó một thân hình nhẹ nhỏm, không hay biết gì, hai tay quờ quạng một cách yếu đuối. Tôi không biết anh là ai nhưng tôi biết anh là người Việt Nam đủ rồi, tôi vào phòng cắp cứu với bác sỉ với anh.

     Sau hơn hai tiếng đồng hồ, bác sỉ cho anh nhập viện, mấy ngày sau anh khoẻ lại tôi có khuyên anh nên tìm một bác sỉ gia đình theo dỏi bịnh của anh thường xuyên hơn chớ đừng để bị té xỉu hoài ở nhà nguy hại lắm.

     Anh bằng lòng, và sau đó bác sỉ gia đình của anh gởi anh tới một bác sỉ chuyên môn về ung thư. Vì bác sỉ trong nhà thương nghi là anh bị ung thư..

     Quả thật, anh bị ung thư máu. Tôi đã giúp anh lần đầu tại phòng cứu cắp, tìm cho anh bác sỉ gia đình thì tôi cũng nên giúp anh cho đến nơi đến chốn. Tôi lại là người đem hun tin đến cho anh. Suốt đêm trước đó tôi trằn trọc mãi, không biết tìm lời nào cho nhẹ hơn hai tiếng “ung thư” để dịch cho anh.

     Người lính Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa can đãm ngoài chiến trường, ngày nay người lính già nầy vẫn còn cái khí thế của anh Biệt Kích trên nền trời xanh của Việt nam.

     Ðứng trước mặt anh và bác sỉ, tôi không dám nhìn thẳng vào mắt anh rồi tôi từ từ nói:

     “Kết quả cho biết là chú bị ung thư ở cổ chú à.”

     “Cô hỏi bác sỉ tôi còn bao lâu?” Chú bình tỉnh hỏi:

     “Bác sỉ hỏi chú muốn ổng trị bịnh cho chú không?”

     “Trị bằng cách nào? Mổ lấy ung thư ra hay sao?”

    “Không có mổ, bác sỉ sẽ trị bàng thuốc, kết quả chỉ có thể đoán dược 50% thành công thôi, phản ứng của thuốc sẽ làm mất sức chú  lắm, như ói mửa, rụng tóc, ăn không được, mất ngủ trong thời gian trị bịnh. Nhưng sau đó tóc của chú sẽ mọc lại. Ðiều quan trọng là trong thời gian trị bịnh chú phải đến đây ba tháng liên tiếp, và mỗi tháng chú đến nhà thương và phòng mạch nầy độ hai mươi lăm lần” Tôi nhìn phản ứng trên khuôn mặt không còn sự sống của chú.

     “Trị bịnh thì phải cố gắng, nhưng làm sao tôi đến nhà thương được hai mươi lăm lần trong một tháng? Tôi mới đến Mỹ, chưa biết lái xe, mà có biết cũng không có tiền mua xe. Thỉnh thoảng đến đây là nhờ anh em chở dùm, hay là xe cứu thương chở tôi đến nhà thương, mình đâu có thể làm phiền anh em quá như thế! Tiếng anh nói chứa đựng ngao ngán của một người không có phương cách nào xoay trở.

     Tôi chỉ biết “anh em” của chú qua mấy lần họ đưa rước chú ở nhà thương, nhưng tôi đánh liều.

     “Chuyện đó để tôi lo, chú cứ cho bác sỉ biết là chú muốn trị bịnh không đả.” Tôi nói:

     Anh lính già gật đầu. Bác sỉ nhìn anh rồi nhìn tôi, ông nói:” Cho ổng biết là tôi sẽ trị bịnh cho ổng với tất cả khả năng của tôi, và tôi rất kính trọng một cựu chiến binh can đãm như ông. Cám ơn ông đã tin tưởng nơi tôi, tôi sẽ săn sóc ông hết lòng.”

     Rồi bác sỉ đưa một lược mấy văn kiện bằng tiếng Anh, ông bảo tôi dịch trước khi chú ký tên. Một tờ cho phép bác sỉ trị bịnh cho chú, một tờ  cho phép văn phòng bác sỉ đòi tiền medicaid, một tờ cho phép bác sỉ hội ý với bác sỉ chuyên môn khác nếu cần để trị bịnh cho chú.

     Tối hôm đó tôi về nhà điện thoại cho anh Nguyễn Thanh Châu, người bạn đồng ngũ, cũng đã bị cộng sản bát bỏ tù như chú. Bây giờ tới lượt tôi trổ tài năn nỉ.

     “Anh Châu hả? Dung đây, mạnh giỏi không ông? Ong làm ở Harry’s Framer Market có rau trái tươi, ăn uống toàn là đồ bổ thì chắc anh mạnh khỏe lắm hén!” Tôi phá anh:

     “À chị Dung, còn chị làm ở nhà thương thì chắc chị mạnh hơn bọn HO già của tôi” Anh Châu cười, tiếng cười của anh làm cho người khác vui lây.

     “Anh em của mình còn sức khỏe, nhưng ông Quách Tỏm đau nhiều quá ổng cần bọn mình tiếp tay với ổng anh Châu à.” Tôi mở giọng năn nĩ.

     “Chúng tôi chăm sóc ổng từ sáu tháng nay, từ ngày ổng bước chân tới đất Mỹ cho đến bây giờ.” Anh Châu nói với giọng buồn cho ông Quách Tỏm.

     Ổng thường nhắc đến công ơn của các anh trong Gia Ðình Biệt Kích ở Atlanta, chúng mình có gia đình, có sức khỏe, có công ăn việc làm, ai cũng phải đi cày, nhưng chuyến nầy mình phải tổ chức sao để cho ổng đi nhà thương ít nhứt 25 lần trong một tháng mà ba tháng như vậy.

     “Trời ơi làm sao mà chở nổi chị Dung?” Anh Châu hốt hoảng lên. Anh hợp lại với anh em Biệt Kích đi, ngày xưa thằng cộng sản Bắc Việt nó bỏ tù các anh, ai mạnh thì săn sóc người yếu, ai yếu người mạnh giúp để chống chõi với đoàn thú vật đó ; bây giờ ổng cần các anh giúp ổng để chống lại tử thần. Chúng mình mỗi người một tay giúp chú và vợ con chú anh ơi.”

     “Ðược rồi, tối nay tôi sẽ nói chuyện với anh Quách Rạng, chị an tâm” anh Châu trả lời.

Thế rồi gia đình Biệt Kích phân công nhau giúp đở gia đình người bạn già, một lần nửa lại đánh giặc và một lần nửa có bạn đồng ngủ trung thành ở một bên với anh.

     Nhưng tiếc thay, ba tháng sau  bệnh chủa chú càng ngày càng trầm trọng. Bác sỉ cho tôi biết chú chỉ còn ba hoặc bốn tuần nửa thôi. Lần nầy tôi không dám nói với chú, nhưng tôi cho anh Châu biết, các anh dặn nhau đừng để cho vợ chú biết để chị ấy vửng tin thần nuôi con và chăm sóc chú.

     Một hôm tôi và chú ngồi chờ anh Quách Nhung, cháu họ của chú đến chở về sau khi chú Quách Tỏm chích thuốc. Tôi muốn sắp đặt cho chuyến đi vĩnh diển của chú theo ý muốn của chú, nên tôi dọ ý.

     “Một mai tôi có chết, tôi không muốn người ta đến nhìn cái măt chết của tôi đâu chú.” Tôi nói:
     “Ðể cho người ở lại họ đở nhớ mình thì tôi cho nhìn mặt, mà tại sao cô không cho người ta nhìn mặt cô?” Chú hỏi:

     “Tôi nghỉ lúc chết mặt mình xấu quắc, người ta nhìn tôi, tôi giận lắm đó.”

     “Tôi cũng nghỉ như cô, lúc trẻ tôi đâu có súng răng, đầu bạc như thế nầy, tôi bảnh trai nhứt làng trên Ban mê Thuộc đấy cô ạ. Thôi thì không cho nhìn mặt nhé." Chúng tôi cười.

     “Nếu tôi chết trước chú nhắc bạn bè đừng cho tôi bông màu đỏ nhé, tôi ghét màu đỏ lăm, nó nhắc nhở quê hương mình đang rỉ máu.” Tôi nhìn vô dách dấu hai con mắt đỏ gây.

     “Tôi cũng có một ước mơ, tôi muốn được đắp bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ của mình. Vậy ai chết sau lo cho người chết trước cô nhé. Nhưng mà làm sao cô chết trước tôi được, dạo nầy tôi yếu hơn ba tháng trước lắm cô ạ, chỉ không dám than thở sợ vợ con buồn tội nghiệp nó. Tội nghiệp vợ tội!” Mắt chú nhìn đến một nơi xa xôi nào chớ không nhìn tôi.

     Một tuần sau xe cứu thương chở chú Quách Tỏn vào bệnh viện. Chú ăn không được, nói không được nhưng chú biết và nhận ra tất cả bè bạn đến thăm chú. Chú muốn nói lắm, nên tôi đưa cây viết và cuốn tập cho chú. Hai bàn tay quờ quạng, chú viết tứ tung, chúng tôi chỉ nhận ra vài câu:"cám ơn tất cả, gởi lại vợ con, gặp cô nhà báo, cám ơn cô Dung."

  Suốt tuần lể trong cơn mê, cơn tỉnh, tôi khuyên vợ con chú đến thăm, nói chuyện, tỏ tình, lao mồ hôi, thấm nước lên môi cho chú. Chú không nói được nhưng chú cười khi có đủ mặt vợ con, bè bạn.

     Cô nhà báo là cô Elizabeth Kurylo, phóng viên của tờ báo Atlanta Journal trước đó một vài tháng có viết một bài báo rất hay nói đến Gia Dình Biệt Kích tại Atlanta, cô rất thương gia đình chú Tỏm. Làm theo lời yêu cầu của chú, tôi gọi cô Elizabeth tới thăm chú. Cô khóc nhiều lắm, cô nắm hai bàn tay không còn sự sống của người lính già cô nói:”Anh là một người có danh dự, anh là người yêu nước. Dân tộc Mỹ cũng như dân tộc Việt Nam ghi ơn anh. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên anh.”

     Vợ, con, bạn đồng ngủ, bà con hàng xóm và tôi có trước mặt trước giờ cuối cùng của chú Quách Tỏm trong cái phòng nhỏ hẹp của bệnh viện. Các anh nhờ tôi gọi hỏi nhà hoàng về việc mai táng , gia đình, bà con và ông thầy trên chùa bàn tín nghi lể cả tiếng đồng hồ.

     Tôi chỉ có một vấn đề quan trọng để cho gia đình chú biết, nên tôi chen chân vào giửa đám đông rồi tôi nói:

     “ Chú Tỏm muốn được lá cờ phủ lên quan tài của chú, các anh đây có ai có  lá quốc kỳ của mình không?”

     Một ông HO cũng thuộc vào hàng có chức  phát biểu:

     "Dạ chưa chị, chắc là chị không có ở trong quân đội nên chị không biết nghi lể, thể thức của quân đội, nhưng chỉ có tướng, tá hay tử trận mới được đắp cho một lá cờ."

     Tôi cướp lời anh HO.

     “Ai dám cản việc nầy đây? Ai không cho phép anh nói người đó nói chuyện với tôi nhen.” Tôi nhìn ông ấy từ đầu đến chân nhưng thật ra tôi muốn nhìn thẳng trong tim ông ta, để biết ông có hiểu nổi sự thiêng liêng giửa lá cờ vàng ba sọc đỏ và người Việt Quốc Gia không?

     Trong phòng yên lặng một hồi. Không ai tình nguyện cho lá cờ.

     “Trăm việc nhờ cô.” Người vợ cầm tay tôi nói nhỏ:
     Hôm sau tôi trao lá cờ vàng ba sọc đỏ cho người góa phụ, chị ôm đứa con nhỏ bốn tuổi và lá cờ.
     “Cô tìm được lá cờ cho bố đây con ơi!” Chị nói trong tai thằng bé.

     Ðám tang của chú Quách Tỏm trang nghiêm và danh dự. Tình chồng vợ, tình cha con, tình anh em, tình đồng đội, tình hàng xóm, tình người nồng nàn trên mặt hơm một trăm người từ già đến trẻ tiển chú đi. Bà dân Biểu Cynthia Mc Kiney của Georgia gởi điện văn từ Washington, DC xuống chia buồn với vợ con chú và Gia Ðình Biệt Kích.

     Người lính Việt nam Cộng Hòa chết ở thành phố Atlanta lạnh lẻo, có màu cờ quê hương ấp ủ xác anh. Anh chết không phải là hết, vì anh đã để lại cho chúng tôi chử tình- tình người lính với lá cờ vàng ba sọc đỏ, anh yêu màu cờ cho đến chết vẫn còn yêu và tình đồng hương sâu đậm.

     Màu cờ vàng sống mãi trong lòng chúng ta cũng như chú Quách Tỏm sống mãi trong lòng anh chị em chúng tôi nơi đây xứ “Cuốn Theo Chìu Gió.”
 
 
   Ðặng Mỹ Dung

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn  SANG MỶ KIẾM CHỒNG
Reply #37 - 08. Aug 2006 , 07:21
 
SANG MỸ TÌM CHỒNG, VỀ VN TÌM VỢ
Người viết: CHU TẤT TIẾN

*
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn, hoạt động cộng đồng quen biết tại Nam California. Ông đã góp nhiều bài viết về nước Mỹ đặc biệt. Sau đây là thêm hai truyện ngắn ngắn trong loại đề tài chuyện dài lấy vợ ở VN. SANG MỸ TÌM CHỒNG



Ngọc sang Mỹ không cần ai bảo lãnh mà cũng ở lại được. Dĩ nhiên, Ngọc đã tốn rất nhiều tiền chi chác, nhưng không phải chi cho người ở Mỹ làm giấy hôn thú giả, mà chi cho cơ sở nơi Ngọc làm việc để được đề cử đi tham dự Hội Nghị những nhân vật xuất sắc nhất trong Công Ty X. tổ chức ngay tại Mỹ.
Thật là một cơ hội bằng vàng, vì chỉ tốn có hơn ngàn đô la, cộng với lời nói ngọt ngào thốt ra từ cửa miệng một thân hình uyển chuyển, tên Ngọc đã nằm ngay đầu danh sách. Rồi đến giai đoạn làm Passport, Ngọc cũng khôn khéo làm cho tay Công An nhận giấy tờ điên đảo với cặp mắt quyến rũ cùng những lời hứa hẹn nằm sau mấy tờ giấy trăm, nên mọi việc trót lọt, chẳng gặp trở ngại nào. Chỉ có mỗi việc phải giải quyết với ông chồng già và đứa con gái là vất vả. Phải bao công lao thuyết phục, ông ấy mới chịu cho đi. Ngọc phơi phới lên đường.
Sang đến Mỹ, mới qua ngày thứ hai, Ngọc đã liên lạc được với bà chị họ, một người rất thân thiết từ khi còn nhỏ, ở ngay Cali. Mừng rỡ, bà chị phóng tới khách sạn và đưa Ngọc đi chơi một vòng. Hai chị em tâm sự ríu rít. Chuyện xưa, chuyện nay nở như bắp rang. Dần dần câu chuyện chuyển sang việc tương lai: ở lại Mỹ luôn. Nhưng làm thế nào nhỉ?
Bà chị là một người làm địa ốc thành công nên không thiếu ý kiến. Bà giúp ngay một ý kiến táo bạo nhưng rất thành công. Chỉ không đầy một tuần, một cứu tinh xuất hiện. Ông Hiệp, 65 tuổi, ly dị vợ, đang sống với tiền già, đọc được trên báo vài hàng cầu cứu đã tới ngay: "Thiếu phụ, 45 tuổi, ngoại hình dễ coi, ly dị, không vướng bận con cái, mới tới Mỹ, cần người bảo trợ gấp. Nguyện sẽ đền đáp xứng đáng. Xin gọi số...." Mới gặp ông Hiệp, Ngọc có phần thất vọng, vì dáng lụ khụ của ông, nhưng nghe giọng nói vẫn còn gân guốc, Ngọc chép miệng:
-Thôi, kệ, miễn là ở lại được nước Mỹ!
Thế là Ngọc dọt luôn, bỏ hội nghị, bỏ tất cả lại sau lưng về với ông Hiệp. Hai người đưa nhau ra luật sư, hỏi ý kiến, rồi làm thủ tục đủ thứ, hôn thú, linh tinh... Nhưng, ở đời, chẳng có chuyện chi mà trót lọt, xuông xẻ, vui vẻ hoài.
Ông Hiệp, tuy tên là "hiệp", nhưng lại chẳng nghĩa hiệp chút nào. Được cô vợ trẻ trung, nẩy lửa, dịu dàng, ông mê man cà cuống, đâm ghen tuông kinh hoàng. Sau khi đưa vợ đi làm tại một "shop" may, ông chỉ phát cho mỗi ngày 2 đồng ăn trưa, không thêm không bớt. Ngày ngày ông đưa đón vợ đi về, tới nhà là khóa cửa. Gọi là nhà, nhưng chỉ là một phòng "se" lại của người ta. Rồi nấu cơm, giặt dũ, ông không cho em liên lạc với ai hết, trừ bà chị họ, thì cho nói chuyện, còn bất cứ ai gọi điện thoại đến cũng phải qua ông. Ngọc như con chim nhốt trong lồng.
Tâm tư của người thiếu phụ trẻ trung, hấp dẫn này vẫn vấn vương nhiều chuyện khác. Về ông chồng ở Việt Nam, cô đã phải làm giấy ly dị, gửi về, nhưng vẫn phải trợ cấp chút đỉnh cho con gái mới 16 tuổi. Tiền đâu mà gửi về khi mà ông Hiệp lãnh hết. Muốn có chút tiền, phải hỏi xin, rất khó khăn. Đứa con gái, có chút tiền của bà bác cho, vẫn thỉnh thoảng điện thoại cho bác nó, hỏi thăm về mẹ. Câu trả lời của Ngọc thường giống nhau:
-Con ơi! Mẹ cũng khổ lắm, không sung sướng đâu. Mẹ còn phải "cầy" nhiều năm nữa.. Mẹ nhớ con
lắm! Con hiểu cho mẹ nhé!
Ngoài ra, sống với ông chồng già, lãnh trợ cấp tiền bệnh của chính phủ này, chả vui thú gì. Tiền không, tình cũng không, chỉ là cục nợ! Xem phim truyền hình thấy người ta yêu nhau mà mê... Mấy hôm nay, ông lại giở chứng, làm chuyện điên rồ, hại cả đời Ngọc. Đã tới ngày đi làm thẻ xanh, ông nhất định không đi, kiếu bệnh! Bà chị hớt hãi chạy tới, nói mãi cũng không lay chuyển. Rồi, ngày hẹn qua đi. Thế là hết! Ngọc khóc lóc, giận dữ cũng chẳng ăn thua gì!
Bà chị nói:
-Nó muốn "chơi" mày đó! Nó không đưa mày đi làm thẻ xanh, là nó muốn mày trở thành di dân lậu, sẽ bị tống về nước! Hoặc nó làm mày phải lệ thuộc nó như con ở! Phải "xu" thằng già đó cho nó biết mặt!
Ngọc ú ớ:
-"Xu" cái gì bây giờ?
-Thì "xu" nó "ờ biu" mình!
-"Ờ biu" là cái gì?
-Là ...là ... nó hành hạ mình đó! Nó hại mình đó! Nói đại nó hay hiếp dâm mình khi mình không thuận...
-Trời đất! Ai lại thưa chồng hiếp dâm vợ!
-Thật mà! Mày nói với nó, nếu nó không làm lại giấy tờ cho mày làm thẻ xanh, mày sẽ "xu" nó tội bạo hành với vợ, tội hiếp dâm vợ, tội "ờ biu" vợ... Đủ thứ tội!
Chả còn cách nào khác, Ngọc đành theo kế của chị, bỏ nhà đi luôn hai ngày. Ong Hiệp cuống lên, gọi điện thoại liên miên. Bà chị thủng thẳng nói:
-Nếu ông mà không lo luật sư, lo giấy tờ cho con em tôi có thẻ xanh, nó sẽ "xu" ông thì ông chết, mất hết tiền bệnh, mất mêđikeo...
-Không...đừng làm thế! Chị nỡ nào mà cạn tào ráo máng như vậy? Tôi giúp cho cô ta ở lại Mỹ mà! Không có tôi, cô ta đã phải trở lại Việt Nam rồi!
-Vậy thì làm giấy đi...
Thế là ông Hiệp vội vàng lên INS hỏi lại việc làm thẻ xanh, mất thêm bao nhiêu thời gian và lệ phí nhờ Luật sư can thiệp...
Trong khi đó, Ngọc lại bất ngờ gặp một người bạn của người bạn cùng sở với mình, thấy tình cảnh Ngọc như vậy, thì nổi máu anh hùng, muốn nhào dô làm chuyện nghĩa hiệp. Anh Hậu cũng mới năm mươi mí, còn ngon lành, phong độ hơn ông già kia nhiều, lại cũng bị "bợ vỏ" nghĩa là "vợ bỏ". Khi Ngọc về nhà chị, Hậu tíu tít đưa Ngọc tới lui, giúp đỡ ý kiến đủ thứ làm Ngọc thấy bâng khuâng...
Hai người chuyện trò tương đắc lắm, lấy số phôn của nhau.
Chuyện gì phải đến đã đến, sau khi thi hành thủ tục thẻ xanh, một ngày nắng ấm, Ngọc lặng lẽ xách vali đến nhà Hậu... Còn ông Hiệp, đứng dựa cửa thẫn thờ, đấm ngực trách mình nông cạn.
"DỌT LẸ!"
Mai là cô gái nhan sắc có thừa, trông rất hấp dẫn, nhất là về phương diện ăn mặc thiếu vải. Tuy làm "thợ hớt tóc", nhưng khi đi ra ngoài đường, mấy chàng thanh niên trầm trồ dữ dội, không ai nghĩ là em làm nghề "cầm đầu cầm cổ thiên hạ" mà tưởng là em làm gái bán bia ôm. Đa số đều huýt sáo, chọc ghẹo kiểu rẻ tiền, nhưng chỉ có Lành là trố mắt, thán phục kinh khủng.
Tuy Lành là Việt kiều, nhưng là Việt kiều không đẹp mã, nên các cô cứ tửng tửng dạo qua nhà Lành mà không vào. Anh lại ăn nói không có duyên, nghĩ sao nói vậy người ơi, làm "át săm lơ" nên mặc cảm, không dám tấn công các cô, chỉ cười cười mím chi, vì răng của anh tám cái thì trồng răng giả mất năm, nên không dám cười mạnh miệng.
Kiếm mãi không được cô nào ưng ý, anh đành về quê kiếm vợ. Mấy thằng bạn ghẹo anh là dân "sút càng gẫy gọng", vì chỉ có những tên "sút càng gẫy gọng" mới không kiếm được vợ ở Mỹ. Thôi
kệ, miễn sao có một cô vợ ngon lành rinh sang đây cho tụi nó lé mắt.
Gặp Mai trong tiệm hớt tóc, Lành mê mẩn liền. Mai thấy Lành "ngố kèn" thì làm tới. Em ghé thấp xuống mặt Lành, khoe luôn cả bộ trời cho lấp ló dưới cái áo hở cổ cố ý làm anh chàng líu cả lưỡi. Rồi em vừa hớt vừa cọ quẹt, khiến Lành chịu hết nổi, mỗi ngày phải đến ngồi chầu rìa, ngó em, đưa đầu cho em vò vần tơi bời hoa lá. Chừng một tháng, cá cắn câu xong, Lành vội vàng làm thủ tục để đưa em về Mỹ.
Năm tháng trôi qua, Lành hết đứng lại ngồi trông mong ngày Mai sang. Ngày đó cũng tới khi Mai diện bồ đồ thiếu vải một cách ác liệt tiến đến chỗ Lành:
-Anh có nhớ em hôn?
Lành run rẩy:
-Nhớ....nhớ!
Hai tay Lành rung đến nỗi tìm chiếc chìa khóa xe không thấy trong túi quần. Mai bật cười:
-Làm gì mà cuống lên thế? Bộ em đẹp lắm hả?
Lành gật đầu, mặt đỏ bừng lên:
-Đẹp! Em... đẹ.. p... lắm!
Cặp vợ chồng mới cưới dìu nhau ra xe, đúng ra là Mai dìu Lành thì đúng hơn. Bắt đầu từ giây phút đó, Mai đã chính thức trở thành bà chủ của Lành. Từ việc đi học "neo" cả hai đứa, đến việc nấu cơm, dọn nhà, tất tất Lành nhắm mắt làm theo lời Mai. Đến trường học, nếu có chi lầm lỗi, Lành bị Mai mắng cho nát mặt mà không dám hở môi. Có lẽ tại Mai "xếch xi" quá xá, tay chân thì nhỏ, nhưng bộ ngực thì lớn cộm, ai cũng phải liếc mắt nhìn vào. Mai có vẻ hãnh diện về cái điều ấy lắm, nên bất kể Lành là một ông chồng đứng ngay cạnh đó, Mai nhận lời khen của mấy tên bậm trợn tỉnh bơ, và nếu có dịp thì tán ngay lại liền. Hầu như gặp bất kỳ anh đàn ông nào có máu dê, Mai liền chợp thời cơ đấu hót tưng bừng đến nỗi người nào cùng học "neo" với Mai và Lành đều biết là Mai chỉ chờ cơ hội là "dọt lẹ"...
Chỉ riêng Lành không biết, hoặc biết nhưng cố gắng níu kéo, giữ vợ bằng cách ngoan ngoãn chiều vợ. Chính Mai cười đểu với Lành như thế:
-Anh chiều tui như dzậy có giống chiều bà cố nội anh không?
Lành ấp úng:
-Thì...đã sao...
Sao chứ! Nhất định là có sao chứ! Vì không đầy một năm sau khi hai vợ chồng mãn khóa học "neo", Mai đi làm và rồi người... thiếu phụ đã "một đi không trở lại". Mai đã "dọt lẹ" y như lời tiên đoán của mấy người cùng học chung trường ngày nào... Còn Lành làm "cô phu" đứng ngóng cửa chờ mãi không thấy em "hớt tóc ôm" ngày nào trở lại.



Chu tất Tiến

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #38 - 21. Aug 2006 , 11:43
 
    Xin được gửi đến cac bạn chuyện ngắn
 

Ăn sáng, Ăn trưa...
Nguyễn Quốc Bảo
     Không có gì nghiêm túc hơn chuyện khoái khẩu... Il n'y a rien de plus sérieux que le plaisir...Nghệ thuật khoái khẩu không những phải thỏa mãn ngũ giác, mà phải còn thỏa thích một giác quan thứ sáu; Brillat Savarin (1) dẫn, và là ý kiến của Talleyrand (2), Curnonsky (3) về giác quan thứ sáu này. Châm ngôn trên chắc những đệ tử Khoái Lạc chủ nghĩa, épicurisme, như bạn đồng môn AV sẽ lấy làm hả hê ! Người Trung quốc thời cổ đem thư bút vào võ công, Hoàng Lão Tà kể chuyện công dân nước Sài Gòn đem đấu hót vào bữa ăn sáng, thì người Pha Lăng Sa lại lẫn trộn triết học với thực đơn! Tôi kể tên ÁV, bạn cùng trường, bởi y thật là chuyên viên khoái khẩu, nào trà, nào cognac, nào champagne. Phải chứng kiến cảnh y mở chai hảo tửu champagne, đôi mắt long lanh, miệng cười toe toét, AV hoàn đồng như đứa trẻ thơ, ngây ngô sung sướng trước kẹo ngon vật lạ. Phải chi xã hội chủ nghĩa đổi qua khoái lạc chủ nghĩa, thì thật là phúc lớn cho dân khoái khẩu!
    Gần đây, ông bạn nối khố, học cùng lớp ở Thiên Hữu Huế vào những năm năm mươi (tôi tự ý tránh không dùng từ ngữ thập niên mà báo chí thông thường hóa hơi nhiều), hầu như mỗi tuần cưng chiều các CHS TH, với những tạp bút xuất sắc chuyển bằng Imeo. Ông NT nỉ non với y, để đăng bài Ăn sáng, y vừa mới viết, trên Lá thư CC. Tên bạn nối khố này, tự phong cho mình là Hoàng Lão Tà, ý muốn bắt chước phụ thân Hoàng Dung trong chuyện kiếm hiệp Kim Dung, 10 phần 9 là tà may ra còn 1phần chính! HLT nhiều lần thủ thỉ với tôi, sau khi đậu Mắt tèm lem (Bac. Mathématiques Elémentaires), cũng dự thí vào trung tâm Kỹ thuật. Hình như nghe lệnh thân phụ, y chọn thi CC, bài thi môn chi y cũng xoay xở tốt đẹp được cả, than ôi, gặp môn vẽ phối cảnh, dessin perspectif, thì y trượt vỏ chuối ! Không biết là y bị quáng gà tự nhỏ hay lúc xưa, đi học không chịu nghe giảng dạy của cụ Sa, giáo sư vẽ ở Thiên Hữu. Cho tới bây chừ, Lão Hoàng đi sắm một kệ sách (book shell, bibliothèque) đem về nhà, mở họa đồ ra coi để lắp ráp, nhưng hỡi ôi, toàn hình phối cảnh, nên y đành chịu thua, không biết đường mô mà xoay sở, đành phải chờ con rể qua ráp dùm!...Nhưng kể cũng kỳ, lúc lên học đệ nhị cấp trung học, gặp môn hình học không gian (géométrie dans l'espace), mà thiếu chi bạn cùng lớp chới dới, thì HLT lại cử bộ thênh thang đi tới đi lui cách dễ dãi với môn tréo cẳng ngỗng này! Mà rồi y cứ thở dài thườn thượt, tiếc là không có duyên với CC, y còn nói phải chi thi ban Điện không có phối cảnh, thì trúng tủ rồi, khỏi phải đi Đại học Sư phạm gõ đầu trẻ. Nhưng HLT, văn võ toàn tài, nên đi sư phạm văn chương, mà lại văn chương Pháp ngữ, cũng là đại sở trường của y, cho nên nghề đấu hót của y đã cao đến chỗ tuyệt vời, không thể tưởng tượng được, mà thuật ngữ học trong sáng tác ba hoa chích chòe của y, bình sinh khó có người bì kịp. Nhưng mà, đọc bài ăn sáng, rồi cứ anh ách, vật tư cấn cấn cứ phè phè trong trí não. Trước đó HLT cho tôi thỏa chí bình sinh với một tạp bút chơi ngông " Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài ", trong đó tư duy tổ chảng của y đi tìm của ngon vật lạ, như "  L... trợt giữa cươi ", và kể lể Xuân Hương nữ sĩ " Giang tay với thử trời cao thấp / Xoạc cẳng đo chơi đất ngắn dài ". Những tự ngữ viết nghiêng trên đây súc tích nhan nhản trong bài tạp bút. Tôi có nói HLT cho đăng bài này trên LTCC, nhưng bài có đề cập đến một nhân vật thứ ba, nên không tiện phổ biến. Lại gặp ông chủ chương biên tập, gửi Imeo khuyến khích sản xuất viết chuyện ăn tục nói phét đăng LTCC, sợ LTCC tiêu tùng. Thú thật tôi viết lách i tờ, ít khi cầm bút, nhưng cũng to gan muốn múa gậy vườn hoang, phụ đính bài Ăn sáng của HLT, để tạ lòng tri kỷ đối với y; mong là đền đáp được chút ít cái duyên y đã cho đọc bài Xoạc cẳng! Nghĩ vớ vẩn, nên xin nói chuyên Ăn trưa, phụ đính chuyện Ăn sáng. Tại Pháp mấy bữa rày (tháng 12 dương lịch 2005), xôn xao chuyện nghị viện bỏ phiếu biểu quyết dự luật " khía cạnh thiết thực (tích cực) của nền thuộc địa - le rôle positif de la colonisation ". Dự luật này sẽ cho phép trong sách giáo khoa phô trương khía cạnh tốt đẹp của chính sách thuộc địa (Như ở Nhật, trẻ con học xứ mặt Trời vác lính đi đánh nhau để khai hóa Á châu). Tất nhiên phe tả và các xứ thuộc địa cũ la ó om xòm. Công bình mà xét, nền thuộc địa Pháp đỡ khổ hơn một chút các nền thuộc địa khác, Anh hay Hòa Lan chẳng hạn. Tây thuộc địa cũng cho xây hạ tầng cơ sở, trường học, nhà thương, trung tâm văn hóa...ở xứ ta, tuy là để khuếch trương rộng lớn chương trình thuộc địa, nhưng cũng khai tâm những bước đầu tập tễnh của nhân văn chủ nghĩa. Chớ sao, ông tây đem những phức tạp cầu kỳ về ăn uống, cũng như những tế nhị thượng thặng về đấu hót nhập vào Việt Nam, nhất là vào nước Sài Gòn. Rồi mới nẩy sinh ra những bữa ăn sáng đấu hót dài lê thê như giải tóc thề nữ sinh trường Đồng Khánh Huế, HLT đề cập đến trong tạp bút của y. Những tập quán này còn tốt hơn nhiều các tệ quán khác, như Tê pho ô clóc mà các ông Anh thuộc địa để lại các xứ Ấn độ, Ai cập, v v...không có chi đặc sắc, mà vô duyên.
Lúc tôi còn làm việc ở Ba Lê, nhập gia tùy tục, nên cũng phải có những bữa ăn trưa mà chính thức hóa, gọi là Ăn trưa công chuyện (déjeuners d'affaires), cũng kéo dài lê thê. Người Pháp chính thức làm việc 8 tiếng một ngày, 40 giờ một tuần (lúc đó, chớ bây giờ chính thức chỉ còn 35 giờ một tuần). Mỗi ngày tới sở, khởi sự nhân viên đi bông dua bông soa, hỏi thăm các đồng nghiệp - chưa kể sáng thứ hai, chuyện hỏi thăm kéo dài để tầm phào những giai thoại cuối tuần uích ken - rồi chưa chi, đã có pô buổi sáng cho cà phê (pause matinale pour café), rồi loay hoay đâu đó đã tới 12 giờ, ăn trưa. Ăn trưa căng tin, 45 phút, nhưng thường xuyên kéo dài 1 tiếng rưỡi. Các bà các cô các ông còn phải đấu hót thêm, đi dạo hay mua sắm, faire une petite course dans le quartier...Đó là giờ giấc viên chức. Xếp như tôi thì là một chuyện khác. Bởi vì xếp phải đi Ăn trưa để kiếm công chuyện, chạy chọt với chính quyền, tiếp đón khách, tiếp xúc với các công ty khác, hay là nhiều khi các hãng xưởng khác nịnh bợ xếp để kiếm việc, cũng mời xếp ăn trưa. Không khí và nghi thức những bữa ăn trưa công chuyện vượt qua rất nhiều những thể lệ bữa ăn sáng của nước Sài Gòn. Phải kính trọng các công thức giao dịch, giờ ăn, chỗ ăn, tiệm ăn (thực đơn, đặc sản). Ăn trưa công chuyện với chính quyền cũng tùy cấp, mời một xếp ăn ở tiệm này rồi, thì lần sau mời xếp của xếp, phải ở tiệm sang hơn. Trường hợp trở nên nan giải nếu cùng một chính quyền, mà phải mời nhiều xếp. Thường là phải o bế trước xếp có trách nhiệm quyết định, nhưng phải mở đường cho xếp, nên phải o bê xếp của xếp để cu vờ ria xếp. Nếu hoàn cảnh đã thuận tiện rồi, sau đó mời lại xếp đi ăn lại, tại tiệm mà xếp của xếp đã đi ăn, làm xếp hãnh diện hứng chí thêm. Đến được đây, thì công chuyện chắc nịch rồi đó, bê tông cốt sắt, chỉ cần đánh mạnh để tiến tới hiệp đồng. Nhưng cũng phải tế nhị, công quyền nhiều cửa, phải phân loại, cửa này bé, bằng hay lớn hơn cửa kia ; người Pháp hay nói đừng lộn khăn chùi với dẻ lau! (mélanger les serviettes avec les torchons). Cửa công quyền nhiều khi ngang nhau, phải biết ai là bạn và ai là bạn hơn chút xíu. Các xếp cửa công quyền thông tin với nhau thường xuyên, lỡ bước một chút là ô hô ai tai ngay !
Ăn trưa công chuyện với chính quyền, có lúc là công tác nặng nhọc (corvée), có lúc thích thú. Tuy là phải o bế, nhưng kẻ đối diện là những người chia sẻ cùng những tế nhị và nền văn minh chung của chủ nghĩa khoái lạc. Ăn trưa với khách nhiều khi đau khổ trần ai. Khách nhiều loại, ăn học cũng có mà vô sỉ cũng nhiều. O bế nịnh bợ khách thấp hạng, cũng như gánh đau khổ của Kiều ở chốn lầu xanh. Thế nhưng bi dzi nét bắt buộc, cạnh tranh quốc tế cao độ, không bước vào chỗ bùn lầy, thì không có bi dzi nét. Khổ tâm nhất là, khách đòi ăn những tiệm sang nhất nhì, nhưng trình độ học vấn hay tập quán xứ sở không cho khách biết hưởng thụ của ngon vật lạ xứ Pháp, khách ăn không thấy ngon mà còn chê bai. Khách Rệp, ả rập, nhiều khi ăn tùm lum, rượu không cử, nhưng cũng có khách rệp đi tiệm sang, nhất định không ăn thịt heo, không uống rượu, thì chèng đéc ơi, làm sao mà tiếp đón ? Những khách Á châu, thì cá gặp nước rồi, kinh đô ánh sáng Ba Lê cũng đầy những Trung quốc phạn điếm khá sang, đồ ăn thua xa, nhưng khung cảnh hào nhoáng kiêu xa. Nghi thức với các khách này là mời ăn tiệm tây sang cho biết mùi đời, rồi sau đó, vì vấn đề bao tử, phải mời đi ăn các tiệm bản xứ. Mà thành phố Ba Lê thì không thiếu những của thổ tả này, không đặc biệt, nhưng cũng làm khách đỡ đói và đỡ nhớ nhà. Vui nhất là có khách hay công ty các nước Âu châu tới, đó là dịp để loè và bịp những tên say mê vô điều kiện thực đơn và rượu vang Pháp!
Ăn trưa công chuyện với các công ty xin việc là một thích thú lớn lao; thứ nhất là không phải trả tiền, thứ nhì là để trả thù những khi phải đi o bế nịnh bợ. Rồi cũng phải tế nhị, chưa sơ múi, thì không nhận mời ăn, có sơ múi đôi chút, thì cũng chỉ nhận đi ăn những tiệm vừa phải, để khỏi mắc nợ về sau. Rồi có dịp chơi trò mèo chuột, tìm cách cạnh tranh để cho việc cho công ty tốt mà giá cũng tốt. Trường hợp nhiều công ty vào chung kết là món vui đặc biệt: Xem công ty nào vừa tốt vừa biết mời ăn khoái khẩu và du hí vừa lòng! Những năm làm việc ở Ba Lê, từ đầu năm 70, văn phòng tôi ở 128 Faubourg Saint Honoré, gần như đối diện với dinh Tổng thống Pháp (số 55 FSH). Điện Élysée, trang bày vào những năm 1718-1722 bởi KTS A.C. Mollet, đã từng là nơi cư ngụ của các Vua, Hoàng hậu, Hoàng tử, Đại sứ...trước khi trở thành dinh Tổng thống dưới nền Đệ Tam Cộng Hòa. Tôi đã được kề cận láng giềng với Tướng De Gaulle, 2 ông Giscard d'Estaing và Francois Mitterand trong 3 nhiệm kỳ Tổng thống. Faubourg Saint Honoré là con đường sóp ping có thể nói sang và đắt nhất ở Ba Lê. Phần nhiều, khách đi sóp ping để liếm cửa kính, lèche vitrine, nhiều hơn là mua bán; hoặc mấy bà mấy ông Nhật bổn (tôi thường đặt tên là vịt hoang, cà na sô va), ráng chụp hình mẫu quần áo hay đồ đạc ở cửa sổ để về nước bắt chước. Có những dịp đi ăn trưa về, thả bộ trên Faubourg, tôi được gặp những tài tử trứ danh. Văn phòng tôi ở trung tâm, xuống đại lộ Champs Elysées cũng không xa, gần những tiệm ăn và khách sạn danh tiếng, và cũng gần nhiều chỗ công quyền, tòa đại sứ Anh, Mỹ... Những bữa ăn cao cấp là cả một nghi thức dài dòng. Không bao giờ ăn đúng 12 giờ trưa, vì trên nguyên tắc, các xếp phải làm việc, hội họp quá trưa mới giải tán. Phải hẹn khoảng 12 :45 hay 1 giờ. Tay bắt mặt mừng xong, là bắt đầu đấu hót. Lệ chung là không được nói chuyên bi dzi nét ngay. Đấu hót những chuyện đó đây, nghe cửa này kể lại cho cửa kia nghe, nói như HLT, bật mí được những chuyện tâm sự cửa này, mà cửa kia không biết là một khắc phục lớn lao trên đường gây uy tín và tín nhiệm với công quyền. Thông những tin mới chưa biết nhiều (primeur), tin đồn hoặc tin vịt, chuyện xếp này bị đổi, lên chức, về hưu, bỏ công quyền đi cơ sở tư, hay ngược lai...đều là những đề mục đấu hót hạng sang. Càng sang nếu xếp đang nói chuyện tới, có phẩm trật cao. Rồi may mà có những tin sốt dẻo về đời tư của vài xếp, nhưng noblesse oblige, phải là những chuyện đời tư xây dựng, như xếp có hay sắp có tin vui (sinh nở), cưới vợ cho con trai con gái,... thì đấu hót sẻ tiến vào một khung khổ thân mật gần gũi hơn. Tất nhiên là không có vụ đấu hót kiểu gác dan (concierge), đả động đến ly dị, mèo chuột... Trừ phi nói chuyện về một xếp nào đó đang hay sắp thất sủng, thôi thì mặc sức, đấu hót càng không sang thì chuyện càng thấm thía, tình nghĩa càng nồng nàn, bởi vì đây là môt hồi thức miễn phí (défoulement gratuit)! Đấu hót chán chê, rồi phải nghĩ đến thực đơn. Nếu là xếp quan trọng, phải nghiên cứu xivi quê quán của xếp trước, rồi gợi ý cho xếp dùng thổ sản, món ăn hay rượu địa phương của xếp, thì quả thật biết người biết của, làm xếp cảm động với bận tâm kín đáo dành cho xếp. Với những xếp cỡ sang, không phải đề nghị món ăn đắt tiền trong thực đơn là làm xếp hài lòng ; đừng cho xếp có cảm tưởng là xếp thiếu ăn trưa công việc, không có dịp ăn tôm hùm, sò (huîtres) hay gan béo (foie gras) thường xuyên. Nếu may ra, nghiên cứu biết được xếp bị dị ứng vài món ăn, nhắc xếp đừng ăn mấy món đó, tỏ ra cho xếp biết lòng ân cần, thì ôi thôi, xếp cảm động rơi nước mắt! Trong bữa ăn, tiếp tục đấu hót, khởi đầu phải nộ xếp với những tin đó đây nghiêm trọng và giật gân, rồi phải khéo léo gợi để xếp nói chuyện, để mà học hỏi, để mà thuộc lòng để có chuyện kể lại cho các xếp khác. Nếu xếp tin tưởng, xếp thông báo không những tin chính quyền, mà còn cho biết tin ngân hàng để vay nợ, tin các đối thủ cạnh tranh, các đồ án tương lai... Con cà con kê cũng tiếng rưỡi hai tiếng mới đến tráng miệng, rồi qua nghi thức cà phê. Tới đây nếu xếp chịu chơi (amateur) xì gà, thì lại là một đề mục có nhiều chuyện đấu hót thêm. Nhưng rồi ăn trưa cũng phải tàn, không thể lê thê bất tận như ở nước Sài Gòn. Còn năm phút, truớc khi xếp ra xe đi về công sở, đó là lúc nói chuyện bi dzi nét. Tùy điều kiện khi xếp nhận lợi mời đi ăn trưa, tùy tỷ lệ và cường độ giật gân đấu hót trong bữa ăn, mà có thể đoán biết ý xếp, hoặc là ô kê, hoặc có thể ô kê. Chẳng bao giờ xếp nói thẳng thắn ô kê, vì còn phải mời xếp của xếp, hoặc mời lại xếp. Những năm phút cuối cùng sau mấy giờ ba láp sao mà quý hóa thế, nó cụ thể hóa những kết quả của chương trình o bế nịnh bợ, kéo dài cả tuần nhiều khi cả tháng ! Nói cách văn vẻ, o bế nịnh bợ là hoạt động song song (lobbying)! Chi phí các vụ o bế nịnh bợ đều được trừ thuế.
Thả bộ về văn phòng rồi là lúc chờ rượu tan, hít cho hết điếu xì gà còn cháy, suy ngẫm kế hoạch, hội thảo với cộng sự viên. Bây giờ khoảng 3 hay 4 giờ chiều, lúc này mới thật bắt đầu ngày làm việc, tuy tan sở chính thức là 5 hay 5 giờ rưỡi. Bà thư ký riêng và các cộng sự gần ở lại văn phòng cày cho tới 6 rưỡi 7 giờ, xếp thì tan sở khoảng 8 giờ tối. Đó là chuyện làm ăn của xếp 12 tiếng đồng hồ mỗi ngày, khởi sự từ 8 giớ sáng. Buổi sáng chủ tọa hội họp linh tinh, trưa 3 tiếng đi đấu hót nịnh bợ, chiều tối 4 tiếng để đọc và ký thơ từ, nghiên cứu hồ sơ, suy nghĩ chiến lược...
Sử chép FSH (Faubourg Saint Honoré) bắt đầu khoảng năm 1715, khi triều đình rời Versailles, sau khi Louis XIV tạ thế, trở về Ba Lê. Những dinh thự cao sang lộng lẫy được xây cất vào lúc đó, bây giờ là cửa công quyền, như dinh tổng thống, bộ nội vụ, các tòa đại sứ lớn, khách sạn, phòng chưng bày nghệ thuật (galeries d'art), tiệm đồ cổ, cửa hàng sang trọng danh tiếng thời trang, nữ trang (Hermès, Pierre Cardin, Yves-Saint-Laurent...). Tôi mê khách sạn xa hoa Hotel Le Bristol, ở số 112 FSH, nơi có trang trí cổ kính, đầy boiseries, từ thời tư gia của công tước Castellane. Tôi đã nhiều lần đặt tổng hành dinh QG ở đây để đón tiếp đấu hót và nịnh bợ quan quyền, khi thì ở phòng ăn mùa đông, lúc thì ở phòng mùa hạ, khung cảnh lịch sự, phục vụ hết chỗ chê. Thực đơn không phải thượng hạng được xếp nhất nhì theo Guide Michelin hoặc Gault Millau, nhưng tinh khiết và giản dị. Thời đó, phải tính khoảng 5-600 quan đầu người, chưa kể rượu, bây giờ nghe nói phải tính 100 đến 200 Euro. Kỷ niệm nơi đây, là đấu hót thỏa thuê rồi, đến mục cà phê cô nhắc, hưởng 1 điếu xì gà La ha-ba-na. Ở đây có nhiều xì gà trứ danh, Cohiba, Romeo y Julieta, Quai d'Orsay, vv... nhưng tôi thích nhất, vẫn là điếu Montecristo. Nếu có nhiều thì giờ, hít một điếu Montecristo ét xịt pê xi an Laguito No1, dài 192mm ; nếu không thì chọn Montecristo No2 Torpedos, 156mm, hình dáng xéc xi, hương vị đậm đà. Lúc cà phê (expresso) dư, tửu hậu này, hít lên hít xuống, phì phà điếu xì gà mới thấy thấm thía cuộc đời. Uổng cho ông AV nhà tôi, tinh thông nhiều nghề ăn nhậu, nhưng xì gà lại không phải nghề của chàng.
Cũng gần văn phòng, đi bộ dễ dàng, phía FSH đi về nhà thờ La Madeleine, một khách sạn tiệm ăn khác, Hotel Le Crillon, 10 Place de la Concorde, xa hoa cổ kính không kém gì Le Bristol. Cổ kính với vị trí ngay trước quảng trường La Concorde, thế kỷ thứ 18 là quảng trường Louis XV (ngại viết Lỗ Y đệ thập ngũ, quá dài dòng) mà khoảng 1758, kiến trúc sư J-A Gabriel thiết kế 2 dinh thự đồ sộ với dãy hàng hiên cột trụ corinthiennes. Công tước De Crillon tậu sở hữu làm tư dinh, bây giờ là khách sạn với thực đơn số 1 số 2 của nghệ thuật sành ăn Pháp quốc. Tôi thường tới đây để đón rước xếp của xếp, cái gì ở đây cũng lịch sự đẹp đẽ theo truyền thống Pha lăng xa. Kỷ niệm ở đây ư ? Nhiều lắm, nhưng không quên nổi hàng năm, mỗi mùa đi săn, ăn Perdreau sauvage en chartreuse avec jus perlé hay Filet de chevreuil relevé au poivre. Chèng ơi, mới nghĩ tới đây, mà nước giãi đã chảy lòng thòng...
Ngoài khách sạn, ngay gần văn phòng, có 2 tiệm ăn sang. Tôi chấm tiệm Laurent 41 Av. Gabriel. Tiệm có vị trí khỏi chê, nằm gần ngay đại lộ Champs Elysées, gần Petit Palais, Grand Palais và Palais de la découverte. Lịch sử tiệm ăn này nhiều lên voi xuống chó, từ lúc kiến trúc sư Hittorff, người khởi xướng kiến trúc xịt tin Empire thời Louisthanks.gifhilippe, xây Café du Cirque, sau này là tiệm Laurent. Lúc tôi hay đặt đại bản doanh ở đây, giữa những năm 70, thì ông triệu phú Anh cát lợi, Xơ J. Goldsmith đã là chủ nhân. Tiệm ăn mênh mông, đầy các phòng, nào là Sallon Impérial, Gabriel, Matignon, Marigny, Elysée...chưa kể terrasses ngoài vườn. Theo tôi biết đây là tiệm ăn độc nhất ở Ba Lê với vườn tược rộng rãi. Thực đơn thuộc loại số 1, mỗi lần tiệm ăn đổi thực đơn, là dịp để báo chí thảo luận bàn bạc khen chê. Tôi rất ghiền tiệm này, nhưng vì giá cả cao, nên chỉ đến khi có khách khứa quan trọng. Nhưng nếu không khách, một ngày đẹp trời ở Ba lê, tôi cũng lò mò đến, ngồi ngoài vườn tiệm Laurent, chậm rãi ăn những món ăn rẻ tiền (vì không phải tiền sở), chân heo panés, Friands de pied de porc croustillants với khoai tây ghiền (pureée), hay sốt xít Andouillettes A.A.A. với khoai tây chiên mà ở Mỹ gọi là French frites. Đố bạn nào biết, đọc thực đơn, thấy đề A.A.A, nghĩa là gì ? Đó là Association des Amateurs des Andouillettes, hội những người mê sốt xít andouillettes ! Đừng lộn với lời chửi thề espèce d'andouille, ĐM thằng ngu ! Kỷ niệm ở đây nhiêu khê, dài dòng, thời gian qua đã xóa mờ nhiều ; rảnh rang chắc phải hồi tưởng lại chuyện xưa !
Thế nhưng kẻ phàm tục, les profanes, nhất là tu rít hạng sang, vẫn coi Maxim's là kinh thành nhậu nhẹt của thành phố ánh sáng. Thật vậy thế kỷ trước, với khung cảnh trang trí d'époque, những salons L'Imperial, Grand Salon, Le Grill, La Terrsasse, và thực đơn cầu kỳ, Maxim's là một must của giai nhân tài tử, có tiền lẻng kẻng trong túi, đến ăn chơi ở Ba Lê. Thế nhưng từ ngày ông Pierre Cardin chiếm cơ sở này, Maxim's trở thành một tổ chức kỹ nghệ hóa, với đủ thứ phụ tùng lẩm cẩm, và các chi nhánh ở Nữu Ước, Mexico, Bắc kinh, Thượng hải...Nghĩa là tất cả mánh khóe để moi tiền của nhiều kẻ học làm sang. Có một chuyện tếu ở xứ Chệt Ba tàu. Cặp vợ chồng trưởng giả, kiểu bourgeois gentilhomme, đi ăn Maxim's Bắc kinh. Tiệm ăn, muốn đặc biệt toàn dùng Pháp ngữ, tất nhiên kể cả thực đơn. Ông chồng bà vợ đọc tới đọc lui, chỉ đọc giá, thấy món chi cũng đắt quá xá...bỗng nhiên đọc 1 cột, thấy giá cả phải chăng, bèn ọc đơ 4 món. Rất mãn nguyện, vênh mặt ngồi ngắm nghía, nhìn tới nhìn lui, nhưng đợi mãi không thấy đem món ăn đến, gọi ông xếp bồi biết nói thổ ngữ để khà khịa. Xếp bồi trả lời tỉnh khô, hai ông bà ọc đơ 4 bài miu dzíc trên thực đơn, và đã sẹc vi rồi !... Lấy tâm lý mà đoán, khi có khách với khả năng hợp đồng kếch xù, mà khách muốn làm oai, thì cũng vẫn phải chi tiền mời khách đi Maxim's cho biết mùi ! Tuy nhiên tôi phải công nhận Maxim's Ba Lê có một sưu tập riêng có 1 không 2 về xì gà trong phòng hút thuốc, fumoir. Xì gà ở đây, làm ở Saint Domingue và chỉ làm bằng tay, roulé à la main. Từ điếu Omnibus cỡ lớn, đường kính trên 2 phân, dài 17.8 phân cho đến Bistrot Corona dài 15.2 phân (chứ điếu Sem DK 1 phân, hơi nhỏ hít không đã), xì gà ở đây đắt hơn vàng, nhưng đó là điều kiện để hưởng đời 1 cách mù quáng, dégustation aveugle ! Lại kể thêm 1 chuyện tếu về xì gà. Dân làm việc ở các bộ ngoại giao trên thế giới hay ưa chuộng hút xì gà hiệu Cohiba. Xì gà ha-ba-na này đặc biệt lắm, lăn tay và có hương vị nồng nàn, hút rồi khó quên, sinh nghiện. Tương truyền là Cohiba được các bà các cô, cuốn thuốc rồi lăn trên đùi, vào mùa hạ Cu ba nóng nực, các bà các cô mồ hôi nhễ nhãi, lúc lăn thuốc mồ hôi quện vào xì gà ; khi thưởng thức thuốc lá với mồ hôi quý bà quý cô, hương vị nhất định phải nồng nàn và đặc biệt ! Lúc tôi kể chuyện này cho mấy ông chệt nghe, mấy ông con trời giở chứng (vicieux) nghĩ ngay phải làm Cohiba lăn trên đùi trinh nữ, mồ hôi lòng thòng không những tiết ra ở trên đùi, mà còn xuất ra từ những chỗ kín đáo khác, cái này mới là ăn tiền !
Tiệm ăn ngon nổi tiếng ở Ba Lê đầy nhan nhản, kể và viết không xuể. Chỉ nói thêm một tiệm tôi cũng mê mệt, đó là La Tour d'Argent. Lịch sử tiệm này hùng dũng lắm, quán ăn auberge, có từ thời Henri, vua nước Ba-lan và Pháp. Truyền thuyết nói ngày 4 tháng 3, 1582, vua Henri ăn tối ở hostellerie La Tour d'Argent, khám phá ra cách dùng nĩa ăn, fourchettes, mà mấy du khách I ta lồ, đem từ Vơ Ni qua. Trước đó dĩ nhiên, người Pháp cũng ăn bốc, comme tout le monde ! Trải qua nhiều thế kỷ, tiệm đã có bao nhiêu là khách của lịch sử, từ Herni IV, đến công tước de Richelieu, bà de Sévigné, Philippe d'Orléans. Thực đơn ở đây có biết bao nhiêu trang sử, kể lể sao cho hết. Chỉ xin nêu lên, có lúc thịnh thời năm 1964, hầm rượu chứa 500,000 chai, và món ăn đặc biệt ở đây là con dzịt ! Đi TdA mà không ăn con dzịt , là 1 lỗi lầm lớn lao, không thể tha thứ được. Phát minh bởi ông Tổ sư, le Grand Fréderic, nguyên quán Tây ban nha, di trú qua Tây dưới thời Philippe IV. Dân lưu vong gốc Tây ban nha, bắt vịt trời trong đầm lầy, nuôi thành vịt Challendais, phía Bắc miền Vendée, nơi đây có khí hậu và thủy thổ tiện lợi để mấy chú dzịt này, khoảng 9 tuần đă nặng 3 kílô. Frédéric bày đặt ra 1 cách nấu ăn, sau này trở nên 1 truyền thống : sau khi lựa chọn kỹ càng mấy con dziịt, y cho mỗi con dzịt 1 số, với thẻ chứng minh hẳn hoi. Mong sẽ có vài bạn tới đây thưởng thức, ọc đơ un canard, au sang, à l'orange, ou au poivre, ...con dzịt đến trong dĩa bạn với chứng minh thư và 1 con số. Sổ vàng của tiệm ăn có đề dzịt số 328 được hay bị Edouard VII xực năm 1890, số 40,312 xực bởi Alphonse VIII năm 1914, và Vua Phù tang Hiro Hito xực con số 53,211 năm 1921. Đên lượt bạn, bây giờ, con dzịt sẽ mang số bao nhiêu ? Khách gốc chệt tôi dẫn đến đây, khi được số rồi, ông nào cũng cộng lại xem được mấy nút. Nghe nói, bữa ăn tối lịch sử của 3 ông vua Alexandre II de Russie, Guillaume 1er và hoàng tử de Bismark, khi đến dự Triễn lãm thế giới năm 1867, thực đơn gồm có 9 món ăn chơi (entrées), 5 món ăn thật (corps du diner) và uống 8 thứ rượu, trong đó có Château Margaux, Latour et Lafite 1847-1848! Bạn AV lạc vào hầm rượu ở đây chắc cũng như Lưu Nguyễn lạc vào "thế ngoại đào nguyên", quên đường về ! Tôi có những kỷ niêm êm đẹp ở tiệm ăn này, nằm gần sông Seine và nhà thờ Notre Dame, lại cũng không xa khu Quartier Latin, thơ mộng cũng có, mà là lãng mạn và cổ kính đều đầy đủ.
Nói nhiều về Tour d'Argent, mà không xía tới tiệm La Grande Cascade ở rừng Bu lô (bois de Boulogne) là một lỗi lầm lớn. Đây cũng là 1 đền thờ ăn uống nhậu nhẹt. Rừng Bu lô, mới có đây khoảng 60 năm ; trước đây, dân Parisiens như Dagobert, còn đi săn báo, chó sói, lợn rừng ở đây ! Thời Hoàng đế Nã phá Luân đệ tam, Bá tước Haussman, thị trưởng thành phố Seine, dùng 12,000 thợ đào đất và làm vườn, trong 2 năm, đào 14 ếch ta hồ, tạo100 cây số đường đi, xây suối nước, đầm nuôi cá nuôi vịt, trồng 420,000 cây. Hoàng đế sai cất 1 tạ đình ở Suối Lớn và lấy tên là La grande Cascade. Tạ đình sau trở thành Tiệm ăn danh tiếng vào dịp triễn lãm thế giới 1900.
Các tiệm ăn kể trên đây, đều nổi tiếng và sang trọng. Trong những năm hành nghề nịnh bợ ở Ba lê, tôi cũng thích dẫn khách đi ăn ở vài tiệm nhỏ, gọi là restaurants de quartier. Có môt tiệm gần văn phòng tôi thường hay lui tới, tiệm Tante Louise, 41, rue Boissy D'anglas; thực đơn nhiều món ăn địa phương miền Tây Nam nước Pháp. Ở đây có món ăn Gan béo với trái nho, foie gras sur canapé de raisins, rất hảo xực. Có hôm đến ăn trưa ở đây tôi gặp H. Kissinger khi hắn qua Ba lê hội đàm với Lê đức Thọ. Kể dây dưa, con cà con kê, đến cả những tiệm ăn ở khu Montparnase, trứ danh với những bistrots historiques La Coupole, Le Dôme (102 và 108 Bd Montparnasse), hoặc món ăn đặc biệt Crêpes Bretonnes, hay những tiệm ăn nhỏ nhưng sang, kiểu Le Divelec sở trường đồ biển ở quận 7; đến ăn có khi gặp nhiều nhân vật jet set...
Rồi thì, có những buổi trưa nắng, mời khách công quyền đi ăn đồ biển, cá cua sò ốc, ở Brasserie Lorraine, 2, place des Ternes, với những con sò (huîtres) Belons 00, mập ú, kèm theo vài chai Muscadet hay Chablis trắng thật lạnh ; trong khung cảnh Art Deco, thật là hạnh phúc vô bờ bến. Một Brasserie khác ở Ba Lê, cũng trang trí Art Déco, Brasserie Bofinger (cùng 1 chaỵne Restaurants Flo), 5-7 rue de la Bastille, gần qảng trường nổi tiếng La Bastille, thực đơn ngoài cá cua sò ốc, còn có những món ngoạn mục như choucroute de la mer, một dị bản, variante của choucroute thịt heo charcuterie, món ăn dân tộc của Đức quốc, món này chạy tới cả biên giới nước Pháp vùng Alsace Lorraine để mà đồng tình và tri kỷ với những chai Gewurztraminer..., hoặc thịt trừu non Épaule d'agneau fermier à la Provencale. Ở Mỹ không thấy có thịt trừu non tươi, rất khó tìm, ngoài cotes d'agneau đông lạnh thấy bán ở Costco. Nói tới thịt trừu, lại nhớ đến món ăn dân tộc Couscous mà Pháp quốc nhập cảng từ Bắc Phi. Nhớ lắm, vì lâu lâu ở đây, tôi vẫn hay nấu couscous chay với harissa du ca-bon, vì không có thịt trừu (ngoài sôt xít cay mẹc ghe merguez, vai hay giò trừu gigot nướng than, tôi không thích couscous bò hay gà) để đãi mấy ông bạn học nối khố, như toubib LDT từ New Jersey qua thăm. Quý bạn viếng thăm Ba Lê, có dịp, tưởng cũng nên đến thưởng thức vài món ăn ở 2 brasseries này, giá không quá đắt, mở cửa tới 1 giờ khuya.
Cách đây ít lâu, có người chỉ tôi đọc trên Nét, tường thuật của một Ái hữu CC đi thăm Ba Lê, nói có ăn món Ét cạc gô ô bơ (ECGOB), do 1 ông bạn nối khố Thiên Hữu, NXH, đãi. Thật tình, món nhạt như nước ốc này, bỏ fua (oven) mà không có sốt bơ tỏi persil, thì ăn chả ra thể thống gì. Thế nhưng ECGOB lại là món hảo xực đối với du khách Á châu, nhất là khi lấy bánh mì ba gét, thơm dòn quẹt dzô sốt. Mấy khách Nhật bổn hảo món này lắm, thường tôi hay dẫn đi ăn ở tiệm Chân Heo, Pied de Cochon trong khu Les Halles. Tiệm có bán nhiều món dễ ăn, đặc biệt là súp hành, soupe à l'oignon. Có một dạo, tôi có 1 bạn gái xứ Phù tang, ông thân sinh cô này là kỹ nghệ gia ở Đông kinh, sính tiếng Pháp lắm. Cùng với vợ, ổng hay học Pháp văn bằng radio, vợ còn đi học thêm ở Trung tâm văn hóa Pháp. Một lần qua Ba lê có công chuyện, đi với nhiều đồng hương, ông ta muốn lấy le, khi đi ăn tiệm Chân Heo, đọc thực đơn tiếng tây xong, ổng chững chạc ọc đơ " Une langoustine, s'il vous plait " ! Gặp tên bồi gốc rệp algérien, kiểu săng phú, lấy ọc đơ không nhúc nhích chân mày. Lúc bưng lên, một dĩa to lớn, đậy bằng 1 cái chum bằng bạc, mở ra chỉ có con tôm bé xíu, trang trí thật đẹp với rau. Ông Nhật bổn hỡi ôi, gọi xếp bồi để bàn cãi. Té ra tiếng tây ông, ba chớp ba nháng, lộn langouste con tôm hùm tổ chảng với con langoustine bé tẻo teo. Cũng có 1 giai thoại khác, lại 1 ông kỹ nghệ gia Phù tang, chân ướt chân ráo đến phi trường Charles de Gaule, nhảy lên taxi, nhất định nói tiếng tây, truyền lệnh đi tiệm Pied de Cochon. Gặp ông tài xế gốc Bồ đào nha, nghe không ra cochon-cochin chi cả, bèn chở ngay ổng dzô bệnh viện Cochin, vì tưởng ổng mới tới, mà coi bộ hối hả, chắc phải đi I mợc den xi !
Chuyện cũ kỷ niệm xưa, bước vô là như lạc vào mê hồn trận, không có lối ra. Chỉ phụ đính bằng vài chuyện tào lao, còn biết bao những chuyện khác còn có thể kể ra. Đó chỉ mới nói sơ về ăn trưa, còn ăn tối và du hí nữa, biết bao nhiều đề tài cứ chực phóng ra khỏi trí nhớ. Kể nhiều thì sợ hóa ra giống những nhân vật ở trung tâm Bolsa, mà HLT đã tả trong tạp bút. Năm tháng dài dằng dặc, đi tìm kỷ niệm xưa, thế nào cũng vấp ngã với những chuyện vui buồn lẫn lộn, như các cụ đã dăn rày, lúc lên voi lúc xuống chó. Thế nhưng cuộc đời thành hay bại cũng chỉ vì biết vui nhiều hay buồn nhiều; thôi thì như tôi đây, đã đến tuổi lái xe trên xa lộ 60 rộng thêng thang, âu quẳng hết gánh lo đi để ca bài ca con cá (4) "Đời đẹp quá tôi buồn không kịp... " (chép Ăn sáng HLT)

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
DoQuan
Gold Member
*****
Offline


Boycott Red China

Posts: 681
Re: Truyện ngắn
Reply #39 - 21. Aug 2006 , 17:13
 
Lỗi tại ai bây giờ



Hoàng Chính

“Chú có bao giờ... ngã chưa?” Cô bé hỏi, nụ cười hóm hỉnh vắt ngang môi.
 
“Ngã... cái gì?”
 
Tôi ngơ ngác mất vài giây, toan hỏi cho ra lẽ thì cô đã bật cười thành tiếng. Giọng cười trẻ thơ làm rung khẽ đôi vai mỏng manh như cánh vạc trong lời hát một bản nhạc tình. “Ngã; thì... ngã ấy mà.”
 
“Ngã?”
 “Vâng... chú làm bộ ngớ ngẩn.”
 “Từ lúc tập đi cho đến lúc biết chạy ai mà chẳng có lần ngã.”
 “Không phải vậy. Cháu muốn nói ngã là... ngã; Ơ khó nói quá! Cháu muốn nói ngã là... là... sa ngã kìa.”
 “Ô!” Tôi vỗ nhẹ vào trán, bối rối nhìn xuống mặt bàn, nhăn nhó. “Sao hôm nay mình chậm hiểu thế này!”
 Mầu trắng của chất men trên mặt bàn đá nhợt nhạt như mầu ly cà phê bỏ sữa quá tay. Cái mầu trắng ấy nhếch mép cười với tôi, ngạo mạn. Hai chiếc ly đã vơi cà phê trơ trọi trên mặt bàn. Hai chiếc ly ấy cũng hùa theo. Cả những ngón tay cô bé gài vào nhau chặt chẽ trước mặt cũng lăng xăng như muốn phát biểu điều gì.
 Tôi gỡ vội những bối rối thoảng qua trên mặt, ngước nhìn cô bé với nụ cười mềm, “Ngã thì sao, mà không ngã thì sao?”

 “Cháu đang đặt câu hỏi mà!”
 “Mai mốt trả lời được không?”
 “Chắc chú cần thời gian để đếm?”
 Cả hai cùng phá ra cười. Cô bé cười cái cười của kẻ đang trên đà thắng cuộc, còn tôi; tôi đang thắng hay sắp thua không biết nữa, chỉ biết rằng lâu lắm mới lại có một người con gái làm tôi bối rối như thế này.
 Chợt cô ngưng cười, “Cũng chả sao chú nhỉ.”
 “Ừ,” tôi đưa đẩy. “Đâu phải dễ mà được ngã phải không?”

 “Ngã dễ mà chú.”
 “Nhưng ngã một cách có nghệ thuật lại là chuyện khác.”
 “Ngã có nghệ thuật là ngã có sắp đặt; ngã giả vờ rồi. Chú thấy không? Mình đang đi, chẳng may vấp cục đá hay trượt chân trên mảng tuyết đóng băng. Ạch một cái, đau ê người. Đấy mới là ngã thật.”
 
“Đó là tai nạn. Còn có những cú ngã không phải tai nạn. Và ngã có nghệ thuật là ngã đau điếng người nhưng không để lại dấu vết. Không bị bầm tím, không bị tàn phế, không bị handicapped...”

 “Ồ, dĩ nhiên rồi chú,” cô bé ngắt lời tôi, ngón tay gõ nhẹ xuống mặt bàn đá ấm. Rồi cô chồm tới trước. Mắt chớp, môi thì thầm, “Điều quan trọng nữa là có người ngã với mình.”
 “Đúng! Ngã một mình đau hơn ngã hai người.”

 Có trời đất chứng giám cho tâm địa ngay thẳng của tôi. Nhưng trời ơi, sao bỗng dưng tôi muốn rủ cô bé cùng ngã vô cùng. Ngã đàng hoàng, tử tế; ngã danh chính ngôn thuận. Mùa đông, những con đường ngập ngụa tuyết trắng. Giằng co, níu kéo, đuổi bắt nhau trong công viên hay trên lề đường lạnh giá. Gặp chỗ đóng băng, trượt chân ngã dúi vào lòng nhau. Ấm áp biết chừng nào.
 Tôi nhìn cô đăm đắm, lòng xao động khôn cùng và miệng thì ngậm đầy những câu muốn nói.
 “Vậy chừng nào chú cho cháu câu trả lời?”

 “Một tháng nữa đi.”
 “Lâu quá! Sao không là một tuần?”

 Tôi xuống giọng, cải lương như anh kép độc lên vọng cổ trước mặt cô đào thương mặn mà son phấn, “Một tháng có đủ thời gian để biết đâu lại có thêm vài lần ngã nhiệm mầu khác.”
 
Tiếng cười lại được dịp vang lên rộn ràng trong góc quán. Xế chiều, quán vắng, nhưng cô bé làm không gian linh động như khung cảnh buổi chợ sớm. Và thời gian đọng lại trên đôi môi mỏng mềm.

 “Thôi bây giờ mình đổi đề tài nhé.” Cô đề nghị.
 Tôi khoan khoái thở phào.

 Nhưng trước khi tôi kịp thơ thới vẽ vời trong trí tưởng một ý thơ, thì cô đã buông ra một câu hỏi gai góc, “Chú có ghen không?”

 “Ghen?”
 Cô gật đầu hai ba cái làm rũ xuống vầng trán một lọn tóc đen nâu.

 “Ai mà không ghen.”
 “Thường thì ai ghen nhiều hơn. Đàn ông hay đàn bà?”
 “Bằng nhau.” Vốn là người tôn thờ chân lý bình đẳng, tôi trả lời không suy nghĩ.

 “Cháu nghĩ đàn bà ghen nhiều hơn chứ.” Cô bé gợi ý một cách khéo léo.

 Cảm thấy mình đang bị dẫn vào một khoảnh vườn gai góc, tôi trả lời một cách liều lĩnh. “Có thể. Tuỳ mức độ và cách biểu lộ.”

 “Thế chú có thích đàn bà ghen không?”
 Tôi cười thay cho câu trả lời.
 Cô bé tiếp, “Không ghen cũng kỳ phải không chú?”
 “Đúng vậy!”
 “Mà ghen quá cũng kỳ nữa. Nhất là đàn ông mà ghen thì coi không được.”
 Vừa mới nâng ly cà phê lên, toan hớp một ngụm cho đỡ nhạt miệng, tôi bỏ ngay xuống bàn, ngơ ngác, “Sao vậy?”
“Đàn ông thì phải rộng lượng...” Cô bé điềm đạm giải thích.
 Thì ra vậy. Đàn ông thì phải bao dung; đàn ông phải cao cả; đàn ông phải có tâm hồn; đàn ông phải có công ăn việc làm; và quan trọng nhất là đàn ông thì không được ghen vặt.

 “Phải không chú?” Cô bé hỏi dồn.
 “Đồng ý.” Tôi trả lời với chút nghi ngại.
 “Vậy chú có ghen không?”

 Trái bom đã rớt ngay nắp hầm trú ẩn, nhưng tôi chỉ hoảng có một giây rồi gồng mình lên thật dũng cảm, “Sao không!”

 “Nhiều hay ít?”
 “Tùy...”

 “Chú khôn quá! Cụng ly cái đi!”
 Cô bé nâng ly cà phê của mình lên, đưa về phía tôi. Tôi cụng ly với cô, lòng rộn ràng như đứa bé đang mở dần những gói quà sinh nhật. Tiếng cạch khô và lạnh của hai chiếc tách chạm nhau, nghe khôi hài như một niềm vui đóng băng, vừa mới lấy ra từ một ngăn ướp lạnh của trí nhớ.

 “Lẽ ra mình phải uống rượu để mừng...” Giọng cô hăm hở.
 “Mừng gì?”

 Cô bé uống một ngụm cà phê. Rồi khẽ đặt chiếc ly sứ xuống bàn. Cà phê sữa để lại một vệt ướt trên đôi môi mỏng. Nụ cười lại nở ra, rạng rỡ cả một góc quán.
 “Mừng cháu gặp được một người mà nói chuyện không thấy buồn ngủ.”

 “Thật không?”
 “Thật chú à. Từ bé đến giờ, cháu chả gặp ai nói chuyện vui được như chú.”
 “Me too!” Tôi dùng tiếng Anh cho cái điều khó nói trở nên đơn giản.
 “Cháu chỉ được cái nói nhiều chứ đâu có được như chú.”
 “Không hẳn là như vậy.”
 “Chú cho điểm... nhân đạo.”
 “Ai dám!”

 Cô bé gõ móng tay xuống mặt bàn lạch cạch. “Cháu hỏi chú câu này nhá.” Cô thì thào, bằng cả những lời đăm đắm trong đáy mắt.

 Tôi loay hoay sửa lại thế ngồi cho thoải mái. Những câu hỏi gian nan; những câu hỏi không có nổi câu trả lời, làm sao tôi đáp được. Nhưng chả sao. Tôi hơn cô bé tới gần hai mươi năm kinh nghiệm sống. Không thấy cô gọi tôi bằng “chú” đó sao!

 “Được không, chú?”
 “Sao không?” Tôi ngồi thẳng người, ưỡn ngực ra trước như người lính khoe những miếng huy chương lấp lánh cài đầy ngực áo. “Miễn là đừng khó quá.”
 “Cháu tin là chú trả lời được.”
 “Cũng mong là như thế.”
 
Cô rụt hai vai lại, như con mèo sắp vươn vai. Đôi môi vạch một nét ngang trên khuôn mặt đang cố làm vẻ đăm chiêu nhưng vẫn không dấu được nét nghịch ngợm trẻ thơ. Rồi cô gục gặc cái đầu cho những sợi tóc rũ lòa xòa xuống vừng trán rộng. Những sợi tóc buông mành khép hờ đôi mắt một mí lim dim, như nét chấm phá trên bức tranh truyền thần của người họa sĩ Phù Tang.

Những sợi tóc óng vàng trong cái nắng phản chiếu từ cửa kính của những dinh thự cao chấp chới trong thành phố. Vài giây đăm chiêu, rồi cô đưa tay vuốt ngược mái tóc ra sau theo thói quen, và ngước lên nhìn tôi, bằng cái nhìn táy máy của đứa học trò hay thắc mắc.

 “Chú có tin là có tình yêu không?”

 “Tin chứ.” Tôi trả lời chắc như thể đang nắm bắt trong lòng bàn tay, một mối tình thơm mùi mực và giấy mới của những trang thư.

 “Làm sao biết được mối tình mình đang có là thật hay giả hở chú?”

 “Ơ... Giác quan thứ sáu... Con gái thông minh và nhạy cảm hơn con trai. Con gái dễ khám phá ra mối tình ai đó dành cho mình là thật hay giả.”

 “Nếu mình không có giác quan thứ sáu thì sao?”
 “Hên xui may rủi không biết chừng...” Tôi trả lời quấy quá để câu giờ.

 Cô bé tần ngần một chút rồi tiếp, “Cháu cũng chẳng biết mình có giác quan thứ sáu không nữa.”
 “Có chứ.”
 “Làm sao biết được hở chú?”

 Cô bé hỏi, hai mắt nhìn tôi đăm đắm. Trong khoảnh khắc, tôi mở rộng cõi lòng, ôm hình ảnh nhỏ bé ấy vào lòng. Trìu mến, chân thành và hạnh phúc như cánh diều no gió.

 “Cháu đang đặt câu hỏi đấy nhá.” Cô nhắc nhở bằng cái gật đầu thú vị. Những sợi tóc buông rèm trên đôi vai gầy cánh hạc.
 “Biết mà...”
 Cô cúi đầu ra phía trước, ngước mặt, ngóng câu trả lời, “Cách nào?”

 “Sự linh cảm.” Tôi tẩn mẩn xăm xoi trí nhớ, cố tìm một câu trả lời hợp lý. “Khi đối tượng làm điều gì đó mà mình cảm thấy... ơ như không được thực lòng cho lắm... Đó là dấu hiệu của giác quan thứ sáu. Nó giúp mình... đọc ra được sự chân thành trong những lời nói, trong từng cử chỉ của đối phương.”

 “Chú cho cháu test thử nhá.”
 “Cái gì?”
 “Chú cho cháu thử xem mình có giác quan thứ sáu không nhá.”
 Tôi luống cuống, “Cách nào?” Đầu óc vạch ra hình ảnh những ống chích có mũi kim nhọn, những ống nghiệm pha mầu xanh đỏ.
 “Thì chú nói điều gì đó, rồi cháu thử linh cảm xem thật hay giả ấy mà.”

 Câu hỏi nhảy nhót trên cánh môi mỏng mềm của người con gái. Gay go lắm đây. Tôi thầm nghĩ. Khi không lại trở thành vật thí nghiệm cho con bé lí lắc, thua mình tới gần (trời ạ!) hai chục tuổi. Thiệt tình! Lỡ thắng thì không sao. Mà thua thì còn gì là vinh dự của một người được cô bé gọi bằng chú với đầy sự kính trọng và quý mến.

 “Chú đồng ý nhá.”
 “Khoan đã nào...” Tôi cố trì hoãn cuộc trắc nghiệm tâm lý không có trong chương trình. “Bây giờ test cách nào?”
 “Chú nói một câu, cháu đoán xem chú nói thật hay nói chơi.”
 “Rồi sao nữa?”
 “Không được ăn gian.”
 “Đồng ý.”
 “Test xong trả công như thế nào?”
 “Tùy.”
 Câu trả lời của cô ngắn, gọn và đầy chất tự tin. Nhưng mà tùy... cái gì mới được chứ. Tùy thời tiết, tùy bố mẹ, tùy cháu, hay tùy chú. Có bao nhiêu thứ để tùy. Chờ cho những ý nghĩ lắng xuống trong đầu, tôi đặt thành câu hỏi và chờ câu trả lời minh bạch, “Tùy... cái gì?”

 “Tùy chú.” Nụ cười vạch ngang môi cô sau câu nói vắn tắt. Ừ thì tùy chú cũng được. Nhưng như vậy có nghĩa là tùy một mình chú thôi đấy nhé. Một là một, hai là hai. Quân tử nhất ngôn.

 “Nhớ không được ăn gian.” Cô nhắc và đưa ngón tay trỏ ra như một giao ước không lời.

 Tôi hân hoan móc tay với cô và sẵn sàng như người thí sinh chuẩn bị bước vào lớp dự kỳ thi tốt nghiệp.
 “Rồi, chú nói đi.”

 Tôi liếc nhìn khoảng trời vuông vắn rực nắng bên ngoài khung cửa sổ.
 “Hôm nay trời đẹp quá!”
 “Thật!”
 “Đúng rồi. Vậy là có giác quan thứ sáu thật rồi.”
 “Nữa đi chú. Chưa đủ để kết luận.”
 “Cà phê ở đây ngon ghê!”
 “Giả.”
 “Đúng luôn!”
 “Nữa đi chú.”
 “Hai câu đủ rồi.”
 “Nhận xét về cháu thử xem.”

 Có trời đất chứng giám là tôi không hề có ý định tán cô bé chút nào hết. Trời ạ! Nhưng sao giữa ô vuông hẹn hò của đất trời buổi sang mùa thế này, làm sao mà lòng khỏi đong đưa cho được.

 Tôi ngập ngừng, “Lâu lắm mới gặp một cô bé giống hệt cô gái trong nhạc Phạm Duy.”
 “Sao hở chú?”
 Tôi đưa đẩy, “Nhớ bài Tình Ca không?”
 “Câu gì hở chú?”
 “Và yêu cô gái bên nhà, miệng xinh ăn nói mặn mà, có duyền.”

 Cô ngập ngừng, mắt lấp lánh những tia nhìn hoan hỉ, “Câu này có hai phần mà chú.”
 “Ừ thì hai phần. Phần nào đúng? A hay B. Hay cả hai đều đúng?”

 Cái đầu lúc lắc. Một lọn tóc phủ xuống trán, như cố che đi cái ngượng ngùng. Rồi cô ngước lên, lắc đầu, “Không được. Câu này quá phức tạp. Tìm câu nào của riêng chú kìa. Cái đó ông Phạm Duy tưởng tượng thôi. Làm gì có ai được như vậy. Có những người miệng xinh mà nói ra thì cứ toàn  những dùi đục chấm mắm tôm, còn có người sứt môi mà nói năng ngọt ngào không chịu được. Câu khác đi chú. Câu của chú mới linh nghiệm.”
 “Làm như cầu cơ.”

 “Không. Cái này phải nghiêm túc mới chính xác. Nữa đi chú.”
 Lại nữa đi chú. Nữa đi chú. Tôi thương cái câu nữa đi chú biết chừng nào! Nữa thì nữa.

“Cái áo đầm của Như thật đẹp.”
 “Thật!”
 “Vậy đúng rồi.”
 “Tóc thả ngang lưng coi dễ thương.”
 “Thật!”
 “Đúng luôn.”
 
Trò chơi sẽ thành nhàm chán nếu cứ dằng dai đối thoại như thế này. Tôi thầm nghĩ, và như đứa bé sợ ma mà vẫn tò mò muốn biết có gì lạ trong tòa lâu đài huyền bí, tôi liều lĩnh bước một bước thật xa vào vùng cấm địa. Nhưng trong tiếng nước tôi, có những câu nói ra thấy ngượng miệng, nhất là trong cách xưng hô, thành ra tôi mượn tiếng của xứ sở tạm dung.

 “I think I love you.”

 “What?”

 Cô bé sựng lại mất vài giây. Như người bệnh tim lịm vào cơn đau trộn lẫn với cái say ngất ngây của liều thuốc giảm đau cực mạnh. Một thoáng thôi, rồi cô lấy lại cái hồn nhiên của một cô gái vừa mới qua tuổi dậy thì. “Chú chọc quê Như hoài!”

 Đó là lần đầu tiên cô bé nói chuyện xưng tên.
 “Trả lời đi chứ. Thật hay giả?”
 “Cháu...”
 “Hãy tin vào sự linh cảm của mình. Tiếng Anh gọi là gut feeling đấy.”

 Cả hai cùng lặng thinh. Rồi bỗng dưng cô đổi đề tài, “Thứ bẩy tuần trước cháu thấy chú ngoài chợ Farmers.”

 Tôi nghiêng đầu suy nghĩ. Thỉnh thoảng tôi ghé chợ nhưng không phải để mua thức ăn mà để nhìn thiên hạ ngược xuôi, và để nghe ông già người Đức chơi đàn tây ban cầm.
 “Chợ Farmers, rồi sao nữa?”

 Con mắt liếc ngọt, trước khi đôi môi mím lại, “Cháu thấy chú xách giỏ cho người ta.”
 Tôi ngơ ngác, “Người ta nào?”
 “Còn ai vào đây nữa. Cái chị đó kỳ cục quá đi!”
 “Ai vậy ta?”

 Cô nhìn ra ngoài khung kính, cánh môi trễ xuống, như đang giận hờn, “Có ba bọc mà để chú xách hết. Gì mà coi người ta như phu khuôn vác!”
 Tôi lặng thinh, mỉm cười nhìn Như. Cô hất cho mái tóc chảy qua một bên vai, nhìn lướt qua vai tôi, làm như đang đuổi theo một ý nghĩ nào đó. Rồi bỗng dưng nhìn thẳng vào mắt tôi.

 “Chú đừng nghĩ là cháu ghen. Không có đâu. Cháu chỉ thấy kỳ cục. Thôi về chú ơi. Chiều rồi đấy. Chừng nào gặp, nhớ cho cháu câu trả lời.”
 Tôi ngơ ngẩn, “Câu trả lời gì?”
 “Cái vụ ngã ấy mà.”
 “Ừ, à, nhớ rồi. Ngã.”
 Thấy tôi ngó vu vơ bên ngoài khung kính, cô bé ngạc nhiên, “Chú nhìn gì ngoài đó vậy?”
 “Nhìn trời.”
 Cô bé quay mặt nhìn khung trời chữ nhật, “Xanh biếc hả chú?”
 “Ừ, xanh như biển.”
 “Chú biết bài thơ Thuyền Và Biển không?”
 Tôi ngơ ngác lắc đầu.
 Cô bé nhún vai, “Chú dở. Làm thơ mà không biết biết bài thơ Thuyền Và Biển.”
 Thấy tôi mỉm cười, cô nghiêng đầu, “Hay là chú biết mà làm bộ không biết để nhạo cháu.”
 
Tôi gật gù không nói. Những ngày tôi mới lớn, đầu óc đựng đầy thơ văn tiền chiến. Chúng tôi theo Huy Cận đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ, kỳ kèo theo Nguyễn Bính nếu đừng có giậu mùng tơi thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng, thở than với gió Hàn Mặc Tử rằng người đi một nửa hồn tôi mất, một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Thời chiến tranh, chúng tôi say đắm Nguyên Sa áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc, thao thức với Đinh Hùng chưa tội lỗi đã thấy lòng hối hận, thở than cùng Vũ Hoàng Chương lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ và Trần Dạ Từ lần đầu ta ghé môi hôn, trăm con ve nhỏ hết hồn kêu vang; đầu óc thời mới lớn còn chỗ nào cho thuyền, cho biển.
 
Thành ra tôi thật thà, “Không biết thật mà.”
 
Cô gái khoanh tay trên mặt bàn, thì thầm đọc, bằng môi hồng mịn ướt và ánh mắt long lanh. Trong thoáng chốc, tôi thành con thuyền bập bềnh trên sóng mắt người con gái. Tâm hồn củi mục bỗng dưng nặng trĩu mùi dân ca, mùi cải lương Hồ Quảng. Trong đời, ai mà không có lúc cải lương. Không tin hãy thử ngồi trước một người con gái mặn mà trên môi mắt, duyên dáng trong ngôn từ. Hãy bốn mắt đăm đắm nhìn nhau, hãy chăm chú nghe những câu thơ tình ai viết hộ. Hãy uống cho ngoan từng câu, từng chữ đọng trên cánh môi mềm, sẽ thấy lòng mình mê đắm. Vì tình yêu muôn thuở có bao giờ đứng yên. Giọng con gái ngọt ngào. Tay sẽ run và ngôn từ sẽ không còn suông sẻ. Như tôi đang bị một người con gái bỏ bùa bằng những câu thơ mà phút giây này bỗng dưng thành thần chú. Nếu phải cách xa em, anh chỉ còn bão tố. Lúc cô bé ngừng đọc, cánh môi trên còn hé mở, khoe mờ chiếc răng cửa xinh xắn.
 
“Xuân Quỳnh đó chú. Tụi bạn cháu ai cũng mê thơ Xuân Quỳnh. Ngoài chỗ cháu thơ thì có Thuyền Và Biển, văn thì có Sông Đông Êm Đềm.”
 
Tôi chưa có dịp đọc Sông Đông Êm Đềm, nhưng nghe cô bé ca ngợi hoài (bao nhiêu lần rồi!) tôi đâm ra không muốn đọc. Cô nhỏ làm như trên thế gian này chỉ có mỗi một cuốn Sông Đông Êm Đềm là đáng đọc.
 
Toan nói cho cô bé nghe ý nghĩ của mình, tôi lại lặng thinh ừ hử cho xong. Bởi buổi chiều quá rực rỡ ngoài kia ai dại gì trong này tranh luận những chuyện không cần thiết.
 
Cho đến lúc ấy vẫn không có chuyện gì xảy ra. Lần hẹn thứ bao nhiêu rồi tôi không nhớ rõ. Nhưng cũng như mọi lần, không có chuyện gì xảy ra giữa Như và tôi ngoài cái chuyện thang máy bị kẹt.
 
Uống cạn ly cà phê nguội, Như với tôi ra về, sánh vai nhau, như tình nhân, như vợ chồng. Chỉ còn thiếu dựa vai nhau, chỉ còn thiếu ôm nhau mà hôn mê mải như cặp tình nhân đứng ngoài hành lang, trước những bậc cầu thang xoắn ốc. Hai đứa ra về, như không có chuyện gì xảy ra, như chưa hề nói cho nhau nghe chuyện vấp ngã, u đầu, sứt trán, bầm tím châu thân, trầy da tróc vẩy. Cũng như thể chưa hề liều lĩnh nói cho nhau nghe cái câu tỏ tình quá ư là cổ điển I think I love you ai cũng có thể nói ra mà không cần bỏ công minh chứng cho điều mình nói.
 
Tôi nhường cho Như bước vào thang máy trước. Ngón tay thon vừa đặt lên cái nút có chữ P thì đèn trên trần thang máy tắt ngúm và chiếc quạt dấu trên trần cũng ngưng quay. Chúng tôi lọt hẳn vào vũng tối keo đặc, im ắng rợn người.

 “Thôi chết rồi chú ơi!” Như kêu lên thảng thốt.
 Tôi gồng mình đứng như thân cây khô héo trong bóng tối. Hai cánh tay thận trọng  ép sát thân mình.
 “Cúp điện rồi chú ơi!” Tiếng kêu than não lòng.
 “Đừng sợ, Như ơi.” Tôi trấn an, “Chắc cúp điện chút xíu thôi.”

 “Tối quá!” Tiếng Như rên rỉ. “Sao lại cúp điện giờ này không biết nữa! Mình ở tầng mấy vậy chú?”
 “Mười hai.”

 “Trời ơi, lỡ thang máy rơi xuống thì chú cháu mình chết hết.”
 Ừ thì cúp điện như thế cũng hay. Tôi cười thầm và cố mở lớn hai mắt tìm hình ảnh quen thuộc của người con gái, nhưng trong bóng đen đậm đặc, tôi chỉ thấy dội ngược từ trí tưởng mình, hình ảnh khuôn mặt trái xoan ca dao, con mắt một mí và cặp môi mỏng mịn màng những lời lý lắc.
 “Chú nói gì thế?”
 “Đâu có.”
 “Cháu nghe rõ ràng mà! Gì mà chết... chóc gì đó.”
 “Ừ, thì lỡ thang máy rớt xuống thì mình được chết chung. Thiếu gì người ước mơ như thế.”
 “Trời ơi!”
 
Tiếng kêu rên khe khẽ. Hơi thở thoảng mùi cà phê. Bàn tay mát lạnh nào đó bất chợt chạm vào má tôi. Mò mẫm qua cánh mũi, rồi tuột xuống miệng, bàn tay mềm ấy bịt hờ hai môi tôi.

 “Chú nói bậy quá à!”
 “Chứ không à. Điện cúp, thang máy tự động rơi xuống...” Tôi nói giữa những kẽ ngón tay.

 “Trời ơi, đừng nói nhảm nữa được không.”

 Mùi hương dịu dàng tỏa trong khoảng chữ nhật đáy ly cà phê đậm đặc. Mùi hương nào đó thật gần mà cũng thật xa quấn quyện lấy không gian đen thẫm. Hương của tóc; hương của thịt da. Gây gây, dịu dàng. Thân thể nào đó mềm mại chạm khẽ vào người tôi. Có có, không không. Như mép vải đan thưa, như tấm khăn voan gió lùa phất phơ chạm vào cành lá. Thời gian ngừng trôi. Hào quang rực rỡ trong vũng tối mê muội. Rồi thêm một bàn tay nữa gắn môi tôi lại.
 
Tôi tỉnh tỉnh, mê mê. Như tay bợm nhậu miền quê bước lên chiếc cầu khỉ chênh vênh.

 “Thật mà, không có điện, nó sẽ rơi xuống, mình sẽ phải chết chung. Không muốn cũng phải chịu...”

 “Trời ơi, chú đừng nói nữa.” Tiếng thở hổn hển lùa lên tóc, lên cổ tôi. “Như sợ quá. Đừng nói, Như thương. Như thương chú suốt đời.”

 Tôi quơ nhẹ hai tay trước mặt, cầm lấy cổ tay Như, thì thào, “Hứa nghe!”

 Nhưng cô gái chưa kịp nói gì thì đèn bật sáng. Quạt trần lại rì rào quay. Chúng tôi rời nhau ra. Cô gái xoay người bấm vội vào chữ P đỏ trên cái bảng chữ nhật có đầy con số.

 “Mình về thôi chú ơi.”
 Chiều hôm ấy đài truyền hình loan tin điện bị cúp vì hai con sóc đùa giỡn trên cành cây gần trạm biến điện ở ngoại ô thành phố. Một con hụt chân sao đó rớt ngay vào ổ điện cao thế.
 
Nhớ người con gái, tôi nhớ luôn cái lồng thang máy và mấy con sóc lanh chanh trên những nhánh cây rậm lá của bao nhiêu mùa màng lặng lẽ qua đi trong đời.
  
2
  
Có đến bẩy tám năm sau tôi mới gặp lại người thiếu phụ năm xưa. Cô cháu nhỏ. Con bé em lý lắc. Người tình học trò. Tất cả. Gầy gò, tiều tụy. Chiều mùa đông. Khăn quàng kín cổ. Áo lông xù như con gấu miền địa cực. Môi vẫn mỏng nhưng đã hằn thêm những vết nứt khô. Con mắt đeo nặng những quầng thâm.
 Chỉ có nụ cười là vẫn như thuở nào.
 “Đi đâu thế này?” Cô hỏi, không còn chú cháu như dạo nào.
 “Ghé sở thuế có chút việc. Như, phải không?”
 Tôi nheo mắt ngỡ ngàng nhìn vào khuôn mặt đã có thêm những đường gẫy sắc cạnh.
 “Còn ai vào đây nữa!”

 “Như đi đâu vậy? Trời ơi, tự dưng mất biệt. Có rảnh, mình ghé quán cà phê ngày xưa...” Tôi cuống quýt, hụt hơi như người đuổi theo lá thư tình bị gió cuốn đi.
 “Xong ngay!” Thiếu phụ vừa nói vừa đưa bàn tay đeo găng đen vuốt ngược mái tóc ra sau, cử chỉ quen quá trời là quen.

 Chúng tôi vào quán cà phê ngày trước, ngồi đúng chỗ ngồi của lần gặp cuối cùng. Nhưng suốt một tiếng đồng hồ, chỉ toàn những đối đáp không đầu đuôi về thời tiết, về mùa màng, về lụt lội ở Việt Nam, về cơn bão tuyết khốc liệt hôm nào dạt ngang thành phố. Bao nhiêu điều muốn nói bỗng dưng thành vô nghĩa. Suốt một tiếng đồng hồ, tôi làm như không thấy chiếc nhẫn vàng có những hạt kim cương lấp lánh trên cái ngón xương xẩu thứ tư của bàn tay thiếu phụ.

 Và cũng chả còn gì để kể cho nhau nghe.
 Lúc về, đứng với nhau trong lòng thang máy ấm cúng, tôi cũng không thầm mong cho có con sóc nào nhảy vào đường dây cao thế của trạm biến điện ở ngoại ô thành phố.
 Mãi đến khi Như nhắc đến chuyện xưa, lòng tôi mới phảng phất chút bùi ngùi.

 “Nhớ bữa hôm mình bị kẹt trong thang máy không?”
 “Sao không.”
 “Tới giờ Như vẫn tội nghiệp con sóc.”
 Tôi kéo cao cổ áo mùa đông, “Con bị điện giật hay con còn sống sót?”

 “Con còn sống sót mới đáng tội nghiệp. Mỗi lần nghĩ đến nó Như lại không cầm được nước mắt.”
 Vẫn xưng tên như ngày xưa. Ừ thì vẫn xưng tên. Như ngày xưa. Nhưng khoảng cách sao mịt mùng. Tôi rầu rĩ nhìn người thiếu phụ. Lòng cay đắng vô duyên. Ừ, cái người hứa thương người ta suốt đời rồi trốn đi biền biệt bẩy tám năm trời thì biết gì chuyện tang thương, khổ lụy mà khóc với cười chứ.
 
“Biết tại sao Như thương con sóc còn sống sót không?”
 Tôi khẽ lắc đầu, nhìn đăm đắm con mắt có đuôi đang loang loáng những giọt nước trong như ngọc.
 Giọng Như rạn vỡ, “Bởi vì nó cũng giống Như, khi không lại trở thành góa bụa.”
 Quá sững sờ, tôi không tìm ra được bất cứ một lời nào để xóa đi cái u ám của câu chuyện. Không còn như thuở nào, cả hai chúng tôi cùng rất cần ai đó cho điểm vớt; điểm nhân đạo cho những câu đối thoại rời rạc.

 Như không để tôi đưa về như dạo trước. Tôi đứng với nàng ở trạm xe buýt nghe gió gắt chém từng nhát buốt nhói lên da mặt. Cái lạnh len qua cổ áo, bò dần xuống sống lưng. Không còn gì để nói. Hai cái đầu mang những bó ý tưởng rất riêng, rất khác.

 Lúc bóng chiếc xe buýt nặng nề lấp ló cuối đường, Như quay qua tôi, cười. Trời ơi, nụ cười trẻ thơ. Nụ cười tôi bắt gặp ngày tôi mới bước vào tuổi trung niên và cô bé vừa mới dậy thì cách đó không lâu.
 
3
  
Năm tháng vẫn trôi. Như bây giờ ở phương trời nào tôi cũng chả buồn để ý. “Cái chị” tôi xách giùm ba bọc đồ trong chợ Farmers ngày nào cũng đã đi xa. Cuối cùng chỉ còn lại mình. Đời sống là như thế. Tôi chả bao giờ thắc mắc. Bây giờ mỗi lần nghĩ đến Như, tôi chỉ còn giữ lại được nụ cười thơ dại của lần gặp cuối.
 Ừ, còn câu nói hồn nhiên này nữa chứ.

 “Nhớ bữa hôm kẹt trong thang máy không? Như chưa kịp hứa gì hết thì đèn đã bật sáng. Đâu phải lỗi ở Như. Phải không. Đâu phải lỗi tại Như...”

 Không phải lỗi tại Như thì lỗi tại ai bây giờ?
Back to top
 

1) Không mua hàng Made in China&&2) Không du lịch hay travel bằng hàng không China&&3) Không giao dịch và mua bán với China
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #40 - 21. Aug 2006 , 22:52
 
                LỔI TẠI TÔI

         Cái đêm tôi ở nhà em ,
         Điều răn thứ sáu lở quên mất rồi ,
         Khi không đèn tắt tối thui ,
         Chuá đi ngủ sớm , đất trời lăn quay ,
         lổi tại tôi ,,, Lổi tại tôi thôi ,
         Bẩm sinh chỉ biết đứng ngồi yêu em ,
         Lổi tại tôi hay lổi tại đêm,
         Gần rơm lưả cháy , biết đền ai đây ,
         Chung quy củng bởi vì yêu ,
         Quên trời quên đất , quên điều khuyên răn ,
         Quên ăn , quên ngủ quên rằng ,
         Mười răn tôi chấp , không đành quên em ,
         Tôi trèo non cao , tôi xuống vực sâu ,
         Tìm em tựa gả đui mù tìm kim ,
         Tôi đành vặt lá vứt sâu ,
         Trăm người dể kiếm,  Tìm em khó tìm ,
         Không sông thuyền lấy gì trôi ,
         Không em tôi củng đơn côi bực mình ,
         Không mưa cây củng làm thinh ,
         Không em tôi sẻ điêu linh dầy vò ,
         Được em tôi há gì lo ,
         Điều răn thứ sáu, mai nầy tôi xưng ,
         Được em đêm bổng tưng bừng ,
         Điều răn thứ sáu không chừng riêng tôi ,
         Lổi tại tôi , lổi tại tôi mọi đàng hoado;






                 
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Những bức thư không được trả lời
Reply #41 - 21. Aug 2006 , 22:58
 

Xin thân gửi đến các bạn một trong những mẩu chuyện , mà mình đã nghỉ rằng đây là những chuyện ngắn hay nhất,


Những bức thư không được trả lời

Có một người đàn ông bị tai nạn giao thông. Vụ tai nạn quá khủng khiếp đã làm ông mất cả hai chân và cánh tay trái. Thậm chí bàn tay phải của ông cũng chỉ còn ngón cái và ngón trỏ. Nhưng ông vẫn còn sở hữu một trí não minh mẫn và một tâm hồn rộng mở.

Suốt những ngày nằm viện, ông rất cô đơn vì ông không còn người thân hay họ hàng. Không ai đến thăm. Không điện thoại, không thư từ. Ông như bị tách khỏi thế giới.

Rồi vượt qua thất vọng, ông nảy ra một ý định: Nếu ông đã mong nhận được một lá thư đến thế, và một lá thư có thể đem lại niềm vui đến thế thì tại sao ông lại không viết những lá thư để đem lại niềm vui cho người khác? Ông vẫn có thể viết bằng hai ngón tay của bàn tay phải dù rất khó khăn. Nhưng ông biết viết thư cho ai bây giờ? Có ai đang rất mong nhận được thư và ai có thể được động viên bởi những lá thư của ông? Ông nghĩ tới những tù nhân. Họ cũng cô đơn và cần sự giúp đỡ.

Đầu tiên, ông viết thư tới một tổ chức xã hội, đề nghị chuyển những lá thư của ông vào trong tù. Họ trả lời rằng những lá thư của ông sẽ không được trả lời đâu, vì theo điều luật của bang, tù nhân không được viết thư gửi ra ngoài. Nhưng ông vẫn quyết định thực hiện việc giao tiếp một chiều này.

Ông viết mỗi tuần hai lá thư. Việc này lấy của ông rất nhiều sức khỏe, nhưng ông đặt cả tâm hồn ông vào những lá thư, tất cả kinh nghiệm của cuộc sống, cả niềm tin và hy vọng. Rất nhiều lần ông muốn ngừng viết, vì không bao giờ ông biết những lá thư của ông có ích cho ai hay không. Nhưng vì việc viết thư đã thành thói quen nên ông vẫn tiếp tục viết.

Rồi đến một ngày kia ông, cuối cùng ông cũng nhận được một bức thư. Thư được viết bằng loại giấy nhà tù, do chính người quản giáo viết. Bức thư viết rất ngắn, chính xác là chỉ có vài dòng như sau:

"Xin ông hãy viết thư trên loại giấy tốt nhất ông có thể có được. Vì những lá thư của ông được chuyền từ phòng giam này sang phòng giam khác, từ tay tù nhân này sang tù nhân khác đến mức giấy đã bị rách cả. Xin cảm ơn ông."
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Những bức thư không được trả lời
Reply #42 - 22. Aug 2006 , 02:15
 
Quote:
Xin thân gửi đến các bạn một trong những mẩu chuyện , mà mình đã nghỉ rằng đây là những chuyện ngắn hay nhất,


Những bức thư không được trả lời



Cám ơn anh LamSon đã đem về 1 câu chuyện rất hay.
Xin được tặng anh và các bạn 1 bài của Lê Hựu Hà

----------------------------------

...


Elvis Phương- Khánh Ly
Hãy Nhìn Xuống Chân



Hãy nhìn xuống chân biết bao nhiêu người khốn cùng
Sống đời tối tăm như loài giun
Hãy nhìn xuống chân biết bao nhiêu người ngã gục
Chết để chúng ta thêm lợi danh

Hãy nhìn xuống chân dế giun đang cười con người
Miếng mồi đỉnh chung ai giành nhau
Hãy nhìn xuống chân để thấy thua loài côn trùng
Suốt đời chẳng bon chen nhọc thân

Hãy nhìn xuống chân những gông xiềng từ muôn kiếp
Hãy nhìn xuống chân thấy ước mơ đang chết dần
Sao còn giết nhau mãi giết nhau không hối tiếc
Sao còn mãi mê mãi mê chia chác bạc tiền

Hãy nhìn xuống đây để thấy thương người thua mình
Vẫn gượng sống vui với niềm tin
Hãy nhìn xuống chân để lắng nghe nỗi bất bình
Muốn gào thét nhưng phải lặng thinh


Elvis Phương- Khánh Ly
Hãy Nhìn Xuống Chân


Back to top
 
 
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Những bức thư không được trả lời
Reply #43 - 22. Aug 2006 , 11:15
 
Quote:
Cám ơn anh LamSon đã đem về 1 câu chuyện rất hay.
Xin được tặng anh và các bạn 1 bài của Lê Hựu Hà

----------------------------------

...


Elvis Phương- Khánh Ly
Hãy Nhìn Xuống Chân



Hãy nhìn xuống chân biết bao nhiêu người khốn cùng
Sống đời tối tăm như loài giun
Hãy nhìn xuống chân biết bao nhiêu người ngã gục
Chết để chúng ta thêm lợi danh

Hãy nhìn xuống chân dế giun đang cười con người
Miếng mồi đỉnh chung ai giành nhau
Hãy nhìn xuống chân để thấy thua loài côn trùng
Suốt đời chẳng bon chen nhọc thân

Hãy nhìn xuống chân những gông xiềng từ muôn kiếp
Hãy nhìn xuống chân thấy ước mơ đang chết dần
Sao còn giết nhau mãi giết nhau không hối tiếc
Sao còn mãi mê mãi mê chia chác bạc tiền

Hãy nhìn xuống đây để thấy thương người thua mình
Vẫn gượng sống vui với niềm tin
Hãy nhìn xuống chân để lắng nghe nỗi bất bình
Muốn gào thét nhưng phải lặng thinh


Elvis Phương- Khánh Ly
Hãy Nhìn Xuống Chân



hôm nào mới đọc chữ MIÊN gì đó, nhưng MD hủng có thì giờ nói chiện, hôm nay chạy dzô tìm hủng biêt nằm ở trang nào nên thui mượn trang này chả nhời mí anh LS,

tên của MD là người Miên đen đủa xấu xí đi chu du thiên hạ mà còn thim chữ Lụ đạn đằng sau ( tên này DH dặt), nên anh đừng có nhằm tên của MT, còn tên Miên Thụy thì xinh đẹp, nên anh đừng có thấy Miên mờ tưởng giống nhau, thì tội cho cô nàng Miên Thụy xinh đẹp của tui,
MD còn có một cái nick ác liệt nữa là
MD = mắc dzịch Cheesy Cheesy Cheesy
Back to top
« Last Edit: 22. Aug 2006 , 11:17 by Mien_Du_Dalat »  

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
Mien_Du_Dalat
Gold Member
*****
Offline


Xin Hãy Cho Nhau Nụ
Cười

Posts: 1994
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #44 - 30. Sep 2006 , 22:52
 
Anh PAD gởi bài này cho MD đọc, thấy hay chôm gởi lại cho bà con đọc chơi! Cry Cry Cry

Câu chuyện bát mì

Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.


o O o


Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.

Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào. Đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.

- Xin mời ngồi!

Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.

- Đương nhiên... đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.

Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:

- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. "Ngon quá" - thằng anh nói.

- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.

Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: "Thật là ngon! Cám ơn!" rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.

Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

- Đương nhiên... đương nhiên, mời ngồi!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:

- Cho một bát mì.

Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:

- Vâng, một bát mì!

Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:

- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?

- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: "Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!"

Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.

- Thơm quá!

- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!

- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!

Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là “200đ/bát mì” và thay vào đó giá của năm ngoái “150đ/bát mì”. Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy "Đã đặt chỗ". Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.

- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.

Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:

- Làm ơn nấu cho chúng tôi... hai bát mì được không?

- Được chứ, mời ngồi bên này!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy "Đã đặt chỗ" đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì".

- Vâng, hai bát mì. Có ngay.

Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.

Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.

- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!

- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?

- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.

- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.

Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.

- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!

- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?

- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.

- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.

- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!

- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!

- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.

- Có thật thế không? Sau đó ra sao?

- Thầy giáo ra đề bài: “Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?” Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: "Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc". Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: "Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn".
Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: "Cố gắng lên! Chúc hạnh phúc! Cám ơn!"

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.

- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.

- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?

- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: "Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vả về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì, đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được... Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con."

Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:

- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!

Lại một năm nữa trôi qua.

Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy "Đã đặt chỗ" nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.

Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

"Việc này có ý nghĩa như thế nào?" Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai "cũ" trở thành "cái bàn hạnh phúc", mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.

Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.

Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ.
Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên.

Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:

- Làm ơn... làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?

Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:

- Các vị... các vị là...

Một trong hai thanh niên tiếp lời:

- Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lực để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:

- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!

Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:

- Ồ phải... Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.

Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:

- Có ngay. Ba bát mì.


o O o


Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng: chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.

Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng: "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt". Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.


Pha.m Anh Du~ng
http://www.saigonline.com/phamanhdung/CD/CDMain.php
Back to top
 

Ví đời như giấc ngủ trưa&&Cho nên nhân thế có thừa Miên Du (Dalat)
WWW  
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #45 - 13. Oct 2006 , 22:21
 
Nguyễn Thị Chân Quỳnh     26/01/2006
Tôi rời Hà-nội sang Pháp từ lâu, đã ăn cả mấy chục cái Tết tha hương, cứ mỗi lần Tết đến, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của Nguyễn Bính :
Tết này có lẽ không về được,
Em gửi về đây một tấm lòng.
Chị có một em, em một chị,
Giời làm cách trở mấy con sông !
Em đi theo đuổi đời mưa gió,
Chị vẫn môi son, vẫn má hồng.
Một lá thư này là tất cả
Nỗi niềm tâm sự kẻ sang sông. (1)
Vinh, 1941
Tôi không nghĩ đời tôi có thể gọi là đời mưa gió, nhưng chắc chắn là năm nay tôi lại cũng không về được và giời làm cách trở không phải chỉ mấy con sông mà là tới mấy đại dương !
Hồi tưởng lại khi còn bé, mỗi lần Tết đến sao mà háo hức..."A ha ! Còn 5 hôm nữa thì đến Tết  Tôi và mấy đứa em nhẩy nhót, hò hét ầm ầm. Chúng tôi đếm ngày, trừ dần : còn 4 hôm, còn 3 hôm...
Muôn mầu tươi sáng, phấn, hoa, hương,
Đời ngọt ngào như có vị đường.
Tôi sống, tôi say, và mỗi Tết
Lòng tơ thêm động chút yêu đương. (2)
Tết Hà-nội hồi ấy thật là vui :
Trên hè phố người đi tấp nập,
Cu-li hình như muốn chạy gấp
Bạn ơi, Xuân đã đến nơi rồi ! (3)
Tuy các cửa hiệu không trang hoàng rực rỡ như lễ Giáng sinh ở Pháp nhưng cũng có mấy phố đặc bìệt khác hẳn ngày thường : Hàng Đường với tủ kính bầy đầy kẹo mứt, phố Hàng Bồ của tôi thì có các ông Đồ đến xin ngồi nhờ trước cửa hiệu, bán chữ :
Với mảnh chiếu rách giải trên hè,
Những tờ giấy đỏ buộc cạp tre,
Vài ông Đồ kiết tay thu áo,
Cất giọng oang oang, đọc để khoe... (3)
Ngoài đường tấp nập, trong nhà cũng nhộn nhịp lau sập gụ, tủ chè, đánh bóng đồ đồng, gói bánh chưng, muối dưa hành, làm giò thủ, nấu đông... Hễ thấy nhà gói bánh chưng là tôi mon men lại gần, xin gói cho riêng tôi một cái bánh bé tí xíu, bằng lòng bàn tay, cũng đủ nhân hệt như cái bánh thường, hình như gọi là bánh cóc.23 tháng chạp cúng ông Công ông Táo là đã bắt đầu thấy quang cảnh Tết nhưng phải đến 30 mới thực sự có không khí Tết. Tôi đi ngủ mà nằm thao thức đón nghe tiếng pháo giao thừa nổ từ xa, rồi nổ đoành đoành ngay bên tai, mùi thuốc pháo thơm nồng : nhà tôi cũng đang cúng giao thừa. Văng vẳng có tiếng mẹ tôi sai bảo người nhà bầy bàn thờ ngoài sân. Tôi thiếp đi trong khói pháo, hương trầm, đèn nến chập chờn...Mồng một bừng mắt dậy, đèn sáng choang, chói lòa. Tuy bà tôi không ngồi trong ổ, mặc áo đỏ cho tôi (4) nhưng tôxúng xính trong bộ quần áo mới còn nguyên nếp gấp. Bàn thờ nghi ngút khói hương, đèn nến lung linh, hoa đào, hoa cúc, cẩm chướng, lay-ơn, bừng sáng rực rỡ, những chậu quất chi chít quả đỏ ối, những cốc thủy tiên quý phái, hoa trắng thanh tao, hương thơm thoang thoảng. Có một năm trời mưa phùn lấm tấm, tôi ra sân lần đầu tiên được ngắm những bông hoa lạc mai (lạp mai ?) nhỏ bằng đầu ngón tay, còn đọng nước mưa, cánhtrắng muốt nhỏ li ti, giữa phơn phớt hồng. Mưa thấm ướt áo song tôi không thấy.


Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
NHỮNG  XAC  CHẾT  KHÔNG  ĐẦU
Reply #46 - 03. Nov 2006 , 00:14
 
...sao không hát cho những người còn mãi mể... "Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng...". Chị ngồi nhìn con, rươm rướm nước mắt. Đứa bé gái lên năm, kiểng chân nhón gót, chân trước chân sau, đôi tay gầy bé bỏng vươn cao trong nắng sớm. Trông bé như một vũ công nhà nghề ở nhà hát lớn, chị cũng trông lớn lên no được như thế. "Là người xin được một lần nằm xuống, nhìn anh em đứng lên cắm cao ngọn cờ". Nó nhoài người ngã rạp, tay vẫn vươn cao khẩn thiết. Chị xấu hổ, mang tội với con. Sanh nó ra làm chi cho nó khổ. Ở tuổi nó, đáng lý ra nó phải được no cơm ấm áo. Đằng nầy con bé phải bương chải từ sớm đến khuya, lúc bán hàng rong, kẹo bánh gần ga xe lửa, lúc nài nỉ Việt kiều mua đồ kỷ niệm ở phi trường, và lúc này đây hát dạo bên lề đường. Đã nhiều lần chị muốn chấm dứt cho rồi, không còn ý chí và sức mạnh để phấn đấu, để tồn tại ở thế giới nầy. Trái tim của chị đầy rẫy những ưu phiền, tuyệt vọng. Sống để làm gì?
Chỉ vì một miếng ăn nho nhỏ nhét vào cái dạ dầy đói rách vào cuối ngày. Từng ngày lại từng ngày. Sống chui nhủi như một loài bò sát, dấu mặt không dám nhìn đồng loại, như một cây ký sinh nhờ gửi vào những cây khác. Mọi người đều xa lánh chi.. Ngay cả khi có tiền, muốn mua sắm đồ người ta cũng ruồng rẻ, khinh khi. Chị là một con ăn mày.
1. Thằng Đức đang chăm chú đứng đái ở bìa rừng khi Thái rón rén đến bên cạnh. Giật mình, nín, Đức quay lại khi nghe tiếng bước chân người lết trên lá khô. Thái đến đứng một bên, làm bộ vạch quần, nhưng không đái, coi bộ lúng ta lúng túng như hồi nó mới lấy vơ.. Đức tiếp tục chuyện đang làm, quay ngang hỏi bạn:
- Bộ bí ha??
- Bí thiệt Đức à. Tao muốn hỏi mầy chuyện nầy nghe... Nó lại ngập ngừng. Từ hồi mới biết nó đến giờ, Đức đã quen cái lối nói ngập ngừng của bạn. Có một dạo nó làm như hết cái tật ấp a ấp úng đó, nhưng gần đây hình như nó lại trở lại cái tật cũ.
- Chuyện gì thì mầy cứ xịt ra đi, tao nghe. Đức nói, mắt không rời vòi nước đang róc rách trên tàn lá.
- Chuyện thằng Bình...nói, hôm trước...tao nghĩ...
- Mày nói cái gì? Đức sững sờ quay ngay la.i. Dòng nước lia trên đôi dép cụ Hồ của Thái rồi tắt tịt. Nó không buồn nhảy tránh mà cũng không chửi la.i. Lần này thì thằng Đức cụt hứng, nín đái thật sư..
2. Chúng nó đến quân trường Quang Trung lúc trời đã xế chiều. Bọn tân binh ùa xuống sân từ những chiếc quân xa Motolova lẫn lộn với những chiếc GMC đỏ bụi đường. Những chiếc quân xa chiếm được của quân đội Cộng Hòa, với cờ đỏ sao vàng được sơn dối trên cửa hông, có lẽ vì thiếu sơn, không đủ che lấp dấu cờ vàng ba sọc đỏ hoặc những ngôi sao trắng mờ mờ ở bên dưới. Mặc dù đã vào Thu tiết tháng Mười, gần bảy giờ tối mà mặt trời vẫn chưa khuất hẳn, chói chang như đầu mùa Ha.. Đức nhảy xuống đất, uể oải vươn vai, đưa tay che mắt vì ánh nắng chói lòa ở chân trời phía Tây. Con đường từ Sài Gòn đến đây gập ghềnh nhiều ổ gà đã dồng xóc nhừ tử những tên lính mới. Mặt thằng nào thằng nấy lớ ngớ, ngỡ ngàng, cái hồn phất phơ trên chỏm tóc như không hiểu tại sao cái xác của mình lại hiện diện nơi quân trường xa lạ nầy. Mới tháng trước đây bọn chúng hãy còn là học trò, hoang mang bàn cãi nhau khi chiến tranh trở lại sau vài năm "tương đối hòa bình".
Bọn bành trướng Trung Quốc từ phương Bắc đe dọa lãnh thổ, bọn cuồng tín Pônthanks.gifốt, Iên Sary chặt đầu ông bà lão, mổ ruột trẻ thơ, hãm hiếp phụ nữ ở miền Tây. Tin tức được loan đi trên truyền hình, kêu réo trên đài phát thanh, nhai đi nhai lại mỗi sáng đầu chợ cuối xóm. Bọn trong lớp cá nhau, "phe mình" sẽ thắng. Tự dưng cái "phe mình" đã được đổi chủ lúc nào không hay, như coi một phim cao bồi giết da đỏ: khi xưa mình là cao bồi, bây giờ mình là mình là da đỏ. Cái lập trường của đám sinh viên học trò nó bồng bột làm sao, cái bồng bột lửa rơm, nay đổi mai thay như chong chóng. Có lệnh gọi tập họp. Tân binh hàng một tiến vào sân. Mùi vải của ba lô và quân phục mới lẫn mùi mồ hôi của người đi trước truyền qua người đi sau át cả mùi cay của đất cát sủi lên từ những bước giày vải xô lịch bi.ch. Vào giữa sân, bọn nhóc được lệnh đổi đội hình, cứ mười người làm một hàng dọc. Kiểm tra quân số, được gần một trăm mạng hiện diện, non một đại đội, tức một "C". C trưởng, một thượng úy, dáng người dong dỏng cao, " ...xin chào đón các đồng chí, các người con yêu của nhân dân, các thành viên mới của quân đội Nhân Dân Việt Nam anh hùng....". Thằng Đức không biết có mấy đứa trong đám xứng đáng với hai chữ "anh hùng" ấy.
Có "anh hùng" hay không thì chắc còn phải thử lửa mới biết. Giờ đây, nó nghĩ, cả đám chỉ là những thằng nhát, nhát như cáy, thì đúng hơn. Những thằng có gan mà hèn đã trốn mất tự hôm qua. Sáng thứ bảy sau buổi lễ đưa quân trong tiếng kèn trống tùng xèng do bởi các thiếu niên Tiền Phong và tiếng khóc tỉ tê thút thít của mấy bà mẹ, sau lời phát biểu đầy khẩu hiệu của các đồng chí chính quyền địa phương, và sau khi cờ quạt, biểu ngữ bị cuốn phăng mất, cả bọn được lùa vào phường đội nhốt vào phòng để ngủ qua đêm. Trong lúc bên ngoài công an và phường đội canh phòng cẩn mật những người đi làm nghĩa vụ, có đứa dám nạy cửa sổ, leo hàng rào trốn mất dạng, bỏ lại những thằng nhát gan thức trắng đêm chờ sáng để líu ríu leo lên xe ra quân trường làm "anh hùng" với thiên ha.. Xong phần diễn văn, bọn lính mới được phân thành "A", các tiểu đô.i. Đức cùng đồng đội theo A trưởng về trạị Đó là một dãy nhà lợp tôn ở cuối sân được ngăn làm nhiều gian, xây dựng lên bởi quân đội Cộng Hòa cũ. Mỗi A được một phòng, những căn phòng trống, gió lùa từ hai cửa trước thông qua hai cửa saụ Giường cá nhân được kê sát tường, những cái sạp gỗ trên có trải những chiếc chiếu bèo nhèo, cụt cỡn, thiếu thước tất, lòi trơ những miếng ván đen thủi vì đã nhuộm không biết mấy lớp bùn, đất và mồ hôi của những thế hệ lính từ muôn đời kiếp trước.
Đức xí một "cái giường" gần cửa ra vào phía sau. Vừa đặt ba lô xuống thì có lệnh tập họp xuống nhà bếp ăn cơm. Đức biết Thái, hay nói đúng ra cả tiểu đội biết đến "Thái giám" buổi sáng đầu tiên ở quân trường. Cũng tội, với cái thân gầy nhom xương xẩu, đáng lý ra nó phải nhẹ tênh hênh trong gió sớm mới phải, đằng nầy nó nặng nề, ì ạch kéo lê trên sân cỏ. Khi cả trung đội đã chạy xong tám vòng sân, Thái hãy còn ở vòng thứ tư. Nó lì thật, vẫn chạy cho đủ tám vòng không thiếu. Trung đội ra giếng làm vệ sinh cá nhân, vừa hò hét cổ võ Thái đang ở vòng cuối cùng của buổi tập. Nó hổn hển, da mặt trắng bệt, cắt không ra máu, xách lon đến cạnh Đức, lẳng lặng ngồi xuống súc miê.ng. Được một lúc, nó hớp lại được hồn, trông mặt dễ coi hơn: bạch diện thư sinh, với đôi mắt tròn và sâu, buồn như con gái. Đức gạ chuyện. Thái nói, nó bị bệnh suyễn từ khi còn bé. Giọng nói nhỏ nhắn mềm mại qua vành môi mím, tái xanh, nhẫn na.i. Cái nhẫn nại đã quen của một người yếu đuối kinh niên, không than van, không trách oán. Từ hôm ấy, Đức và Thái làm bạn với nhau thật nhanh vì hoàn cảnh đưa đẩy chúng lại gần nhau. Cũng tại cái tên của chúng nó mà thôị Chỉ cần vài ngày là cả tiểu đội biết đến cái biệt danh của Đức, "Dukkev". Có thằng làm bộ biết tiếng Liên Xô, thông ngôn cho cả tiểu đội, Dukkev chính là "Đức cốp".
Thế đấy, Thái giám và Dukkev là cặp bài trùng mới của tiểu đội. Cả bọn hoan nghênh tán thành việc mai mối nầỵ Thái dọn giường đến gần chỗ của Đức ít ngày sau. Thái được phong "giám" là do bởi trò chơi "khám súng". Buổi tối, một bọn chơi nghịch, chụp bao bố từng thằng trong trung đội, đè cổ "khám súng", Thái gọi là "Thái giám" vì, nó chưa trổ mã. Con đường từ cư xá Thanh Đa, qua cầu Kinh, ra đến đường lộ đổ về phía Hàng Xanh lúc này đông nghẹt xe cộ, từ rạng sáng cho đến một giờ đêm là thường. Đông đến độ người ta phải dùng con đường đá chạy song song với đường cái chính, chạy từ cái chợ xép bên phải cầu Kinh, đổ ra phía cầu Bình Triệu. Con đường những năm về trước chỉ dành cho người đi bộ, nay cũng chật ních xe gắn máy qua lại . Sài gòn tốn mất hai mươi năm mới trở lại được cái thời trước 75. Đâu cũng xe gắn máy, xe đạp rất ít. Ngay cả ngã tư Hàng Xanh, vì xe cộ quá đông, người ta phải xây thêm một cái bùng binh như ở chợ Bến Thành vâ.y. Nay cả vùng thôn quê Bình Quới đi về phía Thủ Đức cũng không còn là thôn quê nữa. Người ta tu sửa và xây dựng thêm những câu lạc bộ đắt tiền dành cho giai cấp có của. Dọc hai bên đường, nơi mà từng vòng tròn lính nhảy dù rụm lại nổ lựu đạn tự sát hồi 75, quán cà phê đổ ra như nấm, bây giờ là vỉa hè nơi chị đang ngồi nhìn con ca múa. Hồi bằng tuổi nó, chị sống yên ấm với gia đình ở tầng trệt, lô IV của cư xá Thanh Đa bên kia cầu Kinh. Bố chị là Thiếu Tá Pháo Binh. Có lần nghỉ phép bố dẫn chị đi ăn phở, chị tròn mắt nhìn người ăn mày què, gác chân trên nạng, húp vội phần nước lèo còn thừa trong tô phở của chị một cách ngon lành. Bố dặn:
- Con phải thương người nghèo khó.
- Bố ơi, con không muốn như vậy khi con lớn
- Hoàn cảnh cả con a..
- Hoàn cảnh là gì hả bố?
- Khi lớn con sẽ hiểu . Bây giờ con ngoan, con học cho giỏi, con sẽ không như vậy . 3. Thằng Thái mở to mắt nhìn trân trân vào họng súng AK đang chĩa vào giữa trán của nó. Cái họng súng tròn vo, đường rãnh xoáy trôn ốc hun hút, cái vòng tròn dường như lớn dần theo nhịp rung của đầu ruồi lên lên xuống xuống, qua qua lại lại, vạch thành dấu thánh giá giữa hai chân mày của thằng Thái .
- Bắn đị Xử lý tao đi. Thái thách thức. Thằng kia tay run run, cọ quậy trên cò súng. Nó biết, chỉ một cái ngoéo tay là đầu thằng Thái sẽ bung ra như trái dừa khô mọng nước, có điều, không phải là nước. Không được. Họng súng hạ xuống đất, người lính ôm lấy đầu mình:
- Thái ơi mày hại tao. Mày làm tao điên cái đầu . Từ ngày ra chiến trường tới giờ, Đức chưa khi nào dám bắn ai mà phải nhìn thẳng vào mặt đối tượng cả. Địch quân đã thế, huống hồ gì là chính bạn của mình. Chuyện không đâu mà đưa đến cuộc cãi vã chí tử giữa hai thằng bạn. Thật ra kẻ nói nhiều, nói dai như đỉa là thằng Thái. Nghĩ đến chuyện thằng Thái nói hồi chiều lúc đứng đái ở bìa rừng cứ lảng vảng trong óc làm Đức ăn cơm chiều, nuốt không trôi được. Ăn xong, tới phiên gác của nó, Đức kéo bạn ra chỗ vắng, gạn hỏi:
- Còn con Noi, vợ mày ?
- Nói bậy, vợ con hồi nào ?
- Mày ở với nó... -... Thằng Thái im lặng, vân vê chuỗi bùa Kà Tha lủng lẳng trên cổ. Bắp tay nó để trần, thớ thịt xoáy qua xoáy lại, thụt ra thụt vào dưới tay áo xắn cao theo động tác mò mẫn của mười đầu ngón tay. Thêm một chuỗi bùa nữa bằng ngà voi và xương heo rừng mang lúc lắc vòng quanh cổ tay. Đức nhìn. Những cơ thịt bắp rắn chắc hơn là hồi còn ở quân trường. Lúc nầy nó ăn nắng, đen thui như một thằng Miên. Một năm lửa đạn đã đưa nó qua tuổi dậy thì, đẹp trai thêm rạ Không đứa nào dám gọi nó là "giám" nữa. Nhất là từ khi nó "lấy vợ". Hồi mới tới làng nầy, nó thèm thuốc lá, cái tật mà bọn lính dậy nhau ở quân trường. Ra đơn vị tiếp xúc với bọn "chính quy", bọn lính bổ sung học thêm nhiều điều mới. Tập tễnh với điếu cầy, Đức sinh ghiền thuốc Lào.
Có lúc bọn chính quy còn đem trộn rễ và lá cây Hồng Ma, thứ hồng dại hút vào say như thuốc phiện. Họ nói, Hồng Ma ở Miên hút không say bằng thứ Hồng Ma ở rừng Trường Sơn, vì thiếu máu người. Theo kinh nghiệm chỗ nào càng nhiều bộ đội chết, Hồng Ma chỗ ấy hút càng ngon, càng ngọt. Họ ám chỉ chiến trường Kam Pu Chia chẳng qua chỉ là một trò chơi cho đám học trò trung học vừa nứt mắt mà thôi. Đổ máu chưa đủ. Thái lại không thích hút thuốc Lào trộn Hồng Ma, hay có lẽ không thích chuyện bọn chính quy lên mặt về sự tích của cây Hồng Ma, nó tìm đi mua thuốc lá địa phương. Người ta bảo tìm đến con Noi, đưa một trăm đồng riel và nói: "ôn xtra lanh bông tể". Thế là với nửa tháng lương trong tay, nó lẽo đẽo theo con nầy, tối ngày cứ "ôn xtra lanh bông tể". Tới một hôm đi lùng địch, nó xông vào buồng con nhỏ lần đầu tiên, lục lọi dưới gậm giường. Ông bố con bé nắm đầu bắt cưới vì nó đã vi phạm tiết hạnh của con gái ổng. Thái vẫn giãy nảy, nó có rờ rẫm gì đâu mà cưới, nó chỉ vào buồng để truy lùng địch! Người Miên có cái tật thù dai, và đeo dai như đỉa. Họ muốn gì thì phải có.
Họ thù ai thì người đó phải chết mà thôi. Cha con ông già cứ bám theo nó tối ngày. Họ nói con gái Miên tới tuổi cập kê không được gặp đàn ông con trai. Khi thằng Thái chui xuống gậm giường con Noi, nó đã vi phạm tiết hạnh con gái người ta. Không biết chuyện ngã ngũ ra sao, ít bữa sau tiểu đội thấy Thái mang chuỗi bùa Kà Tha lủng lẳng. Con "vợ" nó thì sáng chiều cứ đem cơm cho nó hoài thôi. Lúc rãnh nó cũng ra ruộng kéo cầy cho gia đình vợ, ra vẻ là rể quý. Hoãn ít bữa anh em hỏi nó, "cái ấy" nó như thế nào, nó lắc đầu nguầy nguâ.y. Không như hồi ở quân trường có thằng chui hàng rào, băng ruộng đi "ăn chè", lúc về anh em hỏi: "cái ấy" như thế nào. Đương sự chưa kịp trả lời thì Thái đã xoay báng súng CKC, chọc tay vào cái lưỡi gà đậy ống thông hơi, và trả lời "giống cái nầy". Bây giờ, nó lắc đầu lia lịa, không phải như vậy, không phải như vâ.y. Có điều bây giờ nó đã hiểu, "ôn xtra lanh bông tê" có nghĩa là "em có yêu anh không" ! Khi muốn hỏi cưới một người con gái, người con trai thường đem quà tặng đến người yêu và nói với cô gái, "ôn xtra lanh bông tể". Kể cũng tội cho bọn lính trẻ, chưa quá hai mươi tuổi đầu, có nhiều thằng chết xuống âm phủ chưa biết chuyện gái trai là gì.
- Tao thấy cuộc chiến tranh nầy phi nghĩa...
- Nói nhỏ nhỏ lại con cầy ạ! Đức bịt miệng nó. Thái hất cằm, quay mặt cố tránh bàn tay của bạn, tiếp tục như mê sảng:
- Mày thấy mấy thằng chính quy miền Bắc coi. Đổ máu làm anh hùng chống Mỹ cứu nước, để bây giờ vẫn tiếp tục đổ máu. Còn tụi mình, một lũ đi thi hành chính sách "thay đổi màu da trên xác chết", chỉ tiếp tục đổ máu mà thôi. Ít ra thì tụi nó còn được mang danh "giải phóng dân tộc". Còn tụi mình, "giải phóng" ai đâỷ Mày không thấy tụi nó vẫn "công thần" hay sao. Coi tụi mình bằng rác. Họ là ai ? Chỉ lớn hơn mình đôi ba tuổi là đã nằm vào thế hệ đi trước. Kẻ đi trước bao giờ cũng mù quáng về những hào quang mà họ nghĩ là của họ tạo ra, cho dù thứ hào quang ấy chỉ là một lớp sơn mạ, lớp phấn son được nhồi thoa lên những xác chết mà thôi. Họ đem cái hào quang ấy để lòe mắt lớp đàn em. Được những gì? Chiến tranh. Bi thảm. Nghèo đói.
- Mày im đi Thái a.. Mày nói sảng. Tầm bậy. Mày lậm bùa ngải của con vợ mày rồi. Bọn trong trung đội kháo nhau rằng con nhỏ Noi có máu Chàm, bùa ngải ghê gớm lắm. Tổ tiên của con Noi là người Chiêm Thành chạy loạn từ đất Đồ Bàn qua tận Biển Hồ Tông Lê Sap thời thế kỷ 16, 17 khi người Việt đánh chiếm Chiêm Thành. "Lấy vợ" được ít tháng, thằng Thái như bị đồng hóa, nó phát biểu, có lẽ nó có máu Chàm, do bởi nó người Đà Nẵng. Biết đâu kiếp trước tình duyên của nó và con Noi dang dở, cho nên kiếp này...
- Tao không mê. Chỉ có mày mê. Mày nói tao lậm bùa. Còn màỷ Mày nghĩ cái hai sao chằn trên cầu vai của mày sẽ là thứ bùa hộ mạng cho mày hay saỏ Tao suy nghĩ rất nhiều về những điều tao nói. Mày coi, tao chỉ tội nghiệp cho mấy thằng miền Bắc. Tụi nó cũng như mình thôi. Lính khố, chân trần, thời nào cũng khổ như nhau cả. Đầu đen máu đỏ cả thôi. Mày nhớ hôm Tết dưới chiến hào, tao hát nhạc vàng, bài "Xuân Này Con Không Về" hay không? Thằng nào cũng rơm rớm nước mắt. Thằng Thái thích hát với hò. Hôm ra đơn vị, anh em lại tập họp bên lửa trại, đàn ca. Diễn văn và khẩu hiệu bên ánh lửạ Hội nghị Diên Hồng. Ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Thế ta là thế đứng trên đấu thù..v.v...
Coi khí thế hào hùng lắm, làm những thằng nhát gan như thằng Đức bớt sơ.. Thái chơi đàn gió, rất hay. Đêm ấy, không riêng gì Đức mà cả đại đội mê mẩn với tiếng hát cao vút chưa bể tiếng hòa với tiếng đàn điêu luyện của Thái. Câu hát vô tình, đã quyết định số phận của Thái sau nầy. "Ôi mỗi bát canh chua đỡ quãng đường vất vả, Một nắm rau rừng nầy ủ kín yêu thương, Với nắm gạo rang, đường ra chiến trận. Ôi tất cả tâm tình đi nhớ mải, Nổi lửa lên em, nổi lửa lên em, Ánh trăng sáng ngời đưa ta vào trận đánh núi rừng xanh dồn dập bước quân hành..." Đức ngồi bó gối nhìn trời sao, ngày mai nó sẽ vào trận đánh, vào trò chơi lớn với núi rừng xanh. Đức không ngờ thằng ấy đa tài đến thế. Nó học nhạc từ mấy cha cố đa.o. Thái trước học ở trường dòng, sém chút nữa vào chủng viện đi tu, nếu không có giải phóng vào. Cái đàn gió, do người đại đội trưởng trao lại Anh kể, cái đàn ấy của một người đi B, chết buổi sáng đầu tiên của ngày hòa bình bên dốc cầu Phan Thanh Giản, lúc vào Sài Gòn. Anh định mang cái đàn ấy về trao cho hôn thê của người đã khuất.
Nhưng biết cô ấy có còn chờ đợi hay không. Biết Thái thích chơi đàn, anh bảo cứ giữ lấy mà dùng. Những buổi tối, tiểu đội chụm lại nấu chè, Thái kéo đàn, những ngón tay lướt nhẹ trên phím đàn thành tha.o. Đức không rõ Thái học đàn có khó nhọc như nó học ném lựu đạn hay không. Hôm tập ném lựu đạn, Thái luống cuống kéo kíp nổ, nó sợ đến độ quăng trái lựu đạn không quá 5 thước. May, có bức tường ngăn bảo vê.. Một lần Đức bảo Thái dạy cho mình chơi đàn, nó sẽ đền cho bạn hai điếu thuốc Điện Biên, Thái giận Đức mấy bữạ Khi Đức xin lỗi, nó bảo: "Thích thì tao dậy cho, còn thuốc của mày tao không cần". Thằng Đức hối hận, mình đã đánh giá bạn quá rẻ. Ra đơn vị, Thái bạo gan hát nhạc vàng, từ những "rừng lá xanh xanh che phủ đường đi..." cho đến "phố núi cao phố núi đầy sương.." v.v... Cũng như chuyện cấm hút Hồng Ma, bọn sĩ quan lúc đầu cấm đoán nhạc lính...ngu.y, rồi cũng lờ đi vì chính sĩ quan, có người khóc sướt mướt khi nghe Thái hát. Họ, những "người giải phóng quân một lòng ra đi" chiến trường B đã lâu mà có "'biết đâu ngày trở về..." Khi nào sẽ trở về, họ làm sao biết?
- Mày nhớ thằng tiểu đội trưởng cũ của mình, cái chức mà mày đang làm, hôm đi về Bắc ôm ấp một xấp vải lụa làm quà cho vợ, một con búp bế cho con, gói ghém trong cái ba lô rách ten beng thấy có tội không? Hạt giống chiến tranh đã được chuyền qua mày, qua tao. Cuộc chiến tranh này sẽ còn tiếp diễn, cho dù đó là một cuộc chiến bỏ quên đối với thế giới bên ngoàị Đến khi nàỏ Mày nghĩ lại đi. Nghĩ lại đị Một tiểu đội trưởng Khối ngây ngô. Ngây ngô đến tội nghiệp, người anh hùng "sinh Bắc tử Nam". Một hôm tập họp anh em lúc hai giờ sáng để "hành quân đêm", tiểu đội trưởng Khối, với giọng Nghệ An đặc sệt:
- Các đồng chí đã chuẩn bị súng ống đầy đủ chưả Hiểu ý, cả tiểu đội răm rắp trả lời: ĐDủ, đồng chí! Dĩ nhiên, cũng với giọng Nghệ An, đặc sệt. Trước sự ngơ ngác, có phần hân hoan của Khối, anh em "miền Nam" ôm bụng lăn quay ra sân cười nứt nẻ. Khối cười theo, thành thật. Lúc hiểu ra, Khối không giận anh em chút nào cả. Hôm được giải ngũ, Khối ôm từng người trong trung đội, bịn rịn.
- Mày có tư tưởng tiểu tư sản, thoái hóa...
- Không. Mày ngu...Nhưng không tao không trách mày. Mày chỉ là một con người trong một chế đô.. Một con ốc trên bánh xe bò kéo lê trên đường đầy ổ gà chằng chịt. Thằng Đức cảm thấy dòng máu nóng như ùn un trào dâng lên khỏi cổ, ngập lụt cả mặt màỵ Nó giương khẩu súng AK, lên đạn, dí nòng súng vào đầu Thái.
- Mày sẽ báo cáo với trên? Cứ báo... Đức buông súng, ôm đầu:
- Mày làm tao khó xử. Tao chỉ lo cho mày. Mày chết, có chó nó thương mày con cầy a.... Chị đã nghe lời bố dặn dò, chị đã học thật giỏi. Cho đến ngày mẹ chị khóc sướt mướt khi một người lính gõ cửa trao cho mẹ cái ví và chiếc đồng hồ của bố. Đó là ngày Ban Mê Thuột mất. Chị không hiểu Ban Mê Thuột mất nghĩa là gì, nhưng chị biết, chị mất bố. Bố tự bắn vào đầu, sau khi dặn dò người lính đem đồ về cho me.. Rồi chị lớn, chị đi Thanh Niên Xung Phong. Lý lịch của chị không đủ cho chị vào đại học. Mà lý lịch có sạch sẽ hơn tí thì cũng vào bộ đội mà thôi. Chị đi dân công chiến trường Kam Pu Chia. Như hàng trăm ngàn thanh niên phục vụ chiến trường Kam Pu Chia, không mất mạng thì cũng một phần thân thể, chị đã để lại ở đất khách đôi chân, trên cánh đồng hoang đầy mìn bẫy. Tàn tật, chị không dám về Sài Gòn, lây lất ở Nam Vang cho đến ngày được tin mẹ mất.
Ở Miên, người Việt mình là thứ công dân hạng hai, chịu mọi sự chèn ép, giết tróc từ phía chính quyền lẫn người dân Miên, trong khi nhà nước mình đã "bán cái", "đem con bỏ chợ". Họ bảo nhau, những người Việt như chị được chính quyền Việt Nam cài lại để làm gián điệp, để đồng hóa dân tộc Khmer, để thực hiện Liên Bang Đông Dương. Ở Miên, cũng như ở mọi nơi trên thế giới, ăn mày bị người ta khinh rẻ. Họ không chấp nhận một lý do ngụy biện nào. Vì ở Miên người què cụt vì mìn vì bị Khmer đỏ tra tấn quá nhiều. Ở Miên, chị đã chán ngấy mấy chữ "ky-um chhum-pi-ka": tôi là người què cụt. Chúng như những tiếng sấm, tiếng sét, nện vào đầu chị từ mọi hướng. Tai của chị điếc, mắt của chị lòa, cổ họng của chị siết lại, và cơn đau tim trào lên từng hồi trong lồng ngực . 4. Buổi tối về lán, Đức nằm trăn trở tự hỏi, mình có phải là một thằng sát nhân chuyên nghiệp hay không? Không. Đức chỉ là một chiến sĩ gương mẫu của quân đội nhân dân mà. Chưa tròn một tuổi lính nó đã đóng lon hạ sĩ tiểu đội trưởng, được kết nạp vào Đoàn, vào cảm tình Đảng. Tháng tới trên hứa là nó sẽ được gửi đi học trường sĩ quan Hòa Cầm, Đà Nẵng. Sẽ được lên Thiếu Úy. Nó đi làm nghĩa vụ giải phóng dân tộc anh em thoát khỏi chế độ diệt chủng, bọn cuồng tín Pôn Pốt Iên Sari, bọn sát nhân. Có yêu thương thì phải có căm thù. Có cứu thì phải có giết.
Có xây dựng thì phải có đập phá trước. Người ta dạy như thế. Nó có lỗi gì trong cuộc chiến tranh nầỷ Còn những thằng đồng đội, có bao giờ suy nghĩ nhiều như nó không nhi?? Cuộc chiến đã làm bọn nó già đi rất nhiềụ Tuy vậy rất ít thằng sâu sắc như thằng Thái. Phần nhiều, chỉ đâu đánh đó, không thắc mắc. Thằng Chiến là một trường hợp ngoại lê.. Đức còn nhớ đứa con gái Miên giữ ổ thượng liên, bị lựu đạn nát cả đùi. Giương súng. Khoảng cách chỉ hơn ba thước. Nhắm ngay thắt lưng. Bóp cò. Khoảng cách chỉ hơn ba thước. Đức bắn trật. Tê.. Tệ hơn cả thằng Thái hồi ở quân trường nữa. Đức biết mình bắn trật vì nó còn nghe tiếng rên của con bé đến cả tuần saụ Cũng tại ánh mắt của nó. Tại ánh mắt của nó. Phải chi, nó quên gài chốt liên thanh như thằng Thái hồi còn ở quân trường, lia cho con nhỏ một băng, làm phước, thì có hơn hay không? Cũng may, thằng Chiến trong đội trinh sát, đến kịp thời, với lối bắn tàn độc của nó. Bóp cò xong, Chiến kéo Đức đến khám xác con bé. Cằm của nó trúng đạn văng mất tiêụ Chiến vạch ngực con nhỏ, da ngực trắng ngần, còn lên xuống thoi thóp. Khá trắng cho một cô gái Miên, có lẽ tại mất máu, và, đầu vú của nó, chưa nhú, lung laỵ Cái xác đứa con gái cố vin vào sự sống như con gián cồ bị đạp nát đầu, ruột be bét, chân cẳng gãy cong queo, vẫn còn mò mẫn lê lết trên sàn, bò về phía bên nầy, lằn ranh của sự sống. Mặc cho Đức nôn ọe, thằng Chiến quay lưng:
Back to top
« Last Edit: 03. Nov 2006 , 12:57 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
NHỮNG XÁC CHẾT KHÔNG ĐẦU TIẾP THEO
Reply #47 - 03. Nov 2006 , 00:16
 
Thêm một cái đầu!. Một hôm, Chiến kể: -Tụi bây biết hông, tao dí súng "dô" miệng nó. Nó la bai bãi. Nó nói tía gì Đ.M. nó, tao đâu biết. Nó lạy tao tha cho nó. Tụi bây biết hông?
- Mày tha cho nó?
- Không. Tao "bắng" nó "chớt". Tao "bắng dô" mặt nó. Tao nghĩ đến mấy thằng mình bị tụi nó cáp duồn, mổ bụng, treo lên cây. Tao bóp cò. Máu nó phọt trong bàn tay taọ Tao thấy "xướng" trong "guột". Chiến cười sặc sụa như thằng điên. Đầu nó cao hơn mũi súng tí xíu. Vành nón tai bèo phủ xuống mặt, rung rinh, chỉ thấy hàm răng trắng ỡn, với vành môi thâm, nước da đen dòn. Có lẽ đen hơn thằng Miên mà Chiến đã cho ăn ke.o. Chuyện kể, Chiến đi tìm một đồng đội lính trinh sát đã mất tích hơn mấy ngày. Ở đây, mất tích thường được xem là chết. Thứ lính trinh sát dễ chết yểu lắm. Đức đã từng thấy một thằng trinh sát đạp mìn, xác vỡ ra bay tung tóe như pháo tết. Lần nầy thằng bạn của Chiến cũng không toàn thây, ở một góc rừng hẻo lánh, cây vạc nhọn xiên vào đít, ruột đổ lòng thòng trồi ra khỏi thành bụng khoét toang hoác bằng lưỡi lê, đầu lâu còn đội nón cối lăn lóc trên xác lá. Dưới gốc cây đa, hai thằng Miên chụm củi nướng trui lá gan còn tươi rói. Chiến nổ súng bắn chết một thằng, thằng còn lại bị què giò, van lạy Chiến. Kể ra thằng Chiến còn nhân đạo, không hành hạ kẻ thù.
Cũng lạ, đáng lý ra Chiến phải hiền lắm hiền hơn bây giờ mới phảị Nó người Tây Ninh, nhà gần rừng cao su Trà Võ. Hồi trung đoàn còn đóng ở Tây Ninh trước Giáng Sinh 78, Đức biết người dân ở đó. Hiền hòa, mẫu mực như những địa danh mà họ đặt cho những làng xã địa phương: Thiện Ngôn, Khiêm Hạnh, Hiếu Thiện...Hầu hết người Tây Ninh theo đạo, ăn chay trường, không dám giết một con kiến chớ nói gì đến sinh mạng con ngườị Đức nghe kể, giặc tràn qua biên giới đốt nhà chặt đầu cha mẹ và mổ ruột em gái nó. Nó đi tìm đầu của cha mẹ nó để chôn cất, tìm hoài mà không được, đành chôn những xái xác không đầu. Từ đó, nó nổi điên. Vào bộ đội, nó có lối bắn súng kỳ lạ, hơi tàn bạo, chỉ bắn vào đầu kẻ đi.ch. Khi nào bắn trúng, nó thường hay lẩm bẩm:
- " Thêm một cái đầu!" Kể từ hôm bắn hụt, đã nhiều lần Đức quay ngược nòng súng, mở to mắt nhìn xuống đường xoáy trôn ốc, chỉ để nghe tiếng đứa con gái rên rỉ réo gọi từ phía bên kia cò súng. Có lẽ như Đức, thằng Chiến đã thấy cái gì đó vẫy gọi nó từ phía bên kia cò súng, khi nó tự bóp cò vào miệng hôm tháng rồi. Và, như mọi khi, nó để lại mảnh giấy móc trên nòng súng:
- " Thêm một cái đầu!". Cái đầu, cuối cùng, của Chiến. Bộ sưu tập đã hoàn tất. Một dòng chữ nhỏ trong những trang sử đẫm máu. Những cuốn sử với những cái bìa được sơn son thếp vàng để che đậy đi cái màu máu của những chém giết dã man, đã nhuộm đẫm từ trang sử nầy đến trang sử kia. Giọt máu oan cừu của con rắn Thị Lộ không chỉ làm cho ba họ nhà Nguyễn Trãi mất đầu, mà cả ba trăm họ về sau nữa . Máu của thế hệ nầy qua thế hệ khác, tiếp tục. Máu và thây người đổ càng nhiều thì chiến thắng càng vinh quang. Cứ chém giết thêm nữa đi để được suy tôn thần thánh. Vâng, nó, chính nó đang trở thành kẻ sát nhân chuyên nghiệp. Chữ "nhân" trong "nhân loại" đã bị sát hại . Bởi chính nó.
Thằng Thái có cái lý của nó. Thằng Đức, và lũ bạn của nó cũng đang làm lịch sử. Những trang sử bỏ quên. Đức thiếp đi trong tiếng gió lùa qua mái lá như tiếng rú của những oan hồn uổng tử từ muôn ngàn kiếp trước trở về réo go.i. Nó nằm mơ thấy mình đi qua một con suối nổi lềnh bềnh những đầu lâu. Nó dẫm lên một cái đầu lâu, lúc nhìn xuống, nó nhìn thấy cái đầu của chính mình đang nhìn mình trân trân. Khiếp sợ, Đức hét lên khi thằng Thái vạch mùng chui vào. Hai thằng ôm nhau ngũ khò, không như mọi lần khác, dưới chiến hào, ôm nhau, mà sợ chết. 5. Hôm ấy dù trời kéo mây đen kịt, khi nghe chiếc xe vận tải của thằng Bình rền rĩ đầu rừng anh em chạy ào ra đón nó như một anh hùng, như con chờ mẹ mang quà về từ chơ.. Thằng Bình xứng đáng là "bà nội" nuôi của anh em. Cứ độ một tháng, Bình lại lái xe từ dưới thành đem lương thực, thư từ lên tiếp tế cho anh em, chả mừng sao được. Ở đây miền rừng núi, xa biển, gần nhất là Biển Hồ Tông Lê Sáp mà cũng là xa, anh em thèm nhất là...nước mắm. Ôi cái mùi nước mắm ngọt ngào, làm anh em nhỏ dãi mỗi khi nghe tiếng còi xe của Bình từ đàng xa vọng la.i. Hết nước mắm bọn lính phải rang gạo khô cho cháy đen, đem trộn với nước muối dùng thế...nước mắm. Có lúc, muối cũng không. Hôm ấy giao hàng xong, Bình vào bếp xin lửa hút thuốc, gặp Thái và Đức. Thằng Thái làm anh nuôi cho trung đội từ hôm mới đến làng Pursat. Hôm đó, khi đoàn xe vừa dừng lại, một số người Miên cởi xe đạp, liệng vào trong quân xa những quả bom xăng tự chế, rồi bỏ cha.y. Trong lúc đồng đội đang tán loạn, xô đẩy nhau, Thái nhảy khỏi lòng xe với khẩu CKC. Nó ưa xài CKC vì tay đòn súng dài và nặng hơn AK, bắn ít giật. Thái quỳ xuống ngay giữa lòng con đường hẻm, nâng súng, nhắm, và bóp cò hai phát một.
Lối bắn của những tay xạ thủ chuyên nghiệp, luôn luôn bắn hai phát một để cầm chắc việc hạ thủ kẻ địch, trong hai viên thế nào cũng dính một. Từ đằng xa, khá xa, non hai trăm thước, người ta có thể nhìn thấy một người cởi xe lảo đảo. Chiếc xe chao qua, chao lại, ngoằn ngoèo, rồi ngã rạp xuống mặt đường. Độ rầy, thằng Thái bắn súng khá giỏi, chả bù với lúc ở quân trường. Hồi đó cả đại đội dành rất nhiều thì giờ cho việc tập nhắm. Sáng tinh sương. Trưa nắng chang chang. Thước ngắm ba, cự ly một trăm mét, thời gian không hạn chế, đầu ruồi ngay thắt lưng, đạn sẽ vào tim kẻ địch, cứ thế mà ngắm, còn đạn thì không. Nhắm đến tối, đến chiềụ Nhắm cho đến khi mờ mắt mới thôị Nhắm cho đến khi hàng chữ : "Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu" sơn ở trên vách tường, ở cuối bãi bắn, trở thành nhòe nhoẹt, mới thôi. Mải, cho đến ngày thi, được phát ba viên đạn thật, thằng nào thằng ấy mừng và sợ đến run. Run nhất lại chính là thằng...Thái. Sau khi nạp đạn, cu cậu quên không bật chốt liên thanh qua phát một, lúc bóp cò, đạn nổ rền bên tai, súng giật ngược lên trời, ba viên đi tìm chim không đầy một giây tích tắc. Một viên có lẽ bay vô hàng chữ " một viên đạn là một quân thù " ở phía tường bên trái. Tội nghiệp, lúc huấn luyện viên đến chỗ Thái, hắn sợ đến...bắn nước đái ra cả bãi nằm! Coi vậy nhưng Thái rất lì.
Khi được phát ba viên đạn khác, hắn nằm lì cả giờ mới bắn xong ba viên. Thời gian không hạn chế cơ mà. Cả ba đều trúng hồng tâm! Sau nầy ra đơn vị, cả trung đội không thiếu chất thịt cũng nhờ tài săn bắn của Thái. Trong khi đồng đội hoan nghênh tài thiện xạ của nó, Thái băn khoăn, bẻ ngón tay rộp rộp cả buổi chiều, thở ngắn thở dài cả đêm. Không phải vì lời khiển trách nhẹ của trên về hành động "anh hùng cá nhân", làm mất lòng nhân dân địa phương, vì một lý do khác. Người bị bắn chỉ là một đứa bé con, mười ba mười bốn tuổi gì đó. Máu thằng bé chưa đỏ, hãy còn trong vắt, trong như hổ phách, đổ lênh láng, thấm ướt cả vành bánh xe đạp méo mó, chơi vơi trên mặt đường. Tuần sau, sự ray rứt của Thái càng tăng dần khi đơn vị đi qua trường trung học Tuol Seng nơi mà hằng vạn người dân Khmer bị xử tử tập thể vô tội vạ trong những năm đầu dưới chế độ Pôn Pot. Đến Battambang, nhân chuyện người anh nuôi cũ được giải ngũ, Thái xin làm anh nuôi mới cho toàn trung đô.i. Nó không muốn cầm súng nữa. Nếu có, từ nay chỉ bắn khỉ chứ không bắn người. Khi Bình bước vào bếp, Đức đang phụ Thái quét sạch soong chảo. Những cái chảo thật to mà tuyền là bo bo và khoai mì, ăn không đủ no. Đức nhớ chuyện người lính nhảy dù ở gần nhà kể chuyện ăn cơm quân trường. Anh kể cơm ở quân trường khổ lắm chỉ có gạo và cá khô, người ta phải trộn vitamin B1 để tránh phù thũng. Vậy mà lính nhảy dù, thằng nào thằng đó cũng đô con. Nghĩ lại bây giờ Đức không biết nó có đô con nỗi không khi mà cơm chẳng có, cá khô cũng chẳng còn, đừng nói chi đến vitamin B1. Về sau từng đứa trong trung đội trông chờ cấp dưỡng "mì gói ăn liều" như những bữa ăn thịnh soạn. Thái rút cây củi đang cháy trong bếp đưa cho Bình. Đức buông chổi nhìn người tài xế đón lấy ngọn lửa, lẳng lặng ra ngồi ở hàng hiên mồi thuốc. Hắn ngồi xổm trên nền đất, lặng lẽ kéo liên tu đôi ba điếu thuốc, cho đến khi trời chuyển mưa, Đức phải giục:
- Này, vào đây kẻo mưa ướt bác tài ơi . Gọi người tài xế trẻ bằng "bác tài", Đức thấy tức cười . Bình như hiểu ý, đáp lại, giọng Nam Kỳ đặc sệt:
- Không sao cháu, bác dô liền hà. Nó nhảy trở lại vào trong bếp, tay phủi bụi mưa trên ngực áọ Phủi thật mạnh, gần rớt cái ngôi sao vàng trên cổ áo bạc màu.
- Này, trước ở đâu ?
- Sài Gòn chớ đâu!
- Trường nào ?
- Vạn Hạnh, còn tụi bây ?
- Tổng Hợp. Đức đáp lại, quay qua Thái sẵn đà giới thiệu:
- Thằng nầy, Thái, LaSan Taberd. Cũng tội cho nhau, toàn là dân tốt nghiệp trung học hoặc đang dang dở đại học mà giờ đây toàn là binh nhì với binh nhất. Thời trước, không Đà Lạt thì cũng Thủ Đức. Gặp nhau đây không có gì mời, Đức trèo lên thành bếp, rút gói thuốc Lào Hồng Ma giấu sau tấm phên chắn gió. Gặp bạn mới, thằng Thái phá giới. Ba thằng ngồi chuyền tay nhau điếu cầy khi trời mưa nặng hạt trên mái lá.
- Mùa mưa đã đến. Điệu nầy tụi Miên sẽ quậy dữ. Bộ đội mình sẽ chết nhiều hơn nữa. Chết rỉ rã cho tới khi mình phản công vào mùa khô mới thôi. Mùa mưa thì lính chết rỉ rã, rỉ rã theo từng cơn mưa, lúc nhiều, lúc ít tùy theo nhịp độ của thời tiết và những trận tấn công của địch, quân ta co cụm cố thủ. Mùa khô, ta pháo dập, pháo qua bên kia biên giới, pháo vào những vị trí cố thủ của địch, có khi lẫn lộn cả với thường dân tị nạn nằm trong vòng kiểm soát của bọn Miên Đỏ. Biết làm sao. Tính nhẩm từ hồi vượt biên giới Miên Việt hồi Giáng Sinh tới bây giờ con số lính chết cũng mươi vạn.
- Khô hay nắng, lính chết cứ chết. Bình ném tầm nhìn vào đám khói bên kia bìa rừng, lo ngại tiên đoán. Thực sự ra không phải là lời tiên đoán, mà là kinh nghiệm của bản thân. Nhờ biết lái xe số, nó được xung vào đội xe tải. Khi chở lương thực, lúc vũ khí tiếp liệu, lính bị thương, lính sống, và cả lính chết. Có khi mọi thứ cùng một lúc. Mùa mưa xe tải ì ạch nặng thêm vì xác lính. 6. Hai thằng mò mẫn trong cái khoảnh rừng ấy đã hơn hai ngày rồi. Lúc cùng đơn vị truy kích địch, quãng đường rừng không đài và âm u như bây giờ. Ngày leo lên cây, vô bụi để tìm chỗ ngủ đợi đêm xuống mới lò dò đi. Trời sao chẳng thương người lành, mấy hôm nay ổng đổ mưa um sùm. Buổi tối, mây đem vần vũ, thấy đường thấy sá đâu mà đi. Đi hai bữa lại "quay về chốn cũ". Giờ nầy, trong cái góc rừng quạnh quẽ nầy, hai thằng vừa đói vừa la.nh. Thằng đi trước, hục hặc quơ cái mã tấu, phạt những bụi gai góc chằng chịt, mở đường, vô vo.ng. Hướng xa không biết thì đường gần có nghĩa gì đâụ Nó thọc mũi dao vào một bụi cây, cằn nhằn:
- Vây mà mày cứ khoe là đã từng đi Hướng Đạo, có bằng rừng bằng rú. Mày nói mày có thể mò rêu ở gốc cây để tìm hướng, bên khô là hướng mặt trời mọc, bên ướt là phía mặt trời lặn. Tao không hiểu mày giỏi mò cái gì...
- Mưa quá mạng bên nào cũng ướt nhẹp như nhau làm sao biết cho được. Mà ai chặt tre lồ ô, tránh thuốc độc, cho mày uống nước để mày lên giọng chửi tao. Thằng đi đàng sau quay đầu dáo dác nhìn quanh. Thình lình nó chuyển khẩu súng từ tay mặt sang tay trái, tự tát vào mặt mình cái bốp:
- Đ.M. muỗi với kiến. Muỗi với kiến, con nào cũng to như nhau, to như con ong bầu lận. Lũ muỗi chờ mưa rừng hơi ngớt khi trời chạng vạng tối, ùa ra o e như ong vỡ tổ. Còn kiến, lũ kiến vàng, kiến đen, người ta kể có thể tha cả xác bộ đội xềnh xệch trên lớp lá mục. Thằng cầm súng sốt ruột lên đạn như thể nó có thể bắn tan xác đám muỗi rừng dã man ấy.
- Biết vậy tao ở lại trong lán có sướng hơn không?
- Ai biểu mày đi theo tao làm chi.
- Tao đã bảo làm sao được, không phải thời trước "cáp duồn" nữa đâu...Mày không thấy mấy thằng tháng trước hay saỏ Cằn nhằn. Thời trước "cáp duồn", trước trận giải phóng Nam Vang hồi tháng giêng 79, trung đoàn còn ở Gò Dầu Hạ, Tây Ninh, trong khi các trại lính của sư đoàn 25 bộ binh quân đội Cộng Hòa được dùng làm trại cải tạo, bộ đội lại đóng quân lây lất ở ngoài Trãng, nhiều thằng bỏ trốn khá dễ dàng. Có thằng không dám men theo đường quốc lộ 15 mà cứ len lỏi trong rừng bốn năm ngày, đi đã, lạc đường, mò trở lại đơn vi.. Mấy trự đào ngũ hụt chỉ bị khiển trách bằng phê và tự phê vài ngày, rồi thôi. Đối với bọn bộ đội " bất đắc dĩ ", thằng nào chuồn được là mừng cho thằng đó. Năm đó, có một thằng giả đò đau bao tử, không chịu ăn uống gì cả. Cả bọn "ngụy" miền Nam, ai cũng biết chuyện nầy nhưng giấu nhẹm. Chính cả bọn để dành cơm cho thằng ấy ăn ban đêm. Ban ngày nó cứ tuồng cũ, ôm bụng la lối om sòm. Nhức đầu, bọn y sĩ tiểu đoàn họp lại, ký giấy cho anh chàng giải ngũ.
Ở đây, đơn vị chỉ cách biên giới Thái Lan hơn hai ngày đường bô.. Thêm một ngày về hướng Tây Bắc là sẽ đến trại tị nạn Khao-IĐang. Hôm tháng trước truy kích địch có lần bộ đội vượt biên giới Thái, đánh vào Poipet, chạm súng với lính Thái Lan, lại được lịnh rút lui. Sau trận đó nhiều thằng tự dưng mất tích. Tìm lại họ không khó. Họ chỉ là những cái xác chương sình bị xiên bởi những cành cây vạc nhọn cắm dọc đường rừng. Ruột đổ lòng thòng, ròi bọ lúc nhúc. Có xác còn đầu, có cái không. Có thằng còn giữ được cái đầu lặt lìa, cổ họng bị rạch đến mang tai. Có điều quạ, kiến chia phần rỉa mất mắt mũi taị Những hố mắt sâu hoắm đóng rêu. Bọn Miên Đỏ không dám tấn công các đại đơn vị, để khủng hoảng tinh thần địch, chúng đặt mìn, đặt bẫy, phục kích bắn hạ những thằng bộ đội đi lẻ, như thú săn mồi. Đức còn nghe đồn, số bộ đội còn lại chạy qua bên kia biên giới cũng bị tụi Thái bắt giữ, đối xử tàn mạt như những tù tội phạm chiến tranh. Từ đó chuyện đào ngũ không ai muốn bàn đến, chính thức hay không chính thức. Tuyệt.
- Mày có chắc thằng Bình nói cái gì không?
- Nó hứa... chỗ nầy mà. Đứa cầm dao im lă.ng. Nó khụt khịt đánh mùi, mùi thum thủm của lá mục, mùi xác chết vữa nát. Nó ngước nhìn những đám dây mây, dây gai leo chằng chịt. Những dây choại, dây bòng bong trườn mình trên những cành cây to nhỏ, qua lạị Những thân cây to chỗ sần sùi, chỗ đóng rêu nhờn nhợn như những con trăn khổng lồ, không trơn lán như đám cây Ngô Đồng vỏ cây trơn láng vì nón sắt cào sạch gai nhọn ở vườn Tao Ngô..
- Kiếm chỗ ngủ qua đêm cái đã. Giấc ngủ đến chập chờn trên chạc ba, khi tiếng hô xung phong và trái sáng tỏa khắp góc rừng đã đánh thức hai thằng dậy:
- Phe mình đụng tụi nó. Tiếng súng giao tranh càng gần hơn. Tiếng chân người đuổi nhau lịch bi.ch. Thằng cầm súng, như một phản xạ có điều kiện, quơ súng, bóp cò. Một tiếng cắc bụp nhỏ đáp trả.
- B40! Hai thằng la hoảng cùng một lượt, nhảy xuống đất như hai quả mít ru.ng. Những quả cầu lửa xoáy tròn đốt cháy những lỗ thủng lớn lỗ chỗ trong màn đêm dày đặc. Tiếng đạn liên thanh như hòa tấu vào điêu luân vũ của lửa B-40. Điệu nầy thì chết cháy vì B40. Nhớ đến dãy mả tân binh chết vì B-40 ở quân trường hồi năm ngoái. Số là trong khi giảng dạy về cách sử dụng B-40, người huấn luyện viên vô ý bóp cò. Đầu đạn nổ giết chết đám tân binh ngồi đàng trước và giết luôn anh ta do sức nóng dội lại từ bức tường phía đằng sau. Nghe nói, đơn vị trước có đám bày trò cầu cơ, hỏi hồn khi chết có nóng không, hồn nói rằng có. Rõ khỉ, chết vì B-40 mà không nóng sao được. Có điều hồn không chịu nói mình là ai, huấn luyện viện hay tân binh. Một quả cầu lửa bất thần quất mạnh vào thân cây gần đó không quá năm thước. Nổ bùng. Tiếng chân người rầm rập đến càng gần. Tiếng động cơ xe tảị Từ phía bên kia con đường mòn trơn ướt, chiếc xe Din tuôn chạy như không có thắng. Thùng xe, lửa đốt cháy gần hết tấm bạt, còn nghi ngút. Người lính chồm dậy, lôi kéo đồng đội: -Chạy mày, chạỵ Xe tới rồị -... Thằng còn lại không trả lờị Im lỉm. Lôi không được. Kéo không được.
- Lên. Leo lên lẹ lên. "Bác tài", tung cánh cửa xe thò đầu kêu réo. Một tràn đạn khoan dập vào hông xe.
- Chờ chút cho tao kéo nó lên.
- Nó chết rồi . Lên lẹ đi . Chết theo nó bây giờ.
- Nó chưa chết.
- Tao bảo mày bỏ. Mấy cái xác đằng sau tao còn muốn liệng cho nhẹ, ở đó... Lôị Kéọ Xe gầm gừ. Đạn B-40 ào ạt. Không được. Người lính một tay đu đưa cánh cửa xe, tay kia níu kéo đồng độị Xe tăng tốc đô.. Cái xe kéo theo cái xác người lính xềnh xệnh trên đường bùn lầy lộị Cái xác lôi theo khẩu súng AK, quai đeo móc ngang lưng. Cứ thế mà kéo nhau đi dưới làn mưa rơi năng hạt hòa lẫn với tiếng đạn rào rào. Bàn tay buông lỏng dần, lỏng dần. Cái xác lăn xuống sườn đồị Chiếc xe đỗ dốc. Bỏ sau lưng trận chiến đang tiếp diễn... Về quê hương, hòa bình đã trở lại, nhưng chân của chị không bao giờ mọc trở lạị Khi nào thì bàn chân của chị sẽ mọc trở lạỉ Tại sao ? Chị chờ đợi một kết quả không bao giờ tới, nhưng vẫn chờ. Chị phải sống qua ngày, chị van. chị xin, chị khóc, khóc thầm, khóc khô cạn nước mắt. Đất nước nghèo, ai cũng nghèo, ai cũng đổ ra đường ăn mày, thương binh chế độ cũ, thương binh chế độ mới, dân nghèo thôn quê, dân nghèo thành thị, ăn mày như nhau. Ăn mày từ trên xuống dưới.
Nhưng ăn mày có nhiều hạng, có nhiều thứ cấp. Thứ ăn mày tàn tật của chị là thứ ăn mày mạt ha.ng. Cũng may, chị chưa đi làm đĩ. "Trường của em be bé, nằm ở dưới rặng tre. Cô giáo em tre trẻ dậy em hát rất hay..". Con chị hát thánh thót theo tiếng đàn. Giống như chị, nó có những giấc mơ, giữa ban ngày lẫn ban đêm, mơ ước được "đến trường, mẹ dắt tay từng bước". Nhưng không giống như chị, nó chưa bao giờ được đến trường cả. Chị thấy bất công cho nó, sanh nó ra làm chi cho nó khổ. Hồi gặp anh, chị nhất quyết là không có con. Nhưng thương anh, trót lỡ, biết làm sao. Được cái là anh hiền. Lúc sanh con ra ở vỉa hè, anh mừng lắm. Chị nhìn con, má bầu bĩnh, mắt trong sáng, chân cẳng lành lặn, chi mừng, chị khóc. Chị khóc nhìn anh ôn con nâng niụ Anh chưa bao giờ được nhìn mặt con được rõ ràng. Anh bị lòa từ những năm đi bộ đội ở chiến trường Kam Pu Chiạ Cả một đời tuổi xuân anh chị đã hy sinh cho Đảng, cho đất nước kể cũng còn may. Cha mù, mẹ cụt, con hát dạo theo tiếng đàn gió của cha, kiếm sống qua ngày. Tiếng hát chấm dứt. Những đồng tiền được ném vào chiếc gà mên lẻng kẻng.
- Này có chơi được nhạc hải ngoại không? Có người hỏi từ trong đám đông.
- Được chứ. Con bé liến thoắng thay cha
- Phải không bố. Bố hát bài "mười năm tình cũ" đi bố. Cho nhiều tiền vào bà con ơi... Con bé vẫn liên tu. Cha lòa, mẹ cụt, nhưng dường như cả hai lúc nầy đều câm cả, chỉ có con bé xinh đẹp trời cho bù trừ cho cha mẹ chúng. Bố con bé không câm. Tay ông lướt thuần thục trên phím đàn. Những phím đàn chen lẫn với những lỗ đạn, phải vá lại bằng nhựa đường. Tuy thế bàn tay ông vẫn phân biệt được đâu là phím, và đâu là chỗ vá. Ông cất tiếng hát:
- "Mười năm không gặp..." Và ông hát rất hay, cho đến khi có tiếng xe Dream thắng gấp ở vệ đường. Đám đông giãn ra, nhường chỗ cho người công an phường vừa đến. Hắn hãy còn trẻ, mặt búng ra sữa, có lẽ sanh ra sau giải phóng.
- Đã bảo các người không được hát nhạc phản động, mà cứ hát... Hắn hùng hằn, hắn hung hăn. Đôi ria cá trê lên xuống méo mó như lý trưởng bắt xâu trong những vở kịch cộng đồng. Hắn bắt xâu thật, hắn chộp lấy lon gà mên đầy tiếng kên. Như một con sóc, con bé nhảy chộp lên níu lấy tay áo của hắn. Lon tiền rơi xuống đất, tiền rơi loảng xoảng. Tên lý trưởng nổi khùng, vung tay tát vào mặt con bé.
- Tôi lậy cậu... Mẹ nó, như một phản xạ, van nàị Bố nó lại trở thành một người câm. Như một phát hiện bất ngờ con nhỏ lại vùng lên từ mặt đường, chạy xộc vào đám đông, cầu cứu:
- Bác Việt kiều ơi, cứu gia đình cháu, bác Việt Kiều ơi. Con nhỏ níu áo người đàn ông lạ mặt. Cũng lạ, con bé khá tinh đời, nó có thể nhận diện người Việt kiều rất dễ dàng, cho dù trong đám đông. Người khách bước vào vòng ngỡ ngàng đôi chút. Ông nắm lấy tình thế khá mau. Rút tay ra khỏi túi quần, ông bắt tay người công an, nói nhỏ:
- Cảm phiền anh, thông cảm chọ Bài hát khá phổ thông cho người Việt hải ngoa.i. Nhám nhám trong lòng bàn tay, người Công An xuống giọng:
- Chính sách nhà nước là ưu đãi Việt kiều, nếu không... Đút tay vào túi quần, như một ảo thuật gia sợ khán giả biết tẩy của mình, người công an vội quay lưng. Màu xanh biến mất vào màu vàng của túi quần, và chiếc quần vàng cũng theo người biến dạng sau bụi khói xe gắn máy trắng đục tan dần vào khoảng trời xanh biếc cùng nắng vàng tươi. Còn lại với đám đông, người Việt kiều ngồi xuống đất, ông ôm con bé vào lòng. Con bé rờ má ông, nhòa lê.. Ông kề miệng vào tai cha con bé, nói nhỏ, chỉ đủ cho bốn người nghe mà thôi:
- Gần hai mươi năm không gặp. Hát nữa đi, hát đi...Đức ơi. Ông Đức buông đàn, ngơ ngác định hướng. Tay run run ông quờ quạng, cố tìm cho được người khách với tiếng nói quen thuộc:
- Cái đầu của mày đâu rồi, Thái hả? Bàn tay ông nắm chặt lấy chuỗi bùa Kà Tha trên cổ bạn. Chuỗi bùa đong đưa trong nắng. Chung quanh họ, những bóng người không đầu, lố nhố.
Hết
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #48 - 03. Nov 2006 , 21:31
 



Trọng Đạt

Bài báo khiến tôi nhớ lại trước đây khá lâu, tôi hay suy nghĩ về những người homeless, về những con chim không tổ, những người đã đánh mất mái ấm gia đình, lang thang theo kiếp sống đầu đường xó chợ, những kẻ cùng đường đã từ bỏ cuộc sống định cư để chuyển sang đời du mục.
. . . Tôi nhớ hồi đầu năm 1981 tại Sài Gòn, khi được thả về từ trại giam, y như trên cung trăng rơi xuống, cái gì cũng thấy khác lạ. Điều làm tôi ngạc nhiên là Sài Gòn bây giờ sao quá nhiều người ở lề đường: tha ma nghĩa địa, gầm cầu, vỉa hè, công viên . . chỗ nào cũng có. Có điều là, trước năm 1975 tôi không hề thấy bóng một người vô gia cư nào ở Thủ đô hoa lệ này. Có hôm tôi thấy một gia đình ba bốn người, vợ chồng con cái quây quần bên nồi cơm nóng trên manh chiếu tại một vỉa hè đường Võ Tánh, có lần thấy một bà mẹ đang nấu cơm bên chiếc ghế đá công viên, để đứa con độ một tuổi năm tênh hênh trên chiếu . .
Tôi được biết họ đa số là những người đi kinh tế mới trốn về, chẳng thà sống ở tha ma, gầm cầu còn hơn tại những nơi sơn lam, chướng khí, tôi cũng nghe nói trong số ấy nhiều người trước kia là dân sang, có nhà mặt đường, đi vượt biên bị lấy nhà nay phải kéo lê cái thân tàn ma dại trong cảnh màn trời chiếu đất. Hồi mới vào trại cải tạo được một năm, chúng tôi đọc báo thấy nhân dân nô nức lên xe đò đi xây dựng vùng kinh tế mới. Nhà nước thi hành chính sách dãn dân, hồi ấy nhiều người sợ quá bán tống táng đồ đạc, nhà cửa để hưởng ứng chính sách rồi đi cho nhanh. Họ được đưa lên những vùng đồi núi, đất đai khô cằn như sỏi đá. cầy cuốc bao năm cũng chỉ được vài bao khoai sắn, họ ăn vào vốn dần dần cho đến khi kiệt quệ, bèn đánh liều trốn về thành phố, kẻ chiến bại phải chấp nhận cái thân phận của mình, họ đã bị đẩy xuống tận cùng đáy xã hội, tự cổ chí kim bao giờ cũng thế, kẻ chiến thắng lấy đi tất cả: nhà lầu, biệt thự, xe ngựa xênh sang. . .
Tôi nhìn đám vô gia cư này bằng chút ái ngại nhưng không thấy xúc động xót thương gì nhiều cho lắm vì tôi phải thương cho chính cái thân tôi như trăm nghìn người khác, cuộc đời tôi cũng chỉ là một vở kịch bi đát não nùng.
Anh hùng mạt lộ, giang san tiêu điều. . Ở tù về, ông thì chẳng ra ông, thằng cũng chẳng ra thằng, đi làm không ai mướn, trong đầu lúc nào cũng vấn vương cái mối lo ghê gớm "không biết nó sẽ bắt lại lúc nào", và nhất là hình ảnh của những hàng rào kẽm gai đêm đêm lại hiện lên trong trí y như cơn ác mộng. . . . cái giá mà kẻ bại trận phải trả.
Họ ở lề đường, màn trời chiếu đất nhưng lại không phải đeo cái mối lo ghê gớm như tôi, tôi có cảm tưởng như xã hội lúc bấy giờ hoàn toàn không còn có tình thương, con người chỉ thương cho chính cái bản thân của mình, họ lo sợ, chán chường, đâu đâu cũng chỉ nghe thấy toàn là những tiếng thở dài, không ai làm gì hơn được.
Khoảng hơn một năm sau, vì số người vượt biên chết chìm ngoài biển đầy cả ra, Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức nhân đạo khác đã thực hiện được chương trình ra đi trong trật tự. Tôi vội vã nạp đơn ngay, nhưng diện anh em ưu tiên thấp lắm, nó chỉ cho mình một chút hy vọng mong manh, nhưng có cũng còn hơn không. Tôi theo dõi hồ sơ hết, tháng này sang tháng khác, năm nọ đến năm kia, chừng mấy năm sau tôi làm đơn khiếu nại được biết hồ sơ hồ sơ đã nằm ở phố Hàng Bài Hà Nội. Thế rồi một buổi chiều. . thật y như một phép lạ, khi sắp bước sang thập niên 90, tôi nhận được giấy của Sở Ngoại Vụ mời đi sơ vấn, phỏng vấn, khi ấy mới biết là hai bên đã thỏa thuận thực hiện chương trình ra đi chính thức dành cho người cải tạo, những người có thân nhân bảo lãnh được ưu tiên đi trước. Thế là tôi được đi ngay trong đợt đầu, toàn bộ danh sách kỳ này vào khoảng trên 3000 người.
Hầu hết những người có tên trong danh sách này có thân nhân bảo lãnh, họ đã nộp đơn xin đoàn tụ trước đây, chỉ có một số rất ít không có thân nhân tại Mỹ. Khi chuẩn bị ra đi, một ông cải tạo không có thân nhân đến nhà chơi bảo tôi:
-Tôi chắc là được cấp nhà, vì tôi không có thân nhân, tôi biết ở đâu? Anh có thân nhân, anh ở nhà người thân.
Ông ấy lý luận dài dòng văn tự, tôi lấy làm lạ hồi xưa ông ấy đã là sĩ quan cao cấp mà sao có thể dễ tin như thế.
Những tin đồn về việc cấp nhà đã loan truyền từ lâu, nhiều người lạc quan tin tưởng nhưng cũng có nhiều người đả phá kịch liệt những tin vịt cồ, có người nói:
-Mấy ông này được voi đòi tiên, đã không mất đồng xu nào, được đi cả gia đình, ngồi máy bay đánh vù một cái ngon lành, người ta đi vượt biên mất bao nhiêu tiền, chết chìm chết bắn cả đám mà còn chưa tới nơi được. Được đi máy bay sướng như tiên mà còn đòi cấp nhà nữa! ối giời đất ơi!
Khi sang Bangkok Thái Lan, trong những ngày tạm cư chờ vào Mỹ, sở USCC và sở di trú đã cho các cô nhân viên người Việt hướng dẫn chúng tôi những điều cần biết khi vào Mỹ, có một ông cải tạo hỏi về việc cấp nhà, ông nghe nói diện cải tạo được cấp nhà, cô nhân viên đáp:
-Thưa Bác, chắc là không có đâu, vì cái nhà nó to tát lắm. Vợ chồng cháu qua Mỹ đã lâu vẫn chưa mua được nhà! chắc không có đâu bác ạ!
Tôi vào Mỹ đúng vào ngày mùng bốn Tết nguyên đám, đầu thập niên 90. Hôm sau tôi hỏi người nhà:
-Nghe mấy ông cải tạo ở VN cứ đồn sang đây có một số được cấp nhà. .
Tôi chưa nói dứt câu thì thân nhân tôi gạt đi ngay.
-Ối giời ơi! Mỹ mà còn ở lề đường đầy cả ra, bữa nào đưa ông lên Dallas xem, trắng có, đen có. . nhà ở đâu mà cấp cho các ông?
Rồi người nhà tôi kể dông dài thêm:
-Vào những ngày lễ lớn, nhà thờ làm đồ ăn cho người nghèo, dân vô gia cư, ở đây gọi là homeless xếp hàng chờ dài dài, trắng có đen có nhưng không thấy có người mình.
Tôi lấy làm lạ: một đất nước giàu có sung túc nhất thế gian, đã tiêu thụ một phần ba nhiên liệu trên thế giới, một nước đã có số xe hơi bằng số xe của tất cả các nước trên thế giới cộng lại. . thế mà vẫn còn có người ở đầu đường xó chợ, thế mới biết trên thế gian này, ở bất cứ xã hội nào đâu đâu cũng có những kẻ cùng đinh khố rách. Tôi bèn viết thư về cho bạn bè ở VN để nói cho họ biết rằng Mỹ trắng, Mỹ đen còn ở lề đường đầy cả ra, con ruột người ta mà họ chưa lo được huống hồ chúng mình. Có người viết thư sang cám ơn đã cho họ biết những điều kỳ thú, họ nói chưa thấy ai nói đến cái thế giới của những người cùng đinh khố rách ấy.
Hồi ấy, tôi hay tò mò tìm hiểu về những người homeless, tôi lấy làm lạ, ở cái xứ thời tiết khắc nghiệt như thế này mà sao họ có thể sống ngoài đường. Tình cờ, tôi đọc được một bài trong tờ tập san Mỹ cho biết, họ ước lượng có vào khoảng từ 1 cho tới 3 triệu người vô gia cư, đa số tập trung tại những thành phố lớn, riêng tại Nưỡu Ước có tới gần một trăm ngàn ăn mày homeless. Phần nhiều họ bị mất việc, hết tiền, khánh tận, cũng có nhiều người lười biếng không chịu đi làm. . .
Họ có phỏng vấn một ông homless, ông ta nói mới đầu ông chỉ tưởng ở lề đường vài tháng thế mà thời gian cứ vô tình lững lờ trôi đến nay đã được ba năm. Cũng có giả thuyết nói họ là những người có tiền án hình sự trộm cướp, nay đi làm không ai mướn, ở đây người ta kỵ nhất tội phạm, một xã hội trông rất là đầy tình người nhưng kỷ luật lại cứng rắn như sắt thép. Tôi nghĩ nếu như vậy lại càng đẩy người ta vào chỗ cùng đường, kẻ đã cùng đường lại dễ sa chân phạm tội. Họ được nhà thờ, hội từ thiện cho quần áo, thỉnh thoảng cho ăn, vào những đêm đông giá lạnh họ được vào nhà trú shelter của tòa tỉnh, bần hàn nhưng được cái tự do, mặc kệ cho cuộc đời trôi theo dòng nước. Họ cũng có thể là những người mang tâm hồn thi sĩ, triết gia nhìn cuộc đời phù du mong manh như cơn gió thoảng: Cuộc đời là cái quán trọ, người chỉ là khách qua đường, nhân sinh thiên địa gian nhất nghịch lữ. .
Khoảng gần một năm sau lần đầu tiên tôi thấy một người homeless, tại một ngã tư có nhiều xe qua lại, đó là một cô Mỹ trắng, trông có vẻ cũng đàng hoàng, ăn mặc tươm tất, tay cầm cái bảng "Hungry, need help", tôi đói, giúp tôi với. Rồi một thời gian sau, tôi gặp một đôi vợ chồng Mỹ trắng tại cửa thư viện, trông họ cũng đàng hoàng,người chồng đang ngồi ăn, chị vợ chạy lại xin tôi bảo: " Sir! I am so hungry! Thưa ông tôi đói quá!"
Người Mỹ ít khi cho tiền homeless, chắc họ cho là bọn này lười biếng. Tôi thì không bao giờ từ chối, gặp họ xin tôi đều cho vì nghĩ rằng cực chẳng đã chứ ai muốn làm cái nghề bị xúc phạm nặng nề đến nhân phẩm như thế, vả lại họ cũng phải cần sống, cần được giúp đỡ. Mỗi lần cho tiền, đều được nghe họ cầu chúc God bless you, cầu Chúa ban ơn phước cho ông, họ còn biềt tin Thượng Đế chắc là những người tốt còn có lương tâm.
Tôi ngày càng được biết nhiều hơn về cái thế giới của những người homeless, có lần theo dõi chương trình trên TV được biết những chuyện thật ghê rợn của kiếp sống du mục này. Hôm ấy họ nói về những người sống dưới đường hầm xe điện ngầm tại Nưỡu Ước và đặt tên cho bọn này là mole, chuột cống vì sống y như chuột. Họ phỏng vấn một một người mole đã sống ở đường hầm bẩy năm, anh ta nói nhiều người tối ngủ say lăn ra đường rầy bị xe điện cán chết. . . Cách đây khoảng bốn, năm năm lần đầu tiên tôi thấy cuộc đời của một người homeless được đưa lên trang nhất của một tờ báo Mỹ tại địa phương, hôm ấy tôi vào chợ thực phẩm Mỹ mua đồ ăn và tự nhiên chú ý đến bài báo. Đây là một vụ án mạng tại tỉnh Grand Prairie ở gần đây, nạn nhân là một người đàn bà da trắng, 38 tuổi, homeless, gái mãi dâm bị đâm chết tại một nhà kho bỏ hoang gần đường Abram. Nạn nhân từ nhiều năm nay sống vất vưởng trong khu vực này. Một cái chết thê thảm của một người đàn bà đầu đường xó chợ, nghiện ngập, được coi như cặn bã xã hội, nhưng kẻ nạn nhân khốn cùng ấy vẫn còn may mắn hơn hàng trămhàng nghìn nạn nhân khác ở cái xứ nghèo đói lạc hậu bên nước tôi vì bà ta còn được nhắc tới trong khi hàng nghìn người khác cũng đã chết thê thảm như thế mà không được ai biết tới.
Người ta đăng cả hình ảnh của nạn nhân, khuôn mặt đầy phong sương nhưng vẫn còn giữ được những dáng nét của một dân tộc văn minh. Đôi mắt trông mất hết vẻ tinh anh, đôi mắt người đàn bà đau khổ thật chẳng khác nào một vùng đất khô cằn như sỏi đá. Mái tóc hung vàng chờm xuống trán, gò má cao, thoáng trông người ta cũng thấy được bao nhiêu năm tháng ê chề chồng chất. Đây là một bài báo dài, người ký giả kể lể khá đầy đủ về lai lịch kẻ xấu số. Vì có lẽ đây là một vụ án mạng và nhất là cuộc đời thật bi thảm của một con người tại một xứ sở văn minh sung túc, cũng có thể họ coi đó là một trường hợp hy hữu. Một bài viết rất khách quan nhưng không kém phần ý nghĩa về cuộc sống xã hội và định mệnh con người.
Ông ký giả biết được cả tên tuổi, lý lịch nạn nhân: Nàng sinh ra trong một gia đình Mỹ trắng có cha mẹ đàng hoàng, được đi học, rồi trưởng thành, có công ăn việc làm, có bạn trai... rồi một mối tình chớm nở, nàng có chồng, hai con. Người ký giả nói đó là điều lý tưởng của nhiều người Mỹ.
Rồi không hiểu vì sao gia đình đổ vỡ, chuyện này tại Mỹ sảy ra như cơm bữa vậy, chồng đem hai con đi một nơi, vợ một nẻo, một hai năm sau bị đuổi ra khỏi nhà, không rõ lý do, tôi chắc bà ta mất job không có tiền trả tiền nhà. Ở cái xứ sở tiền trao cháo múc này, không có tiền là a lê hấp đi chỗ khác chơi! không như bên mình thuê nhà rồi chiếm nhà luôn.
Người đàn bà lang thang ngoài hè phố, có lẽ nàng tưởng rằng chỉ sống bên lề đường vài tháng và một ngày nào sẽ tạo dựng lại được mái ấm gia đình, có lẽ nàng cũng nghĩ rằng mình sẽ được hưởng lại hạnh phúc của đời người. Nhưng đến một lúc nào con người sẽ không còn khả năng để lái cuộc đời theo ý mình và đành buông xuôi cho định mệnh, có dè đâu nạn nhân ngày càng kéo dài cuộc đời vô gia cư, lâm vào cảnh nghiện hút, rồi mãi dâm, ăn mày để kiếm sống, và ngày càng lún sâu trong vũng bùn lầy nhơ bẩn để rồi phó mặc cho . . đời lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt. .
. . Nạn nhân hay lui tới trong mấy con đường ở phía tây thành phố từ bao lâu nay, bị đâm chết tại một nhà kho, hai nhát ở cổ, một nhát ở lưng, chắc cũng lại do phường cặn bã xã hội gây lên và có lẽ người ta cũng chẳng cần điều tra cái chết của những người cùng đinh vô tích sự.
Bà ta cũng đã từng có một mái ấm gia đình, có hạnh phúc lứa đôi nhưng . . ngày ấy đã xa lắm rồi, cái thời ấy nay còn đâu?
Nghe nói trước đó mấy năm nạn nhân có gặp một bà cô, bà thím gì đấy, còn chồng con thì biệt tăm biệt tích. Tôi thường nghe nói điện ảnh Mỹ hết đề tài, họ quay lại những truyện, phim cũ, đây cũng là một đề tài hiếm có thuộc loại drama bi thảm hiện thực, nhưng điện ảnh Mỹ lại không chú ý đến những đề tài hiện thực xã hội như điện ảnh Ý mà chỉ thích quay những phim hoạt động "action" như trinh thám, bắn giết để kiếm nhiều tiền nên chắc họ cũng chẳng quan tâm.
Người đàn bà đã một thời là con người tốt của xã hội, có gia đình hạnh phúc, nay chết thê thảm, tứ cố vô thân, trên không rễ dưới không chằng.
. . Và rồi người ký giả lạnh lùng kết luận:
. . Burned beyond recognization
. . hoả thiêu vô thừa nhận. .

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
   SÀI GÒN CỦA TÔI
Reply #49 - 06. Nov 2006 , 05:27
 
Sài Gòn của tôi
Thinh Không

Sài Gòn! Ôi! Cái tên nghe sao mà nhớ thương. Gợi đến biết bao nhiêu là kỷ niệm êm đềm của thời trai trẻ. Cái thời đẹp nhất của một đời người.
Chắc ít có người Việt tị nạn nào mà lại không một lần nghe đến bài hát “Sài Gòn, niềm nhớ không tên” (1). Tôi thì biết đến cái “niềm nhớ không tên” (hay có rất nhiều tên?) này từ trước năm 75, lúc còn chưa phải sống xa cách hàng ngàn dặm như bây giờ.
Đó là những năm 1974–75. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được trưng tập vào quân đội. Khoảng gần giữa năm 1974, tôi rời Trường Quân Y ở Sài Gòn ra đơn vị, về phục vụ tại một Bệnh xá Dân Quân Y, thuộc tỉnh Vĩnh Long. Vĩnh Long thì cũng không xa Sài Gòn là mấy. Tôi lại được anh Bác sĩ trưởng Bệnh xá thật tốt bụng, ưu ái, và thông cảm lứa tuổi chưa biết lo (!), nên rất dễ dãi trong chuyện đi phép của tôi (đúng ra anh chỉ ngó lơ, chứ chẳng cấp chỉ huy nào cho “phép” kiểu này). Mỗi thứ Ba, tôi mới từ Sài Gòn mò xuống Bệnh xá mà rồi sáng thứ Sáu, tôi đã nôn nao (“Nếu chiều không hò hẹn, đâu thấy lòng nôn nao!?”(2), thay vào bộ quần áo dân sự, nhảy lên xe đò về lại Sài Gòn.
Ấy thế mà tôi cứ nhớ Sài Gòn. Nhớ da diết, nhớ khoắc khoải, nhớ cuồng điên khi phải xuống lại Bệnh xá. Thân tôi ở Vĩnh Long mà hồn thì vương vất đâu đó ở quán La Pagode, rạp mini Rex, rạp Eden, chè Hiển Khánh, cafeteria Rex, cơm tấm Trần Quý Cáp, bò kho Thanh Bạch, hay trước các xe bột xào, bò viên, hủ tiếu mì, ở ngã Sáu, ngã Bảy (ngã Năm tôi không dám đến!). Tôi nhớ mong Sài Gòn vì tôi cứ bị “réo gọi” bởi bao bạn bè trai, gái. Bởi muôn vàn kỷ niệm với các con đường, góc phố, hàng cây, tiệm kem, quán cóc. Nơi đó, còn có người yêu “bé bỏng” của tôi đang sống (thật ra nàng đang học đại học, chẳng bé bỏng mấy đâu). Ngày đó, tôi nghĩ không bao giờ tôi có thể sống xa Sài Gòn lâu hơn 1 tuần.

“Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược con cá vượt lội xuôi
Anh với em xa cách ngậm ngùi
Mong cho gặp mặt, xác vùi cũng ưng”

Thế mà, chẳng bao lâu sau đó, hoàn cảnh đau thương của miền Nam đã khiến tôi phải sống xa Sài Gòn. Trước, xa vài năm. Đêm đêm, từ trại cải tạo bên bìa rừng, trông về hướng thành phố xa xa, còn thấy một vầng sáng đèn ở chân trời. Sau, xa đến cả chục năm, cách biệt mịt mùng hàng chục ngàn cây số.
Nhưng rồi đến một lúc, sau khi đã ổn định cuộc sống, sau khi cũng đã hết lòng hết sức vì các ước vọng chung của người tị nạn, giống như nhiều người Việt hải ngoại, tôi nghĩ, Sài Gòn, Việt Nam nào phải của riêng ai. Dù ai đó có đang cai trị đất nước này, có làm tôi bất bình nhiều chuyện, đã làm tôi phải lìa xa nơi đó một thời, thì nơi đó cũng mãi vẫn là thành phố, là quê hương của tôi. Thế nên sau hơn 16 năm xa xứ, tôi lại trở về.
Tôi ra đi khỏi Sài Gòn vào đầu thập niên 1980, lúc thành phố ở vào thời kỳ thê thảm, tệ hại nhất về mọi mặt. Tôi cũng đã từng sống vài năm gian khổ tại đây sau năm 75 (vài năm kia phải “đẵn cây” trên rừng). Dù thế, tôi vẫn còn nhớ tâm trạng mình lần đầu về lại Sài Gòn, cuối năm 1997. Tôi đã sửng sờ nhìn thấy một Sài Gòn tiều tụy, nghèo nàn, nhớp nhúa, bụi bặm và hoang vắng … dù thật đông đúc. Trước mắt tôi, đôi lần, chỉ thấp thoáng bóng của những con người, bơ phờ, hốc hác, tất tả ngược xuôi, xa lạ, vô hồn. Tôi ngỡ ngàng, thẫn thờ. Tôi đã mong ước được nhìn thấy lại những tà áo trắng mượt mà Gia Long, Trưng Vương, Nguyễn Bá Tòng. Ước thấy lại những chiếc váy đầm nữ sinh xinh xắn Nhà Trắng Saint Paul, Régina Pacis, Marie Curie của một thời. Muốn bắt gặp lại những ánh mắt đẹp kiêu sa, kênh kiệu, hớp hồn cả đám học trò chúng tôi, từ trong những chiếc xe hơi nhà buổi sáng đưa em đi học. Nhưng đã không còn. Trong tâm trí tôi lúc đó, hình ảnh còn tồn tại sau thời gian dài biến động của đất nước và bản thân, là những hình ảnh của Sài Gòn và người Sài Gòn xinh tươi trước năm 75. Những hình ảnh đẹp đẽ của thời hoa mộng đã, một cách vô thức, ngự trị, khống chế tâm tưởng tôi, xua dạt đi những gì đau buồn, tệ hại của một thời không đáng nhớ.
Sau lần về đầu tiên đầy thất vọng và tiếc nuối đó, lạ thay, tôi lại nhớ mong Sài Gòn chỉ sau một thời gian ngắn về lại Úc. Và rồi cứ mỗi khi muốn đi nghỉ hè, nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng tôi cũng lại về Sài Gòn. Từ cái lần đầu chín năm trước đó, tôi đã về lại Sài Gòn nhiều lần. Lần này dù sẽ đi nhiều nước Âu Mỹ, tôi cũng ráng ghé qua Sài Gòn.
Tôi về đến Tân Sơn Nhất vào gần giữa trưa. Cảnh vật dọc phi đạo vẫn như bị đóng chết trong khung thời gian, của hơn ba mươi năm trước. Vẫn những chòi canh han rỉ thời chiến tranh. Vẫn những hangar máy bay thấp bé, với mái vòm cong, rong rêu, đen đúa. Bên trong một số hangar có những chiếc máy bay trực thăng của Liên Xô, nhỏ thó, cũ kỹ. Nhìn các trực thăng tôi liên tưởng đến những chiếc xe đò nhỏ, lẽ ra phải phế thải, ọc ạch chạy trên những con đường đến các quận lỵ xa xôi trước năm 75.
Tại quầy duyệt xét nhập cảnh, người sắp hàng lần này không đông như những lần trước. Các ông công an cửa khẩu, vẫn bộ mặt nghiêm nghị, trong quân phục màu xanh quân đội, với cầu vai lon lá đầy đủ. Mũ kết xếp thành một hàng dài ngay ngắn trên quày, cả ở ô không có người ngồi kiểm tra. Tất cả những hình ảnh đó vô tình (hay hữu ý?) tạo một ấn tượng khá mạnh mẽ rằng mọi người sắp đi vào một nước quân phiệt Nam Mỹ nào đó của thập niên 1960–70, như trong các phim xi nê tôi đã xem. Tôi nghĩ, phải chi họ mặc những đồng phục màu sắc nhẹ nhàng hơn. Gương mặt, cử chỉ, thái độ tươi cười, chào đón hơn có phải hay và đẹp không!? Những điều đó đâu có khó huấn luyện, hay làm giảm giá trị vai trò, hoặc ảnh hưởng đến nghiệp vụ, của họ đâu. Đối với một số không ít du khách ngoại quốc, đây là những người Việt Nam đầu tiên được gặp. Đây là những người đại diện cho cả nước, cả dân tộc Việt Nam được tiếng là thân thiện, hiếu khách, chào đón du khách đến thăm quốc gia mình. Sao lại làm người khách phương xa ngỡ ngàng, hụt hẫng, thất vọng!? Không biết các ông có trách nhiệm có nghĩ như tôi không?
Dù sao lần này cũng có những tiến bộ đáng kể. Một số không ít nhân viên là nữ. Ánh mắt nhân viên không còn lạnh lùng hay có thái độ quan liêu, hách dịch, thiếu nhã nhặn (với cả khách ngoại quốc) như tôi bắt gặp ở những lần trước. Chuyện xem xét giấy tờ nhanh hơn (dù vẫn rất từ từ). Nhưng, vẫn chưa có tiếng chào, tiếng cám ơn, và nụ cười. Cứ nhìn thấy cảnh này là tôi buồn giận. Vì khổ thay, cái xấu hổ là xấu hổ chung. Thủ tục qua hải quan thì lần này trơn tru và nhanh nhẹn hơn trước rất nhiều. Một tiến bộ đáng khen. Mà sao là “hải quan” nhỉ? “Hải” ở đây nghĩa là gì? Đâu có chút xíu “biển” nào tại phi trường Tân Sơn Nhất đâu? Hay là “hãi quan” cho “cửa ngõ hãi hùng”?
Đã đầu tháng Sáu. Vào buổi chiều, Sài Gòn hay có những cơn mưa. Có khi mưa như trút nước, không dứt. Ở Úc, ít khi tôi thấy có những cơn mưa tầm tã, mịt mù, “giăng kín đường về” (3) này. Thành phố nơi tôi ở, khô hạn kéo dài gần một năm qua làm các hồ chứa nước đều gần cạn. Ở Sài gòn, sau cơn mưa lớn, đường phố một số nơi lại biến thành hồ cạn. Tuy nhiên, sau cơn mưa, trời mát dịu lại nhiều, khá dễ chịu. Cho nên, nếu lỡ “trời không mưa, tôi cũng lạy trời mưa” (4).
Chuyện lưu thông trong thành phố Sài Gòn thì chắc nhiều người đã biết hay nghe nói. Đông đúc, chen lấn, luồn lách, hỗn độn, không trật tự hay tôn trọng luật lệ gì cả. Kỷ luật giao thông thật kém. Tình trạng nay có khá hơn những năm trước, nhưng cũng còn rối rắm, nhất là tại các “bùng binh”. Có khá nhiều xe buýt, sau nhiền năm vắng bóng, nay vận hành trong thành phố. Giá nghe nói tương đối rẻ, chạy thường xuyên trên nhiều tuyến, và đến tận ngoại ô. Một chủ trương thức thời. Nhưng xe gắn máy vẫn tràn ngập các con đường, từ sáng sớm cho đến 9–10 giờ đêm. Mỗi năm, trên cả nước có hơn 12 ngàn người chết vì tai nạn giao thông thì thật là quá mức (thống kê mới nhất của 6 tháng đầu năm 2006 cho thấy số tai nạn có giảm nhưng số người chết vẫn không giảm). Mỗi tháng có hơn 1 ngàn người tử nạn. Khủng khiếp! Sài Gòn cũng góp vào thống kê trên một con số không nhỏ. Không chỉ riêng kỷ luật giao thông, mà nói chung, ý thức kỷ luật công dân tại Sài Gòn bây giờ tệ hại hơn trước 75 rất nhiều, vì kỷ cương xã hội hầu như sụp đổ. Và hệ thống giáo dục, trong rất nhiều năm, đã không chú trọng gì đến điều này. Chẳng “giáo dục công dân”, mà chỉ quan tâm nhồi nhét vào đầu học sinh ba điều chủ thuyết lỗi thời, hoang tưởng. Chủ tâm và ưu tiên có lẽ nhắm vào việc đào tạo những kẻ trung thành hơn là những công dân tốt.
Ở Sài Gòn đông đúc này việc di chuyển, đi lại rất bất tiện, mất thời giờ. Sau vài lần về, tôi cũng bắt đầu chạy chiếc xe gắn máy của đứa em cho mượn. Tôi ít đi taxi vì nó tốn kém mà lại chậm chạp trên đường phố lúc nào cũng đông nghẹt xe. Dù sao thì tôi cũng từng là thổ địa nơi đây, khá rành rẽ đường lối. Có điều tôi không thể nào nhớ nổi các tên đường mới được thay sau này. Nhiều tên lạ hoắc, không biết là ai (tôi cũng chẳng tò mò tìm hiểu là ai). Rồi lại những con số, ngày tháng lấy làm tên đường, nghe không quen, không nhớ, lẫn lộn, rối mù.
Khi về trong nước tôi hay đọc các tờ báo như Tuổi trẻ, Thanh Niên (tôi cũng thường xem trên mạng lúc ở nước ngoài). Hai tờ báo trên là những tờ báo, theo tôi, nay có sự thông tin tương đối khá nhanh nhạy, ít gạn lọc (so với ngày trước). Có tư tưởng khá độc lập trong cách đưa tin và đặt vấn đề. Có một sự cởi mở khá rõ nét và mạnh dạn, kể cả các vấn đề “nhạy cảm”. Nhiều tờ báo khác thường né tránh các đề tài này, hay có đề cập đến thì chỉ nói một chiều, chỉ ca tụng đến phát nản. Hay chỉ có những lập luận xưa cũ, không thuyết phục. Hai báo trên cũng khá mạnh dạn trong việc đăng tải các bài đóng góp ý kiến cho các diễn đàn (hay các ý kiến phản hồi), từ các độc giả thuộc nhiều giới, nhiều khuynh hướng, từ cả trong lẫn ngoài nước.
Thí dụ trong ngày 28/5/06, tờ Thanh Niên đã đăng trong mục diễn đàn “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” một bài góp ý tựa là “Phải vượt qua nỗi sợ hãi.” Bài viết:

“…Nỗi sợ hãi chính là trở ngại lớn mà chúng ta cần phải vượt qua nó. Chừng nào nỗi sợ hãi bé đi thì chúng ta mới lớn lên được.”
Bài viết dù không nói cụ thể đến sự việc gì, nhưng ở đây theo tôi, chi tiết đó không quan trọng. Lời khuyên “Phải vượt qua được nỗi sợ hãi” là điểm cốt lõi, là tinh thần của bài góp ý. Trong thời gian gần đây, có rất nhiều người trong nước đã mạnh dạn, dũng cảm, minh danh cùng ký tên vào các tuyên ngôn đòi hỏi những ước vọng chân chính cho mình, cho đồng bào. Họ chẳng phải là “nhà đấu tranh” kiên cường, dày dạn hay nổi tiếng gì cả, mà chỉ là những công dân bình thường. Cứ đặt mình ở vào vị trí họ trong hoàn cảnh hiện tại trong nước sẽ thấy cái dũng khí to lớn như thế nào. Họ đã vượt qua được nỗi sợ hãi. Trong niềm kính phục sâu xa, với tôi, họ là những sĩ phu, hào kiệt của đất nước thời nay. Đúng như Nguyễn Trãi đã viết:

“Vận nước có lúc cường, lúc nhược
Nhưng anh hùng, hào kiệt thời nào cũng có”

Cũng trong mục ấy, có một bài góp ý khác của một người ký tên Nhất Chi Mai. Tác giả viết:

“Ta vẫn thường nhắc tới lịch sử chống giặc ngoại xâm hào hùng, nhắc tới tinh thần đoàn kết dân tộc nhưng sau những chiến thắng oai hùng đó ta lại tự mình làm bé mình… Về mặt địa lý, dân số và lịch sử, Việt Nam là một nước không nhỏ, nhưng là một nước đang ngủ quên trên những chiến tích… Cần lắm một cơ chế ràng buộc trách nhiệm và cần lắm sự cương quyết của những nhà lãnh đạo, với sự sáng suốt và quyết đoán” (tôi ghi chữ nghiêng đoạn cần nhấn mạnh).
Nếu ở hải ngoại thì nội dung những lời đóng góp ý kiến trên cũng bình thường. Nhưng trên một tờ báo trong nước, có thể xem là những đóng góp rất thẳng thắn, mạnh dạn. Đăng tải nó là một thay đổi tư duy đáng để ý của Ban biên tập. Không chỉ còn là những bài ca tụng sáo rỗng thường thấy trên báo như trước. Tôi khá tâm đắc với những ý kiến này. Nhưng từ lâu tôi không thích từ “cơ chế” thường được dùng. Nó mơ hồ, thấp bé và giới hạn.
Ai cũng biết là quyền lực làm tha hóa con người, cho dù con người đó trước khi nắm quyền lực, là một con người toàn thiện, có chủ tâm vì người khác mà phục vụ. Cũng đừng nói chi đến quyền lực to lớn tột cùng của cai trị quốc gia ở Việt Nam, thường với quyền sinh sát trong tay cùng bao cám dỗ lợi lộc to lớn. Ngay cả với những tập thể nhỏ như một Hội Đoàn, một Cộng Đồng Người Việt ở hải ngoại, qui luật đó cũng thường được thể hiện và minh chứng khá rõ ràng. Do đó, trước khi cần đến sự cương quyết, sáng suốt và quyết đoán của lãnh đạo nào đó, như trong bài viết nói trên, Việt Nam cần có một hệ thống chính quyền pháp trị có thể hổ trợ, bảo vệ và thực thi được những đức tính này. Và cần có một hệ thống chính trị có thể giám sát, ràng buộc trách nhiệm cùng xiển dương các hoạt động điều hành đất nước. Cụ thể hơn thì đó phải là một thể chế dân chủ. Thiếu điều kiện này, tôi nghĩ, quyền lực rồi sẽ làm tha hóa hầu như bất cứ ai.
Về Sài Gòn tôi hay đi nghe nhạc. Tôi đã đến hầu hết những phòng trà nổi tiếng tại Sài Gòn như Tiếng Tơ Đồng (đã đóng cửa), M&Tôi, Yesterday, Đồng Dao (đã đóng cửa), Ánh Tuyết, 2B, và nhiều nơi nữa. Ngoài chuyện giải trí, thưởng thức văn nghệ, vì thích nghe nhạc, tôi cũng muốn xem bài nhạc của nhạc sĩ nào ở miền Nam trước năm 75 được cho phép trình diễn. Để qua đó đo lường (phần nào đó, tôi nghĩ) mức độ cởi mở chính trị ở Việt Nam. Tôi thấy thật là điều khắt khe vô lý của chủ trương kiểm duyệt văn hóa này, mà tự thân chủ trương lại … kém văn hóa. Mang tính trừng phạt và tưởng thưởng vì quan điểm và thái độ chính trị của tác giả hơn là vì nội dung bài hát. Thời gian gần đây, mỗi lần tôi về, lại thấy có một số bài hát, của những nhạc sĩ miền Nam cũ, được cho phép hát lại. Khá nhiều! Những tình khúc của các nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Phạm Đình Chương, rất được ca sĩ lẫn người nghe ưa chuộng.
Lần này, lần đầu tiên, tôi nghe một bài hát của nhạc sĩ Lam Phương tại một phòng trà (tên tác giả không được giới thiệu). Tôi yêu mến dòng nhạc tình cảm, rất thiết tha và cũng rất nhân hậu của ông. Nhạc của ông bị cấm lâu có lẽ, tôi đoán mò, vì người ta “giận” ông nhiều. Nhất là vì cái câu: “Bao năm giải phóng như thế này phải không anh?…” trong một bài hát(5) có ca từ rất chua chát về Tây Đô Cần Thơ (như: “Ngày xưa ta quen từng viên đá nơi sân trường. Nay sao nghe khác từng tên đường” ). Ai từng ở đảo Bidong chắc đều có một lần nghe bài hát của ông ( “Đường Về Quê Hương” ) với các câu “Biết bao giờ trở về Việt Nam, thăm đồng lúa vàng, thăm con đò chiều xưa? Biết bao giờ ta lại gặp ta …?” được ban điều hành trại tị nạn phát lên hệ thống loa của trại mỗi khi có nhóm người tị nạn rời đảo đi định cư. Nghe não nuột, tuyệt vọng, buồn thúi ruột lúc chia tay, trong hoàn cảnh tha hương không mong có ngày về lúc đó.
Có vài bài báo ở trong nước, tôi nghĩ là đã không thành thật, khi gần đây gọp các tình khúc của các nhạc sĩ trên (và của nhiều người nữa) và gọi chung là nhạc tiền chiến. Đâu có “tiền”! Tôi nghĩ “nhạc tiền chiến” được hiểu là trước thời chiến tranh Việt Pháp 1946–1954. Hay ít ra cũng trong thời gian đó. Hầu như toàn bộ tình khúc của các nhạc sĩ miền Nam trên lại được sáng tác “trong” thời chiến 1954–75 kia mà. Tình yêu lứa đôi, cùng với tình yêu quê hương, đất nước, tại miền Nam, vẫn tràn đầy. Vẫn được nhắc nhở, ca tụng, dù trong thời chiến tranh máu lữa, khốc liệt.
Tôi nhớ cách đây 4–5 năm, tại phòng trà Tiếng Tơ Đồng vào mùa Giáng Sinh, tôi đã nghe Thanh Lam hát “Bài Thánh Ca Buồn” (6) (“ Bài thánh ca đó còn nhớ không em? Noel năm nào chúng mình có đôi …” ) đầy kỷ niệm. Lâu lắm rồi tôi mới nghe lại bài hát này, qua một giọng ca thật điêu luyện và truyền cảm. Trong khoảnh khắc, cả một trời kỷ niệm ùa về. Tôi chợt như được sống lại những mùa Noel Sài Gòn háo hức, nhộn nhịp, rộn ràng, hồi hộp, tuyệt vời của những năm nào ở tuổi đôi mươi. Khi nghe lại một bài hát gợi nhiều kỷ niệm, lòng mình xao xuyến vô cùng. Dù đôi khi sự gợi nhớ dĩ vảng cũng làm lòng mình chùng xuống.
Tôi còn nhớ lúc tôi học năm thứ nhất đại học, tôi có cô bạn gái học lớp 10 Marie Curie. Đêm Noel tôi chở em trên xe gắn máy ra nhà thờ Đức Bà, như rất nhiều thanh niên trai gái Sài Gòn thời đó. Em sung sướng, hãnh diện với tôi và các bạn, vì lần đầu tiên được mặc chiếc áo dài truyền thống thướt tha. Thế mà tôi lạng quạng làm sao lại làm em té xuống đất, trên đường Lê Lợi, áo quần lấm lem. Không biết có phải vì thế mà vài tháng sau (1969) em bỏ tôi lại, theo gia đình sang Mỹ (Ba của em là viên chức cao cấp của Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Mỹ). Rồi từ đó tôi không hề gặp lại em.
Trên đường từ nhà em tôi, nơi tôi trú ngụ, ra trung tâm Sài Gòn, tôi thường chạy ngang trường Trung học Petrus Ký cũ của mình. Ngôi trường tôi có rất nhiều kỷ niệm với lũ bạn xôn xao những mối tình đầu. Lần nào đi qua tôi cũng nhìn vào cổng trường xem sao. Nhìn hai hàng cây sao cao to bên hông trường, nơi ngày xưa là bãi đậu xe của học sinh, tôi lại nhớ đến Thầy Tổng giám thị Chương. Thầy hay đứng sau gốc các cây sao trên, để chụp bắt phạt học trò nào không mặc đồng phục, đang dắt xe vào trường. Trường tôi có tiếng rất nghiêm về kỷ luật là nhờ các thầy giám thị. Tôi có lần cũng bị Thầy Chương chụp bắt lên văn phòng, không phải vì chuyện đồng phục, mà vì tội để tóc dài. Tôi né trốn thầy hoài mà rồi cũng không thoát. Trường tôi nay đã đổi tên là Lê Hồng Phong. Bây giờ có cả nữ sinh. Tôi không phản đối chủ trương trường hỗn hợp nam nữ. Cũng có cái hay của nó. Nhưng để phá vỡ cái truyền thống của biết bao năm không vì một lý do thiết yếu thì tôi không đồng tình. Trường Nữ Trung học Gia Long cổ xưa, truyền thống cũng thế. Nay có cả nam sinh và cũng đã bị đổi tên.
Về Sài Gòn lần nào tôi cũng đi vào các tiệm sách, xem sách, mua sách. Bây giờ thì có khá nhiều nhà sách, thường rất lớn. Nhà sách Khai Trí ở đường Lê Lợi đã mở cửa lại nhưng mang tên Sài Gòn. Có nhiều tiệm sách nhỏ của tư nhân, dọc hai bên đường Hồng Thập Tự cũ, đoạn gần đường Nguyễn Thiện Thuật. Nơi đây có bán sách cũ, mới và giảm 20–30% trên giá bán, không như ở các tiệm lớn. Có khá nhiều tựa sách, bao gồm nhiều lãnh vực. Nay có rất nhiều tác giả trong nước tôi không quen tên. Sách của các nhà văn nhóm Tự Lự Văn Đoàn, hay các nhà văn, nhà thơ vào thời đó, cũng đã được in lại từ nhiều năm trước. Mỗi lần về lại thấy có ấn bản mới, to hơn, đẹp hơn. Có lẽ nhà văn, học giả Nguyễn Hiến Lê có nhiều sách in lại nhất (ngoài ông và nhà văn Sơn Nam, còn mấy sách nào của các tác giả miền Nam được phép in lại?!?). Giá sách nói chung thì rất rẻ so với mức thu nhập ở nước ngoài (vào khoảng 3–4 Úc kim/quyển). Nhưng như thế cũng tốn đến một, hai ngày lương công nhân trong nước. Một số sách của, hay về, các nhà văn, thơ của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần Dần… cũng có được in lại. Nhưng vẫn đuợc lọc lựa bởi cái sàng chính trị. Nội dung các sách này, mà tôi được đọc, thì không gì hay, phiến diện và không giống như tôi đã đọc về các ông trước năm 75 hay ở hải ngoại. Tôi nghĩ người ta đã sai lầm khi cố tình chỉ lọc lựa đưa ra, theo ý mình, một vài quan điểm thuận lợi nào đó từ các ông, ở giai đoạn thích hợp nào đó của cuộc đời các ông. Vắng đi hay lướt vội qua các dằn vật chuyễn đổi về tư tưởng, cùng cuộc sống bất hạnh, đầy nhọc nhằn, cay đắng mà các ông và người thân đã trải qua hay gánh chịu. Thời đại này khó có thể giấu diếm được điều gì. Mà mập mờ nói có phân nửa thì chỉ phản tác dụng.
Quyển “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” được bày bán nhiều. Tôi cảm phục và kính trọng lòng hy sinh của cô mà cũng thương cho cô. Một lý tưởng không tròn. Có sách mới của nhà văn Bùi Ngọc Tấn (“Viết cho bè bạn”). Nhưng không có quyển “Chuyện kể năm 2000” của ông mà tôi rất thích. Nội dung quyển sách mới thì bình thường, thậm chí nhạt nhẽo. Toàn bộ tinh túy và tâm huyết của ông đã dồn hết vào quyển kia rồi. Có thấy tập truyện ngắn “Bóng Đè” gây nhiều tranh luận của nhà văn nữ trẻ Đỗ Hoàng Diệu.
Có nhiều quyển sách mới tái bản của nhà văn nữ trẻ Nguyễn Ngọc Tư, nổi tiếng với chuyện “Cánh Đồng Bất Tận”, được bày bán. Mới đây thôi, cô bị Sở Thông Tin “ Văn Hóa Cà Mau, nơi cô sống và công tác, phê bình, kiểm điểm, khiển trách, qui chụp, đòi khai trừ, cách chức, đuổi đi khỏi tỉnh gì đó (tôi kể dám còn thiếu). Nhưng không ngờ, cô được độc giả phản ứng với hàng trăm ý kiến bênh vực mạnh mẽ trên các báo. Thêm nữa, báo Tuổi Trẻ và vài nhà xuất bản khác, còn ra mặt ủng hộ, tái bản ào ạt (có sách ghi chú tái bản lần thứ năm) các sách bị phê phán của cô. Đáng chú ý là các “ông quan văn hóa” (chữ trên báo trong nước) Cà Mau bị độc giả khắp nơi chỉ trích kịch liệt về các quyết định này, thậm chí còn chê bai, dè bỉu khả năng, trình độ của các ông. Cái bóng con đường đen tối của Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, v.v… những tưởng …, đã không lập lại. Sự thông tin rộng rãi, thông suốt, nhanh nhạy của thời đại internet, thời toàn cầu hoá, đã không cho phép điều đó lập lại.
Nguyễn Ngọc Tư tự nhận định văn chương của cô (và cả bản thân) như trái xoài riêng. “Có người thích, có người chê”. Nhưng cô “chẳng bẻ mình bẻ mẩy để lấy lòng người” (mấy câu này có in trên bìa sau sách rõ ràng). Các nhà văn, nhà thơ đều khí khái giống nhau:

“Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu” (7)

Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã mở rộng vòng tay, ưu ái đón chào lưu dân tứ xứ, từ nhiều trăm năm trước. Tôi thấy ngày nay Sài Gòn vẫn còn cái truyền thống đó. Tôi đã gặp rất nhiều người bán hàng rong, lao động, tài xế, bán hàng, v.v… trên khắp đường phố Sài Gòn, đến từ nhiều miền xa xôi ngoài Bắc. Mấy ngày trước, trên một xe taxi, nghe anh tài xế nói giọng “miền Bắc 75” (cái giọng cao, nhanh và chua đặc trưng không lẫn được; không êm ái, ngọt ngào, thanh lịch như đa số người “miền Bắc 54”), tôi đã tò mò hỏi thăm anh quê ở nơi nào ngoài Bắc, vào đây lâu chưa. Anh nói từ Hà Tây. Cả gia đình bốn người vào đây sống đã tám năm rồi. Tôi hỏi anh thấy cuộc sống nơi này, dân tình thế nào thì anh phán câu “đất lành chim đậu” làm tôi mát cả ruột. Tôi còn trao đổi với anh đôi điều và anh cũng đồng ý với tôi. Tôi cũng đã nhiều lần nói chuyện với nhiều người có hoàn cảnh như anh. Họ cũng đồng ý, hay rồi cuối cùng cũng đồng ý, giống như anh.
Vùng đất miền Nam trù phú, hiền hòa, trong đó có Sài Gòn, đã sản sinh tư tưởng, giáo dục nếp sống, dịu hiền, đôn hậu, trọn tình, trọn nghĩa như trong các câu ca dao:
“Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”

Tổ tiên tôi, nghe người lớn kể, cũng là người đàng ngoài, vào Nam lập nghiệp từ hàng trăm năm trước. Nhưng cũng rất nhiều năm sau những nhóm di thần nhà Minh từ nước Trung hoa xa xôi do Mạc Cửu, Trần Tiễn Thành, Dương Ngạn Địch, Trần Đại Xuyên cầm đầu chạy sang trú ngụ. Và từ những đợt di dân, tị nạn sau nhiều cơn biến loạn ở Trung Hoa sau đó. Rồi thời năm 54 (mới đây mà đã hơn 50 năm rồi!), cả triệu đồng bào miền Bắc cũng di cư vào Nam lập nghiệp. Tất cả, cùng với dân Khờ me tại địa phương, đã tạo thành một tập hợp với nhiều ưu tính của từng sắc dân. May mắn được sống trong một vùng đất trù phú, họ đã hình thành một tập thể “người miền Nam” hiền hòa, nghĩa khí. Và Sài Gòn, đã và sẽ mãi vẫn là cái nôi văn hóa, là thủ phủ của miền Nam nhân bản này.
Có lẽ tôi có thể kể những cái dở, cái xấu, cái nghịch lý, bất công hiện nay ở Sài Gòn cả ngày không hết. Tuy nhiên, cũng phải công bằng mà nói, đã có những tiến bộ trong mấy năm qua. Đã có lại những con đường sạch sẽ với hàng cây xanh, luống hoa được chăm chút. Những cửa hàng quần áo sáng sủa, chưng bày thật mỹ thuật, đẹp mắt như trên đường Võ Tánh cũ (nay là Nguyễn Trãi nối dài), con đường quen thuộc của tôi. Những nhà hàng, quán cà phê thiết trí trang nhã với nhân viên trong các bộ đồng phục thẳng thóm, đúng cách, phục vụ chu đáo, lễ độ. Những khuôn mặt đâu đó trên đường phố tươi vui, xinh xắn, trong các bộ áo quần tươm tất, lịch sự, hợp thời. Có những câu chào, những nụ cười. Không nhiều, không đồng bộ, nhưng đã có.
Nhưng, cho dù Sài Gòn ngày nay không được như trước năm 75. Đã làm tôi tức mình, buồn bực, tiếc nuối hình ảnh quá khứ, vẫn gắn chặt với lòng tôi (chắc cũng giống như Hà Nội vẫn sống trong lòng người dân, nhà văn, nhà thơ miền Bắc di cư vào Nam thời năm 54). Cho dù quán La Pagode không còn, rạp mini Rex đã dẹp, tiệm kem Hoàng Gia trên đường Tự Do biến mất, tôi vẫn như còn thấy cái hồn Sài Gòn ngày xưa của tôi còn vương vất trên các con đường, góc phố. Cho dù người ta đã thay đổi hầu hết tên những con đường (đọc hoài không nhớ), tôi vẫn gọi bằng tên cũ. Vẫn Hiền Vương, Gia Long, Duy Tân, Thống Nhất, Hồng Thập Tự, Công Lý, Tự Do. Tôi vẫn muốn thủy chung với Sài Gòn của tôi.
Tôi có quá nhiều kỷ niệm ở nơi này để mà tôi có thể quay lưng, xóa đi quá khứ, giận dỗi không đoái hoài. Tôi vẫn cứ muốn về thăm lại Sài Gòn. Vẫn muốn thấy nhiều người Sài Gòn xa xứ trở về thăm lại thành phố này. Vì tôi tin rằng, một ngày không xa, Sài Gòn ngày xưa của tôi sẽ trở lại. Chính sự về thăm lại Sài Gòn của những cựu dân nơi này sẽ có ảnh hưởng, không nhiều thì ít, trực tiếp hay gián tiếp, hữu ý hay vô tình, làm sống lại nhanh hơn cái hồn, cái chất, cái cung cách, lối sống của Sài Gòn năm xưa. Tôi nghĩ và tin như thế, dù biết có người không đồng ý. Tôi tin tính nhân bản cuối cùng sẽ thắng. Người Sài Gòn có truyền thống yêu chuộng Tự Do, Dân Chủ, luôn đề cao cùng sống theo những giá trị này.
Nếu sự khôi phục không thể kịp cho tôi thì cho thế hệ kế tiếp, cũng tốt thôi. Tương lai của hàng triệu người Sài Gòn trẻ tuổi, thực tế, sẽ không ở nơi đâu khác hơn là tại Sài Gòn, tại Việt Nam. Để cho họ được sống trong một Sài Gòn như tôi đã từng sống. Một Sài Gòn tươi đẹp, sung túc, thanh lịch và văn minh. Để họ có được cái may mắn như hàng bao lớp thanh niên chúng tôi, đã thương yêu Sài Gòn như người yêu và được Sài Gòn đền đáp lại bằng những ánh mắt, nụ cười, giọng nói ngọt ngào, cách cư xử chân tình của bao nam thanh nữ tú. Cũng như đã đem đến cho chúng tôi những nơi chốn gặp gỡ, hẹn hò thơ mộng, mà hình ảnh, kỷ niệm, khắc sâu trong tim, mãi không rời.

Thinh Không
________________________________________

(1): Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn
(2): “Nếu biển không có sóng, biển đâu còn dào dạt.
Nếu chiều không hò hẹn, đâu thấy lòng nôn nao.
Nếu đời không tình yêu, biển sẽ không có sóng.
Nếu chiều không gió lộng thì tóc em đâu có bồng bềnh...”
Nếu biển không có sóng, nhạc Từ Huy
(3): “Anh muốn cùng mây giăng kín đường về,
Gọi tên em, gọi tên em cho nát bờ môi ấy ...”
Tình khúc tháng 6, nhạc Ngô Thụy Miên
(4): “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt,
Trời không mưa anh cứ lạy trời mưa …”
Tháng Sáu Trời Mưa, thơ Nguyên Sa
(5): Bài “Chiều Tây Đô”
(6): Nhạc sĩ Nguyễn Vũ
(7) Thơ, “Lời Mẹ Dặn” của Phùng Quán

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #50 - 09. Nov 2006 , 01:02
 
THU CHồNG
Hải Ngữ
Tặng Cậu Mợ Nghi, Tasmania, Úc
Để nhớ lại một thời niên thiếu ở QN.

Năm đó tôi sửa soạn lên lớp đệ Tam. Trong suốt những năm ở bậc trung học, thường thường năm nào cha mẹ tôi cũng bắt đi học hè, nhưng vì lớp đệ Tam được xem là lớp dưỡng sức nên năm đó tôi tha hồ rong chơi trong suốt ba tháng hè mà không phải học hành gì cả. Được gọi là lớp dưỡng sức là vì vừa qua kỳ thi Trung-học (brevet), nghỉ xả hơi chờ sang năm lên lớp đệ Nhị và chuẩn bị thi Tú-tài.

Khoảng giữa thập niên 60, kỳ thi Trung-học được bãi bỏ nên từ đó về sau lớp đệ Tam lại càng nhàn hạ lắm. Đối với tôi, năm học này rất thoải mái vì tất cả chương trình học đều giống như năm đệ Ngũ, chỉ đào sâu và học thêm một vài khái niệm mới. Tôi còn nhớ thầy dạy Toán đứng gân cổ giảng cho chúng tôi hiểu thế nào là “hàng điểm điều hoà” trong giờ Hình-học. Tôi vốn lơ-tơ-mơ về Toán, thấy khó lại càng không muốn tìm hiểu làm gì. Hơn nữa, năm đó thân xác tôi bắt đầu trổ mã, gọi nôm na là dậy thì. Ở cái tuổi dậy thì, có nhiều thứ khác cần chú ý hơn là tập trung tư tưởng vào môn Toán. Tôi biết chăm chút mái tóc hơn là ngồi trau chuốt cho bài bình luận của giờ Việt văn. Và nhất là có những cuốn sách khác quyến rũ hơn những pho sách giáo khoa; đó là tiểu thuyết. Tiểu thuyết có đủ loại để đọc, loại tình cảm, dã sử, trinh thám…v... v, loại nào cũng hấp dẫn cả. Riêng tôi lại mê kiếm hiệp mặc dù đôi khi cũng thích những chuyện tình ướt át. Tôi bắt đầu làm quen với những nhân vật huyền hoặc trong pho tự điển của Kim Dung. Càng đọc càng say mê. Dĩ nhiên, tôi không thể ngang nhiên mở cuốn Anh Hùng Xạ Điêu hoặc cuốn Vườn Thuý để đọc bất cứ lúc nào, mà phải đọc lén. Làm bậc cha mẹ, ai cũng muốn cho con cái theo đuổi việc học để sau này, trước hết kiếm chút tương lai ấm lấy tấm thân, sau nữa cho các bậc sinh thành hãnh diện với láng giềng nên không thể chấp nhận con cái cầm một cuốn sách nào khác hơn là cuốn sách giáo khoa. Tôi làm sao hiểu hết sự cần thiết của việc học hành. Hơn nữa, những nhân vật trong truyện giúp cho những thằng con trai mới lớn như tôi mơ ước được nhiều thứ, cho dù đó chỉ là không tưởng.

Nhà tôi có căn gác lửng, là nơi cha mẹ tôi để riêng cho tôi đèn sách, kỳ vọng thằng con sẽ giật được mảnh bằng Tú-tài làm nở mày nở mặt với xóm giềng. Cái bàn học tôi được kê sát cửa sổ, nhìn sang những dãy nhà san sát, cũng xây theo một kiểu như nhau trong con hẻm nhỏ. Căn gác mở ra một hàng hiên, có dãy ban-công bằng gỗ. Cả hàng hiên được phủ mát bởi những tàng cây rậm rạp của cây sầu-đông mọc bên cạnh nhà. Thời gian lý tưởng nhất trong ngày là lúc không gian đứng im lìm mệt mỏi, thời khắc trôi chầm chậm uể oải của một buổi trưa hè oi bức, có cơn gió mát thổi hiu hiu qua căn gác, đâu đó có tiếng chim hót trộn lẫn với tiếng ve sầu kêu râm ran trên tàng cây, đó là lúc tôi ngồi tựa lưng vào vách gỗ, say mê hàng giờ với những nhân vật không tưởng được nhào nặn tài tình dưới ngòi bút ma thuật của Kim Dung và Quỳnh Dao.

Vào một buổi trưa, cũng như bao buổi trưa khác, tôi leo lên căn gác, lén cầm theo cuốn Anh Hùng Xạ Điêu, ngồi tựa lưng vào vách, nghiền ngẫm đoạn Quách Tĩnh gặp Hoàng Dung, say mê đến nỗi mà có tiếng gọi bên tai mà vẫn không hay. Tiếng gọi khá to nổi lên giữa buổi trưa hè yên ắng làm tôi giật mình gập vội cuốn sách nhìn lên.

- Em chăm học quá há. Hè rồi mà vẫn còn học hả em?

Tiếng nói phát xuất từ căn gác nhà bên cạnh. Tôi quay đầu và nhận ra một thiếu nữ đang chống tay vào ban-công, mái tóc thật dài, nhìn tôi cười cười. Tôi nghe loáng thoáng học… học gì đó và chợt nhớ ra trong tay đang cầm cuốn sách kiếm hiệp. Mặt đỏ bừng, tôi cười gượng:

- Không… không, em… em đang đọc truyện.

Người thiếu nữ vẫn hồn nhiên:

- Truyện gì vậy? Cho chị xem được không?

Tôi đứng lên, giấu cuốn sách sau lưng:

- Ồ! Truyện… truyện này chị không thích đâu.

Người thiếu nữ đi dọc theo ban-công tiến dần về phía tôi. Khuôn mặt chị hiện ra rõ ràng trong tầm mắt và tôi chợt nhận ra người thiếu nữ có một khuôn mặt thật khả ái, hiền thục. Tính ra đến lúc đó, tôi đã đọc không biết bao nhiêu pho sách, đã thấy những tác giả tả các nhân vật trong truyện như thế nào, trong đó có những nhân vật nữ. Nào là khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa, mắt bồ câu, đôi mày ngài. Cứ nhắm mắt lại là hình dung được một mẫu người lý tưởng và tôi đã ươm biết bao là mơ ước. Tuổi mới lớn chỉ dám mơ mộng thôi chứ chưa hề nghĩ đến chuyện đối diện với một người con gái. Vậy mà giờ đây có một thiếu nữ đẹp như người trong tranh đang tiến lại gần tôi, hỏi han thì làm sao tôi không cuống lên được. Tôi gần như á khẩu, miệng lắp bắp nói không thành tiếng. May mà có cuốn sách tôi đang cầm sau lưng nên tay chân đỡ luống cuống. Cần nói thêm là bất cứ thằng con trai nào trong lứa tuổi dậy thì đều có giọng nói khàn đục, khuôn mặt đùn lên đám mụn như những cù lao nhỏ rải đều trên bờ vịnh. Khuôn mặt như thế vốn đã khó coi, còn tôi lúc đó chắc càng khó coi hơn nữa vì lúng túng, ngượng ngùng, tay chân thừa thãi. Cũng may, cử chỉ thân thiện và giọng nói dịu dàng của người thiếu nữ giúp tôi lấy lại bình tĩnh thật nhiều. Tiếng người thiếu nữ:

- Thì cứ đưa chị xem thử!

Tôi đành đưa cuốn sách ra:

- Truyện kiếm hiệp mà, chị đâu thích những loại này.

Nụ cười của người thiếu nữ thật tươi:

- Kiếm hiệp hả! Anh Kiệt thích lắm đó.

Tôi thắc mắc:

- Ủa! Chị nói anh Kiệt nào?

- À! Chị quên chưa giới thiệu với em. Chị là Hảo, còn anh Kiệt là chồng chị. Thế còn em?

- Em hả? Hưng. Anh chị mới dọn đến hả?

- Ừ! Anh chị mới thuê căn gác này được mấy ngày.

- Thảo nào, em lên đây đọc truyện hoài mà đâu thấy ai. Lúc nãy, chị hỏi làm em giật mình.

Chị Hảo nghiêng đầu, nheo nheo đôi mắt:

- Lén lên đây đọc truyện phải không?

Tôi làm lơ không trả lời câu hỏi của chị:

- Thế anh Kiệt đâu chị?

Chị Hảo nghiêng đầu hất mái tóc ra phía sau. Tôi chợt để ý đến suối tóc óng ả của chị chảy quá nửa lưng. Phải gọi là suối tóc vì một màu đen nhung thuần chất, mượt và mềm mại như giòng nước uốn mình qua khe. Mái tóc sóng sánh mỗi khi chị hất hất đầu sang bên. Buổi trưa hè, có cơn gió nhẹ thổi bay bay mái tóc huyền làm khung cảnh trở nên thơ mộng. Thuở đó, tôi chưa biết định nghĩa thế nào là đẹp. Tất cả những lối tả ví von của mấy ông nhà văn tôi cũng chưa hình dung được nhưng khi đối diện với khuôn mặt của chị Hảo chỉ cách hơn hai sải tay, tôi đã mường tượng được đây phải là một khuôn mẫu để diễn tả nhan sắc. Tôi không biết khuôn mặt trái xoan như thế nào, cũng không biết mũi dọc dừa ra làm sao, lại càng không biết thế nào là đôi mắt bồ câu – mặc dù mắt mấy con bồ câu nhà tôi nuôi nhìn lờ đờ chứ chẳng thấy gì hấp dẫn – vậy mà buổi trưa hôm đó tôi thấy khuôn mặt của chị Hảo có đủ tất cả những nét tuyệt vời mà trí óc tôi có thể tưởng tượng được. Cả người chị toát ra một sức thu hút kỳ lạ, từ giọng nói đến dáng người, làm tôi cứ ngỡ mình là một thư sinh trong truyện Liêu-trai huyền bí (đúng là lậm tiểu thuyết). Không biết có phải những đốm nắng nhảy múa lung linh trên khuôn mặt chị làm tăng thêm vẻ huyền hoặc hay không nhưng người tôi như ngây ra khi đứng trước dáng người thanh tú của chị. Một vẻ đẹp dịu dàng, tự nhiên không chút son phấn, hiền hoà dễ làm mềm lòng người đối diện.

Nhận xét của tôi là nhận xét của một thằng con trai mới lớn, bắt đầu biết mộng mơ một khuôn mặt, biết rung cảm trước một sắc đẹp và lòng thấy bồi hồi khi trò chuyện với một người khác phái. Đột nhiên tôi buột miệng:

- Chị đẹp quá!

- Chà! Biết nịnh đầm nữa há! Sao em nịnh chị giống anh Kiệt vậy?

Tôi đỏ mặt:

- Không! Em nói thật mà, chị đẹp thì em nói đẹp chớ biết nịnh ra làm sao đâu!

Chị nguýt tôi. Ôi chao ôi! Cái nguýt của chị làm tôi sướng lịm cả người.

- Đàn ông con trai đều giống nhau ở điểm này. Cứ nịnh mà không biết ngượng.

Tôi đánh trống lảng:

- Anh Kiệt đi làm hả chị?

Chị lườm tôi một cái thật dài:

- Hoá ra chị trả lời rồi mà em có nghe gì đâu! Đã bảo là anh Kiệt đóng quân ở Phù-cát, cuối tuần về thăm chị rồi lại đi ngay.

Tôi nghe nói có một căn cứ không quân ở Phù-cát, một tỉnh lỵ cách thành phố Qui-nhơn – nơi tôi đang lớn lên – khoảng 30 cây số về hướng tây bắc. Đây là căn cứ tương đối lớn, gồm đủ loại máy bay hỗ trợ cho toàn Quân khu 2. Loại vận tải cơ C-130 nối liền đường bay huyết mạch chuyển lính và quân trang quân dụng từ Biên-hoà tiếp ứng cho cuộc chiến đang leo thang dữ dội tại miền Trung. Tôi hỏi chị:

- Thế anh Kiệt là phi công hả chị?

- Ừ! Anh ấy lái trực thăng.

Tôi làm ra vẻ hiểu biết:

- Sao chị không dọn ra ở Phù-cát với anh ấy luôn? Ở đây mỗi tuần gặp nhau chỉ có một lần, nhớ chết!

Chị Hảo cười vui vẻ:

- Em nói hay quá! Nhưng em biết gì mà nhung với nhớ. Coi bộ em lậm tiểu thuyết nhiều lắm nha!…

Thấy tôi mặt đỏ lên vì ngượng (không biết tôi đỏ mặt đến mấy lần rồi!), chị đưa tay ra đập đập trong không khí:

- Chị nói đùa cho vui! Từ nãy giờ chị cứ chọc em hoài, em có giận chị không?

Đứng nói chuyện với chị Hảo là một vinh dự đối với thằng con trai mười lăm tuổi như tôi. Giá chị cứ mắng nhiếc tôi mà vẫn được đứng nói chuyện với chị tôi vẫn còn cảm thấy thú vị nữa là vài ba lời chọc ghẹo vô thưởng vô phạt từ nãy giờ. Tôi nói thật với lòng mình:

- Chị có chưởi em vẫn còn được nữa là chọc. Chị đừng lo, em lì lắm.

Chị Hảo lại lườm tôi:

- Chà! Em khéo nói quá! Em lớn lên chắc cũng không vừa gì đâu! Mấy cô gái rồi chết hết với em. Càng nói chuyện chị càng thấy em giống tính anh Kiệt ghê?

Từ nãy giờ chị Hảo nhắc đến tên anh Kiệt đến mấy lần, lần nào cũng so sánh tôi với anh. Khi nhắc đến tên chồng, đôi mắt long lanh của chị ánh lên chút kiêu hãnh, khuôn mặt chị rạng rỡ, giọng nói của chị đầy vẻ trìu mến, thiết tha. Chẳng biết tính tôi có giống anh lắm không nhưng tôi chợt nhận ra chị đang nâng niu một tình yêu đậm đà với người chồng mà tôi chỉ mới nghe giới thiệu. Trong trí óc non nớt của tôi, tình yêu là một trạng thái tình cảm không tưởng, hầu như không có thật. Đọc nhiều đoạn tiểu thuyết diễn tả tình yêu như một loại trái cấm, ăn vào sẽ mắc nghẹn ở cuống họng, tôi cho đó là cường điệu. Còn mẹ tôi, ngay từ khi tôi còn nhỏ, đã ngăn cấm những chuyện liên quan đến phụ nữ chứ đừng nói đến chuyện yêu đương. Những gì có dính dáng đến đàn bà con gái mẹ tôi đều cho đó là điều cấm kỵ. Tôi còn nhớ những lần chạy chơi rượt đuổi mấy đứa bạn chui qua hàng dây phơi quần áo; trên đó có phơi mấy chiếc quần lãnh đen đàn bà và tôi bị gọi về ăn một trận đòn đích đáng kèm theo lời giải thích là muốn nên người thì đừng bao giờ chui qua quần đàn bà. Mẹ tôi còn dí ngón tay vào trán tôi phán rằng việc học của tôi sẽ chẳng đi đến đâu chỉ vì đầu óc đã bị ngu muội nhiều lắm rồi. Không biết đầu óc tôi lúc đó có bị lú lẫn hay chưa nhưng tôi vẫn còn đủ trí khôn suy xét và hiểu rằng mẹ tôi bày chuyện vô lý. Làm gì có chuyện chạy chui qua mấy cái quần đàn bà mà đầu óc lại ngu muội đi! Nghe như chuyện thần thoại. Mãi đến khi ngồi cắn bút vì mấy bài toán động tử ở lớp nhất tôi mới nhận thấy lời răn đe của mẹ tôi là đúng. Quả thật đầu óc tôi đặc sệt, chậm hiểu về toán học không thể tưởng được. Nhiều lúc không tìm được đáp số của bài toán, tôi tự vả vào má trách mình quá ham chơi chui qua mấy cái quần để giờ này ngồi nhăn mày bóp trán vì mấy bài toán. Theo lời mẹ tôi thì chui qua một lần đã thấy dốt rồi, còn tôi chui qua chui lại suốt mấy năm trường thì đến óc bác học cũng còn lú nữa là cái đầu thiếu chất xám của tôi. Lớn lên một chút, mẹ tôi lại càng cấm tiệt những gì dính dáng đến đàn bà con gái. Mẹ tôi răn đe rằng lớn lên là để học, dính vào chuyện yêu đương sớm chỉ có mụ người đi, người sẽ đờ đẫn ra như uống phải sữa người chết. Càng cấm tôi càng háo hức muốn nếm thử và dĩ nhiên chưa bao giờ có cơ hội. Đọc trong tiểu thuyết có những nhân vật chết lên chết xuống chỉ vì yêu, tôi chợt nghĩ sao dại dột thế, yêu nhau không được thì kiếm người khác, tội gì mà phải chuốc lấy cái khổ vào thân! Tôi cũng thèm muốn được yêu nhưng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ phải lụy vì tình. Đành rằng tình yêu cần thiết thật nhưng đâu đến nỗi phải hy sinh cả cuộc đời chỉ vì hai chữ tình yêu. Cho đến khi gặp chị Hảo, nghe chị nhắc đến tên anh Kiệt với những lời lẽ trân quý, tôi chợt nhận ra rằng tiểu thuyết và cuộc đời có lẽ giống nhau ở điểm này; quả thật trên đời có những tình yêu bất diệt, cho dù phải đánh đổi ngay chính mạng sống mình để gìn giữ nó. Nói khác đi, cuộc đời sẽ không còn ý nghĩa nữa nếu để vuột mất một mối tình chân như thế.
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #51 - 09. Nov 2006 , 01:03
 
Đó là lần đầu tiên tôi quen biết chị Hảo và dần dần biết thêm nhiều chi tiết về cuộc tình của chị. Những ngày kế tiếp, tôi không dám lên căn gác đọc truyện vì ngại chị Hảo bắt gặp. Tôi bỗng muốn chị nghĩ rằng tôi là thằng chăm học, lâu lâu đọc vớ vẩn vài ba cuốn tiểu thuyết, thế thôi. Muốn thế nhưng lại gây thế kẹt cho tôi là không còn chỗ nào lý tưởng để đọc lén cả. Chui qua nhà thằng bạn thì cũng không xong vì cha mẹ nó có cùng một mơ uớc về con cái như cha mẹ tôi. Hơn nữa, thằng bạn đọc truyện khổ sở hơn tôi nhiều. Nó lận cuốn sách trong người rồi chui vào cầu tiêu ngồi đọc. Đọc mê mẩn đến độ nó ngồi trong nhà cầu cả tiếng đồng hồ mà vẫn không hay, mãi đến khi bố nó muốn đi tiểu, gõ cửa mới lôi nó ra khỏi thế giới đầy những nhân vật mộng mị. Thế mà cha mẹ lại lo lắng sức khoẻ cho thằng con chỉ vì sợ nó mắc bệnh táo bón. Không còn kiếm được chỗ nào khác, tôi đành quay trở lại căn gác thả hồn theo những trang sách…

Nghỉ hè, ngày dài tháng rộng, tôi tha hồ đọc truyện và bước sang căn gác thăm chị Hảo. Thật sự, tôi không dám đường đột gõ cửa nhà chị nhưng vào một bữa trưa, khoảng hơn hai tuần sau ngày gặp gỡ, chị tất tả chạy lên gác tìm tôi, trong khi tôi đang chúi mũi vào cuốn tiểu thuyết của Quỳnh Dao. Chị vẫy tay:

- Này Hưng, chiều sang nhà chị ăn cơm nghe! Anh Kiệt về.

Tôi gấp sách, ngửng đầu lên:

- Vậy hả…,

Rồi tôi ngập ngừng:

- …Có sao không?

Chị Hảo lại đập tay vào không khí, giọng thân mật:

- Sao là sao? Anh em trong nhà cả chứ xa lạ gì. Để rồi xem, em sẽ mến anh Kiệt liền. Chiều qua chị nha.

Mặc dù gật đầu nhưng trong lòng tôi lại muốn từ chối. Từ chối là vì có cái gì vương vướng trong tâm tư. Anh Kiệt chăng?… hình như vậy. Trong suốt hai tuần, mỗi lần gặp tôi, chị đều say sưa kể chuyện về anh Kiệt; nào là chuyện quen nhau và yêu nhau, đã có những lúc giận nhau, rồi những tật xấu nho nhỏ của anh mà theo lời chị – bây giờ chị đã đâm nghiện, không có là thấy nhớ nhớ thế nào ấy. Khi sôi nổi kể chuyện, chị Hảo miên man và đắm chìm vào một thế giới riêng tư mà trong đó chỉ có chị và anh Kiệt, ngụp lặn trong tình yêu nồng nàn say đắm. Có lúc chị say sưa kể chuyện gần như độc thoại và không còn biết sự hiện diện của tôi nữa. Cứ nghe chị Hảo hễ một chút là nhắc đến tên anh Kiệt khiến tôi bỗng… ghen thầm với anh, một người đàn ông mà tôi chưa hề biết mặt. Không biết người đàn ông đó có gì khác biệt để chị Hảo yêu thương nồng thắm đến thế? Trong thâm tâm tôi không muốn gặp anh Kiệt, một người đàn ông hơn hẳn tôi về mọi mặt, nhất là đã chiếm trọn trái tim của chị Hảo, một người đàn bà mà đối với tôi gần như tuyệt hảo. Chỉ mới biết chị có hai tuần thế mà tôi đã đặt chị vào một vị trí trang trọng nhất trong tâm tư và có lúc tôi đã mơ nghĩ đến sau này phải có một người yêu rập theo khuôn mẫu của chị. Tình cảm của tôi dành cho chị Hảo đặc biệt đến thế nên tôi phải nhận lời và vì tôi không muốn thấy chị buồn. Đời của chị phải là một chuỗi ngày kết hợp những niềm vui. Tôi nghĩ chị sinh ra là để tận hưởng hạnh phúc chứ không phải để u sầu. Chỉ mới tưởng tượng đến khuôn mặt ủ dột của chị tôi đã cảm thấy xốn xang trong lòng chứ đừng nói đến thấy những giọt nước mắt rơi trên gò má đỏ hồng tự nhiên của chị. Tôi còn bị mê hoặc bởi giọng nói của chị trong veo như sương mai đọng trên lá non và nghe du dương như tiếng chim hót mỗi sáng trên đầu ngọn cây. Có lúc tôi đã ngồi lặng yên hàng giờ để tưởng tượng đến khuôn mặt của chị và tin chắc rằng những lời nói trầm bổng phát xuất từ đôi môi chúm chím đó có khả năng sai khiến tôi, thằng con trai mới lớn chớm biết mộng mơ. Ôi! Nếu không một ai có thể từ chối lời mời mang nhiều âm hưởng liêu trai của chị Hảo, thì tôi làm sao có thể từ chối được.

Chiều hôm đó, tôi lững thững bước sang căn gác chị Hảo. Vừa đẩy cửa bước vào, một mùi xào nấu thơm lừng xông thốc vào mũi làm tôi cồn cào cả bụng. Đồ đạc được bày biện sơ sài nhưng trông thật ngăn nắp, gọn gàng. Căn gác khá rộng, gần như được chia làm hai bên. Bên phải tôi là căn bếp, gồm một tủ đựng thức ăn, nồi niêu xoong chảo treo hết trên vách. Hai bếp dầu hôi đỏ rực lửa, đang ra sức thúc chín thức ăn. Ở góc bếp có chắn hai tấm tôn nhỏ bao quanh đề phòng lửa bén vào vách gỗ. Chị Hảo ngồi trên một cái đòn, quay lưng về phía tôi, bàn tay cầm đũa thoăn thoắt đảo qua đảo lại trong nồi. Mái tóc được búi lên cao, chị mải làm bếp nên không biết tôi đang đứng ở ngưỡng cửa căn gác. Ngay sát chỗ tôi đứng là một chiếc bàn nhỏ, bốn chiếc ghế xếp bằng sắt dùng để ăn cơm. Nhìn sang bên phải, tôi thấy một chiếc bàn gỗ lớn hơn, trông khá chắc chắn nhờ bốn cái chân to bản, chung quanh có sáu chiếc ghế đặt ngay ngắn. Xa hơn là tấm màn gió kéo ngang nửa chiều dài của căn gác rồi chạy thẳng sâu vào phía trong làm thành hình thước thợ. Mặc dù không thấy gì ở phía sau tấm màn nhưng tôi biết chắc là cái giường ngủ, tổ ấm của vợ chồng chị Hảo.

Tôi cứ đứng tần ngần ở đó mà không biết làm gì. Nhìn chị bận rộn với công việc bếp núc, tôi nửa muốn gọi chị Hảo, nửa muốn không. Đang ngơ ngơ ngáo ngáo, tôi giật mình khi nghe tiếng từ phía sau:

- Ủa! Sao đứng ngoài này vậy. À! Hưng phải không?

Quay lại, tôi bắt gặp một thanh niên to cao mặc áo thun trắng, quần đùi, mái tóc hớt cao dang nhìn tôi cười cười. Đoán ngay là anh Kiệt, tôi nép người sang bên:

- Dạ phải. Anh là anh Kiệt?

Anh gật đầu nói vào nhà chơi đi em, đến lâu chưa?… rồi đẩy đẩy tôi bước vào nhà. Nghe tiếng động, chị Hảo đang làm cơm quay lại:

- Hưng hả? Vào đây em.

Anh Kiệt đi ra phía sau bức màn:

- Ngồi đi em. Anh ra liền bay giờ.

Khuôn mặt chị Hảo đỏ hồng vì bếp lửa:

- Chờ chị nghe. Cơm sắp xong rồi. Còn món xào nữa là mình ăn cơm.

Tôi rón rén ngồi xuống ghế, hai tay xếp gọn trên đùi. Giọng anh Kiệt ồn ào:

- Uống gì không em? Nước chanh nhé?

Tôi rụt rè:

- Thôi… anh cho em nước lạnh cũng được.

Tiếng chị Hảo từ phía bếp vọng lại:

- Cứ tự nhiên nghe Hưng. Sắp xong rồi đây. Anh em ngồi nói chuyện một chút là có cơm liền.

Thấy ai cũng chú ý săn sóc, tôi càng lúng túng. Có lẽ tôi lúng túng với anh Kiệt thì đúng hơn. Đó là một thanh niên cao lớn, khoẻ mạnh, giọng nói sang sảng. Đôi lông mày rậm chạy gần suốt chiều dài của vầng trán cao và rộng. Mắt to đen, sống mũi thẳng, miệng khá rộng, trên môi lúc nào cũng gần như nở nụ cười. Nhìn chung, khuôn mặt anh dễ nhìn nếu không nói là đẹp trai. Điểm đặc biệt đập vào mắt tôi là cặp lông mày đen rậm chạy nhạt dần về phía sống mũi, gần đụng vào nhau, làm cho khuôn mặt anh trở nên nghiêm nghị hơn. Mới nhìn thoáng, trông như một vệt đen chia hẳn khuôn mặt ra hai phần không đồng đều. Đọc truyện Tam quốc, tôi mường tượng đến cặp lông mày của Quan Công, một dũng sĩ dưới trướng Lưu Bị. Dáng anh Kiệt có lẽ cũng oai hùng như viên tướng chặn đường rút của Tào Tháo ở Hoa Dung, suýt chặt đầu tên thừa tướng làm đảo lộn cái thế chân vạc thời Tam quốc. Cái vệt đen ngăn chia khuôn mặt trở thành nét đặc thù của anh Kiệt. Người ta khó quên được một khuôn mặt như thế. Mãi về sau, khi lớn lên, nhờ đọc ít chút sách tướng theo kinh nghiệm của người xưa, tôi mới chợt hiểu ra định mệnh đã gắn liền với cái vệt đen trên khuôn mặt điển trai của anh.

Anh Kiệt thân mật hỏi tôi nhiều chuyện; đại khái học hành ra sao rồi, lớp mấy, có bồ gì chưa…v..v. Đang bưng đĩa thịt đặt lên bàn, chị Hảo xua tay:

- Trời ơi, cái anh này, hỏi gì mà kỳ vậy. Hưng nó còn nhỏ biết gì mà bồ bịch.

Rồi quay sang tôi:

- Phải không em?

Lắc đầu cho câu hỏi của anh Kiệt và gật đầu cho câu hỏi của chị Hảo, tôi ngồi im lặng không biết nên trả lời ai trước. Anh Kiệt nhái câu nói của chị Hảo:

- Trời ơi, cái “chị” này, chuyện đàn ông con trai chúng tôi “chị” xía vào làm gì.

Chị Hảo làm mặt xấu dọa chồng:

- À! dám cãi lại hả, “chị” lại không cho ăn cơm bi giờ.

Nhìn hai vợ chồng cười đùa tự nhiên, tôi chỉ biết gượng cười. Họ pha trò với nhau xem như không có tôi đang ngồi trước mặt. Tôi bỗng thấy mình thừa thãi, tay chân lại lúng túng như lần chị Hảo bắt gặp ngồi đọc truyện. Có điều tôi không ngờ nếp sống gia đình của chị Hảo lại có những tiếng cười dòn tan đến thế.

Cuối cùng, bữa cơm chiều được bày biện ra bàn. Một đĩa thịt kho với trứng, món đậu chiên và tô canh chua bốc khói. Anh Kiệt ăn rất ngon miệng, còn chị Hảo luôn tay gắp thức ăn cho anh Kiệt và tôi. Chị cứ luôn miệng dục tôi ăn, đừng làm khách. Anh Kiệt ồm oàm:

- Ăn đi nghe Hưng, con trai phải ăn mạnh vào cho to con mà lái trực thăng như anh nè.

Chị Hảo bĩu môi:

- Thôi đi ông tướng. Cứ làm như lái trực thăng là số một không bằng.

Và vội miếng cơm, anh cười cười:

- Em học lớp đệ Tam rồi phải không? Sang năm là thi Tú-tài rồi còn gì. Thế sau khi đậu em tính gì chưa?

Tôi bỏ bát cơm xuống bàn:

- Chưa anh, mà em cũng không biết tính gì nữa. Học thì học vậy thôi chứ em chưa biết phải làm gì. Mà có chắc đậu không nữa. Nếu không thì lại phải đi lính như mọi người.

- Gắng lên, cố mà đậu. Giật cho được mảng bằng rồi xin đi bay như anh để cho biết cái thú đi mây về gió…

Anh Kiệt ngửa người ra sau, giọng sảng khoái:

- …mà không dễ đâu nghe. Để anh nói cho em hiểu. Trước hết, muốn bay phải có Tú tài, phải to con cao ráo và điều quan trọng nhất là… phải đẹp trai nữa.

Mấy chữ cuối, anh nheo mắt chọc chị Hảo làm chị lúng búng suýt bị sặc. Chị nuốt vội miếng cơm, đưa tay che lấy miệng:

- Chời ơi! Xuống đây mà xem chồng tôi khen mèo dài đuôi nè.

Mặt tôi đỏ bừng khi nghe nói đến đẹp trai. Lứa tuổi trổ mã của tôi hiện rõ trên khuôn mặt đầy mụn, chưa kể đến những vết nám đen mọc lỗ chỗ kết quả của nhiều lần đứng trước gương nặn mụn non. Khuôn mặt như thế chỉ chọc con nít khóc đêm chứ làm sao đẹp trai được. Bởi vậy tôi đâm ngượng với chị Hảo. Khi thấy tôi đỏ mặt chị thật tinh ý hiểu ngay và đỡ lời:

- Để rồi xem, Hưng học bay đi em nhưng đừng thèm lái trực thăng nữa. Cỡ em lái A37 mới xứng.

Tôi cũng chẳng nói gì để phụ họa. Chuyện tương lai đối với tôi lúc đó quá xa vời, biết ra sao mà bàn. Bởi vậy tôi chỉ cười im lặng và cơm. Anh Kiệt rất niềm nở, xem tôi như một người em thật nhưng tôi lại không cảm nhận được hoàn toàn sự hiếu khách của anh. Đây là lần đầu tiên tôi gặp anh chứ không như với chị Hảo, chị em đã nói chuyện cả mấy tuần qua nên đã thân quen. Hơn nữa, anh Kiệt hay pha trò chọc chị Hảo cười, gần như không cần biết sự hiện diện của tôi. Thấy anh âu yếm cười giỡn với chị Hảo, tôi bực tức… ghen thầm. Trong thâm tâm, tôi bỗng có đôi chút ác cảm với anh Kiệt.

Kể từ hôm đó, tôi thường qua thăm chị Hảo, nhất là những ngày thiếu vắng anh Kiệt. Chị em đã thân thiện hơn nhiều lắm. Mỗi lần được ngồi nói chuyện với chị là một hân hạnh mà tôi không bao giờ khước từ. Chị em khi gặp nhau nói đủ chuyện, từ chuyện trường, chuyện học, chuyện mấy thằng bạn dở dở ương ương. Thế mà chị ngồi nghe chuyện chăm chú. Bù lại, chị kể chuyện ngày xưa đi học, chuyện anh Kiệt đi bay về phép gặp chị, chuyện yêu nhau rồi lấy nhau. Theo lời chị, đang học dở dang ở Văn-khoa thì lấy chồng. Khi anh Kiệt đổi ra căn cứ Phù cát chị theo chân chồng cho phải đạo. Thuyền theo lái gái theo chồng, chị Hảo nói vậy. Cũng theo lời chị, nếu chị ở lại Sài-gòn với gia đình thì vợ chồng ít gặp nhau, trừ những ngày nghỉ phép thường niên. Còn nếu chị thuê nhà ở Qui-nhơn thì cứ vài tuần anh Kiệt lái xe về, vợ chồng lại có nhau. Cái gì cũng không bằng ở gần, chị bảo thế. Chị thú nhận những ngày vắng anh Kiệt như thế này, chị nhớ anh quay quắt và nhiều khi nỗi nhớ nhung hành hạ, chỉ biết ngồi thở vắn thở dài chứ không tha thiết một chuyện gì. Thời gian khắc nghiệt vắng chồng trôi qua lừ đừ, chậm rãi như muốn chọc tức kéo dài khoảng không gian cô đơn để chị ngồi ngẩn ngơ bên song cửa. Tôi không mường tượng được cái nhớ nhung da diết của chị và cho rằng đàn bà thường chuyện bé xé ra to. Tôi lại lẩn thẩn nghĩ hay là chị Hảo biết tôi “yêu” chị nên cố ý kể chuyện nhớ nhung anh Kiệt chọc tức tôi. Nếu thế thì chị đã thành công vì rõ ràng “tình địch” hơn hẳn tôi về mọi mặt, kể cả bằng cấp, sức vóc, đẹp trai và nhất là hình ảnh của “hắn” chiếm trọn trái tim của chị. Không biết còn một góc nhỏ đâu đó trong trái tim chị Hảo dành cho tôi hay không? Chị kể những đêm quỳ gối nguyện cầu Thượng Đế gìn giữ chồng và mong đất nước sớm chấm dứt chiến tranh để những chinh phụ như chị đếm thêm những năm hạnh phúc trên bàn tay. Em có thấy ước mơ tầm thường không, chị đặt tay lên vai tôi hỏi. Đến lúc đó tôi lại cảm thấy chị thật tội nghiệp và chỉ mong ngày mai anh Kiệt về ngay với chị để đôi mắt chị Hảo sáng ngời niềm vui, để nghe lại giọng nói hớn hở và tiếng cười dòn tan nở rộ trên căn gác nhỏ. Chị Hảo thở dài nói chị rất hiểu vai trò của người vợ trong thời chinh chiến, nhất là khi làm vợ lính. Chị tâm sự:

- Em biết không, lấy chồng lính là chấp nhận thương đau. Chị có người bạn, mới lấy nhau được vài tháng đã trở thành goá phụ. Con bạn chị mới 17 tuổi, vậy mà đã mang tiếng một đời chồng, em thấy có tội không. Nhìn nó mà chị khóc hết nước mắt. Mà tại duyên số cả em ơi, chị cố tránh mà vẫn vướng phải nợ lấy chồng lính. Khi yêu nhau thì phải chấp nhận tất cả. Chị bằng lòng đánh đổi cả cuộc đời để chỉ sống với người mình yêu vài tháng, may mắn hơn được vài năm. Chị lấy anh Kiệt thế đã được hơn hai năm rồi, cho nên những ngày tháng bây giờ vẫn còn có nhau là ơn Trời Phật ban. Chị không mong muốn gì hơn.

Để khuây khỏa những ngày thiếu vắng chồng, chị Hảo xin dạy lớp mẫu giáo ở một trường tư thục Công giáo. Chị yêu con nít và rất mong có một đứa con với anh Kiệt. Nhưng đi phép thất thường như thế này thì không biết khi nào chị mới được toại nguyện. Tôi chán con nít, nuôi nấng khổ cực chứ sung sướng gì. Cứ nhìn mẹ tôi nuôi mấy đứa em thì hiểu ngay đó là một nỗi khổ. Những gì mong ước của chị Hảo đều là ước mong của tôi vì thế tôi lại cầu nguyện chị sớm có con, để bồng bế cho bõ những lần chép miệng thở dài. Vài ba tuần, anh Kiệt lại về. Tôi lại sang thăm và trong tim lại nhói đau khi nhìn thấy cử chỉ săn sóc âu yếm của anh. Cứ thế, cuộc sống đầy ắp tình yêu nồng cháy của chị Hảo trôi đi lặng lẽ, ba tháng hè của tôi cũng chập chờn biến mau theo ngày tháng.

Mùa hè tuổi dậy thì năm đó mang nhiều kỷ niệm đáng yêu và sự quen biết chị Hảo là kỷ niệm đáng yêu nhất. Trở lại trường, tôi hãnh diện kể lại câu chuyện quen biết chị Hảo, thêm thắt vào đó một vài câu đối thoại tưởng tượng, làm đám bạn há hốc miệng nghe cứ như chuyện thần thoại. Câu chuyện quen chị Hảo đúng ra kể lại chưa đầy năm phút, thế mà tôi tán rộng ra đến gần nửa tiếng, vậy mà mấy thằng bạn cứ ngồi đờ ra nghe chuyện mê mẩn. Đến đoạn diễn tả nhan sắc của chị Hảo, tôi phun ra những từ ngữ đẹp nhất, duyên dáng nhất (học lỏm trong tiểu thuyết) và dĩ nhiên cả bọn nhao nhao đòi leo lên căn gác nhà tôi để xem tận mắt. Có thằng đi nước cờ cao, bĩu môi bảo rằng tôi nói dóc, làm gì có người đẹp như mày kể, có thấy tao mới tin. Tôi phất tay từ chối, nói không cần chúng mày kiểm chứng, tin hay không tin thì tuỳ. Thâm tâm tôi không muốn chị Hảo quen ai ngoài… tôi cả; anh Kiệt là chồng thì không kể, còn ngoài ra chị phải là thần tượng của riêng tôi, một mình tôi thôi. Thì thằng con trai mới lớn nào chẳng ích kỷ như tôi, nhìn đời qua tấm giấy kiếng màu hồng và trong đó tình yêu phải tuyệt đối như những lần hiện ra trong giấc mơ.

Một buổi tối rảnh rỗi, tôi bước chân sang căn gác thăm chị Hảo. Cả tuần bận học thi Tam Cá Nguyệt nên tôi phải bế môn tỏa cảng ôn bài (thì xem tiểu thuyết cũng có lúc, tôi cũng biết lo lắm chứ!), môn cuối cùng vừa thi xong lúc chiều, thế là nhẹ gánh tang bồng, tối nay tha hồ ngồi chuyện trò với chị Hảo. Trời tối mù, bước lên cầu thang dẫn lên căn gác tôi vấp đến mấy lần. Căn gác đêm nay yên ắng lạ thường, tôi gõ nhẹ lên cánh cửa, miệng gọi chị Hảo ơi. Không một tiếng trả lời. Vô lý chị ra Phù-cát thăm anh Kiệt, thường thường khi đi chị hay dặn tôi trông coi nhà dùm chị. Chưa bao giờ chị đi mà quên không nói với tôi một tiếng. Ngày hôm qua tôi còn thấy chị đi chợ về kia mà nhưng sao bây giờ vắng lặng như tờ. Căn gác tối mịt, loáng thoáng có ánh đèn mờ hắt ra từ kẽ hở bức vách. Tôi gọi tên chị Hảo lần nữa, lần này tôi nghe tiếng khóc thút thít vẳng lên đâu đó. Bỗng nhiên tóc tôi dựng đứng như lông nhím. Bóng tối phủ chụp lên tôi đe dọa, tiếng lá cây sầu đông xào xạc trong đêm nghe như ai đang kể lể thở than, và tiếng khóc nỉ non vang lên từ cõi u linh nghe thật não nùng ai oán. Tôi rùng mình. Tôi gọi chị Hảo to hơn và lần này tôi nhận ra tiếng khóc phát xuất từ bên trong. Tôi đẩy nhẹ cửa bước vào.

Căn phòng tối hẳn ở nửa căn bếp, bên phía bàn ăn khoảng ánh sáng lờ mờ phát ra từ ngọn đèn néon trắng đục và tôi thấy chị Hảo ngồi yên như một pho tượng. Mái tóc che nửa khuôn mặt, cằm tựa vào đôi tay chắp lại như nguyện xin. Khi bước đến gần, tôi nhận thấy trên đôi tay chị treo lủng lẳng sợi dây và cuối sợi là một tấm thẻ bài đong đưa theo tiếng nấc. Tiếng khóc nhỏ nhẹ nghe như một lời than van, đầy vẻ ẩn nhẫn, chịu đựng. Hình như chị đang cố nhận chìm nỗi đau khổ xuống tận đáy lòng. Một giọt nước mắt lăn trên gò má, rơi rụng trên tờ giấy đặt trên bàn có ghi hàng chữ. Tôi đoán được phần nào câu chuyện. Nỗi lo sợ của người chinh phụ về một ngày tiễn đưa chồng đến mộ huyệt đã bị định mệnh ác độc âm thầm chọn lựa. Định mệnh hôm nay đã chọn chị – trong số muôn ngàn người vợ chinh phu – để chít khăn tang và khoác vội tấm vải sô lên người. Chị ngồi đó với tiếng nấc, đôi mắt nhìn xuống nỗi đau khổ trải dài trên trang giấy mà tôi đoán có lẽ là lá thư anh Kiệt viết cho chị. Một kỷ vật chăng? hoặc lá thư viết xong chưa gửi đi thì tử thần đổ chụp lên số mạng? Tôi đang đứng trước mặt chị mà chị không hề biết sự hiện diện của tôi. Chị đắm chìm vào một quá khứ như cố níu giữ hình bóng người chồng mà giờ đây đã cách xa diệu vợi. Khi hiểu được sự tàn nhẫn của cuộc đời, tôi đứng ngây người nhìn chị mà không nói được lời nào an ủi. Tôi yên lặng để cố chiêm niệm nỗi đau khổ cùng cực của người vợ mất chồng, những người vợ đã nức nở bóc đi một phần lớn – nếu không nói là tất cả – tâm hồn để dâng hiến cho tổ quốc.

Tôi có cảm nhận được sự đau khổ mà chị Hảo đang gánh chịu không? Có lẽ được nhưng không thể ở mức độ mà chị đang cắn răng cố nuốt lấy cái thực tại đầy nghiệt ngã. Chỉ có những người vợ, nhận được tin dữ, cầm trong tay tấm thẻ bài oan khiên rồi mới thấm thía hết nỗi thương đau của một mất mát không thể nào bù đắp được. Mặc dù không cảm thông hết nỗi khổ của chị Hảo nhưng hình ảnh não nùng của chị ngồi khóc đêm hôm đó đã hằn sâu trong tâm khảm tôi những đường nét vĩnh cửu, bất diệt so với thời gian. Nó đục khắc trong tâm thức tôi những góc cạnh mà mãi sau này khi trôi nổi trên đường đời, trải qua biết bao đắng cay của cuộc sống, tôi vẫn hình dung được một chị Hảo, hai tay ôm lấy tấm thẻ bài, ngồi u sầu bên mối tình vừa chết tức tưởi. Với muôn ngàn hình ảnh thân yêu nằm sâu trong ký ức, tôi chỉ thấy nổi bật hình ảnh chị Hảo, nhất là những khi bị chà đạp dưới bùn đen. Trong mỗi tận cùng của gian truân tôi lại chợt nhớ đến lúc chị ngồi khóc dưới ánh đèn mờ. Và chính hình ảnh đó đã thôi thúc tôi vươn lên để sống, vượt qua được ý nghĩ tuyệt vọng khi tôi bị hành hạ dã man ở đáy địa ngục trần gian, biết cảm nhận một nỗi đau của người dễ dàng hơn, và biết thương xót khi nhìn những người kém may mắn hơn mình. Cũng vì dễ cảm thông với những bất hạnh xảy ra chung quanh, tôi hành xử tự trọng hơn, đối xử với người đại lượng hơn, khoan dung với đời và nhất là dễ dàng chia sẻ những gì đang có với những người xấu số. Tôi thầm cám ơn chị đã ban tặng cho tôi một hình ảnh bi tráng và tôi hằng trân quý gìn giữ qua bao thăng trầm. Sau này khi lớn lên, tôi thấy một tấm hình nổi tiếng của nhiếp ảnh gia Nguyễn ngọc Hạnh, chụp một thiếu nữ có mái tóc che kín nửa khuôn mặt, giọt nước mắt lăn trên gò má, đôi tay khoác tấm thẻ bài. Tất cả giống như hình ảnh chị Hảo đêm hôm đó nhưng đối với tôi tấm ảnh đó vẫn vô hồn, nó không thật vì có thể được dàn dựng và vì tôi không là chứng nhân nỗi thương đau cùng cực mà người thiếu phụ muốn diễn tả. Đành rằng ông Hạnh cũng rung cảm bắt nhận được nỗi khổ đau của người vợ trẻ nhưng đối với tôi hình ảnh sầu muộn của chị Hảo thật quá, rõ quá và chỉ cách tôi có một sải tay.

Tôi vòng qua bàn, tiến đến đứng sát bên chị. Đôi mắt chị vẫn nhìn xuống. Nước mắt đã thấm ướt phần dưới của lá thư. Đúng là lá thư anh Kiệt viết cho chị với dòng chữ nguệch ngọac: Chắc anh không qua được, Hảo ơi! Yêu em mãi. Quá cảm xúc, tôi đặt tay lên vai chị, giọng run run:

- Chị Hảo…

Bàn tay đang ôm tấm thẻ bài thả xuống, chị ngả đầu vào người tôi, giọng nức nở:

- Anh Kiệt mất rồi, Hưng ơi…

Tôi có cảm giác chị cố chống đỡ với số mạng, giữ cho người được thăng bằng. Đến khi biết tôi đứng bên cạnh, chị không còn hơi sức nữa, tựa hết thân hình vào người tôi, đôi bàn tay thả rơi tấm thẻ bài. Tiếng kim khí rơi từ một độ cao vừa phải va chạm mặt bàn nghe khô cứng, sắc nhọn và lạnh lùng như Tử thần vung lưỡi hái hớt đi một mạng người. Một mạng người rơi rụng như hàng ngàn cái chết xảy ra trên mảnh đất khốn khổ này nhưng có những cái chết không bao giờ nguôi ngoai, không thể nào phôi phai trong tâm trí của người thân. Mãi mãi vẫn là một cái gì bất diệt, thiên thu.

Tôi bật khóc. Bàn tay tôi quàng ôm lấy vai đỡ cho chị ngồi thẳng dậy. Người chị mềm nhũn như bún. Tôi quỳ xuống, ôm lấy chị. Một tay tôi nắm lấy thành ghế để giữ thăng bằng, tay kia đỡ lấy bàn tay chị Hảo. Chị lả người, cả thân hình đổ ụp vào vai tôi. Nước mắt chị rơi thấm ướt khoảnh áo trước ngực. Chị khóc nhớ thương anh Kiệt, còn tôi khóc vì thấy chị đau khổ qua cái chết của người chồng. Hai chị em khóc thật tự nhiên. Tôi ôm lấy chị là theo bản năng của một đứa con trai khi thấy một phụ nữ yếu đuối cần nâng đỡ, đến khi ngừng khóc, tôi chợt bàng hoàng khi thấy chị Hảo yếu đuối đang nằm trong vòng tay của tôi. Mặc dù tôi với chị Hảo là tình chị em nhưng khi ôm chị lòng tôi bỗng bồi hồi khôn xiết. Tôi ước mơ giá tôi lớn hơn chị vài tuổi để tôi quàng tay qua eo chị, vỗ về ủi an và vuốt ve suối tóc của chị. Tôi quỳ như thế không biết bao lâu, người như lịm đi trong cảm giác đê mê lần đầu có người con gái khóc trên vai. Lòng tôi ao ước cứ được ôm chị như thế này mãi để an ủi chị, cho dù làm thân trâu ngựa cho chị cũng bằng lòng. Cho đến khi cảm giác tê nhức ở hai đầu gối đánh át cảm giác đê mê khó tả thì tôi mới cắn răng đỡ chị ngồi thẳng dậy. Chị Hảo gắng gượng ngồi lên rồi nửa thân hình lại đổ ập xuống mặt bàn, đầu nghiêng hẳn qua bên. Tôi thấy rõ mắt chị mở trừng trừng, vô hồn. Thân xác chị ở đây nhưng tâm trí chị đang phiêu du ở một nơi chốn nào đó không ai biết; có lẽ đang bay theo mây về nơi anh Kiệt yên nghỉ. Tôi nâng chị dậy, dìu chị đến bên giường, đỡ chị nằm xuống, và lấy tấm khăn mỏng đắp lên người. Chị hoàn toàn thụ động, bước đi như người mộng du, không thốt một lời. Căn gác lại chìm vào một sự yên lặng rợn người, thỉnh thoảng có tiếng con thạch sùng tặc lưỡi đâu đó trên trần nhà. Bóng tối buồn bã đổ tràn trên căn gác. Tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn, hai tay ôm lấy đầu không biết phải làm gì. Trong bóng đêm mông lung, lần đầu tiên tôi chợt thấy thấm thía hai chữ cô đơn.

Tôi giật thót người khi nghe tiếng chị Hảo mơ màng:

- Anh ơi… anh ơi…

Vặn ngọn đèn cho sáng hơn, tôi chạy vội lại phía giường, miệng kêu rối rít:

- Em đây… em đây, chị Hảo.

Chị nằm nghiêng, xoay mặt về phía tôi, nước mắt đoanh tròng. Ôi! Đôi mắt, làm sao tôi có thể diễn tả được đôi mắt của chị. Hình như trong ánh mắt, chị nhận ra tôi. Giọng chị rã rời:

- Hưng hả em…

Tôi lại quỳ xuống bên chị:

- Chị cứ nghỉ cho khoẻ, em ngồi đây với chị.

Chị vói tay đặt lên vai tôi:

- Cám ơn em…

Chưa bao giờ tôi nhìn sát khuôn mặt của chị đến thế. Giọng tôi run run:

- Chuyện làm sao chị kể cho em nghe đi.

Chị ngẩn ngơ một lúc rồi thở dài:

- Hồi chiều có người sỹ quan cùng đơn vị với anh Kiệt đến báo tin cho chị. Anh nói là anh Kiệt tải thương binh, cố đáp xuống vùng địch bao vây để chở cho được mấy người lính bị thương về hậu cứ. Nếu không chở mấy anh đó về được thì chắc chắn họ phải chết vì cần phải tiếp máu. Anh bị trúng đạn bên hông nhưng giấu không cho ai biết. Chở về đến nơi thì… thì… anh ngất xỉu…

Chị bật khóc thành tiếng:

- …chở vào bệnh viện thì không kịp nữa vì đạn trúng chỗ hiểm. Bác sĩ cố đủ mọi cách nhưng anh Kiệt chỉ tỉnh dậy viết vội cho chị… cho chị mấy chữ rồi… rồi ra đi…

Tôi nắm lấy tay chị, nước mắt rưng rưng:

- Chị Hảo ơi, em không biết nói sao nữa… mỗi người có một số mạng… em chỉ xin chị cố giữ sức khoẻ để còn lo ma chay cho anh Kiệt.

Giọng chị nghẹn ngào:

- Cám ơn em. Chị đã chuẩn bị để đón nhận tin dữ từ lâu nhưng đến khi xảy ra vẫn không sao lường trước được lòng mình. Buồn quá Hưng ơi. Cám ơn em ở đây với chị. Có em một bên chị cũng an ủi được một phần. Ngày mai, chị đi Phù-cát nhận xác anh Kiệt rồi có lẽ theo máy bay về Sài-gòn luôn.

Tôi sửng sốt:

- Thế còn nhà cửa đây ai giữ?

- Nhà chị sụp rồi, còn gì mà giữ hả em…

Rồi chị lẩm bẩm cái gì đó tôi nghe không rõ. Và chị lại chìm vào thế giới riêng của chị. Người chị lúc tỉnh lúc mơ. Tôi nghe tiếng chị ú ớ gì đó rồi tất cả lại chìm vào yên lặng. Đêm hôm đó tôi ngồi canh thức cho chị ngủ và mệt mỏi quá tôi thiếp đi trên ghế lúc nào không biết. Trong cơn mơ màng tôi loáng thoáng nghe đâu đó giọng hát của một ca sĩ: ngày mai đi nhận xác chồng, quay đi để thấy mình không là mình…

Đó là lần cuối cùng tôi gặp chị Hảo.



Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #52 - 09. Nov 2006 , 01:04
 
Không ngờ mười sáu năm sau tôi gặp lại chị vào một hoàn cảnh khá lạ lùng.

Trong suốt mười sáu năm, biết bao chuyện vật đổi sao dời. Kể từ đêm chị Hảo nhận được hung tin, ngày hôm sau chị ra Phù-cát nhận xác anh Kiệt rồi theo máy bay về Sàigòn luôn. Tôi ngóng chờ mãi vẫn không thấy chị quay trở lại. Độ chừng hơn tuần sau, có người đàn bà đến thuê xe chở hết đồ đạc đem bán, trả lại căn gác cho chủ. Tôi không được chứng kiến, chỉ nghe nói lại vì chuyện xảy ra vào một buổi sáng trong khi tôi đang ở lớp học. Xế trưa về đến nhà thì mọi chuyện đã xong xuôi, người đàn bà cũng đi mất nên tôi không thể hỏi thăm về chị Hảo. Lòng tôi trống vắng như căn gác đìu hiu. Nửa năm học đệ Tam trôi qua buồn chán, đã biếng tôi càng không mấy thiết tha đến sách vở. Người tôi lờ đờ cứ như người thất tình. Mà tôi thất tình thật, tôi nhớ chị Hảo quay quắt. Buổi chiều, tôi bước lên căn gác, thẫn thờ nhìn sang nhà chị Hảo và thấy lòng quạnh hiu hơn bao giờ. Hàng cây sầu đông vẫn reo vui trong gió, trời mây vẫn xanh ngắt một màu vậy mà lòng tôi thổn thức khôn nguôi. Dãy ban-công nơi chị tựa người hỏi chuyện tôi lần đầu, nhắm mắt lại tôi vẫn hình dung được một chị Hảo đang tươi cười nhìn tôi. Ngồi bệt xuống sàn, tôi lẩm bẩm gọi tên chị Hảo…

Hết năm đệ Tam, tôi trở nên trầm lặng hơn, có lẽ vì nỗi nhớ miên man một chị Hảo ngày nào đẩy tôi vào tình trạng câm nín. Đối với tôi, mất chị Hảo thì chẳng còn gì quan trọng trên cõi đời này nữa. Sang năm đệ Nhị (lúc này được gọi là lớp 11), tôi tìm quên sự nhớ nhung bằng cách vùi đầu vào việc học; hơn nữa đó là năm thi. Thỉnh thoảng ngồi học bài trên căn gác, tôi chợt nhớ đến chị nhưng rồi sách vở lại kéo tôi ra khỏi mộng mơ. Cuối năm đó tôi may mắn thi đậu. Được đà tôi thi đậu luôn Tú tài toàn phần vào năm sau. Đứng ngấp nghé ở ngưỡng cửa đại học, tôi suy nghĩ, hỏi ý kiến của ba tôi và cuối cùng quyết định nộp đơn theo học ở trường Võ bị Đà-lạt, chọn quân đội làm nghiệp dĩ. Tôi quên mất lời khuyên đi Không quân của anh Kiệt để lái trực thăng. Trường Võ-bị đào tạo cho tôi cả 2 mặt quân sự và văn hóa. Khoá 29 chúng tôi học được 3 năm thì xảy ra chuyện Ban-mê-thuột. Ban đầu chúng tôi không chú tâm lắm, vì tin chắc bọn cọng quân sẽ chuốc lấy thảm bại. Mãi đến khi nghe lệnh di tản chiến thuật của ông Thiệu bỏ cao nguyên, chúng tôi bàng hoàng không tin ở tai mình. Đà-lạt là một trong ba cao nguyên, trong đó cao nguyên Đắc-lắc chiếm vị trí chiến lược quan trọng. Đứng ở Ban-mê-thuột, có thể nhìn sang được đất Miên, dễ dàng đổ quân xuống Nha-trang, chận đường tiến quân từ miền Trung. Có thằng bạn học chung khoá mở miệng chưởi rủa nói bỏ Ban-mê-thuột là quyết định sai lầm không thể chấp nhận được. Nó nói thêm tao không phải là nhà chiến lược quân sự tài ba gì mà còn thấy được điều đó, thì ông Thiệu phải thấy rõ hơn tao nữa. Bỏ Ban-mê-thuột thì cũng giống như đưa dao cho nó cứa cổ. Nó đưa hai tay lên trời lắc đầu than chết hết rồi chúng mày ơi. Quả đúng như nó dự đoán, tin tức mất Huế, Đà-nẵng và các tỉnh miền Trung đổ về dồn dập. Đà-lạt cũng bị áp lực nặng nề. Hai tuần trước ngày mất nước, vị Chỉ huy Trưởng ra lệnh giải tán đồng lọat các khóa sinh. Bọn tôi tuy chưa ra trường nhưng cũng được gắn lon Thiếu-úy rồi mạnh ai nấy tìm đường về quê. Tưởng cũng nói thêm là vào mùa hè đỏ lửa 1972, gia đình tôi bỏ Qui-nhơn khăn gói vào Trung-chánh, cách Sàigòn mấy cây số về hướng Tây. Nhà tôi nằm xéo cổng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Ba tôi vẫn đi làm công chức, mẹ tôi mở quán bán hàng xén cho mấy anh tân binh.

Rồi chuyện gì xảy ra sau đó mọi người dân miền Nam đều biết. Việt cọng tiến chiếm Sàigòn. Tôi đi trình diện ở trường Vạn-hạnh với 10 ngày lương thực. Mặc dù chưa học xong chương trình để xứng đáng với lon Thiếu-úy nhưng vị Chỉ huy Trưởng đã gắn lên vai áo nên tôi xem đó là một trách nhiệm. Đó cũng là lý tưởng mà tôi đã chọn lựa và luôn trung thành nên tôi hãnh diện khai báo tốt nghiệp từ trường Võ-bị. Một vài thằng bạn chê tôi quân tử Tàu, khai thật làm gì để mang họa vào thân; vả lại mới học có 3 năm, làm gì đã được cấp úy. Quan niệm của tôi lại khác, tôi không bao giờ xấu hổ vì lý tưởng của người trai trong thời chiến, hơn nữa tôi mang lon khi bước ra khỏi cổng trường và tôi có nhiệm vụ giữ phong cách cho xứng đáng với cái lon trên ve áo. Vì thế tôi nói thật, không thêm không bớt một chữ.

Kết quả là bọn cọng sản đày đọa tôi 6 năm tù qua các trại Long Giao, Hà Nam Ninh, Cao bằng, Bắc lạng. Chúng liệt những tân binh như chúng tôi vào thành phần ác ôn ngang với cấp Tá vì theo lời chúng nó dân Võ-bị ra trường còn giết quân cách mạng nhiều hơn ai hết. Sự hành hạ dã man ở các trại tù thì ai cũng biết rồi, tôi chỉ là một trong hàng ngàn nhân chứng may mắn sống sót trở về. Đôi khi bị hành hạ quá mức, tôi chỉ muốn giết mấy thằng cảnh vệ, quản giáo trốn trại rồi ra sao thì ra. Chính hình ảnh chị Hảo đã giúp tôi nuôi hy vọng để sống, làm một cái gì có ý nghĩa hơn. Tôi không hối tiếc khi nói thật để bị thời gian tù đày gấp đôi so với những người cùng cấp. Tôi tin rằng hành xử của tôi rất xứng đáng là người sỹ quan Võ-bị và đồng thời cũng nói cho bọn chúng biết thái độ quật cường của tôi.

Trở về gia đình cuối năm 81, gia đình tôi sa sút thấy rõ. Nhìn mấy đứa em nheo nhóc tôi không cầm được nước mắt. Ba tôi đã già yếu, mẹ tôi buôn bán bữa được bữa mất, mấy đứa em dĩ nhiên phải bỏ học để phụ với gia đình kiếm sống. Gom góp hết số vốn trong gia đình, tôi vào tổ hợp đạp xích lô. May nhờ còn chút sức khoẻ, tôi đạp xe ngày 12 tiếng. Bữa cơm trong gia đình có thêm chút chất đạm, nhìn mấy đứa em rón rén nhai mãi miếng thịt không dám nuốt mà lòng tôi quặn đau. Lớn lên tôi may mắn được nếm những của ngon vật lạ, đến thời các em tôi thì đất nước lâm vào cảnh đọa đày nên nhìn cái gì chúng cũng thèm. Tôi còn xót xa đến vậy thì cha mẹ tôi lại càng khổ đau gấp bội. Nhìn ra bên ngoài xã hội, tôi càng rơi nước mắt. Các em tôi tội nghiệp thật nhưng so với những đứa trẻ lê la trên hè phố thì vẫn còn sung sướng hơn nhiều. Ăn mày, thương binh nhan nhản khắp đầu đường xó chợ. Cả một xã hội rách nát đến độ bần cùng nhất. Hôm nào kiếm được cuốc xe hậu hĩ, thế nào tôi cũng kiếm mấy anh thương binh hoặc trẻ em ăn xin tật nguyền chia sẻ chút ít. Cũng chính hình ảnh u sầu của chị Hảo giúp tôi dễ mềm lòng trước cảnh thương tâm, giữ lại chút lương tâm trong sáng giữa một xã hội đảo điên. Đôi lúc tôi bâng khuâng tự hỏi không biết chị Hảo bây giờ ra sao, còn sống trong thành phố này hay đã ra đi như những người có tiền của. Cứ thế, cuộc sống trầm luân trôi dần theo năm tháng.

Và bất ngờ tôi gặp lại chị Hảo. Lúc đó miền Nam đổi chủ đã được mười năm. Năm 1985.

Tôi đang đạp xe về nhà, đến gần ngã tư Bảy Hiền thì nghe tiếng gọi. Chả là hôm nay tôi muốn về sớm để đưa con em đi mua sắm chuẩn bị ngày đám cưới của nó. Nửa muốn đạp cuốc xe kiếm thêm chút tiền quà cưới cho con em, nửa muốn về ngay vì lời hứa với nó. Ánh nắng chói chan buổi xế trưa chém xéo rát một bên mặt. Tôi quyết định quay xe lại. Đứng bên lề đường, một người đàn bà mang kiếng đen vẫy tay gọi. Chiếc áo sơ-mi trắng ngắn tay để lộ làn da trắng nuột. Tóc chải gọn búi tó. Mặc dù cặp kiếng che gần hết khuôn mặt nhưng dáng người nàng thanh tú, sống mũi thẳng cân đối, đôi môi trái tim chúm chím. Phải nhìn nhận nàng đẹp, đó là nhận xét đầu tiên khi tôi đạp xe đến gần. Lâu lắm tôi mới thấy một người đẹp như thế. Nàng cất tiếng hỏi:

- Về Trương minh Giảng anh lấy bao nhiêu?

Đây là một điều lạ. Mất nước đã hơn 10 năm, tất cả con đường đã đổi tên và dân Sàigòn hầu như không còn ai xài tên cũ. Nàng gọi tên đường “Nguyễn văn Trỗi” là Trương minh Giảng. Tôi chợt có cảm tình với nàng, một lối phản kháng tiêu cực bằng cách ung dung xài những gì xưa cũ của một miền Nam trước 75. Nhưng một điều khác làm tôi giật mình nữa là âm hưởng của giọng nói. Có một cái gì thân quen bàng bạc trong ký ức mà tôi cơ hồ chưa nhận ra. Tôi ngẩn người ra một lúc vì hai cái bất ngờ làm tôi choáng váng. Hít một hơi dài, tôi bình tĩnh:

- Dạ thưa chị cho 1200.

- 1000 được không?

Tôi định nói xin chị cứ cho 1200 vì trời nắng đạp lên dốc rất mệt thì bỗng nhiên tôi ngờ ngợ một điều gì. Từ vóc dáng, một nửa khuôn mặt và giọng nói, nhất là giọng nói tôi không thể lầm được. Tôi bước xuống xe, tiến thêm một bước để nhìn cho rõ. Cùng một lúc, hình như người thiếu phụ cũng nhận ra một cái gì quen thuộc, nàng gỡ cặp kiếng mát xuống, miệng lắp bắp:

- Có phải… có phải là…

- Chị… chị Hảo phải không?

Trời ơi! Thật không ngờ chị em lại gặp nhau trong hoàn cảnh khá trái ngang. Tôi reo lên:

- Em Hưng nè.

Chị Hảo bước tới. Bây giờ chị đã hoàn toàn nhận ra tôi:

- Hưng, đúng Hưng rồi… Trời Phật ơi, em bây giờ đen quá, chị nhận không ra.

Chị ôm lấy tôi, thân tình như một người chị lâu ngày gặp lại đứa em ruột. Tôi đã khác xưa nhiều lắm, khuôn mặt có thể chẳng thay đổi bao nhiêu nhưng tôi đã cao lớn hơn trước. Ba năm trong quân trường tôi luyện tôi dày dạn sương gió, chưa kể sáu năm ngục tù cũng giúp tôi thêm chín chắn. Chị Hảo nhận ra tôi có lẽ nhờ giọng nói. Chính giọng nói đã mở toang cánh cửa quá khứ và ký ức hiện về nguyện vẹn một buổi trưa hè khi chị nhìn thấy tôi ngồi đọc truyện trên căn gác nhỏ. Riêng chị Hảo vẫn không khác xưa mấy, dáng người đẫy đà hơn nhưng khuôn mặt thì vẫn vậy; khác chăng là mái tóc chị búi gọn về phía sau chứ không xõa dài như mười sáu năm trước. Tôi gần như rú lên khi nhận ra chị Hảo. Làm sao diễn tả được niềm vui khi gặp lại chị. Thật không ngờ chị vẫn sống bình yên giữa thành phố hỗn loạn này. Quá khứ tôi quá nhiều buồn thảm, chỉ còn mỗi ký ức về chị Hảo nâng niu mỗi ngày làm quà cho cuộc sống cơ cực. Niềm vui ánh lên trong đôi mắt chị Hảo mà đến hôm nay tôi vẫn còn thấy đẹp, tuy có vương vấn chút u buồn. Chị không giữ được những giọt nước mắt. Tôi thấy mắt chị long lanh dưới ánh mặt trời gay gắt. Tôi cũng không kềm được nỗi xúc động. Ở trong thành phố đầy những khuôn mặt lạ lẫm đến từ phương Bắc, may mắn gặp lại cố nhân sau hơn mười sáu năm xa cách, những giọt nước mắt hội ngộ xứng đáng được chảy dài trên má. Tôi đã lớn, một thanh niên hơn 30 tuổi đời, tâm hồn đang chai cứng dần với thời gian khổ cực đọa đày, thế mà cảnh vật vẫn nhạt nhoè qua ánh mắt nhìn nghiêng.

Chúng tôi đứng ôm nhau ngay trên đường phố ở ngã tư Bảy Hiền. Những người qua đường lấy làm lạ khi thấy một người đàn bà xinh đẹp, ăn mặc khá sang trọng lại ôm một anh phu xích lô quần áo bẩn thỉu, rách thủng nhiều chỗ. Có thể họ cho rằng chúng tôi là một cặp tình nhân tình cờ lạc mất nhau khi thành phố đổi tên, và bất ngờ gặp lại nhau giữa những gian truân. Chị Hảo gần như kiễng chân lên ôm lấy tôi vì sự khác biệt chiều cao của thân hình. Tôi chợt nhớ đến lần cuối cùng khi chị tựa người vào vai tôi khóc hết nước mắt. Cũng với tâm trạng đêm hôm đó, tôi ước mong mình lớn tuổi thêm tí nữa, để vỗ về chị Hảo như một người yêu. Con gái dưới 20 thường trưởng thành sớm nên trông chững chạc hơn đám con trai cùng lứa nhưng đến một tuổi nào đó, người đàn bà dừng lại và đàn ông lớn trổi vượt lên. Tôi không biết tuổi đó phải là bao nhiêu nhưng tôi tin chắc rằng với số tuổi trên 30 như tôi, người đàn ông không còn nhỏ dại nữa. Chắc chắn tôi không còn ngơ ngáo như thằng con trai thuở gặp chị lần đầu. Lúc vừa nhận ra nhau, mừng quá nên tôi buột miệng xưng em nhưng trong thâm tâm tôi vẫn muốn chị nên xem tôi như một người bạn. Chị Hảo lại khác, tôi đối với chị vẫn là thằng Hưng nhỏ bé ngày nào, mặc dù bây giờ tôi đứng cao hơn chị nhiều lắm. Lối xưng hô chị chị em em tự nhiên của chị làm tôi ngại ngùng khi muốn thay đổi cách gọi giữa hai người. Chị buông tôi ra:

- Em vào Sàigòn lúc nào? bây giờ ở đâu?

Tôi hơi ngượng khi dùng chữ em để xưng hô:

- Gia đình… em dọn vào Sàigòn ở Trung Chánh lâu rồi chị. Còn chị ở đâu?

- Trương minh Giảng. Thì chị đón xe về nhà đó.

Tôi chợt nhớ ra chị gọi tôi để đi xe:

- Em… em thật không ngờ gặp lại chị. Chị lên đây em chở về.

Trên đường đi, tôi và chị ôn lại mẩu dĩ vãng mười sáu năm. Tôi nói về tôi nhiều hơn và biết thêm về những người thân thuộc của gia đình chị đã vượt biên. Chị sống bơ vơ giữa thành phố này em ạ, giọng chị Hảo buồn buồn. Gia đình anh Kiệt cũng ra đi hết rồi, hình như đã định cư tại Đức. Chị chấp nhận ở lại để nhang khói cho anh Kiệt. Ai cũng bỏ thành phố này hết, chị không đành để anh Kiệt nằm lại bơ vơ không ai chăm sóc. Tôi nghe lòng ngậm ngùi khi chị nhắc tên anh Kiệt. Mỗi khi nhớ chuyện cũ, tôi thường nhớ chị Hảo chứ hình ảnh anh Kiệt chỉ còn bàng bạc trong trí nhớ. Tình yêu của chị đối với người đã khuất vẫn đầy ắp như thuở sống bên nhau. Mười sáu năm, thời gian đủ dài để chôn vùi tuổi xuân của người thiếu phụ, vậy mà chị vẫn một lòng son sắt với chồng. Ôi, còn mối tình nào đẹp hơn mối tình người vợ thủ tiết thờ chồng, không phải vì tương lai con cái mà vì muốn trọn lòng với người quá vãng. Chị sống âm thầm trong thế giới riêng của chị, trái tim cứ mãi ôm ấp hình bóng cũ, trung kiên. Tôi chỉ đứng ngoài chiêm niệm mối tình chân gần như huyễn hoặc, thương tiếc cho người vắn số, ngậm ngùi cho tuổi thanh xuân của chị Hảo trôi qua nuối tiếc, và ước mơ sau này may mắn yêu và được yêu nồng nàn như chị.

Qua nhà thờ Ba Chuông, vượt giáo xứ Vườn Xoài, chị bảo tôi đạp chầm chậm. Trong suốt lộ trình, tôi tuyệt nhiên không hỏi đến gia cảnh hiện tại của chị. Thâm tâm tôi mặc nhiên nhìn nhận tình yêu chị Hảo chỉ dành riêng cho một người, ngay cả tôi cũng không chiếm được một góc nhỏ đâu đó trong tim chị. Gần đến chợ Trương minh Giảng, chị bảo tôi dừng lại và chỉ một căn nhà hai tầng, bảo đó là nhà chị đang ở. Căn nhà đó thật lớn cho một người độc thân. Tôi chợt nhận ra đây là căn nhà của một nha sĩ bỏ đi trước 75. Thằng bạn học cùng khoá Võ Bị ở trong ngõ hẻm bên hông nhà. Trước 75 hai đứa đi phép nó dẫn tôi về nhà chơi nên tôi biết rất rõ khu này. Những căn nhà có chủ bỏ đi vượt biên đều bị nhà nước trưng dụng. Chính quyền cộng sản tịch thu nhà và phát lại cho cán bộ miền Bắc điều vào. Thân thế như chị mà được ở một căn nhà khang trang như thế kể cũng khó hiểu. Chị bảo tôi vào nhà chơi. Tôi chợt nghĩ đến cái hẹn với con em nên từ chối:

- Em phải về để đưa con em đi mua sắm đồ cưới. Để hôm khác em đến.

Chị Hảo níu tay tôi:

- Vậy cũng được. Thôi, em cho chị địa chỉ nhà em đi, hôm nào chị đến thăm em.

Tôi đang hý hoáy viết đia chỉ trên mảnh giấy thì một cô gái bên kia đường chạy vụt sang xoắn lấy chị Hảo:

- Cô ơi, lúc nãy ông có nhờ em nhắn với cô cứ ở nhà đợi, ông lái xe lên Ngân hàng rồi về liền.

Tôi ngẩng mặt lên. Một cô gái trẻ, khoảng 20, cười nói với chị Hảo thật tự nhiên. Tôi sa sầm nét mặt khi nghe lời nhắn của cô gái. Hoá ra chị Hảo không ở một mình. Tôi bỗng thấy đau nhói ở trong tim. Tình cảm tôi đối với chị Hảo thật ích kỷ. Đã bao nhiêu năm trôi qua mà tình cảm độc tôn trong tôi vẫn không thay đổi. Với anh Kiệt thì khác, tôi không có một uy quyền nào bắt chị phải gạt bỏ hình bóng của người chồng cũ ra khỏi tâm tư. Hơn nữa anh Kiệt đã mất, tôi không thể ghen với người quá cố nhưng tôi lại tự cho mình có quyền ghen với bất cứ người đàn ông nào khác, khi họ bước vào chiếm hữu trái tim chị. Tôi nghĩ chị Hảo chỉ nên yêu anh Kiệt và… tôi thôi, không thể một người nào khác. Không biết chị có nhận thấy nét mặt tôi thay đổi hay không nhưng tôi tin chắc khuôn mặt tôi lúc đó cau có khó chịu lắm. Tôi hằn học dúi vào tay chị mảnh giấy rồi quày quả đạp xe đi, không thèm nghe tiếng chị Hảo gọi gấp từ phía sau.

Trên đường về, tôi nghiến răng giận dữ. Người tôi như mê đi trong cơn ghen tức. Tôi không biết tôi đang vô lý trong ý nghĩ. Tôi không có lý do nào để giận chị Hảo. Cho dù yêu anh Kiệt tha thiết nhưng không thể bắt chị sống mãi trong cô đơn. Người đàn bà giữ tang chồng được ba năm là trọn nghĩa, hơn nữa chị còn quá trẻ. Ngày khoác áo tang, tôi đoán chị cỡ 20. Hơn mười sáu năm trôi qua, tuổi xuân không thể bắt chị ngồi đó thương tiếc mãi một mối tình, tuy tuyệt vời, đã ngàn trùng xa cách. Vả lại, vẻ đẹp của chị vẫn còn sắc sảo mặn mà. Với một nhan sắc như thế, thật khó để không bước đi bước nữa vì xung quanh biết bao người săn đón. Tôi bỗng giận sắc đẹp của chị Hảo, giận khuôn mặt nở hoa lồ lộ dưới con mắt của những thằng đàn ông không ra gì, (tôi chưa biết chị lấy ai nhưng tôi đã liệt hắn vào hạng không ra gì!). Tôi lại giận định mệnh xui tôi về sớm trên khúc đường oan trái để gặp lại chị Hảo. Giá tôi đừng gặp lại chị thì hình ảnh của chị Hảo vẫn tuyệt vời trong tôi. Cứ sống mãi với kỷ niệm và đừng đối diện với sự thật thì tôi đâu chuốc lấy cái khổ bây giờ. Buổi chiều hôm đó đạp xe về mà lòng tôi rã rời hơn bao giờ
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #53 - 09. Nov 2006 , 01:05
 
Mấy ngày sau, tôi quyết định phải khám phá cho ra cái “thằng” sống chung với chị Hảo. Tôi đạp xe về lối cũ, mon men đến hỏi chuyện cô gái ngồi bán thuốc lá xế căn nhà chị Hảo ở. Đúng là cô gái nói chuyện với chị hôm nọ. Bỏ ra mấy trăm mua vài điếu thuốc lá lẻ, tôi bắt chuyện:

- Bán đây khá không cô?

Cái nguyên lý tự ngàn xưa là bất cứ anh phu xích lô nào gạ chuyện với cô bán thuốc lá lẻ đều xem ra tâm đầu ý hợp lắm. Thì “nồi nào úp vung nấy” nên mới dễ dàng đưa đẩy câu chuyện. Cô gái bán thuốc ngồi tịnh khẩu hàng giờ, nhạt miệng lại có anh xích lô đến ve vãn nên cô mau mắn bắt chuyện liền. Trông cô khá xinh, mặc chiếc áo bà ba màu hồng nhạt hở một hột nút phía trên, xẻ hông cao đến nửa lưng. Mỗi khi cô vươn tay sửa sửa mấy gói thuốc nằm trên mặt kiếng, vạt áo vật vờ kéo xếch lên để lộ khoảng da thịt trắng ngần. Chiếc áo hình như hơi chật bó lấy bộ ngực vun đầy, tròn trĩnh. Tôi có cảm giác cô không dám thở mạnh, chỉ sợ hàng cúc áo bật tung sau mỗi hơi thở thoang thoảng mùi kẹo chanh. Cô vuốt lại mái tóc làm duyên, miệng chúm chím:

- Cũng được thôi anh Tư… uả, anh hổng ở dzùng này hả?

Rồi không đợi tôi trả lời, cô vỗ hai tay vào nhau:

- Hèn chi, em thấy anh lạ lắm nghen.

Tôi rít một hơi thuốc:

- Không, không lạ đâu cô. Đúng ra cô gặp tôi một lần rồi.

- Dzậy hả anh. Ủa, gặp hồi nào sao em hổng nhớ cà.

Chắc cô nghĩ tôi đang mở miệng tán tỉnh bằng một câu cũ rích. Thì anh xích lô nào ghé ngang sạp thuốc của cô mà không mở đầu bằng câu đã gặp nhau đâu đó rồi. Nghe mãi đến nhàm nhưng cô vẫn thích vì cô nghĩ mình có “dziêng” nên người ta mới đứng lại lân la gạ chuyện chớ. Nhìn mặt cô rạng rỡ, tôi thú thật:

- Mấy hôm trước, tôi chở bà ở căn nhà đàng kia về, cô chạy sang nhắn lại lời của chồng bà, cô còn nhớ chứ?

Cô nhíu mày cố nhớ lại chuyện ngày hôm đó. Khi nhớ ra, cô hơi thất vọng vì anh xích lô này hỏi chuyện thật chứ không phải bày chuyện để tán tỉnh cô. Giọng cô buồn buồn:

- Em nhớ rồi, hổm anh chở cô Ba về có viết tấm giấy đưa cho cổ.

- Cô Ba?

- Ừa! Em không biết tên thật cổ.

- Thế cô Ba ở đây lâu chưa?

- Không lâu đâu, độ nửa năm trở lại. Căn nhà đó họ đổi chủ hoài à, chỗ để cho mấy ông lớn nghỉ ngơi.

- Còn chồng của cô Ba thì sao?

Cô gái khựng người:

- Ủa, sao anh hỏi dữ dzậy? Bộ tính chiện gì hả?

Tôi làm vẻ mặt tự nhiên:

- Thú thật với cô, cô Ba là người quen lâu ngày mới gặp nhau. Hôm đó tôi tình cờ gặp lại cổ ở ngã tư Bảy Hiền rồi chở về đây. Tôi không ngờ cô ta đã có chồng.

Cô gái nghĩ ngay đến câu chuyện tình ngang trái và coi bộ thông cảm với người bị phụ tình. Cô hăm hở:

- À! Ông chủ hả, chả làm lớn lắm nghen, nghe đâu ở Ngân hàng nhà nước gì đó! Em hổng thích chả, thứ Bắc kỳ khó ưa. Mặt kên kên coi dễ ghét. Chả lấy cô Ba làm bé, anh biết hôn? Nghe đâu vợ chả còn ngoài Bắc. Còn cô Ba tội nghiệp lắm. Cổ hiền lành, nói năng dễ thương. Ở khu chợ này ai mà không mến cô Ba, ghét thằng chả. Em thật hổng hiểu cái nỗi gì mà cô Ba lại đi làm bé chả. Chắc tại do hoàn cảnh hén anh…

Tôi trợn mắt há hốc miệng nhìn cô gái. Cái tin nghe như sét đánh bên tai. Ôi! Không ngờ chị Hảo lại gá nghĩa với một tên Việt cọng. Mà đã là Việt cọng thì tôi đều khinh tởm như nhau. Người tôi rã rời như vừa đạp xong một ngày xe mệt nhọc. Nhìn nét kinh ngạc trên mặt tôi, cô gái đoán chừng tôi mất người yêu vì thời thế đổi đen. Tôi nghe lòng mình chùng hẳn xuống, nặng trĩu một nỗi buồn. Đúng ra tôi thất vọng. Không, không tôi tuyệt vọng thì đúng hơn. Loáng thoáng tôi nghe tiếng cô gái:

- Anh biết hôn, mỗi tuần cổ đều đi thăm ai đó ngoài nghĩa địa. Cổ nói với em bày bán nhang cho tiện. Tuần nào cổ cũng ghé ngang sạp em mua bó nhang rồi lên xe đi thẳng ra nghĩa địa. Mỗi bận về em thấy mắt cổ đỏ hoe.

Tai tôi lùng bùng không còn nghe gì nữa. Cái tin chị Hảo cam thân làm vợ một tên Việt cọng đủ nói lên tất cả rồi, còn tất cả những gì khác đều thừa. Cũng như lần trước, tôi quày quả đạp xe đi không một lời cám ơn cô gái. Tôi cúi đầu đi như kẻ chạy trốn thực tại, bên tai còn nghe văng vẳng tiếng hỏi… anh Tư… sao dzậy anh Tư? Cả hai lần đến khu chợ này tôi đều mua thêm lấy những thương đau.

Cả bầu trời đổ ụp trên người tôi, đè nặng lên thân xác. Người tôi bải hoải tưởng chừng từng đốt xương long hẳn ra từ chỗ nối. Chưa bao giờ đôi chân tôi tê dại đến thế, gần như không thể đạp thêm một chút nào nữa. Tạt xe bên lề đường, tôi chui vào xe ngồi thở dốc như người lên cơn suyễn. Hơi thở hắt ra từng cơn như muốn trút bỏ nỗi tuyệt vọng đang bám rễ trong tâm tư. Không tuyệt vọng sao được khi nguồn hy vọng cuối cùng của tôi bị thực tại cướp đoạt trắng trợn. Cho dù mồ hôi đổ ra khổ cực đến mấy, cho dù kẻ thù có hành hạ tôi dã man đến thế nào đi chăng nữa, hình ảnh một chị Hảo trung trinh với mối tình chân vẫn giúp tôi vượt qua những đoạn đường cam go đó. Trong quá khứ, hình ảnh chị Hảo ngồi u buồn với tấm thẻ bài đã đẩy tôi vượt thoát được những cơn cùng cực khi lý trí bị nỗi phẫn uất phủ mờ. Tôi dễ mềm lòng trước những cảnh bất hạnh vì trong tôi vẫn sáng ngời một chị Hảo hiền thục với trái tim đầy ắp yêu thương. Tôi vẫn hiên ngang sống đến ngày hôm nay vì vẫn cậy nhờ vào niềm hy vọng một ngày nào đó sẽ thấy bình minh trên mảnh đất này. Như người ngư phủ mãi ngồi bó gối chờ hừng đông để kéo mẻ cá cuối nhưng khi mặt trời vừa ló dạng thì bị đám mây đen che khuất và cảnh vật lại chìm trong bóng tối.

Chị Hảo bước đi bước nữa cũng là chuyện thường tình, tôi tuy có đau khổ thật nhưng vẫn còn khả dĩ chấp nhận. Cùng lắm tôi chỉ tự trách mình sao quá lãng mạn để chuốc lấy mối tương tư. Nhưng thiếu gì người để chị lấy một tên cán bộ. Trong nỗi đau của tôi lại có thêm cơn giận. Chị lại chấp nhận làm bé thì quả thật tôi không thể hiểu được. Bây giờ thì nỗi đau, cơn giận trộn lẫn với sự cuồng nộ. Cả hơn mười năm, tôi đã nghe và thấy những người vợ thiếu thuỷ chung, trâng tráo bán thân làm vợ những kẻ có quyền thế, những kẻ đại diện cho một chế độ ngông cuồng đang hành hạ dã man chồng mình chết dần mòn trong các trại tù. Cũng không thiếu những kẻ sĩ, đại diện cho tầng lớp trí thức ở miền Nam trước đây, cũng trơ trẽn bán thân để mua lấy một chút an nhàn nhất thời. Thế những người này không có chút sĩ diện nào sao? Tôi không trả lời được câu hỏi đó nhưng lại nghĩ đến mỗi người một hoàn cảnh. Có thể họ có một lý do riêng tư nào đó nên mới để cho thằng mán thằng mường nó leo cây quế. Tôi không dám xét đoán nhưng để cho chính lương tâm họ phán quyết, hoặc ngay chính người chồng một thời đầu gối tay ấp trở về từ trại tù cắn răng quyết định. Nhìn những cảnh vô luân xảy ra giữa một xã hội xảo ngôn, tôi vẫn an tâm sống vì trong tôi còn ôm ấp hình bóng một chị Hảo thuỷ chung. Mọi người có thể ươn hèn nhưng chị Hảo của tôi thì không. Tôi sống yên ổn với hoài niệm đó mãi đến hôm nay tôi mới biết tôi lầm.

Trong khi tôi trân quý hình ảnh của chị, thì chị lại phản bội những luân lý căn bản trong tình yêu vợ chồng. Chị cam tâm làm bé mà không hề nghĩ đến người vợ cả, không hề nghĩ đến một hạnh phúc đã bị tước đoạt chỉ vì sự hèn yếu của mình. Chưa kể chị dâng hiến trái tim cho kẻ thù, bọn người đã giết chết anh Kiệt, chồng chị. Thù nước tôi không dám nói nhưng còn thù chồng chắc chị phải nhớ chứ? Thế mà chị đành đoạn tuyệt một quá khứ thân thương, trong đó có tôi là một nhân chứng. Chị rũ bỏ dễ dàng như thay một cái áo, hằng ngày.

Thế là hết, hình ảnh chị Hảo sụp đổ trong tôi thì con người tôi cũng sụp đổ theo. Tôi còn nhớ mãi câu nói thẫn thờ của chị: nhà chị sụp rồi còn gì mà giữ hả em khi anh Kiệt nằm xuống. Tôi cũng chẳng còn gì để giữ. Ôi! Mười sáu năm tuy cơ cực nhưng đẹp biết bao; đẹp với mối tình cảm lãng đãng xa xôi nhưng nhiều lúc tôi cảm thấy ấm áp thật gần, vì nó ở ngay trong tim. Bây giờ, sức sống của tôi đã bị bóp nghẽn, trái tim đập dật dờ theo thời gian. Tôi uể oải sống, gắng gượng lê bước được ngày nào hay ngày đó. Tôi không còn nhớ tôi đã làm khổ mẹ tôi đến mức nào nhưng bà đã khóc gần như hết nước mắt vì những cơn say khốn khổ. Tôi không thiết tha đến việc đạp xe, có khách thì chở không thì kiếm hàng quán ngồi làm bạn với mấy xị đế. Lòng hăm hở đạp xe kiếm tiền nuôi sống gia đình nguội hẳn. Điều này tối quan trọng vì cả nhà trông nhờ vào những cuốc xe hàng ngày của tôi để đổi lấy miếng cơm. Bữa cơm sa sút thấy rõ. Mẹ tôi chỉ khóc tỉ tê mỗi đêm khi mở cửa dẫn thằng con say khướt vào giường ngủ. Bà không hiểu thằng con cả đột nhiên dở tính sinh tật rượu chè be bét, hư người. Ba tôi già cằn cỗi, thở dài lặng lẽ không một lời trách cứ thằng con, có lẽ không dám thì đúng hơn vì ông không còn làm ra tiền để nuôi sống gia đình nữa. Ngồi bây giờ viết lại dòng chữ này, tôi cảm thấy có lỗi với cha mẹ tôi, với các em tôi. Tương lai tôi có thể hủy hoại, sao cũng được nhưng đừng để ảnh hưởng đến người khác, nhất là những người ruột thịt thân yêu của mình. Nguyên lý xem ra đơn giản như thế nhưng lúc đó tôi không cần hiểu. Tôi đang lao mình xuống đáy vực, muốn ra sao thì ra.

Một đêm say khướt bước về nhà, tôi khật khưởng leo lên giường nằm vật xuống. Đầu óc tôi nặng chình chịch nhưng nghe loáng thoáng mẹ tôi nói có người nào tìm tôi lúc chiều. Không còn hơi sức nữa, tôi thiếp đi trong cơn say. Sáng hôm sau, khi tôi tỉnh dậy thì mặt trời đã ở ngang tầm mắt. Đang rửa mặt tôi nghe tiếng mẹ tôi đàng sau lưng:

- Hưng này, hôm qua có bà nào đến đây tìm anh. Mẹ nói anh không có nhà, bà trao cho mẹ cái hộp giấy này, nói nhờ mẹ trao tận tay cho anh. Tối hôm qua, anh say quá nên mẹ không đưa. Anh mở thử xem, không biết có gì ở trong mà nặng lắm.

Tôi nhíu mày thắc mắc. Bà nào? Bà nào đi tìm tôi. Chưa vướng nợ tình với ai nên tôi đoán có lẽ chị Hảo. Ở thành phố này tôi chỉ biết mỗi chị Hảo. Không hiểu chị đến đây kiếm tôi làm gì nữa? Giữa tôi và chị chẳng còn gì để nói, ngoài một hoài niệm buồn. Tôi sẽ cố quên những gì đã lỡ ước mơ, tôi sẽ cố bước đi để sống, tôi sẽ không để những người thân tuyệt vọng vì tôi như chị Hảo đã nhẫn tâm làm qua nếp sống vô luân. Thấy tôi đứng tần ngần một lúc, mẹ tôi chìa cho tôi xem cái hộp có bọc nhiều lớp giấy báo bên ngoài. Tôi bình thản đỡ lấy cái hộp vuông vắn có buộc chéo giây hình chữ thập. Khá nặng. Bóc lớp báo ra, tôi mở nắp hộp. Đập ngay vào mắt tôi là tấm thẻ bài với sợi giây treo cuộn xung quanh nằm gọn ngay bên cạnh tờ giấy xếp làm tư; bên dưới thấp thoáng những thỏi vàng lá được xếp ngay ngắn. Sở dĩ nhìn thoáng là biết ngay vì nhãn hiệu trái núi ở phía ngoài. Tôi đếm được 10 lượng. Từ ngày mất nước, chưa bao giờ gia đình tôi thấy một gia tài lớn đến thế. Chạy cơm từng bữa, may ra dư dả chút đỉnh phòng hờ khi hữu sự, làm sao để dành mua được từng ấy vàng. Mẹ tôi nhìn hộp vàng người run lẩy bẩy. Tôi chộp lấy tấm thẻ bài, đọc hàng tên khắc sâu vào bản sắt. PHẠM HÙNG KIỆT. Trời ơi! Làm sao tôi quên được tấm thẻ bài chị Hảo khoác lên tay ngồi xoã tóc nức nở trong đêm! Không ngờ chị vẫn giữ tấm thẻ bài của anh Kiệt từ bấy lâu nay. Mà sao chị lại gửi cho tôi? Tôi đưa cả hộp vàng cho mẹ tôi rồi mở vội tấm giấy. Nhìn hàng chữ đầu tiên tôi ngờ ngợ nét bút của chị Hảo; đúng là lá thư chị viết cho tôi:



Sàigòn ngày…tháng…năm 1985

Hưng yêu thương của chị,

Chị thật không ngờ gặp lại em tuần trước. Đã hơn mười sáu năm rồi. Chị đã lạc mất anh Kiệt, còn em chị nghĩ cũng lạc mất ở góc biển chân trời nào đó. Mỗi người ở một phương, thời thế lại đổi thay, làm sao có dịp. Thế mà định mệnh run rủi chị em gặp lại nhau. Chị nghĩ phép lạ em ạ! Thật may mắn cho chị khi nhìn lại em, nhớ lại quãng thời gian ở Qui-nhơn, lúc còn anh Kiệt, có em chuyện trò. Thời gian tuy ngắn ngủi nhưng thật đẹp! Anh chị tuy ít gặp nhau (một tháng đôi lần) nhưng tình yêu nồng thắm hơn bao giờ. Trong nỗi mỏi mòn trông chờ từng ngày có đượm những háo hức gặp nhau cuối tuần. Và khi anh Kiệt về, em hiểu được chị vui đến thế nào. Thấy anh bình yên đã là một niềm vui, có với nhau một ngày là thêm niềm hạnh phúc. Bên cạnh đó, em đóng vai một nhân chứng cho tình yêu của anh chị. Có em đứng giữa, những ngày chị thiếu vắng anh Kiệt thấy đỡ buồn tẻ hơn. Vậy mà chỉ trong một ngày năm đó, chị mất anh Kiệt rồi mất luôn cả em. Gặp lại em, chị hồi tưởng lại những ngày hạnh phúc qua mau mà thấy lòng thổn thức. Ký ức hiện về rõ mồn một và chính em là chiếc chìa khóa mở rộng cửa ngõ quá khứ để chị cảm thấy nuối tiếc khôn nguôi. Và chị có thêm can đảm, Hưng ạ! Để chị kể cho em nghe sự yếu đuối của chị thế nào.

Hôm em chở về, chị em đã nói nhiều chuyện nhưng chị vẫn dấu em một điều. Bây giờ chị nghĩ em đã biết điều chị muốn dấu. Ngày gia đình chị vượt biên, chị chấp nhận ở lại giữ căn nhà để nhang khói cho anh Kiệt. Ông bà cụ anh Kiệt cũng giữ một chỗ cho chị trên chiếc thuyền con của gia đình. Chị từ chối. Chị không nỡ bỏ anh Kiệt, Hưng ạ! Thế mà lại may, chừng vài tháng sau đó, họ bắt phải cải mộ anh Kiệt đi chỗ khác. Nhờ chị ở lại nên mọi chuyện êm xuôi chứ không thì họ cày xới tung các ngôi mộ vô thừa nhận; vì gia đình đã đi vượt biên không còn một thân nhân ở lại để lo việc dời mộ. Nhưng chị lại gặp cái xui. Chính quyền quyết định trưng dụng tất cả những ngôi nhà có người chạy ra nước ngoài. Đúng ra họ lấn chiếm một cách trắng trợn có hệ thống. Ban đầu, họ ngang nhiên dọn vào, nhường lại cho chủ một căn phòng nhỏ. Em nghĩ xem, chị là đàn bà con gái, lại sống chung đụng với gần chục tên công an nửa người nửa ngợm thì chịu sao được. Vấn đề bếp núc đã bất tiện, vấn đề vệ sinh lại càng khó chịu hơn. Có lần, chị vừa tắm xong, lặng lẽ mang quần áo đi về phòng, liếc mắt thấy hàng chục con mắt nhìn chị chằm chằm. Nhìn những tia mắt dã thú của bọn công an người chị nổi cả gai ốc. Ngày hôm sau chị dọn ra, tuyệt nhiên không nói một lời. Thế là họ đương nhiên làm chủ căn nhà.

Cuộc sống của chị cơ cực mấy năm đầu, nhưng rồi cũng qua dần. Mỗi tuần chị đều ra mộ thắp nhang cho anh Kiệt, có khi chị ngồi tỉ tê với anh suốt buổi chiều. Tiền cha mẹ để lại một ít làm vốn, cọng với tiền ở ngoại quốc gửi về, chị chắt chiu cũng đủ sống. Khoảng hơn năm sau, chị xin được chân kế toán (sau khi anh Kiệt mất, chị chuyển trường học phân khoa Kinh tế) tại một chi nhánh ngân hàng nhà nước. Cuối cùng mọi việc tạm ổn, chị nhắm mắt sống yên thân giữa thành phố có quá nhiều hỗn loạn. Chị cảm thấy bằng lòng với quyết định ở lại để lo cho anh Kiệt.

Vậy mà vận số vẫn không tha cho chị. Tên thủ trưởng ngân hàng không biết sao mà hắn biết được chị là vợ của anh Kiệt, một phi công ngụy. Hắn hăm dọa sẽ đuổi chị ra khỏi cơ quan và truy tố ra toà án nhân dân vì tội lừa dối khai man với cách mạng. Hưng ơi, chị chỉ là một người đàn bà yếu đuối, sống bơ vơ giữa thành phố không có lấy một người thân. Giá như chị gặp em sớm hơn, có lẽ chị cũng không đến nỗi cô đơn khi quyết định. Nhưng sự thật phũ phàng là chị cam chịu làm những gì hắn muốn – kể cả việc cắn răng cho hắn làm chủ thân xác chị – để đổi lấy sự yên thân tạm bợ. Chị kể lể cho anh Kiệt nghe nỗi khổ, sự cô đơn cùng tận không có ai giúp đỡ khi gặp cơn nguy khốn. Chị nguyện xin Trời Phật thương phù hộ cho chị thoát khỏi cơn cùng quẫn thì chị gặp lại em. Trời ơi! Em biết không, chị nghĩ phải có phép lạ mới run rủi cho chị gặp lại em giữa mấy triệu người sống hỗn độn trong thành phố này. Và thật kỳ lạ Hưng ạ, gặp lại em chị bỗng thấy ngay một giải pháp giải quyết thật gọn mọi vấn đề. Giải pháp thật đơn giản nhưng có lẽ chị không đủ sáng suốt nghĩ đến hoặc không có đủ can đảm dám nghĩ. Chỉ biết rằng, sau khi gặp em, nó hiện ra rõ ràng trong tâm trí chị và phải mất cả tuần chị mới đủ can đảm quyết định.

Cám ơn em đã xuất hiện một lần cuối trong cuộc đời chị. Lần gặp gỡ đầu tiên, không hiểu sao chị mến em như một người thân trong gia đình và mãi mãi em vẫn chiếm một chỗ trong tim chị. Gửi lại em tấm thẻ bài, tấm thẻ mà chị giữ suốt mười sáu năm nay. Cứ mỗi tuần ra thăm anh Kiệt chị lại mang theo, ngồi bên mộ, tay mân mê tấm thẻ bài mà lòng ngậm ngùi nghĩ đến những ngày xưa thân ái, khi còn anh Kiệt và có em bên cạnh. Nhờ em trao nó lại cho gia đình anh Kiệt, hiện tại đang ở địa chỉ số…, đường…, thành phố…, Germany. Cả mấy năm nay không thư từ liên lạc nên không biết ông bà cụ còn ở địa chỉ này không. Em giúp chị tìm rồi trao tận tay ông bà cụ nhé. Em cũng liệu thư từ giải thích dùm với cha mẹ chị, hiện đang ở số…, đường…, thành phố…, USA. Chị thấy thật có lỗi với những người ruột thịt nhưng không biết làm sao hơn. Giúp chị gửi lời tạ lỗi đến cha mẹ chị. Chị không thua số mệnh nhưng bằng lòng chọn lựa mệnh số để trọn tình với anh Kiệt.

Còn mười lạng vàng là tất cả vốn liếng chị dành dụm bấy lâu nay. Gửi biếu em. Của phù du không cần nữa Hưng ạ! Em có thể dùng để mua lấy chút tương lai.

Thôi, chị ngừng đây. Chị muốn gặp em tận mặt để tâm sự nhưng nghĩ sao chị thấy viết ra như thế này dễ hơn. Cho cả em lẫn chị.

Thương em nhiều,

Hảo


Tôi thẫn thờ đọc những dòng chữ cuối. Rõ ràng đây là một lời trối trăn trong bức thư tuyệt mạng. Nói vội với mẹ tôi con phải đi đây có chuyện, tôi chạy sang nhà người bà con mượn chiếc Honda phóng một mạch lên chợ Trương minh Giảng. Gần đến trước nhà chị Hảo, tôi thấy người ta đứng lớp trong lớp ngoài phía bên này đường đang chỉ chỏ bàn tán. Trống ngực tôi đập thình thịch. Ngay cửa ra vào, chiếc xe cứu thương đậu quay đầu xe ra ngoài, hai cánh cửa sau mở rộng toang hoác. Vài ba tên công an vào ra ở cửa chính, vẻ mặt nghiêm trọng. Vòng ngoài còn bốn tên công an đang giữ trật tự, một đứa xua tay mời bà con giải tán đi làm việc. Hình như chẳng ai để ý đến hắn vì người ta vẫn túa đến mỗi lúc một đông; riêng những người đã đứng từ trước cứ bình thản bàn tán chuyện trò, xem như không có hắn. Nhìn cảnh tượng diễn ra trước mắt, không ít thì nhiều tôi cũng đoán được chuyện chẳng lành. Để biết rõ hơn, tôi muốn chen chân vào trong để hỏi han nhưng không dám bỏ chiếc xe Honda bên lề đường. Đang ngóng cổ ngơ ngác, tôi bỗng nghe tiếng gọi từ phía sau:

- Anh Tư, anh Tư.

Tôi quay lại và nhận ra ngay cô gái bán thuốc lẻ. Vì quá đông người chen lấn nên cô đã bê thùng thuốc lá ra một quãng xa. Cô vừa gọi vừa vẫy vẫy tay gọi tôi. Đẩy chiếc xe Honda lại gần, tôi móc túi đưa mấy trăm cho cô mua thuốc lá, giọng run run:

- Chuyện gì vậy cô?

Cô trao cho tôi hai điếu thuốc, nhìn quanh quất rồi hạ thấp giọng như sợ ai nghe lén:

- Quá sức anh Tư ơi. Anh hổng ngờ được cô Ba dám làm như dzậy. Anh biết hôn…

Nghe giọng cô ta chậm rãi kể chuyện, tôi đâm sốt ruột:

- Sao?

- Cô Ba tự tử, anh thấy ghê hôn? Em hổng ngờ cổ gan cùng mình dzậy đó.

Tôi đứng sững người, mắt nhìn cô ta không chớp:

- Sao cô biết?

- Dzậy mới hay chớ. Mà sao lần trước em gọi mà anh đi luôn hổng nói gì hết dzậy?

Trời ơi, con nhỏ kể chuyện này bắt sang chuyện kia chắc tôi đứng tim chết quá. Tôi nhỏ nhẹ:

- Tại hôm đó vội, với lại nghe tin cô Ba có chồng làm tôi cũng buồn buồn.

Cô gái nheo mắt hỏi:

- Thế anh là gì với cô Ba dzậy?

- Bí mật, cô kể tiếp chuyện đi rồi lát nữa tôi kể chuyện tôi với cô Ba cho nghe.

Cô chỉ ngón tay vào người tôi:

- Nhớ nghen, hổng bỏ chạy như lần trước nghe. Rồi, anh biết tại sao em biết hôn, thì thắng Cúi công an cho em biết chớ ai. Cái thằng đứng trước cửa nhà kìa. Thường thường em dọn hàng sớm lắm nên sáng nào cũng thấy thằng chả lái xe đi làm, rồi một lúc sau thấy cô Ba đi ra. Mà sáng nay, em hổng thấy thằng chả cũng hổng thấy cô Ba luôn. Khoảng 9 giờ, có đám công an phường gần chục đứa mặt lầm lì bước đến nhà thằng chả. Em thấy có đứa gõ cửa rồi đứa khác dùng xà-beng nạy tung cánh cửa. Cả bọn ập vào nhà. Khoảng nửa tiếng sau em nghe thấy tiếng còi hụ từ đàng xa. Thằng Cúi công an ra mở cửa dẫn mấy người cứu thương vào, họ còn mang theo mấy cái băng ca nữa. Em đứng ngồi hổng yên lo lắng cho cô Ba, hổng biết chuyện gì xảy ra cho cổ? Thấy thằng Cúi là em vẫy tay gọi nó liền. Anh biết hôn, bụng thằng này thẳng ro hà, dzới lại nó theo em tán hoài nên nghe em gọi nó mừng húm chạy sang liền. Em hỏi chuyện thì nó cho biết trong đó có người đàn bà tự tử. Em hỏi sao biết thì nó nói là có để lại lá thư. Em biết ngay là cô Ba. Trời ơi, cổ tự tử làm gì chớ, tức thằng chả nữa thì bỏ chớ tự tử làm gì cho uổng tấm thân. Mà cái tin này mới làm anh giật mình chết giấc. Thằng chả cũng đi luôn rồi. Cô Ba đầu độc thằng chả bằng thuốc rầy. Cái thuốc diệt rầy đó độc lắm, ngửi đã thấy xây xẩm mặt mày rồi chớ đừng nói uống. Lỡ uống vào thì thuốc tiên cũng hổng cứu được…

Tôi ngắt lời:

- Thế cô Ba tự tử thế nào?

- Cũng thuốc rầy luôn. Nghe đâu trộn vào thức ăn nên thằng chả chết từ đêm hôm qua lận. Em thấy tội nghiệp cô Ba quá anh Tư. Người hiền lành dễ thương như cổ mà bạc mệnh quá anh há.

Bây giờ mới thật sự là hết. Tôi thoáng thấy người ta đẩy hai chiếc băng ca phủ khăn trắng toát lên xe. Ôi! Chị Hảo đã ra người thiên cổ. Chị chấp nhận bỏ trần gian này để sum họp với anh Kiệt. Chị hạnh phúc khi gặp lại chồng, còn tôi đứng ở bên này bờ sinh tử thương một kiếp hồng nhan, nuối tiếc vô vàn một người chị mà tình thương và tình yêu trộn lẫn.

Tôi muốn chạy đến vuốt mắt chị nhưng không dám. Tội giết cán bộ không phải chuyện nhỏ trong chế độ đảng trị sắt máu. Nếu tôi nhận là người thân của chị thì chắc chắn tôi và cả gia đình sẽ bị liên luỵ ngay. Tôi đành cắn răng đứng nhìn người ta mang xác chị đi mà chỉ lẩm bẩm mấy chữ vĩnh biệt chị… Tôi mong những lời cuối sẽ theo gió bay lên chốn thinh không gửi đến cho chị, để chị yên vui buớc sang một kiếp luân hồi.

Trời ơi! Buồn làm sao nói hết được. Tôi quay người đẩy xe đi tránh không cho cô gái thấy giọt nước mắt đang lăn trên má. Cũng như lần trước, chạy xe đi quên không chào cô gái, tôi vẫn còn nghe tiếng cô léo nhéo phía sau …anh Tư… anh Tư… còn chuyện anh với cô Ba thì sao?…

Cảnh vật mờ nhoà qua ánh mắt tôi. Thò tay vào túi áo móc điếu thuốc, tay tôi đụng tấm thẻ bài. Cầm trên tay, tôi mân mê nó như một kỷ vật. Nó như cái mắt xích nối liền anh chị Hảo và tôi lại với nhau. Quá khứ chạy vụt về như một cơn lốc, mơ quay trở lại căn gác nhỏ có người thiếu nữ tựa cằm hỏi han, khuôn mặt lung linh những đốm nắng, giọng nói trong veo như tiếng chim hót trên đầu ngọn cây, thấy lại những ngày thân quen nâng niu tình chị em thắm thiết, nôn nao lây nỗi trông chờ chồng về thăm mỗi cuối tuần, chia sẻ nỗi đớn đau khi anh Kiệt hy sinh, và sự chọn lựa cuối cùng của chị Hảo. Ôi, chuyện mười sáu năm kết thúc chỉ trong một ngày. Thật đơn giản. Ông tạo mang vận số từng người ra xếp đặt đùa giỡn, tạo thành kiếp phù sinh. Phóng xe đi mà nước mắt cứ trào ra lăn trên má, tôi nghe lòng thổn thức gọi thầm: chị tha lỗi cho em, chị Hảo ơi, chị Hảo ơi…


Lời cuối:

Tôi có bàn với mẹ tôi đứng ra nhận xác chị Hảo về chôn cất. Mẹ tôi khuyên không nên dây dưa với chính quyền, hơn nữa lại dính tội sát nhân, không ít thì nhiều mình sẽ bị vạ lây. Không khéo cả nhà đi tù vì tội đồng lõa ám sát cán bộ. Suy đi nghĩ lại, mẹ tôi nói nên bán đi một cây vàng, cúng kiến cho hương hồn cô ấy sớm siêu thoát và làm phúc bố thí cho người nghèo. Tôi đồng ý và nghĩ chị Hảo chắc cũng thông cảm chẳng trách tôi. Một năm sau, tôi vượt biên để lại cho gia đình 5 cây vàng có vốn liếng làm ăn. Tôi thật không đành bỏ cha mẹ già và mấy đứa em; mẹ tôi thực tế hơn, khuyên con ở lại đây cũng chẳng giúp ích được nhiều, nay có chút tiền của nên đi để tìm tương lai cho chính con và sau này các em cũng được nhờ; gia đình ở lại cũng còn 5 cây vàng phòng khi túng quẫn, cũng không đến nỗi nào. Thế là tôi ra đi. Ở trại tỵ nạn bên Phi mất gần 4 năm, mãi đến đầu năm 1990 mới nhập cảnh Mỹ. Khi ở Phi, tôi viết hai lá thư hỏi thăm và kể rõ sự tình, gửi cho ông bà cụ anh Kiệt ở Đức và cha mẹ chị Hảo ở Mỹ. Thư gửi đi Đức bị trả lại vì không còn người ở địa chỉ đó nữa. Thế là tôi mất liên lạc. Tấm thẻ bài tôi vẫn luôn luôn giữ bên mình, lời yêu cầu của chị Hảo cứ canh cánh bên lòng. Vậy mà hơn mười năm trôi qua nơi xứ người…

Sở dĩ tôi viết lại câu chuyện thương tâm này vì mới hai tuần trước Tết Tân Tỵ tôi bắt liên lạc được với gia đình anh Kiệt. Bước sang thế kỷ 21, kỹ thuật mạng lưới toàn cầu phát triển tột bực và nhờ một vài người quen biết ở Đức dò la nhắn tin tức, tôi tìm được chỗ ở của hai cụ. Tôi được biết thêm cụ ông đã mất, cụ bà mắt đã mù. Tôi sẽ gửi câu chuyện trên đây như một lời giải thích cho bà cụ anh Kiệt về cuộc đời chị Hảo, kèm theo tấm thẻ bài của người con cả. Tôi cũng an tâm đã làm xong nhiệm vụ với người đã khuất. Cả đời người, tôi may mắn là nhân chứng cho một chuyện tình thương đau nhưng đẹp tuyệt vời. Mỗi năm, tôi đều thắp một nén nhang thương tiếc chị. Cầu mong hương hồn chị siêu thoát ở chốn vĩnh hằng.
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Hạnh Phúc và Đời Sống
Reply #54 - 30. Jan 2007 , 01:36
 
Hạnh Phúc và Đời Sống

Thanh Vân
Người ta thường than cuộc đời là bể khổ và hạnh phúc thật phù du. Cuộc sống quá máy móc và bon chen nhiều khi làm cho chúng ta cảm thấy bỡ ngỡ muộn phiền. Làm sao dung hòa được đời sống tinh thần của người Á Đông với cuộc sống vật chất, vội vàng, nhiều cạm bẫy của người Tây Phương ?
Sống và hưởng thụ trọn vẹn những gì cuộc đời đem lại cho mình phải chăng là mục đích của tất cả mọi người ? Nhưng con người, thật ra, tự nó, đã là một bài toán  quá nhiều phức tạp. Để đi đến Hạnh Phúc trọn vẹn, mình phải hiểu mình trước đã. Theo văn hào Pháp Pascal, con người là "cây sậy biết suy tư" (L’homme est un roseau pensant), mỗi con người là một thế giới riêng biệt, Hạnh Phúc của mỗi người vì thế cũng tùy thuộc theo trình độ, giai cấp và nhu cầu của mỗi cá nhân. Nếu "con người" nói chung là một cậy sậy  nghiêng ngã theo chiều gió thì người phụ nữ nói riêng còn phức tạp, khó hiểu đến đâu ?
Ai trong đời không có những ước mơ thầm kín, nhưng hình như ước mơ nào cũng quá tầm tay với, cái mà người này xem là tầm thường có thể là ước mơ khó đạt  của người khác... Vì vậy, đi tìm Hạnh Phúc trong đời sống vật chất ngày nay phải chăng là cuộc chạy theo ảo ảnh ? Ít ai tự bằng lòng với cái mình đang có, nhất là đối với phụ nữ chúng ta. "Cỏ bên kia núi khi nào cũng xanh hơn". Tâm hồn người phụ nữ tuy mềm yếu nhưng sự đổi thay thì vô chừng vì vậy chúng ta hay cảm thấy bất mãn và mơ ước viễn vông. Ít người cảm thấy mình hạnh phúc hoàn toàn  vì luôn luôn trong lòng vẫn mang nặng một ước mơ chưa thành đạt.
Giám đốc hãng thời trang danh tiếng Christian Dior, Mac Bohan, đã trả lời cuộc phỏng vấn của tuần báo Paris Match trong ngày lể kỹ niệm ba mươi năm thành lập hãng của ông như sau : "Phụ nữ và thời trang khi nào cũng đi đôi với nhau và thời trang là đem đến cho người phụ nữ những cái gì hoàn toàn trái ngược với cái mà họ yêu thích ngày hôm qua" (La mode, c’est offrir aux femmes le contraire de ceux qu’elles ont aimé la veille). Đông hay Tây, tâm hồn người phụ nữ khi nào cũng đầy mâu thuẫn và ưa thích sự đổi thay. Vậy làm sao "đi suốt đường trần" mà tâm hồn thanh thản và trong tim cảm thấy hạnh phúc tràn đầy ?
Trước nhất, chúng ta nên có một cái nhìn lạc quan và một "giấc mộng bình thường" trong tầm tay với. Gặp một chuyện gì không vừa ý hay một sự xui xẻo nhỏ nhoi nào đó, chúng ta đừng nên quan trọng hoá vấn đề và hãy cố tìm ra cái khía cạnh tốt đẹp của nó. Người Pháp có câu "Prendre la vie du bon côté" người mình cũng có câu có ý tương tự như vậy "của đi thay người", cái xui này, cái bực mình này sẽ giúp ta tránh được cái xui khác, cái bực mình khác quan trọng hơn nhiều. Nghĩ được như vậy, tâm hồn ta sẽ trở lại thư thái, nhẹ nhàng hơn. Vì vậy, hạnh phúc ở đời này, phải chăng là bằng lòng với những gì chúng ta đang có, nâng niu và hưởng thụ nó đến tận cùng ?  Nói vậy, không có nghĩa là chúng ta nên áp dụng thuyết "hiện sinh" một cách bừa bãi, mặc dù thuyết đó chẳng có chi xấu xa hay vô luân như chúng ta lầm tưởng. Một số người đã lợi dụng thuyết này, thuyết nọ để sống thác loạn, không có ngày mai, cho rằng mình đang sống theo trào lưu tiến bộ. Thật ra thuyết "hiện sinh" (existentialisme) hay thuyết "hưởng thụ" (épicurisme) đã có từ lâu, épicurisme từ thế kỷ thứ mười sáu với thi hào Ronsard  và những câu thơ bất tử khuyên con người hãy hưởng đi những gì đang có trong tay :
"Cueillons dès aujourd’hui les roses de la vie"

Hoa hồng đang tươi đẹp, các bạn hãy hái đi đừng để đến ngày mai hoa sẽ tàn mất, tuổi trẻ trôi nhanh, hãy sống tràn đầy để khi về già khỏi ngồi nhìn kỹ niệm mà tiếc nuối :
Quand par un soir d’ été
Tu seras seule à méditer
Que ce souvenir te dise tout bas
Ne m’ oublies pas!
Tuổi trẻ không hưởng thụ, ngày về già chỉ còn lại chút kỹ niệm chắt chiu của một thời hoa mộng đã trôi nhanh.
Vậy hưởng thụ là gì ? Hưởng thụ là ý thức, là sống trọn vẹn với cái mình đang nắm giữ trong tay.
Trong cuốn tiểu thuyết "Bonjour Tristesse", Francoise Sagan, người đã cùng Jean Paul Sartre và Simone de Beauvois khơi mào ra thuyết "hiện sinh" đã một thời gây sóng gió, cho ta một khái niệm tổng quát về ý thức hưởng thụ của nàng. Sống là ý thức được sự hiện hữu của chính mình. Chúng ta hãy nghe Cécile, nhân vật nữ chính của "Bonjour Tristesse" diễn tả cái hạnh phúc sống, sự hưởng thụ trọn vẹn  nhưng đơn sơ của nàng : Buổi sáng mùa hè ở miền bể, Cécile thức giấc với tách cà phê nóng hổi và trái cam mát lạnh trong tay. Nàng ngồi đó, nh nắng mặt trời chan hòa trên mặt, trên người, đầu óc nàng còn đặc sệt với giấc ngủ vừa qua. Nàng ngồi đó, tràn đầy hạnh phúc, không suy tư, không mơ ước, nàng nhắm ngụm cà phê bỏng cháy và cắn ngập răng vào quả cam mát lạnh. Cuộc sống trở về tràn đầy, với cái nóng của cà phê  đang trôi dần vào miệng cùng với cái mát lạnh, ngọt ngào của nước cam đang đánh thức mọi khứu giác của nàng. Hai trạng thái tương phản đó đã cho Cécile ý thức được rằng nàng đang sống, đang thực sư hiện hữu  và nàng hạnh phúc vô cùng với cảm nghĩ đó. Cái ý chính của thuyết "hiện sinh" là ở đó. Sống và ý thức được sự sống của mình. "Hiện sinh" không phải là cứ sống bừa bãi, thác loạn, tàn phá đời mình như độ nào có một số người đã sống, để rối trả lời những sự trách móc chê bai bằng cách khoác cho mình bộ vó "trí thức"  hay "triết gia" (philosophe) .Triết lý đem đến cho ta một phương thức sống, để cho ta có thể tìm hiểu được mình rõ ràng hơn. Không có triết thuyết nào xui khiến ta tự tàn phá đời mình hay đời người khác, có chăng chỉ có những người cố tình hiểu sai đi để tự ý làm bậy...
Đời sống của người phụ nữ như đóa hoa, sớm nở tối tàn. Vậy chúng ta phải làm sao kéo dài những ngày tươi đẹp và hưởng trọn vẹn những gì mà thời gian ngắn ngủi đó đem lại cho ta.
Hãy lạc quan, yêu đời và tin đời :
“I believe in angel
Something good in everything I see"…
Đời sống không chỉ là lọc lừa, gian dối mà đời sống còn tràn đầy chuyện thần tiên, ta hãy tin rằng trong mọi sự đề có khía cạnh tốt đẹp của nó. Tâm hồn yên vui, ta sẽ cảm thấy hạnh phúc. Tại sao cứ tự làm khổ mình bằng cách chạy theo ảo ảnh, dằn vặt mình bằng những phù phiếm giả tạo, hay trong cuộc sống vật chất này, bằng những món nợ xa hoa không cần thiết ? Cuộc sống đã quá nhiều rắc rối, hãy giản dị hóa nó bằng cách sống thật với chính mình, hãy nhìn bầu trời xanh cao chan hòa ánh nắng và nhủ lòng đây là một ngày nắng đẹp, đừng tự làm khổ mình bằng những ý tưởng bi quan hay lập dị. Câu văn giản dị trong sáng vẫn làm cho người đọc xúc động hơn những câu tối nghĩa không ngoài mục đích làm cho người đọc thắc mắc và biết đâu họ sẽ cảm phục mình. Các bạn ạ, nước mắt khi nào cũng chảy xuôi và sông khi nào cũng trôi ra biển, tại sao cứ tự cho mình là "con cá lội ngược giòng" để mong được người đời khâm phục ? Ta hãy sống tự nhiên như ta thở và hưởng thụ cái ta đang nắm chắc trong tay. Ta hãy mua sắm những gì mà túi tiền ta cho phép, như vậy ta mới thoải mái hưởng thụ mà khỏi bạc đầu lo chạy tiền trả nợ, ta hãy viết những gì mà ta hiểu để khỏi ngỡ ngàng khi bị người khác yêu cầu giải thích ý nghĩa câu nói của ta. Sống thật, sống lạc quan, sống giản dị, phải chăng đó là chìa khóa của hạnh phúc đúng nghĩa nhất ? Đừng để ước mơ biến thành ảo mộng nếu không là ác mộng !
Cát bụi rồi ta sẽ trở về cát bụi, hãy giản dị hóa cuộc dời  mình để có cuộc sống vô tư, để có những giây phút thần tiên cho riêng mình, để tận hưởng những gì êm đẹp mà đời sống đem lại cho ta mỗi ngày.
Ngày tháng trôi nhanh, ta cũng trôi theo dòng đời, nhưng lòng thanh thản. Hạnh phúc là ở đó. Yves Montand, một ngôi sao màn bạc nổi tiếng của nước Pháp nay đã lìa trần nhưng khi ông còn sống và  lớn tuổi ông có tâm sự với báo chí là đời sống của ông là một chuỗi ngày dài hạnh phúc mặc dù ông đã trải qua rất nhiều sóng gió trong đời.
Ông đã dễ dàng vượt qua được tất cả vì ông nói "Ta không bao giờ làm lại cuộc đời mà ta chỉ tiếp tục sống cuộc đời đó..." (On ne refait jamais sa vie, on la continue ...). Ông không có gì ân hận cho những ngày và những việc đã qua trong đời ông nên tương lai vẫn là cuộc sống đang tiếp diễn, ông không bao giờ nghĩ rằng sẽ làm lại cuộc đời vì cuộc đời đã qua của ông không làm cho ông ân hận, tiếc nuối nên ông chỉ tiếp tục cuộc sống mà thôi. Ông không có gì để oán trách dĩ vãng và cũng không có gì để lo sợ cho tương lai. Ông sống với "mộng ước trong tầm tay" nên ông hưởng thụ đời sống hiện tại thật an bình, êm ả.
Vậy thì bạn cũng sống thật hạnh phúc đi, bằng cách hái ngay hoa hồng của đời sống đang hé nở, bạn hãy cắn ngập răng vào quả cam mát lạnh ngọt ngào đang nằm trong tay bạn, bạn hảy nhìn bầu trời ngập nắng và cám ơn đời đã còn cho bạn cặp mắt nguyên vẹn... Đó bạn đang hưởng thụ, đang tràn đầy hạnh phúc, cái hạnh phúc tuyệt vời và tuyệt đỉnh của một đời sống giản dị bình thường.
"I have a dream
A song to sing
To help me cope
With anything…"
Hãy sống tự tin và lạc quan, hãy lựa cho mình một giấc mơ, một bài hát, bạn sẽ dể dàng đối phó với mọi bất trắc mà tương lai có thể dành cho bạn.
Đời sống ngắn ngủi thật, nhưng nếu biết cách hưởng thụ, hạnh phúc của ta cũng đã tràn đầy rồi, hạnh phúc sẽ không còn là "phù du" mà sẽ trở thành vĩnh cửu vì ta đã làm ra cái hạnh phúc đó. Lê văn Trương đã viết trong "Cô gái mới" như sau :
"Hạnh phúc ở lòng ta, chẳng ai có thể gây cho ta hạnh phúc được. Người ngoài chỉ có thể giúp ta làm nẩy nở cái hạnh phúc thêm ra mà thôi. Còn ta, ta cũng chẳng dại gì đem đặt hạnh phúc vào tay ai  vì ai cũng không bằng ta..."
Hãy tin vào lòng mình và ngày mai sẽ đến với bạn đẹp hơn ngày hôm nay thật nhiều. Hạnh Phúc đâu còn là "bóng mây" nếu ta biết cách nắm nó, phải không bạn ?
Thanh Vân
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Ngũ Thập Tri Thiên Mệnh
Reply #55 - 04. Feb 2007 , 20:35
 
Ngũ Thập Tri Thiên Mệnh
Bắc Giang

Tôi định viết bài này chín năm về trước lúc mới ... năm mươi tuổi, nhưng viết được vài dòng lại thôi, thiển nghĩ mình chưa đủ kinh nghiệm, đến nay thấm thoát đã chín mùa xuân qua đi, tóc đã bắt đầu muối nhiều hơn tiêu, răng có cái bắt đầu lung lay:

Mái tóc chòm đen, chòm lốm đốm
Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay

thỉnh thoảng vào những ngày trở trời, chân đã bắt đầu đi khập khiễng, cử động, ăn uống đã chậm lại. Nếu tôi không vội vàng viết về tuổi năm mươi ngay bây giờ sợ vài tháng nữa bước vào tuổi sáu mươi mà viết về tuổi năm mươi e rằng không còn ... trung thực nữa! Sự thật, lúc đó, ngày năm mươi tuổi tôi không để ý lắm về tuổi tác, cho đến khi có một đứa cháu tới thăm la lớn lên:

- Đầu chú có sợi tóc bạc, để cháu nhổ cho!

Tôi ngượng ngùng ra trước gương thì thấy không phải chỉ một sợi mà đã năm mười sợi nằm chình ình trên mái tóc mà tôi thường chăm sóc rất kỹ, thôi thì đủ cả Head and Shoulder, VO 5, Clairol. Vợ tôi mỉm cười nhìn cô cháu nhỏ:

- Chú mày già rồi!

Tôi không biết ... già thật chưa, thế nào là già, là mới bắt đầu già, là chớm già, là tuổi sồn sồn, những thắc mắc cứ ẩn hiện trong đầu làm tôi hoang mang không biết đâu là ranh giới của tuổi già. Ngày xưa Tổng Thống Ngô đình Diệm mới năm mươi tuổi đã được người ta kính trọng gọi bằng ... cụ, tôi thì chưa ai dám gọi bằng cụ như cụ Diệm nhưng ra đường đã có mấy cháu nhỏ gọi bằng ông, bằng bác rất nhiều, thậm chí có cô hàng xóm khi dỗ con nhỏ đang khóc đã a miệng:

- Nín đi không ông ngoại đánh đó con!

Giật thót mình nhìn quanh quẩn chỉ có mình tôi ngồi đó, tôi cũng giả vờ vỗ về đứa nhỏ:

- Nín đi, để ngoại ru con ngủ!

Về nhà soi lại gương, hôm nay không còn nhận ra tôi là ai nữa, người đứng trong gương thực sự không phải là tôi, tôi làm sao đã có những nếp nhăn trên mặt như vậy, đưa tay vuốt lại mái tóc đã thấy bắt đầu khó khăn:

Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ?
Răng long ngày trước vẫn còn đây

chân tay lọng cọng không còn nhanh nhẹn, thoăn thoắt như xưa, bước vào phòng tắm động tác lúc thừa, lúc thiếu một cách vụng về, cầm tờ báo lên đọc càng ngày càng phải đưa ra xa hơn, chiếc kính cận chắc ngày mai phải đi đổi thành kính ... lão! Đeo kính lão lên mà vẫn nghĩ mình chưa già cho đến một vài tháng sau phải choàng vào một sợi dây toòng teng đeo nó trên ngực mới thấy có lẽ mình đã già thật rồi! Hôm nọ gặp một người bạn trông quen lắm nhưng không làm sao nhớ tên được, ông ta đến gần đưa tay ra bắt:

- Sao, dạo này khỏe không?

Tôi ầm ừ đáp lấy lệ: - Khỏe!

Nói thì nói vậy thôi chứ sự thực cái bắt tay đã lỏng lắm, không còn siết chặt như xưa được nữa, về đến nhà chợt nhớ ra ông ta là chú vợ, hú hồn, may mà vợ tôi không biết, không thì ... nguy to:

- Người gì bất lịch sự!

Có nhiều lần lái xe ra khỏi nhà chưa được mười phút chợt nhớ ra không biết mình bấm cái remote đóng cửa garage chưa, lại phải quay về xem lại cho chắc ăn cẩn tắc vô áy náy mà! Sáng chủ nhật đi chơi, vợ dúi cho hai chục uống cafe với bạn bè, tiền nhớ đã cẩn thận cho vào túi quần mà sao tìm mãi không ra, không lẽ nào ..! Đầu óc lúc nào cũng như trên mây, cái đáng nhớ thì không nhớ, cái không cần nhớ thì sao cứ thuộc vanh vách.

Gặp bạn bè trong những lúc rảnh rỗi tán vài ba câu chuyện gẫu rồi cuối cùng cũng chỉ ngồi ôn lại chuyện ngày xưa, luyến tiếc cái ... dĩ vãng, thuở vàng son, một thời xuân sắc! Ngồi mãi cũng chán, đứng dậy đã thấy khó khăn, chân tay ê ẩm, bụng bắt đầu ... phệ ra, tóc thưa dần, một vài ông bạn cố che giấu cái đầu hói bằng chiếc mũ be-rê trông duyên dáng tệ!

Trong túi lúc nào cũng sẵn có một lọ thuốc, không phải chỉ có một thứ mà xanh, đỏ, trắng, tím, vàng đủ thứ hầm bà lằng: huyết áp cao, tiểu đường, hen suyễn, đau nhức, mỗi sáng ngồi lựa từng viên uống mà phát.. mệt! Tai nghe đã kém đi nhiều, tưởng ai cũng... già như mình nên phải nói to hơn một tí, đôi khi thành ra cộc cằn, thô lỗ. Người khác nói thì cứ phải lắng tai nghe, câu được câu không nên trả lời chẳng ra ngô ra khoai gì cả, thỉnh thoảng phải hỏi lại hả hả đưa đến tình trạng ông nói gà, bà nói vịt, chán mớ đời!

Ngày xưa năm mươi tuổi đã được hàng xóm láng giềng trọng vọng, đi ăn cỗ được xếp ngồi chiếu trên, mọi người chào hỏi một cách lễ phép, một điều Thưa Cụ hai điều Lạy Cụ ạ! nghe mát tới tận đáy lòng. Ngày nay năm mươi tuổi vẫn phải ... cầy thục mạng, có nhiều cụ vẫn hiên ngang cầy hai jobs, cầy từ sáng tới tối mịt chỉ hy vọng con vợ ở nhà nó có đủ tiền đi ... shopping đừng đưa ra tòa ly dị!

Chỉ tội nghiệp nhiều cụ ban ngày làm đầu tắt mặt tối, thở không ra khói, ban đêm về nhà vẫn phải làm tròn bổn phận ... công dân để chứng tỏ ta đây uy lực vẫn còn bao trùm thiên hạ, tóm thâu lục quốc! Người xưa có câu Ngũ thập tri thiên mệnh, năm ba mươi tuổi tôi thấy... trật lất! Chả có thiên mệnh, địa mệnh gì hết, tất cả do ở mình, mình muốn và có cố gắng là thế nào cũng đạt được, không lẽ cùng sinh ra là người, người khác làm được tại sao tôi làm không được, tôi có què quặt, dốt nát gì cho cam.

Trải qua những năm bốn mươi, rồi đến năm mươi, đã hơn nửa đời người, nhìn lại thấy ... đời đã xanh rêu, nhiều giấc mơ, ước vọng thuở xa xưa đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được, có những may mắn đến một cách kỳ diệu như một phép lạ, có những lần thoát nạn trong gang tấc tưởng như có phép mầu nhiệm, có những thất bại ê chề, những cú ... trời giáng, rồi đến những tai nạn, bệnh hoạn rình rập của tuổi bốn chín, năm ba (bốn chín vừa qua, năm ba lại đến) làm tôi tỉnh người mới thấy các cụ ta nói thật đúng: tất cả do mệnh trời! Phải biết thuận theo số trời. Tôi có người bạn là một bác sĩ về tim rất giỏi, còn vài tháng nữa bước vào đại hạn bốn chín. Bỗng một hôm tôi nhận được tin ông bạn thân của tôi đã qua đời vì ... heart attack! Thế mới biết trời kêu ai nấy... dạ!

Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định!  Thấm thoát thế mà đã sống được hơn năm mươi năm:

Nhớ từ năm trước hãy thơ ngây
Phút chốc mà già đã tới ngay

Cái già nó xồng xộc đến lúc nào ta không biết, bạn bè thỉnh thoảng có kẻ hối hả giã từ ra đi không hẹn ngày trở lại: Bạn già lớp trước nay còn mấy?

Cứ như cụ Nguyễn Khuyến mà đúng, khi tròn năm nhăm tuổi liền tụ tập hàng xóm láng giềng, bạn bè tổ chức ... party ăn mừng được lên lão:

Ông chẳng hay ông tuổi đã già
Năm nhăm ông cũng lão đây mà
Anh em hàng xóm xin mời cả
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là..

Ngày nay nhiều cụ gân hơn nhất định đợi đến năm bẩy mươi mới ăn mừng thượng thọ, nhưng thật là hiếm, thất thập cổ lai hy mày

Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa
Thử xem trời mãi thế này ư!

Trong cách xưng hô, tôi thấy tiếng Mỹ thế mà hay cứ You and Me mà tiện, vừa giản dị vừa dễ nói vừa không bất lịch sự mà cũng chẳng lôi thôi như tiếng Việt ta cứ phải gọi bằng chú, bằng bác, bằng ông, bằng bà, bằng mợ, bằng thím, bằng cụ cho lôi thôi, kiểu cách, nhỡ gọi lầm sẽ bị chê bai là... vô giáo dục! Tại sao không bằng ... anh, bằng ... em như ngày xưa còn bé cho tiện bề sổ sách! Chẳng mất lòng ai, mà ai cũng vui lòng! Đấy như nữ sĩ Hồ Xuân Hương gần bốn mươi tuổi chẳng ke gì ... thiên mệnh, xưng em ngọt xớt có sao đâu:

Thân em thì trắng phận em tròn
Bẩy nổi ba chìm với nước non

Hoặc lúc nào hứng lên vẫn có quyền xưng bằng .. chị:

Này này chị bảo cho mà biết
Chỗ ấy hang hùm chớ mó tay!

Thử tưởng tượng đổi hai chữ em và chị trong bốn câu thơ trên thành bà hay cụ, hay bằng mợ bằng thím thì chán biết mấy!

Bắc Giang

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #56 - 15. Feb 2007 , 18:49
 
Đêm xuân trong trại tù Cao Lãnh


...


Trại tù Cao Lãnh, chiều cuối năm, buồn hiu hắt. Bữa cơm chiều, ngoài phần rau luộc và nước chấm như thường lệ, tù nhân được lãnh thêm phần thịt kho để mừng xuân về. Nói “thịt kho” cho xôm, thực ra, mỗi đứa chỉ thêm vài miếng ba rọi mỏng lét, dài hơn lóng tay út một chút.


Cơm vừa phát xong, đã hết ngay. Thau sạch loáng, chẳng còn một hột sót lại. Thế mà, có đứa vẫn cầm muỗng đứng ngẩn ngơ, tiếc rẻ phần cơm sao quá ít, đã vội vã trôi nhanh vào bao tử.

Những miếng ba rọi tội nghiệp, than ôi, chỉ làm bụng thêm cồn cào. Chỉ làm miệng tôi thêm háo hức, thèm thuồng đủ thứ. Tôi nhớ đến góc phố Sài Gòn. Những cái bàn bu quanh xe mì lưu động. Tô nước lèo béo ngậy, mỡ nổi màng màng. Hương thơm bốc lên từ sợi mì, từ miếng xí quách đầy nạc. Tôi nhớ đến dĩa cơm bình dân. Dĩa cơm ở Cường Để, thời sinh viên nghèo nàn. Dĩa cơm nơi quân trường gian nan. Dĩa cơm tận chiến tuyến lửa đạn. Những dĩa cơm bình dân, nhưng ê hề cá thịt. Ăn một lần đã thấy no. Ăn một hơi đã thấy đủ.

Chỉ có thằng Hữu, đặc biệt. Phần ăn của hắn còn nguyên, chưa vơi đi chút nào. Tôi đếm tất cả là sáu miếng thịt ba rọi trắng phau phau, đang nổi lều bều trong chén nước kho. Chu choa! miếng thịt tràn trề hương vị, đánh thức vị giác và khứu giác của tôi một cách mãnh liệt.
- Bộ...dư hả? Cho tau đi...
Thằng Hữu liếc tôi. Con mắt lấp lánh nắng chiều, tưởng như có ngọn lửa nào đó, sắp sửa bùng lên.
- Mẹ! Ở đây, làm sao...dư? Có cách nào...dư?
Tôi lắp bắp, chỉ vào phần ăn của hắn, nói ngọng nghịu :
- Nó...nó...còn nguyên? Bộ ...bịnh hả?
- Mẹ, bộ bịnh...rồi...rồi...nhịn đói hử? Đồ...đồ...vô duyên!
Bị chửi, nhưng tôi vẫn còn tiếc rẻ phần cơm. Tiếc rẻ miếng ba rọi nằm khêu gợi trong chén nước kho sóng sánh mỡ.
- Sao...sao...nó còn nguyên? Còn nguyên?
Tôi nuốt nước bọt, luống cuống hỏi. Lúc này, thằng Hữu mới há miệng cười. Hắn kéo tôi vào một góc, thì thầm trong tai :
- Tau để dành. Đêm nay, đón giao thừa với người đẹp.
Nghe hắn nói, tai tôi bắt đầu lùng bùng. Có luồng điện nào đó, chạy ngược lên đầu, rồi lan ra, tê rần các giác quan.
- Mày...mày nói sao? Người đẹp? Mẹ, dóc cha nội! Người đẹp nào ở đây?

Thằng Hữu không trả lời. Hắn nắm tay tôi lôi một hơi, ra cây trứng cá cuối trại. Khoảng sân rộng thênh thang chạy dài. Tới đấy, nó hẹp lại, chỉ còn lối mòn nhỏ, dẫn đến gốc trứng cá. Xung quanh, lau sậy mọc đầy. Vòng kẽm gai cuối cùng của trại tù, nằm hoang vu, ở đó.
Thằng Hữu ngồi bệt dưới gốc cây. Hắn ngả người ra sau. Hai khuỷu tay chống xuống cỏ. Rồi lơ đãng nhìn lên vòm lá. Tôi nằm kế bên, hồi họp chờ lời nói của thằng Hữu. Những áng mây trôi trên trời, xuyên qua kẽ lá, như những tà áo dài trắng...đứt đoạn.
- Mày còn nhớ đêm Giáng Sinh, cách đây vài tháng không?
- Nhớ chứ! Đêm đó, nửa khuya, mày biến đâu mất dạng? Tau dậy đi đái, thấy không có mày, tìm, muốn khùng.
- Đêm đó, đêm đầu tiên tau gặp người đẹp.

Tôi há mồm, ngạc nhiên. Người đẹp? Lại người đẹp? Trại tù Cao Lãnh là nơi bọn việt cộng nhốt sĩ quan chế độ cũ. Toàn một đám đực rựa, từ thiếu úy đến trung tá. Ở đây, chúng bắt bọn tôi nhai đi nhai lại những bài chính trị nghịch ngợm, để chờ thời gian thanh lọc, đưa đi lao động khổ sai trong các trại tù xa xôi ngoài Bắc. Lũ việt cộng cũng vậy, từ quản giáo đến vệ binh, chỉ gồm một bầy đàn ông chán đời, thiếu vắng hơi hướm đàn bà lâu ngày.

Thằng Hữu mơ màng nhìn ra bờ sông. Con sông Cao Lãnh mênh mông. Giờ này, nước lớn, sóng đập trắng xóa bờ. Cái lô cốt cuối cùng, cách chúng tôi rất xa. Mãi tận đằng kia của gờ đất. Xung quanh đây, cỏ dại mọc đầy. Lau sậy chằng chịt như mạng nhện. Vòm lá của cây trứng cá rậm rạp, phủ kín một vùng rộng lớn.
- Đêm đó, đêm Giáng Sinh. Tau trằn trọc mãi, không ngủ được. Nửa khuya, bỗng nghe tiếng gọi trong trẻo : “Anh ơi! Thức dậy đi! Ra ngoài cây trứng cá. Em chờ anh ở đấy!”. Tau lồm cồm ngồi lên. Bóng đen dày đặc.Từ đầu phòng đến cuối phòng, chỉ nghe tiếng ngáy nổi lên khắp nơi. Phía cửa vào, ánh sáng hiu hắt của ngọn đèn trên cao, soi rõ dáng dấp của một thiếu nữ, đang nhìn tau mỉm cười. Nụ cười quyến rũ thật! Mới thấy, tau bị lôi cuốn ngay, quay quắt ngay!
Tôi chộp ngực thằng Hữu, kéo hắn ngồi lên, thôi thúc :
- Em...em đẹp hông? Em mặc áo gì? Đêm tối, làm sao mày mò ra cây trứng cá?
- Em đẹp một cách lộng lẫy. Em mặc áo dài trắng, tóc xõa ngang lưng. Hình như, tà áo dài trắng, thân thể em trắng...đã phát ra một thứ ánh sáng huyền diệu. Theo đó, mà đi. Theo đó, tau đã ra được cây trứng cá.
Tôi tưởng tượng đến dung nhan nàng, như lời mô tả của thằng Hữu. Tôi chợt nhớ đến câu thơ của Nguyên Sa. Da em trắng anh không cần ánh sáng. Đúng rồi, sắc đẹp của nàng là thứ ánh sáng huyền diệu, dẫn thằng Hữu đến thiên đường...
- Rồi...rồi sao nữa?
- Đây này! Chỗ này đây!
Thằng Hữu vỗ nhẹ xuống nhánh cây. Đó là một nhánh thấp, là đà gần mặt đất. Người ta có thể ngồi lên đó nghỉ ngơi, lưng tựa thoải mái vào thân cây chính.
- Chỗ này, tau và nàng ngồi nói chuyện với nhau cho tới sáng. Mày biết không? Gần nàng, tau mới khám phá ra một điều. Thân thể nàng luôn tiết ra một mùi hương cực kỳ thơm tho, khiến tau cứ ngây ngất mãi. Không phải là mùi hương riêng biệt của hoa hồng, hoa cúc, hoa lan...Hay bất cứ một thứ hoa nào đâu! Cũng không phải mùi hương của mỹ phẩm, của son phấn, của vải vóc, lụa là...Đó là một mùi hương kỳ diệu, dường như là tổng hợp của hàng triệu mùi hương tuyệt vời nhất trên trái đất này. Hay đó là mùi hương của thế giới khác, của hành tinh khác, của miền miên viễn nào đó mang lại...Tau, cho tới bây giờ, thực sự...chưa hiểu ra?

Tôi ngó quanh quất cây trứng cá. Cố gắng sục sạo, tìm kiếm hình bóng giai nhân của thằng Hữu. Câu chuyện có vẻ kỳ bí quá! Có vẻ hoang tưởng quá! Chợt, tôi rùng mình, nổi da gà khắp người.
- Thằng quỷ! Mày có thấy mặt em rõ ràng không? Chân em có chạm đất không? Và em...em đã nói chi với mày?
Thằng Hữu tươi cười. Hắn nhắm mắt lại, thả hồn vào thế giới tình yêu đầy mộng đẹp.
- Hình ảnh em đã nằm trong đầu tau, trong trái tim tau đây này! Làm sao xóa nhòa được? Tay em đã nắm chặt tay tau. Chân em đã quyện vào chân tau. Và cứ thế, hai đứa tâm tình với nhau, tới sáng.
Niềm hân hoan tột độ của thằng Hữu đã đánh thắng nỗi hoài nghi nhỏ nhen của tôi. Tôi cũng muốn nhìn người đẹp lắm chứ? Muốn nghe nàng nói đôi lời, dù đôi lời ngắn ngủi, cũng đủ an ủi thằng tù lỡ vận thất thời mới có hai mươi lăm tuổi đời. Đêm nay, giao thừa, trong tù. Tại sao còn phải đo lường dông dài? Tại sao không cùng thằng Hữu, không cùng người đẹp, ngồi đón xuân với nhau dưới gốc trứng cá, ngoài trời – thú vị biết bao!
- Ơ...Hữu! Cho...cho tau cùng đón giao thừa đêm nay với mày nhen?
Hữu suy nghĩ giây lát :
- Ừ. Nhưng... chuyện này...bí mật. Không nói cho ai biết đấy!
Nói xong, thằng Hữu nhảy chồm lên như ngựa. Hắn phóng qua mặt tôi, chạy về hướng sân trại. Tôi hối hả, gọi theo :
- Này, khoan đã...Mày cho tau biết người đẹp tên gì? Tên gì?
Có tiếng Hữu oang oang trong gió :
- Thục Huyền. Trần thị Thục Huyền.


Đêm yên tĩnh. Chỉ có tiếng côn trùng kêu buồn bã ngoài đám rẫy. Chỉ có tiếng gió lộng chơi vơi bên cửa. Gió lùa qua lán tù, thổi phần phật những cái mùng nhà binh cũ mèm của các tên tù binh vô phước.. Hữu và tôi ngồi lặng lẽ trong bóng tối. Chúng tôi lắng tai nghe từng tiếng động. Chúng tôi phân biệt từng âm thanh. Nào tiếng muỗi vo ve quanh góc mùng. Nào tiếng ngáy ồ ồ của các bạn tù chung đội. Nào tiếng ễnh ương kêu quàng quạc ngoài đồng. Chúng tôi chờ đón tiếng pháo giao thừa. Hơn mười hai giờ rồi, chẳng nghe một tràng pháo nào hết. Cũng chẳng nghe tiếng trống chùa hay tiếng chuông nhà thờ dồn dập vọng lại, báo hiệu năm mới đã tới, mùa xuân đã trở về. Chế độ cộng sản ác độc thật! Cho đến mùa xuân tràn trề nhựa sống, cũng phải rón rén, sợ hãi – không dám lộ liễu, hiện diện.

Gần một giờ khuya, người đẹp mới xuất hiện. Tôi thấy rõ ràng một thiếu nữ trẻ trung, thướt tha trong tà áo dài trắng, nhẹ nhàng từ cổng rào lán tù tiến vào. Thằng Hữu bấm tay tôi. Hai đứa há hốc mồm, nhìn ra khung cửa. Gió làm ánh đèn chao đi chao lại trên đầu lán. Ánh sáng vàng vọt hắt xuống khuôn mặt nàng. Đó là khuôn mặt giai nhân tuyệt sắc, trắng trẻo, dễ thương – khiến tôi mới gặp lần đầu, đã chợt ngẩn ngơ, mê mẩn. Đợi nàng vào sân, thằng Hữu kéo tay tôi, chạy ra. Quả thật, tà áo dài trắng như tỏa ra thứ ánh sáng huyền diệu, dẫn đường chúng tôi tới. Nàng đi trước, chúng tôi theo sau. Cứ thế, cả bọn tiếp tục đếm bước, trong bóng tối mênh mông, để đến cây trứng cá ở vòng kẽm gai cuối cùng.

Đến điểm hẹn, nàng mới ngoảnh mặt ra sau, cười với chúng tôi. Ánh sáng mỏng manh, nhưng huyền diệu, được toát từ tà áo dài, đủ để cho tôi thấy khuôn mặt xinh đẹp với nụ cười tươi tắn của nàng – một nụ cười tôi chưa từng thấy trên đôi môi của thiếu nữ xinh đẹp nào, trên cõi trần gian này.
Nàng khéo léo ngồi trên nhánh cây thấp nhất, rồi bật diêm thắp nến. Một mùi hương thơm cực kỳ, thoang thoáng quanh đây. Đúng như lời thằng Hữu nói, thân thể nàng tiết ra một mùi hương kỳ diệu – có thể là mùi hương tổng hợp của hàng triệu mùi hương tuyệt vời nhất trên trái đất này.
- Bạn anh đấy ư? Sao chưa giới thiệu?
Nàng vừa bày thức ăn, đặt các thứ lên tấm nylon, vừa nói với thằng Hữu.
- Ơ, bạn anh. Tên Ân. Ân muốn cùng vui giao thừa với chúng mình, đêm nay.

Thằng Hữu choàng tay qua vai, kéo tôi ngồi xuống, cạnh nàng. Tôi run run trong vòng tay hắn. Không phải vì thời tiết lạnh lẽo của đêm đầu năm. Chính là vì sắc đẹp não nùng của nàng – một sắc đẹp – chắc chắn, không một hoa hậu thế giới nào có thể so sánh được.
Tôi muốn chết điếng, bởi câu nói êm ái vừa phát :
- Anh Ân tự nhiên nhé! Đêm nay, chúng ta ăn Tết với nhau nghen!

Thằng Hữu cũng bày tộ cơm và chén thịt kho ra. Thức ăn của hắn họp cùng với bánh tét, chả lụa, củ kiệu, tôm khô, mứt...của Thục Huyền đem đến – đã thành một bữa ăn thịnh soạn, đáng ghi nhớ nhất trong đời chúng tôi. Không có rượu mà dường như say. Tôi chếnh choáng trước sắc đẹp Thục Huyền, trước lời nói dịu êm, ngọt ngào như mật ong. Và thế đấy, chúng tôi tiếp tục cuộc vui cho tới rạng sáng.

...


Vài tuần sau, theo lệnh cán bộ trại tù, đội tôi phải thực hiện một cái ao để nuôi cá. Chu vi ao rất rộng. Nó bắt đầu từ khoảng sân đội chạy qua đám rẫy, chạy thẳng đến vòng kẽm gai cuối cùng. Thế là, cây trứng cá bị hạ xuống. Đội tôi bứng luôn cả gốc cây, cho cái ao được hoàn thành một cách trọn vẹn.
Thời gian này, thằng Hữu và tôi buồn dào dạt. Đêm nào, chúng tôi cũng ngồi lặng lẽ, hút thuốc cho tới khuya. Chúng tôi không còn tranh nhau từng hột cơm, từng cọng rau nữa. Cả hai đều dành thì giờ để nghĩ tới Thục Huyền, như một thứ tương tư cuồng nhiệt. Tôi chợt nhớ đến hai câu thơ của ông thi sĩ Trung Hoa nào đó :
“Thiên nhai hải giác hữu cùng thì
Duy chỉ tương tư vô tận xứ ”.
( Tạm dịch : Chân trời góc bể có thể đi tới được
Duy chỉ có tương tư là vô bến bờ.)

Trong khi đào ao, tới khu vực cây trứng cá, đội tôi gặp phải một cổ quan tài nằm sâu trong lòng đất. Cả đội phải họp lại nhau, bàn bạc. Cuối cùng, chúng tôi đành bốc hài cốt cho vào nón sắt, rồi cẩn thận hàn kín, đem chôn nơi khác.

Từ đó, thằng Hữu và tôi không còn gặp lại Thục Huyền nữa. Chúng tôi có kể chuyện này đến các bạn tù . Họ đều lắc đầu cười cợt, cho là chuyện hoang tưởng, hoang đường.
Riêng thằng Hữu, trước khi chia tay với tôi đi lao động nơi khác, hắn có tâm sự như sau :
- Tau mang tâm trạng chán đời khi vào tù, vì nước mất nhà tan. Cha mẹ, vợ con tau...đã chết trên chiếc tàu hải quân từ Đà Nẵng về Sài Gòn, trong những ngày cuối cùng của tháng tư oan nghiệt. Đêm Giáng Sinh năm nọ, tau đả chuẩn bị sẵn một sợi dây nylon để tự vận. Chờ khi cả đội chìm vào giấc ngủ, tau tròng sợi dây vào cổ. Lúc đó, Thục Huyền bỗng dưng xuất hiện. Tiếng gọi dịu dàng và sắc đẹp tuyệt diệu của nàng, làm tau dừng tay, bỏ ý định tự tử, rồi riu ríu theo nàng ra tận cây trứng cá. Từ đó, tình yêu đã làm tau yêu đời trở lại, sống đến ngày hôm nay.
Và tôi, mùa xuân năm ấy là một mùa xuân đặc biệt nhất trong đời.


San Diego, 10/12/2004
PHẠM HỒNG ÂN




Back to top
 
 
IP Logged
 
DongVan
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 270
Re: Truyện ngắn
Reply #57 - 27. Feb 2007 , 08:12
 
Tình nghĩa vợ chồng


Nguyên Nhung -


Thế là ông ấy về, con bạn đến báo tin để chúng tôi cùng ra phi trường đón ông chú nó từ Mỹ về thăm nhà. Tôi cũng không ngạc nhiên lắm trước tin này, vì trong lá thư viết cho tôi ông có nói cho biết như thế. Qua sự giới thiệu của Mai, bạn của tôi và cũng là cháu của ông, ông về Việt Nam kỳ này là để tìm ý trung nhân.

Trong hình, ông có vẻ tráng kiện và chưa già lắm so với tuổi, đàn ông mới sáu mươi đâu đã gọi là già, lại được sống ở điều kiện tốt, nom ông còn phong độ lắm. Đúng là “người tốt vì lụa, lúa tốt vì phân”, ba tôi cũng chỉ mới sáu mươi mà mắt mũi nom đã hom hem lắm rồi.

Cả nhà bạn tôi nôn nao chờ, ai cũng ăn mặc như ngày hội. Tôi đơn giản trong chiếc áo lụa màu hoàng yến, mớ tóc mây đen nhánh thả xuống bờ vai thon, một chút son phấn cũng làm tôi rực rỡ hẳn lên. Tôi biết ông thích như thế, khi muốn tìm một người con gái Việt Nam thuần túy Á Đông.

Khi chuyến bay của ông sắp đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, tự nhiên tôi hồi hộp quá. Nào có gì đâu mà sợ, nhưng tôi ngại mình sẽ có những cử chỉ quê mùa, luộm thuộm trước mắt ông, một người Việt sống ở Mỹ đã lâu, chắc hẳn phong cách khác xa với kẻ ở quê nhà. Cả nhà Mai ùa tới đón ông, tôi khép nép đứng đằng sau chờ đợi. Sau cái ôm hôn và siết tay từng người trong gia đình, Mai đẩy ông tới trước mặt tôi. Thật lịch sự, ông nghiêng đầu chào, nụ cười tươi, đôi mắt kính gọng vàng lấp lánh, ông ôm vai tôi, vỗ nhẹ, không có vẻ suồng sã mà rất thân tình, như đã quen nhau từ kiếp trước.

Cả nhà tíu tít đẩy những chiếc va ly nặng trĩu, những thùng giấy đầy quà ông mua về làm quà cho thân nhân, trong ấy là những chiếc quần “bò“ chính gốc dân chăn bò miền Texas, áo sơ-mi, váy dài váy ngắn đủ kiểu, (sau này tôi mới biết toàn những quần áo cũ ông thu lượm được của các con), tất cả đều toát ra một mùi thơm dễ chịu, cả người ông cũng thế. Những ngày sau đó là ngày vui của gia đình Mai, có tôi là người ngoài độc nhất tham dự. Những bữa ăn linh đình trong các nhà hàng lớn ở Sài Gòn, những chuyến du ngoạn Đà Lạt, Vũng Tàu, Nha Trang, lần đầu tiên trong đời, tôi được đi xa thoải mái với những tiện nghi cho thành phần giàu có. Mọi người tranh nhau vây lấy ông, bao nhiêu câu hỏi tíu tít về cuộc sống ở nước ngoài, những con mắt thèm thuồng nhìn sự no đủ của ông toát ra từ nước da hồng hào, bộ quần áo mặc trên người cho đến đôi giày đi dưới chân, cái gì cũng lịch sự, thơm tho, sạch sẽ.

Sau những lúc bận rộn với gia đình, ông dành thì giờ để gặp tôi, khi thì có Mai, lúc thì không, ai cũng phải ngầm hiểu lý do ông về thăm quê nhà lần này là để tìm người “nâng khăn sửa ví”. Trong đám người nhà của Mai, gần như ai cũng xem tôi là một thành viên trong gia đình, tuy vẫn ngấm ngầm đâu đó sự ganh tỵ khi thấy ông đặc biệt chú ý đến tôi. Tôi vẫn xưng hô chú cháu, cho đến khi ông đề cập thẳng đến mục đích của chuyến về, rồi xưng anh với tôi, thì vấn đề đã thực sự có vẻ nghiêm trọng.

Hai mươi hai tuổi, đã đôi lần hẹn hò với bạn trai đồng trang lứa, tôi có xôn xao suy nghĩ đến hình ảnh người đàn ông của đời mình, nhưng chưa hề nghĩ đến chuyện lấy chồng, vì đám trẻ chúng tôi bây giờ, sau bao khó khăn của cuộc sống, chúng tôi không quá ngây thơ để hấp tấp về làm vợ một anh chàng với viễn ảnh hai quả tim vàng, một lu nước lạnh. Đột ngột quá, dù tôi biết thế nào cũng có chuyện đó, nhưng ông và tôi gặp nhau vỏn vẹn chỉ có hai tuần, thư từ được dăm lá, ông nói bên kia khá bận cho những chương trình lớn, bởi vậy không có thời gian để tìm hiểu lâu hơn. Ông kể chuyện nước Mỹ, một thế giới văn minh, con người được thừa hưởng tất cả những ưu đãi của vật chất, điều ấy thì tôi thực sự mơ ước. Ông có ba người con, hai trai một gái, nhưng đã tự lập, lũ nhỏ ảnh hưởng nền giáo dục của Mỹ không thích làm phiền cha mẹ, mà cha mẹ cũng không có quyền làm phiền con cái. Nay vợ ông đã ra người thiên cổ, ông hoàn toàn độc lập, nếu lấy ông tôi sẽ không bị ai quấy rầy cả.

Hồi hộp nhất là hôm ông ngỏ ý đến chơi nhà cho biết, và để gặp bố mẹ tôi về việc muốn cưới tôi làm vợ. Thôi thì vải vóc, nước hoa, phấn sáp cho mẹ tôi và mấy chị em gái, quần áo đắt tiền, kẹo chocolate cho thằng em trai, rồi thuốc thơm, rượu “xịn” cho ba tôi. Mỗi lần đến lại một lần quà nhìn cứ ngộp con mắt, cả nhà không ai dám dùng, chỉ để dành ngắm cho sướng mắt.

Khó nhất là vấn đề xưng hô, ông sêm sêm tuổi mẹ, gần bằng tuổi ba, gọi bằng gì cho phải. Cuối cùng thì ba mẹ tôi gọi ông bằng “anh”, còn ông cung kính dùng hai chữ “ông bà”. Thế là ổn nhất, ai muốn hiểu sao cũng được, “anh” cũng có nghĩa là bạn đồng trang lứa, mà cũng có nghĩa thân mật hơn là con cháu trong nhà. Mọi người đều hoan hỉ như trúng số, riêng tôi vẫn ngại ngần chưa dám gọi ông bằng anh, chỉ nói trống không.

Ba tôi ngỏ ý băn khoăn cho sự chênh lệch tuổi tác, nhưng vốn từ xưa đến nay, ông là người “ba phải” ai nói sao cũng ừ, ai bảo sao cũng gật, vợ con là trên hết. Mẹ con cũng dẫn nhau đi coi tuổi, nhưng thời buổi này có tuổi nào ngon lành bằng viễn ảnh được lấy chồng xa, Đài Loan, Đại Hàn, Nhật Bổn, Hồng Kông què chân cụt tay vẫn còn có giá, huống gì một Việt Kiều từ Mỹ về thơm như nước hoa thì trách nào con gái không bổ nhào vào đi lấy chồng xa. Cái câu ca dao:

“Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng đem cho...”
Câu ca dao ấy xưa rồi, bây giờ người ta đổi lại cho hợp thời:
“Có con mà gả chồng xa
Lâu lâu lại có đô la gửi về.”

Mẹ con bàn bạc mất mấy ngày, khoản tuổi tác được thông qua khi quan niệm tình yêu làm gì có biên giới, đám trẻ bây giờ văn minh tiến bộ có quan niệm cởi mở hơn, “thứ nhất muối tiêu, thứ nhì Việt Kiều...”, người lớn thì tính toán, “nhất vàng, nhì đô, thứ ba là nhà cửa”. Tính chán thì cả nhà đi đến quyết định như là tôi có dịp đi hợp tác nước ngoài, vừa có tiền giúp đỡ gia đình, lại được làm vợ một người giàu có. Cứ cho là tôi hy sinh cho cha mẹ được nhờ, ví như nàng Kiều phải bán mình chuộc cha, đấy chỉ là một cách nói, chứ tôi thấy cũng ham lắm, hy sinh vì tiền có vinh dự gì mà khoe.

Đám cưới được tổ chức gấp rút vào tuần lễ thứ ba ông ở Việt Nam, như một đám cưới chạy tang. Ba mẹ tôi không mời bao nhiêu người, dù ông bảo không đáng gì cái khoản ăn uống đó. Còn lạ gì đám họ hàng nhà tôi, thấy có tiền thì họ bò đến ngay, nhưng cứ vừa ăn vừa móc méo, mai mỉa cái cọc cạch tuổi tác của đôi trẻ. Mẹ tôi thì cho rằng con ưng đâu thời gã đó, quý hồ chàng rể biết lo, tôi có phận nhờ. Tôi cười thầm trong bụng mà không nói ra, đã sáu mươi chứ còn bé bỏng gì lại không biết lo, có của ăn của để như thế đâu phải người khờ khạo.

Tôi trở thành đàn bà sau những ngày trăng mật ngắn ngủi trong một khách sạn hạng trung ở Vũng Tàu, ông nói cần phải tiết kiệm để lo cho tương lai. Ông đúng là người đàn ông biết lo xa, lấy ông rồi tôi mới biết ông tiêu pha khá thận trọng, nếu không vì một mục đích nào đó phải tiêu. Chuyện ái ân quá mới mẻ, chưa đằm thắm để tôi có được cái ngây ngất trong những ngày trăng mật, như những cảnh thơ mộng được tả trong tiểu thuyết. Cảnh vợ chồng cọc cạch như đôi đũa lệch khiến đôi khi tôi nhìn ông như bậc cha chú, lúc ngồi trong xe du lịch đời mới, trong những cửa hàng sang trọng có người hầu hạ, tôi cũng thấy đời lên hương, tự mãn trong lòng, nhưng lắm khi dạo trên đường phố, nhìn bọn “ trai thanh gái lịch” đi dung dăng dung dẻ với nhau, tôi lại thấy tiêng tiếc cái tuổi thanh xuân của mình. Phần ông lại hay cho tôi nhiều lời khuyên, đôi khi tôi có cảm tưởng mình “vớ” phải một ông cố vấn . . .

Giấy tờ đã làm xong, trước khi về nước ông đã nhờ luật sư chuẩn bị mọi thứ đầy đủ, có lẽ nếu không lấy tôi ông cũng lấy một người nào đó, ông chu đáo thật, nhưng tính toán cũng kỹ ghê. Đứa con gái vừa ra đời như tôi nhìn ông bằng đôi mắt kính nể, tất cả ở ông là sự trang trọng và sạch sẽ, tôi chưa bao giờ thấy có một thứ tình yêu sạch sẽ, tươm tất đến thế.

Trước khi ông ra đi, buổi tối ngồi gần bên ông, tôi chưa thấy mình có đủ cái buồn cho sự biệt ly của tình nghĩa vợ chồng, bên tai đầy ắp những lời ông dặn dò dành cho người ở lại. Ông mua cho tôi một chiếc xe “hơi bị cũ” để đi học Anh văn, ông bảo đi xe mới không tốt vì dễ bị bọn bất lương dòm ngó. Cũng đúng thôi, Sài Gòn thời buổi nhiễu nhương, đa số không công ăn việc làm, người lương thiện cũng dễ sinh đạo tặc vì đói, chỉ có cán bộ nhà nước là no, hoặc những nhà có nguồn viện trợ đô la tận nước ngoài là ấm.

Nhà tôi nghèo, ba tôi là một nhân viên tùy phái trong một trường Tiểu Học, lương không đủ một bữa ăn chơi của Việt kiều, mẹ tôi may hàng gia công kiếm từng đồng, chị em tôi đứa nào cũng ngược xuôi vất vả, mà vẫn chưa đủ ăn. Ông cho tôi tháng hai trăm, vừa đóng tiền học vừa giúp đỡ gia đình, tôi có muốn đua đòi cũng chẳng được. Gia đình Mai có nhiệm vụ theo dõi tôi, ba mẹ tôi cũng biết con gái “ván đã đóng thuyền”, nên cũng hết mực gìn giữ, thằng em trai có bổn phận đưa đón chị đi học, chẳng biết ông anh rể dặn dò ra sao, mà nó cũng nhiều lần “lên lớp” với tôi khi thấy tôi vui với bạn bè trang lứa. Tuổi còn trẻ, tôi cố ru ngủ mình với cái viễn ảnh huy hoàng một ngày theo chồng sang bên kia, nhưng vẫn không thể quên được đám bạn trẻ vui nhộn đồng trang lứa. Tôi như con chim sơn ca bị giam hãm trong cái lồng vàng son vật chất, không còn niềm vui cất tiếng hót líu lo để làm đẹp cuộc đời.

*
Lụi hụi rồi cũng đến ngày đi, bạn bè ai cũng bảo tôi trúng số độc đắc. Bơ vơ một mình với mớ Anh văn ít ỏi, tôi xách va ly sang Mỹ, không ai quen biết để hỏi han, lúc gặp ông nơi phi trường, tôi khóc như mưa, khóc như Chiêu Quân cống Hồ. Chắc ông ngạc nhiên đến mừng rỡ khi tưởng tôi tủi thân vì nhớ ông, nhìn cảnh đưa đón chỉ trơ trụi có hai người, thêm bầu trời xám xịt của mùa Đông xứ lạ, tôi lại nhớ cái đông đảo của gia đình , bạn bè ở quê hương, vì thế mà không làm sao cầm được nước mắt.

Ông xin nghỉ hai tuần “vacation” để ở nhà vui vầy với cô vợ mới. Thôi thì ngày quấn quýt, đêm nâng niu, hai người nhốt kín nhau trong căn nhà đóng kín cửa, xung quanh toàn hàng xóm Mỹ. Mệt bã người vì chuyến bay xuyên lục địa, tôi ngủ li bì, mặc ông muốn vầy vò sao cũng được. Chừng mở mắt ra thấy cái gì cũng mới, cũng lạ, cũng văn minh, cái xe hơi nào đối với tôi cũng êm ái hết, mắt cứ hoa lên vì ánh đèn tỏa sáng trong những nhà chọc trời, ánh đèn xe cộ chấp chới nối dài như nẻo về thiên thai.

Khi ông phải đi làm thì tôi mới biết buồn, cứ tưởng ông làm gì lớn lắm trong xã hội, hóa ra ông chỉ là nhân viên cho một hãng bảo hiểm, hèn gì ai ông cũng quen. Còn lại một mình trong căn nhà vắng lặng, tôi rụt rè không dám đụng đến một thứ gì, chỉ sợ hư hỏng đổ vỡ.

Trước hôm lễ Giáng Sinh, lũ con ông về thăm bố, nhân tiện ngó mặt tôi một phát. Đứa lớn còn hơn cả tuổi tôi, giống hệt bố ngày trẻ tuổi trong những tấm hình, nghe nói đang là kỹ sư cho một công ty dầu hỏa, hai đứa nhỏ đang học đại học. Tôi là cái đích cho sáu con mắt ấy dán vào, chúng thấy tôi ngồ ngộ ở cái vẻ khép nép, rụt rè, tại chân ướt chân ráo chứ có ngày tôi sẽ cho chúng biết tay. Tưởng vậy thôi, chứ nghe chúng nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh, tôi ngồi như “vịt nghe sấm”, chẳng hiểu gì, thằng con lớn còn nói được tiếng Việt, thấy tôi buồn hỏi tôi có muốn đi “shopping”, tôi thấy ông cau mày khó chịu. Khi biết tôi suốt ngày đóng cửa ở trong nhà, sợ cả “ma sống lẫn ma chết”, chúng nó cùng rú lên “Oh, my God! ”, như phát hiện tôi mắc bệnh tâm thần, lại nhìn “Daddy” với một vẻ trách móc.

Buồn cười nhất là lúc còn ở Việt Nam, ông viết thư về bắt tôi phải chăm lo việc học, nhắc nhở thằng em chở chị đến trường. Từ lúc sang đây, tôi không nghe ông đả động gì đến sự học, chuyện tập lái xe ông cũng lờ đi, chợ búa, sắm sửa, tiệc tùng đã có ông kè kè bên cạnh. Ông nói nước Mỹ không được giữ tiền mặt trong túi, cho nên tôi chỉ có vài chục để dành từ lúc rời Việt Nam sang đây, đi chợ hay đi “mall”, ông dùng “credit card” để trả, muốn cắt xén chút đỉnh tiền chợ gửi về nhà cũng khó, mà mở miệng hỏi ông chuyện gửi tiền về gia đình tôi cũng ngại, còn ông thì không nghe nhắc nhở gì đến ba mẹ tôi bên ấy nữa.

Có một chuyện tôi khó quên được, vừa buồn cười mà cũng tủi thân, đấy là cái hôm ông dẫn tôi đi “shopping” mua mấy món cần dùng, tình cờ gặp một gia đình người quen. Bà vợ thấy ông đi với tôi đã khen ầm lên là con gái xinh quá, học hành tới đâu, cậu con trai đi theo mẹ cứ mắt la mày lét liếc tôi hoài. Xứ này các cậu tìm vợ hơi khó, cho nên cha mẹ cứ thấy đám nào hay hay lại dòm ngó cho lũ con trai ế vợ. Hôm ấy ông ngượng quá, đến độ quên không giới thiệu tôi là gì của ông, vội vàng dắt tôi về, từ đấy không còn hứng dẫn cô vợ trẻ đi đâu nữa. Biết tôi buồn chắc ông cũng hiểu, nhưng bản tính ích kỷ của đàn ông vẫn thắng, tôi chỉ là con búp bê, để mình ông ngắm vuốt, nâng niu, rồi lại đem cất vào tủ kính.
Cái lần ông thật sự nổi giận là lần thằng con lớn ông gạ gẫm dạy tôi lái xe. Tôi thích mê lên ấy chứ, nhưng chưa gì ông đã quát ầm lên, thằng con mở banh mắt nhìn cha như con quái vật, rồi nhún vai bỏ đi. Từ đấy nó không đến nữa, nhưng những lúc ông vắng nhà, nó vẫn gọi phôn thăm tôi, nói đủ thứ chuyện đời, cả hai đứa cười rúc rích. Có lúc tôi đã từng ao ước, giá ông đem tiền mà đổi được cái thân xác trẻ trung, căng đầy nhựa sống ấy có phải tôi hạnh phúc biết bao nhiêu.
Càng giận dữ, càng ghen tuông, càng mệt mỏi ông lại càng mau già đi một cách thảm hại, không chống đỡ được. Ông đã dùng đồng tiền để lột trần thân thể tôi, thì tôi cũng nhờ thời gian làm tách bạch cái già nua, lão hóa trên từng phân vuông da thịt ông. Những món tôi thích ăn và ăn một cách ngon lành thì ông không “xực” được, phần ông sợ trăm thứ “bà dằn” có trong thực phẩm, muối, mỡ, đường cái nào ông cũng kiêng, ăn uống khủng khỉnh như một nhà quý phái. Bộ máy đã đến lúc rệu rã, có tu bổ thì cũng ì ạch chạy, chứ sao bằng cái bắp thịt cuồn cuộn, cái dáng đi vững chãi của thằng con trời đánh kia.

Đêm nào ông cũng trằn trọc khó ngủ, mà hễ ngủ lại ngáy o o như lò rèn kéo bễ, bộ phận hô hấp cũng lủng củng mất rồi. Lắm lúc bất chợt thức giấc, ngắm nghía khuôn mặt ông nhăn nhó những nét buồn phiền, lòng tôi não nề đến phát khóc. Chưa kể những lúc ông cố gắng đi đứng hùng dũng như một thanh niên ba mươi tuổi, một người già cố làm cho mình trẻ, trông vừa buồn cười lại vừa lố bịch.

Thỉnh thoảng vào mùa hè, ông cũng dẫn tôi đi tắm biển, đỏm dáng với chiếc áo sơ mi chim cò. Vùng này bãi biển chỉ toàn Mễ, Mỹ trắng và Mỹ đen, có thấy thì họ cũng cho là bố con dẫn nhau đi nghỉ mát, bao nhiêu con mắt cứ dán chặt vào thân hình mảnh mai, hấp dẫn của tôi mà chiêm ngưỡng . . . .

Ngày dài rồi lại đêm thâu, tôi sống quạnh quẽ trong căn nhà vắng lặng, các thứ cây lá rậm rạp quanh nhà càng làm tôi sợ nổi da gà, một nước Mỹ trên phim ảnh đẹp như tranh vẽ, bây giờ buồn chán đến tê tái cả lòng. Những lúc ông đi làm, tôi thờ thẫn ra sân chăm sóc mấy chậu kiểng, trồng mấy liếp rau cho qua đi thời gian trống trải. Nhà bên cạnh có hai ông bà Mỹ già hay ra sân ngồi sưởi nắng, khi thấy tôi họ thường “say Hello” cười thân thiện nhưng chẳng nói năng gì, chắc họ lạ lùng khi thấy tôi còn trẻ mà cứ quanh quẩn vào ra trên khoảng sân ấy.

Mãi một hôm, tôi đánh bạo đứng ven bờ rào nhìn ông bà hàng xóm, bà già nhìn tôi cười móm mém, cặp mắt xanh biếc hiền hậu. Bà hỏi tôi có phải nhà chỉ có hai bố con. Trời ơi là trời, trời đang nắng chan hòa mà bỗng tối sầm lại, tôi đứng ngây người mặc cho hai dòng nước mắt tuôn như mưa, bà hàng xóm “sorry“ rối rít, chắc bà tưởng mẹ tôi đã chết, nhà chỉ còn mỗi hai bố con.

Thế này thì làm sao tôi chịu nổi, có lẽ tôi phải nhờ thằng con ông ấy giúp tôi ra khỏi căn nhà này càng sớm càng tốt. Chưa bao giờ tôi căm giận ông đến thế, ông có quyền gì mà cầm giữ, hủy hoại tuổi trẻ của tôi theo cái già cỗi của con người ông. Nếu cứ cho rằng ông có một vẻ đẹp tâm hồn, thì ông hẳn nhiên không có. Ông đã mua tuổi trẻ tôi bằng tiền, mà tôi đã dại khờ tưởng rằng tiền sẽ mang lại hạnh phúc, huống gì đồng tiền ông bỏ ra đâu có xứng đáng với những gì tôi phải trả: tuổi trẻ, trinh tiết và hạnh phúc của tuổi xuân.


NGUYÊN NHUNG.
Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #58 - 27. Feb 2007 , 14:41
 
TRUYỆN CỰC NGẮN
Hoàng Long


Tên thật là Hoàng Long, sinh ngày 21/01/1980, tại Đà Lạt. Nguyên quán Quảng Bình.

—Từ năm 1997 đến 2002, học Khoa ngữ văn và Khoa Đông phương học, chuyên ngành Nhật Bản học, tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Sài Gòn.
—Từ năm 2003 đến 2005 học Cao học, chuyên ngành văn hóa học, tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Sài Gòn.
—Từ năm 2003 đến nay, dạy Nhật ngữ tại trường Đại học Lạc Hồng, Đồng Nai và Trung tâm Ngoại ngữ Nguyễn Thái Bình.

Đã cộng tác với các tạp chí hải ngoại: Tiền Vệ, Văn Học, Hợp Lưu, Tạp Chí Thơ.


--------------------------------------------------------------------------------
-----------

Tự Do

Viên đại tướng quơ chân quơ tay đi đi lại lại trong phòng. Làm thế nào để ngăn chặn đám biểu tình ngày một lan rộng đây? Vị quân sự mặt chuột đến thì thầm to nhỏ. Và một diệu kế đã được đưa ra.

Mấy ngàn tên lính mặc thường phục len lỏi khắp các ngõ ngách của xứ sở. Thấy dân chúng tụ tập, chúng rút cây roi giấu sau lưng đánh vào đám đông. Thấy ai đi một mình ngoài đường lảm nhảm, chúng cũng đánh. Thấy ai im lặng lấm lét chúng cũng đánh luôn. Vài tháng như vậy, đám dân đen sợ quá, rúc đầu vào trong nhà, làm những cánh cửa sắt dày nặng nề để phòng thủ. Sau cánh cửa sắt đó, họ được tự do.

Những ngôi nhà có cánh cửa sắt rồi lan tràn khắp xứ sở. Viên đại tướng hết quơ chân quơ tay, hết đi đi lại lại trong phòng. Hắn ngồi xuống ghế và sung sướng chơi bài với đám thuộc hạ của mình.

--------------------------------------------------------------------------------
-----------


  Hoa Hướng Âm

Anh bạn tôi nói rằng hoa hướng dương luôn mọc hướng về phía mặt trời là hướng Đông. Tôi bảo mình có thể làm điều ngược lại. Và chúng tôi đã đánh cược với nhau.

Tôi làm một hầm ngầm dưới đất, bắt đầu gieo trồng hạt hướng dương. Nhưng tôi thắp một ngọn đèn nhỏ ở phía Tây. Và hoa hướng dương cứ mọc hướng về phía ấy. Sau khi thu hoạch, tôi gieo trồng lứa thứ hai. Lần này thì lâu lâu tôi mới nhá đèn ở phía Tây mà thôi. Hoa hướng dương vẫn mọc về phía ấy. Mùa vụ thứ ba, tôi tắt hẳn đèn, chỉ trồng hạt hướng dương trong bóng tối. Hoa vẫn hướng về phía Tây. Lần này tôi lấy hạt giống của lứa thứ ba gieo trồng trên đất sáng và mời anh bạn đến xem.

Anh bạn tôi rất ngạc nhiên và hỏi bí quyết. Tôi trả lời hãy làm cho lũ hoa này tin rằng ngọn đèn nhỏ trong bóng đêm là mặt trời thực. Rồi từ thế hệ thứ ba trở đi, hoa này chỉ mọc theo quán tính. Và để phân biệt, từ đó người ta gọi những bông hoa mới này là hoa hướng âm.

--------------------------------------------------------------------------------
-----------




Vương quốc gió mây 
   

Xin chào mừng quý vị đến với vương quốc của chúng tôi. Sau khi kết tụ một đám mây lớn, tôi đã xây dựng nên vương quốc của mình. Mời tất cả quý vị tham gia.

Điều kiện thế nào?

Cực kỳ đơn giản. Quý vị chỉ cần chịu đau đớn một tí. Đầu tiên chúng tôi sẽ cho người dùng chày vồ đập quý vị cho mềm để chuẩn bị qua công đoạn tiếp theo sẽ dùng máy cán để ép quý vị dẹp như con khô mực. Chất nhờn quý vị tiết ra mà chúng tôi gọi là nhân tính sẽ chảy theo xuống một cái cống thoát nước. Đây là công việc giải phóng vinh quang, làm cho chúng ta tuyệt đối bình đẳng, bởi sau khi bị cán dẹp, tất cả chúng ta đều như nhau. Sau khi qua cửa ải đó, chúng tôi sẽ dùng bơm nhét vào miệng quý vị bơm lên theo kích cỡ ban đầu và đưa lên vương quốc của chúng tôi. Rồi chúng ta sẽ ăn gió uống mây, phiêu lưu trên thượng tầng thanh khí.

Như vậy thì chúng ta có khác gì những bóng ma vật vờ đâu.

Hỗn xược. Chúng tôi đã ban cho anh một cụôc sống bình đẳng tuyệt đối như trên thiên đường, không có người giàu kẻ nghèo, không còn kẻ thông minh người ngu ngốc, vừa giữ lại cho anh hình dáng con người. Anh còn muốn gì nữa?

Tôi chỉ thích trần gian thôi.

À, thì ra là một tên phản động, đi ngược lại với đường lối đổi mới của chúng ta qua các kỳ đại hội. Bay đâu, bắt giam tên này cho ta.

Và tôi phải chịu xộ khám hai mươi lăm năm tù giam với tội danh “phản động, mưu đồ tạo dựng lại trần gian thuở hỗn mang sơ thủy”.




--------------------------------------------------------------------------------
-----------


Người đầu gỗ
   

Trong khi thò đầu ra ngoài cửa sổ tàu lửa để ngắm trời sao khuya, nàng bị một lũ lâu la chặt đứt đầu để cướp sợi dây chuyền vàng. Tôi vội cởi áo khoác trùm lên cổ nàng ngăn cho máu khỏi chảy ra rồi suy tính cách giải quyết tình thế. Thấy rằng khi bị gãy tay chân người ta thường làm chân tay giả, tôi mới nghĩ cách làm cho nàng một cái đầu giả bằng gỗ. Quên chưa nói với các bạn, tôi là một thợ mộc cừ khôi và trong hành lý tôi mang theo có một súc gỗ quý mà tôi dự tính điêu khắc nó thành bức tượng quan âm. Nhưng trong tình huống này thì phải huỷ dự định đó thôi. Tôi lấy súc gỗ đó và dùng đồ nghề mang theo để khắc thành một cái đầu. May là vào đêm khuya nên hành khách đã đi ngủ hết, chỉ còn lại mình tôi âm thầm làm việc. Mất hai tiếng đồng hồ tôi mới đẽo xong một cái đầu tuyệt diệu. Rồi tôi tháo cái áo khoác trùm đầu nàng ra và gắn cái đầu gỗ lên cái cổ trắng tròn xinh xắn. Ngay lập tức máu ngừng chảy. Khoảng năm phút sau, cái đầu gỗ đã dính chặt với cổ nàng mà không cần phải có một chất keo kết dính nào cả. Một tiếng sau, thì nàng đã mở mắt gỗ, thở mũi gỗ và lúc lắc được cái đầu gỗ nữa. Trời cũng bắt đầu sáng. Tôi dùng cái áo khoác lau máu nàng dây ra trên ghế và cửa sổ lúc bị chém đầu rồi quẳng cái áo khoác đó đi. Đoạn tôi lấy một cái khăn len trùm lên đầu nàng để che cái đầu gỗ trọc lóc rồi dìu nàng xuống sân ga về nhà.

Cái điều tuyệt diệu là tóc nàng mọc ra, xanh mướt như thuở nào. Và tính cách nàng thay đổi hẳn. Từ một cô gái nhút nhát quê mùa giờ nàng đã hăng hái hoạt động đoàn đội. Chẳng mấy chốc nàng được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong công ty, nàng trở nên lạnh lùng và nghiêm túc nên được cấp trên để mắt đến và dần dần được đề bạt lên làm trưởng phòng kinh doanh rồi chức Phó tổng giám đốc. Trong bữa tiệc mừng nàng lên chức Tổng giám đốc, các nhân viên của nàng và các bạn bè tôi nhất loạt chúc mừng tôi đại loại là “Anh có cô vợ thật hết xảy. Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con. Vừa giỏi việc nước vừa đảm việc nhà. Vừa là một chiến sĩ trên mặt trận kinh tế vừa là một đầu tàu kéo cả dân tộc đi theo đường lối xã hội chủ nghĩa muôn năm…”. Nói chung là toàn những lời khen có cánh siêu mỏng và lớp thấm thông minh như vậy cả.

Tôi cũng cười và cám ơn rối rít. Bởi cùng với sự thay đổi hoàn toàn tính cách của nàng, tôi cũng đã quên phắt đi một sự thực vô cùng kinh dị “nàng là người có cái đầu gỗ một trăm phần trăm”.

--------------------------------------------------------------------------------
-----------


Quê hương

Khi quê hương khởi biến loạn, hắn phải chạy ra nước ngoài. Hành trang hắn mang theo chỉ là một chiếc rương nhỏ và một cái valy đựng quần áo. Hắn quý cái rương ấy vô cùng, đi đâu cũng mang theo. Trong thành rương có dán kín những bức hình hắn chụp ở quê nhà, còn có mô hình một ngôi làng nhỏ mà nơi đó hắn đã sinh ra. Tuy chỉ là mô hình bằng gỗ nhưng lại đầy đủ các chi tiết từ dòng suối nhỏ bằng lụa trắng đến những dãy nhà bé bé xinh xinh nằm hiền hòa bên sườn đồi, dưới những cây tùng to lớn. Trong ngôi nhà mô hình, có một hình nhân thắt tóc bím. Đó là người thương của hắn nay vẫn còn bị đày đọa nơi quê nhà. Cái rương là tất cả bí mật của đời hắn. Mỗi lúc buồn, hắn lại mở rương ra xem. Và mỗi lần người ta hỏi hắn “Quê anh ở đâu?”. “Trong rương hành lý”. Hắn đáp với vẻ tự trào mà nghe ngùi cay tròng mắt.


--------------------------------------------------------------------------------
-----------




Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #59 - 21. Apr 2007 , 02:19
 
NGƯỜI BÁN SÁCH TRÊN BÃI BIỂN NHA-TRANG


...


Tôi trở về thăm quê hương sau hơn mười lăm năm, kể từ ngày vượt biển ra đi. Tôi quyết định điều này qua bao nhiêu đêm ưu tư trằn trọc. Tôi chẳng còn ai thân quen bên ấy để về thăm. Mẹ tôi mất hồi tôi mới lên năm. Cha tôi chết cuối năm 1977 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và mãi năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn. Đứa em gái mà tôi thương quí nhất, mang hình ảnh của người mẹ mà tôi chỉ còn mơ hồ trong ký ức, cũng đã kết liễu cuộc đời ở cái tuổi tưởng chừng lúc nào cũng có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt. Còn bạn bè tôi, thằng chết, đứa ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Biết là lần trở về này, rồi cũng chẳng khác gì cái ngày cách đây mười sáu năm, từ một trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ vơ lạc lõng trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi cũng không có ý định về đây để tìm lại những kỷ niệm ngày xưa. Những “hang động tuổi thơ”chắc cũng đã biến mất trước bao nhiêu giông tố năm nào bất ngờ ụp xuống. Bây giờ chỉ còn sót lại chút ít trong lòng những người tha phương lưu lạc. Bản thân tôi có quá nhiều đớn đau và mất mát ngay trên chính cái thành phố một thời xinh đẹp này. Tôi sợ phải nhìn lại cái quá khứ hãi hùng và tang thương đó. Tôi về chỉ để làm một điều, mà nếu không làm được, lòng tôi sẽ ray rứt khôn nguôi. Có lẽ đến khi chết tôi vẫn không làm sao nhắm mắt.

Tôi về để tìm lại phần mộ của cha và em tôi, cải táng đem về an táng bên cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa trang gia tộc ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Điều ước mơ của cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về mẹ tôi và chuyện tình khá lãng mạn nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà. Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi Đá Bàn, bên ngoài một trại tù cải tạo lúc xưa. Còn em gái tôi, được gia đình một cô bạn thân chôn cất tại một nghĩa trang ngoài Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi mới tìm được tin tức về mộ phần của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. Nhờ một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông đã đào huyệt cho cha tôi; và gia đình cô bạn thân của em gái tôi, vượt biên từ năm 1978, hiện định cư tận bên Hòa Lan, cung cấp chi tiết và vẻ cả bản đồ hướng dẫn cho tôi.

Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ dễ tìm; nhưng phần mộ của cha tôi, nằm trong núi và cái trại cải tạo ngày xưa bây giờ đã biến thành một khu kinh tế mới. Gần ba mươi năm rồi, có biết bao sự đổi thay.


Cuối cùng thì tâm nguyện của tôi cũng hoàn thành được một nửa. Trái ngược với những lo lắng ban đầu, tôi dễ dàng tìm ra phần mộ của cha tôi. Mặc dù bối cảnh chung quanh thay đổi, nhưng bà con ở vùng kinh tế mới này đa số là dân thành phố bị cưỡng bách “tự nguyện” lên đây, một số ngày xưa là lính và công chức. Biết đây là mộ của những người tù cải tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ gìn. Những dịp cuối năm họ đều thắp hương, tảo mộ và kẻ lại tên trên những tấm bia bằng gỗ, dù đã rong rêu qua bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em tôi, mò mẫm suốt cả hai tuần tôi vẫn tìm không ra. Cả khu nghĩa trang bây giờ thay đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều ngôi mộ mới xây, nhưng cũng có một số đã được cải táng, dời đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa. Người sống bây giờ ở chung với người chết. Tôi bắt chướt người xưa khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi mộ của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng.


Tôi thuê người cải táng phần mộ của cha tôi. Đi từng nhà trong khu kinh tế mới cám ơn lòng tốt của mọi người. Đưa hài cốt của cha tôi về an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa trang gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả những ngôi mộ đã bao nhiêu năm không có ai chăm sóc.


Còn một ngày nữa là hết hạn visa. Tôi muốn đi một vòng, tìm lại chút gì của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây giờ dường như nóng bức hơn ngày xưa. Tôi thuê một chiếc xích lô chạy dọc theo con đường Duy-Tân cũ. Vừa để cho mát, vừa muốn tìm lại những lùm cây dương ngày trước, thuở chúng tôi và bạn bè hẹn hò sau những lúc tan trường. Một số lùm dương vẫn còn đó, nhưng trơ trọi, điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi xuống trường Võ-Tánh. Anh phu xe còn trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên. Tôi hiểu, nên tôi bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. Ngôi trường cũ, nơi tôi có biết bao kỷ niệm của ba năm theo học, bây giờ không những cái tên trường, mà tất cả đều trở thành xa lạ. Những hàng cây phía trước không còn. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng còn sót lại chút gì thơ mộng, gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng hơn là thương tiếc. Bất giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp dễ thương, đã cho tôi cái ấm áp của cả một gia đình, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có mẹ. Em học bên trường Nữ Trung Học, nhưng thường đến đây chờ tôi để hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển, nhưng ngại đến đó một mình nên thường rũ tôi đi theo hộ tống. Tôi tha hồ làm tình làm tội mấy anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi đi bộ dọc theo bãi biển, tìm đến khu có nhiều cây dừa trước trường Bá-Ninh lúc trước, nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở đó.



Tôi đưa mắt nhìn một vòng từ xa. Nơi bậc xi măng tiếp giáp bãi cát, một người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh tay duy nhất còn lại giữ thăng bằng trườn xuống. Trông anh ta giống như một con cóc. Len lỏi trong đám người đi tắm, anh hướng về phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi vải chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải nữa, cũng toàn là sách. Anh lê lết từng quãng, từng quãng ngắn. Bất ngờ anh ta ngước lên. Thấy tôi gật đầu chào, anh ta nhìn tôi cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng. Khuôn mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy sợi tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn tay duy nhất lôi một cuốn sách trong túi vải đang nằm trên mặt cát và từ từ mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn sách có cái tựa viết bằng tiếng Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic. Tôi nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm rộ trên truyền hình Na-Uy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi tròn mắt ngạc nhiên khi nghe anh mở lời chào và giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu loát, không thua kém gì những người Việt đã sinh sống lâu năm ở nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người Nhật hay Đại Hàn gì đó. Tôi thán phục anh vô cùng và bảo với anh tôi là người Việt, định cư ở Na-Uy, nên trình độ tiếng Anh của tôi chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xã giao, chứ làm gì có thể thưởng thức được văn chương. Tôi cám ơn anh và móc ví ra định biếu anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại

- Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho những người còn nghèo khổ hơn tôi.

Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện và lễ độ.

Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Vì từ khi trình giấy thông hành vào nước, trước những người mang lon, đội mão đại diện cho cả môt quốc gia mà cũng không có được phong thái thanh tao như anh; và chẳng lẽ ở trong cái thành phố ”mũi nhọn du lịch” này lại còn nhiều người khốn khổ hơn anh ?

Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui lòng nhận tiền, nhưng rồi thấy anh cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi kia, để tìm đủ tiền thối lại cho tôi.

Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đã nhoẻn miệng cười và gật đầu chào tôi rồi vội vàng lết sang mấy người khách nước ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng ghế phía trước.

Từ hôm ấy, hình ảnh người tàn tật bán sách trên bãi biển Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong đầu và theo tôi về tới Na-Uy; để rồi nếu có ai đó lỡ lời nói điều gì không mấy tốt về những người nghèo khổ ở Việt nam, tôi có cảm tưởng như đang xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà tôi bất ngờ được gặp.

* * *

Năm sau, tôi lấy một tháng hè về lại Việt nam. Lần này tôi mua vé và nhờ cha cô bạn của em tôi, từ Hòa Lan, cùng về với tôi. Ông là người đã giúp chôn cất em tôi ngày trước. Tôi không ngờ là mình phải về lại Việt nam lần thứ hai. Một điều mà trước đây tôi không hề nghĩ tới.. Nhưng tôi phải làm tròn bổn phận của người anh với cô em gái, mà nếu trước kia tôi lo lắng cho nó chu đáo hơn, biết đâu bây giờ nó còn sống để cho tôi khỏi cảnh côi cút một mình.

Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ người. Tôi trở về từ vùng Bắc Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái nắng oi nồng của vùng nhiệt đới. Sau khi thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra biển tắm. Nằm dài trên bãi cát, tôi bỗng nhớ tới người bán sách năm xưa. Tôi thả bộ theo bờ biển về hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều người ngoại quốc đang từ khách sạn kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy người tàn tật đang lê lết theo sau. Cũng hai cái túi vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật bán sách năm trước chứ còn ai. Tôi mừng thầm như sắp sửa được gặp lại con người mà bấy lâu nay tôi thường nghĩ tới với lòng mến mộ. Tôi suy nghĩ làm cách nào để anh ta vui lòng nhận sự giúp đỡ của mình. Nhưng người tàn tật lúc nào cũng bám sát vào những người nước ngoài. Tôi để ý thấy người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở nhận tiền rất điệu nghệ, không nghe anh nói cái câu thật tử tế mà một năm trước anh đã lễ phép nói với tôi “Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành cho những người còn nghèo khổ hơn tôi”. Một cái gì đó thật đẹp vừa bị sụp đổ trong lòng. Tôi cảm thấy người nóng hừng hực. Không biết là sức nóng giữa ban trưa hay vì máu nóng bốc lên đầu. Tôi cắm đầu chạy lao vào những đợt sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi đổ vào bờ.

Nước biển trong xanh, sóng biển như những cánh tay ôm tôi vào lòng vuốt ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trãi rộng đến những dãy núi mờ xanh tận cuối chân trời. Tôi nghe văng vẳng trong không gian như có ai đang dạo đàn bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào giúp tâm hồn con người rộng mở và dễ cảm thông hơn.

Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người tàn tật bán sách đã làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước lên bờ cát thì tôi lại trông thấy anh ta đang o bế mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu hắn đã “Đ.m. cái khứa đói rã họng ra mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ nó rồi.”

Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không phải là anh – người tàn tật bán sách mà năm trước tôi đã gặp -. Tôi theo người bán sách này với ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống bãi ở quãng xa. Và khi đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà bán cua luột, hắn hất hàm bảo: ” Đó, vợ khứa đó ! ”

...

Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân la lại gần, thấy chị bán cua luột này có vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong bình thường, tôi không biết phải bắt đầu làm sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con nào. Và cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua thêm một con nữa để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua này cũng có gì khác thường, tôi buột miệng : “Chị là vợ của người tàn tật bán sách trên bãi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ người ra, im lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao lại tò mò vào một chuyện riêng tư. Tôi kể cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt mà tôi đã dành cho anh ấy. Tôi muốn tìm cách giúp anh một phần nào nỗi thống khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường như những lời chân thật của tôi làm cho chị xúc động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật buồn :

- Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh ạ. Anh ấy đã chết cách nay hơn tám tháng. Em đã lo chôn cất anh ấy.

Lòng tôi thắt lại, một phần vì cảm thương anh trong cảnh khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước mình tìm cách giúp đỡ anh, biết đâu đã cứu được anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều chờ tôi trước khách sạn tôi ở.

Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở băng ghế sau để dễ dàng trò chuyện. Trên đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm tình cùng tôi, như từ lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều bao năm dấu kín trong lòng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên được giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm. Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc nhất của mình. Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông mua được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho hãng xe đò Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với tiền hưu bỗng hàng tháng, ông dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong lớp 12, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, chị bị loại ra bởi lý lịch “ngụy quân” của cha. Lúc này, gia đình trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, không còn được lãnh tiền hưu bỗng ngày trước, chị không tìm ra bất cứ việc gì làm. Cuối cùng cha chị đành phải bán một nửa căn nhà vốn đã chật chội để mua một chiếc xích lô làm phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi bán hàng rong từ dạo ấy.

- Đến bây giờ ông cụ vẫn còn đạp xích lô ? Tôi tò mò hỏi.

- Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con.

Tôi ngạc nhiên :

- Anh Bá nào ?

- Người tàn tật bán sách đó.

Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh.

Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy bay của anh bị bắn rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn, khi yểm trơ cho mặt trận Long Khánh của Sư đoàn Tướng Đảo.

Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng anh bị thương rất nặng, phải đưa về tổng y viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết được mình bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa “giải phóng”, anh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa khi vết thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy.

- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi

- Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu không nghe anh nói điều này. Mãi sau này thấy trên đầu giường của anh có thờ tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động trước tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy nhất của anh.

- Anh không còn bạn bè ?

- Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ có trình độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc không quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh tình nguyện xin về chiến đấu. Vừa về nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ thứ hai. Có lẽ vì vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.

Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước vào nghĩa trang khi lòng còn vương vấn một câu chuyện buồn. Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho lòng tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi dừng lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, trên tấm bia có cả tấm ảnh.

Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có hình một thập tự giá, vì đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp ba nén hương thầm khấn vái cho anh được sống an bình trong một thế giới chẳng còn thù hận, và nói lên lòng cảm mến của một người đồng đội cũ. Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh còn là sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen quen. Có lẽ do bộ quân phục làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè ngày trước.

Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một người không hề quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi choáng váng, mắt tôi mờ đi như chẳng còn trông thấy những gì trước mặt. Trời ơi, có điều gì lầm lẫn hay không ? Người trong tấm ảnh chính là An Bình, cô em gái yêu dấu của tôi.

Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, mở đôi mắt thật to để nhìn kỹ lại tấm ảnh. Không thể lầm lẫn được. Chính tấm ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng hằng giờ trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy mình quá đỗi cô đơn trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi.

Trang nhìn tôi ngạc nhiên :

- Anh có quen biết em gái anh Bá ?

Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi, đã từ Hòa Lan về đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. Tôi đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh ta đã tìm được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác là đã đến tìm bác sớm hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi đã bất ngờ tìm được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang để xác nhận lại vị trí ngôi mộ của em tôi mà ngày trước bác đã có lòng chôn cất hộ.

Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn để xác minh chắc chắn là bác biết rõ ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần 30 phút mới tìm được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ có tên chứ không có hình ảnh của em tôi.

Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc nhiên, không biết rõ việc gì. Tại sao cô gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi ? Tôi xin lỗi vì xúc động quá, tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đuòng về nhà.

Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia đình tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi lần.

An Bình, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông được bà con mời làm chủ tịch hội đồng xã. Ông bị bắt vào trại cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, rồi vì tuổi già sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông đã chết gần một năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui Nhơn, vì hoàn cảnh gia đình, được về dạy ở Nha Trang. Có lần tôi về phép, em kể cho tôi nghe về mối tình của em với một chàng sinh viên sĩ quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng vì anh là người Bắc di cư, công giáo, không hiểu có khó khăn gì cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên tâm, ba tôi theo tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng rãi lắm.

Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của chúng tôi bị nhà cầm quyền mới tịch thu để làm hợp tác xã mua bán. Em tôi không được tiếp tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở chung với cô bạn học nối khố tự ngày xưa, chắt chiu số tiền còn dành dụm được để thăm nuôi cha tôi. Ngay sau ngày Sài-gòn mất, em có vào tìm thăm tôi và người yêu của cô. Hơn hai tuần đi thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm khóc cả mấy ngày liền, nói với tôi là người yêu của nó đã chết mất xác ở chiến trường Long-Khánh. Tôi an ủi em tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo lắng cho cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp. Tôi vào tù hơn sáu tháng, hai lần được phép gởi thư về nhà, vẫn không thấy em gái hồi âm. Cho mãi trước khi được chuyển ra Bắc, tôi mới nhận được thư của cô bạn thân của nó, báo tin là nó không kiếm được việc gì làm, túng quẫn, buồn chán, nên đã uống nguyên một ống thuốc ngủ. Gia đình cô chở vào bệnh viện, nhưng không cứu được, vì không tìm ra thuốc giải.

Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt nhớ ra được điều gì. Chị bảo khi còn sống, anh Bá không đi làm vào ngày chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ rồi ra mộ suốt cả ngày. Chính anh đã dành dùm tiền bạc thuê người xây lại ngôi mộ và mua phần đất dành cho mình. Khi chôn cất anh xong, chị tìm thấy một tập nhật ký dấu kỹ dưới đầu giường. Chị vẫn còn để trên bàn thờ, chờ ngày giáp năm thì đốt luôn. Chị bảo tôi cùng về nhà với chị, để chị trao lại cuốn nhật ký, kỷ vật duy nhất của một người cùng sống chung trong cảnh khốn cùng với cha con chị trong gần ba mươi năm, và bây giờ mới biết đó là người yêu của cô em gái thương quí của tôi.

Chị bảo taxi dừng lại trước một ngõ tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả tiền, theo chị băng qua hai con đường sắt, đi quanh co theo mấy con hẻm thì đến nhà. Tôi xin phép thắp hương trước bàn thờ của ba chị và Bá, trên một cái kệ nhỏ bằng gỗ treo trên vách. Tôi khẩn khoản xin chị nhận một số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ, em gái tôi và Bá, một ít làm vốn buôn bán để đỡ vất vả hơn xưa. Tôi xin nhận Trang là cô em kết nghĩa và từ nay Trang là người thân quen duy nhất của tôi còn lại ở Nha-Trang. Chia tay, tôi đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật ký trên tay, mà cứ tưởng như mình vừa nhận một món quà quí giá của người thân gởi về từ một cõi nào đó thật xa xăm.



Ngày 2/5

Vết thương còn đau đớn và máu còn thấm đỏ qua mấy lớp băng, vậy mà mình bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, trong hoàn cảnh tứ cố vô thân. May mắn nhờ một ân nhân nghèo nhưng lại giàu lòng bác ái, đùm bọc, nuôi nấng và chăm sóc vết thương.

Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng, mình không muốn sống thêm một ngày nào nữa, nhưng lòng mình lúc nào cũng hướng về chúa Kitô, và xin phó thác tất cả ở nơi Ngài.

......

Ngày 20/6

Cuối cùng, thì mình quyết định trở về Nha-trang, bởi lẽ mình không còn có một chỗ nào khác để trở về. Mình về đây để tìm lại những kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời mình, của những ngày mình còn có An-Bình. Từ ngày gặp An-Bình, mình nghĩ là mình đã thuộc về Nha-Trang, miền thùy dương rạt rào thơ mộng này. Đau đớn thay, hôm nay mình chẳng phải là mình ngày trước, mà chỉ là một kẻ tật nguyền thê thảm. Mình sẽ không bao giờ gặp lại An-Bình, mà chỉ mong về đây để được sống với hình ảnh của nàng

Ngày 08/7

Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất trong đời mình. Đau đớn hơn cả cái ngày mình tỉnh dậy trong quân y viện và biết mình trở thành một người tàn phế. Mình lê lết khắp nơi hỏi thăm tin tức An-Bình, được biết là em đã quyên sinh. An-Bình ơi, xin em hãy tha thứ cho anh. Trong vận cùng của một đất nước mà anh chỉ là một thằng lính hèn mọn nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ được bầu trời Nha-Trang này cho em, và cho những kỷ niệm của chúng mình...


...

Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật mình. Ngẫng đầu lên mới biết mình đang đừng trước nhà thờ đá. Tôi thẩn thờ bước lên những bậc “tam cấp”, đến trước tượng Đức Mẹ. Tôi là người ngoại đạo, không biết phải cầu nguyện như thế nào. Tôi chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên Chúa từ bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai người hoạn nạn và xin cho họ được cùng phục sinh với Chúa để tình yêu của họ mãi mãi vĩnh hằng trong một thế giới bình an, không còn có hận thù.

Tôi không còn ý định dời ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha mẹ tôi. Tôi về quê, quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép được xây lại hai ngôi mộ của em tôi và Bá chung trong một vòng thành. Không ai có quyền chia rẽ họ thêm một lần nữa, dù bây giờ chỉ còn là một thế giới vô hình.

Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê xích lô đi một vòng dọc theo con đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp nhất của Nha-Trang. Những cơ sở công quyền, những dinh thự của cán bộ bây giờ đựơc dựng lên nguy nga đồ sộ. Nhìn lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng dưng tôi lạnh toát cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to lớn” ấy mà phải xây trên máu xương, trên những đớn đau, chia lìa thảm khốc của bao nhiêu thế hệ đã từng một thời góp sức tạo nên cái thành phố hiền hòa thơ mộng này. Bỗng chốc, tôi không còn nhìn thấy thành phố Nha-Trang đâu nữa. Trước mắt tôi bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma, dài ra, vô tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát thanh Nha-Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới cái chết thảm khốc của nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen thuộc một thời này, ông cũng đã bị giết vào tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung với tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên Hòa.

Phạm Tín An Ninh

(Vương Quôc Na-Uy)

Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #60 - 10. May 2007 , 02:07
 
Cô Giáo Ngụy





'Cô giáo Ngụy, cô giáo Ngụy  sắp vô lớp đó nghe tụi bay ...', một đứa học trò la lớn. Bọn con trai mấy đứa con trai đang quây quần cuối lớp khác chơi trò 'dích' hình,  đứa nào đứa nấy tóm vội vã thâu tóm lại mấy tấm hình màu bằng bìa cứng có in hình sặc sỡ. Bọn con gái đang tụm ba tụm bảy nói chuyện nô đùa cũng vội vàng quay về chỗ cũ. Cô giáo Mai lễ mễ ôm phần chia nhu yếu phẩm của cô tháng này, gồm mấy trăm gam thịt, mấy trăm gam đường bước vào lớp . Cô bước vào lớp, tất cả học sinh đứng lên chào. Sau khi để gói thịt, gói đường cẩn thận vào trong giỏ. Cô mĩm cười : ' Cô cho các trò ngồi xuống. Các trò làm chi  ồn rứa bộ định làm loạn giống ... '



Mai định nói làm loạn giống 'Việt Cộng' như thói quen cô vẫn nói khi la rầy học trò trước kia, nhưng cô ngưng lại kịp.  Sau khi nghe em lớp trưởng điểm danh, cô bắt đầu khảo bài. Học trò của cô phần nhiều thuộc những gia đình mà chính quyền mới gọi là thành phần có nợ máu với nhân dân hoặc có vấn đề với 'cách mạng'. Hầu hết cha của các em đang bị cầm tù trong các trại tập trung cải tạo. Thêm vào đó có khoảng một vài em thuộc gia đình cán bộ Cộng Sản cao cấp mới vào Nam. Phần đông các học trò miền Nam những năm đầu sau khi bị 'giải phóng' các em học trò miền Nam còn rất ngoan và kính trọng thầy cô, và ngược lại thầy cô miền Nam cũng còn coi công việc gõ đầu trẻ là một thiên chức chứ không phải thuần túy là một để sinh nhai.  Mai ra trường Sư Phạm Đà Nẵng đi dạy được hai năm thì miền Nam mất. Cô được chính quyền mới cho đi dạy lại vì theo họ lý lịch của cô tương đối khá sạch, từ ông bà xuống tới cha mẹ không có ai làm lớn trong chính quyền cũ.

Sáng nay như thường lệ sau khi khảo bài cũ cô bắt đầu dạy bài mới. Trước bảng đen  Mai nắn nót viết bài học Pháp văn cho tiết học hôm nay trên bảng đen .



Mardi 26 Septembre 1977

Conjuguez le verbe "Etre" Je suis Tu es  Il est ...



Bỗng một tiếng thét lớn -  Thưa cô trò Hùng cú đầu con  !

Mai nhịp nhịp cái thước gỗ vào bảng không trả lời, cả lớp lại im lặng như tờ chỉ có tiếng bút mực sột soạt trên giấy. Cô tiếp tục viết bài học lên bảng đen. Elle est ...



... Thưa cô trò Hùng bóp …  cu con ... !



Cũng là cái giọng học trò hồi nãy, và lần này cả lớp phá lên cười như ong vỡ tổ. Cô Mai nghiêm mặt quay lại bảo ' Hùng, Quang hai em lên đây ! '.  Hai đứa học trò lớp Sáu, ngồi cạnh nhau một đứa đen đủi nhỏ thó tướng tá loắt choắt nghịch ngợm, áo bỏ ngoài quần và một đứa mặt mũi trắng trẻo dáng điệu mảnh khảnh. Cả hai lấm lét bước lên phía trên. Tuy có hơi giận vì học trò tinh nghịch, nhưng cô Mai vẫn chậm rãi hiền từ . 'Có phải Hùng phá Quang không ?' .  Hùng cúi đầu không đáp, cô Mai lại hỏi lần này giọng nghiêm khắc hơn  ' Có phải em phá bạn làm mất trật tự trong lớp không?'  Hùng nhìn lên trả lời lí nhí - 'Không ạ ! ' .  Lần này thì thằng Quang la lớn,

'  Nó xạo, nó cú đầu con rồi bóp ... '   Mai đưa một ngón tay lên môi ra hiệu cho Quang đừng nói nữa không thì cả lớp lại cười như vỡ chợ. Có nhiều tiếng nhao nhao: ' Trò Quang nói đúng đó cô, thằng Hùng nó có làm đó,  ... nó còn viết bậy lên lưng áo em nè ..' . Thằng Hùng chợt đưa tay làm thành nắm đấm đôi mắt căm hờn: ' Chúng ông sẽ cho tụi mày biết tay nhé ... chúng ông cho bố bọn mày đi cải tạo cứ là đờ người nhé .. ' . Lần này thì cô  Mai thật sự giận dữ -  ' Trong lớp của cô hay bất cứ đâu em cũng không được phép hỗn láo vô phép với người lớn nghe chưa ? nghe  rõ chưa ? ‘ . Em Hùng đến góc kia quay mặt vào tường cho đến hết buổi '  . Buổi dạy học tưởng như bình thường sáng hôm đó đem đến cho   Mai nhiều chuyện bất ngờ sau này.



Vài ngày trong khi lớp Pháp văn của cô đang làm bài kiểm tra , người tùy phái đến lớp của cô mời cô xuống văn phòng hiệu trưởng có chuyện cần.  Mai hỏi, ' Có chi quan trọng  rứa bác Tam ? Lớp tôi đang làm bài thi làm răng mà bỏ đi ? Bác nói đợi tới hết giờ rồi tôi sẽ  xuống bác hỉ ! . ' Người tùy phái già trả lời  ' Dạ tui cũng nói như rứa với bà hiệu trưởng và ông khách, nhưng họ có chịu nghe mô. O xuống nhanh đi, nghe nói ông khách nớ làm lớn lắm ' .  Mai đáp ' Bác Tam à, tôi không thể xuống được ngay bây chừ, bác xuống văn phòng giải thích dùm tôi ... '.  Ông Tam quày quả đi ra . Khoảng vài phút sau một người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen, tay đeo cái đồng hồ Seiko5 vàng sáng chói , nước da men mét, hàm răng hơi vỗ, mặc quân phục rộng thùng thình, vai đeo xà cạp, ngang nhiên bước thẳng vào lớp, theo sau là ông Tam. Con Trang lớp trưởng sau một vài giây ngỡ ngàng vì người khách vào lớp bất ngờ, nhanh nhẹn  hô lớn 'Nghiêm!' . Cả lớp buông bút viết, đứng thẳng chào khách. Lần này thì đến lượt người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen ngỡ ngàng và ngạc nhiên đến độ lúng túng, cô giáo Mai đứng trên bục giảng lễ độ hỏi, ' Thưa ông có việc gì cấp thiết không ạ ? '  Người đàn ông nhìn lên  lúng búng trả lời  ' À không, tôi chỉ muốn nói chuyện với cô một vài vấn đề, nhưng bây giờ tôi sẽ đợi cô dưới văn phòng' . Cô Mai từ trên bục gỗ bước xuống từ tốn,  ' Dạ cám ơn ông , xin ông thông cảm, lớp đang làm bài kiểm tra tôi không thể tiếp chuyện ngay với ông' .



Hết giờ Pháp văn cô Mai vội vã xuống văn phòng hiệu trưởng. Bước vào cô hơi ngạc nhiên khi chỉ thấy có  ông khách đang chễm chệ ngồi sau bàn giấy của bà hiệu trưởng. Ông khách đưa tay mời cô ngồi. Ông ta vẫn còn đeo đôi kính Rayban đen trong căn phòng không có cửa sổ. Cô Mai bất giác muốn phì cười, nhưng ngăn lại kịp. Ông khách tự giới thiệu ' Chắc cô không biết tôi là ai, nên không xuống gặp tôi ngay.'  Cô Mai trả lời ngay 'Dạ thưa tôi biết ông là người rất quan trọng nhưng vì bài kiểm tra này quan trọng đến kỳ thi học kỳ của các em .. '

Ông khách ngắt lời 'Ô ! Không không tôi có ý phiền trách gì cô đâu, thực ra thì lúc cô không xuống ngay tôi giận lắm, vì ngoài Bắc mỗi  khi tôi vào trường con tôi học là giáo viên phải đến gặp tôi chứ tôi không bao giờ phải lên kiếm giáo viên cả ' . Cô Mai trả lời  ' Dạ trong ni chắc còn lạc hậu, không biết bao chừ mới theo được bằng ngoài nớ ...' . Cô Mai không biết ông khách đang nghĩ gì và ánh mắt phản ứng ra sao sau cặp kiếng đen.  Ông trầm ngâm một chút rồi nói ' Bây giờ thì tôi hết giận rồi cô ạ. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Thượng Tá  Trần Kình, chính ủy của trung đoàn không quân tiêm kích 935 đóng tại căn cứ không quân Đà Nẵng. Con tôi là Trần Hùng học trong lớp của cô, vài hôm trước đây nó có phản ánh phê bình cô có khuynh hướng bảo vệ bọn con cái thành phần chống cách mạng. Cô Mai nghĩ sao? '



Mai thật sự ngạc nhiên, dầu miền Nam đã bị chiếm đóng hơn hai năm, bởi một đạo quân nói cùng một ngôn ngữ và cùng chung màu da với cô nhưng cô vẫn chưa thật sự chưa hiểu hết về cách suy nghĩ, giao tế của người cộng sản.



Cô trả lời chậm rãi  'Thưa ông Kình, tôi không biết phải trả lời ông ra sao. Tôi là một người thầy giáo chuyên nghiệp, tôi dạy bất cứ học sinh được giao phó cho tôi, tôi không phân biệt đối xử các em theo thành phần gia đình ...  hơn nữa các em khi sinh ra cũng không có sự lựa chọn về lý lịch của cha mẹ. Lý lịch cha mẹ các em theo ý tôi không thuộc phạm vi học đường.  Còn việc tôi phạt em Hùng là vì em đã phá rối trật tự trong giờ dạy học của tôi. Tôi bảo đảm không có vấn đề bênh vực thành phần giai cấp gì đó ...' .



Người đàn ông tên Kình, ngồi thẳng lên đan hai bàn tay vào nhau  'Đó là tư duy của tôi cách đây nữa giờ cô Mai ạ. Sau khi tôi lên lớp của cô thấy việc các em lễ phép chào khách, bàn cô giáo có lọ hoa, các em quần áo chỉnh tề tôi rất lấy làm ấn tượng . Tôi thành khẩn với cô nhá,  tôi chưa thấy trường nào ngoài Bắc học trò có văn hóa như  lớp của cô. Tôi rất mừng thằng Hùng được cô dạy. Thôi thì thế này nhé,  cô cứ công tác tốt, tôi sẽ bảo với đồng chí hiệu trưởng bỏ lời phê bình tiêu cực của tôi về cô đi. Coi như không có sự cố gì cô Mai nhé '

Mai mĩm cười, 'Dạ nếu ông đã dạy thế thì tôi rất vui. Nhưng tôi không dám nhận hết lời khen của ông, vì trong Nam này trường nào lớp nào cũng đứng nghiêm, chào khách chào thầy cô. Còn chuyện trang hoàng  lọ hoa cho bàn thầy cô thì quả thật là công khó của các em học sinh nữ của lớp tôi đã tự ý hái hoa đồng cỏ dại trang điểm cho lớp học, không phải do tôi dạy bảo. '



Ông Kình cười , 'Cô không tuyên truyền cho miền Nam đấy chứ ?  ồ, tôi chỉ đùa thôi cô ạ, vâng tôi tin cô nói sự thật. Còn vấn đề này nữa, sao tôi không thấy lớp cô Mai treo ảnh Bác nhỉ ? '



Mai thán phục sự quan sát của người đàn ông này, chỉ có ít phút trong lớp mà ông Kình đã nhận xét được biết bao nhiêu là chuyện. Cô có biết đâu ngoài Bắc người ta treo hình bác Hồ cũng như trong Nam người ta treo cái gương chiếu yêu trước cửa nhà, để xua đuổi ma quỉ. Việc treo hình của ông Hồ  là một điều bắt buộc, nhà nào cơ quan nào mà không có gương mặt lom lom, cười cười của ông Hồ là có vấn đề lớn. Thành thói quen, nhiều người treo hình bác Hồ như một sự thông báo cùng hồn ma bóng quế nhà tôi có chúa quỉ ở đây nhá ! các ngài ma quỉ hồn ma bóng quế tép riu liệu mà xéo đi ...   Mai ngẫm nghỉ một lúc rồi bảo, 

' Hình như một năm trước đây tôi nhớ có treo, nhưng vì lớp học  xây dựng bằng phương pháp tiền chế, vật liệu là  sắt và tôn ximăng cho nên đinh đóng vào tường không chắc, bức hình lộng kiếng của Bác bị rơi xuống vỡ nát ông ạ '.



Ông Kình hỏi, 'Thế thì sao không báo cáo và thay ngay đi, hồi trước giải phóng các thầy, các cô trong Nam treo ảnh Thiệu ra sao mà bây giờ lại nói đóng đinh không được ? ' . Cô Mai cười xoà, 'Trước giờ trong này không có lệ treo hình lãnh tụ trong nhà riêng hay trong lớp học' . Điều này thì ông Kình có thể tin, vì khi trung đoàn 935 tiếp thu căn cứ KQ Đà Nẵng ông cũng hơi ngạc nhiên khi thấy không có văn phòng, cơ sở nào có treo hình tổng thống Thiệu cả. Nhưng ông đã tự giải thích rằng chắc cũng như  ảnh Bác là biểu tượng thiêng liêng  bọn ngụy khi di tản đã đem ảnh của Thiệu theo để tỏ lòng yêu kính lãnh tụ, như cái đồng chí gì đấy ở ngoài Bắc, nhà cháy nhưng đồng chí ấy cố xông vào để cứu ảnh Bác, trước khi cứu con trai ruột của mình...  Ông chợt thốt lên   'À, công tác chính trị   đảng cầm quyền của Thiệu  yếu nhỉ ! ... À này tôi có xem lý lịch của cô,  khá  trong sạch và  cũng thuộc thành phần cơ bản đấy, cha cô là công nhân sở điện, mẹ làm cho hãng dệt,  không hiểu sao trường chưa cho cô vào đối tượng Đoàn ? Để tôi giúp cho nhé ? '  .   Mai im lặng một chút rồi nói, ' Chuyện hơi dài ông ạ, sợ kể ra đây làm mất thì giờ của ông, nhưng đây không phải chi bộ Đoàn sơ xuất đâu mà là hoàn toàn do tôi cả.'  Ông Kình hơi nhổm người về phía trước, 'Tôi không dám tò mò, nhưng nếu cô muốn kể thì tôi không sợ mất thì giờ cô ạ, tôi muốn tìm cách giúp cô' . Cô Mai yên lặng một lúc, ánh mắt cô trở nên xa xăm, rồi cô chậm rãi kể.



Chuyện xảy ra cũng gần một năm về trước.  Mai gặp lại người bạn học cũ , Đoàn Đình Bình, Bình đã theo cha vô bưng sau cuộc 'tổng khởi nghĩa' thất bại của cộng sản tại Huế năm 1968. Cả lớp của Mai khi ấy  không biết Bình đi đâu hay đã bị chết thảm dưới bàn tay của Việt Cộng khi Bình về ăn tết ở Huế. Đầu năm 1976 Bình được bổ về làm bí thư chi bộ Đoàn Thanh Niên Cộng Sản tại trường của Mai đang dạy. Lúc đầu hai người không nhận ra nhau, nhưng Mai nhớ ngờ ngợ cái tên người bạn cũ Đoàn Đình Bình, nên sau một lần họp giáo viên Mai hỏi  phải Bình hồi nhỏ có học trường tư thục Bình Minh tại Đà Nẵng không ? Hai người nhận ra nhau, rồi trở nên đôi bạn thân. Mai rất trân quí những kỷ niệm và bạn học của ngày xưa thời học trò. Còn Bình thì cũng vui mừng được gặp lại người bạn xưa của ngôi trường đầy tuổi thơ êm đềm trước khi phải ra Hà Nội để bị hấp thụ một nền giáo dục  rất ư 'vô giáo dục' . Qua một thời gian, Bình âm thầm yêu Mai và muốn tiến xa hơn với Mai, nhưng trước hết phải giới thiệu được cho Mai vào đối tượng Đoàn, thì việc xin lãnh đạo chấp thuận cho cưới Mai sẽ dễ dàng và vinh dự hơn nhiều.  Không hỏi ý kiến Mai, vì muốn dành cho bạn một sự ngạc nhiên mà theo ý Bình đây cũng là một vinh dự cho Mai .  Bình mời Mai tham dự  một buổi họp Đoàn và tuyên bố đề nghị cho Mai được làm đối tượng Đoàn Thanh Niên CS, sau khi đã đọc lý lịch trích ngang trích dọc của Mai trước mặt mọi người để minh chứng Mai thuộc thành phần tốt  . Về phần Mai khi nhận lời  dự buồi họp chỉ vì nể Bình và cũng có đôi chút tò mò muốn biết khi họp Đoàn ngưòi ta rù rì rủ rỉ cái chi .  Mai không ngờ việc xảy ra như thế. Khuôn mặt của Mai từ trắng chuyển sang hồng, Mai im lặng. Cả phòng họp nghĩ là Mai quá xúc động trước cái đặc ân to lớn kia. Một lúc sau Mai mới run run nói ' Cảm ơn anh Bình đã giới thiệu Mai, nhưng Mai không hoàn toàn thuộc thành phần tốt như cách mạng định nghĩa đâu, và cũng không đủ tiêu chuẩn vào Đoàn. Mai đã có chồng, mặc dầu chưa chính thức trên giấy tờ. Chồng của Mai là phi công của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa ' . Câu sau cùng Mai nói chậm, dõng dạc từng chữ như lời tuyên bố . ' Lỗi tại Mai, Mai đã không kể cho anh Bình nghe, vì Mai nghĩ đó chuyện riêng tư, nhưng bây giờ thì bắt buộc Mai phải nói ' . Cả phòng họp lặng thinh, không ai biết phải phản ứng như thế nào,còn Bình đứng sững như trời trồng bên cạnh Mai.  Một hai phút sau đó anh lắc đầu và bỏ ra ngoài.  Mai chạy theo Bình ra đến khoảng sân vắng nói  khẻ với Bình.  ' Mai xin lỗi nhé, nhưng nếu Mai không nói thì suốt đời Mai sẽ áy náy lắm ...  '  .  Bình quay lại hằn học   '  Tại sao Mai không cho tôi biết, Mai làm tôi ngượng trước mặt bao nhiêu người, mà những điều Mai nói là thật hay bịa đặt vậy ? Bình đã hỏi thăm người ta ở chỗ Mai thưòng trú họ nói là Mai chắc chắn còn độc thân mà ... Bình thật không ngờ, không ngờ. Mà nếu điều Mai nói là sự thật Mai có  yêu thằng đó - xin lỗi anh đó

không?  '  . Mai ngạc nhiên về thái độ gần như ghen tương của Bình, Mai không nói gì từ từ kéo sợi dây chuyền từ trong cổ và tháo ra một chiếc nhẫn, loại nhẫn mà phi công sau khi ra trường bên Mỹ thưòng đeo. Mai nói thong thả , 'Mai có chồng thật chứ,  nhẫn cưới của anh ấy trao cho Mai đây này ... '   Bình bưng hai tai không muốn nghe thêm chạy thất thểu ra khỏi cổng.



Ông Kình, chép miệng ' À ra thế, thế thì gay đấy,  Đoàn hay Đảng có quyền từ chối đối tượng chứ có ai có gan dám từ chối vào Đoàn vào Đảng ... À anh chồng của cô bây giờ ở đâu ? còn ở đây hay di tản rồi ? '


...

Mai  nhớ lại câu chuyện các thực tại chưa xa lắm,  vào một ngày cuối tháng Ba năm 1975. Anh Nguyễn Bé Tư, phi công F-5E biệt phái từ Biên Hoà ra. Hai người quen nhau từ mùa xuân 1974 trong một buổi văn nghệ ủy trường của Mai tổ chức để ủy lạo chiến sĩ. Năm 1975, một ngày trước khi Đà Nẵng bị  thất thủ, anh đã gặp Mai. Anh không nói gì nhưng qua nét mặt âu lo của anh,  Mai  biết là tình hình chiến sự ngày càng xấu đi. Anh dẫn đi Mai đi ăn tối ở nhà hàng Bạch Đằng trên bờ sông Hàn, hai người cố tránh không nói gì về chiến tranh để được một lần hẹn hò trọn vẹn. Gần lúc chia tay, anh rút cái nhẫn ra trường bên Mỹ đeo vào ngón tay Mai và nói

'Anh muốn cùng em sống đến cuối cuộc đời, em có thuận làm vợ của anh không ?' Mai không nói được gì, chỉ khe khẽ gật đầu nước mắt bắt đầu tuôn vì xúc động và vui sướng.   Mai đã là phu nhân của Nguyễn Bé Tư từ ngày ấy. Trong buổi tối ngắn ngủi đó hai người đã vẽ ra biết bao nhiêu là mộng đẹp, về ngày cưới về gia đình tương lai...  Đêm đó anh Tư phải vào trực tác chiến trong phi đoàn.  Ngày hôm sau thì Đà Nẵng mất, Mai tìm cách về Sài Gòn vào hỏi bộ Tư Lệnh Không Quân về tin tức của anh Tư. Mai còn nhớ mấy nguời lính Không Quân ai cũng lắc đầu nhìn chị thương cảm ái ngại .  Kể từ đó cái tên Nguyễn Bé Tư  mộc mạc đối với Mai như thuộc về một kiếp nào rất gần mà rất xa xăm. Nhưng cô lúc nào cũng tự nhận là người vợ âm thầm của người phi công Nguyễn Bé Tư.  Câu chuyện cô Mai từ chối vào  Đoàn Thanh Niên Cộng Sản được đồn ra, được thêm thắt, và từ  đó học trò gọi đùa cô Mai là 'Cô giáo Ngụy'. Cô nghe nhưng không bao giờ la rầy các em vì biết các em không có ý xấu, ngược lại các em từ đó rất kính nể cô, mấy đứa con trai có cha anh là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa,  nói cô Mai chịu chơi và 'chì'  lắm . Mỗi khi nghe ai kêu 'Cô giáo ngụy'  Mai mĩm cười hạnh phúc tự nhủ  '  ừ, Ngụy thì Ngụy mình thua thì người ta gọi mình là giặc .ngày xưa Gia Long cũng gọi Bắc Bình Vương Quang Trung, Tây Sơn là 'Ngụy'  đó thôi ! ' .





Giáng sinh 1980.



Sau nhiều lần vượt biên hụt, Mai bị đuổi không cho dạy nữa. Cô  sinh sống bằng việc lấy mối rau quả và bán lại ở chợ. Một buổi chiều ông Kình ghé ngang hàng của cô lựa lựa mấy bó rau hồi lâu . Cô không nhận ra ông vì bây giờ ông coi có da thịt  hơn trước  nhưng lại già hẳn đi , và không còn đeo kính cặp kính Rayban nữa. Đến khi hết khách ông mới khẻ bảo 'Gớm ! cô không nhận ra tôi à ? Kình đây, tôi kiếm mãi mới biết cô bán hàng ở đây, tôi có thể gặp riêng cô để  nói một chuyện quan trọng không ? tôi sẽ dàn xếp chỗ gặp, cô nhớ đến nhé' .  Buổi chiều hôm đó tại một căn biệt thự, ông Kình đề nghị cô Mai dẫn Hùng con ông đi vượt biên ông sẽ lo mọi chuyện.

Mai dường như không tin vào tai của mình : 'Ông không nói đùa chứ ?' . Ông Kình  nhìn cô cười 'Tôi nghĩ là cô sẽ nói thế. Lời đề nghị của tôi rất nghiêm túc nói như người Sài Gòn là 'một trăm phần dầu' cô ạ  Sau năm năm ở miền Nam tôi thấy chế độ CS đã làm băng hoại mọi sự cô ạ. Những năm chiến tranh thì người ta còn có thể biện minh nhưng khi vào miền Nam thì tôi nhận xét thấy giá trị đạo đức nói chung là trong Nam ưu việt hơn ngoài Bắc. Sau năm năm thì tôi thấy con người CS đã làm cho miền Nam ngày càng tồi tệ càng ngày càng giống như miền Bắc. Tôi đã thấy điều đẹp đẽ trong một xã hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi đã mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này. Nếu cô hứa dẫn nó đi, chăm sóc nó đến năm 18 tuổi tôi sẽ lo tất cả mọi chi phí phương tiện ra đi cho cô.

Lý do tôi nhờ đến cô vì thứ nhất tôi biết cô muốn ra đi và thứ hai cô là nguời rất thật thà, chung thủy. Ngay cả trong người thân tôi cũng không thể thố lộ kế hoạch này hay nhờ ai vì lý do an ninh và tính mạng của tôi, chỉ có cô mới giúp được tôi'. 



Chuyến vuợt biên của  cô do công an Đà Nẵng tổ chức bến bãi, nên việc ra đi phải nói là rất chu đáo . Chuyến đi thật suông sẽ. Tàu vượt biên của Mai sau 5 ngày lênh đên đã cập bến Hương Cảng bình yên vô sự. Tại đây Hùng gặp lại gia đình một người bà con xa ở Hải Phòng đã đến Hương Cảng trước đó một tháng. Hùng muốn nhập chung form định cư với họ . Mai không đồng ý, qua một người trung gian cô gửi thư về Việt Nam hỏi ý kiến ông Kình.  Vài tuần sau, Mai được ông cho biết là ông bằng lòng cho Hùng 'tách form'  với cô, và coi như lời hứa của cô đối với ông đã hoàn thành. Khi được cao ủy phỏng vấn Cô giáo Mai chọn  thành phố Sydney xinh đẹp của quốc gia Úc Đại Lợi làm nơi định cư. Còn Hùng thì theo bà con định cư tại Canada.  Cô Mai đi học lại lấy bằng kỹ sư điện toán, cô rất nhân hậu nhã nhặn  nên được rất nhiều người khác phái theo đuổi, nhưng không có ai có thể thay được hình ảnh của người phi công ngày nào. Trong những năm gần đây khi các hội thân hữu Không Quân QLVNCH được thành lập tại Úc, người ta thường thấy cô trong những buổi họp mặt.  Mai tham gia mọi sinh hoạt, báo chí văn nghệ. Câu hỏi đầu tiên cô hỏi những người lính Không Quân mà cô gặp lần đầu lúc nào cũng là :  có ai biết tin tức gì về anh Nguyễn Bé Tư phi công F-5E biệt phái ở Đà Nẵng hay không ? Cô Mai không biết là lần thứ mấy đã hỏi câu hỏi đó, cô hỏi nhưng chính cô rất sợ câu trả lời về số phận của một người mất tích đã hơn hai mươi lăm năm.

...


Tháng Tư 1998.



Hùng đứa học trò ngày xưa của cô từ Canada qua thăm cô giáo Mai. Hai thầy trò gặp nhau mừng mừng tủi tủi sau mười bảy năm. Hùng bây giờ là một thanh niên tuấn tú lễ phép, rất chững chạc và là một bác sĩ y khoa. Hùng báo cho cô Mai biết là ông Kình đã giải ngũ về hưu, và ông đã tỉnh ngộ hẳn giấc mơ cộng sản và sống rất an phận tại Hà Nội. Trước lúc chia tay, Hùng đưa cho cô Mai  một phong thư niêm kín, 'Em cũng chẳng rõ có cái gì trong ấy mà bố em rất cảnh giác không dám gửi qua bưu điện, hay gửi qua người quen đi nước ngoài, chỉ khi em về Việt Nam bố mới trao cho em và dặn là phải đưa tận tay cho cô, và cho cô rõ là phải khó khăn lắm mới lấy được tư liệu này .. Bố em dặn cô đọc xong đừng phổ biến, không thì rách việc lắm  cô nhé ! '



Trong phong thư là bản sao của tờ phúc trình tổn thất của sở tác chiến  không quân Quân Đội Nhân Dân. Tờ phúc trình như sau:



'Thể theo chỉ thị số ...  Đại Tướng Văn Tiến Dũng đuợc lệnh từ trung ương binh chủng không quân nhân dân phải hạ quyết tâm  khẩn trương làm chủ và tạo điều kiện hồi phục  sử dụng sân bay Đà Nẵng để thành lập bộ phận trinh sát và phòng thủ mặt Nam đề phòng bọn Mỹ có thể quay trở lại can thiệp. Theo tinh thần trên. vào sáng ngày 30 tháng 3   lúc 5 giờ 15 sáng giờ Hà Nội một phi đội tiêm kích cơ hỗn hợp gồm 2 máy bay chủng loại Mig21 và một Mig 17. Phi đội mang bí số KK10 được lệnh cất cánh từ Đồng Hới để trinh sát  sân bay Đà Nẵng  xem xét khả năng bố trí phòng không và máy bay tiêm kích của quân đội ta sau này.   Tiểu đoàn trinh sát  TS5 báo cáo là căn cứ  Đà Nẵng của quân đội Ngụy đã bị bỏ ngỏ hoàn toàn vào lúc  2 giờ sáng 30 tháng 3.  Khi phi đội KK10 đã băng qua Xepon Lào và bắt đầu tiến vào Đà Nẵng từ hướng tây bắc, thì bất ngờ một tiêm kích cơ của Không Quân Ngụy chủng loại F-5E  xuất phát từ Đà Nẵng bất thình lình tiến công. Giặc lái Ngụy sau khi dùng hai tên lửa loại AIM-9B bắn hạ hai chiếc Mig-21 của ta, hắn còn ngoan cố đuổi theo dùng súng bắn hạ thêm một máy bay Mig-17 của ta. Các đồng chí lái của quân đội nhân dân đã  kiên cường bất khuất chống trả suốt gần  7 phút . Các đồng chí lái,  Lai Như Hạch, Hồ Mạc Dịch, Đỗ Mai Quốc đã hy sinh oanh liệt. Còn chiếc tiêm kích cơ địch đã bị tên lửa của ta bắn hạ. Tên giặc lái ngụy nhảy dù đã bị quân dân ta bắt được. Tên giặc lái ác ôn này tên là Nguyễn Bé Tư, cấp bậc Trung Úy số quân .... Trung Ương đã ra lệnh giải quyết thích đáng  tên giặc lái này cương quyết không để những thông tin xấu lọt ra ngoài về sự kiện ba máy bay của không quân nhân dân anh hùng bị một tiêm kích cơ địch bắn hạ trong vòng 7 phút . Bọn địch có thể lợi dụng để nói xấu KQND .



Đồng chí Thượng Tá Nguyễn Công Tâm chánh án,  kiêm công tố viên tòa án nhân dân đã tuyên án tử hình tên giặc lái Nguyễn Bé Tư.  Tên Trung Úy Ngụy Nguyễn Bé Tư đã đền tội vào ngày 5 tháng 4 1975.   '



Trên góc trái của tờ phúc trình có hàng chữ TUYỆT MẬT - không bao giờ được công bố  .



...


Mai bâng khuâng, nhưng cô không thấy buồn, cô cảm thấy rất hãnh diện và thanh thản như người lữ hành đã về lại nhà mình. Từ lâu cô đã chấp nhận  là con người mang cái tên Nguyễn Bé Tư đã không còn có mặt trên cõi đời này nữa cô linh cảm là anh đã đền nợ nước một cách anh dũng,  điều cô linh cảm bây giờ đã thành sự thật trên giấy trắng mực đen . Cô kiêu hãnh về anh Nguyễn Bé Tư, anh đã chết hào hùng như anh đã sống. Cô thương mến người phi công ấy chẳng phải vì anh hào hoa phong nhã như người ta thường nói về những người lính Không Quân VNCH. Cô thương anh vì  anh  mộc mạc, thứ mộc mạc của loại đá bọc kim cương.



Anh Nguyễn Bé Tư ' Ace'  đầu tiên của KQ QLVNCH một mình hạ 3 phi cơ địch trong vòng 7 phút, thế mà cuộc đời lại không có quyền biết đến anh. Bọn cộng sản  run sợ và kính nể khi nhắc đến cái tên hiền hoà của anh, chúng sợ đến nỗi phải giết anh.



Đêm nay Mai thấy lòng mình thật ấm áp dường như có sự hiện diện của anh  Nguyễn Bé Tư đâu đây, dường như anh đang nói với cô đừng buồn đừng giận anh. Xoay xoay chiếc nhẫn Không Quân quanh ngón tay, Mai khe khẻ gật đầu không nói nên lời như đêm cuối cùng năm xưa còn ngồi bên anh. Bên ngọn đèn Mai vuốt lại mái tóc đã điểm sương, thấy mình lại là cô giáo trẻ năm nào đang choàng hoa cho người phi công khu trục anh hùng của QLVNCH .


...


Thần Long -
Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #61 - 13. May 2007 , 23:23
 
...


Người Mẹ Ðiên
 


Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.

Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.

Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ.

Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền.

Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.

Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!". Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con.


Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: "Ðưa, đưa tôi..." bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên.

Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao mà phát hiện mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!".


Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm.

Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Ðặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.

Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?".

Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: "Ðừng... đừng...".


Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?".


Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch.

Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại.

Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài.

Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra.


Bà nội dằn lòng đuổi: "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!". Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí.


Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa.


Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới phát hiện, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: "Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi".

Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống không?

Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang.

Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" Tôi mừng quá đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi.

Ðây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào.

Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.

Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: "Thụ... bóng... bóng...".

Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này.

Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!".

Tôi tức tối đáp lại nó: "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà.


Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.

Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng.

Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn.

Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn".

Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: "Con mẹ điên lúa và cỏ mà không phân biệt được..."

Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: "Ðánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..."

Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Ðừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...".


Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo: "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật, là bà. Bà trừng mắt bảo tôi: "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Ðấy là mẹ mày đấy!" Tôi vùng vằng bĩu môi: "Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!".

"A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!". Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: "Ðánh tôi, đánh tôi!".

Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!".

Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa.

Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...".

Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.

Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị thằng Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau.

Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp.

Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.

Mẹ vì tôi gây ra đại họa, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.


Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn. Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà.

Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín.

Ðây là những người do nhà thằng Hỷ nhờ tới, bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói: "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, mẹ mày tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra".

Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà thằng Hỷ, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ.

Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu.

Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó.

Ðám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết. "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành họa đấy thôi!".

Cha lại nhìn tôi nói: "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". Tôi gật đầu, tôi hiểu.

Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.

Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi.

Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.





27/4/2003, lại là một Chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: "Ngọt quá, ở đâu ra?" Mẹ nói: "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì.

Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông.


Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói: "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được.

Thím hỏi: "Mẹ mày có nói gì không?" Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:" Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!"


Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Ðường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước.

Thím nhìn tôi rồi nói: "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" Tôi nói: "Thím, thím đừng doạ cháu...". Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...

Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề.

Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..."

Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.

Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Ðại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi.

Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: "MẸ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!".


Vương Hằng Tích 

...
Back to top
 
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #62 - 09. Jul 2007 , 11:42
 
Đến Mỹ Theo Diện Du Lịch
 

ĐỖ THỊ NGA . Việt Báo Chủ Nhật, 7/8/2007, 12:02:00 AM
Người viết: Đỗ Thị Nga
Bài số 2038-1901-605vb8080707

Tác giả Đỗ Thị Nga 61 tuổi,  du lịch Mỹ để thăm các em của bà ở Pasadena, Nam California. Và đây là chuyện  kể khi bànhập cảnh Mỹ: “Lúc đến phiên tôi vào, gặp một ông Mỹ người da màu, rất trẻ, chắc khoảng chừng hơn 30 tuổi. Sau khi xem xong giấy tờ của tôi, ông hỏi: Three?  Nghe chữ Three, tôi nghĩ chắc ổng hỏi tôi ở đây 3 tháng được không? Tôi lắc đầu, đưa ra 6 ngón tay. Ông ta cười, nói: OK. Thế là ông đóng dấu vào hộ chiếu của tôi cho ở 6 tháng.”

Đây là lân đầu tiên tôi được đặt chân đến một đất nước, mà khi ở VN, chúng tôi gọi nôm na là thiên đường của hạ giới. Hôm phỏng vấn ở SGN, nhân viên của phòng lãnh sự quán Mỹ hỏi, tôi trả lời thật thà rằng: Lâu nay tôi vẫn mơ ước có một lần được đi Mỹ, vì tôi biết rằng đất nước này rất đẹp, rất tự do. Tôi muốn gặp lại các em của tôi mà có em đã 30 năm chưa được gặp. Vậy là tôi được chấp nhận đến Mỹ.

Sau 16 giờ bay mệt mỏi, tôi cũng đã đến được nơi mà tôi mơ ước, đến sân bay Los Angeles lúc 19:30 tối. Trời lạnh và tối, mang tâm trạng háo hức được gặp lại các em, nên tôi không kịp nhìn ngắm gì cả, Suốt đoạn đường dài từ phi trường đến nhà em tôi ở Pasadena, chị em mừng rỡ, mãi trò chuyện nên tôi chưa có ấn tượng gì về nước này.

Sau 3 tháng trời ở đây, tôi đã được đi và nhìn thấy nhiều cảnh đẹp. Đôi khi tôi có cảm tưởng, tôi là một mụ nhà quê mới lên tỉnh trước mọi thứ, từ đường phố ngăn nắp, sạch sẽ, đến sự lưu thông trật tự làm sao. Đường phố ở đây quá sạch, và đẹp. Nhất là ở những khu nhà ở, cơ man nào là hoa. Hoa ôi thôi đủ màu rực rỡ. Tôi không biết kể sao cho hết. Nhất là hoa hồng đủ màu, đủ loại. Lại có cả hồng leo mà lại trồng trước sân nhà. Tôi hỏi em tôi: Sao người ta lại trồng hoa ở trước sân thế, không sợ ai đó hái hay con nít phá à? Em tôi nói: Ở đây người ta tôn trọng cái đẹp lắm. Không ai đi ngắt bông hay phá hoại cây trái của ai cả.

Tôi tròn mắt: Thật là một nước văn minh!

Tôi được các em chở đi xem Disneyland. Tôi thật sự cám ơn Trời Phật đã cho tôi thấy một nơi mà người ta nói là thiên đường hạ giới. Thật đúng không sai.

Tôi đã đọc nhiều kinh sách nói về thiên đường thì đây cũng chính là thiêng đường gần gụi nhất của con người chứ còn gì nữa. Tôi tự nghĩ nơi nào không có cảnh chen lấn, dành giựt là thiên đường rồi. Ở đây trật tự được tôn trọng và mọi người đều ý thức điều đó.

Ở Huntington Library, tôi được chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật, được ngắm các vườn hoa, được các em tôi giải thích và nói rõ tiểu sử của thư viện này. Nó được ông bà Huntington hiến tặng. Tôi thực sự xúc động khi biết điều đó. Ở thời buổi kim tiền hiện nay mà có người sẵn lòng cống hiến tiền bạc xây dựng nên một ngôi thư viện vĩ đại để cho mọi người cùng hưởng thí thật là hiếm có. Tôi vô cũng ngưỡng mộ lòng từ ái của hai ông bà này.

Vì thương chị, các em tôi đã cho tôi đi xem rất nhiều, nhiều nơi khác nữa như The Getty Museum, North Berry Farm, Palm Springs. Rồi tôi còn được đi nhiều siêu thị do người Việt Nam làm chủ như chợ Viễn Đông, Chợ Rose Mead, chợ Hawaii, v.v.
Nhưng khi đến thăm khu Phước Lộc Thọ ở Little Saigon thì tôi thích hơn cả. Trong khu này có nhiều cửa hàng bán đầy đủ mọi thứ từ quần áo, đồ điện tử, đến thức ăn, và nữ trang. Ôi thôi nhiều vô số kể. Kể hoài cũng không hết!

Một trong những nơi đến thăm đã lưu lại trong tôi một niềm cảm xúc nhiều nhất là tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ. Tôi đã thắp nhang cầu nguyện cho linh hồn của tất cả những người đã bỏ mình trong cuộc chiến tại Việt Nam được yên nghỉ. Tôi xin ghi nhớ công ơn của chư vị.

Tôi đã kể sơ về cảm nghĩ của tôi lúc mới đến Mỹ. Thời gian còn lại sẽ rất ít vì mới đó mà đã hơn 3 tháng trôi qua. Nhớ lại hôm ở phi trường LAX, lúc làm thủ tục hải quan, tôi sợ quá vì một tiếng Anh cũng không biết ngoài hai chữ YES, NO. Tôi túm lấy một anh VN cũng đi trên chuyến bay để nhờ vả. Tôi nói: Anh ơi, tôi không biết tiếng Anh, lát nữa nếu họ hỏi gì, thì anh giúp tôi nhé. Anh bảo: Chị ơi. Em cũng như chị, chỉ biết lăng nhăng vài chữ thôi.

Lúc đến phiên tôi vào, gặp một ông Mỹ người da màu, rất trẻ, chắc khoảng chừng hơn 30 tuổi. Sau khi xem xong giấy tờ của tôi, ông hỏi: Three?  Nghe chữ Three, tôi nghĩ chắc ổng hỏi tôi ở đây 3 tháng được không? Tôi lắc đầu, đưa ra 6 ngón tay. Ông ta cười, nói: OK. Thế là ông đóng dấu vào hộ chiếu của tôi cho ở 6 tháng.

Lúc qua cổng xét hành lý, xách tay của tôi bị giữ lại. Tôi sợ quá, vì mình không biết tiếng làm sao giải thích cho họ rằng trong xách tay có hộp chả cá Thát Lát mà tôi đã tự tay làm để mang sang cho các em. Ông ta chỉ vào cái hộp chắc là muốn hỏi tôi cái gì đây, tôi vội lấy tờ giấy mà không có cây viết. Quýnh quá, tôi rút đại cây viết cài trên túi áo của ông ta, rồi tôi vẽ hình con cá. Ông ta lại cười và cho qua luôn. Thật là cám ơn Trời Phật một lần nữa. Sao mà người ta làm việc dễ dãi và tươi cười như vậy không biết nữa. Thật khác xa ở bên mình. Trong lúc bối rối, tôi lại vô ý quên nói cám ơn ông ta nữa. Thật bậy hết sức!

Thời gian bận rộn lúc đầu đã qua, nay tôi quen hơn với đời sống hàng ngày ở đây.
Mỗi sáng sau khi ai nấy đều đi làm, tôi ở nhà sáng tụng kinh niệm Phật xong, ra vườn tưới cây, quét dọn. Ngày hai buổi lo cơm nước cho các em. Buổi trưa rảnh thì đọc sách, truyện, kinh của Phật giáo. Nhờ vậy mà tôi hiểu biết về Phật pháp nhiều hơn trước. Tâm đạo của tôi nhờ đó cũng tăng trưởng thêm lên. Lâu nay ở VN tôi chỉ biết tụng niệm như vẹt chứ không biết về nguồn gốc, sự tích của những lời kinh trong sách.

Tôi nhận thấy ở đây hầu như ai cũng tất bật làm việc với tác phong công nghiệp, dù là làm việc văn phòng, không như ở bên mình, phần đông quá lè phè, sáng cafe, chiều quán nhậu, thảo nào mà đất nước mình không tiến nhanh được, bởi vì làm thì ít mà hưởng thụ thì quá nhiều, nhất là những thành phần con ông cháu cha.

Các cháu tôi hỏi: Con thấy nhiều người VN qua đây chỉ một thời gian là than buồn đòi về, bởi vì ai cũng đi làm cả, tại sao Dì không chán như họ. Tôi nói: Bởi vì thứ nhất là Dì đã lớn tuổi, không ham chơi bời, lại thích yên tĩnh để đọc kinh sách, nên ở đây thật hợp với Dì.

Ngồi tụng kinh lúc sáng sớm với cánh cửa chính mở rộng mà không sợ trôm cắp nên lòng tôi rất yên tịnh, tâm không tán loạn thì thật không gì quý hơn. Ngoài phố, ai muốn nói gì thì nói, đi đâu thì đi, không phải trình báo với ai cả. Thật đúng là thiên đường hạ giới. Mai đây chắc sẽ khó mà tạm biệt nơi này. Xin tạm biệt nước Mỹ của các bạn. Ước mong Đất Trời run rủi, biết đâu tôi lại được đến đây một lần nữa.

ĐỖ THỊ NGA
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #63 - 24. Oct 2007 , 19:31
 
My copy truyện nga('n dười đây từ emails của THu Yến -nhóm LVD 73 để tă.ng các cô ý tá của D/D , và mời cả nhà đọc . 


Món Quà Sinh Nhật Của Cô Y Tá



Là vợ một mục sư Tin lành, ngày nay Nancy B. Gibbs đã đứng vào “hàng ngũ” các bà nội, bà ngoại. Ngoài việc diễn thuyết, bình luận tin tức, bà còn giữ trang chuyên mục trên một tuần báo về tôn giáo, viết thường xuyên cho tạp chí Twins, và là một nhà văn, nhà báo tự do. Bà đã in một số sách nói về nghệ thuật sống. Những bài viết, những câu chuyện giàu tính nhân bản của bà thường được tuyển chọn in lại trong nhiều hiệp tuyển khác nhau và đó là nguồn an ủi, nâng đỡ tinh thần cho nhiều lứa tuổi, nhiều thành phần độc giả nam nữ khác nhau. Website riêng của bà là: http://www.nancybgibbs.com.


Năm ấy, trước sinh nhật mẹ Nancy mấy tháng, bác sĩ chẩn đoán cha Nancy mắc bệnh Parkinson. Chứng tê liệt tiến triển rất nhanh. Bệnh này còn khiến nhiều người không nói chuyện được. Vì thế, trong lần nhập viện đầu tiên, cha Nancy tha thiết: “Lo cho mẹ, con nhé! Đó là tất cả những gì cha xin con.”
Suốt sáu tháng liệt giường, cha Nancy không thể thốt ra lời, dẫu một tiếng thầm thì. Mất trí nhớ (dementia) là một hậu quả phức tạp khác. Mới mấy tháng ông đã quên luôn tên con gái. Mẹ con Nancy đau đớn, nhận thức rõ là họ đang mất chồng, mất cha trong từng khoảnh khắc một.
Nancy ở cách xa một trăm mười hai cây số, không thể ngày nào cũng tạt về thăm cha, chỉ còn biết mỗi tối gọi điện hỏi han mẹ. Sinh nhật mẹ càng gần, lòng Nancy càng trĩu nặng. Trò chuyện trên điện thoại, hai mẹ con đều cố ý tránh nhắc tới sinh nhật. Tuy nhiên, Nancy vẫn chu đáo thay cha chọn quà sinh nhật mừng mẹ, dẫu biết món quà sẽ không còn làm mẹ vui được như nhiều năm trước.
Rồi cha Nancy được chuyển sang một dưỡng đường tư (nursing home). Suốt ngày người vợ hầu như không rời giường bệnh. Các y tá thấu hiểu lòng bà và họ rất quý mến đôi vợ chồng ấy. Trong số nữ điều dưỡng có Tina. Cô xót xa nhìn bà vợ ngày càng héo hắt bên ông chồng bất động, và không hiểu sao cô lại biết sinh nhật mẹ Nancy đang tới gần.
Tina lẳng lặng mua một khung hình nhỏ, lồng vào đó tấm ảnh cha Nancy . Dưới đáy khung có gắn một đoạn băng đủ để ghi âm một lời chúc mừng ngăn ngắn. Tina biết rằng, nếu nhiệt tâm khuyến khích và kiên trì giúp đỡ, người bệnh vẫn có thể cực nhọc thều thào được một chút. Trong hai tuần liên tiếp, đợi bà vợ rời khỏi phòng nuôi bệnh, Tina lại tới bên giường, năn nỉ người chồng cố gắng nói vào mi-crô.
Hôm sinh nhật của mình, mẹ Nancy vẫn vào dưỡng đường nuôi chồng như thường lệ. Qua cặp mắt sưng mọng, bà ngạc nhiên nhìn thấy mọi góc phòng đã được trang hoàng bằng mấy chùm bong bóng tươi tắn màu sắc. Trong lòng người bệnh là gói quà xinh xắn.
Từ lúc nào, Tina và các nhân viên khác đã lẻn vào đứng yên sau lưng bà. Cả căn phòng bỗng im lặng như tờ. Mẹ Nancy mở gói quà, ngón tay ấn vào một nút nhỏ trên khuôn hình. Rất khẽ khàng, nhưng đủ cho bà nghe rõ: “Chúc Grace sinh nhật vui vẻ.”
Vỏn vẹn vài tiếng thôi nhưng tràn trề hạnh phúc. Suốt nhiều tháng rồi, dẫu kề cận bên chồng, người vợ chưa một lần được nghe lại giọng nói quen thuộc ấy!
Bày tỏ lòng cảm kích, Nancy B. Gibbs nói rằng món quà vô giá của Tina đã vực dậy tinh thần cả nhà bà. Tấm lòng nhân hậu của cô y tá đã mang nghị lực đến một gia đình đau khổ. Cánh cửa vĩnh hằng dẫu sẽ mở ra để người thân yêu của họ bước vào, nhưng từ buổi sinh nhật ấy họ đã đủ vững vàng chuẩn bị đón nhận. Quả như Mahatma Gandhi (1869-1948) đã tin tưởng: “Ở đâu có tình thương, ở đó có sự sống. – Where there is love, there is life.”

Back to top
« Last Edit: 24. Oct 2007 , 19:35 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
chaule
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 10
Re: Truyện ngắn
Reply #64 - 25. Oct 2007 , 21:26
 
da huong wrote on 11. May 2006 , 20:46:
Cry Cry Cry Cry Cry  bà chị lụ đạn ơi , bà chị làm em khóc đêm nay nè. Cao cả thay tình mẹ ! Cry Cry Cry Cry Cry Cry

Kể cho chị nghe nè. Hôm qua trường học thằng bé con em có tổ chức Mother Day Mass. Lể dành cho tất cả bà mẹ của học sinh trường. Mỗi đứa con nhận được hoa hồng đem đến tặng mẹ. Lúc thằng bé nhà em đem hoa hồng đến cho em , ôm em và nói " I love you " là em òa khóc. Cry Cry Cry Thằng bé con vội vàng ôm cứng em và bảo " Momy ơi , đừng khóc , người ta nhìn momy kìa ". Lau vội nước mắt và nhìn chung wanh , ai cũng nhìn mình , đúng là lãng òm !Lúc tan lễ về, ngồi lái xe nhớ lại , khóc nữa. Vô duyên tệ !!!!!
Troi a, cai toi doc len bay gio chang nhung khoc ma con nac nua ne.May wa o nha ko co ai.Cau chuyen that la cam dong

Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #65 - 06. Nov 2007 , 09:05
 

Vết Son Trên Má


Giờ đây, học sinh phần đông thường chú ý nghe tôi giảng bài, nhưng tôi vẫn gặp rắc rối với các trò nam hay ngủ gục. Vì một lý do nào đó, các em gái ít khi ngủ trong lớp, nhưng một em trai thường ngồi ngay ngắn được một chút, sau đó cái đầu đã ngoẻo xuống mặt bàn.

Denzel Tucker là vô địch ngủ gục trong lớp thường của tôi. Một buổi chiều nọ, em thậm chí còn ngáy nữa. Ban đêm em làm việc kiếm tiền, nên tôi hiểu vì sao em mỏi mệt. Tuy nhiên tôi cũng biết rằng điều rất quan trọng đối với em là phải khép mình vào kỷ luật, tỉnh táo ngồi học.

Khi tiếng ngáy trổi lên, tôi ngồi ở bàn giáo viên, đang lục lọi trong bóp tìm chút sáp thoa dịu đôi môi khô nẻ. Tôi không tìm thấy món đó, nhưng lại vớ phải thỏi son màu nho chín đỏ. Khi tô lên môi lượt son mỏng, tôi nghĩ ra một giải pháp tuy ngông, nhưng khả dĩ xử lý được trường hợp của Denzel.

Tôi tô thêm một lớp son dày hơn, rồi nhón gót rón rén tới bên em, ra dấu dặn các em khác giữ yên lặng. Tôi chúm môi và hôn rõ kêu lên má em. Đầu em nảy lên và em chớp mắt, ngơ ngác nhìn cả lớp đang huýt còi và chỉ trỏ về phía em. Em giơ tay lên má, nơi tôi đã hôn, nhưng tôi chụp bàn tay em giữ lại.

Tôi giải thích: “Em đừng mất công. Em không thể chùi sạch đâu.” Tôi quay nhìn cả lớp: “Có em nào biết indelible là gì không?”

Một em trai đánh bạo: “Em nghĩ là không ăn được.”

Tôi nói: “Em đang nghĩ tới từ inedible. Còn indelible có nghĩa là không thể tẩy xóa được. Cô dùng loại son đặc biệt không thể xóa sạch. Nó không thể chùi sạch. Em có thể rửa son trôi đi, nhưng dấu môi sẽ còn nguyên trên mặt em mãi mãi, giống như một vết sẹo vô hình.”

Không học sinh nào cãi lại. Các em ngồi yên, nhìn tôi trân trân, không phải là đã tin tưởng trọn vẹn, nhưng cũng không phải là hoài nghi. Thế nên tôi nói tiếp: “Nếu soi gương, em sẽ không thấy dấu môi, mà người khác lại thấy, nếu đủ ánh sáng.

Tôi bảo Denzel: “Cô xin lỗi em, nhưng cô không sao cưỡng lại mình. Nếu em ngủ gục trong giờ cô, cô phải hôn em vì lúc ngủ em trông như một thiên thần bé nhỏ. Và từ rày về sau, ai cũng sẽ có thể nhìn thấy dấu môi của cô trên má em. Họ sẽ nói rằng ‘Có một học sinh đã ngủ gục trong giờ cô giáo Johnson’.”

Khi thiên hạ bảo bạn rằng bọn thiếu niên ngày nay khôn ra trước tuổi, bạn chớ tin. Lớp tôi có những đứa trẻ quen kiếm ăn trên đường phố, và là những đứa khôn lanh nhất trường, vậy mà các em đó cùng mang ánh mắt nửa tin, nửa ngờ. Một số em hồ nghi rằng tôi đang nói đùa, nhưng các em ấy cũng không dám chắc.

Chỉ để đảm bảo rằng các em vẫn tin lời cô giáo, tôi nhờ Hal Gray vào lớp tôi ngày hôm sau với cớ là để giao ít hồ sơ. Anh lặng lẽ trao giấy tờ cho tôi rồi quay đi, thì như đã dặn trước, anh khựng lại và bước đến sát bên Denzel.

Anh hỏi, giả vờ kinh ngạc: “Có phải là dấu môi không?”

Denzel lẹ làng đưa tay lên má, bọn trẻ trong lớp trố mắt, mồm há hốc. Hal mỉm cười và gật gù.

Anh thì thào, vẻ bí mật: “Cô bắt gặp em ngủ gục hả?” Anh vỗ nhẹ lên vai Denzel và bước ra khỏi lớp.

Một nụ hôn ấy đã tác dụng suốt ba năm hơn. Mỗi lần nhận một lớp mới, tôi lại được hỏi là tôi thực sự có hôn học trò ngủ trong lớp hay không. Tôi khẳng định điều này. Bọn trẻ ré lên, cười khúc khích, và chúng tỉnh táo suốt buổi học, hy vọng được thấy lịch sử lập lại.

Nhưng lịch sử không lập lại, chỉ vì lớp ồn ào quá. Ngay khi một em nào đó bắt đầu gật gà gật gù cái đầu, những trẻ khác lại sôi nổi khều nhau, và xầm xì: “Cô ơi, nó ngủ kìa! Hôn nó đi!” Kẻ buồn ngủ làm sao có được một tí chợp mắt khi mà cả lớp nhốn nháo lên như vậy.

LouAnne Johnson

Dũ Lan Lê Anh Dũng chuyển ngữ
Back to top
 
 
IP Logged
 
DoQuan
Gold Member
*****
Offline


Boycott Red China

Posts: 681
Re: Truyện ngắn
Reply #66 - 06. Nov 2007 , 16:04
 

CÂU HÁT TÌM NHAU

Quế Hương


Tôi gặp lão lần đầu trong quán thịt chó của bà Tư béo, nơi tôi đến bỏ rượu gạo hàng chiều sau giờ đi làm. Lão xuất hiện với bộ dạng một người lỡ đường, tay bị, tay mũ cối, gương mặt rỗ hoa lấm tấm bụi đường và mồ hôi. Tưởng lão là người ăn xin, bà Tư đuổi như đuổi tà:

- Đi ra! Để người ta bán, đừng có hãm tài.

- Thưa bà, tôi không xin. Tôi tận Hà Bắc vào đây tìm người quen. Bà cho tôi hỏi... bà có biết người này.

Lão chìa ra mảnh giấy bọc ép nylon như thẻ căn cước, ghi dòng chữ: Hai Xuân, người Bắc Ninh, có chồng tên Tuất. Sau 1975 có người gặp sinh sống ở Đà Nẵng.

- Mơ hồ thế có trời biết! Không đường, không số nhà... Già rồi lẩm cẩm. Con cháu sáng suốt không sai đi tìm. Thôi đi chỗ khác. Đây cũng là dân ngụ cư thôi! Không biết!

Bà chủ quay ngoắt, dềnh ngang bộ mông núng nính đi vào bếp. Lão lẩm bẩm:

- Cả tuần nay... hỏi ai cũng trả lời chừng đó!

Thương hại lão, tôi gợi chuyện:

- Thế bà Xuân người như thế nào?

- Cô ấy người dong dỏng. Trắng tươi. Hát hay. Xinh đẹp.

Bàn thịt chó bên cạnh lập tức nhao lên:

- ồ ! Cháu lão hả? Bao nhiêu tuổi? Để tụi này tìm giúp coi có “xơ múi” chi không?

- Cô ấy thua tui một tuổi?

Cái quán ven đường bỗng òa vỡ tiếng cười. Tiếng đập bàn, la ó, huýt gió, hô hố... náo loạn.

- Thế thì "cố" chứ "cô" gì! Làm tụi này tưởng bở bố ạ! Cỡ ấy ra nghĩa địa tìm dễ hơn.

- Mà cố Xuân là gì của lão? - Gã để râu xồm xoàm vừa nhai vừa hỏi.

- Xưa cô ấy là bạn hát quan họ của tôi.

- Lão vượt đường dài ở tuổi này để tìm một bạn hát xưa già khú đế à?

- Vâng.

- Trời ơi... là trời... ở mô rớt xuống ông ngố đa tình như ri hở trời! - Gã giọng Huế cùng bàn cúi gập người rên giữa một tràng cười. Còn lão điềm tĩnh, kiên định hỏi tiếp:

- Mua bản đồ thành phố ở đâu mấy chú?

- Thôi lão ơi, có khát tợp ít ngụm rồi mua vé về nhà nằm nghỉ. Kiếp sau yêu cho dài ngày rộng tháng.

Rồi để thưởng câu nói mà gã tự cho là ý vị ấy, gã để râu ngửa mặt lên trời, ném điệu nghệ một miếng dồi chó vào miệng, nhai nghiến ngấu, tợp một ngụm rượu, khà một tiếng khoái trá.

- Ngoài tôi, chỉ có món xào và rựa mận là để bát đĩa. Còn các món khác đựng trong lá tất... Ăn bốc mới đúng điệu. - Đột ngột lão góp ý.

- Coi bộ cũng là dân nghiện mộc tồn.

- Phải thật thoải mái, không cần giữ ý tứ. Bữa ăn phải đượm mùi hoang sơ của những người lục lâm tứ chiếng.

- Mở đầu được đấy ! Mần ly rượu nói tiếp đi!

Câu chuyện xoay quanh chó: cách chọn chó, nấu chó, ăn chó... Lão sành đến nỗi những cái mặt đỏ gay, những cái miệng bóng nhẫy đều quay về phía lão hóng chuyện. Cái mông núng nính của bà Tư cũng yên vị trên chiếc ghế dựa hồi nào. Bà chủ đang há hốc miệng nghe lão bày cách chế biến từ bảy món cầy cơ bản thành mười món hoặc hơn nữa. Lạ là lão sành món “hương nhục” đến thế lại từ chối động đũa vào đĩa chó. bà Tư đích thân bưng đến đặt trước mặt lão để mong thụ giáo. Lão giải thích hễ lão cầm đũa là phải ăn no mới thôi. Cái thứ này hễ ăn là say, ăn mãi... ăn thì phải đúng điệu với bạn tri ân để say còn khóc cười cho hả...

- Khách của tui đủ giới, ở khắp thành phố này - bà chủ lên tiếng - Dò tìm một cố Xuân nói giọng Bắc, vấn khăn, cao dong dỏng, biết hát quan họ không phải là khó. Tui sẽ nhờ anh em... sẽ để lão ăn thịt chó thỏa thuê không lấy tiền... với điều kiện lão giúp tôi tiếp khí sắc cho quán. Dãy này bốn quán... phải có ngón nghề đặc biệt mới kéo khách về mình...

Quán thịt cầy của bà Tư béo từ độ có lão bỗng đông khách hẳn. Thịt bao giờ cũng lớn bùi, bé mềm, cả tơ cả cứng cho đủ vị cuộc đời. Lá sen, lá dong riềng, lá chuối được thay đĩa men. Quán có đến mười hai món “hương nhục”, thơm điếc mũi. Buổi tối quán tắt đèn điện thắp đèn cầy ăn thịt cầy... âm âm u u thế mà gọi mời đáo để. Những câu chuyện về đời, về chó của lão dưới ánh nến bao giờ cũng khiến khách ăn cảm thấy bữa rượu thịt đậm đà. Bữa nào lão không tới, họ lại ăn uể oải đòi lão có mặt. Bọn họ gọi lão là "lão Tầm Xuân". Cái quán ven đường rôm rả hẳn lên khi ông lão mặt rỗ hoa, ăn mặc nhếch nhác bước vào. Họ hát ong ỏng đón lão:

“Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay. Già rồi tiếc vẫn chưa nguôi. Xắn quần anh lội suối, khòm lưng anh vượt đèo...”.

Có hôm, men rượu không giải được nỗi sầu vô vị, họ lại đem lão ra giải buồn. Họ đổi những tin “dỏm” về cố Xuân bằng những câu chuyện của lão hoặc một cú tẩm quất sướng ê người. Nếu quán vắng khách, họ nằm ườn ngay trên nền quán, ưỡn tấm thân trẻ trung rã rời cho lão tẩm. Xương bật giòn tan, còn bọn họ lè lưỡi: “Hồi trẻ, lão phải vật trâu!”

- Hồi trẻ, tôi giật đến hai giải thi vật - Hứng chí lão khoe.

- Thế mà không vật nổi cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay xinh đẹp.

Cả bọn cười ồ còn lão bỗng tiu nghỉu. Lão ngừng đấm hỏi:

- Lần này "dỏm" không đó?

- Dỏm 50%. 50% có thể thật. Đứa nào nói dối 100% hộc bia ra ngay.

Chân dung cố Xuân thay đổi xoành xoạch. Khi thì cố Xuân ở tận bên làng biển An Hải, mù vì khóc lão. Khi thì ở trên Hòa Khánh, điếc đặc. Khi thì ở tận Hòa Cường, suốt ngày ho sù sụ...

Có lúc bọn trẻ kéo vào quán một bà già nghễnh ngãng, ré lên: "Lão Tầm Xuân ơi, cố Xuân đây nè!". Bà già chửi te tua còn bọn chúng cười hô hố. Chỉ có lão không nói một lời. Tôi có cảm tưởng có cái gì nặng hơn chiếc lá khô vỡ tan tành trong lòng lão. Ôi lão Tầm Xuân! Lão tìm trong cuộc đời nước chảy mây trôi như một hình bóng của ký ức thì tìm sao đặng? Những cuộc "gặp" ấy để lại trong lòng lão dư vị cay đắng. Lão ngồi uống rượu suông, mắt mờ đục như có khói và lão hát. Dĩ nhiên không phải để cho chúng tôi nghe! Lão hát hay lắm. Hay đến nỗi có lần tôi phải chở vợ đến nghe. Nàng đứng ở ngưỡng cửa nghe lão hát bài ruột: "Khi tương phùng, khi tương ngộ. Xuôi lên bộ, văng vẳng tơ tình. Chiêm bao lần chẵn năm canh. Bao lần anh ngồi tựa trăng thanh. Thương nhớ sâu oanh. Lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ gặp mặt sánh đôi. Suốt năm họa là. Duyên bén ngãn, văng vẳng tơ tình. Trước không phải, sau đền duyên ba sinh".

Khó tưởng tượng một giọng hát say đắm ngọt ngào dường kia lại thoát ra từ một lồng ngực hom hem phô những giẻ sườn. Vợ tôi bảo không phải lão hát mà tình yêu lão hát. Nàng có đôi chút học vấn để nhận xét: đằng sau vẻ ngù ngờ, xấu xí, già nua kia là một trái tim thực có một cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp trên đời. Cô Xuân ấy không bao giờ già, không bao giờ xấu, không bao giờ chết trong lão!

Sau lần nghe lão hát và những câu chuyện tôi kể về lão, vợ tôi bỗng trở nên “ái mộ” lão. Nàng bảo tôi chở lão đến nhà chơi rồi lão trở thành khách quen thuộc của cả nhà. Họ cũng bị lão “mê hoặc” như cả quán cầy tơ của bà béo. Lũ con tôi quý lão vô cùng. Lão bày chúng hát nghêu ngao những bài quan họ. “Sớm đi chơi hội, tối về quay tơ. Dải yếm phất phơ. Miếng trầu, mồi mốc. Miếng ăn, miếng buộc. Miếng gối đầu giường. Muốn tìm người thương. Tìm đâu cho thấy?”... Lão cho chúng những đồ chơi thật ngộ - những con vật bằng lá dừa biết ngúc ngắc, con gà trống bằng đất sét lòe loẹt xanh đỏ tím vàng kẹp chiếc kèn lá có thể cất tiếng gáy... Bếp nhà ấm áp khi có lão. Lão nếm rượu chính xác như đo, hàn giúp cái xoong, cái nồi rất khéo. Lão mơ màng kể cho chúng tôi nghe những ngày hội Lim, những liền anh áo the khăn xếp, liền chị thắt lưng hoa lý, yếm đào con nhạn, mắt lá răm lúng liến hát thâu đêm. Tôi ngồi nghe lão tả những làn điệu quan họ đắm say miên man dìu dặt và yêu cầu lão hát nhưng thường lão lắc đầu. Lão bảo hát quan họ phải có đôi, có bạn, có chỗ. Ký ức lão còn giữ nguyên vẹn những ngày hội quê lão: Hội làng, Hội Xuân, Hội mùa... Trai thi mạnh, gái thi mềm. Thi hoa, thi vật, kéo co, hát chèo, nấu cơm, đánh đu, cờ người...

- Lão gặp cố Xuân ở những ngày hội đó à?

- Vâng. Đó cũng là ngày hội quan họ, cả vùng như ngấm men say, phát cuồng vì hội lễ. Năm ấy anh cu Rỗ là tôi tròn 18 tuổi, được cử vào bọn quan họ làng để luyện giọng thi hát với bọn quan họ làng bên kia sông. Nhà tôi ba đời hát quan họ. Tôi luyện trên dưới 200 giọng, thế mà khi hát đôi với cô ấy tôi run. Tâm hồn tôi lơ lửng không đặt hết vào lời. Cô ấy là tiên quan họ. Ngày xưa cô Tấm cũng đẹp thế là cùng! Giọng hát sóng sánh. Mắt đen lóng lánh. Môi cắn chỉ đỏ thắm. Cần cổ như cuống hoa huệ... Tôi say, say lời hát, say cô ấy, quên cả ngón ruột phải tung ra vào phút chót để thắng dứt điểm. Cuộc thi kéo dài đến ba ngày. Tiếng trống dứt mới giật mình ngơ ngẩn. Dĩ nhiên tôi thua...

- Đa tình thế sao không lấy?

- Lệ quan họ những đôi trai gái đã kết bạn quan họ không lấy nhau. Tình yêu có nảy sinh thì cũng gửi thương gửi nhớ qua lời hát. Kết nghĩa quan họ như kết nghĩa anh em, được cha mẹ hai bên, dân hai làng chấp nhận. Tình bạn ấy chân thành, thủy chung, thắm thiết không chỉ đời mình mà có khi còn đến đời sau. Làng tôi có nhiều cặp quan họ khi đầu bạc răng long, tình yêu trong câu hát xưa vẫn không tàn. Có dịp gặp nhau trên chiếu quan họ, họ lại sống lại thời xuân sắc. Anh em kết nghĩa quan họ gặp nhau “xuân thu nhị kỳ”, đến thăm nhau, ăn uống, vui chơi, ca hát với nhau. Mỗi bên có chuyện vui buồn đều tổ chức đi lại thăm viếng. Tôi nhận ra một điều: người ta có thể cho nhau niềm hạnh phúc to lớn biết dường nào và chẳng lần nào giống lần nào... Rồi cô ấy cũng phải đi lấy chồng. Bọn quan họ chúng tôi đến chia vui. Tôi đau lòng hát miên man...

Mắt lão bỗng mơ màng xa vắng. Rồi một giọng hát trẻ trung đằm thắm da diết cất lên: "Ăn quả nhãn lồng. Ước sao người ấy tôi bồng trên tay...”. Không phải lão Tầm Xuân tóc bạc da mồi hát mà anh cu Rỗ tóc đen như mun, da mầu đồng, có giọng hát Trương Chi hát! Cô ấy hiểu lòng tôi, chú ạ! -

Lão lại ngưng hát, kể: Tôi hát bài "Khi tương phùng, khi tương ngộ" ngang nửa bài thì cô ấy xen ngang, hát tiếp: "Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ họp mặt sánh đôi... Trước không phải, sau đền duyên ba sinh". Chúng tôi cắt câu quan họ làm đôi, mỗi đứa giữ một nửa. Hẹn kiếp sau chắp lại.

Sau đó là chiến tranh... nạn đói... Câu quan họ tan tác trăm phương. Tôi vào Vệ quốc quân, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hòa bình lập lại, tôi về làng thì nghe cô ấy đã theo chồng... nghe nói vào Nam .

Rồi tuổi già đến. Già buồn lắm chú ạ! Cô đơn và bất lực. Chết không đáng sợ bằng tuổi già. Sống đến đó, người ta mới nếm tận cùng chén đắng cay của đời. Tôi sợ hình ảnh ông hàng xóm ngày nắng được bế cả người lẫn chăn ra hong nắng. Nắng rực rỡ đọng thành từng vũng quanh ông ấy, còn ông ấy nhăn nhúm trong cái chăn rách... Tôi có cảm tưởng ông được đem phơi cho chết vi trùng. Có bà, được mua cho một cỗ hậu sự thật tốt. Lâu không chết, áo quan bị mọt đục. Ngày nắng con cháu đem ra phơi, trở qua lật lại rửa ráy càu nhàu... Luật đời chú ạ! Già thì lụi tàn, phải chết. Sống lâu thành nợ của mọi người ngay con cái cũng chán... Một lần tôi ốm, trận ấy ốm thương hàn, thập tử nhất sinh. Trong những cơn mê, tôi cứ nghe một giọng hát lảnh lót níu tôi lại trần thế: "Người về bỏ bạn sao đành. Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng...". Giọng cô ấy! Chỉ có cô ấy mới có cái giọng la đà sát ngọn cỏ, cao vút chạm mây xanh, thầm thì luồn lách trong da trong thịt. Tôi tỉnh lại đang mơ màng thì nghe giọng dâu con thở than gần hết ngày tốt mà cha chưa chịu đi. Tôi mở mắt, chúng nó lại ríu rít hỏi han, làm ra vẻ vui mừng... Sau lần ốm ấy, tôi nghĩ đến chuyện đi tìm cô ấy. Chính cô ấy níu tôi lại cuộc đời này. Tôi phải đi tìm nửa câu quan họ cắt đôi. Trẻ không lấy nhau được, già ở bên nhau, hát với nhau cho đỡ côi cút. Trước sau vẫn là bạn có gì sai trái đâu?

Lão im bặt. Đôi mắt già nua chìm trong cõi vắng. Thời gian với lão chỉ là lớp bụi mờ. Gió thổi, bụi bay, dĩ vãng lại hiện ra nguyên vẹn trước mắt lão. Đêm ấy, lão hát miên man bên bếp lửa tàn. Một mình hát, một mình nghe, một mình mở hội đồi Lim, lúng liến, đắm say, chân tình lai láng.

Thế mà sau một tuần đi công tác xa về, con tôi đã mếu máo níu áo ngoài cửa đòi tôi đi tìm lão Tầm Xuân. Thì ra lão đã bỏ đi... Tự nguyện theo lão là con chó mập ú của bà Tư cầy. Dường như chán gặm xương đồng loại, nó bỏ theo lão Tầm Xuân.

(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 06. Nov 2007 , 16:05 by DoQuan »  

1) Không mua hàng Made in China&&2) Không du lịch hay travel bằng hàng không China&&3) Không giao dịch và mua bán với China
 
IP Logged
 
DoQuan
Gold Member
*****
Offline


Boycott Red China

Posts: 681
Re: Truyện ngắn
Reply #67 - 06. Nov 2007 , 16:11
 
Tôi cũng vô tình quên lão nếu không có lần gặp lại ở Hàng Xanh, Sài Gòn cách đó hai năm.

Đó là một buổi trưa nắng chang chang. Con hẻm em gái tôi ở vang lên tiếng rao lạc lõng: “Ai hàn xoong hàn nồi, mài dao mài kéo không...? - Tiếp liền sau một giọng hát cất lên :"Khi tương phùng khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình... thương nhớ sầu oanh, lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi...”. "Ôi!". Lão. Lão chứ còn ai nữa. Không kịp xỏ dép, tôi chạy nhào ra hẻm gọi ơi ới: “Lão mài dao... lão Tầm Xuân". Lão quay phắt lại rồi ôm chầm lấy tôi mừng rỡ. Mới hai năm mà lão già thêm nhiều. Lão đã thực sự già thêm nhiều. Lão đã thực sự già! Gương mặt chằng chịt nếp nhăn lỗ chỗ nốt rỗ như tấm gỗ mọt. Đôi mắt mờ đục, giọng hát khào khào. Lão mang lỉnh kỉnh dụng cụ hàm mài. Câu quan họ lầm lũi lạc theo, lạc lõng trong thành phố hoa lệ. Con chó vàng của bà Tư cầy lẽo đẽo theo bên. Chỉ khác là nó không còn mập ú nữa, nó xơ xác gầy nhom như chủ.

Chúng tôi tấp vào quán nước bên đường. ở đó tôi được biết vì sao lão bỏ đi đột ngột. Bà chủ quán thịt cầy cùng dãy với bà Tư béo bảo có gặp một bà người Bắc đi xin ở Gia Định biết hát quan họ và y hệt cô Xuân của lão. Thế là họ đi!... Quán bà Tư mất hấp lực, đâu lại vào đấỵ Tôi nghĩ thế nhưng không nói ra, sợ lão buồn. Tôi định bụng khuyên lão trở về quê. Không ngờ lão cũng nói:

- May gặp nhau lần cuối... Tuần sau tôi về chú ạ. Tiền tàu xe đủ rồi... Tôi về để mười ba tháng Giêng tới dự hội Lim lần cuối. Hội Lim giờ đâu như xưa nữa... Nhưng tôi vẫn nghe tiếng trống vào hội giục giã lòng tôi. Tôi yếu rồi! Tôi đã nghe đất gọi Quê gọi Đành hẹn kiếp sau vậy...

Tôi nhìn lão, còn lão nhìn dòng xe cộ nườm nượp đến chóng mặt. Chiều tà dần trong đôi mắt mầu hoàng hôn.

- Lâu ngày gặp lại, tui với lão mần đích đáng một bữa thịt chó đi! ở đây có Bồng Lai quán nghe nói khá lắm, ăn hoài không đã miệng. Tui mời lão.

- Cảm ơn chú! Nhưng năm rồi tôi không đụng thứ đó. Tôi sẽ không đụng cho đến ngày cuối đời...

Lão cúi xuống vỗ về vào lưng con vàng. Con chó ngước đôi mắt nặng trĩu yêu thương nhìn lão rồi không dằn lòng nổi, nó đứng trên hai chân sau, vừa kêu ư ử hài lòng vừa liếm khắp người lão.

- Chú thấy đấy! Cứ tưởng tượng nó thành những đĩa dồi, đĩa luộc, đĩa xào, xáo... là tôi lợm giọng rồi... Không có nó tôi không sống nổi ở đây đến hai năm... Nó sưởi ấm tôi, kéo tôi đứng dậy, nó bị đánh què cẳng vì ăn cắp của người ta để cho tôi ăn những ngày tôi ốm... Nó từng sung sướng... theo tôi nó mới cực thế này... Nó...

Lão nghẹn ngào, mắt hấp háỵ Giọt lệ tuổi già chắt mãi mới thành dành cho kẻ đồng hành bốn chân!

Khoảng mươi hôm sau, con dao chặt thịt bị mẻ, em tôi nhắc:

- Không thấy lão mài dao kéo vào xóm... cái lão thật lạ, không lo kiếm khách chỉ lo hát... Có đồng nào mua đồ ăn lại chia đôi cho chó một nửa. Con chó cũng đáo để, không bao giờ ăn trước chủ dù có đặt trước miệng... Người già cũng lạ! Trại dưỡng lão em làm có một bà già... nhập trại ba năm không nói một lời, tưởng câm, khi gần chết hóa ra biết hát. Cái giọng cái điệu, cái lời na ná như lão mài dao.

- Đâu? Bà ấy ở đâu? - Tôi chụp tay nó.

- ở trong, sắp chết rồi. Mà anh hỏi làm gì?

Tôi kéo áo nó, bắt nó chở đi rồi tôi sẽ giải thích. Dọc đường tôi kể vắn tắt chuyện lão Tầm Xuân đi tìm nửa câu quan họ. Tôi linh cảm đó là cố Xuân.

- Ba năm trước, một người đàn ông sang trọng, gương mặt tràn trề nhân ái dẫn bà ấy vào trại. Ông ta bảo với Ban quản đốc ông ta thấy bà già cơ nhỡ, ngủ trước hiên nhà nên thương xót dẫn giúp vào đây. Ba năm ở đây, bà ấy sống lặng lẽ như bóng không hề nói, nằm quay mặt vào vách. Nhưng cách đây một tháng, dường như không nén được nỗi đau đớn, bà ta khóc rống lên: "Hắn là con tôi, cái thằng dẫn tôi vào đây chính là con tôi". Mấy hôm nay bà ta hát... không ăn, không uống... chỉ phều phào hát... -Em tôi kể.

Bây giờ nằm trước mặt tôi, trên chiếc chiếu tỏa mùi khai thối trải trên nền gạch loang lổ là bà cụ tóc trắng như bông vấn vành khăn nhung đã sờn, mỏng như giấy, mặt vàng, hơi thở dốc...

"Dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp..."

Hình hài ấy không còn nét nào giống lão Tầm Xuân tả. Thời gian cho, thời gian lấy hay tôi đã lầm? Tôi định lui ra nhưng chiếc lá khô ấy bỗng khẽ khàng động đậy. Rồi từ lồng ngực thoi thóp hơi tàn, phều phào những tiếng, lời rời rạc. "Bạn tình ơi! Duyên bén ngãi, trước không phải... sau đền... duyên... ba sinh".

-Đúng rồi! Cố Xuân đây rồi! Tôi reo to giữa những gương mặt già nua ngơ ngác - Lão Tầm Xuân ơi! Nửa câu quan họ đây rồi.

Lão tìm ba năm, nay biết tìm lão ở đâu.

Bà cụ mấp máy môi hát, âm sắc yếu dần... yếu dần... Nhanh trí, tôi nắm lấy bàn tay còn xương với da ấy và tôi lập lại lời hát của lão Tầm Xuân: "Khi tương phùng, khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình..." Giọng hát vụng về thô ráp như đọc của tôi cất lên, và lạ lùng thay, nó tựa những giọt nước cành dương diệu kỳ... Mí mắt bà lão động đậy, ngực phập phồng rồi giọng hát yếu ớt cứ rõ dần hòa với cái giọng vịt đực ồ ồ của tôi. Những bà già trên nền nhà lập tức ngồi dậy. Họ không hiểu nhưng họ vỗ tay như những đứa trẻ. Họ reo, họ hò, họ hát ru... Những đôi mắt mờ mờ đục chất ngất nỗi buồn và bất hạnh bỗng háo hức như mắt trẻ con. Một bà lão lục đục trong hai ba lần áo một cái gói nhỏ mở hai ba lớp nylon bày một nhúm thịt chà bông, chần chừ ngắm rồi nhón tay bốc hai sợi thịt đem tới đút vào miệng tôi một sợi, miệng cố Xuân, bị lời hát đẩy ra, còn trong miệng tôi, trào thành nước mắt!

Tôi lập tức đạp xe đi quanh vùng Gia Định tìm lão Tầm Xuân nhưng bóng lão bặt tăm... Hình như lão đã về quê rồi. Em gái tôi góp ý nhắn lão trên tivi. Mẩu tin kỳ quái được nhắc lại hai hôm: “Lão Tầm Xuân! Đã tìm ra nửa câu quan họ. Đến gấp trại dưỡng lão số 3, đường... Mau lên kẻo không kịp".

Không kịp thật. Cố Xuân hắt ra hơi thở cuối cùng, lão vẫn bặt tăm. Chiếc xe tang của trại đưa cố đến lò thiêu. Không một vành khăn, không dòng nước mắt.

Có lẽ giờ này lão Tầm Xuân đang lê bước trở về. Nửa câu quan họ lầm lũi theo lão... Chơi vơi... Chơi vơi... ./.

Quế Hương
Back to top
 

1) Không mua hàng Made in China&&2) Không du lịch hay travel bằng hàng không China&&3) Không giao dịch và mua bán với China
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #68 - 10. Nov 2007 , 20:40
 
Quote:

CÂU HÁT TÌM NHAU

Quế Hương
(còn tiếp)


Anh Đỗ Quân ơi,

Câu chuyện không biết có thật không, đọc thấy thương qua' ! Cám ơn anh mang về cho cả nhà đọc  Wink
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
BẢN DI CHÚC HAY NHẤT
Reply #69 - 18. Nov 2007 , 07:46
 
Tôi chết được 25 năm rồi. Hôm nay tôi trở lại tảo mộ lần thứ hai. Tôi gọi là Ngày Lễ Bạc.

Sau khi chết được ba năm,tôi tảo mộ lần thứ nhất. Lần đó tôi kể trong tập sách Cô Đơn và Sự Tự Do, đoản khúc số 59. Ngày đó mộ tôi không có hoa. Không ai đến mộ tôi cả. Tôi đứng đó hồi hộp suốt buổi chiều. Mây xuống thấp, xám một hoàng hôn. Rồi trời tắt nắng phía sau hàng cây. Tôi còn nhớ rõ hôm ấy trời không gió. Nghĩa trang im lìm. Sau ba năm tôi chết, vẫn còn ít người nhớ và cầu nguyện cho tôi. Nhưng không ai ra nhìn mộ tôi.

Tôi biết nếu trở lại vào năm sau thì cũng thế. Thản nhiên như một cánh chuồn chuồn đậu hờ hững trên một bờ dậu thưa nào đó. Không có gì hồi hộp nữa nên tôi không trở lại. Đợi 25 năm sau. Một kỷ niệm đặc biệt hơn : Ngày Lễ Bạc.
Tôi đang đứng trong nghĩa trang, chỗ tôi đứng lần thứ nhất cách đây hơn 20 năm về trước. Tên tôi vẫn còn. Tên được khắc vào mộ đá. Nhưng rêu lắm rồi, dơ bẩn nữa. Mộ đá không còn sạch như ba năm sau khi tôi chết. Bây giờ sần sùi, mốc rêu xanh. Ngày xưa không có cây cổ thụ ở chỗ này. Họ trồng bao giờ thế? Cả cái nghĩa trang này bây giờ cũng khác. Ngôi mộ cạnh tôi không còn. Họ bốc đem đi hồi nào mà bây giờ có cái tên lạ hoắc. Trên cành cây già, một loại côn trùng nào đó rỉ rả tiếng kêu cuối mùa. Hôm nay cũng không có gió như lần trước. Những chiếc lá lặng lẽ. Nghĩa trang cũng yên tĩnh như ngày xưa.
Tôi đến gần mộ, nhìn xác tôi dưới đất sâu. Chiếc quan tài gỗ mục từ bao giờ? Đất sập kín lẫn với xương. Đất dưới đó ẩm ướt. Có bùn sền sệt. Nước quanh năm. Tôi không còn hình hài gì cả. Có những con trùng trườn qua trườn lại trên khúc xương. Người ta bảo trắng như xương. Thật không phải thế, xương lấm dơ đen, rỗ những vết bọ ăn, bùn cắn chặt vào những kẽ nứt. Bọ ăn làm các xương không còn nhẵn nhụi. Chiếc sọ đầu còn nguyên vẹn hơn cả. Hai cuồng mắt rất to. Tôi nhìn xuống, chiếc sọ cũng giống như trăm ngàn chiếc sọ khác. Tôi không thể phân biệt được. Ngày còn sống, tôi băn khoăn về làn da. Nhìn kìa! Chỉ tuần lễ sau khi chết. Nó rữa ra. Ngày còn sống, tôi chải chuốt mái tóc. Tôi tìm cách nhuộm cho người ta thấy mình trẻ. Tôi băn khoăn về cái nhìn. Tôi muốn chinh phục. Bây giờ cái sọ trọc, rỗng, nhúc nhích loại giun nào trong đó? Tôi đứng nhìn tôi, tôi nhìn sang tất cả nhưng xác chung quanh và tôi sợ. Tôi thấy xa lạ với chính mình. Hình hài thân xác tôi đấy ư? Tôi đang mừng 25 năm, Lễ Bạc sao? Còn đâu những lúc băn khoăn mùi nước hoa nào, chanel  5 hay 8 ?
Tôi biết chắc là không có ai đến mộ tôi 25 năm sau. Tôi biết là không có hoa ở mộ. Tôi không hồi hộp gì cả, tôi không chờ đợi gì cả khi trở về đây. Kỷ niệm 25 năm ngày tôi chết là của riêng tôi. Hôm nay tôi có thì giờ nhìn ngắm tôi và những gì xảy ra nơi đây. Ở một góc kia, người ta đang khóc. Một đám tang đang chôn. Có linh mục mặc áo lễ. Lại cũng có ca đoàn hát. Sao mà giống tôi 25 năm về trước thế. Hoa chung quanh mộ, rồi mấy hôm nữa hoa sẽ rữa, người được thuê làm vệ sinh lại hốt đổ vào thùng rác. Có những mộ bia không còn hình dạng. Họ ra đi trước tôi lâu rồi. Có người mới chôn vài năm nay, có người mười năm, có người hai mươi năm, có người cả trăm năm. Ghê nhất là những người mới chôn. Ngôi mộ này của một người đàn bà. Chết đã tháng nay. Áo quần còn mới, nhưng xác rữa rồi, lúc nhúc dòi bọ. Chiếc quan tài còn cứng, xác trong đó phồng căng, sình rữa. Tóc bết lại. Áo nhung và thịt kết dính chặt lại. Những con dòi trắng cắn loang lổ nhiều vùng vải lỗ chỗ. Đấy cũng là hình hài tôi 25 năm về trước. Ngày còn sống tất cả những người đang nằm đây xum xuê từng ngọn tóc, mà bây giờ thế ư ?
Tôi đi tìm xem ai là người trí thức. Không thấy ai cả. Chết được vài ngày, tất cả sọ người đều nồng nặc hôi thối. Tôi đi tìm xem ai là người nổi tiếng. Tất cả chỉ là những mảnh xương dính bùn đen đủi và toàn dòi bọ ở trong.
Tôi đi tìm xem ai là người giàu có. Không thấy ai cả. Tất cả đều trần trụi không mảnh áo che thân. Tôi không thấy kim cương, vàng bạc. Tôi tưởng người thân chôn theo, nhưng không, người ta giữ lại hết. Người ta chỉ chôn xác thôi.
Tôi đi tìm xem ai là người lúc sống họ lên tiếng phải xây dựng Giáo Hội thế này, phải cải tổ Giáo Hội thế kia. Không thấy ai cả. Lúc đương thời, họ sống chết, ăn thua đủ với nhau chỉ vì “bảo vệ đức tin”. Trong cái nghĩa trang này, thân xác nào cũng hôi tanh. Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.
Cái sọ kia ngày xưa đã bao suy nghĩ. Những giấc mơ ấy bay về đâu? Còn dưới đó không? Trái tim ôm ấp bao nhiêu tình cảm. Cái mùi tanh hôi nồng lên khi nó rữa ra. Tôi nhìn lại tôi dưới ngôi mộ sâu.
Tôi nghe chung quanh tôi, trăm nghìn tiếng động xèo xèo. Nhiều xác mới chôn đang rữa. Tiếng những con bọ ăn vào xương. Những xác chết đang xảy ra giống tôi 25 năm về trước. Ở phía kia, đám tang đã xong. Nhiều người đứng xa mộ có thể ra về sớm hơn. Họ còn nhiều việc phải làm. Họ rất bận rộn. Họ không muốn ở đây lâu. Chiều xuống, tối rất mau. Người ta phải về. Xác mới chôn nằm đó. Vài ngày nữa sẽ có ai đó tiếc thương đem hoa ra mộ. Rồi ba năm sau không còn ai. Rồi 25 năm sau nếu trở về đây cũng sẽ giống tôi bây giờ. Lần lượt ra đi theo con đường đó. Giống nhau.
Bỏ nghĩa trang, tôi đi tìm con đường tôi đi năm xưa. Phần lớn còn đó nhưng chỗ này mới hơn, thì chỗ kia cũ kỹ đi. Nhiều toà nhà bỏ trống hoang phế. Tôi  không còn gặp mấy người quen. Một vài người tôi tìm mãi mới thấy. Vì họ thay đổi quá nhiều rồi. Họ chậm chạp, đau yếu. Họ lẩn thẩn. Cái thế giới 25 năm về trước không còn. Đất trời còn đó. Mặt trăng vẫn thế. Cả gió biển và màu xanh của sóng nữa. Nhưng con người và thế giới lúc họ trẻ hết rồi. Đời họ bây giờ ai cũng lầm lũi. Tôi  đứng nhìn họ mà không muốn hỏi chuyện vì bắt họ nhớ lại những tháng ngày quá xa. Bây giờ họ chỉ muốn thầm lặng sống qua ngày thôi. Vài người sót lại trong viện dưỡng lão, lặng lẽ. Người tôi quen ngày xưa, chết hầu hết rồi.
Những tờ thư cũ, tấm hình năm xưa, sau khi tôi chết, có vài người giữ nó ít năm. Đến lúc họ chết, thì kẻ sau dọn phòng không biết tôi là ai. Tất cả vào thùng rác sau khi người đó chết ít ngày. Bây giờ tôi không còn dấu vết là bao.
Tôi đi tìm những chữ nghĩa ngày xưa tôi học. Vất vả toan tính. Ngày ấy nuôi bao nhiêu mộng mị ở mảnh bằng ra trường. Bám vào tên tuổi muốn xã hội tặng ban. Cần treo tấm bằng cấp ở nơi làm việc. Chụp chung tấm hình với nhân vật tiếng tăm. Bây giờ chả còn gì.
Đã 25 năm rồi, tất cả đồ dùng của tôi đã biến mất. Chiếc xe ngày xưa đau buồn vì trầy vết sơn. Ngày ấy không dám cho người khác mượn, tôi lau chùi thật bóng. Bây giờ là bụi rác ở đâu? Tôi đứng đây nhìn lại cuộc đời. Tất cả qua đi như cơn gió thoảng, mà sao ngày ấy lòng tôi bồn chồn, lo lắng, tiếc nuối những thứ này thế.
Tôi đi tìm những công trình tôi để lại. Người để công trình này, người để công trình kia. Tôi để lại những bài diễn văn. Ai còn nhớ? Họ quên ngay khi tôi rời cái mi-cro-phôn cơ mà. Ngay khi ra khỏi phòng họp, ngay mấy phút sau. Vậy mà hôm nay tôi đi tìm nó như một công trình để lại sao? Giật mình. Tôi thấy mình quá ngớ ngẩn. Vậy tôi đi tìm gì hôm nay? Còn gì không? Ngay cả những người tôi quen biết cũng không còn, thì tôi còn gì? Ai mà giữ những kỷ niệm của tôi khi họ không biết tôi là ai?
Tôi không ngờ ngày lễ bạc này buồn tẻ hơn ngày tảo mộ lần thứ nhất. Ngày ấy sau ba năm tôi chết. Đứng một mình ngoài nghĩa trang, không có ai ra mộ tôi như hôm người ta chôn tôi. Nhưng ngày ấy trở về tôi còn nhìn thấy nhiều bóng hình tôi quen. Tôi còn gặp vài tờ thư tôi viết cho họ. Có kẻ còn giữ tấm hình tôi. Lần này hoang vu quá. Trống trải. Ngày 25 năm Lễ Bạc mà vắng thật vắng.
Bây giờ tôi hiểu, Ngày Lễ Bạc là của chính mình. Một mình mình thôi.
Nhiều điều chết rồi mới thấy rõ. Lúc sống sao tôi không nhìn thấy. Chẳng hạn như tôi băn khoăn làm sao để lại công danh cho đời. Đời chả cần gì tôi. Cần hay không, tiếng kêu của một cánh ve trong chiều hè trống trải mênh mông? Chẳng hạn như tôi lo lắng ngày mai ra sao, tôi phải tích góp bao nhiêu cho đủ? Bây giờ thấy quá rõ rồi, ngày mai, tức là bây giờ tôi đang đứng đây. Trong nghĩa trang người ta không còn nhan sắc, người ta không cần chỗ ở.
Nếu bây giờ sống lại kiếp người, tôi sẽ rong chơi, tôi sẽ ca hát với suối xanh, tôi sẽ với mây trời cho trái tim tôi bao dung. Nhưng trễ quá rồi.
Tất cả những gì nhìn thấy đều không mang theo được khi tôi chết. Son phấn. Sự nghiệp. Cũng không phải tất cả những gì thuộc tinh thần là mang theo được đâu. Những điều thuộc tinh thần như tình yêu, lòng thù ghét, niềm kiêu hãnh, sự ghen tị, giận dữ, bao dung cũng tuỳ đó. Chỉ những gì tinh thần mà thuộc về
thế giới Siêu nhiên mới tồn tại.
Như vậy cuộc đời người ta phải bỏ lại tới 98 phần trăm. Chỉ có hai phần trăm mang theo là tình yêu thương và lòng bao dung với người đời.
Lúc sống, tôi quá vất vả cho 98 phần trăm cái không mang theo được. Hôm nay nhìn lại trong ngày kỷ niệm 25 năm tôi chết. Trở về tìm lại những bến bờ đã đi qua. Chả còn gì. Nếu tôi được sống lại, tôi sẽ sống thế nào?  Hỏi mình vậy thôi, chứ tôi biết, quá trễ rồi.
Đường tôi đi, bây giờ lại vẫn chỉ một mình, mình đi. Tôi lại nhủ lòng :  Đường đi một mình.
                                                          Nguyễn Tầm Thường
                              ( “Đường Đi Một Mình.” Trang 52. Đoản khúc 82 )


Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #70 - 01. Jan 2008 , 22:47
 
...

Hôm nay có phim Trung Cộng


Điểm phim :

Hôm nay, có rất nhiều Đài truyền hình có phim Trung Cộng, bạn hãy mở kênh A xem cuộc chiến sống còn giữa hai cao thủ võ lâm của phái Hoa Sơn và Tuyết Sơn để giành một bí kíp giang hồ. Ở kênh K, nàng công chúa xinh đẹp nước Sở đang lên kế hoạch trả thù cho người yêu. Kênh B dành cho người yêu phim quan tâm đến đời sống chính trị xã hội khi theo dõi cuộc chiến chống tham nhũng của Bí Thư Trần đang vào giai đoạn gay cấn, hôm qua bạn đã thấy vợ bí thư nhận món tiền hối lộ lớn như thế nào. Kênh C và kênh H giới thiệu cuộc đời của những kỳ nhân Trung Cộng, họ là những quân sư giỏi cho những ông vua… dở giành lấy ngai vàng hoặc thôn tính nước khác. Và nếu bạn là người lãng mạn, hãy bật kênh D, U, S, Z, X… để xem những bộ phim tình cảm lãnh mạn của những đôi lứa yêu nhau nhưng luôn gặp trắc trở, lỡ làng, cái kết bất ngờ của những mối tình đang chờ bạn khám phá. Tất nhiên, với hàng loạt diễn viên trẻ đẹp, bối cảnh sang trọng, hoành tráng, những bộ phim Trung Cộng trên tất cả các đài truyền hình trong nước Việt sẽ lôi cuốn các bạn từ đầu đến cuối, giới thiệu đất nước, con người Trung Cộng một cách chân thực và gần gủi nhất, bạn sẽ cảm thấy đầy ắp thông tin về đất nước láng giềng.



Và cũng tất nhiên, trên tất cả các Đài truyền hình tỉnh lẻ và khu vực và Trung ương bạn sẽ không tìm thấy thông tin Trường Sa và Hoàng Sa bị Trung Cộng cướp trắng, một cuộc xâm lược không cần ngụy biện và che giấu, rất phách lồi, ừ, tao lớn, tao mạnh, tao thích lấy thì lấy, làm gì tao ?



Vì những nguồn quảng cáo vô tận, vì phim Trung Cộng bán rẻ như cho, vì đài tỉnh bên tăng thời lượng mà mình không tăng cũng kỳ... ?????



Nên hôm nay, bạn hãy bật tất cả các kênh để xem phim Trung Cộng. Ngay khi chưa mất đất thì cuộc xâm lược đã diễn ra rồi, và chúng ta ngồi trước màn hình ti vi sung sướng chấp nhận điều đó.



Có một đứa đã lỡ hơi khùng rồi, nên khùng luôn cũng không sao, muốn cướp đài truyền hình tỉnh vài giờ, đúng chương trình phim truyện, buộc nhân viên kỷ thuật chạy dòng chữ trắng “Tổ Quốc bị cướp một phần rồi, bà con ơi”. Hay lịch sự hơn, thay bằng “Vì bạn Trung Cộng chơi xấu, nên bữa nay tạm ngưng phim Trung Cộng” trên cái nền đen vô tận của bóng đêm. Ít nhất, sẽ có một phần mười người xem sẽ tắt ti vi trong một nỗi bàng hoàng của một người nhận ra mình dù hèn nhưng vẫn còn yêu nước. Chín phần mười còn lại, cũng biết bàng hoàng vì lỗi Trung Cộng ăn gian mà họ bỏ lỡ một tập phim Trung Cộng hay.

Sầu Riêng Nguyễn Ngọc Tư


ghi chú: tự ý sửa 1 chử
Back to top
 
 
IP Logged
 
phuonghue
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3251
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #71 - 02. Jan 2008 , 04:15
 
Quote:
...

Hôm nay có phim Trung Cộng


Điểm phim :

Hôm nay, có rất nhiều Đài truyền hình có phim Trung Cộng, bạn hãy mở kênh A xem cuộc chiến sống còn giữa hai cao thủ võ lâm của phái Hoa Sơn và Tuyết Sơn để giành một bí kíp giang hồ. Ở kênh K, nàng công chúa xinh đẹp nước Sở đang lên kế hoạch trả thù cho người yêu. Kênh B dành cho người yêu phim quan tâm đến đời sống chính trị xã hội khi theo dõi cuộc chiến chống tham nhũng của Bí Thư Trần đang vào giai đoạn gay cấn, hôm qua bạn đã thấy vợ bí thư nhận món tiền hối lộ lớn như thế nào. Kênh C và kênh H giới thiệu cuộc đời của những kỳ nhân Trung Cộng, họ là những quân sư giỏi cho những ông vua… dở giành lấy ngai vàng hoặc thôn tính nước khác. Và nếu bạn là người lãng mạn, hãy bật kênh D, U, S, Z, X… để xem những bộ phim tình cảm lãnh mạn của những đôi lứa yêu nhau nhưng luôn gặp trắc trở, lỡ làng, cái kết bất ngờ của những mối tình đang chờ bạn khám phá. Tất nhiên, với hàng loạt diễn viên trẻ đẹp, bối cảnh sang trọng, hoành tráng, những bộ phim Trung Cộng trên tất cả các đài truyền hình trong nước Việt sẽ lôi cuốn các bạn từ đầu đến cuối, giới thiệu đất nước, con người Trung Cộng một cách chân thực và gần gủi nhất, bạn sẽ cảm thấy đầy ắp thông tin về đất nước láng giềng.



Và cũng tất nhiên, trên tất cả các Đài truyền hình tỉnh lẻ và khu vực và Trung ương bạn sẽ không tìm thấy thông tin Trường Sa và Hoàng Sa bị Trung Cộng cướp trắng, một cuộc xâm lược không cần ngụy biện và che giấu, rất phách lồi, ừ, tao lớn, tao mạnh, tao thích lấy thì lấy, làm gì tao ?



Vì những nguồn quảng cáo vô tận, vì phim Trung Cộng bán rẻ như cho, vì đài tỉnh bên tăng thời lượng mà mình không tăng cũng kỳ... ?????



Nên hôm nay, bạn hãy bật tất cả các kênh để xem phim Trung Cộng. Ngay khi chưa mất đất thì cuộc xâm lược đã diễn ra rồi, và chúng ta ngồi trước màn hình ti vi sung sướng chấp nhận điều đó.



Có một đứa đã lỡ hơi khùng rồi, nên khùng luôn cũng không sao, muốn cướp đài truyền hình tỉnh vài giờ, đúng chương trình phim truyện, buộc nhân viên kỷ thuật chạy dòng chữ trắng “Tổ Quốc bị cướp một phần rồi, bà con ơi”. Hay lịch sự hơn, thay bằng “Vì bạn Trung Cộng chơi xấu, nên bữa nay tạm ngưng phim Trung Cộng” trên cái nền đen vô tận của bóng đêm. Ít nhất, sẽ có một phần mười người xem sẽ tắt ti vi trong một nỗi bàng hoàng của một người nhận ra mình dù hèn nhưng vẫn còn yêu nước. Chín phần mười còn lại, cũng biết bàng hoàng vì lỗi Trung Cộng ăn gian mà họ bỏ lỡ một tập phim Trung Cộng hay.

Sầu Riêng Nguyễn Ngọc Tư


ghi chú: tự ý sửa 1 chử


Rất là thấm thía anh phu_de à.
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #72 - 02. Jan 2008 , 05:10
 
Cám ơn sư huynh cho đọc một ý kiến từ người trong nước  Wink My có dịp đọc một vài truyện ngắn nổi tiếng của Nguyễn Ngọc Tự mấy năm trước, chắc  My có mang lên D/D LVD . Bây giờ đọc bài này của NNTự My lại càng có cảm tình hơn nữa  Wink Rất vui mừng vì càng ngày những người cầm bút trong nước càng dám viết những điều họ nghĩ  Wink
Back to top
 
 
IP Logged
 
phuonghue
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3251
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #73 - 02. Jan 2008 , 11:25
 
Quote:
Cám ơn sư huynh cho đọc một ý kiến từ người trong nước  Wink My có dịp đọc một vài truyện ngắn nổi tiếng của Nguyễn Ngọc Tự mấy năm trước, chắc  My có mang lên D/D LVD . Bây giờ đọc bài này của NNTự My lại càng có cảm tình hơn nữa  Wink Rất vui mừng vì càng ngày những người cầm bút trong nước càng dám viết những điều họ nghĩ  Wink


Em cũng rất thích truyện của NN Tư. Đọc truyện của cô ta lúc nào cũng làm em nước mắt chảy ròng ròng. Lối văn của NNT lúc nào cũng thật là bén nhọn và làm mình nhức nhối. Cô ta không sợ nói lên sự thật đâu , và cũng nhờ được nhiều người VN hải ngoại biết và đến thăm cũng như viết nhiều bài ca ngợi nên cô ta mới được yên thân đó chị Mỹ à.
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #74 - 02. Jan 2008 , 19:04
 
Quote:
...

Hôm nay có phim Trung Cộng


Điểm phim :

Hôm nay, có rất nhiều Đài truyền hình có phim Trung Cộng, bạn hãy mở kênh A xem cuộc chiến sống còn giữa hai cao thủ võ lâm của phái Hoa Sơn và Tuyết Sơn để giành một bí kíp giang hồ. Ở kênh K, nàng công chúa xinh đẹp nước Sở đang lên kế hoạch trả thù cho người yêu. Kênh B dành cho người yêu phim quan tâm đến đời sống chính trị xã hội khi theo dõi cuộc chiến chống tham nhũng của Bí Thư Trần đang vào giai đoạn gay cấn, hôm qua bạn đã thấy vợ bí thư nhận món tiền hối lộ lớn như thế nào. Kênh C và kênh H giới thiệu cuộc đời của những kỳ nhân Trung Cộng, họ là những quân sư giỏi cho những ông vua… dở giành lấy ngai vàng hoặc thôn tính nước khác. Và nếu bạn là người lãng mạn, hãy bật kênh D, U, S, Z, X… để xem những bộ phim tình cảm lãnh mạn của những đôi lứa yêu nhau nhưng luôn gặp trắc trở, lỡ làng, cái kết bất ngờ của những mối tình đang chờ bạn khám phá. Tất nhiên, với hàng loạt diễn viên trẻ đẹp, bối cảnh sang trọng, hoành tráng, những bộ phim Trung Cộng trên tất cả các đài truyền hình trong nước Việt sẽ lôi cuốn các bạn từ đầu đến cuối, giới thiệu đất nước, con người Trung Cộng một cách chân thực và gần gủi nhất, bạn sẽ cảm thấy đầy ắp thông tin về đất nước láng giềng.



Và cũng tất nhiên, trên tất cả các Đài truyền hình tỉnh lẻ và khu vực và Trung ương bạn sẽ không tìm thấy thông tin Trường Sa và Hoàng Sa bị Trung Cộng cướp trắng, một cuộc xâm lược không cần ngụy biện và che giấu, rất phách lồi, ừ, tao lớn, tao mạnh, tao thích lấy thì lấy, làm gì tao ?



Vì những nguồn quảng cáo vô tận, vì phim Trung Cộng bán rẻ như cho, vì đài tỉnh bên tăng thời lượng mà mình không tăng cũng kỳ... ?????



Nên hôm nay, bạn hãy bật tất cả các kênh để xem phim Trung Cộng. Ngay khi chưa mất đất thì cuộc xâm lược đã diễn ra rồi, và chúng ta ngồi trước màn hình ti vi sung sướng chấp nhận điều đó.



Có một đứa đã lỡ hơi khùng rồi, nên khùng luôn cũng không sao, muốn cướp đài truyền hình tỉnh vài giờ, đúng chương trình phim truyện, buộc nhân viên kỷ thuật chạy dòng chữ trắng “Tổ Quốc bị cướp một phần rồi, bà con ơi”. Hay lịch sự hơn, thay bằng “Vì bạn Trung Cộng chơi xấu, nên bữa nay tạm ngưng phim Trung Cộng” trên cái nền đen vô tận của bóng đêm. Ít nhất, sẽ có một phần mười người xem sẽ tắt ti vi trong một nỗi bàng hoàng của một người nhận ra mình dù hèn nhưng vẫn còn yêu nước. Chín phần mười còn lại, cũng biết bàng hoàng vì lỗi Trung Cộng ăn gian mà họ bỏ lỡ một tập phim Trung Cộng hay.

Sầu Riêng Nguyễn Ngọc Tư


ghi chú: tự ý sửa 1 chữ



Sư huynh à,

Sư huynh nói đã " tự ý sửa 1 chữ", sao sư huynh không đố nó là chữ gì để đầu năm My bói 1 quẻ ( sẽ phải trúng  Cool ) rồi để cho anh Cối Chày lo phần kiếm giải thưởng   Cheesy  Grin
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #75 - 02. Jan 2008 , 19:33
 
phuonghue wrote on 02. Jan 2008 , 11:25:
Em cũng rất thích truyện của NN Tư. Đọc truyện của cô ta lúc nào cũng làm em nước mắt chảy ròng ròng. Lối văn của NNT lúc nào cũng thật là bén nhọn và làm mình nhức nhối. Cô ta không sợ nói lên sự thật đâu , và cũng nhờ được nhiều người VN hải ngoại biết và đến thăm cũng như viết nhiều bài ca ngợi nên cô ta mới được yên thân đó chị Mỹ à.


Em dùng chữ thật diễn tả đúng :" bén nhọn và nhức nhối ". Wink
Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #76 - 03. Jan 2008 , 00:33
 
Quote:
Sư huynh à,

Sư huynh nói đã " tự ý sửa 1 chữ", sao sư huynh không đố nó là chữ gì để đầu năm My bói 1 quẻ ( sẽ phải trúng  Cool ) rồi để cho anh Cối Chày lo phần kiếm giải thưởng   Cheesy  Grin

Chị Mỹ ơi
Chử nầy dễ lắm, đố ra sợ cháy túi  ..anh ĐS hihihi
Tôi bị dị úng với chử Trung Quốc, phải gọi họ là Trung Cộng mới chính xác.

Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #77 - 03. Jan 2008 , 20:24
 
Quote:
Chị Mỹ ơi
Chử nầy dễ lắm, đố ra sợ cháy túi  ..anh ĐS hihihi
Tôi bị dị úng với chử Trung Quốc, phải gọi họ là Trung Cộng mới chính xác.



Sư huynh này thiệt tình  Cheesy Anh Đại San có túi đâu mà cháy, chuyên nghề bán cái đốt túi người khác thui   Cheesy Grin
Back to top
 
 
IP Logged
 
CoiChay
Gold Member
*****
Offline


Cối Chày of the Year
2006-2009

Posts: 2263
Re: Truyện ngắn
Reply #78 - 04. Jan 2008 , 02:15
 
Quote:
Sư huynh này thiệt tình  Cheesy Anh Đại San có túi đâu mà cháy, chuyên nghề bán cái đốt túi người khác thui   Cheesy Grin


Chị Mỹ anh PD đừng lo.  Túi thì không có nhưng tôi sẽ ghi sổ để mai mốt trả !   Cheesy

Thân mến,
CC

PS.
Thường thì trả bằng "account" của anh DQ nên các anh chị cứ tự nhiên !  Grin Grin Grin

Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #79 - 04. Jan 2008 , 18:42
 
CoiChay wrote on 04. Jan 2008 , 02:15:
Chị Mỹ anh PD đừng lo.  Túi thì không có nhưng tôi sẽ ghi sổ để mai mốt trả !   Cheesy

Thân mến,
CC

PS.
Thường thì trả bằng "account" của anh DQ nên các anh chị cứ tự nhiên !  Grin Grin Grin



huh, đầu năm đã mai kia mốt nọ rồi  Roll Eyes Cheesy
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #80 - 09. Jan 2008 , 15:34
 
THƯ GỞI THẦY PHƯƠNG XA
VIÊN TÀI

Kính bạch Thầy,
Thường thì sau mỗi lần chuyện trò với Thầy, lòng con luôn cảm thấy an lạc, thanh thản vô cùng. Không an lạc sao được khi mà lần nào nói chuyện với Thầy, Thầy cũng luôn luôn từ bi nhắc nhở và chỉ dẫn những khuyết điểm, lỗi lầm của con, những mong con luôn tinh tấn trên bước đường tu học. Có đôi  lúc, khi Thầy vừa mới chỉ dạy xong, con lại quên trước quên sau, làm nhọc Thầy cứ phải mãi mãi lo dạy dỗ, nhắc nhở.  Những lúc ấy, con thấy mình quá ư là dốt đột… Nhưng hôm nay cái cảm giác an lạc thường nhật ấy không còn nữa, Thầy ạ!  Thay thế vào đó là một nỗi xót xa vô bờ và cũng thật mơ hồ mà ngay chính con, con cũng không nhận rõ được, sau khi được Thầy diễn tả cho con biết những khổ cực của người dân ở các tỉnh miền Trung đang phải gánh lấy, sau những cơn hoành hành của từng cơn, rồi lại từng cơn lũ lụt tới tấp phủ trắng cả những cánh đồng lúa vốn tự nó đã không được phì nhiêu vì những cơn hạn hán.
Thưa Thầy! Đã có một nỗi đau buồn thật quá đỗi chua xót trở về, òa chập và bủa vây tâm tưởng con, cho con tưởng chừng như mình đã không còn một lối thoát, khi con được xem những tấm hình Thầy đã chụp được khi Thầy đi cứu trợ ở Thanh Hóa. Thanh Hóa, tên gọi của một địa danh, chỉ có ở trong trí nhớ thật nhỏ nhoi của con qua những câu chuyện mà Mợ con thường đem ra tâm sự với con, mỗi khi người nhớ về một dĩ vãng tuy rất xa xưa nhưng cũng rất êm đềm của Cậu và Mợ. Ở nơi đó, tại hai ngôi làng vô cùng bé nhỏ và nghèo nàn, tên gọi là Đông Vệ và Cự Đà, nơi mà hai đấng sinh thành yêu qúy của con đã sinh ra và lớn lên.
Thưa Thầy, đó cũng là nơi mà cô Phật tử dốt đột của Thầy đã được ra đời và lớn lên trong một khoảng thời gian rất ngắn ngủi, (bởi sau đó nhỏ dốt đột này đã theo Cậu Mợ vào Nam) không đủ để để lại đôi chút kỷ niệm trong trí óc bé thơ của nhỏ.



Bạch Thầy! Đã có một bài hát thật hay, thật buồn nhưng cũng diễn tả được một phần nào sự nghèo khổ thiếu thốn của người dân miền Trung, vốn tự xưa nay đã tả tơi, giờ lại  trắng tay  trước sự tàn phá của những cơn bão tiếp nhau đổ xuống làng quê tiêu điều xác xơ ấy:
“Quê  hương  em  nghèo  lắm ai ơi
Mùa Đông  thiếu áo, hè thời thiếu ăn
Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm, à ơi
Khiến đau thương thêm tràn ngập Thuận An
Để lan biển khơi, ơ hò, ơ hò…”
Đó… quê nội, ngoại con nghèo lắm, Thầy ơi! Quê cha con đó, với những mái tranh chênh vênh siêu vẹo ngày nào tuy thật tả tơi chỉ đủ để chở nắng che mưa, nhưng lúc nào cũng đong đầy tình cảm thương yêu chân thật… Quê con nơi những người dân quê nghèo chất phác, giờ đây đang bị vùi sâu dưới cơn cuồng nộ của đất trời.  Lưa thưa đâu đó một vài mái ngói ẩn hiện trong vùng biển nước trắng xóa, bao trùm cả làng quê.  Người dân quê mùa đơn sơ, mộc mạc đã khô cằn những giọt nước mắt, nay có còn giọt lệ nào để khóc cho những điêu linh mà họ đang phải gánh gồng không, thưa Thầy!   
Con rời xa quê cha xứ mẹ đã hơn ba mươi năm, và đã có một lần nào cho con chịu dừng bước chân lãng tử quay về thăm lại quê hương miền Trung, thăm lại Cô, Dì, Chú, Bác, cùng những thân tình mà con chỉ nghe kể lại, chứ chưa hề một lần biết mặt. Con ước gì được một lần nào trở về thăm lại những cánh đồng lúa khô cằn, một lần nào trở về thăm viếng mồ mả Ông Bà tổ tiên.  Cho con một lần nào được bước những bước chân thênh thang trên con đường làng quanh co đầy bụi bặm và thầm hãnh diện với chính mình rằng “Ừ nhỉ, cuối cùng rồi thì mình cũng đã trở về”.  Chính vì thế mà hôm nay, khi được nhìn những hình ảnh thân yêu ấy, lòng con không sao khỏi bùi ngùi đau đớn.   Thương cho những người dân quê mùa mộc mạc, quanh năm suốt tháng oằn mình đón nhận thiên tai trút xuống như những nghiệt ngã đời đời….
Có còn ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết nỗi lòng thương nhớ đến xót xa của con về một nơi chốn mà con đã ra đi bất ngờ hơn ba mươi mấy năm về trước... Trước những thiên tai phẫn nộ của đất trời, trước những cơn cuồng lũ tiếp tiếp, làm cho người dân xứ Thanh vốn đã nghèo nàn  rách nát nay lại càng xác xơ tơi tả… Con chỉ biết chắp tay nguyện cầu   cho người dân xứ Thanh được một lần thôi hết những đau thương khắc nghiệt...
Bao giờ xứ Thanh quê con thôi hết điêu linh? Bao giờ người dân miền Trung thôi hết điêu tàn? Chiều nay, ở phương trời xa xăm này … con chỉ biết thắp nén hương lòng nguyện cầu cho quê hương xứ Việt “gió thuận mưa hoà – an cư lạc nghiệp mọi nhà – hưng thạnh thái bình đất Việt”!
Xin gởi về quê hương… một tấm lòng!
Kính nguyện Thầy mãi được an lạc và tự tại!

Phật Tử Viên Tài
Back to top
 
 
IP Logged
 
BichDinh
Gold Member
*****
Offline


Tiên học lễ, hậu
học văn.

Posts: 1693
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #81 - 10. Jan 2008 , 09:37
 
Tuyet Lan wrote on 09. Jan 2008 , 15:34:
THƯ GỞI THẦY PHƯƠNG XA
VIÊN TÀI

Kính bạch Thầy,
Thường thì sau mỗi lần chuyện trò với Thầy, lòng con luôn cảm thấy an lạc, thanh thản vô cùng. Không an lạc sao được khi mà lần nào nói chuyện với Thầy, Thầy cũng luôn luôn từ bi nhắc nhở và chỉ dẫn những khuyết điểm, lỗi lầm của con, những mong con luôn tinh tấn trên bước đường tu học. Có đôi  lúc, khi Thầy vừa mới chỉ dạy xong, con lại quên trước quên sau, làm nhọc Thầy cứ phải mãi mãi lo dạy dỗ, nhắc nhở.  Những lúc ấy, con thấy mình quá ư là dốt đột… Nhưng hôm nay cái cảm giác an lạc thường nhật ấy không còn nữa, Thầy ạ!  Thay thế vào đó là một nỗi xót xa vô bờ và cũng thật mơ hồ mà ngay chính con, con cũng không nhận rõ được, sau khi được Thầy diễn tả cho con biết những khổ cực của người dân ở các tỉnh miền Trung đang phải gánh lấy, sau những cơn hoành hành của từng cơn, rồi lại từng cơn lũ lụt tới tấp phủ trắng cả những cánh đồng lúa vốn tự nó đã không được phì nhiêu vì những cơn hạn hán.
Thưa Thầy! Đã có một nỗi đau buồn thật quá đỗi chua xót trở về, òa chập và bủa vây tâm tưởng con, cho con tưởng chừng như mình đã không còn một lối thoát, khi con được xem những tấm hình Thầy đã chụp được khi Thầy đi cứu trợ ở Thanh Hóa. Thanh Hóa, tên gọi của một địa danh, chỉ có ở trong trí nhớ thật nhỏ nhoi của con qua những câu chuyện mà Mợ con thường đem ra tâm sự với con, mỗi khi người nhớ về một dĩ vãng tuy rất xa xưa nhưng cũng rất êm đềm của Cậu và Mợ. Ở nơi đó, tại hai ngôi làng vô cùng bé nhỏ và nghèo nàn, tên gọi là Đông Vệ và Cự Đà, nơi mà hai đấng sinh thành yêu qúy của con đã sinh ra và lớn lên.
Thưa Thầy, đó cũng là nơi mà cô Phật tử dốt đột của Thầy đã được ra đời và lớn lên trong một khoảng thời gian rất ngắn ngủi, (bởi sau đó nhỏ dốt đột này đã theo Cậu Mợ vào Nam) không đủ để để lại đôi chút kỷ niệm trong trí óc bé thơ của nhỏ.



Bạch Thầy! Đã có một bài hát thật hay, thật buồn nhưng cũng diễn tả được một phần nào sự nghèo khổ thiếu thốn của người dân miền Trung, vốn tự xưa nay đã tả tơi, giờ lại  trắng tay  trước sự tàn phá của những cơn bão tiếp nhau đổ xuống làng quê tiêu điều xác xơ ấy:
“Quê  hương  em  nghèo  lắm ai ơi
Mùa Đông  thiếu áo, hè thời thiếu ăn
Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm, à ơi
Khiến đau thương thêm tràn ngập Thuận An
Để lan biển khơi, ơ hò, ơ hò…”
Đó… quê nội, ngoại con nghèo lắm, Thầy ơi! Quê cha con đó, với những mái tranh chênh vênh siêu vẹo ngày nào tuy thật tả tơi chỉ đủ để chở nắng che mưa, nhưng lúc nào cũng đong đầy tình cảm thương yêu chân thật… Quê con nơi những người dân quê nghèo chất phác, giờ đây đang bị vùi sâu dưới cơn cuồng nộ của đất trời.  Lưa thưa đâu đó một vài mái ngói ẩn hiện trong vùng biển nước trắng xóa, bao trùm cả làng quê.  Người dân quê mùa đơn sơ, mộc mạc đã khô cằn những giọt nước mắt, nay có còn giọt lệ nào để khóc cho những điêu linh mà họ đang phải gánh gồng không, thưa Thầy!   
Con rời xa quê cha xứ mẹ đã hơn ba mươi năm, và đã có một lần nào cho con chịu dừng bước chân lãng tử quay về thăm lại quê hương miền Trung, thăm lại Cô, Dì, Chú, Bác, cùng những thân tình mà con chỉ nghe kể lại, chứ chưa hề một lần biết mặt. Con ước gì được một lần nào trở về thăm lại những cánh đồng lúa khô cằn, một lần nào trở về thăm viếng mồ mả Ông Bà tổ tiên.  Cho con một lần nào được bước những bước chân thênh thang trên con đường làng quanh co đầy bụi bặm và thầm hãnh diện với chính mình rằng “Ừ nhỉ, cuối cùng rồi thì mình cũng đã trở về”.  Chính vì thế mà hôm nay, khi được nhìn những hình ảnh thân yêu ấy, lòng con không sao khỏi bùi ngùi đau đớn.   Thương cho những người dân quê mùa mộc mạc, quanh năm suốt tháng oằn mình đón nhận thiên tai trút xuống như những nghiệt ngã đời đời….
Có còn ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết nỗi lòng thương nhớ đến xót xa của con về một nơi chốn mà con đã ra đi bất ngờ hơn ba mươi mấy năm về trước... Trước những thiên tai phẫn nộ của đất trời, trước những cơn cuồng lũ tiếp tiếp, làm cho người dân xứ Thanh vốn đã nghèo nàn  rách nát nay lại càng xác xơ tơi tả… Con chỉ biết chắp tay nguyện cầu   cho người dân xứ Thanh được một lần thôi hết những đau thương khắc nghiệt...
Bao giờ xứ Thanh quê con thôi hết điêu linh? Bao giờ người dân miền Trung thôi hết điêu tàn? Chiều nay, ở phương trời xa xăm này … con chỉ biết thắp nén hương lòng nguyện cầu cho quê hương xứ Việt “gió thuận mưa hoà – an cư lạc nghiệp mọi nhà – hưng thạnh thái bình đất Việt”!
Xin gởi về quê hương… một tấm lòng!
Kính nguyện Thầy mãi được an lạc và tự tại!

Phật Tử Viên Tài


Chào chị Tuyết Lan ,
Thì ra chị là nhà tu chân chính ạ? Cảm ơn chị đã chia sẻ. Chắc chị đi về phái Thiền?
Thân mến,
Bích-Định
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #82 - 10. Jan 2008 , 12:16
 
BichDinh wrote on 10. Jan 2008 , 09:37:
Chào chị Tuyết Lan ,
Thì ra chị là nhà tu chân chính ạ? Cảm ơn chị đã chia sẻ. Chắc chị đi về phái Thiền?
Thân mến,
Bích-Định


Bích Định ui
Mình không được có cái hân hạnh là một nhà tu chân chánh đâu .  Mình chỉ là một người PT tầm thường như mọi người.
Tập tành để thân tâm có được dăm giây phút an lạc và tịnh tĩnh của tâm hồn.  Thế thôi.  Mình đi về Tịnh Đô .  Cám ơn đôi  lời thăm hỏi của Bích -Đinh. Thế còn Bích -Đinh.
Chúc Bích -Định thân tâm hằng an lạc.
Một người bạn mới
Viên Tài
Back to top
 
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #83 - 15. Jan 2008 , 05:31
 
Hạnh Phúc Vỡ Tan 


TRẦN THIÊN THỊNH . Việt Báo Thứ Bảy, 1/12/2008, 12:02:00 AM

Bài số 2198-1990-764vb7120108
(Bài Viết Về Nước Mỹ năm 2007)

*

Tác giả Trần Thiên Thịnh vượt biển đến được trại Pulau Bidong, Mã Lai. Sau 7 năm vất vưởng, ông bị cưỡng bách hồi hương. Thêm 3 năm tuyệt vọng ở Việt Nam, ông được tái phỏng vấn và tới Mỹ khi đã 30 tuổi. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông kể lại ước mơ của người cha thân yêu... Sau đây là bài viết mới nhất.

*

Sau những chia lìa, gián đoạn, tan hợp,  cuối cùng Hiếu cũng phải ra đi. Ngoảnh mặt nhìn lại căn nhà lần cuối, lòng bồi hồi dâng lên một mối sầu cảm vô biên. Chiều nay, Bé Vy đi học về hỏi mẹ bố đâu. Câu trả lời của Hà như thế nào? Bao lâu nay, Hiếu và Hà chịu đựng lẫn nhau cũng chỉ vì Bé Vy, khi hạnh phúc của những ngày đầu không còn nữa. Dẫu rằng không nói ra với nhau bằng lời, nhưng cả hai cũng đều nhận ra rằng nếu chia tay, người chịu thiệt thòi nhiêù nhất là Bé Vy. Nó còn nhỏ dại, nào có hiểu gì sao lại bắt nó phải chịu những đọa đày như vậy.

Nhưng, con giun xéo mãi cũng oằn. Sợi giây néo hoài cũng đứt. Giọt nước cuối cùng đã làm tràn ly, không tài nào hốt lại được. Hai người chia tay. Bé Vy không được trọn vẹn giấc mơ tuổi thơ.

Nhìn lại, yêu nhau trong nghèo hèn khốn khó mà vẫn có hạnh phúc hơn. Người đời thường nói một mái nhà tranh, hai trái tim vàng chỉ có trong thơ nhạc, mơ mộng viễn vông. Đời thường mà như vậy chỉ nước cạp đất mà ăn? Tuy nhiên, những thủy chung như thế vẫn tồn tại trong cõi đời thường này chứ không phải chỉ có trong mộng mơ. Hà và Hiếu cũng đã trải qua những đoạn trường cay đắng trước khi đến được với nhau. Sống hết cho nhau một đoạn đời để rồi đi đến kết cuộc ngày hôm nay.

Họ gặp nhau trên cùng một chuyến hải hành vượt biển cách đây gần hai mươi năm. Tàu cuả Hà và Hiếu tuy không gặp phải hoàn cảnh bất hạnh bị cướp biển như hàng ngàn thuyền nhân khác. Nhưng họ cũng gặp phải cảnh dở sống, dở chết lênh đênh trên biển nhiều ngày mà bến bờ là niềm vô vọng. Những đợt sóng gào bão tố như muốn lật úp con thuyền nhỏ bé, nhấn chìm xuống lòng đại dương mênh mông những con người khắc khoải ngóng chờ một bến bờ tự do. Là con gái, Hà sức người như nhánh liễu tơ, làm sao chịu đựng được những dập vùi của bão tố, những đói, những khát của chuyến hải hành. Nếu như không có Hiếu bên cạnh, ai săn sóc cho nàng sau những cơn nôn thốc nôn tháo của người lần đầu tiên nhìn thấy biển. Cuối cùng, vận may cũng đến với hai người và nhiều người khác cùng chung trên một chuyến tàu. Sau nhiều ngày lênh đênh vô vọng trên biển. Họ đã được một ghe cư dân đánh cá tốt bụng hướng dẫn cặp bến trên đất Mã Lai. Mọi người ai nấy cảm tạ ơn trên đã ban cho ơn phước bình an, thoát khỏi cảnh vùi thây trên biển khi ngoái đầu nhìn lại chiếc thuyền mong manh từ từ chìm vào lòng đại dương.

Những tưởng ánh bình minh giờ đây sẽ mở ra với tất cả mọi người, khi đã qua được những đêm dài tăm tối nơi quê nhà, những tử thần ngày đêm rình rập trên biển cả. Nào ngờ, cánh cửa thiên đường mọi người hằng mơ ước, bất chấp cả sinh mạng để đánh đổi giờ đây cũng đã từ từ khép lại. Lòng nhân giờ đây cũng lụi dần như những đóm sao tàn trong màn trời đen trên biển cả. Cái giá của sự tự do mọi người phải trả, bằng thời gian, bằng sự chờ đợi. Bao lâu? Không ai biết. Hạnh phúc có đến được với tất cả mọi người trong giờ phút cuối hay không? Chẳng ai hay. Ai may mắn thì thời gian đợi chờ được rút ngắn lại, nhưng chí ít cũng phải vài năm. Còn không thì cũng hết cả một đời người, có khi cũng không đến được.

Họ đến với nhau bằng một tình yêu cũng thật tự nhiên. Hai tâm hồn cô đơn đến với nhau để lấp đi những trống trải trong cuộc sống đợi chờ, sẻ chia cho nhau những khắc khoải ưu phiền trong cuộc đời tha hương. Những tưởng rằng tình yêu của họ không thể chia lìa, ngăn cách. Nào ngờ, định mệnh đã an bài cho cảnh mỗi người một nơi. Hà ra đi mang theo tiếng sóng của biển, tiếng gió vi vu của những hàng dừa xanh như những lời tình tự họ đã dành cho nhau trong những năm tháng chờ đợi. Chia tay nhau bên cầu Jetty, những giọt nước mắt nửa vui mừng cho chính bản thân mình từ nay không còn phải sống cảnh tù tội, nửa kia xót thương cho những người còn ở lại không biết tương lai ngày mai sẽ ra sao. Những giọt nước mắt hòa chung hơi mặn của gió biển làm kẻ ở, người đi đều ngậm ngùi xót xa.

Hà ra đi, hành trang mang theo là một tình cảm sâu đậm dành riêng cho Hiếu. Phương trời xa lạ, một nơi nào đó nàng sẽ đến, một cuộc sống có thể giàu sang hơn nhưng làm sao có thể xoá nhòa được ân nghĩa mà Hiếu đã dành cho nàng từ phút đầu gặp nhau trên tàu vượt biển. Nàng tự hứa riêng với lòng mình bằng mọi cách sẽ cùng Hiếu sống chung suốt cuộc đời còn lại, dù thời gian cách chia có bao lâu đi chăng nữa. Nàng không thể mất Hiếu.

Đến với một đất nước xa lạ, cuộc sống mới đầy khốn khó trước mắt. Có đôi khi suy nghĩ lại, nàng cũng thấy nản lòng với những gì mình đã hứa. Hơn nữa, cuộc sống chung quanh đầy cám dỗ không ít khi làm nàng xao lòng. Nhưng khi nghĩ về những tháng năm khốn khó bên trại tị nạn, nàng cảm thấy thương Hiếu nhiều hơn. Dẫu cho cuộc sống có bề bộn tới mức nào chăng nữa, nàng cũng không thể cho phép mình lãng quên thư hỏi thăm Hiếu mỗi tháng. Là một người đã từng sống trong cảnh ngộ, nàng hiểu rất rõ những mong chờ nhận tin nhà của những người tị nạn. Dù ngắn, dù dài, nàng hiểu được nỗi vui mừng mỗi khi Hiếu nhận được thư nàng. Cũng như nàng đã vui những khi nhận được tin nhà.

Hà ra đi. Hiếu ở lại nếm những oan khiên của những con người lưu xứ, trong đó có dùi cui, vòi rồng và cả mùi lựu đạn cay. Cuối cùng cũng đành khuất phục trước lòng nhân đã cạn kiệt. Đành làm người tù nhân trở lại quê nhà, trên chuyến tàu không hơn ngày anh bỏ trốn ra đi.

Chuyến bay đưa Hà trở lại quê nhà đáp xuống phi đạo. Sức nóng, sức nắng cứ hắt lên người, lên mặt những người du khách. Ai nấy mồ hôi nhễ nhại nhưng cũng không dấu được nỗi vui mừng sẽ gặp lại người thân trong chốc lát. Hà cũng không thoát khỏi được tâm trạng ấy, khi nàng biết rằng Hiếu đang nóng lòng chờ đợi nàng bên ngoài. Vừa bước ra khỏi cửa, mắt nàng bỗng dưng nhòa đi. Không biết do hạnh phúc trùng phùng hay do nhìn thấy tấm thân tiều tụy của Hiếu. Sự khổ đau của một con người bất chí hằn rõ trên khuôn mặt và thân thể của anh.

Những ngày lưu lại nơi quê nhà Hà đã đem lại sức sống cho Hiếu rất nhiều. Sau một vài tuần nghỉ ngơi, thăm viếng đây đó Hà bắt đầu làm thủ tục để bảo lãnh Hiếu qua Mỹ. Nghi thức giản đơn nhưng cũng đủ để kết nối hai tấm lòng mà không một đại dương nào có thể ngăn cách được nữa. Bà con biết đến, ai cũng mừng khen cho Hiếu may mắn gặp được người con gái chung tình.

Sau khi thủ tục pháp lý hoàn tất, Hà quay trở lại Mỹ với cuộc sống bình thường như trước. Ngày tiếp nối tháng, tháng tiếp năm, nàng cảm thấy hạnh phúc và thoải mái hơn. Tất cả giờ đây chỉ còn là thời gian. Nàng càng sung sướng, hạnh phúc hơn khi nghe một mầm sống mới đang rạo rực trong cơ thể của mình. Không lâu sau đó, Bé Vy chào đời nhưng không có Hiếu bên cạnh. Hà đơn thân vượt cạn trong niềm sầu tủi vô biên. Phải mất thêm hai năm nữa, ngày bé Vy tròn hai tuổi Hiếu mới được đoàn tụ với mẹ con nàng.

Cuộc sống của gia đình họ sẽ không đi đến kết cuộc bi thảm như ngày hôm nay, nếu như nền kinh tế Hoa kỳ không lâm vào nạn thất nghiệp trầm trọng. Những ngày trước kia, dẫu chỉ là những người công nhân bình thường nhưng nhờ làm việc chăm chỉ siêng năng. Họ cũng có thể tạo dựng một cuộc sống ổn định, đủ ăn, đủ mặc như những gia đình khác. Đôi khi còn có quà biếu cho thân nhân còn tại Việt Nam, nhờ biết dành dụm. Cuộc sống của họ tuy đơn sơ nhưng cũng đủ đầy hạnh phúc. Thế nhưng, hạnh phúc mà gia đình nhỏ bé của họ không tồn tại được bao lâu. Khi tất cả các công ty Hoa Kỳ đều tìm kiếm những nguồn nhân lực rẻ, bớt chi phí để có thể cạnh tranh sống còn trên thị trường. Họ không ngần ngại đưa hàng hóa sang các nước có nguồn nhân lực dồi dào để giảm thiểu giá thành. Xa có các nước Á Châu, gần thì có anh hàng xóm Mê Hi Cô& Vì thế cho nên Hà và Hiếu lần lượt vợ trước chồng sau lâm vào cảnh thất nghiệp. Cả vợ lẫn chồng cũng đã cố gắng tìm kiếm những công việc mới trong thời gian còn hưởng trợ cấp. Bất cứ công việc gì họ cũng đều xin, dù công việc đó nặng nhọc đến đâu chăng nữa. Nhưng tìm sao ra trong khi các công ty ồ ạt thải người, làm sao họ có thể đối đầu với người bản xứ để có công ăn việc làm.

Khi những đồng tiền trợ cấp thất nghiệp cuối cùng ra đi. Công việc không thể tìm kiếm được. Còn một nghề có thể cứu sống gia đình họ qua khỏi cơn bỉ cực này. Cũng như đã cứu sống và giúp cho nhiều gia đình đồng hương khác giàu mạnh thêm trong nhiều năm qua. Nghề làm móng tay.

(còn tiếp ...)
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #84 - 15. Jan 2008 , 05:32
 
Hạnh Phúc Vỡ Tan  


(tiếp theo)


Đầu tiên, Hà cũng chỉ muốn kiếm thu nhập lo cho gia đình trong lúc tìm kiếm việc làm ở một hãng xưởng mới, như suy nghĩ của bao nhiêu đồng nghiệp khi mới bước chân vô nghề này. Nhưng một khi đã đi trên con đường này rồi thì khó ai có thể bước ra. Mãnh lực đồng tiền đã cầm chân họ lại có khi suốt cả cuộc đời. Vấn đề cũng dễ hiểu thôi. Nếu như chịu khó, không cần phải có tay nghề giỏi, mỗi tuần họ cũng có thể kiếm được một số tiền lương khá, cộng với tiền khách cho thêm. Đó là chưa kể số tiền họ nhận được là tiền "ròng", không phải khấu trừ một khoản thuế nào khác. Nếu chỉ cần làm một phép tính đơn giản thì chẳng ai dại gì quay về làm công nhân cho các hãng xưởng. Thêm vào đó thời gian học cũng không cần bao nhiêu. Bằng cấp thì cũng đã có người trước kẻ sau lo liệu. Đâu sẽ vào đó, không cần phải lo lắng nhiều.

Sau một vài tuần đến trường lớp cho có mặt. Thời gian thực tập của Hà chủ yếu là ở tiệm của một người quen, qua sự giới thiệu của một "cô giáo" trong trường. Tuy là làm thực tập, nhưng thỉnh thoảng nàng cũng nhận được tiền cho từ những vị khách hảo tâm, như một sự biết ơn người đã phục vụ, làm đẹp cho mình. Chỉ là mới bước chân vô nghề, nhưng sao Hà cảm thấy đồng tiền kiếm được khá dễ dàng. Không như những năm tháng đi làm công nhân cho các hãng xưởng. Duy có một điều Hà thấy không thể tránh khỏi cho dù đi làm ở bất cứ tiệm nào, nàng cũng đều nghe cả thợ lẫn chủ bàn tán hết chuyện người này đến gia đình người nọ. Có những câu chuyện nghe qua tưởng đâu người kể chuyện đang ở trong căn nhà ấy. Còn tệ hại hơn là quan hệ giữa chủ-thợ, thợ-thợ, có đôi khi bằng mặt chứ không bằng lòng. Cho nên sự hiềm khích đã xảy ra cũng không phải là ít. Nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc sống riêng tư của những người khác được kể lại, thực có mà giả cũng không thiếu. Có khi người kể cố tình thêm vào những chi tiết không có thực để làm cho câu chuyện thêm phần quan trọng và li kỳ mà người kể chuyện không biết rằng đó chính là con dao giết chết người.

Khi thấy tay nghề của mình đã đủ tự tin. Nguồn vốn dành dụm bao lâu nay cũng đã khá. Hà quyết định mua lại tiệm và tự mình đứng ra làm chủ, không phải lệ thuộc vào những người chủ khác. Công việc làm ăn của nàng trở nên hưng phấn và thịnh vượng nhờ vào tài khéo léo, biết làm theo ý của khách hàng mà cũng được lòng những người thợ làm. Trái ngược với Hà, Hiếu tìm việc làm hết ngày này qua tháng nọ vẫn không thấy một nơi nào gọi. Mọi chi phí trong gia đình lúc này hoàn toàn nhờ vào thu nhập cửa tiệm của Hà. Hiếu trở thành con người bất chí trở lại. Ngày ngày chỉ đưa đón bé Vy đi học. Thỉnh thoảng cũng chỉ giúp được Hà đi mua những dụng cụ trong tiệm là nhiều. Anh cũng đã cố gắng học nhưng không làm được. Hai bàn tay cứ rung lên mỗi khi cầm đến kềm kéo, thử hỏi có khách hàng nào dám liều mình đưa tay chân cho anh làm.

Tuy nhiên, khi đồng tiền kiếm được ngày càng nhiều, chẳng ai dại gì mà dừng lại, bỏ lỡ cơ hội kiếm tiền dễ như thế. Vì thế cho nên Hà đã khuếch trương mở thêm một tiệm mới khác nữa cho Hiếu đứng trông coi. Hiếu đã nhiều lần nói với Hà rằng " Anh làm thế nào được mà em bảo anh đứng trông coi tiệm". Nhưng nàng vẫn một mực cho rằng anh chỉ ra tiệm mở, đóng cửa và coi thợ làm mà thôi, không phải làm một việc gì khác. Để làm vừa ý vợ và cũng để khỏi mang tiếng là ăn bám, Hiếu đành phải xuôi theo ý Hà. Và, hạnh phúc gia đình cũng bắt đầu vỡ tan từ đây.

Từ khi hai vợ chồng phải trông coi hai tiệm. Tiền bạc có phần thoải mái hơn ngày xưa đi làm hãng xưỡng. Hà và Hiếu đã sắm được những chiếc xe đời mới. Nhà cửa cũng được thay đổi từ trong ra ngoài, một dàn karaoke và máy móc hiện đại mới tinh cũng được trang bị trong nhà để giúp vui cho những bữa tiệc cuối tuần. Ngược laị, thời gian họ dành cho nhau không còn được nhiều như thời gian trước đây. Sự chăm sóc cho Bé Vy cũng không còn được nhiều nữa, phần lớn là nhờ vào sự yêu thương của người vú nuôi.

Như đã nói ở trên, quan hệ không tốt đẹp giữa chủ-thợ, thợ-thợ không được tốt đẹp cho mấy vẫn thường xảy ra trong các cửa tiệm. Bởi cũng chỉ là con người, tiệm của Hiếu cũng không thể tránh khỏi những va chạm đời thường giữa con người với con người trong cuộc sống. Giá như cuộc sống mà không có những ganh ghét, hiềm tị thì cuộc đời này đã là thiên đường, không phải gọi là thế gian.

Câu chuyện được bắt đầu bằng một cuộc cãi vã giữa chị Nga và cô Hương, do lấn cấn với nhau về khách đến làm trong lúc Hiếu đi vắng. Thường những lúc có mặt ở tiệm, Hiếu phân chia những khách không lấy hẹn trước cho thợ rất đồng đều, người trước kẻ sau cứ thế mà làm, không ai dám lên tiếng phàn nàn. Thế nhưng lần này thì khác, chỉ vì một người khách mà chị Nga và cô Hương cãi nhau, thiếu điều thượng cẳng chân, hạ cẳng tay giữa chốn thiên hạ đông người. Điều mà ai cũng có thể nhìn thấy là chị Nga hơi ép cô Hương trong khi chị vừa mới làm xong một người khách và cô Hương thì mới tới. Từ đó mọi người nhìn chị với một ánh mắt ái ngại nhưng chẳng ai dám nói ra. Lúc Hiếu về tới, cuộc chiến giữa hai người đã lắng xuống phần nào, sau những lời khuyên can của những người hiện diện trong tiệm. Nhưng thỉnh thoảng vẫn còn đâu đó tiếng xỉa xói của chị Nga, còn cô Hương chỉ biết ấm ức khóc than.

Sau cuộc cãi vã giữa chị Nga và cô Hương, tình thân trong tiệm cũng không còn như trước nữa. Một thời gian sau, chị Nga xin nghỉ làm cho tiệm của Hiếu vì không còn thân thiện với những người làm chung. Trong khi tiệm của Hà đang cần thợ nên Hà cố giữ chị ở lại làm cho mình. Từ đó chị Nga có cơ hội để biện minh cho tội lỗi của mình với Hà và gán tất cả những xấu xa cho người khác là cô Hương trong tiệm của Hiếu. Ban đầu Hà cũng chỉ nghe và ậm ừ cho qua chuyện vì nàng đã nghe rất nhiều về những mẫu chuyện này. Dường như cảm thấy chưa đủ để thoả mãn sự bực tức và ganh tị trong lòng. Chị Nga lúc xa, lúc gần gán ghép Hiếu vào câu chuyện để tăng thêm sự ghen tuông trong lòng dạ đàn bà cuả Hà. "Bà Hà không lo giữ chồng, coi chừng có ngày "con quỷ cái" đó nó cướp đi mất. Ở đó mà cứ cung cúc lo cho tiệm. Ở đó mà cứ tin tưởng vô đàn ông". Lần một, lần hai Hà không nghe. Nhưng như mưa lâu ngày thì đất thấm. Hà đâm ra ngờ vực người chồng mà trước giờ nàng một mực trân trọng yêu thương.

Một lần, trong tiệm đang cần thuốc rửa sơn móng tay. Hà lấy xe chạy qua tiệm của Hiếu để lấy một ít về xài. Cũng đang lúc tiệm của Hiếu vắng khách vì là ngày đầu tuần. Những người thợ khác đang đi mua sắm trong những cửa tiệm gần đó, hay đang đứng hút thuốc đâu đó cho qua những giờ ế ẩm. Tiệm vắng hoe, Hà đi thẳng xuống phòng sau thì bắt gặp Hiếu và Hương đang cùng nhau ăn xoài sống chấm mắm đường. Việc chia nhau một miếng bánh hay một món gì ngon trong tiệm cũng là lẽ thường tình. Đang bực mình vì tiệm vắng khách, cộng với sự vui vẻ của Hương và Hiếu mà không để ý đến mình, sự bực tức trong con người của Hà tăng thêm bội phần. Từ đó, nàng suy nghĩ về những lời mà chị Nga xa gần bóng gió với nàng trước đây. Mối ngờ vực đã làm cho lòng ghen trong người đàn bà của Hà trỗi dậy. Không thể đè nén cảm xúc một mình, nàng bắt đầu cật vấn và mắng nhiếc Hiếu thậm tệ mỗi khi có thể. Trước đây, lòng yêu thương và sự kính trọng của nàng dành cho Hiếu bao nhiêu thì giờ đây nàng cũng trả lại cho Hiếu bấy nhiêu lời trách móc, oán hận. Dĩ nhiên, chị Nga trở thành một quân sư đắc lực của Hà lúc này. "Tui đã nói rồi mà, con mắt tui nhìn đâu có sai. Thứ con gái như nó thấy đàn ông là như... ". Đối với Hà lúc này mỗi lời nói của chị Nga là thần dược, cũng cố thêm lòng nghi kỵ trong Hà đối với người chồng mà nàng hết mực yêu thương trước đây.

Cứ thế, tình cảm vợ chồng của Hà và Hiếu càng ngày càng lạnh nhạt. Cho dù Hiếu có phân trần cách nào chăng nữa, đối với Hà đó chỉ là những lời ngụy biện, che đậy cho sự bội phản. Tất cả những gì trân quý vợ chồng dành cho nhau bao nhiêu năm nay đều bị phủ lấp bằng những lời ích kỷ của chị Nga. Như một ai đó đã từng nói, khi tiền bạc đi vào cửa trước thì hạnh phúc gia đình lặng lẽ (không chắc) đi ra bằng cửa sau. Hạnh phúc gia đình của Hà và Hiếu cũng được kết thúc bằng một phiên toà sau nhiều lần hội giải.

Khi ngồi viết lại câu chuyện này, có những suy nghĩ cứ mãi đập vào đầu người viết. Hà và Hiếu sẽ được gì sau khi rời khỏi toà án? Người mất mát nhiều nhất ở đây là Bé Vy. Tội nghiệp cho nó, nó có tội tình gì để phải hứng chịu sự mất mát do người lớn gây ra? Có lẽ, người được nhiều nhất trong câu chuyện này là chị Nga. Chị đã thỏa mãn được lòng đố kỵ, ích kỷ của bản thân, đã thấy được sự chia lìa của một gia đình hạnh phúc. Nhưng một lúc nào đó trong đời thường, có bao giờ chị nghĩ rằng chị đã thắng được cái tâm của chính mình?

Trần Thiên Thịnh
Back to top
« Last Edit: 15. Jan 2008 , 05:34 by dacung »  

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #85 - 17. Jan 2008 , 05:09
 
Đi Mỹ Thăm Anh Thăm Bạn


NGUYỄN QUÍ . Việt Báo Thứ Tư, 1/16/2008, 12:02:00 AM
Tác giả: Nguyễn Quí

Bài số 2200-1992-766vb4160108
(Viết về nước Mỹ)

*

Tác giả Nguyễn Quí, tuổi thất thập, từ Việt Nam sang Mỹ thăm người anh ruột, gặp gỡ bạn bè cũ. Bài viết ngắn của ông cho thấy nhiều biến thiên trong một gia đình.

*

Ba giờ chiều một ngày cuối tháng 7 năm 2007, tôi ì ạch vừa mang vừa xách mấy thứ quà lỉnh kỉnh ra phi trường Tân Sơn Nhất.  Sau khi làm xong mọi thủ tục, tôi vào phòng cách ly chờ và gần 5 giờ chiều thì lên máy bay.  Đây là lần đầu tiên tôi đi xa những nửa vòng trái đất.  Nhưng tôi rất vui vì sắp dược gặp người anh ruột đã bao năm xa cách.  Kể từ khi ra di, anh tôi chưa một lần về chơi; trước kia vì sợ, còn nay lại vì đã già yếu. 

Đúng 5 giờ chiều máy bay cất cánh và lao mình ra biển Đông để tới Đài Bắc.  Nghỉ một lúc rồi tôi chuyển máy sang máy bay của hãng China Airlines bay tiếp sang Mỹ. 

Sau hơn mười tiếng mỏi mệt cuối cùng tôi đã tới California.  Tám giờ tối, trời xẫm dần, bao ánh đèn dưới sân bay Los Angeles lung linh như bao ngôi sao dưới đất.  Anh đèn đêm trên phi trường đẹp lắm! Máy bay lượn vòng  rồi từ từ hạ thấp độ cao, lăn bánh trên phi đạo rồi dừng hẳn.  Mọi người thở phào nhẹ nhõm, mừng vui vì chuyến bay dài đã thật sự an toàn.  Thế là tôi đã tới một đất nước tự do, rộng lớn, một cường quốc của thế giới! 

Tôi vui sướng vì cũng sắp gặp lại người anh duy nhất và đã già nua bởi thời gian không ngừng trôi; mà tuổi thanh xuân thì không thể dừng lại!

Làm thủ tục nhập cảnh xong, tôi vội vã ra cổng phi trường và thật là cảm động khi nhìn thấy hai vợ chồng người bạn (chúng tôi quen nhau từ ngày họ ở trường đại học Bách Khoa ở Việt Nam) đang đợi tôi để đưa về nhà, vì anh tôi đã già, 80 tuổi, không lái xe được nữa.  Và cũng vì ông bạn cứ một mực để ông ấy ra đón.  Nghĩa là sau mấy chục năm xa cách, tình bạn của chúng tôi vẫn như xưa. 

Gần 12 giờ đêm xe mới tới nhà.  Chúng tôi ghé tiệm phở "Việt Nam" để thưởng thức bữa đêm đầy xúc động!  Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng mô tả tô phở thật hấp dẫn; và nó thật hấp dẫn còn bởi tình người.  Tuy nhiên phải nói giá phở ở đây đắt gấp 5-6 lần ở Sài Gòn.

Sáng hôm sau, bạn tôi đưa tôi tới nhà anh tôi.  Bầu trời Cali hôm nay trong sáng.  Mây trắng bay bay trên trời và hoa cỏ thắm tươi trên mặt đất.  Các sắc hoa rực rỡ đủ loại, đủ màu.  Nhà cửa thưa, đường rộng thênh thang, khí trời man mác.  Đẹp thay và vui lắm thay.  Ôi lòng đầy xúc động, đầy vui sướng. 

Một ông già; phải nói là một cụ già mới đúng.  Vì anh tôi đã ngoài tám mươi - đang đứng trước cửa chờ tôi.  Hai ông già gặp nhau (vì tôi nay cũng đã thất thập rồi), mừng mừng tủi tủi, nghẹn ngào chẳng nói nên lời.  Tôi mừng  vì sau mấy chục năm xa cách anh em tôi mới được gặp lại nhau.  Từ ngày anh tôi rời nước ra đi để tìm cho mình một cuộc sống tốt đẹp hơn, một nơi gửi gấm tuổi già và được sống đầy đủ trên một đất nước tự do và nhân đạo.  Anh tôi đã bắt đầu mất dần trí nhớ, người dong dỏng cao, gầy ốm vì bệnh tiểu đường, nhà cửa không có, nhưng tôi vẫn mừng vì ở đây anh tôi vẫn được chính phủ cho tiền ăn và chi tiêu, cho tiền thuê nhà và thậm chí cả tiền thuê người trông coi, cả về mặt y tế cũng được cấp thuốc men đầy đủ.  Bởi ông ấy được sống trên một hợp chủng quốc đại phú cường, tự do và đầy lòng bác ái.  Nếu như ở Việt Nam thì chưa thể nào mơ tới điều tốt đẹp đó.  Nước Mỹ thật là bao dung!  Biết bao người từ các nước khác đến định cư đều được đãi ngộ tốt - nào công việc làm, ăn học và chăm sóc chu đáo khi về già.  Thay mặt anh tôi, xin cám ơn những người dân Mỹ đầy lòng nhân đạo và tận tình giúp đỡ mọi người!  Chúc mừng nước Mỹ luôn phồn vinh.

Sau bao ngày hàn huyên với ông lão 80; bỗng một hôm tôi thấy tấm thiệp mời dự lễ thượng thọ của em gái anh tôi.  Cũng xin mở ngoặc ở đây để nói rõ cái từ "em gái anh tôi".  Ấy là vì cái thời xa xưa, từ những năm 1900… lâu lắm lắm; mẹ tôi từ Hà Nội xuống Kim Sơn - Ninh Bình buôn bán nên đã quen một chàng trai thư sinh, tuấn tú con trưởng nhà ông Cai Tổng.  Mẹ tôi, một cô gái lai Pháp xinh đẹp.  Nhưng vốn tính tự do nên không chịu nổi cái khuôn phép của lễ giáo phong kiến rất gò bó nên bà đã giã biệt nhà chồng sau gần một năm chung sống để trở lại đất Hà Thành, trở lại cái làng quê đã từng có tên trên câu thơ: nhịp chầy Yên Thái tiếng chuông Tây Hồ (Hồ Tây).  Còn ông trưởng nhà ông Cai Tổng thì ngậm ngùi, tiếc thương mà không dám vượt qua vòng lễ giáo đó, đành ở lại xứ Kim Sơn.  Sau vài tháng, mẹ tôi sinh ra anh tôi.  Một thời gian sau mẹ tôi lại tiếp tục về ở với bố tôi: cũng lại là con trưởng của một ông phó tổng, cháu đích tôn của cụ quan Nghè dòng họ Nguyễn Quý, đỗ tiến sĩ thời vua Minh Mạng năm thứ 7.  Tuy nhiên lần này thì mọi việc êm ấm vì quan Phó Tổng qui tiên sớm, còn ông con trưởng thì lại hiền lành.  Mẹ tôi đã sinh ra tôi.  Vậy là chúng tôi là hai anh em cùng mẹ khác cha; đồng thời cha tôi cũng là cha dượng và cha nuôi của anh ấy, vì chúng tôi cùng chung sống cho tới khi anh ấy lấy vợ ra ở riêng.  Còn chàng trai quý nhà ông Cai Tổng sau một thời gian cũng lấy vợ kế và sinh ra cô con gái lớn N.T.B.T. tức là người em gái của anh tôi hiện nay. 

Năm 1946 gia đình tôi đi tản cư về Kim Sơn, lại đến ở cùng làng với bố anh ấy cho nên hai gia đình kết thân với nhau và chúng tôi là đôi bạn thời niên thiếu; cùng tuổi và cùng học chung lớp nên thân nhau từ hồi đó.

Tôi mừng quá vì bao năm xa cách nay lại biết được bà ấy ở gần đây!  Tôi vội "a lô" ngay.  Và thật là may mắn, đầu dây bên kia có tiếng trả lời.  Tôi hỏi đùa là "xếp" có nhớ người em trai của ông anh bà không?  Vậy là "xếp" cũng mừng quá vì nhận ra tôi.  Lập tức bà mời tôi tới chơi.

Sáng hôm sau trời trong xanh, gió thổi nhè nhẹ, lòng vui lâng lâng, chợt xuất hiện N.T.B.T. - người bạn năm xưa và cô con gái của bạn xuất hiện trước cửa nhà anh tôi.  Cô gái nhỏ nhắn và vui tính năm xưa nay đã già nhưng vẫn còn đẹp trong con mắt tôi và con gái bạn cũng mảnh mai, hiền lành và xinh đẹp.  Chúng tôi nhìn nhau bằng con mắt cảm mến và rồi cùng cười vui chan chứa tình người, tình bạn cố tri.

Để đáp lại tấm lòng tri kỷ, vậy là chiều hôm sau, một buổi chiều mùa thu man mác; chúng tôi lại gặp nhau trên quả đồi vùng Mission Viejo, nơi bạn tôi ở.  Suốt dọc đường, hai bên đầy hoa và nắng gió, đầy cây xanh và những thảm cỏ mượt mà.  Hoa ở đây đủ loại nhưng tôi thích nhất là những bông hoa sắc vàng nổi gù lên như đầu con chim có mào và những đóa hồng phơn phớt, hay những bông đỏ rực rỡ và mịn như nhung, những đóa cúc to và trắng tinh khôi. Thật là một vùng đồi êm ả, rực rỡ sắc hương.  Ngôi nhà cô bạn, à quên bà bạn thật khang trang, xinh đẹp.  Lại một lần nữa tôi rất vui và cảm động bởi người bạn năm xưa không quên tôi mà tiếp đón nhiệt tình.  Ôi lạy chúa! Đấng bề trên đã cho tôi có những người bạn tốt, thật tốt.

Tối hôm ấy một bữa tiệc đúng thật nhộn nhịp được bày ra.  Không khí thật là huyên náo và đầy ấp tiếng cười!  Các con và cháu của bạn tụ tập đầy nhà vừa là để chào mừng tôi - người bạn phương xa tới vừa là để mừng một cháu mới sinh.  Vui lắm lắm!  Xin cảm ơn đã cho tôi được gặp lại những người bạn thật, gặp lại anh tôi sau bao năm xa cách.  Cảm ơn nước Mỹ văn minh và đầy lòng bác ái.

NGUYỄN QUÍ
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
ĐÊM XUÂN TRÊN VÙNG BIỂN CHẾT
Reply #86 - 03. Feb 2008 , 12:53
 
Hồi ký này đã được đăng trong đặc san  Lướt Sóng số đặc biệt "Chiến Thắng Hoàng-Sa" do BTL/HQ/VNCH phát hành vào khoảng tháng 2 năm 1974.



......

ĐÊM XUÂN TRÊN VÙNG BIỂN CHẾT



Thanh Chương

    Trong trận hải chiến lịch sử bảo vệ chủ quyền lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa tại quần đảo Hoàng-Sa hôm 19-01-1974, Hộ Tống Hạm NHỰT-TẢO đã bị trúng đạn địch. Hạm trưởng đã ở lại hy sinh theo chiến hạm; Hạm phó cùng một số ít nhân viên đã phải đào thoát trên 4 chiếc bè cấp cứu và lênh đênh đói khát 4 ngày 3 đêm trên biển, trước khi được một thương thuyền Hòa Lan cứu vớt tại 150 hải lý Đông Đà Nẵng vào đêm giao thừa. Dưới đây là những cảm nghĩ thật nhất, chưa hề được tiết lộ của những người thoát hiểm.   

    Bóng tối mỗi lúc một như thêm đặc lại. Hoàng hôn đã tàn. Biển càng lúc càng âm u hơn. Tôi muốn cử động, nhưng chân tay sao cứ rã rời tê dại. Súng thôi nổ, trận hải chiến đã kết thúc tự bao giờ. Giặc Tàu đền tội xâm lăng, xác chìm dưới biển, thây phơi như rơm rạ trên boong. Tiếng quân ta reo hò tựa hồ như còn âm hưởng đâu đây... Tôi cố nhớ lại loạt đạn thù nào đã hủy hoại một phần thân thể cho tôi đau xót hờn căm, nhưng sao mỏi mê cứ đầm đầm trên da thịt, trên đầu tôi băng cứng.
   
    Thời gian đã không còn là một ý niệm nơi đây. Tôi không còn nhận thức được ngày nào đêm mấy nữa. Những ngày lênh đênh trên biển là những ngày dài thê thảm và đêm ở biển là đêm của hư vô, dật dờ, lạnh lẽo. Đêm như im sửng lạ lùng. Tôi tưởng nhớ đến chiến hạm già nua cũ kỹ, nhưng đã mang tôi lênh đênh mười bốn tháng thân yêu, giờ này tàu tôi đang ở đâu? Đang trơ vơ với vết đạn thù hoang lở, đang nằm sâu dưới lòng biển lạnh muôn trùng? Hộ tống hạm mang tên giòng sông lịch sử ghi dấu chiến thắng lẫy lừng của tiền nhân đó, đã xa tôi thật rồi sao? Bạn bè mấy kẻ ra đi, mấy người ở lại?......

    Trên chiếc bè cấp cứu, chiếc bè đào thoát mà tôi tưởng chẳng bao giờ dùng tới, tôi đã cảm thấy đuối sức thật sự, hơi thở tôi hụt hẳn, lạnh băng vì xác thân tôi phải đẫm ướt luôn luôn và hai tay phải hoài giữ chặt giây lưới trong bè để khỏi rơi xuống biển. Bây giờ tôi không còn trực nhật, không còn đi 'quart' hải hành giữa vùng biển nước thêng thang xa vắng này nữa rồi. Sáu người chúng tôi chỉ còn biết bấu víu hy vọng mong manh vào chiếc bè thôi. Trước đó, 4 bè cấp cứu được buộc vào nhau với 23 người hợp đoàn, nhưng không biết bao lâu trôi dạt, các mối giây tự nhiên tuột đứt trong lúc chúng tôi không còn hơi sức để nối lại nữa.

    Tôi nghĩ rằng giữa hai phần sinh tử, thì phần tử đã chiếm 90%, chỉ còn 10% là niềm hy vọng con tàu nào đó, trên thủy trình từ Bắc vào Nam hay từ Nam ra Bắc, thấy và vớt chúng tôi ... Hy vọng vươn lên khi mặt trời rạng rỗ ban ngày, nhưng cũng lụn tàn khi màn đêm rũ xuống! Kinh nghiệm hải hành ban đêm cho tôi biết rất khó phát hiện vật trôi trên vùng biển sương mù, nhất là vật nhỏ và thấp như 'bè cấp cứu' của chúng tôi. Trên Rada thường hiện lên những ' Echo giả', người ta sẽ lầm chúng tôi với những ' echo giả , đó chăng? Các bạn tôi cũng dõi mắt tuyệt vọng mong tìm một ánh đèn hải hành ' hữu xanh tả đỏ' trên bất cứ chiếc tàu nào, nhưng có thấy gì ngoài những đợt sóng nhấp nhô ma quái thấp thoáng trên mặt nước mênh mang...

...
Hạm Phó HQ10


     Một Hạ sĩ chợt kêu thảng thốt vào tai tôi: "Trung úy ơi! Hạm phó chết...rồi!"
Một thoáng xót xa cho tim tôi quặn thắt, một nỗi buồn vời vợi xâm chiếm trong tôi! Đành vậy, biết sao bây giờ! Người đã bị thương nhiều nhưng quyết ở lại cùng Hạm trưởng, cùng chiến hạm dấu yêu đang ngụt sôi lửa hận trong vùng biển quê hương! Hạm trưởng thật là một MAGISTER POST DEUM, là quyền uy thứ hai sau trời! Hạm trưởng đã ở lại, còn Người sao không nghĩ đến ngày mai rửa hận? Một nhân viên đã phải vực Người nhẩy xuống cùng bè với tôi, bè cấp cứu sau cùng rời chiến hạm. Khắp thân Người nhầy nhụa máu. Máu truyền thống, máu bất khuất muôn đời. 
"Một giọt máu đào, hơn một rừng châu báu". Người đã đổ hết những giọt châu báu của mình để bảo vệ gấm vóc quê hương, bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ. Anh hùng cao cả thay cho chí khí của Người đã chọn Đại Dương làm Mẹ lúc vừa khoát lên mình mầu áo xanh quân chủng. Giờ thì Người đã về với Mẹ, về với Tổ Quốc Đại Dương. Chỉ còn chờ lễ thủy táng theo tục lệ mà thôi! ......

    Ý nghĩ chết chóc mãi lẩn quất trong đầu óc tôi. Rồi chừng nào đến lượt mình đây?... Khuôn mặt của Mẹ Cha khắc khổ, của em thơ ngây dại, của người yêu bé bỏng lần lượt hiện ra ... Không, không thể được. Tôi phải sống. Tôi còn nhiều bổn phận. Tôi không thể chết khi ngựa hồng tôi chưa mỏi vó! Hy vọng duy nhất của tôi là được gặp một chiếc tàu. Bất cứ tàu nào!

    Ngước trông bầu trời đầy sao lấp lánh, tôi vẫn mòn hơi chờ nhìn thấy một vì sao đổi ngôi để cầu xin điều ước vọng đó. Chòm sao ORION với dãy LES MAGES làm tôi quất quay nhung nhớ người yêu. Sao SIRIUS, vì sao sáng nhất trên trời mà tôi vẫn thường ví màu xanh đẹp như màu xanh mắt nàng. Tôi cũng thường kể nàng nghe chuyện thần thoại La Hy với 7 nàng công chúa kiều diễn con thần JUPITER, hiện thân của chòm "sao mão" PLEIADES, đi chơi trong rừng lạc lối, gặp thợ săn ORION vì quá ngưỡng mộ đuổi theo hoài mà không bắp kịp ... Bây giờ tất cả đã chia xa. Những vì sao muôn đời vẫn còn đó nhưng có giúp tôi được những gì, ngoài sự nhận ra phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc từ chòm ORION kia. Nhưng nào có ích chi, khi chúng tôi không còn khả năng vận chuyển nữa, dù rằng vận chuyển chiếc bè nhỏ bé này. Thôi thì phó mặc cho giòng nước đẩy đưa. Đêm ở biển lạnh tái tê, gió rít từng hơi trên mặt sóng, chúng tôi ngồi sát gần nhau, san sẻ với nhau những nỗi kinh hoàng, những niềm bất hạnh lo âu.

    "Đêm nay là đêm Giao Thừa!". Anh Hạ sĩ ngồi gần nói với tôi như thế.

    Đêm xuân hẳn rộn ràng trên vùng phố thị có người em yêu tuyệt vời của tôi. Còn nơi đây có gì ngoài một vùng biển nước không bờ không bến ngút mù sương. Ba đêm ngày không miếng ăn thức uống, sống thoi thóp lo sợ những đàn cá mập rập rình theo dõi, toàn thân luôn ướt đẫm. Nước biển mặn xót đau trên từng vết thương đã khô rồi giòng máu thắm. Những giòng máu đã chảy ra cho quê hương nước Việt mến yêu.

    Bổng, "Có tàu Trung úy ơi!". Tiếng reo vui của anh Hạ sĩ làm tất cả chúng tôi chợt tỉnh táo tinh thân lên với niềm hy vọng ở chiếc tàu cứu tinh kia. Hẳn suốt đời không bao giờ quên những ân nhân đó. Tuy khác màu da, không cùng ngôn ngữ Mẹ, nhưng sao tình thân thiết lạ lùng! Một vệt sáng đèn pha lướt qua phía trên đầu chúng tôi. Sức mạnh thiêng liêng nào đã làm tất cả như chồm lên vẫy tay ra dấu. Chúng tôi lại có thêm nỗi lo âu mới là những người trên tàu đó không thấy được chúng tôi và bỏ đi. Trên vùng biển mờ sương, tất cả những lạnh lẽo, đau đớn, mòn hơi, kiệt sức đã nhường chỗ cho sự háo hức, rạo rực trong chúng tôi. Nỗi vui mừng bao xiết khi chiếc xuồng cấp cứu (youyou) với đèn pha chiếu thật sáng tiến gần chúng tôi. Thế là thoát chết! Đa tạ ơn trên! Từng người từng người được xốc lên, xuồng cấp cứu quay về chiếc tàu buôn to cở tàu SEALAND mà tôi thường gặp trong sông Sàigòn. Chiếc tàu không một chút bồng bềnh vì to quá và vì biển êm nữa. Cả xuồng cấp cứu và chúng tôi trên đó, được trục vớt của tàu móc lên một cách nhẹ nhàng êm ái ... Tôi dần dần tỉnh hơn, nhãn lực và tinh thần đã có nhưng chưa hoạt động gì được ...

    Thuyền trưởng bảo rằng: "... you're very lucky" và cho biết chúng tôi là nhóm cuối cùng thật may mắn được vớt lúc 23 giờ 30 và chiếc xuồng cấp cứu đó là của tàu thả xuống, với vị Thuyền phó đích thân đi tìm trên biển lạnh lùng từng chiếc bè cho đến nhóm cuối cùng là đến bè chúng tôi. Nghĩa là các bạn tôi đều được cứu vớt. Còn nỗi mừng nào hơn? Còn lòng thán phục nào bằng cho nghĩa cử cao đẹp, tình đồng loại của những người trên tàu đều tận tâm lo phục hồi sinh lực chúng tôi sau khi biết chúng tôi bị nạn vì trận hải chiến với quân Trung-Cộng xâm lăng. Tôi hỏi tên chiếc tàu cứu nạn và nhờ họ viết lên tờ giấy bạc 20 đồng của tôi để ghi nhớ, kỷ niệm. Được biết đây là tàu chở dầu thuộc công ty SHELL, tên SKOPIONELLA, quốc tịch Hòa Lan, vừa đại kỳ xong và đang trên đường đi SINGAPORE. Họ đã biết sơ về trận hải chiến lịch sử của Hải quân Việt Nam anh hùng nhờ theo dõi tin tức của hệ thống truyền thanh, truyền hình ở Hồng-Kông. Chúng tôi dùng tiếng Anh để cảm thông với họ ...

    Suốt đêm Giao Thừa, họ phải ngưng máy, thả trôi, để lo săn sóc 22 người chúng tôi. Xúc động nhất trong đêm đó và có lẽ một đời tôi không quên được lòng tận tụy của hai phu nhân vị Thuyền trưởng và Thuyền phó tàu dầu SKOPIONELLA này. Với robes trắng, gương mặt thật đẹp, thật tươi của tuổi ngoài hai mươi, màu mắt xanh thật quý phái, phu nhân Thuyền trưởng và Thuyền phó đã như hai bà tiên phúc hậu săn sóc tôi và các bạn một cách tận tâm chưa từng thấy. Những thắp sáng có một chưa hai nơi con người, nơi tình tự dân tộc Hòa Lan và Việt Nam. Như những bà Sơ thật hiền lành, chỉ biết cười và nói những lời ngọt như trái chín, hai phu nhân đã lột trần chúng tôi rửa bằng nước ấm, lau bằng khăn lông, làm ấm dần cơ thể tưởng như hóa đá lâu ngày. Họ tự nhiên, thân thiện như một hiền phụ chăm sóc cho chồng đi chinh chiến chốn sa trường chẳng may "ngựa hồng ngã vó". Như Mẹ Việt Nam hiền hòa muôn thuở, họ đã rửa từng vết thương, cho uống từng ngụm sữa, và ngồi trông chừng chúng tôi suốt đêm không mảy may tiếc nuối giấc nồng. Tác động tâm lý đó làm chúng tôi chóng bình phục hơn mọi thứ thuốc men nào! ...

    Rồi cũng qua đi thời gian hạnh phúc ngắn ngủi trên tàu Hòa Lan với những ưu ái của Thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ đoàn, nhất là hai vị phu nhân Thuyền trưởng Thuyền phó! Tôi ngùi ngùi nuối tiếc những giây phút huyền dịu đó, khi được chuyển sang một chiến đĩnh của Hải Đôi I Duyên Phòng. Tôi cảm thấy như đánh mất một cái gì quý giá mà mãi mãi không làm sao tìm được. Họ gởi cho chúng tôi những thùng khăn lông, xà bông; tôi nghĩ đó là kỷ niệm gói ghém tấm lòng bác ái, cảm thông giữa những người cùng yêu nghiệp biển nói chung và giữa thủy thủ đoàn thương thuyền SKOPIONELLA với chúng tôi, những người chiến sĩ HQVN lâm nạn, nói riêng.

    Thế rồi chúng tôi đã được chuyển từ chiến đĩnh sang Tuần Dương Hạm TRẦN-QUỐC-TOẢN đưa về điều trị tại Bệnh viện Hải Quân Đà Nẵng. Nơi đây, chúng tôi lại được những an ủi vô cùng trong đời hải nghiệp, đó là những cuộc thăm viếng ủy lạo của vị Anh cả Hải Quân Việt Nam cùng các Sĩ quan cao cấp Hải Quân, các đoàn thể, tôn giáo ...v.v...

    Khung cảnh ấm êm hạnh phúc nơi này dành cho 21 người chúng tôi đã khiến cho tôi bùi ngùi nhớ thương những bạn bè đã ở lại chiến hạm quyết tử chiến với địch thù xâm lược, những bạn đã phải hy sinh trên đường trôi dạt dai dẳng mấy ngày qua. Những người đó mới chính là những liệt sĩ anh hùng làm rạng danh quân chủng Hải Quân Việt Nam vậy.

    Đã qua rồi đêm xuân hãi hùng trên vùng biển chết đó, mà sao tiềm thức tôi cứ mãi vật vờ những ý tưởng mông lung... Tôi được sống lại đây bởi phép nhiệm mầu hay bởi bàn tay hiền dịu của phu nhân thuyền trưởng khả ái trên thương thuyền Hòa Lan gặp gỡ giữa đêm Giao Thừa Xuân Giáp Dần 1974.

Thanh Chương (07-02-1974)


Xin mời nghe chuyện đọc
ĐÊM XUÂN TRÊN VÙNG BIỂN CHẾT
Back to top
 
 
IP Logged
 
DoQuan
Gold Member
*****
Offline


Boycott Red China

Posts: 681
Re: Truyện ngắn
Reply #87 - 05. Feb 2008 , 06:40
 
Anh Phu De,
 Chuyện kể thấy thương vô cùng với những người chiến sĩ Hải quân mình trong trận chiến Hoàng Sa 1974.  Mới thấy có những tấm lòng nhân đạo của con người ở đất nước tự do mới có như thương thuyền Hòa Lan trong tryện kể trên.

Xin mời anh và các ACE  đọc một truyện dưới đây không biết đã có post ở đây chưa nhưng đọc thêm chắc cũng chẳng sao. Đọc truyện này khi Xuân về mà nước mắt doanh tròng....
---


...


Phạm Tín An Ninh

Chiếc thuyền nhỏ mang theo hơn năm mươi người, một nửa là đàn bà và con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của Nauy trên đường từ Nhật sang Singapore cứu vớt. Hai ngày sống trên tàu chúng tôi có cảm giác như đang ở trên một thiên đàng. Tất cả đều được tận tình hỏi han chăm sóc. Chúng tôi cảm thấy vừa mừng vừa xót xa khi nhận ra thế gian này vẫn còn có đầy ấp tình người. Họ là nhừng kẻ xa lạ, không cùng màu da, màu tóc, không cùng ngôn ngữ, mà lòng thông cảm yêu thương họ đã dành cho chúng tôi lớn lao biết đến dường nào. Trong lúc những “người anh em” cùng một nhà thì lại hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng để phải đành lòng bỏ nước mà đi. Với ân tình đó chúng tôi chọn Vương quốc Nauy là quê hương thứ hai để gới gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.

Sau gần một năm ở trại tị nạn, gia đình chúng tôi được đi định cư. Khi bầu đoàn thê tử như một bầy nai vàng ngơ ngác bước xuống phi trường Oslo, được nhiều người đón tiếp, trong đó lại có cả mấy ông nhà báo và đài truyền hình nhà nước phỏng vấn, quay phim . Gốc nhà quê, nên tôi cũng chẳng biết họ quay phim để làm cái gì. Trước khi về nhà, chúng tôi còn được mời vào một nhà hàng Tàu, và tha hồ gọi bất cứ thức ăn nào mình thích.

Đến khi bước vào ngôi nhà, được bà trưởng phòng xã hội trao cho một chùm chìa khóa, dẫn đi một vòng xem phòng ốc đã được trang trí xong nội thất, cái bếp và cả cái tủ lạnh có sẳn đầy đủ thức ăn nước uống, một cái TV màu. Mọi thứ đều mới tinh. Sáu đứa con và hai đứa cháu họ của tôi thì ngồi mân mê mấy cái bàn học, và mấy cái ba lô có đầy đủ sách vở trong đó. Trước khi ra về bà giới thiệu chúng tôi một cô nhân viên của bà, và một cô giáo ở lại hướng dẫn chúng tôi xử dụng mọi thứ tiện nghi trong nhà, và mỗi ngày sẽ đến đưa gia đình chúng tôi đi mua sắm, khám bệnh, làm răng, còn cô giáo thì đặc trách lo việc học hành cho mấy đứa nhỏ. Khi tất cả ra về, tôi nằm dài dưới sàn nhà và chợt khám phá ra rằng mình quả là may mắn được đến định cư ở một nước Bắc Âu xa lạ nhưng thơ mộng và có quá rộng tấm lòng này, mà lúc xuống biển ra đi chắc chẳng có ai bao giờ nghĩ tới.

Buổi tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần trước cái TV. Thằng con trai lớn ra điều mới học được văn minh, bấm tới bấm lui tìm đài. Cả đám bất ngờ nhìn thấy dung nhan của mình trên màn ảnh. Thì ra chương trình phóng sự. Họ đang kể về gia đình chúng tôi: <“những công dân mới của Nauy, mà ông bố đã từng ở tù nhiều năm, giống nhiều người Nauy bị nhốt trong các trại cải tạo của Đức quốc xã, cái thời Hitler làm mưa làm gió ở Âu Châu, và đã can đảm dắt theo sáu đứa con và hai đứa cháu nhỏ vượt đại dương trên một chiếc thuyền đánh cá mong manh” . Nghe họ ca ngợi mình mà tôi xấu hổ. Dù gì tôi cũng là kẻ bỏ nước tha phương, với họ, ít nhiều gì cũng là một cành tầm gởi. Còn chuyện vượt biển, vượt biên, đến bước đường cùng thì ai cũng phải liều mạng thế thôi, chứ có hàng triệu người còn can đảm gấp vạn lần tôi. Nhiều người đi bằng đường bộ, trèo núi, băng rừng, lội suối, bơi sông, qua Cam Bốt, Thái Lan, để vài năm sau mới đến được Singapore. Và dĩ nhiên đã có biết bao nhiêu người chẳng bao giờ tới bến.

Cũng vì cái chương trình phóng sự bất ngờ này, mà sau đó, mỗi ngày gia đình chúng tôi phải tiếp nhiều người khách không mời, và nhận đủ thứ quà. Trong số đó, đặc biệt có một người đàn bà Việt Nam, mà lúc bà mới bước vào nhà, chúng tôi cứ tưởng là người Nhật, hay là người Tàu gì đó, khi nhìn thấy cái vẻ quí phái đặc biệt của bà. Tôi nghĩ có lẽ không có người Việt Nam nào sống ở cái xứ Bắc Âu xa lạ này từ lâu để có được nét đẹp của một người con gái đông phương pha lẫn âu tây ở cái tuổi còn trẻ như bà. Sau đó tôi bất ngờ thú vị khi bà tự giới thiệu tên là Huyền-Trân Thomassen, hiện là giảng sư môn nhân chủng xã hội học taị trường đại học Oslo, chồng bà là người Nauy, hiện đang làm đại sứ tại Mexico. Bà không muốn bỏ nghề bà yêu thích, hơn nữa bà vẫn còn tiếp tục nghiên cứu về ngành này, nên không theo chồng mà ở lại Nauy với hai đứa con. Lúc nhỏ bà theo cha sang sống ở Thụy Sĩ, khi cha bà là đại sứ của VNCH tại đó. Người chồng của bà, cũng thuộc một gia đình có truyền thống ngoại giao. Cha của ông cũng một thời là đại sứ của Nauy tại Thụy Sĩ. Hai người con của hai ông đại sứ quen nhau từ khi học chung một trường trung học và làm đám cưới sau khi tốt nghiệp đại học tại thủ đô Bern, một năm trước khi miền Nam Việt Nam thất thủ.

Tôi rất ngưỡng mộ người đàn bà trẻ này. Rời Việt nam từ lúc 12 tuổi, nhưng bà nói tiếng Việt rất lưu loát, hiểu biết rất nhiều về văn học Việt nam, từ truyện Kiều của Nguyễn Du, đến bài thơ Hai Sắc Hoa TyGôn của TTKH. Điều đặc biệt hơn hết là bà rất quí mến và giúp đỡ tận tình người đồng hương. Gia đình tôi cũng mang nặng khá nhiều ơn nghĩa của bà.

Những ngày sống hạnh phúc ở quê người, nhìn con cái ngày một lớn lên và đang có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt, lúc nào tôi cũng chạnh lòng nhớ lại cái thời mình khốn khó và những bạn bè xưa. Tôi thấy mình nợ nần nhiều người mà không biết làm sao trả được. Trong số này, người mà tôi thường nghĩ tới nhiều nhất và ân hận chẳng giúp được điều gì là Nguyễn Thượng Tâm, người đồng đội và cũng là đứa em kết nghĩa của tôi.

Tâm ra trường sau tết Mậu Thân. Về trình diện đơn vị tôi khi vừa tròn 18 tuổi. Măc dù còn rất trẻ, nhưng đuợc đào tạo từ lúc còn nhỏ tại trường Thiếu Sinh Quân nổi tiếng ở Vũng Tàu nên Tâm là một hạ sĩ quan gương mẫu trong kỷ luật và gan dạ trong chiến trường. Tâm hiền lành và rất ít nói. Nhưng không phải vì vậy mà tôi trở thành thân thiết với Tâm và hai thằng kết nghĩa anh em, nếu không có buổi sáng mồng một Tết năm 1969, khi đơn vị chúng tôi tạm dừng quân trong một ngôi làng hoang đổ nát nằm sâu giữa những động cát nơi giáp ranh hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy lúc trước.

Dù đang hành quân, nhưng biết hôm nay là mồng một Tết, tôi thức dậy thật sớm, thay bộ đồ trận mới, đi một vòng chúc tết anh em. Ngày đầu năm, nằm giữa một khu hoang tàn không một bóng người, chắc ai cũng chạnh lòng nhớ tới gia đình. Chiếc radio từ một căn lều poncho nào đó đang phát ra tiếng hát nỉ non của ca sĩ Duy Khánh, trong bản nhạc Xuân Này Con Không Về của Trịnh Lâm Ngân, làm lòng tôi càng thêm lắng xuống. Đến cuối ngôi làng, tôi bỗng giật mình khi nghe tiếng sụt sùi. Lại gần tôi mới nhận ra Tâm. Anh ta đang quì lạy trước một cái bàn thờ được kê bằng cánh cửa sổ của căn nhà nào sập xuống. Trên bàn thờ dã chiến, tôi thấy có mấy cái hoa rừng cấm trong cái bi đông nước, hai bát cơm bằng gạo sấy và một lon guigoz có lẽ chứa nước trà hay canh nấu bằng lá giang hay lá tàu bay gì đó. Tâm khấn vái một lúc, quay lại bất ngờ nhận ra tôi. Tâm đưa tay chào và cũng như mọi khi, không nói một lời nào. Có lẽ Tâm biết là tôi đã đứng im lặng ở đây từ lâu lắm. Tôi bước tới nắm chặt tay Tâm, kéo anh đứng lên. Tâm vội rút tay ra lau nước mắt. Tôi đến trước bàn thờ vái một vái, rồi vỗ vai Tâm:

- Em cúng bố mẹ à. Sao đầu năm mà buồn quá vậy em.

- Không, bố em còn ở ngoài Bắc, em không biết là còn sống hay đã chết. Mẹ em thì đã qua đời lúc em còn bé lắm. Nhà em ở tận Ý Yên, nhưng bố em đi làm xa, nên phải gởi hai anh em em xuống nhà ông chú ở Hà Nội học, rồi theo gia đình chú ấy xuống tàu há mồm vào Nam luôn .

- Còn anh của em bây giờ ở đâu? Tôi hỏi.

- Anh ấy chết rồi. Anh là sĩ quan thủy quân lục chiến, tử trận đúng ngãy mồng một tết Mậu Thân ở ngay Sài gòn . Hôm nay là giổ đầu của anh ấy.

- Anh em tên gì?

- Nguyễn thượng Minh, khi chết anh vừa mới lên trung úy.

Tôi giật mình. Cái tên Nguyễn thượng Minh làm tôi nhớ ngay đến một thằng bạn cùng tên hồi còn tiểu học. Tôi hỏi Tâm:

- Vậy có phải em là cháu của thầy giáo Nguyễn Thượng Cầu?

- Dạ phải, nhưng chú Cầu đã chết lâu rồi. Tâm trả lời rồi nhìn tôi ngạc nhiên.

Năm 1954, tôi đang học lớp nhì trường huyện Vạn Ninh. Nhập học được vài tháng, thì thầy hiệu trưởng Nguyễn công Tố dắt ba đứa học trò lạ vào lớp giới thiệu với cô giáo Kiệt rồi dặn dò đám học trò chúng tôi :

- Hôm nay trường nhận thêm những em học trò mới, trong đó có ba em vào lớp này. Tất cả các em phải biết yêu thương và giúp đỡ những người bạn này, vì họ đã vừa phải bỏ quê hương, gia đình ngoài miền Bắc, di cư vào đây. Đó cũng là lời kêu gọi của Ngô Thủ Tướng.

Hai thằng con trai và một đứa con gái cúi đầu chào cô giáo rồi quay xuống chào chúng tôi bằng thứ tiếng lạ hoắc khó nghe. Thằng lớn con nhất được cô Kiệt chỉ cho ngồi dãy bàn cuối lớp, ngay phía sau tôi.

Đến giờ ra chơi, bọn tôi bu quanh “phỏng vấn” nó đủ điều. Tên nó là Nguyễn Thượng Minh. Nó và thằng em nhỏ hơn bốn tuổi, nhà ở quê, mẹ chết sớm, ông bố đi làm xa, nên phải gởi anh em nó xuống Hà Nội ở nhà ông chú để học hành, hơn nữa ông lại là thầy giáo. Khi có lệnh di cư, ông chú không liên lạc được bố nó, nên dắt hai anh em nó xuống tàu há mồm vào Nam luôn, rồi được chính quyền phân phối đến định cư ở quê tôi, Vạn Giã, cùng với hơn mười gia đình khác . Nó bảo vài hôm nữa ông chú nó cũng sẽ được sắp xếp cho vào dạy lớp ba trường này, thay cho một ông thầy thuyên chuyển đi nơi khác.

Nó lầm lì ít nói, chắc ngại cái tiếng Bắc Kỳ xa lạ của nó. Nhưng không phải vì điều đó mà làm cho tôi ghét nó, và đã có nhiều lần đánh lộn với nó nữa. Lý do chính là nó đánh bi rất giỏi, giành mất giải quán quân của tôi trong lớp. Nó đánh bi khác với chúng tôi. Chúng tôi để viên bi lên đầu ngón tay giữa rồi bắn đi, còn nó đặt viên bi trong lòng bàn tay và bắn đi bằng ngón tay cái. Vậy mà nó ăn tôi sạch túi. Bọn tôi bảo là nó ăn gian, không được chơi kiểu bắc kỳ của nó mà phải chơi theo kiểu trung kỳ của bọn tôi. Nhập gia phải tùy tục. Nó cô đơn một mình nên chịu thua, phải trả lại cho tôi tất cả viên bi nó thắng ngày hôm đó. Vậy mà hai hôm sau nó chơi trở lại, dĩ nhiên với cái kiểu hoàn toàn mới lạ với nó, nhưng nó vẫn thắng tôi oanh liệt. Cuôc đấu bi này bây giờ không phải chỉ giữa cá nhân hai thằng: tôi với nó, mà giữa hai miền nam-bắc, cho nên học trò trai gái cả trường bu quanh làm khán giả. Tôi thua trắng tay, mất luôn chức vô địch từ lớp năm đến bây giờ. Dĩ nhiên là tôi ức lắm. Điều ghê gớm hơn nữa, là chỉ có cuối tháng đầu tiên nó đứng hạng ba trong lớp, lên nhận bảng danh dự sau tôi, nhưng kể từ tháng thứ nhì trở đi nó đều chiếm hạng nhất. Tôi đâm ra hận nó, có nó là tôi mất tất cả. Mấy lần tôi nhại tiếng Bắc chọc quê nó, nó cũng chỉ cười, tôi nghe lời xúi của lũ bạn, bảo nó rờ sau “đít” coi có còn tòn ten cọng rau muống nào không, nó chỉ im lặng . Có lần bọn tôi xô nó ngã, nó chỉ cười, đứng dậy rồi phủi bụi trên áo quần. Tôi thua nó, nhưng cố làm ra vẻ tự mãn: “nó vẫn chỉ là một anh hùng cô đơn, không có ai chơi với nó”.

Đùng một cái nó nghỉ học. Chẳng có ai biết lý do. Nhưng rồi vài ngày sau nó tới trường, nhưng không phải để học mà để bán bánh mì và cà rem. Cô giáo và bạn bè hỏi, nó khóc và bảo là bà thím, sau khi cãi vã với chú nó một trận, không nuôi hai anh em nó nữa, nó phải tự “khắc phục” để còn nuôi một thằng em nhỏ. Hôm đó bọn tôi nhiều thằng cũng khóc theo với nó. Chờ cho tất cả vào lớp, tôi ở nán lại chỉ để ôm nó và nói một lời xin lỗi về những điều đã qua. Nó nhìn tôi thân thiện, và bảo là nó chưa hề để tâm tới điều ấy. Tôi “tâm phục khẩu phục”nó. Nó còn nhỏ mà thông minh và thánh thiện hơn tôi nhiều.

Tôi bèn làm ngay một cuộc “quảng cáo” cho bánh mì và cà rem của nó, vì vậy hôm nào nó mang mọi thứ tới trường là bán sạch ngay trong giờ ra chơi buổi sáng. Sau đó tôi còn kêu gọi một cuộc lạc quyên gíup nó: gạo , tiền xu , tiền cắc, áo quần, có thằng còn mang tới cho nó cả buồng chuối và một trái mít nữa.

Rồi nó cũng được chính quyền giúp đỡ, tôi nghĩ như thế, nên vài tuần sau nó trở lại lớp học, và chỉ bán bánh mì trong giờ ra chơi. Nó vẫn học giỏi, vẫn đứng đầu lớp, nhưng lần này nó không còn là anh hùng cô đơn nữa mà nó có đông đảo bạn bè, mà thằng thân nhất chính là tôi.

Ông chú nó, thầy giáo Nguyễn thương Cầu, cũng đã vào trường dạy lớp ba, nhưng bây giờ anh em nó không còn ở chung với ông chú nữa, mà chỉ đến thăm ông vào những cuối tuần. Có khi nó dắt tôi đi theo. Vì vậy tôi mới bíết ông thầy, chú nó sợ bà vợ Bắc kỳ còn hơn sư tử, nên chẳng dám bênh vực nhiều anh em nó, mặc dù ông rất đau lòng xót xa khi bọn nó phải dọn ra ở ké nhà một gia đình người di cư khác.

Tôi mất mẹ, cha tôi cũng đi làm xa, nên tôi thông cảm hoàn cảnh của Minh, nên thường đưa anh em nó về nhà ông bà nội tôi và chơi với đám anh em họ hàng của tôi.

(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 05. Feb 2008 , 06:43 by DoQuan »  

1) Không mua hàng Made in China&&2) Không du lịch hay travel bằng hàng không China&&3) Không giao dịch và mua bán với China
 
IP Logged
 
DoQuan
Gold Member
*****
Offline


Boycott Red China

Posts: 681
Re: Truyện ngắn
Reply #88 - 05. Feb 2008 , 06:45
 
(Cô Con Gái Quá Giang.......tiếp theo và hết)

Khi xong tiểu học, tôi vào Nha Trang học trung học, cũng là lúc phải chia tay nó. Bởi Minh cũng vừa theo một số người di cư vào tận khu định cư Phước Tỉnh nào đó ở trong nam, người ta bảo trong ấy làm ăn khấm khá hơn ở quê tôi nhiều lắm. Từ đó, tôi không gặp lại nó, mặc dù trong ký ức tuổi ấu thơ của tôi, lúc nào hình ảnh nó cũng in lên đâm nét

Không ngờ hôm nay, giữa chiến trường xa xôi này tôi lại bất ngờ gặp lại thằng em duy nhất của Minh, và lòng tôi lắng xuồng khi biết nó cũng từng là lính đánh giặc và đã hy sinh đúng ngày này năm trước: ngày mồng một Tết. Cái ngày mà lời chúc Tết của ông Hồ Chí Minh trên đài phát thanh Hà Nội chính là cái mật lệnh “Tổng Công Kích Têt Mậu Thân” để giết hại bao nhiêu người vô tội, đặc biệt hàng vạn người ở Huế bị chôn sống. Cũng là cái ngày người ta nhận diện được bọn trí thức, sinh viên phản trắc, đã giết hại bao nhiêu thầy, bạn của chính mình.

Sau đó, tôi rút Tâm về làm việc bên cạnh tôi, phụ tránh toán quân báo gồm toàn những người lính trẻ. Chúng tôi yêu thương nhau như anh em. Rồi vào một đêm trăng sáng, dưới sự chứng giám của đất trời, tôi đã nhận Tâm là đứa em kết nghĩa, sau lần Tâm liều mình cứu tôi thoát chết trong một cuộc phục kích ở Thiện Giáo. Đổi lấy sư an toàn cho tôi, Tâm phải mất hai ngón tay của bàn tay trái và nằm bệnh viện hơn một tháng để được giải phẩu lấy một mãnh đạn nằm trong sâu trong thanh quản. Sau khi xuất viện, Tâm phát âm tương đối khó khăn. Được hội đồng giám định y khoa xếp vào loại không còn khả năng chiến đấu, Tâm có thể chọn về một đơn vị hành chánh hay tiếp vận nào mà Tâm thích, nhưng Tâm một mực chối từ và nằng nặc đòi trở lại đơn vị cũ. Tâm xác nhận là mình vẫn còn khả năng chiến đấu, hai ngón tay của bàn tay trái và giọng nói khó khăn một chút không gây trở ngại nhiều cho một người lính chiến trường. Cuối cùng Tâm được toại nguyện.

Tôi vừa vui mừng vừa cảm động khi Tâm trở về trình diện. Tâm bảo sống chết gì em cũng muốn ở bên anh. Vì gia đình em có còn ai nữa đâu. Đơn vị này là gia đình của em. Tôi sắp xếp cho Tâm một công việc tạm thời ở hậu cứ để tiếp tục chửa bệnh. Chỉ sau vài tháng giọng nói của Tâm gần trở lại bình thường. Tâm nghe lời tôi xin vào khoá Sĩ Quan Đặc Biệt ở Thủ Đức. Tâm được ưu tiên thu nhận vì gốc TSQ.

Ra trường đúng vào mùa hè đỏ lửa 1972, Tâm lại xin trở về đơn vị cũ, lúc này đang ngày đêm nằm trong lửa đạn ở mặt trận Kontum. Năm tháng sau, tôi bị thương, được tản thương về QYV Pleiku nằm điều trị gần một tháng . Xuất viện, được điều về Phòng Hành Quân. Cả tháng tôi không gặp lại Tâm, nhưng ngày nào chúng tôi cũng liên lạc trên hệ thống vô tuyến.

Cuối năm 1973, chiến trường lắng dịu. Tâm xin phép về Sài gòn cưới vợ. Vợ Tâm là cô bạn nhỏ ngày xưa trong cùng một viện mồ côi. Bây giờ là cô giáo. Hai người găp lại và tình yêu nẩy nở trong thời gian Tâm học ở trường Thủ Đức. Cả vợ chồng tôi đều có mặt trong ngày cưới, và làm chủ hôn bên họ nhà trai. Đám cưới xong, tôi vận động xin cho vợ Tâm được chuyển lên dạy tại một trường tiểu học nằm trong thành phố Pleiku, để vợ chồng được gần gũi nhau hơn.

Đầu tháng 3/1975 Ban Mê Thuột thất thủ, bản doanh Bộ Tư lệnh SĐ 23 BB bị tràn ngập. sau một phi vụ bắn nhầm. Ông Tư Lệnh Phó cùng ông tỉnh trưởng Đắc Lắc bị bắt. Hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 44 được trực thăng vận nhảy xuống đầu tiên ở Phước An, quận duy nhất còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm vừa ngăn chặn địch quân tràn xuống Khánh Dương theo Quốc Lộ 21, vừa tái chiếm thị xã Ban Mê Thuột khi tình hình cho phép. Tâm có mặt trong toán quân đầu tiên này. Tôi không gặp được Tâm nhưng có liên lạc nói chuyện vài lần trong máy vô tuyến. Tâm rất đau lòng khi phải bỏ vợ và đứa con gái ba tuổi trên Pleiku, trước khi gởi gấm cho anh trung sĩ tiếp liệu đại đội cố dắt theo cùng đoàn quân triệt thoái về tỉnh lộ 7, bây giờ không biết ra sao. Tâm khẩn khoản nhờ tôi tìm mọi cách liên lạc và giúp vợ con mình. Tôi lấy cái tình anh em kết nghĩa mà thề với Tâm là tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Không ngờ, đó là một kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, đã làm mất biết bao nhiêu sinh mạng, kéo theo sự sụp đổ cả miền Nam. Ra tận Tuy Hòa, đứng đón dòng người tả tơi, nét mặt còn đậm nỗi kinh hoàng, họ vừa trải qua và chứng kiến biết bao nhiêu cái chết thê thảm để được đến bên này bờ con sông Ba nhuộm máu, tôi nghĩ là tôi chẳng còn có cơ hội nào gặp lại vợ con Tâm. Trở lại Khánh Dương, đúng lúc Phước An thất thủ và đơn vị của Tâm đã phải tan hàng, tôi gặp lại vị chỉ huy của Tâm ở Dục Mỹ, ông xác nhận là trung úy Nguyễn Thượng Tâm đã nằm lại trên đỉnh đồi Chu Cúc, khi chiến đấu tới viên đạn cuối cùng rồi tự sát trước một biển người của địch quân tràn lên chiếm giữ.

Hơn sáu tháng định cư ở Nauy, cả nhà tôi lúc nào cũng miệt mài để sớm hội nhập vào quê hương mới. Thời gian qua nhanh quá. Mới đây mà chúng tôi cũng đã tập tành tổ chức ngày lễ Giáng Sinh và ăn cái tết Tây đầu tiên theo truyền thống của Nauy. Sau đó bận bịu đi học đi làm, và cũng chẳng có cuốn lịch Âm lịch nào để biết ngày nào là Tết Ta, Nguyên Đán. Một buổi tối vợ chồng tôi đang ngồi cãi nhau về thời điểm giao thừa để thắp một nén hương tưởng nhớ ông bà, thì điện thoại reo. Bà Huyền-Trân Thomassen gọi, mời cả nhà chúng tôi tối mai lên ăn tết với gia đình, chồng bà từ Mexixo cũng mới trờ về. Bà cho biết bây giờ đã là sáng mồng một Tết bên Việt Nam. Thì ra, chúng tôi tệ quá, mới rời khỏi Việt Nam hai năm mà không còn nhớ ngày tết và tổ chức mừng Tết như bà. Tôi cám ơn và nhận lời bà xong, vội vàng thắp mấy nén hương tạ tội ông bà. May mắn ngày mai là thứ bảy.

Bà biết gia đình chúng tôi có tới mười người mà chỉ có một cái xe Ford vừa nhỏ vừa cũ, nên bà đặt một chiếc taxi tám chỗ ngồi lại đón chúng tôi. Bà xã tôi chỉ huy bầy con gái trên chiếc taxi, còn tôi lái xe chở đám con trai chạy theo sau. Trời thật lạnh, tuyết rơi trắng cả bầu trời . Chúng tôi phải chạy gần một tiếng đồng hồ mới tới nhà bà. Bà ở trong một ngôi biệt thự khá xinh, cách trường đại học Oslo, nơi bà dạy, chừng năm phút lái xe. Trong phòng khách bà trang trí giống như tết ở Việt Nam, đặc biệt có cả một cành mai thật to (một loài hoa Bắc Âu nở hoa vào mùa đông, nhìn giống như hoa mai) trong một cái bình sứ lớn, nằm ở giữa nhà. Chồng bà rất phúc hậu, và nói được một ít tiếng Việt. Khi giới thiệu ông với chúng tôi bà đùa:

- Hoàng đế Chế Mân của tôi đây.

- Không, tôi là Trần Khắc Chung. Ông vừa đưa tay bắt tay tôi vừa đùa.

Ông ta khá am tường về lịch sử Việt nam. Ông cũng biết khá nhiều và có những nhận định khá công bình về cuộc chiến Việt nam. Ông cho biết là lúc cuộc chiến Việt Nam đang ác liệt , khi ấy ông là trưởng ban ngoại giao của Quốc Hội Nauy, đã phản đối kịch liệt những nhóm tả khuynh và đặc biệt là những nhận định và việc làm của ông Olaf Palma, thủ tướng Thụy Điển. Người đã hô hào ủng hộ Bắc Việt và tuyên bố sẳn sàng chấp nhận cho binh lính Mỹ đào ngũ đến dung thân ở nước ông. Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhìn hàng triệu nguơì phải bỏ nước ra đi, ông vừa kịp phản tỉnh thì cũng bị ám sát chết.

Bữa ăn còn có cả dưa hành, thịt kho và bánh chưng. Tôi phục bà và thấy xốn xang nhớ nhừng ngày tết lúc tôi còn nhỏ ở quê nhà.

Ăn uống xong, bà còn lì xì bì thơ màu đỏ cho mấy đứa con và mấy đứa cháu của tôi. Tôi đành phải ngượng ngùng xin lỗi vì không chuẩn bị kịp quà cáp cho hai đứa con của bà. Nhưng bà rất khéo léo, khi bảo sự có mặt của gia đình chúng tôi trong thời khắc đặc biệt này đã là một món qùa vô giá, rất có ý nghĩa cho mẹ con bà.

Tôi thay mặt gia đình cám ơn, chúc tết ông bà và gia đình. Tôi cũng nói lên lòng ngưỡng mộ của chúng tôi đối với một người đã xa quê hương lâu ngày và lập gia đình với một người ngoại quốc mà vẫn còn giữ được truyền thống và bản sắc văn hóa Việt Nam, trong lúc một số người mới chân ướt chân ráo sang đây đã vội tập tành thành người bản xứ, muốn quên hết nguồn cội của mình.

Chia tay bà lúc gần mười hai giờ đêm. Đường sá vắng tanh. Tuyết vẫn rơi kín bầu trời. Không quen lái xe trên tuyết, tôi chạy thật chậm. Khi đến trước khu đại học Blindern, tôi thấy có một người đứng dưới tàng cây thông, đưa tay đón. Tôi dừng xe lại. Một cô gái chạy tới xin quá giang về nhà, vì cô dự tiệc tối ra, đã gọi taxi khá lâu mà không thấy tới.. Tôi bảo đứa con trai lớn của tôi ra ngồi ở băng sau, nhường ghế trước cho cô gái. Khi cô lễ phép chào tôi, và bắt tay mấy cậu con và cháu của tôi ngồi ở băng sau, tự giới thiệu tên Anita rồi ngồi lên ghế, tôi mới nhận ra cô gái gốc Á đông, nhưng phát âm tiếng Nauy và điệu bộ hoàn toàn như người bản xứ. Tôi ngạc nhiên khi thấy cô đang run vì lạnh. Cô chỉ mặc một cái áo khoác mỏng. Tôi dừng xe, cởi cái áo choàng bằng lông cừu choàng qua vai cô. Gương mặt cô bé xinh xắn dễ thương, nhưng phảng phất buồn. Tôi hỏi cô bé đến từ nước nào. Cô cho biết cô được cha mẹ nuôi người Nauy nhận mang về đây lúc chưa tròn ba tuổi, nên cô chẳng biết gì. Sau này lớn lên, cô mới được cha mẹ nuôi kể lại là cô được Cơ quan Bảo Trợ Nhi Đồng LHQ nhận từ một viện mồ côi ở Việt Nam, vào năm 1975. Ông bà xin nhận cô làm con nuôi từ Cơ quan này. Cô bé rất mong muốn được trở lại Việt nam một lần, để biết nơi mình sinh ra và nhờ người tìm lại tông tích, mồ mả của cha mẹ ruột. Cô sẽ xây mộ cho ông bà. Cha mẹ nuôi có hứa sẽ đưa cô về sau khi cô học xong trung học, và khi nào việc xin visa vào Việt Nam dễ dàng hơn. Nhà cô không xa nơi tôi ở, có lẽ không quá hai mươi phút lái xe. Khi qua hết mấy khu rừng thông thanh vắng, cô chỉ ngôi nhà lớn nằm lưng chừng trên một ngọn đồi, bảo tôi dừng lại phía dưới. Cô sẽ đi lên bằng con đường tắc. Cô cám ơn tôi, cởi trả lại tôi cái áo choàng. Cô hỏi xin tôi một mảnh giấy, viết địa chỉ xong rồi đưa lại cho tôi. Cô mời tôi đến Lễ Phục Sinh ghé lại nhà cô chơi. Vì chỉ còn một ngày nữa cô phải đi London tiếp tục theo học một năm chương trình trao đổi học sinh. Cha mẹ nuôi của cô rất thích nói chuyện với người Việt Nam, nhất là những người đã từng tham gia cuộc chiến. Tôi hứa với cô là thế nào tôi cũng đến thăm cô cùng ông bà cha mẹ nuôi tốt bụng.

Về nhà, khi kể lại chuyện cô bé quá giang cho vợ và mấy cô con gái nghe, tôi mới nhận ra một điều: sao tôi lại có duyên với những người mồ côi đến thế. Suốt cả đêm hôm ấy tôi nằm trằn trọc nghĩ đến thân phận mình và nhớ thật nhiều đến Nguyễn Thượng Tâm, người mà tôi đã từng nhận làm đứa em kết nghĩa, nhưng mãi đến bây giờ vẫn chưa làm tròn được lời thệ ước cuả mình.

Ðến Lễ Phục Sinh, nhớ lời hẹn, tôi rủ bà xã và hai cô con gái lớn đến thăm cô Anita. Bây giờ là đầu tháng tư mà tuyết vẫn còn rơi trắng cả bầu trời. Nhờ ban ngày nên tôi thấy rõ nhà cô hơn. Ngôi nhà có dáng của một lâu đài, cổ kính, sang trọng. Chung quanh là một hàng thông. Chủ ngôi nhà chắc đã trọng tuổi và giàu có. Ngần ngừ một lúc, tôi bấm chuông. Đúng như tôi nghĩ, người mở cửa là một bà già khoảng trên bảy mươi, nhưng còn khỏe mạnh và nói năng vui vẻ lịch thiệp. Bà ngạc nhiên nhìn tôi, và hỏi tôi đến có việc gì bất ngờ mà bà không đuợc báo trước. Tôi xin lỗi, giới thiệu tên mình và cho bà biết là tôi có hẹn với cô Anita, con gái của bà, đến thăm cô ấy và vợ chồng bà. Có lẽ cô Anita quên, không kể chuyện lại với bà. Bà tròn mắt ngạc nhiên :

- Anita nào ? vì đứa con gái duy nhất của chúng tôi đã chết rồi mà.

Bây giờ đến lượt tôi ngơ ngác. Tôi kể cho bà nghe chuyện tôi gặp cô Anita trước cổng trường đại học hồi tháng hai, và cho cô quá giang về đây lúc nửa đêm. Bà mời tôi vào nhà, chỉ cho tôi tấm ảnh treo trên vách.

- Đây chính là cô Anita mà tôi đã gặp, trước khi cô trở lại London để tiếp tục học. Tôi nói to như để xác nhận với bà. Bà nhìn tôi sụt sùi hai dòng nước mắt.

- Ðúng rồi, sau lần về thăm nhà và cũng để khám bệnh ấy, thay vì trở lại trường, con tôi phải vào bệnh viện, do một mảnh đạn nằm sâu trong tim từ lúc cháu ba tuổi, và cháu qua đời sau đó một tuần. Trước đây, bác sĩ có khám và chụp hình, nhưng bảo mảnh đạn nằm ở một vị trí khá an toàn, và rất nguy hiểm nếu phải giải phẩu. Không ngờ cháu lại chết vì chính mảnh đạn từ thời chiến tranh này.

Bà ra nhà sau lên tiếng gọi ông chồng, kể cho ông nghe câu chuyện tự nãy giờ. Ông đến chào tôi, và bảo tôi chờ ông bà mặc áo lạnh rồi sẽ dẫn tôi ra nghĩa trang, nằm không xa ở phía sau nhà, thăm ngôi mộ cô con gái.

Ngôi mộ phủ đầy tuyết trắng. Bà đưa tay phủi lớp tuyết trên tấm bia, hàng chử khắc sâu trên bia: ANITA NGUYEN HILDE. Nhìn tấm ảnh trên mộ bia, tôi có cảm giác dường như cô cũng đang nhìn tôi mỉm cười. Tôi đứng trươc mộ, chấp hai tay khấn nguyện một đôi điều. Ông bà chủ nhà sụt sùi, bảo với tôi đó là cô con gái duy nhất mà ông bà hết lòng thương quí. Từ khi cô ta qua đời, ông bà chẳng còn thiết tha bất cứ thứ gì trên cõi đời này nữa. Đưa tôi trở lại nhà, ông châm củi thêm vào lò sưởi, rót mời tôi một tách cà phê nóng. Ông bảo nếu cô không chết thì mùa hè này ông bà sẽ đưa cô về thăm quê hương nguồn cội ở Việt Nam. Riêng cha mẹ ruột của cô thật sự đã chết trong chiến tranh rồi.

Dường như vừa nhớ lại một điều gì, ông đứng lên bước tới kệ sách, quay lại nói vói tôi :

- Trong hồ sơ của con tôi, người ta có ghi chú: Khi hấp hối, mẹ cháu có trăn trối nhờ người mang nó về một viện mồ côi mà bà quen. Bà có để trong túi áo quần của đứa con một tấm hình khi vợ chồng bà làm đám cưới. Sau tấm hình có ghi tên và đơn vị của ba cháu. Đó cũng là dấu tích duy nhất về gốc gác của cô con gái nuôi yêu dấu của chúng tôi.

Tôi chưa kịp hỏi, ông đã đưa cho tôi tập album, và chỉ cho tôi một tấm ảnh đen trắng ngã màu vàng sậm, được dán ngay ở trang đầu. Nhìn tấm ảnh, tôi giật thót cả người, như đang bị mộng du vào một cõi xa xăm nào đó: hai người trong tấm ảnh chính là vợ chồng Nguyễn Thượng Tâm, người em mồ côi kết nghĩa mà chúng tôi đã lạc mất nhau trong những ngày cuối của một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.

Phạm Tín An Ninh

Vương Quôc Na-Uy

Nguồn : http://www.ledinh.ca/Bai%20Le%20Dinh%20Pham%20Tin%20An%20Ninh%20Co%20Con%20Gai.h...
Back to top
« Last Edit: 05. Feb 2008 , 06:46 by DoQuan »  

1) Không mua hàng Made in China&&2) Không du lịch hay travel bằng hàng không China&&3) Không giao dịch và mua bán với China
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #89 - 11. Feb 2008 , 17:44
 
Bích Định ơi,

Ở đây nè , mà chỉ có truyện chứ chưa thấy có thấy câu đố  Huh
Back to top
 
 
IP Logged
 
Thuc-Khanh
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 839
Re: Truyện ngắn
Reply #90 - 12. Feb 2008 , 06:09
 
Quote:
Bích Định ơi,

Ở đây nè , mà chỉ có truyện chứ chưa thấy có thấy câu đố  Huh

Mấy chị ơi à ,

anh Đ Q đố ở bên mục Thơ ->1 ngày tình cũng trăm năm đó. Ko phải ở đây đâu.
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #91 - 14. Mar 2008 , 20:23
 
Chuyện đời thường-
Phần 1

Khuyết danh

Cưới nhau được hai năm, chồng tôi bàn với tôi về quê đón mẹ anh lên ở với chúng tôi để bà được sống an nhàn những ngày cuối đời. Bố anh ấy mất sớm từ khi anh còn nhỏ, nên bà mẹ gửi gắm tất cả mọi hy vọng vào anh, một mình bà chắt chiu thắt lưng buộc bụng nuôi anh khôn lớn cho tới ngày học xong đại học.

Tôi đồng ý ngay và lập tức dọn dẹp dành riêng cho bà căn phòng có ban công hướng Nam, vừa có thể sưởi nắng vừa có thể bày vài chậu cây cảnh. Bước vào căn phòng chan hòa ánh sáng vừa dọn xong, anh ấy chẳng nói chẳng rằng bất chợt bế xốc lấy tôi và quay một vòng quanh phòng. Khi tôi sợ quá cào cấu anh xin anh bỏ xuống thì anh bảo:

- Nào, chúng mình về quê đón mẹ nhé!

Chồng tôi cao lớn, còn tôi thì bé nhỏ và thích được nép đầu vào ngực anh. Những lúc ấy, tôi có cảm giác như anh có thể nhét gọn tôi vào túi áo. Những bận hai người tranh cãi nhau mà tôi không chịu thua, anh bèn nhấc bổng tôi lên ngang đầu và quay tít cho đến khi tôi sợ hết hồn xin anh buông tha mới thôi. Tôi thích cái cảm giác vừa sợ vừa sung sướng ấy.

Mẹ anh sống ở thôn quê lâu năm nên rất khó có thể sửa ngay được những tập quán của người nhà quê. Chẳng hạn, thấy tôi hay mua hoa tươi bày ở phòng khách, bà có vẻ khó chịu. Cực chẳng đã, một hôm bà bảo:

- Các con thật chẳng biết chi tiêu gì cả. Hoa có ăn được đâu mà mua làm gì kia chứ?

Tôi cười:

- Mẹ ơi, trong nhà có hoa tươi nở rộ thì ai nấy đều vui vẻ cả.

Bà cúi đầu lầu bầu gì gì đấy. Chồng tôi bảo:

- Ðây là tập quán của người thành phố, mẹ ạ. Lâu ngày mẹ sẽ quen thôi.

Bà không nói gì nữa, nhưng sau đấy mỗi bận thấy tôi mua hoa về, bao giờ bà cũng không thể im lặng mà cứ hỏi mua hết bao nhiêu tiền. Khi tôi nói giá cả thì bà chép miệng tiếc rẻ. Có lần thấy tôi xách về túi to túi nhỏ các thứ mua sắm được, bà gặng hỏi giá tiền từng thứ một. Tôi kể lại giá mỗi thứ. Nghe xong bà chép miệng thở dài thườn thượt. Chồng tôi véo mũi tôi và thì thầm:

- Ngốc ơi, nếu em đừng nói giá thật với mẹ thì sẽ chẳng sao cả, phải không nào?

Cuộc sống đang vui tươi thế là dần dần có những hòa âm trái tai.

Ðiều làm bà khó chịu nhất là thấy con trai mình ngày ngày dậy sớm chuẩn bị bữa sáng. Ðàn ông mà chui vào bếp nấu ăn cho vợ thì coi sao được, bà nghĩ vậy. Vì thế mà bữa sáng nào bà cũng nặng mặt không vui. Tôi giả tảng không thấy gì thì bà khua đũa đụng bát tỏ ý không bằng lòng. Làm giáo viên dạy múa ở Cung Thiếu niên, ngày nào tôi cũng phải nhảy nhót mệt bã người nên khi ngủ dậy thường nằm rốn tận hưởng chăn đệm ấm áp, coi đó là một thú hưởng thụ. Vì thế tôi đành giả câm giả điếc trước sự chống đối của bà mẹ chồng. Ðôi khi bà cũng làm giúp tôi một ít việc nhà, nhưng thật ra chỉ làm tôi thêm bận bịu mà thôi. Chẳng hạn, những túi ni lông đựng đồ, mọi khi tôi đều quẳng vào thùng rác thì bà tích cóp lại, bảo là để hôm nào bán cho đồng nát. Thế là khắp nhà đầy những túi ni lông. Mỗi lần rửa bát hộ tôi, bà đều hà tiện không dùng nước rửa chén thế là tôi phải rửa lại, dĩ nhiên phải kín đáo để bà khỏi tự ái.

Một tối nọ, khi tôi đang rửa chén trộm như thế thì bà nhìn thấy. Thế là bà sập cửa đánh sầm một cái, nằm lì trong buồng khóc gào lên. Chồng tôi cuống quýt chẳng biết làm gì. Cả tối hôm ấy anh không nói với tôi câu nào. Tôi làm nũng với anh, anh cũng chẳng thèm để ý. Tôi điên tiết lên vặn lại:

- Thế thì rốt cuộc em sai chỗ nào ạ?

Anh trợn mắt:

- Tại sao em không thể phiên phiến một chút nhỉ, bát không sạch thì ăn cũng có chết đâu, hả?

Một thời gian dài sau đấy, bà chẳng nói chuyện với tôi. Không khí trong nhà bắt đầu dần dần căng thẳng. Chồng tôi rất mệt mỏi, chẳng biết nên làm ai vui lòng trước.

Không muốn để con trai làm bữa sáng, bà cả quyết nhận lấy "nhiệm vụ nặng nề" này. Rồi khi thấy anh ăn uống ngon lành, bà lại nhìn ngó tôi với ý trách móc tôi không làm tròn bổn phận người vợ, khiến tôi rất khó xử. Ðể thoát khỏi cảnh ấy, tôi đành không ăn bữa sáng ở nhà mà mua túi sữa trên đường đi làm, mang đến cơ quan ăn. Tối hôm ấy lúc đi ngủ, anh bực bội bảo:

- Có phải là em chê mẹ anh nấu ăn bẩn nên mới không ăn sáng ở nhà, đúng không?

Rồi anh lạnh nhạt nằm quay lưng lại, mặc cho tôi nước mắt đầm đìa vì ấm ức. Sau cùng anh thở dài:

- Cứ coi như là em vì anh mà ăn sáng ở nhà, được không nào?

Thế là sáng sáng tôi đành ngồi vào bàn ăn với tâm trạng ê chề.

Một hôm, khi đang ăn món cháo bà nấu, tôi chợt thấy buồn nôn, mọi thứ trong bụng muốn oẹ ra, gắng kìm lại mà không tài nào kìm được, tôi đành quăng bát đũa chạy ù vào phòng vệ sinh, nôn thốc nôn tháo. Sau một hồi hổn ha hổn hển thở, khi tôi bình tâm lại thì nghe thấy bà bù lu bù loa vừa khóc vừa đay nghiến oán trách tôi bằng những từ ngữ nhà quê, còn anh thì đứng ngay trước cửa phòng vệ sinh căm tức nhìn tôi. Tôi há hốc miệng chẳng nói được gì, thật ra nào mình có cố ý nôn đâu. Lần đầu tiên chúng tôi cãi nhau to. Mới đầu mẹ anh còn giương mắt đứng nhìn, sau đấy bà thất thểu bỏ ra ngoài. Anh tức tối nhìn tôi rồi đi ra theo bà.
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #92 - 14. Mar 2008 , 20:26
 
Chuyện đời thường

Khuyết danh

Phần 2

Ba ngày liền không thấy bà và anh về nhà, cả đến điện thoại cũng không thấy gọi. Tôi tức điên người mỗi khi nghĩ lại từ hôm bà lên đây ở mình đã phải chịu bao nhiêu nỗi oan ức, thế mà anh ấy còn muốn tôi thế nào nữa đây? Không hiểu sao dạo này tôi hay buồn nôn thế, ăn gì cũng không thấy ngon, lại thêm trong nhà bao nhiêu chuyện rắc rối, tâm trạng vô cùng tồi tệ. Cuối cùng, vẫn là các bạn ở cơ quan bảo:

- Sắc mặt cậu xấu lắm, nên đi khám bệnh thôi!

Kết quả kiểm tra ở bệnh viện cho thấy tôi đã có bầu. Bây giờ mới rõ tại sao sáng hôm ấy tôi bỗng dưng buồn nôn. Niềm hạnh phúc sắp có con pha trộn với một chút buồn giận oán trách: Tại sao chồng mình và cả bà mẹ chồng nữa lại không nghĩ tới chuyện ấy nhỉ?

Tôi gặp anh tại cổng bệnh viện. Xa nhau mới có ba ngày mà trông anh tiều tụy quá chừng. Tôi định quay đi, nhưng bộ dạng ấy khiến lòng tôi xót xa, không nén được, tôi gọi anh. Anh nhìn tôi như người xa lạ, ánh mắt không giấu nổi nỗi chán ghét như một mũi kim lạnh buốt đâm vào lòng tôi. Tôi tự nhủ "đừng nhìn anh ấy, đừng nhìn anh ấy", và chặn một chiếc taxi lại. Thật ra lúc ấy tôi chỉ muốn hét to: "Anh yêu của em, em sắp sinh cho anh một cục cưng đây!" rồi được anh bế xốc lên sung sướng quay một vòng. Ước muốn ấy đã không xảy ra. Khi ngồi trên taxi, nước mắt tôi ứa ra lã chã. Vì sao chỉ một lần cãi nhau đã làm cho tình yêu của chúng tôi trở nên tồi tệ tới mức này cơ chứ?

Về nhà, tôi nằm trên giường nghĩ tới chồng, tới nỗi chán ghét đầy trong mắt anh. Tôi nắm lấy góc chăn khóc nấc lên. Nửa đêm, có tiếng lạch cạch mở ngăn kéo. Khi bật đèn lên tôi trông thấy khuôn mặt đầy nước mắt của anh. Thì ra anh về nhà lấy tiền. Tôi lạnh nhạt nhìn anh không nói gì. Anh cũng làm như không thấy tôi, lấy xong các thứ liền vội vã bỏ đi. Có lẽ anh định thật sự chia tay với tôi đây. Thật là một người đàn ông có lý trí, biết tách bạch tình và tiền rạch ròi như thế đấy. Tôi cười nhạt, nước mắt lã chã tuôn rơi.

Hôm sau tôi không đi làm mà ở nhà, muốn xem xét lại mọi ý định của mình rồi tìm anh trao đổi cho xong mọi chuyện. Khi đến công ty của anh, cậu thư ký ngạc nhiên nhìn tôi:

- Ơ kìa, mẹ tổng giám đốc bị tai nạn, hiện đang nằm bệnh viện kia mà.

Tôi trố mắt cứng họng, lập tức đến ngay bệnh viện. Nhưng khi tìm được anh thì bà đã tắt thở rồi. Anh không hề nhìn tôi, mặt cứ lầm lầm. Tôi nhìn khuôn mặt vàng vọt không hồn của bà, nước mắt ứa ra: Trời ơi! Tại sao lại đến nông nỗi này cơ chứ?

Cho tới hôm an táng mẹ, anh vẫn không thèm nói với tôi một câu nào, thậm chí mỗi khi nhìn tôi, ánh mắt anh đều hiện lên nỗi chán ghét tột độ. Nghe người khác kể lại, tôi mới biết sơ qua về vụ tai nạn. Hôm ấy bà bỏ nhà rồi thẫn thờ đi về phía ga xe lửa, bà muốn về quê mà. Chồng tôi đuổi theo, thấy thế bà rảo bước đi nhanh hơn. Khi qua đường, một chiếc xe buýt đâm vào bà... Cuối cùng thì tôi đã hiểu tại sao anh ấy chán ghét mình. Nếu hôm ấy mình không nôn oẹ, nếu hôm ấy mình không to tiếng cãi nhau với anh ấy, nếu... Trong lòng anh, tôi là kẻ tội phạm gián tiếp giết chết bà.

Anh lẳng lặng dọn vào ở phòng mẹ, tối tối khi về nhà, người sặc mùi rượu. Lòng tự trọng bị tổn thương bởi nỗi xấu hổ và tự thương hại đè nặng khiến tôi thở không ra hơi nữa. Muốn giải thích mọi chuyện, muốn báo anh biết chúng tôi sắp có con rồi, nhưng cứ thấy ánh mắt ghẻ lạnh của anh là tôi lại thôi không nói gì. Thà anh đánh tôi mắng tôi một trận còn hơn. Tôi có cố ý để xảy ra mọi tai họa ấy đâu! Ngày tháng cứ ngột ngạt lặp đi lặp lại. Càng ngày anh ấy càng về nhà muộn hơn. Chúng tôi cứ thế căng với nhau, xa lạ hơn cả người qua đường. Tôi như cái thòng lọng thắt vào tim anh.

Một hôm, khi đi qua một hiệu ăn Âu, tôi nhìn qua cửa kính thấy chồng mình đang ngồi đối diện với một cô gái trẻ và nhè nhẹ vuốt tóc cô. Thế là tôi đã hiểu rõ tất cả. Sau giây lát ngớ người ra, tôi vào hiệu ăn, đến đứng trước mặt chồng mình, trân trân nhìn anh, mắt ráo hoảnh. Tôi không muốn nói gì hết, và cũng chẳng biết nói gì. Cô gái nhìn tôi, nhìn chồng tôi rồi đứng lên định bỏ đi. Anh ấn cô ngồi xuống rồi cũng trân trân nhìn lại tôi, không chịu thua. Tôi chỉ còn nghe thấy tim mình đập chầm chậm từng nhịp như đang sắp kề cái chết. Kẻ thua cuộc là tôi, nếu cứ đứng nữa thì tôi và đứa bé trong bụng sẽ ngã xuống. Ðêm ấy anh không về nhà. Bằng cách đó anh báo cho tôi biết: Cùng với sự qua đời của mẹ anh, tình yêu giữa hai chúng tôi cũng đã chết.

Những ngày sau, anh vẫn không về nhà. Có hôm đi làm về, tôi thấy tủ áo như bị sắp xếp lại, chắc anh ấy về lấy các thứ của anh. Tôi chẳng muốn gọi điện thoại cho anh, ý định giải thích mọi chuyện cho anh cũng biến mất hẳn.

Tôi sống một mình. Ði bệnh viện khám thai một mình. Trái tim tôi như vỡ vụn mỗi khi trông thấy cảnh các bà vợ được chồng dìu đến bệnh viện. Các bạn ở cơ quan bóng gió khuyên tôi bỏ cái thai đi cho yên chuyện nhưng tôi kiên quyết không chịu. Tôi như điên lên muốn được sinh đứa bé này, coi đó như sự bù đắp việc bà mẹ chồng qua đời.

Một hôm đi làm về nhà, tôi thấy anh ngồi trong phòng khách mù mịt khói thuốc lá, trên bàn đặt một tờ giấy. Không cần xem, tôi đã biết tờ giấy đó viết gì rồi. Trong hơn hai tháng chồng vắng nhà, tôi đã dần dà học được cách giữ bình tĩnh. Tôi nhìn anh, cất mũ rồi bảo:

- Ðợi một tí, tôi sẽ ký ngay đây.

Anh nhìn tôi, ánh mắt lộ vẻ bối rối chẳng khác gì tôi. Vừa cởi cúc áo khoác, tôi vừa tự nhủ: "Chớ có khóc đấy, chớ có khóc đấy... ". Hai mắt nhức lắm rồi, nhưng tôi quyết không cho chúng nhỏ lệ nữa. Mắc xong áo lên móc, thấy anh cứ chằm chằm nhìn cái bụng to của tôi, tôi mỉm cười đi đến bàn, cầm lấy tờ giấy, rồi chẳng xem gì hết, liền ký tên mình và đẩy tờ giấy cho anh.

- Em có bầu rồi đấy à?

Ðây là lần đầu tiên anh ấy nói chuyện với tôi kể từ hôm bà bị nạn. Nước mắt tôi trào ra không thể nào ngăn nổi.

- Vâng, nhưng không sao cả, anh có thể đi được rồi.

Anh không đi mà ngồi lại, hai chúng tôi nhìn nhau trong bóng tối. Anh từ từ ôm lấy tôi, nước mắt nhỏ ướt đầm vai áo tôi. Thế nhưng lòng tôi đã không còn gì nữa, rất nhiều thứ đã biến đi xa lắm rồi, xa tới mức có đuổi theo cũng chẳng lấy lại được nữa.

Không nhớ là anh ấy đã nói với tôi bao nhiêu lần câu "Xin lỗi" nữa. Trước đây tôi cứ tưởng mình sẽ tha thứ cho anh, nhưng bây giờ thì không. Suốt đời tôi sao quên được ánh mắt băng giá anh nhìn tôi khi đứng trước cô gái nọ ở hiệu ăn Âu hôm ấy. Chúng tôi đã rạch vào tim nhau một vết thương sâu hoắm. Tôi không cố tình, còn anh thì cố tình. Quá khứ không thể nào trở lại được nữa. Trái tim tôi chỉ ấm lên mỗi khi nghĩ đến đứa bé trong bụng, còn với anh thì tim tôi đã lạnh như băng. Tôi không đụng đến tất cả những thức ăn anh mua về, không nhận bất cứ món quà nào anh tặng, không nói với anh nửa lời. Kể từ hôm ký vào tờ giấy kia, hôn nhân và tình yêu, tất cả đều đã biến mất khỏi trái tim tôi. Có hôm anh định trở lại phòng ngủ của chúng tôi. Anh vào thì tôi ra phòng khách nằm. Thế là anh đành phải về ngủ ở phòng của bà.

Ðêm đêm, đôi lúc từ phòng anh vẳng ra tiếng rên rỉ khe khẽ. Tôi nghe thấy nhưng lặng thinh. Lại dở trò cũ chứ gì. Ngày trước, mỗi bận bị tôi làm mặt giận phớt lờ, anh ấy đều giả vờ ốm như vậy, khiến tôi ngoan ngoãn đầu hàng và chạy đến hỏi xem anh có sao không. Thế là anh ôm lấy tôi cười ha hả. Anh quên rồi, ngày ấy tôi thương anh vì hai người yêu nhau. Bây giờ thì chúng tôi còn có gì nữa đâu? Tiếng rên rỉ ấy kéo dài đứt quãng cho tới ngày đứa bé ra đời. Suốt thời gian chờ đợi ấy, hầu như ngày nào anh cũng mua sắm thứ gì cho con, nào là đồ dùng của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nào là sách nhi đồng v.v... Những thứ ấy chất gần đầy căn phòng của anh. Tôi biết anh làm thế là để tôi cảm động, nhưng tôi giờ đã trơ như đá. Anh đành giam mình trong phòng, ngồi gõ phím máy tính lạch cạch. Chắc là tìm vợ trên mạng. Nhưng chuyện ấy đâu còn có ý nghĩa gì với tôi nữa.

Năm sau, vào một đêm khuya cuối xuân, cơn đau bụng dữ dội khiến tôi thét lên. Anh nhảy xổ vào buồng, hình như khi đi nằm anh vẫn không thay quần áo chỉ là để chờ giây phút này. Anh cõng tôi chạy xuống cầu thang, chặn taxi lại. Dọc đường, anh cứ nắm chặt tay tôi, luôn lau mồ hôi trên trán tôi. Ðến bệnh viện, anh lại cõng tôi chạy đến khoa sản. Khi nằm trên đôi vai gầy guộc mà ấm áp của anh, một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc tôi: "Trên đời này, liệu có ai yêu thương mình như anh ấy không nhỉ?"

Rồi anh vịn cánh cửa khoa sản, đưa ánh mắt ấm áp dõi theo tôi đi vào trong. Tôi cố nhịn đau mỉm cười với anh. Khi tôi ra khỏi phòng đẻ, anh nhìn tôi và thằng bé, rưng rưng nước mắt mỉm cười. Tôi chạm vào tay anh, chợt thấy anh mềm nhũn người, mệt mỏi từ từ ngã xuống. Tôi gào tên chồng mình, anh chỉ mỉm cười, nhắm nghiền mắt lại...

Tôi cứ tưởng mình sẽ không bao giờ còn nhỏ nước mắt vì anh, thế mà lúc ấy một nỗi đau xé ruột xé gan bỗng dội lên trong lòng.

Bác sĩ cho biết chồng tôi bị ung thư gan, cách đây 5 tháng mới phát hiện, khi đó bệnh đã ở thời kỳ cuối, anh chịu đựng được lâu thế quả là một chuyện lạ hiếm có. Ông bảo: "Chị nên chuẩn bị hậu sự đi thì vừa". Mặc y tá ngăn cấm, tôi trốn ngay về nhà, xộc vào phòng anh, mở máy tính ra xem. Một nỗi đau nhói lên làm trái tim tôi nghẹn lại. Thế đấy, 5 tháng trước đây anh đã phát hiện mình bị ung thư gan, những tiếng rên rỉ của anh là thật cả, nhưng tôi lại cứ cho là...

Những điều ghi trong máy tính rất dài, đó là lời trăn trối anh để lại cho con mình:

"Con của bố. Vì con mà bố ráng chịu đựng cho tới nay, chờ bao giờ trông thấy con thì bố mới chịu ngã xuống. Ðấy là nguyện vọng lớn nhất của bố hiện giờ...

Bố biết rằng, đời con sẽ có nhiều niềm vui hoặc có thể gặp trắc trở. Nếu bố có thể cùng con đi suốt quãng đời con lớn lên thì vui biết bao. Nhưng bố không có dịp may ấy nữa rồi. Bây giờ bố ghi lại vào máy tính từng vấn đề con sẽ có thể gặp phải trên đường đời, khi nào gặp những vấn đề ấy thì con có thể tham khảo ý kiến của bố, con nhé!

Con ơi, viết xong mấy chục trang này, bố cảm thấy như mình đã cùng đi với con suốt chặng đường trưởng thành của con. Bây giờ bố thật sự vô cùng sung sướng. Hãy yêu mẹ con nhé! Mẹ rất vất vả vì con đấy. Mẹ con là người yêu con nhất và cũng là người bố yêu quý nhất..."

Chồng tôi viết về tất cả mọi chuyện, kể từ khi đứa bé còn ở vườn trẻ cho tới lúc nó học tiểu học, trung học, đại học, rồi ra công tác, cả đến chuyện yêu đương của con nữa. Chồng tôi cũng để lại một bức cho tôi:

"Em yêu quý. Ðược lấy em làm vợ là niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời anh. Em hãy tha thứ việc anh đã làm tổn thương em. Hãy tha lỗi việc anh giấu tình hình bệnh tật của mình, chẳng qua chỉ vì anh không muốn để em phải lo nghĩ trong thời gian chờ bé chào đời... Em yêu quý. Nếu khi đọc những dòng này mà em khóc thì nghĩa là em đã tha thứ cho anh rồi. Như thế anh sẽ có thể mỉm cười cảm ơn em luôn luôn yêu anh... Anh sợ rằng mình sẽ không có dịp tự tay tặng cho con những món quà anh đã mua sắm. Phiền em hằng năm thay anh tặng quà cho con, trên bao gói nhớ đề rõ ngày tặng, em nhé..."

Khi tôi trở lại bệnh viện thì anh vẫn đang hôn mê. Tôi bế con đến, đặt nó nằm bên cạnh anh và nói:

- Anh ơi, anh hãy mở mắt ra cười lên nào. Em muốn để con mãi mãi ghi nhớ hơi ấm của bố nó khi nó nằm trong lòng anh đấy, anh ạ...

Chồng tôi khó nhọc mở mắt ra, khẽ mỉm cười. Thằng bé rúc vào lòng bố, ngọ ngoạy nắm tay nhỏ xíu hồng hồng. Tôi ấn nút máy ảnh, nước mắt chảy ràn rụa trên mặt...


Nguyễn Hải Hoành dịch
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #93 - 24. Mar 2008 , 12:18
 
Học cách lắng nghe

(chuyện sưu tầm-nếu có bạn nào biết tác giả xin cho TL biết-thành thật cám ơn)


Nửa đêm. Chuông điện thoại reo vang làm người mẹ thức giấc. Như chúng ta biết, ai nghe điện thoại reo lúc nửa đêm cũng bực mình nhìn đồng hồ và lẩm bẩm… Nhưng buổi đêm đó thì khác, người mẹ ấy cũng khác.
Nửa đêm. Những ý nghĩ lo lắng bỗng tràn đầy trong đầu óc của người mẹ. Và người mẹ nhấc máy “Alô ?”. Bỗng bà nghĩ đến con gái mình. Bà nắm ống nghe chặt hơn và nhìn về phía người bố, lúc này đã tỉnh dậy xem ai đã gọi điện cho vợ mình.
- Mẹ đấy ạ? - Giọng nói trên điện thoại cất lên, như đang thì thầm, rất khó đoán là người gọi bao nhiêu tuổi, nhưng chắc chắn là cô gái đó đang khóc. Rất rõ. Giọng thì thầm tiếp tục:
- Mẹ, con biết là muộn rồi. Nhưng đừng nói … đừng nói gì, để con nói đã. Mẹ không cần tra hỏi đâu, đúng con vừa uống rượu. Con mới ra khỏi đường cao tốc và…
Có cái gì đó không ổn. Người mẹ cố im lặng…
- Con sợ lắm. Con chỉ vừa mới nghĩ là mẹ có thấy đau lòng không nếu một cảnh sát đến cửa nhà mình và bảo con đã chết vì tai nạn. Con muốn… về nhà. Con biết, một đứa con gái bỏ nhà đi quả thật là hư hỏng. Con biết có thể mẹ lo lắng. Lẽ ra con nên gọi cho mẹ từ mấy ngày trước, nhưng con sợ… con sợ…
Người mẹ nắm chặt ống nghe, nuốt tiếng nấc. Người mẹ nén những cái nhói lên đau đớn tận trong tim. Khuôn mặt con gái bà hiện rõ ràng ngay trước mặt bà. Bà cũng thì thầm: “Mẹ nghĩ…”.
- Không! Mẹ để con nói hết đã! Đi mẹ!
Giọng cô gái năn nỉ, lúc này giọng cô gái như một đứa trẻ không được che chở và đang tuyệt vọng. Người mẹ đành dừng lại, và bà cũng đang nghĩ xem nên nói gì với con. Giọng cô gái tiếp:
- Con là đứa hư hỏng, mẹ ạ! Con trốn nhà! Con biết con không nên uống rượu say thế này, nhưng con sợ lắm, mẹ ơi! Sợ lắm…
Giọng nói bên kia lại ngắt quãng bởi những tiếng nấc. Người mẹ che miệng, mắt đầy nước. Tay người mẹ chạm vào ống nghe điện thoại làm vang lên tiếng “cạch”, nghe như tiếng đặt máy, cô gái vội kêu lên:
- Mẹ còn nghe con không ? Con xin mẹ đừng đặt máy!
- Con cần mẹ, con thấy cô đơn lắm!
- Mẹ đây, mẹ sẽ không đặt máy đâu – Người mẹ nói.
- Mẹ ơi, con lẽ ra phải nói với mẹ. Con biết lẽ ra con phải nói với mẹ. Nhưng khi mẹ nói chuyện với con, mẹ chỉ luôn bảo con là phải làm gì. Mẹ nói mẹ đã đọc hết quyển sách tâm lý và biết cách dạy con, nhưng tất cả những gì mẹ làm là chỉ bắt con nghe thôi. Mẹ không nghe con. Mẹ không bao giờ để con nói với mẹ là con cảm thấy ra sao. Cứ như là cảm giác của con chẳng quan trọng gì vậy. Có phải vì mẹ nghĩ mẹ là mẹ của con và mẹ biết hết mọi lời giải đáp không ? Nhưng đôi khi con không cần những lời giải đáp. Con chỉ cần một người lắng nghe con…
Người mẹ lặng đi. Bà nhìn những quyển sách tâm lý bà để ở đầu giường.
- Mẹ đang nghe con – Người mẹ thì thầm.
- Mẹ ơi, khi ở trên đường cao tốc, con không điều khiển nổi xe nữa. Con nhìn thấy một cái cây to lắm chắn đường con. Con muốn đâm vào nó. Nhưng con cảm thấy như con đang nghe mẹ dạy rằng không thể lái xe khi vừa uống rượu. Cho nên con dừng lại đây. Mẹ ơi, vì con vẫn còn… muốn về nhà – Cô gái dừng lại một chút – con đi về nhà đây, mẹ, cho con về, mẹ nhé?
- Không – người mẹ vội ngắt lời, cảm thấy cơ thể như đông cứng lại – con ở yên đó! Mẹ sẽ gọi một chiếc taxi đến đón con. Đừng tắt máy, hãy nói chuyện với mẹ trong khi chờ taxi đến.
- Nhưng con muốn về ngay, mẹ ơi…
- Nhưng hãy làm điều này vì mẹ, hãy chờ taxi đi, mẹ xin con.
Người mẹ thấy cô gái im lặng. Thật đáng sợ. Không nghe cô trả lời. Người mẹ nhắm mắt, thầm cầu nguyện trong khi người bố đi gọi một chiếc taxi.
Cô gái im lặng rất lâu nhưng cô không tắt máy và người mẹ cũng vậy.
- Có taxi rồi mẹ ạ! - Tiếng cô gái bỗng vang lên và có tiếng xe ôtô dừng lại. Người mẹ bỗng thấy nhẹ nhõm hơn. - Con về nhà ngay đây, mẹ nhé!
Có tiếng “tích”, có lẽ là tiếng tắt máy điện thoại di động. Rồi im lặng.
Người mẹ đứng dậy, mắt nhòe nước. Bà đi vào phòng cô con gái 16 tuổi. Người bố đi theo, và hỏi:
- Em có nghĩ là cô bé đó sẽ biết là cô đã gọi nhầm số điện thoại ? Người mẹ nhìn đứa con gái đang ngủ ngon trên giường, và trả lời:
- Có lẽ cô bé đã không gọi nhầm…
- Bố mẹ làm gì thế ? - Giọng ngái ngủ của cô con gái cất lên khi cô mở mắt và thấy bố mẹ đứng cạnh giường mình.
- Bố mẹ đang tập… - Người mẹ trả lời.
- Tập gì ạ ? – Cô bé lẩm bẩm, gần như lại chìm vào giấc ngủ.
- Tập lắng nghe – Người mẹ nói thầm và vuốt tóc cô con gái…
Back to top
« Last Edit: 24. Mar 2008 , 12:21 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
Phuong_Tran
Gold Member
*****
Offline


Thành Viên Hoạt Động
Tích Cực *Năm 2011*

Posts: 10574
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #94 - 24. Mar 2008 , 13:41
 
Em đã đọc xong " TẬP LắNG NGHE " rồi và sẽ tập lắng nghe nhiều hơn là nói với con cái của mình , có lẽ là với cả những người khác nữa , cảm ơn Chị T Lan đã cho đọc một câu chuyện rất hay  Cry Undecided Smiley

PTr
Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #95 - 17. Apr 2008 , 02:44
 
Bài cũ đăng lại.


--------------------------


Truyện Cho Những Tình Nhân


-- Nhã Ca




  Vừa dừng xe trước cổng nhà bác, Diễm đã bấm chuông inh ỏi. Chị Bé Tý chạy ra, vừa cười vừa với cái giỏ mây: Vô đây đã Diễm, vô cúng. Diễm lắc đầu quầy quậy: Thôi để em về, sáng mồng một em sang mừng tuổi hai bác, các anh các chị. Em về, nhà em hôm ni cũng cúng ba mươi mà chị. Chị Bé Tý nhìn chăm chăm vào bàn tay của Diễm đang cầm chặt chiếc ghi đông xe đạp: A, con ni khá quá hí, đeo nhẫn rồi tạ Ra giêng cưới há ? Diễm cúi đầu e thẹn: Dạ -- Mời tao đi phụ dâu nghẹ -- Dạ, mời chị chớ. -- A, con này đeo nhẫn không sợ tụi bạn cười há ? -- Anh Phan biểu em đeọ Chị Bé Tý cười ngất: -- Khỉ, khi mô cưới xong mới đeo, đeo rứa tụi nó nói dị chết. Mi đi lấy chồng còn học không ? Diễm buồn buồn: Không biết nữa chị, ba anh Phan nói em cứ đi học. -- Học con khỉ, ở đó mà học. Diễm lật cái nón đội lên đầu: Thôi em về chị, má đợi. Hôm ni ở nhà cũng cúng.

Diễm xoay ghi đông, cua vòng ra sân rồi leo lên. Diễm sửa lại hai vạt áo dài, vạt sau giắt vào sợi dây thun nơi cái bót ba ga, vạt trước phủ trên hai đùi. Theo thói quen, Diễm ngẩng đầu lên hất cho hết tóc ra đằng sau, rồi đạp xe, đi thong thả. Diễm phải vất vả lắm mới lách xe qua khỏi được con đường Trần Hưng Đạo dọc theo vườn hoa Nguyễn Hoàng, phía gần cầu là chợ hoạ Diễm nhìn chỉ thấy những cánh hoa mai vàng giơ cao lên khỏi đầu người. Diễm đạp xe qua cầu Tràng Tiền, đi rẽ ngả bưu điện, rồi đạp qua vài con đường nhỏ, đến hàng Đoát. Diễm biết chắc thế nào đi trên con đường này, giờ này cũng gặp Phan. Con đường hàng Đoát này vắng nhất và cũng đẹp nhất. Diễm không thể nào quên được những buổi trời chạng vạng. Phan và nàng, hai người hai chiếc xe đạp, đạp song song vừa đi vừa nói chuyện. Diễm cũng không quên được vẻ hốt hoảng vụng về của cả hai đứa khi dang hai ghi đông xe ra cho xa nhau, một đứa đạp chậm một tí, một đứa đạp nhanh lên, khi có người từ đằng xa đi ngược chiều tới. Và lịch sử mối tình của hai đứa cũng đầy di tích trên con đường ngắn này. Hình như hôm đó Diễm đi xe đạp, cũng trên con đường này, chiếc sên xe bị sút rạ Diễm dựng xe lên loay hoay sửa mãi mà không được. May nhà Phan gần đó, và phút làm quen không mấy khó khăn. Nửa giờ sau, Diễm lên xe đi về, trời chiều, những ngọn điện đường đã bật. Phan đạp xe đi hộ tống đằng saụ Khi tới gần nhà Diễm chậm lại một chút, quay mặt lại giấu trong nón: Cám ơn anh, Diễm vô nhà. Và Diễm đạp xe rẽ vào ngõ chè tàu. Về sau, nghe Phan nói lại là Phan bắt đầu yêu Diễm ngay buổi tối hôm đó, khi hai vạt áo trắng cùng chiếc xe đạp ghi đông chữ U khuất sau hai dãy chè tàu xanh, cắt bằng phẳng.

Ngang qua nhà Phan, Diễm không dám nhìn vào nhưng nàng biết Phan sẽ trông thấy nàng. Một lát Diễm nghe tiếng xe đạp lách cách đằng sau, rồi tới sát bên. Diễm cúi mặt, chiếc nón che kín chỉ chừa hai mớ tóc buông xõa phía trước vaị Nhưng Diễm đợi chờ, hai má nàng nóng bừng.

-- Diễm.
-- Dạ.
-- Em đi mô về đó?
-- Em đi sang nhà bác đưa trái cây cúng. Má sai em đị
-- Chừ em đi mô ?
-- Em về nhà.


Câu chuyện thật nhạt nhẽo, nhưng Diễm thấy quá quen thuộc, nàng đoán trước những câu hỏi của Phan. Lần nào cũng chừng đó câu hỏi, rồi hai đứa đưa nhau trên đoạn đường từ hàng Đoát, nghẹo qua đường Nguyễn Huệ, đi ngang qua Ty Công Chánh rồi về đường Trần Thúc Nhẫn. Nhưng lần này thì không, Phan nói tiếp:

-- Anh đưa Diễm tới vườn bông Bến Ngự thôi nghe, lên cầu về túi lắm. Hôm ni anh cúng ba mươi.
-- Em cũng cúng ba mươi.
-- Sáng mồng hai anh sang hí. Mồng một anh về Truồi, ông nội dưới nớ.
-- Dạ.


Phan nhìn thấy ngón tay của Diễm đang bấu trên ghi đông:

-- Diễm.
-- Dạ.
-- Diễm đeo nhẫn à?


Diễm liếc nhìn Phan rồi háy một cái:

-- Đeo dị òm.


Phan cười, mặt hơi cúi xuống

-- Ừ, mai anh đeo luôn hí.
-- Dị òm, bắt chước người ta chi lạ rứa.
-- Dị chi mà dị.
-- Dị quá, anh đi xê ra, rủi gặp aị..


Phan vừa bẻ ghi đông quẹo ra và nói nhỏ:

-- Kệ họ, mình sắp cưới rồi mà...


Diễm đưa tay trật nón ra đằng sau, nàng nhìn con đường hàng Đoát sắp nhập vào con đường thẳng Nguyễn Huệ:

-- Má nói khi mô cưới hẳn haỵ
-- Chán mấy bà già.
-- Anh không thấy à, khi mô anh tới má cũng bắt em đi rót nước, sai gọi em lăng xăng. À, hay bữa ni anh lên nhà em ăn cúng ba mươi.
-- Không được, ông rốp chửi chết. Hôm ni lạy bàn thờ. Dưới chú anh cúng buổi trưa, nhà anh cúng túi.
-- Mệt hỉ.
-- Ừ.


Bàn tay Phan thả ghi đông, đưa sang chụp tay Diễm. Diễm để yên nhưng lắc đầu quầy quậy:

-- Anh làm rứa té chết. Dị chết.


Ngón tay Phan đã vuốt trên ngón tay đeo nhẫn của Diễm:

-- Em hỉ ?
-- Dạ chi anh.
-- Thương anh không ?
-- Thương anh hoài. Khi mô cái nhẫn này rời khỏi tay em thì em chết.
-- Chớ không phải em tháo ra, em vất dưới sông Hương hay liệng trên núi Ngự à ?
-- Mần chi có.
-- Em hỉ ?
-- Chi anh.
-- Nói thiệt nghe !
-- Anh dị òm. Còn có mấy ngày mà lo chi cho mệt.
-- Biết răng mà noái. Khi sáng anh tới má em noái cho cưới tháng Giêng để anh còn đi Thủ Đức. Còn chưa đầy mười ngày.
-- Em chưa nói chi cho tụi bạn em biết hết. Tụi bạn noái em bí mật quân sự.
-- Đầu năm em với anh đi thăm tụi nó, nói cho tụi nó biết.


Diễm lắc mạnh cánh tay:

-- Anh, gần tới cầu, anh về đị
-- Em sợ túi không ?
-- Không, khoảng đường ni sáng rồi, qua khỏi cầu, đi lên dốc một tí, có ông cảnh sát gác nơi cầu anh tề.
-- Anh về hỉ.
-- Dạ, anh về.


Diễm trả lời xong cúi đầu đi thẳng. Hàng chè tàu đã lấp ló đằng xa, nơi cột điện. Khi Diễm re vào nhà, ngọn điện đường cũng vừa bật lên. Má nàng đang gội đầu trước hiên. Diễm dựng xe dưới gốc cây khế. Má nàng ngẩng lên:

-- Đưa đồ cúng cho bác chưa, Diễm.
-- Dạ rồi.
-- Con thay áo, đi gội đầu bồ kết nì. Má có để sẵn phần cho con. Ra vườn hái trái chanh mà gội cho trơn tóc. À con ơi, con lau lại cho má cá sập gụ nghẹ Tối ni rảnh đánh tứ sắc chơi.


Diễm vừa đi vào nhà đã nghe tiếng mẹ vọng theo:

-- Chút xíu nữa con dặn bác Bảy mang xích lô tới bác Thị đón ông nội về. Ra sau hè mà gọi qua cũng được, đừng đi ra ngõ chi cho xa con hí.


Diễm đi vào phòng, thay quần áo rồi nằm duỗi ra giường. Chút nữa hãy đi hái chanh, đi gội đầu. Diễm nhìn bình bông nhỏ cắm mấy bông tường vi của Phan mang sang cho hồi sáng. Mấy đóa tường vi màu hồng sáng lạng, nhưng lòng Diễm chợt vui chợt buồn. Nàng nghĩ tới những mùa xuân cũ, những mùa xuân cũ khác hẳn xuân này. Năm nay Diễm không thấy nô nức đón xuân như mọi hôm, mà Diễm thấy mình bắt đầu lớn, bắt đầu thay đổi. Thay đổi cả một đoạn đời cũ. Đi lấy chồng, lấy chồng đối với Diễm như bước vào một đoạn đời dài lắm và đầy xa lạ, bỡ ngỡ. Ở với một người cho tới già, tới chết, dù đó là người yêu, Diễm cũng thấy trong lòng sôi động bao lo sợ, nghi ngờ. Dĩ vãng của Diễm yên lặng quá, hiện tại, Diễm không một điểm nhỏ phàn nàn, còn tương lai nữa. Diễm như một đứa bé con đang đứng trước một ngôi nhà quá lớn và hiểu được rằng không bao giờ mình khám phá hết nổi nó. Diễm nhìn ngón tay đeo nhẫn của mình, nàng đưa lên môi, chà chà cạnh nhẫn lên làn da môi mềm mát. Thôi thế cũng xong, một ước mộng bình thường, cứ thế, ta sẽ sung sướng. Diễm cắn chặt ngón tay đeo nhẫn: Anh Phan, răng em có sắc mấy cũng không cắt nổi ngón tay đeo nhẫn.

Diễm mở cái rương nhỏ, ngắm nghía chiếc áo phin trắng nõn. Chiếc áo này Diễm sẽ mặc để tiếp Phan vào ngày mồng haị Phan sẽ hỏi: Ai may áo đó. Diễm sẽ sung sướng mà cho Phan biết là chính nàng đã cắt và may lấy. Em sẽ là một bà nội trợ giỏi.

Chắc chắn mà, không tin thì thôi. Diễm mỉm cười một mình.

Sau đó, Diễm nhớ là mình phải ra vườn hái chanh gội đầu, nhân tiện đó Diễm sẽ gọi luôn bác Bảy. Diễm vừa đi vừa nhảy ra vườn. Chiếc áo trắng vải phin nõn còn lung linh trong trí tưởng tượng của nàng. Hình ảnh Diễm đang ở trong đó cùng áo cánh trắng thêu hoa hồng đỏ trên ngực và mái tóc chảy dài. Nhưng ơ kìa, làm gì có cánh hoa hồng đỏ tựa như trái tim thêu trên ngực? Diễm bật cười: Thêu như vậy cũng đẹp, nhưng chiếc áo đó đã không thêu. Màu đỏ không hợp với sở thích của nàng. Nàng coi màu đỏ như sự bất trắc, sự hung bạo. Bởi thế, Diễm thích đi lấy chồng hơn là đi học nghề cô mụ. Tụi bạn Diễm đã nạp đơn xin học nghành này gần hết.

Cây chanh đã hiện ra trước mặt Diễm. Diễm chỉ cần nhìn lên, chỉ cần với một cành ví xuống, tha hồ mà nàng lựa chọn. Hạnh phúc của nàng cũng giản dị quá, mọi lúc đều như vừa vặn trong tầm tay của nàng. Diễm nghĩ đêm nay, sau khi ngồi chầu rìa coi cả nhà đánh tứ sắc, Diễm sẽ nằm lăn nơi cái sập gụ, trước khi ngủ, nàng sẽ ăn hết những cánh hoa tường vi cuối năm của Phan gửi tặng.



--------------------------------------------------------------------------------


Anh Phan,

Rứa là anh kẹt dưới Truồi không lên được rồi. Anh ơi, em cũng đã kiệt lực. Em ngồi viết thư cho anh lúc đang sống trong một căn hầm hết sức chật. Một cái hầm nổi, làm sát góc nhà với mười bốn mạng người. Ngày nào cũng chừng đó tiếng động, chừng đó nỗi kinh hoàng. Từ đêm mồng một rạng ngày mồng hai, cả nhà bị mắc kẹt không còn tản cư vào đâu được nữa. Em viết thư này cho anh là ngày mười bốn, và gia đình em đã chịu sống mười ba ngày trong chiếc hầm nhỏ hẹp này. Xung quanh, Thạch bạn em đã trúng đạn chết, xác lấp vội vã ngoài vườn. Ngay trong nhà mình, phòng bên cạnh cũng có một gia đình hàng xóm xin làm hầm, mang sang hai người bị thương, đêm nào họ cũng la hét khóc lóc ghê quá. Mấy ngày đầu, mấy anh ngoài nớ còn cho thuốc băng bó, mấy ngày nay họ bỏ liều rồi. Chắc mấy người đó chết quá anh ơi, mà họ chết là thành ma trong nhà mình rồi.

Em có bị bắt đi khiêng đạn và chở người bị thương bằng xe ba bánh lên phía Tây Thiên mấy lần, lần nào đi cũng sợ muốn chết giấc vì những quả bom dưới Phú Bài câu lên. Những người đi với em chết nhiều lắm. Em đi khiêng đạn được năm hôm, khiêng người bị thương được hai hôm thì khiếp quá ngất xỉu mấy lần. Em theo mấy người trốn về lại bị nạn kiểm soát. Họ tới tận nhà. Má phải xoa nghệ lên mặt em, vả vào mắt em cho sưng húp để xưng bệnh cho họ khỏi bắt đị Mà em muốn bệnh thật, em bệnh vì lo sợ, vì buồn phiền, vì thương cảm. Má đã rơi nước mắt ròng khi đưa bàn tay tát vào mắt em cho sưng vù. Em cũng không cầm được giọt lệ khi nhìn thấy anh Văn trốn trên trần nhà mười mấy hôm, khi ăn khi nhịn, sợ tới chết điếng người vì những trái mọt-chê rơi đều đều dội tứ tung trên miệt bến Ngự, Từ Đàm.

Mấy hôm nay thì đạn đại bác bắn quá lắm. Em nằm ép mình sát đất, cứ bị dội người lên vì đất đai nhà cửa rung chuyển, ngực em cơ hồ như đã vỡ vụn bên trong nhưng lạ em không thấy đau đớn và tắt thở. Em vẫn thở được nhưng hơi thở nặng nề, em vẫn nhai được bát cơm nấu vội vã, đôi khi chưa kịp ăn đã vất bát cơm, nằm sát xuống mặt hầm, hoặc ôm cứng lấy nhau, và khi dứt tiếng nổ, thấy mắt mình hết nổ đom đóm, ngắt vào da thịt thấy đau, em mới biết rằng mình còn sống. Anh Phan, chắc em chết không gặp anh. Chắc chết quá anh ơi, súng vẫn bắn như mưa trên đầu những người chờ đợi. Nhưng anh ơi, trong những phút kinh hoàng như thế này, trong những phút nằm chờ một quả bom canh đúng rơi trúng miệng hầm đôi lúc em vẫn còn đầy tư tưởng lãng mạn. Em nhớ anh hơn, nao nức hơn, và thấy mối tình mình trở nên quan trọng hơn. Em nhớ buổi chiều cuối năm đi với anh trên con đường hàng Đoát. Thơ mộng quá, đẹp quá phải không anh? Và em đã thề thốt gì với anh, anh còn nhớ không? Anh ơi nếu em chết, anh tìm cho được xác em, nhìn ngón tay em đeo nhẫn nhé. Nhưng em sợ chết quá, em chết đi rồi anh sẽ còn ai để thương, còn ai để cưới làm vợ... mà anh lấy người khác em ghen, em chết không nhắm mắt. Con gái Huế ghen dễ sợ lắm, ghen cay như ớt. Anh ơi, ớt đầy một vườn mà bữa ăn nào em cũng thèm tới rớt nước miếng. Em muốn được ăn trái ớt trước khi chết để thành một con ma ghen kinh khủng, em nói bậy quá rồi. Lại bắt đầu bắn đó anh. Làm sao đưa cơm lên cho anh Văn, làm sao cho anh ấy trốn đi được. Ngọn đèn cầy đặt trong hầm lại sắp hết. Phải tiết kiệm, thôi em tắt. Nằm xuống khoảng tối em sẽ nhớ anh, nhớ anh như điên để rủi có chết đêm nay còn tưởng tượng ra anh, anh nghẹ Ngọn đèn lụi quá rồi, chữ em viết không biết đang lên dốc Nam Giao hay xuống dốc bến Ngự ...

Anh Phan,

Tai nạn đã xảy ra rồi. Sáng hôm nay chị Tư ra khỏi miệng hầm thật sớm để đưa vắt cơm lên trần nhà cho anh Văn, sợ lát nữa mấy ổng vào kiểm soát, chị vừa ra khỏi miệng hầm thì bị mảnh bom chơm. Máu ra nhiều quá. Em phải xé chiếc áo dài mới để băng bó cho chị. Bây giờ chị đang nằm lịm nơi chân em đây này. Còn anh Văn, anh ấy đã chết. Anh Phan, anh Văn không bị bom không bị đạn, anh đói lả và rơi từ trên trần nhà xuống, chết liền tại chỗ. Xác anh Văn đang nằm nơi chiếc sập gụ của ông nội, nằm chung với ông nội em còn sống. Má đã khóc lóc xin mấy anh ngoài nớ ra vườn chôn tạm anh Văn nhưng họ nói ra ngoài đó máy bay thấy đào đất rồi bắn xuống. Trưa nay mấy ổng họ lại rút lên phía trên nữa rồi. Má nói có thể trốn được. Nhưng trước khi trốn đi tản cư, Phải tìm cách chôn anh Văn đã. Cách tốt nhất là đặt anh Văn trong hầm này, khi về hãy haỵ Nhưng lại gặp chuyện phiền phức khác là chị Tư và ông nội. Chị Tư bị thương, khó khiêng đi, ông nội thì nhất định ở nhà. Cả nhà khóc mãi, ông vẫn không đổi ý. Chị nói thà chết ở nhà, và năn nỉ cả nhà nên tìm cách trốn đị

Anh ơi, gia đình em sao thê thảm thế này. Không, đâu phải chỉ gia đình em. Nhà chú Bảy xích lô đã chết hết, cả một cái hầm sụp xuống. Đứa cháu bên đó chạy sang cho hay vậy. Ngoài đường còn những xác người chưa chôn. Chị Thọ cho biết là bây giờ chỉ có hai lối đi, một là xuống cầu bến Ngự, rồi băng về bên kia sông, nghe nói có Mỹ, một là đi ngược lên Tây Thiên. Nhưng lên Tây Thiên thì gặp họ cũng không sống được. Bà Minh, anh Vỹ, anh Cao, bác Hịch đã bị họ bắt theo lên Tây Thiên hết rồi. Nhà mình có anh Văn đã chết. Còn bà già, con nít. Có em thì họ chưa bắt đi, vì vậy má nói phải trốn. Đêm qua họ đem mấy cậu sinh viên vào xử tại sau vườn nhà. Em nghe thấy tiếng súng bắn, tiếng người hét, họ vào nhà xin chiếu, chiếu hết rồi. Em nghe họ đào sau vườn. Họ lấp đất, rồi họ kéo nhau đị Đại bác vẫn câu lên đều đều. Má nói đến chiều tối, khi bớt tiếng đại bác, sẽ tìm cách trốn ra khỏi nhà. Ở đây thì thế nào cũng chết. Nhưng ông nội thì sợ chết đường. Em không chịu ý kiến ông nội. Thà mình cứ đi tìm lối thoát còn hơn ở nhà chịu chết. Phía dưới dốc cầu người ta đi cũng nhiều, chết cũng nhiều, buổi sáng khi khóc anh Văn, em nhìn ra cửa ngõ thấy một bà mẹ đang nhét một đứa nhỏ vào bụi chè tàu trước cổng rồi vừa khóc vừa chạy. Em chưa kịp la thì phải vào hầm vì những tiếng nổ gần quá, con Mẹo có ra coi, hắn nói thằng nhỏ chết rồi, đang bị kiến đỏ bu đầy người, có con chó Mực đang rình rập vào ăn thịt. Lũ chó đói quá, chúng cứ xông vào nhà. Trên sập của ông nội có một đống gạch thật lớn. Ông lấy ném để canh xác anh Văn. Từ sáng đến giờ, ông nội vừa khóc vừa đọc kinh, đôi khi ông chửi bới lung tung. Có một trái đạn rớt giữa sân, mảnh bay đầy sân nhà mà chỗ ông nằm vẫn yên lành, ông nói đạn sợ ông rồi, ông chỉ sợ bầy chó đói.

Anh ơi! chắc em chết, gia đình em chết hết. Em khóc ròng đây, em khóc muốn ngất khi nghĩ rằng, khi yên, anh sẽ tới tìm em nơi này, anh sẽ không thấy xác em đâu nữa. Tay em nằm trong bụng con chó này, mặt em ở trong bụng con chó khác. Anh ơi, em tội tình chi mà không được một nấm mồ. Anh Văn em, ông nội em... Em thèm cúng giỗ, thèm được người ta cúng giỗ quá. Bây giờ em mới hiểu tại sao mọi nhà đều cúng chiều ba mươi, tại sao có trầm hương, có cô hồn, có ác quỷ.

Anh Phan, em vừa nghe cả nhà bàn sáu giờ chiều nay sẽ trốn đi vùng khác, ông nội ở lại, chị Tư ở lại, xác anh Văn đặt trong hầm, má em với Út, với Tây, với Bằng sẽ trốn đị Mẹo đi theọ Bác Chắc ở lại canh chừng ông nội và rửa vết thương cho chị Tự Ông nội, chị Tư sẽ vào hầm nằm chung với anh Văn để khỏi đuổi chó. Em sẽ đặt lá thư này dưới chiếc sập gụ, chiếc sập gụ lát nữa đây sẽ được đem tới kê trước miệng hầm. Nếu em chết, má sẽ chỉ cho anh thấy lá thư này. Em nghĩ là má sẽ sống, cả em cũng phải sống. Chiếc nhẫn mấy ngày nay đã lỏng lẻo, nhưng em vẫn đeo, coi như một thẻ bùa may mắn. Anh ơi, anh đang ở Truồi hay ở đâu. Em lo sợ quá... Chiều tối em sẽ đi, chưa biết là tìm thấy sự sống hay sự chết.

Đến hôm nay đèn cầy hết, thực phẩm chỉ đủ cho hai người ăn trong mười lăm hôm. Cầu mong sẽ yên sớm hơn. Nghe nói Mỹ đã chiếm được Công-chánh, phía hữa ngạn. Anh có về đến đó chưa?

Em đã ăn hết những bông hoa tường vi của anh đêm ba mươi Tết, thuốc trường sinh, thuốc tình yêu. Anh ơi, em phải sửa soạn để đi, lá thư này xin gửi lại dưới sập gụ..



--------------------------------------------------------------------------------


Từ trường Kiểu-mẫu, Phan đã mấy lần kiếm cách đi lên mạn bến Ngự, nhưng mấy ngày nay, súng nhỏ súng lớn nổ ran về miệt đó. Phan đi lần được tới bờ sông, người Mỹ đuổi Phan trở lui lại, Phan đứng dọc đường đón mọi người tản cư đi qua, hỏi thăm tin tức, nhưng chàng cũng không nhận được một tin tức nào. Cho tới khi gặp được một người từ bến Ngự chạy về lánh nạn ở Tân-lăng, Phan đến hỏi tin tức, được biết gia đình Diễm một nửa còn mắc kẹt ở lại, một nửa đã trốn theo đường rầy về An Cựu, nhưng tới nửa đường thì Diễm bị một trái bom rơi trúng, cả thân thể Diễm bay kẹt vào một bụi cây. Chỉ nghe chừng đó Phan đã bụm mặt khóc òa, chàng không còn đủ sức hỏi thăm thêm gia đình Diễm nữa. Mười mấy ngày sau, khi Bến Ngự đã dẹp xong, Phan là người trước nhất đi dọc theo đường rầy xe hỏa về Bến Ngự. Dọc đường, Phan đã nhận ra xác Diễm. Diễm chỉ còn lại đầu tóc, chiếc mặt đã bầm dập, cả người đã sình thối, nàng kẹt vào giữa bụi cây, và những dòng nước vàng đã chảy xuống. Cánh áo phin trắng của Diễm đã rách nát, nhưng nơi ngực áo, hai chữ P D lồng nhau thêu bằng chỉ trắng vẫn chưa bị mục, và nhờ đó Phan nhìn ra xác Diễm. Diễm mất một cánh tay, và nơi bàn tay còn lại, Phan không nhìn thấy ngón đeo nhẫn đâu hết. Ngón tay đeo nhẫn của Diễm đã bị cắt lìa. Phan tìm cùng khắp không thấy vết tích đốt tay và chiếc nhẫn đó nữa.

Khi đem xác Diễm về tẩm liệm, mọi người phát giác ngón tay đeo nhẫn của nàng đã nằm gọn trong đám ruột bầy nhầy, không ai hiểu tại sao, và chiếc nhẫn cũng không tìm thấy.

Chôn cất Diễm xong, Phan đi tìm mẹ Diễm, bà đang nằm tại một bệnh viện của Mỹ. Phan tìm tới ngôi nhà cũ của Diễm, ông nội nàng đã chết, chị Tư cũng đã chết, xác của Văn, của ông nội, của chị Tư bị chó chui vào gặm nát, người mất tay, người mất chân. Khi dở cái gập sụ ra để lôi những xác chết, Phan đã tìm thấy bức thư của Diễm.

Chiếc xe của Diễm vẫn còn nguyên, dựng ở một góc tường chưa bị sập. Phan dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà, chàng dắt đi bộ chớ không ngồi lên đạp.

Căn nhà của Phan chỉ bị thủng mấy lỗ đạn. Những ngày sau đó, bạn bè của Diễm còn sống sót, chiều đi ngang qua con đường hàng Đoát thấy Phan ngồi trên chiếc xe đạp, dắt theo một chiếc xe đạp, và bên ghi đông chiếc xe không người, lủng lẳng cột một chiếc nhẫn vàng. Bạn bè không ai dám hỏi thăm, dám an ủi, vì Phan không bao giờ trả lời, không bao giờ đứng lại nghe ai nhắc tới tên Diễm.

Con đường hàng Đoát đến bây giờ vẫn còn đẹp, và chiều chiều vẫn còn những đôi tình nhân song song đạp xe đi trên đó. Bóng dáng của Diễm cũng như những đống gạch vụn, những dấu bom đạn đã lùi dần trong trí nhớ bạn bè. Người ta bắt đầu quen dần với cảnh Phan vừa đi vừa dắt thêm một chiếc xe đạp bên cạnh. Không ai còn thì giờ nhắc tới mối tình của họ .









--------------------------------------------------------------------------------


Tài liệu tham khảo

Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Chúng Ta, nhiều tác giả, NXB Sóng, Sài Gòn, 1974.
Courtesy LIF




Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #96 - 11. May 2008 , 03:41
 
Mồ côi mẹ liếm lá đầu đường

T.Vấn


...



▪ Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

(Trần Trung Đạo)



Một người bạn tôi vừa mới mất mẹ. Mẹ anh đã thọ được 75 tuổi và có lẽ sẽ sống thêm vài năm nữa nếu bà không mắc phải căn bệnh tiểu đường dai dẳng. Trong những bức điện thư gửi cho tôi, anh biểu lộ một tâm trạng rất chán nản, buồn rầu. Thậm chí anh quyết định ngưng một số công việc thường ngày liên quan đến sách vở viết lách mà anh xem đó như là những khoảnh khắc hoàn toàn  thoát tục, giúp anh tạm quên mọi phiền toái của cuộc sống. Tôi chẳng may mất mẹ từ năm 10 tuổi. Tất cả hồi ức của tôi về mẹ là hình ảnh người đàn bà vừa hơn 30 tuổi đời, tấm thân gầy đét khô quắt vì sự tàn phá của vi trùng ung thư, nằm thoi thóp đợi chết trong căn nhà tồi tàn thuộc khu xóm nghèo Vườn Chuối, Sài Gòn. Khi bà qua đời, tôi đã khóc những giọt nước mắt cuối cùng của tuổi thơ ngắn ngủi. Và sau đó, tôi sống cuộc đời mình như  cỏ hoang mọc dại – mồ côi mẹ liếm lá đầu đường – Cho nên, đến bây giờ, đã sống gần hết một đời người, tôi vẫn như còn cảm được  nỗi đau mất mẹ ở một người lớn tuổi như anh bạn tôi nó sâu sắc cỡ nào, chứ không  đơn giản chỉ là cảm thức mất mát một người thân yêu, đã từng sống với mình bao nhiêu năm trời, đã từng gần gũi chia sẻ với mình bao đắng cay ngọt bùi

Nỗi đau mất mẹ lớn hơn và khác hơn nhiều cái cảm thức thông thường ấy.

Hình tượng về người Mẹ quả thật lớn lao. Mẹ là chỗ khởi đầu của một con người. Từ đó anh ta ra đời, trưởng thành, làm những điều vĩ đại cho cuộc sống. Mẹ cũng là chỗ quay về của một đời người. Nhất là khi một người gặp nhiều điều không như ý trong cuộc sống. Mà trong cuộc đời này, mấy ai không có đôi lúc cảm thấy mình chỉ là chiếc bóng vật vờ đi bên lề cuộc đời, bị cuộc đời khinh bỏ, ganh ghét, những lúc ấy, chỉ có một nơi chốn để trở về, đó là căn nhà của mẹ. Căn nhà có thể nghèo nàn, đơn sơ, nhỏ bé nhưng đó vẫn là căn nhà của mẹ, từ đó, một đời người được sinh ra, nuôi dưỡng. Cũng như hình dáng người Mẹ – nhất là người mẹ Việt Nam – nhỏ bé, lam lũ, quê mùa, ít học nhưng tấm lòng thì  bao la như biển Thái Bình và sự khôn ngoan của người mẹ thì hàng vạn pho sách thế gian này tích lũy được  cũng chỉ là sự ghi chép những lời dạy của người mẹ truyền lại cho con.

Người mẹ của anh bạn tôi, là bóng cả che cho anh trong suốt  hơn 50 năm làm người, nay bà bỏ cõi trần  mà đi, cũng có nghĩa là anh đã mất đi một chỗ dựa vững chắc nhất trong đời mình.

Cái cảm thức chông chênh ấy chỉ xảy ra khi người ta mất mẹ .

Tôi đã từng chứng kiến cảnh một người mẹ lặn lội đường xa từ  một làng quê  miền Tây đến thăm con mình ở trại cải tạo Long Giao, trên tay bà chỉ có mỗi lon  Guigoz mắm  ruốc. Bà nghèo quá không thể lo hơn được nữa cho con. Nhìn hai tấm thân gầy gò ôm nhau khóc bên hàng rào kẽm gai – một của người mẹ, một của người con cải tạo – tôi hiểu hơn được một chút nỗi bất hạnh lớn lao của mình. Lúc ấy, tôi ước gì ít nhất mình cũng có một người mẹ nghèo như thế để được ôm, để được khóc. Tôi – kẻ mồ côi liếm lá đầu đường – được một cô gái trẻ và đẹp đến thăm . Cô mang cho tôi rất nhiều thứ : tình yêu, nước mắt, tấm lòng chung thủy (cánh hoa mỏng manh trước gió của một thời oan nghiệt), những túi quà nặng trĩu. Nhưng với tôi, cô gái ấy vẫn chỉ là một người con gái yêu tôi và tôi yêu. Mà tình yêu trong thời thổ tả ấy, với thân phận Từ Hải chết đứng, nhắm mắt đưa chân vào chốn lao tù không biết đến ngày về , thì làm sao trông cậy được vào nghị lực nhỏ nhoi của một người con gái. Sau lần gặp gỡ đó, tôi lầm lũi bước chân xuống tàu ra Bắc. Và tất nhiên, đường xa diệu vợi, thời gian cũng dài thăm thẳm, làm sao tôi dám nghĩ có một ngày được nhìn lại người con gái ấy. Nhưng tôi biết chắc chắn một điều, người mẹ nghèo khổ gầy gò tội nghiệp của anh bạn cùng tù, nếu sức khỏe bà cho phép, sẽ một ngày có mặt ở chốn đèo heo hút gió này  thăm anh, có thể cũng chỉ với lon Guigoz mắm ruốc nhiều muối hơn và tấm thân gầy gò xơ xác hơn. Nhưng có hề gì, tấm lòng thương con to lớn của bà – cũng như bao bà mẹ khác - vượt lên trên hết những nhỏ bé phù phiếm ấy, vượt lên trên hết con đường thăm nuôi Bắc Nam vạn dặm, vượt lên trên hết những năm tháng dài dằng dặc có nằm  mơ cũng không dám nghĩ đến một ngày về. Với bà, bất kể mọi đổi thay của thời thế, của đất trời, con của bà vẫn cứ mãi mãi là con của bà. Mà dẫu cho bà không thể một lần ra thăm con nơi đất Bắc, thì căn nhà của bà – túp lều tranh dột nát bên bờ ruộng cằn – vẫn sẽ là chỗ cho con bà trở về, nếu quả thật có một ngày về và nếu anh còn sống sót để trở về.

Còn tôi, tôi đã sống sót sau nhiều năm khổ ải và đã có một ngày về. Nhưng người con gái tôi yêu không còn đó để đón tôi ngày tôi thoát kiếp tù đày. Tôi không hề trách móc nàng, vì thử thách ấy lớn quá đối với  rất nhiều người con gái của thế hệ tôi năm xưa. Ngay cả những người vợ còn đành chịu thua số phận, huống gì là những người tình.

Bước những bước chân buồn tênh trên đường ra khỏi cổng trại giam, tôi nghĩ đến bà mẹ già nghèo khổ và anh bạn cùng tù tôi đã gặp nhiều năm về trước. Anh về trước tôi vài tháng. Hẳn bước chân anh rất hân hoan cũng trên con đường đất đỏ tôi đang đi. Vì anh có một chỗ để trở về. Và biết  mình sẽ được chào đón bằng cả một tấm lòng của người mẹ. Còn tôi, không còn mẹ để trở về. Và cũng không còn ai khác đón tôi ngày ra khỏi trại tù sau gần 9 năm biệt xứ.  Thêm một lần nữa, tôi hiểu thêm được một chút nỗi bất hạnh lớn lao của mình.

Cái cảm thức hụt hẫng ấy – vì mất đi  lòng tin tưởng rằng có một người luôn toàn  tâm toàn ý nghĩ về mình – chỉ xảy ra khi người ta mất mẹ.

Từ bấy đến nay, đã bao nhiêu nước chảy qua cầu. Tôi đã gặp một người con gái sẵn lòng đi bên tôi trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Khi mới gặp nhau, tôi thường dắt nàng ra ngồi bên mộ mẹ tôi để trò chuyện. Vì nghèo quá, ít khi nào chúng tôi có tiền để đi ngồi quán. Nhờ vậy, mộ mẹ tôi bớt đi vẻ hoang vu cỏ mọc ngập đầu từ những ngày tôi còn ở tù. Rồi tôi cũng dành dụm đủ tiền để mướn người hốt cốt cho mẹ tôi, cho bố tôi , bỏ vào hũ, và đem gởi ở một nhà thờ , trước ngày  tôi cùng người con gái ấy rời nước ra đi. Tôi không có một tấm hình nào của mẹ mình. Hình như trong đời mẹ tôi, cũng chưa một lần bà ngồi xuống để cho người ta chụp một bức hình. Cho nên, trong đầu tôi, ngoài tấm thân gầy đét nằm chờ chết trên giường bệnh của bà, khuôn mặt của người mẹ là khuôn mặt người đàn bà  nghèo xơ  xác năm xưa tôi tình cờ nhìn thấy trong một buổi thăm nuôi ở trại Long Giao trước khi chúng tôi bị chuyển trại ra Bắc. Người mẹ nghèo này, năm nay nếu còn sống chắc cũng vào khoảng tuổi của người mẹ mới mất của anh bạn tôi. Và anh bạn tù năm nào, chắc cũng đã cho mẹ mình được những đứa cháu nội và nhắc lại cho  chúng biết rằng, đã có những năm tháng tận cùng nhất cuộc đời của anh và anh đứng dậy được là nhờ ở tấm lòng người mẹ già đi thăm anh với chỉ một lon Guigoz mắm ruốc. Ôi hạnh phúc biết bao cho anh bạn tù năm xưa của tôi. Anh có được rất nhiều điều hãnh diện để kể cho con cháu anh nghe.


Hôm qua, trong một buổi họp mặt cuối tuần với mấy người bạn thân, nhân câu chuyện về tuổi già và cái chết đang chờ sẵn cuối đường, một người bạn của tôi đột nhiên ôm mặt thổn thức ngay trước mặt vợ con mình. Người mẹ già của anh hiện đang nằm thoi thóp trong một bệnh viện ở Việt Nam. Biết mẹ mình tuổi già như ngọn đèn leo lét, chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng qua cũng đủ kết thúc một cuộc đời chỉ biết đến chồng và con, nhưng nỗi đau của anh còn là sự cách trở cùng với muôn vàn những bề bộn hàng ngày khiến anh không thể bay về ngay được bên mẹ, nhìn mặt mẹ lần cuối, và hát cho mẹ nghe bài hát anh mới viết tặng mẹ mình :


...

Mẹ bỏ ta đi
Mẹ về cõi Phật vô ưu
Những đứa con tuổi năm mươi
Khóc như ngày mới lớn

(Thơ Ngọc Phi- Nhạc TLV)



Nhìn những giọt nước mắt già nua trên khuôn mặt kinh qua nhiều sóng gió cuộc đời của anh bạn, tôi lại hiểu thêm được một chút nữa nỗi bất hạnh lớn lao của mình. Tôi không có được tiếng khóc như ngày mới lớn ở tuổi năm mươi  như những người bạn của tôi, vì tôi không còn mẹ già, dù là người mẹ già đang sẵn sàng để bỏ con đi bất cứ lúc nào. Có nỗi đau ấy còn hơn không có gì khiến mình có thể rơi nước mắt.

Những giọt nước mắt ở tuổi năm mươi như anh bạn tôi chỉ rơi xuống không e dè, không dấu diếm khi người ta nghĩ đến mẹ già đang chờ con về để nhìn con một lần cuối.

■ Trong những ngày đầu của tháng 5 hàng năm, các con tôi luôn xôn xao bàn tán với nhau nên mua món quà nào cho mẹ chúng nhân ngày Hiền Mẫu (Mother’s Day). Có năm, thằng anh lớn của chúng ra chợ Wal-mart vác ngay cái vòng hoa giả (vốn là để cho người ta đem ra cắm ở mộ người chết vì tháng 5 hàng năm cũng có ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong – Memorial Day) về, rồi mấy anh em hí hửng đem ra tặng cho mẹ , chúc mẹ sống đời với chúng con. Từ lần đó, năm nào chúng cũng xin tôi cho ý kiến về việc mua món gì tặng mẹ, rồi kín đáo xin phép mẹ rủ bố đi thư viện, nhưng thực ra là đi lùng mua một món gì đó cho ngày Hiền Mẫu.

Các con tôi còn quá nhỏ để tôi có thể giải thích những điều vượt khỏi tầm nhận thức của chúng về ý nghĩa to lớn của hình tượng người mẹ, mà hiện nay, chúng mặc nhiên thụ hưởng. Cho nên, tôi để chúng biểu lộ tình cảm biết ơn một cách vật chất nhiều hơn là tinh thần. Để đến một ngày nào đó (mà tôi hằng nghĩ sẽ còn lâu lắm và ao ước rằng tôi không còn sống để chứng kiến), chúng sẽ tự mình đau đớn  hiểu được những mất mát mà bố của chúng đã chịu từ năm mới lên 10 tuổi .

Và kinh nghiệm cả cái cảm giác chông chênh, hụt hẫng mà anh bạn thân của tôi đang đóng cửa gậm nhấm trong những ngày anh vừa tròn 55 tuổi đời.



T. Vấn
(Nhân ngày Hiền Mẫu)

Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #97 - 11. May 2008 , 13:03
 
TL xin gơỉ đến cả nhà, một đoản văn thât hay sau đây do bạn hiền sưu tấm.

Câu Chuyện Bát Mì


Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.


o O o


Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.

Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào. Đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.

- Xin mời ngồi!

Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.

- Đương nhiên... đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.

Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:

- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. "Ngon quá" - thằng anh nói.

- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.

Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: "Thật là ngon! Cám ơn!" rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.

Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

- Đương nhiên... đương nhiên, mời ngồi!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:

- Cho một bát mì.

Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:

- Vâng, một bát mì!

Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:

- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?

- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: "Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!"

Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.

- Thơm quá!

- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!

- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!

Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là "200đ/bát mì" và thay vào đó giá của năm ngoái "150đ/bát mì". Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy "Đã đặt chỗ". Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.

- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.

Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:

- Làm ơn nấu cho chúng tôi... hai bát mì được không?

- Được chứ, mời ngồi bên này!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy "Đã đặt chỗ" đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì".

- Vâng, hai bát mì. Có ngay.

Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.

Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.

- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!

- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?

- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.

- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.

Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.

- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!

- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?

- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.

- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.

- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!

- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!

- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.

- Có thật thế không? Sau đó ra sao?

- Thầy giáo ra đề bài: "Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?" Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: "Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc". Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: "Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn". Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: "Cố gắng lên! Chúc hạnh phúc! Cám ơn!"

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.

- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.

- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?

- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: "Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phấm giấy "Đã đặt chỗ" nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.

Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

"Việc này có ý nghĩa như thế nào?" Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai "cũ" trở thành "cái bàn hạnh phúc", mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.

Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.

Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên.

Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:

- Làm ơn... làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?

Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:

- Các vị... các vị là...

Một trong hai thanh niên tiếp lời:

- Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lực để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:

- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!

Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:

- Ồ phải... Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.

Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:

- Có ngay. Ba bát mì.


o O o


Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng: chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.

Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng: "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt". Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.
Back to top
« Last Edit: 11. May 2008 , 13:08 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3532
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #98 - 06. Aug 2008 , 17:25
 
Ông già bươi rác





Tiểu Tử - Truyện ngắn


Thành phố Hồ Chí Minh quang vinh vẫn còn rất nhiều rác. Hồi thời trước, Sài Gòn đã có nhiều rác, nhưng so với bây giờ thì… thua xa. Rác bây giờ chẳng những nhiều hơn mà còn… rải rác hơn. Điều này chẳng có gì khó hiểu hết. Bởi vì, trong chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa, cái gì của ta cũng đều hơn của lũ chúng nó cả: rác của chúng nó là rác tư bản, rác ngụy,còn rác của ta là rác… nhân dân, do nhân dân, từ nhân dân mà ra. Có chính nghĩa, hơn là lẽ tất nhiên!

Vậy, ở một đống rác khá lớn nằm trên vỉa hè một con đừơng khá rộng trong thành phố, có một ông già ngồi ung dung như đang ngồi ở một nơi sạch sẽ! Ông già đó tuổi cỡ ngoài tám mươi, có chòm râu bạc giống râu bác Hồ. Ổng đội mũ tai bèo, mặc bộ đồ bà ba đen, mang dép cao su đúc. Ổng ngồi trên một ghế bằng nhựa nhỏ, thấp, loại ghế ngồi cho trẻ con. Ổng cầm cây gậy trúc dài bươi bươi rác, mắt nhìn châm chú chỗ đang bươi, mặc cho đàn ruồi bay lên đáp xuống như giành rác với ổng! Lâu lâu, ổng nói một mình: "Nó nằm lẫn đâu đây hè! Mẹ bà nó!".









...




Đường này lúc nào cũng đông ken. Xe đạp, xe gắn máy, xe hơi… hai luồng chen nhau chạy, giành mặt đường mà chạy, lòn lách lấn ép, bóp kèn inh ỏi. Chạy đầy đường như vậy mà chẳng ai nhìn thấy ở trên đỉnh đống rác cao nhòng đó có một ông già… Cho đến người đi bộ trên vỉa hè cũng chẳng thấy ai để ý đến ổng hết! Hơn hai chục năm sống quen với quá nhiều nghịch lý, con người ta không còn nhạy cảm trước những sự bất bình thường. Bởi vì cứ nhìn riết rồi quen con mắt, nên không thấy chướng, cứ nghe riết rồi quen lỗ tai nên không thấy ồn, cứ ngửi riết rồi quen lỗ mũi nên không thấy hôi. Đó là một quy luật. Tiếp theo đó là một quá trình đi xuống dốc của con người, vừa nhanh vừa gọn, bởi vì nó dễ ợt hà!

Ông già lâu lâu ngừng bươi rác, móc túi lấy bọc ni-long thuốc rồi chậm rãi vấn hút. Điếu thuốc của ổng to bằng ngón tay cái, nên mỗi lần ổng nhả khói là thấy mù mịt, làm như đống rác đang ngún cháy vậy!

Trong khi ổng hút thuốc, ổng không bươi rác. Làm như hút thuốc là qua giai đoạn ổng nghỉ xả hơi! Ổng xoay người ra nhìn thiên hạ chạy loạn dưới đường giống như ổng đang ngồi xem kịch. Một lúc sau ổng nói một mình: « Thiệt… không giống ai hết!» Mà thiệt! Người ta chạy đi đâu mà lúc nào cũng thấy chạy đầy đường. Người nào cũng hối hả. Người nào cũng bóp kèn. Kẹt không kẹt gì cũng thấy bóp kèn! Làm như nếu không bóp kèn thì xe sẽ… không chạy vậy! Còn luật lệ giao thông thì hầu như không có. Mạnh ai nấy chạy. Tay mặt tay trái gì cũng… như nhau. Đàn ông đàn bà gì cũng chen lấn lòn ép… như nhau. Chẳng ai nhường ai hết. Đàn ông con trai có người ở trần bận quần xà-lỏn, có người lại mặc quần áo gin, bên trong có sơ-mi và áo gi-lê giống như đang ở xứ lạnh! Còn đàn bà con gái thì phần đông ăn mặc không để… hở một chỗ nào hết. Áo pô-lô ngắn tay, quần dài, găng tay cao tới… nách, đội kết loại đấu thủ dã cầu, mang kiến đen, bịt mặt bằng chéo vải thêu bông hoa hay có ren giống đàn bà á-rập! Nếu có mặc áo dài thì cũng mang găng tay ngắn, rồi đội kết, rồi kiến đen, rồi bịt mặt! Thành ra không nhìn ra được ai là ai hết!

Hút tàn điếu thuốc, ông già lại quay về đống rác, châm chỉ bươi. Một lúc lại nói: "Mẹ bà nó! Tao bươi riết rồi cũng ra. Làm gì rồi cũng thấy!".

Một cô gái nhỏ xách tới xô rác đổ xuống làm lũ ruồi lúc nhúc bay lên, thấy ông già ngồi đó, cô hỏi:

- Bộ ông không sợ hôi sao mà ngồi đó vậy?

Ông già cười mũi:

- Thời bây giờ, ở đâu mà không hôi không thúi, hả? Nó tràn đồng thì ngồi ở đâu cũng vậy thôi.

Cô gái lại hỏi:

- Thấy ông bươi bươi. Bộ ông mất cái gì hả ?

Ông già ngừng tay, hỏi lại:

- Mất hả? Mất cái gì? Còn khỉ gì đâu mà mất !

- Vậy chớ ông bươi rác làm gì? Rác bây giờ đâu còn có gì đâu mà lượm.

Ông già cầm gậy trúc gõ gõ vào đống rác làm lũ ruồi hốt hoảng bay lên vù vù.

Ổng hạ giọng:

- Tao bươi rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng mà hồi đó tao nuôi tao giấu trong nhà.

Có vẻ thấy ông già… khùng quá nên cô gái bỏ đi, vừa đi vừa nói :

- Họ là con người chớ bộ chuột bọ gì đâu mà ông tìm trong đống rác!

Ông già nhìn theo, nói lớn :

- Mà tao có nói tụi nó là con người đâu?

Tiếng của ông bị chìm lấp trong tiếng ồn hỗn tạp của đường phố, nên chẳng gợi được sự chú ý của ai hết. Ổng nhìn quanh, thở dài, rồi tiếp tục bươi…

Một thanh niên đang đi trên vỉa hè bỗng tấp vô đống rác vạch quần định đứng tiểu, một tay chống nạnh, trên môi phì phà điếu thuốc. Ông già nói lớn:

- Coi chừng! Nó phóng lên nó cắn sứt à!

Gã giật mình, vội vã buông quần bước đi như chạy. Vừa đi vừa nhìn lại, nét mặt còn đầy sợ hãi ! Ông già không nhìn theo, cũng không cười. Làm như điều ông nói là điều có thật chớ không phải đùa. Cho nên nghe ổng nói tiếp:

- Cái lũ khốn nạn này có thứ gì mà tụi nó không đớp!

Ổng nói mà đầu gậy vẫn không ngừng bươi. Bầy ruồi nhặng vẫn bay lên đáp xuống, đáp xuống bay lên, lúc nha lúc nhúc…

Gần trưa, một người đàn bà đứng tuổi từ trong hẻm gần đó bước ra đi lại đống rác, thưa:

- Mời ông Hai về ăn cơm.

Ông già nói “ờ” rồi chống gậy đứng lên đi. Người đàn bà cúi lấy cái ghế nhỏ, xách đi theo phía sau ông, im lặng. Cả hai đi lần vào hẻm.

Con hẻm mới vào thấy rộng thấy thẳng, hai bên có phố lầu hai ba từng kiến trúc hiện đại, từng nào cũng thấy có máy lạnh lòi ra coi rất… văn minh! Hai dải phố lầu này kéo dài vào hẻm độ ba bốn mươi thước .Sau đó là một khúc quanh thẳng góc, rồi con hẻm chỉ còn lại không tới hai thước bề ngang, chạy quanh co rồng rắn vào tuốt bên trong tiếp nối với những con hẻm nhỏ khác không biết từ đâu tới mà cũng thấy… rồng rắn quanh co! Ở đây, nhà cửa lụp xụp hẹp té, khác hẳn với mặt tiền đồ sộ lộng lẫy. Đó là một thế giới khác, một thế giới nghèo khó núp sau cái thế giới phồn vinh bên ngoài. Người ta không thể nghĩ rằng nó nằm ngay trong lòng thành phố, cái thành phố mang tên Người từ hơn hai mươi năm…

Ông già và người đàn bà bước vào một căn nhà nhỏ hẹp của khu hẻm rồng rắn. Ông già nói:

- Tao bươi hoài mà chưa gặp thằng nào hết.

Một người đàn ông trong nhà nói cho lấy có:

- Vậy hả ông Hai ?

- Tụi nó chui rúc lì lắm. Mẹ bà nó! Hồi đó mà tao biết như vầy, tụi nó có chung vô quần trốn, tao cũng cởi quần tao giũ cho chết cha tụi nó hết!

…Người đàn ông trong nhà là cháu của ông già bươi rác, kêu ổng bằng ông chú, còn người đàn bà là vợ hắn. Hai vợ chồng đã trộng tuổi nhưng chưa có con. Họ lãnh may gia công quần áo cho một công ty may mặc, nên trong nhà lúc nào cũng nghe tiếng máy may chạy xành xạch suốt ngày. Họ ngủ trên cái gác lửng nhỏ bằng hai chiếc chiếu, còn ông già thì có cái ghế bố kê trong góc nhà. Nhà nhỏ xíu nên chỉ có một bóng đèn điện treo ở giữa .

Hai vợ chồng người cháu đem người ông về nuôi trong nhà từ ngày ổng ra tù cách đây hơn bảy năm…

Theo lời kể lại của người cháu thì “ông chú” ngày xưa là một nhà doanh thương - đại doanh thương - Ổng độc quyền nhập cảng vỏ ruột xe gắn máy, xe hơi, xe máy cày. Ổng có mấy kho hàng lớn ở Khánh Hội, một văn phòng ba từng lầu ở Chợ Cũ, một vi-la to ở đường Phan Thanh Giản và một vi-la vừa vừa nằm khuất trên một đồi thông ở Đà Lạt. Vợ và hai con ổng đều ở bên Pháp để làm một “đầu cầu” bên đó. Còn bên này ổng có một bà nhỏ lo về giao tế, xã hội và nhân viên. Lâu lâu, ổng bay qua Âu Châu thăm vợ con và làm việc với các hãng chánh ở bên đó.

Ổng nhiều thế lực lắm. Người cháu nói: “Hồi đó, tôi đang làm thợ may cho nhà may X thì bị động viên.Vậy mà ổng kéo tôi ra cái rẹt! Có điều làm tôi không hiểu là ổng như vậy mà trong nhà ổng nuôi Việt Cộng. Ngay như cái nhà trên Đà Lạt mà ổng dùng cho mấy ông lớn mượn, từ anh quản gia đến chị bếp đến mấy người làm vườn đều là cán bộ Việt cộng ráo. Ổng nuôi họ như vậy cho đến năm 1973 họ mới lần lượt rút đi …”.

Hồi tháng tư 1975, ổng không di tản. Còn nói: “Cách mạng chớ bộ ăn cướp giết người đâu mà sợ!”. Sau đó mấy người ổng nuôi có về thăm, ổng cũng đãi đằng hậu hĩ. Vậy mà khi cách mạng “đánh tư sản mại bản”, ổng cũng bị “ đánh” tơi bời , tài sản bị tịch thâu hết còn bị đi tù cải tạo nữa. Vợ lớn của ổng chết ở bên Pháp, bà vợ nhỏ đi chui rồi mất tích ở biển Đông. Còn hai đứa con, sau này có người quen từ Paris về cho biết, đã phung phí hết tiền của mà ổng đã để cho họ bên đó rồi dọn nhà đi mất. Thành ra đi thăm nuôi ổng chỉ còn có vợ chồng người cháu thợ may…

Khi ông chú được thả ra khỏi tù - nghĩa là nhà nước xét thấy ổng đã hoàn toàn được cải tạo - ổng đã trở thành một người khác: một người mất trí! Người cháu nói: “Hồi đem ổng về ở với tụi tôi, tôi cũng ngại. Sợ ổng chê. Nhưng rồi ổng vẫn ở tự nhiên, không phàn nàn gì hết, tụi tôi cũng mừng. Rồi lo không biết chịu đựng ổng nổi không. Nhưng rồi thấy ổng không có điên loạn như những người điên khác nên tụi tôi cũng yên tâm. Ổng không nói gì hết, tối ngày bắc ghế ngồi dưới mái hiên hút thuốc đọc sách hoặc ngồi cả giờ nhìn đường hẻm như người ta châm chú coi ti-vi! Vậy mà lâu lâu ổng cũng nói nhiều câu làm mình ngạc nhiên tưởng như ổng là người bình thường. Khi mình thử hỏi tiếp, khơi lại thời cũ thì ổng lại ngẩn ngơ. Thấy tội nghiệp! Thiệt ra, người ta chỉ thấy ổng điên là khi nào ổng đi bươi đống rác, cứ hai ba hôm là ổng đi bươi…”

Và như vậy, “ông Đại Doanh Thương” đó bây giờ ngồi bươi đống rác giống như ổng bươi lại dĩ vãng của ổng, một dĩ vãng mà rác rến vun đầy. Ổng đâu biết rằng , đối với nhà nước cách mạng, ổng cũng chỉ là một thứ rác rến mà nhà nước đã vứt bỏ trên lề xã hội, không hơn không kém…


© DCVOnline

Back to top
 
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #99 - 28. Aug 2008 , 06:10
 
Hồi Ký:
Nội
 

Tiểu Tử 


LGT: Tiểu Tử, tên thật Võ Hoài Nam, tốt nghiệp kỹ sư tại Pháp, về Việt Nam làm việc và năm 1975, bị kẹt lại một thời gian, sau đó vượt biên và hiện định cư tại Pháp. Ông là tác giả những hồi ký đặc sắc mô tả những góc cạnh đặc biệt trong cuộc sống của người Việt sau cuộc 'đổi đời' tháng 4, 1975. Ngôn ngữ của ông giản dị, đối thoại tự nhiên, đậm đà hương vị miệt vườn Nam bộ, nên người đọc thấy bồi hồi xúc động như chính mình được sống lại những năm tháng của ngày xưa, khi còn ở quê nhà. Hồi ký 'Nội' sau đây cũng là những ghi nhận vô cùng cảm động những tình cảm chân thành của tác giả dành cho Nội, cho vợ, cho các con, trong hoàn cảnh tác giả phải chuẩn bị vượt biên, để lại người Mẹ già, vợ trẻ và các con thơ...


- Nội xuống kìa!   - Nội xuống! Ê! Nội xuống!- Nội xuống!

Bầy con tôi reo mừng, chạy ùa ra ngõ. Ngoài đó, tiếng xích lô máy cũng vừa tắt.Trong buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tôi, im lặng. Tôi hiểu: bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và hai đứa lớn sẽ vượt biên? Sáng sớm mai là đi rồi…Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ:- Không sao đâu. Để anh lựa lúc nói chuyện đó với má.Khi vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa xách giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói,hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà nội chúng nó từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh trái thịt thà …Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được thay thế bằng những món ăn do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm nếm. Nhờ vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất vào tay Việt Cộng…

Mấy con tôi thường gọi đùa bà Nội bằng 'trưởng ban hậu cần' hoặc chị 'nuôi' và lâu lâu hay trông có bà Nội xuống. Và lúc nào câu chào mừng của chúng nó cũng đều giống như nhau: 'Nội mạnh hả Nội? Nội có đem gì xuống ăn không Nội?' Mới đầu, tôi nghe chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu thốn triền miên của chế độ xã hội chủ nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi cũng chỉ nghĩ  đến miếng ăn thôi!Con gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay cặp kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lúc nào xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở điều đó và thường nói: 'Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể chuyện thôi!' Thật ra, nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại, bà nó cho đó là một thi vị của tuổi thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe, để lâu lâu bà cười chảy nước mắt.

Tôi hỏi má tôi:- Sao bữa nay xuống trưa vậy nội?Vợ chồng tôi hay gọi má tôi  bằng 'nội ' như các con. Nói theo tụi nó, riết rồi quen miệng. Lâu lâu, chúng tôi cũng có gọi bằng 'má' nhưng sao vẫn không nghe đầm ấm nồng nàn bằng tiếng 'nội' của các con. Hồi cha tôi còn sống, tụi nhỏ còn gọi rõ ra 'ông nội' hay 'bà nội'. Cha tôi mất đi, ít lâu sau, chúng nó chỉ còn dùng có tiếng 'nội' ngắn gọn để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn nhưng âm thanh lại đầy trìu mến.

Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời: -Thôi đi mày ơi!… Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch! Tao lên xe hồi sáng chớ bộ. Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon ghi-gô mỡ nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không nghe. Cứ đề quyết là tao đi buôn lậu!Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà đang phân trần ở Trảng Bàng:- Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mỡ nước? Ai đó nghĩ coi! Nội tiền xe đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu dại vậy hổng biết!

- Ủa? Rồi làm sao nội đi được? Bộ tụi nó giữ lại lon mỡ hả  nội? Con gái lớn tôi chen vào.- Dễ hôn! Nội đâu có đễ cho tụi nó 'ăn' lon mỡ, con! Mỡ heo nội thắng đem xuống cho tụi con chớ bộ.

Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong lúc các con tôi quây quần lại nghe: - Cái rồi …cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội  đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi nó muốn giải đi đâu thì giải.

Nghe đến đây, bày con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội tụi nó kể những chuyện 'gan cùng mình' của bà nội hồi xưa. Con út nóng nảy giục: - Rồi sao nữa nội?

- Cái rồi… lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ… cở đứng bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang. Nó đi qua khỏi rồi chớ, nhưng chắc nó nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi: 'Ủa? Bà Tám đi đâu mà ngồi đó vậy?' Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giào Chén ở Tha-La, tụi bây không biết đâu. Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe thì đã trưa trờ rồi…Ti! Kiếm cây quạt cho nội, con!Ti là tên con út.

Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình rồi đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nớ bớt cong. Má tôi đem từ Gò Dầu xuống bốn năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói: 'Nội thấy ba má tụi con gỡ bán hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con xài. Kệ nó, xấu xấu chớ nó lâu rách'.Con ùt cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói: tối nay nó có 'bạn' ngủ chung để kể chuyện!

Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi vào buồng mấy đứa con gái, tôi trong đó hỏi vọng ra:- Nội ăn gì chưa nội?

- Khỏi lo! Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ ra coi có hư bể gì không cái đã.  Rồi mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau.

Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng dào dạt. Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng còn gì thay đổi. Vẫn loại quần vải đen lưng rùa, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi thật đặc biệt do má tôi cắt may: miệng túi cao lên tới ngực chớ không nằm dưới eo hông như những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa: 'Cha… bộ sợ chúng nó móc túi hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội?' Má tôi cười: 'Ậy! Vậy chớ túi này chứa nhiều thứ quí lắm à bây'. Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn thận ghim miệng túi lại bằng cây kim tây!Tôi là con một của má tôi. Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò Dầu, quê tôi, má tôi ở luôn trên đó. Nói là để châm sóc mồ mả và vườn tược cây trái. Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất thương mấy đứa cháu. Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích - dạo đó, Việt cộng hay bắn hỏa tiễn vào Gò Dầu về đêm - má tôi thường chắc lưỡi nói: 'Thiệt… không biết cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô, hổng làm gì ráo'. Cái 'xứ' Sài gòn, đối với má tôi, nó 'tù chân tù tay' lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất đai rộng rãi, cây trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách cuốc xách dao ra làm vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất của các anh bà con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần.Các anh chị bà con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ. Cho nên, dù ở một mình trên đó, má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bầy con tôi thì xuống chơi với  chúng nó năm bảy bữa rồi về. Má tôi hay nói đùa là 'đi đổi gió'

Mấy năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn chật. Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để ăn. Má tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang 'cái gì để ăn' cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ rằng lẽ ra tôi phải nuôi má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi lăm còn má tôi thì tuổi đã về chiều. Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân viên nhà nước xã hội chủ nghĩa với lương kỹ sư 'bậc hai trên sáu', tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại chính má tôi phải cắt ca cắt củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi, giống như má tôi mớm cơm đút cháo cho tôi thuở tôi còn thơ ấu!

Thật là một 'cuộc đổi đời' đúng như Việt Cộng thường rêu rao: 'Cách mạng là một cuộc đổi đời!' Nhưng cuộc đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước!Lắm khi tôi tự hỏi: 'Rồi sẽ đi đến đâu?' Bấy giờ tôi đã trở thành 'trưởng ban văn nghệ' của cơ quan, một lối đi 'ngang' mà nhờ  đó tôi còn được ở lại với sở cũ. Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp chánh của tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không 'đạt yêu cầu'. Thành ra, tối ngày tôi chỉ lo cho đoàn 'nghiệp dư' của cơ quan tập dượt hát múa. Thật là hề. Còn về phần các con tôi, tương lai gần nhứt là đi đánh giặc Kampuchia, tương lai xa hơn thì thật là mù mịt!Trong lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người. Vậy là chúng tôi lấy quyết định cho hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và mấy đứa nhỏ, kể cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má tôi lo.

Ai chẳng biết vượt biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi không thoát là bị tù đày chẳng biết ở đâu, may mà đi thoát cũng chưa chắc là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số những người đi thoát, hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, 'vượt biên' là đi vào miền vô định…

Theo chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó.Tôi thắc mắc hỏi: 'Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội?' Bạn tôi cười: 'Ai cũng nghĩ như anh hết. Tụi Việt Cộng cũng vậy. Cho nên hể có trăng sáng là tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết. Hiểu chưa?'Bữa nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như vậy là chúng nó sẽ hiểu. Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi sau đó vợ tôi sẽ  liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay. Chừng đó thì 'sự đã rồi'…Bây giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không  được. Đành phải nói cho má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây? Và nói làm sao đây? Liệu má tôi có biết cho rằng tôi không còn con đường nào khác? Liệu má tôi có chấp nhận cho tôi không giữ trọn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con? Liệu má tôi … liệu má tôi …

Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng thấy ở đâu câu trả lời… Tôi ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày xưa đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì, một ít khoai lan, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có. Cho nó giống với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải 'tăng gia' cho đúng 'đường lối của nhà nước'. Thật ra, trồng trọt bao nhiêu đó, nếu có… trúng mùa đi nữa, thì cũng không đủ cho bầy con tôi 'nhét kẻ răng'! Vậy mà tên công an phường, trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen: 'Anh chị công tác tốt đấy chứ. Tăng gia khá nhất khu phố đấy! Các cháu tha hồ mà ăn'. Anh ta không biết rằng mấy nhà hàng xóm của tôi, muốn 'tăng gia', họ đã phải đào cả sân xi-măng hoặc sân lót gạch, thì lấy gì để 'làm tốt'?

Khi tôi trở vào nhà thì con út đang gãi lưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách. Tôi tự hỏi: 'Lạ quá! Chỉ có mình mình bú hồi đó mà sao làm teo vú nội đến như vậy được?' Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai cái núm đen đó đã nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ nghe má tôi kể lể công lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len lén từ phía sau lòn tay măn vú má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ lại:- Đừng! Nhột! Thằng  chơi dại mậy! Rồi má tôi cười văng cốt trầu.

Con Ti la lên:- Má ôi! Coi ba măn vú nội nè!Tôi cười hả hê thích thú. Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới lên ba lên năm… Và cũng trong khoảnh khắc đó, tôi đã quên mất rằng má tôi đã gần tám mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc! Và cũng quên mất rằng từ ngày mai trở đi, có thể  tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi nữa, để măn vú khi bất chợt thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm nay…

Chiều hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật tươm tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nấu canh chua lá giang, một loại giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới có. Món này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói: 'Canh chua phải nêm cho cứng cứng nó mới ngon'. Mà thật vậy. Tô canh nóng hổi, bốc lên mùi thơm đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá giang, mùi mặn đằm thấm của nước mắm và mùi tiêu mùi hành… Húp vào một miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh tô canh chua là tô cá kèo kho tiêu mà khi mang đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn vừa nồng cay lại vừa béo, bỏi vì trong cá kho có tép mỡ và trước khi bắt xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước gọi là 'để cho nó dằn'! Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành ra khi cắn vào nó, mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng cá lên gấp bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món phụ nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà …

Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt.

Nội hỏi:- Bộ cay hả?

Vợ tôi 'dạ', tiếng 'dạ ' nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra nhà sau.

Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia đình còn xum họp bên nhau. Rồi sẽ không còn bữa cơm nào như vậy nữa. Gia đình sẽ chia hai. Những người đi, rồi sẽ sống hay chết? Còn những người ở lại, ai biết sẽ còn tan tác đến đâu? Tôi làm thinh, cắm đầu ăn lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra, tôi đang cần nuốt thật nhanh thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng… để đè xuống, nén xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn đồ ăn, nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con, ngần đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại nữa. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh người đang hấp hối, trong giây phút cuối cùng lưỡi đã cứng đơ, mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối  những người thương để rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi cũng giống như người đang hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở tâm hồn, cũng một lần vĩnh biệt, và cũng sẽ bước vào một cõi u-minh nào đó, một cõi thật mơ hồ mà mình không hình dung được, không chủ động được!   

Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái:- Nè! Ngon lắm! Ăn đi! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn!Ý má tôi muốn nói rằng ở với Việt Cộng riết rồi đến loại cá kèo cũng sẽ khan hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của tôi, lời má tôi nói lại có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như: 'Má cho con ăn lần này lần cuối. Ăn đi con! Ăn cho ngon đi con!'.

Tôi ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm lại được. Nếu không có mặt bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi mà khóc, khóc thật tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật tôi từ bao nhiêu lâu nay… Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi trạo trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc!

Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên:- Ủa? Mày cũng bị cay nữa sao?Rồi bà chồm tới nhìn vào tô cá.

Các con tôi nhao nhao lên:- Đâu có cay, nội.- Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai?- Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.- Con ăn được mà nội. Có cay đâu? Các con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt!

Tôi đặt chuyện, nói tránh đi:- Hổm rày nóng trong mình, lưỡi của ba bị  lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm trong miệng nghe như là sạn sỏi, nuốt không trôi…

Sau bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các con, có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang nhai kềm lại trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu. Những thanh âm đó toát ra một sự vô tư, nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói chuyện vượt biên với má tôi hay không? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp nội…Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi lui suy nghĩ đắn đo. Vợ tôi còn lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng không giúp gì tôi được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong. Tôi bèn vào buồng ngủ, trải chiếu dưới gạch -từ lâu rồi, vợ chồng tôi không có giường tủ gì hết - rồi tắt đèn nằm trong bóng tối, gác tay lên trán mà thở dài…

Thời gian đi qua… Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ  được vẽ những lằn ngang song song trắng đục. Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe tiếng cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai đứa lớn ngoài phòng khách, để trằn trọc suốt đêm chờ sáng.

Bỗng cửa phòng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng vào trong hỏi nhỏ: - Ba con Ti ngủ chưa vậy?

Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe:- Dạ chưa, má.

Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói:- Coi bộ nực hả mậy?

- Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.Tôi nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc.Tay má tôi vẫn quạt đều.

Rồi má tôi hỏi: - Tụi bây còn gì đề bán nữa hông?

- Dạ…Tôi không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái sườn, không ai chịu chở đi. Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ thờ nhỏ và bộ sa-long mây 'sứt căm gãy gọng'. Ngoài ra, trên tường có chân dung 'Bác Hồ' dệt bằng lụa và nhiều 'bằng khen', 'bằng lao động tiên tiến'… những thứ mà nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm lấy! Bỗng tôi nhớ có một hôm tôi nói với bầy con tôi: 'Ba tự hào đã giữ tròn liêm sĩ từ mấy chục năm nay. Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng không được, đem ra chợ trời bán cũng chằng có ai mua. Sao ba thấy thương các con và tội cho ba quá!' Lúc đó, tôi tưởng tượng thấy tôi đứng ở chợ trời, dưới chân có tấm bảng đề 'Bán cái liêm sỉ, loại chánh cống. Bảo đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ'. Thật là khùng nhưng cũng thật là chua chát!

Nghe tôi 'dạ' rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói: 'Rồi mầy phải tính sao chớ chằng lẽ cứ vậy hoài à? Tao thấy tụi bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết sức.'Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định:- Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai mốt cũng theo ông theo bà. Mầy đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa. Chớ đừng vì tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó. Mầy liệu mà đi, đi! Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi! Ở đây riết rồi chết cả chùm. Không chết trận trên Miên thì cũng chết khùng chết đói. Thà tụi bây đi để tao còn thấy chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm vài năm nữa. Mầy hiểu hôn?

Nghe má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn. Và tôi thật xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên để vui mà sống với ít nhiều hy vọng! Thật là ngược đời: có người mẹ nào lại muốn xa con? Chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa khốn nạn này mới xảy ra những chuyện 'đổi đời' như vậy!

Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ:- Má à! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này, con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơ để vượt  biên.Tôi  nghe  tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi  yên  lặng.

Một lúc lâu sau, má tôi mới nói:- Vậy hà…

Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang  trong  cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng nói:- Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì xin má thương tụi nó…Nói tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống như hồi nhỏ má tôi vỗ về tôi để tôi nín khóc.

Một lúc sau, má tôi nói :- Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.Rồi bước ra đóng nhẹ cửa lại.

Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn cầy trên bàn thờ. Tiếp theo là mùi khói nhang, chắc bà lôi mấy đứa nhỏ đang cầu nguyện ngoài đó.Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang nằm trong một cơn mộng…

Năm giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi đứa một túi nhỏ quần áo. Chúng nó không có vẻ gì ngạc nhiên hay xúc động hết. Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và chuẩn bị tinh thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh. Nước mắt đêm qua đã giúp tôi lấy lại quân bình. Thật là mầu nhiệm!Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi. Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.Tôi chỉ nói có mấy tiếng:- Con đi nghe má!Rồi bước ra khỏi cổng.

Lần đó, tôi đi thoát.Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.Mấy ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện 'bên nhà' cho tôi nghe, hết chuyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những chuyện về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.

Tụi nó kể: 'Ba đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây Ninh rước ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi bời, tới nay sao không thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay chết nữa. Nói rồi, nội khóc thật mùi mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan tin thiệt, họ an ủi nội mấy câu rồi từ đó không thấy trở lại nữa'.Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục: 'Nội hay thiệt!'

Nghe kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp dù sự việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y hệt. 'Ba con Ti đi không biết sống hay chết' vẫn là câu hỏi lớn đè nặng tâm tư của má tôi. Bề ngoài má tôi làm ra vẻ bình  tĩnh để an lòng con dâu và cháu nội, nhưng là một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện cho các cán bộ, nó đã có  dịp bể tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt…

'Rồi sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày nào cũng đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu lâu, nội về Gò Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xuống tiếp tế cho tụi con. Thấy nội già mà lên lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có can ngăn nhưng nội nói nội còn mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti lấy chồng nội mới chịu theo ông theo bà!'

Tôi biết: má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu… Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương.

Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút hy vọng sống thêm vài ba năm nữa! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết! Má ơi! Con biết: cây cau già bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non…

Theo lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh về báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng như hội. Tụi nó nói: 'Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ Phật gõ chuông liên hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông giống như báo tin vui cho hàng xóm!'' Mấy hôm sau, bỗng có công an phường lại nhà. Công an đến nhà là lúc nào cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài ngõ, trong này nội niệm phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện ba về Tây Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc…'Mấy con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh viễn không bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.' Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì má buồn rầu đã bỏ nhà đi mất. Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủi: Bà cụ đừng có lo! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ yên chí!'

Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó cho tụi con nghe, rồi nói: 'Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi mà nội muốn xỉu luôn! Không phải vì cảm động mà vì sợ! Ở với tụi nó, thà chết sướng hơn!'

Vợ con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt - hay đúng ra để vĩnh biệt - tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi khóc với bầy cháu nội. Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cần tìm hiểu tại sao mình khóc, chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc thân thể gầy còm càng nhẹ đi, làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho con người để nói lên tiếng nói đầy câm lặng.Bầy bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ. Tôi hình dung thấy những cặp mắt thơ ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê dại, không biết thương cho bạn mình đi hay thương cho thân phận mình, người ở lại vơi đầy chua xót…

Mấy con tôi nói: 'Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu nguyện'.

Tôi làm việc ở Côte  d'Ivoire  (Phi Châu), cách xa vợ con bằng một lục địa, và cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi hay ra một bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve chân cát, tiếng sóng nhẹ nghe như thì thào… những thứ đó làm như chỉ dành cho riêng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như được vỗ về an ủi. Những lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô cùng. Trên đời này má tôi là người duy nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ cho đến khi trên đầu tôi đã hai thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương, cũng chính trong vòng tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi con…

Lúc nào tôi cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương thật rộng rãi bao la, thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi đang nhìn trước mặt.Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả… 

TIỂU TỬ

Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #100 - 06. Sep 2008 , 06:10
 
...
Anh Nguyễn Phong, chị Phương Thuý và 3 con



Những Hạt Mưa Ngâu

Phương Thúy


Tiết trời đã vào Thu, nhưng những cơn gió lào vẫn còn đưa về. Trời đã nắng lâu lâu lại có vài giọt mưa, không ướt áo, hơi nóng khó tả. Thân thể bừng bừng loay hoay việc gì chẳng ra việc gì. Đầu óc tôi rỗng tuếch, không buồn chải tóc, nhìn vào tấm gương góc tủ, tôi giật mình, lòng buồn ủ dột, mới đó mà đã hai mùa mưa ngâu. Sự mong chờ chợt đến, chợt đi, có nhiều đêm mơ màng, nghe tiếng gõ cửa lòng cứ bồn chồn…

Nhớ ngày nào bên nhau, hạnh phúc chan hòa. Cứ mỗi lần đi làm về, chồng tôi thường hay đùa cợt với các con, miệng bao giờ cũng thơ phú.

Có một hôm anh lõm bõm mấy câu:

Làm trai cho
đáng thân trai
Xuống đông, đông tĩnh
Lên đoài, đoài tan.


Bằng tấm lòng nhân hậu và sự khiêm tốn của chồng tôi, đôi khi tôi cũng khó chịu. Anh thường động não về mặt xã hội, bực mình về những bất công mọi hoạt cảnh đã dồn nén, vận mệnh đã an bài và anh đã quyết tâm xây dựng một hệ thống đảng lấy tên là Đảng Thăng Tiến Việt Nam và đặt trụ sở tại nhà ở của mình. Cũng từ độ ấy anh trực diện cùng đấu tranh với nhân dân.

Dù biết vậy có thể mang đến cho gia đình tôi nhiều bất hạnh. Nhưng phận làm vợ biết nói sao? Có lần tôi nói mang tính lạm bàn cùng anh.

- "Ngày trước 75, Miền Nam có cả triệu quân, xe pháo rầm rộ, tàu trận, máy bay mà còn phải đầu hàng huống hồ tay không muốn dựng cơ đồ."

- Em nghĩ sự kiện của lịch sử quá đơn giản, ở đây, anh chỉ tóm gọn cho em nghe nhé: Chiến tranh của thời đại này nó ẩn dấu quyền lợi của các cường Quốc, cái gì họ dựng được thì họ có quyền xóa. Các cường quốc họ thầm nói với nhau theo lộ trình, theo quy ước rồi phân chia quyền lợi ở từng nước từng châu. Như trường hợp ở Đông Đức và Tây Đức, nếu không có Liên Xô đồng ý, thì làm sao có thể độc lập. Việt Nam cũng thế, đều nằm trong hệ thống chính trị, kinh tế quốc tế. Bây giờ họ không gọi là thực dân cũ, thực dân mới mà là chủ nhân lãnh đạo chính trị toàn cầu. Em có thấy, không những Việt Nam mà là Việt – Miên – Lào đều bị bỏ rơi. Trong một lúc 75 quyền lợi quốc gia của họ là tối quan trọng. Đồng minh chiến hữu có tính thời gian chứ không bền lâu. Việt Nam và Trung Quốc như răng với môi – Thế mà răng lại cắn vào môi năm 1978, 6 tỉnh miền Bắc "Tình hữu nghị anh em là thế." Với anh, cũng như những người dân Việt Nam lương tri không bao giờ chịu ngồi im. "Trí thức ươn hèn – nông dân cục bộ" thì đất nước này còn gì hở em?

- Em chỉ sợ "công không thành danh không toại" anh dám đứng mũi chịu sào thì mọi thứ sẽ đổ lên đầu anh.

- Ồ! Cây ngay không sợ chết đứng – bản thân mình và định mệnh. Nhưng ước mơ hạnh phúc cho mọi người. Đó không phải là điều "tốt lành" hay sao?

- Ước mơ rồi hành động , đi vào thực tế anh mới thấy phũ phàng. Vì em không dám lạm bàn nhưng em cứ nghe léo nhéo phân trần tranh cãi ở phòng cha Lý là em thấy mệt rồi. Em rất đồng ý với anh "cuộc sống phải có thăng trầm bồng bềnh mới có hồn sống". Nhưng em sợ một điều, là một mai kia em phải làm tô thị hoặc về với núi vọng phu thì quá tội cho em.

- Em cứ lo; cái gì cũng có giá phải trả. Một khi anh quyết định thì cứ thế mà nhận hạnh phúc thì ít, khổ đau thì nhiều.

Khi cầm bút ghi lại những ký ức này làm tôi rợn cả mình.

Cũng chính căn phòng này, vợ chồng và 3 con vui đùa đầm ấm. bây giờ trước mắt tôi hoang lạnh thế mà nào được bình yên. Bà con bạn bè hoảng sợ không ai lui tới thăm hỏi. Đêm ngày thui thủi thỉnh thoảng chỉ biết ngồi thừ người và thở dài.

Tháng 7 vu lan, tháng 7 mưa ngâu - ngày cho mẹ ngày xá tội cõi âm.

Đâu đâu trong kinh thành Huế cũng cúng lễ phóng sinh.

Cõi âm còn được ân huệ, thế mà cõi dương thì loài người còn điêu ngoa hung tợn, bỉ ổi, không cho nhau điều lành mà chỉ cho nhau khổ ải gian truân. Trí không của con người chỉ để chèn ép tù tội lẫn nhau, tranh dành quyền vị, chia rẽ cấu xé. Thật là đau đớn, ý nghĩ về quê hương đất nước con người lòng tôi càng thấy khô héo.
Đi thăm chồng nhân dịp lễ vu lan! Trong lúc chờ tới lượt để được gặp lại anh..Lòng bồn chồn khắc khoải..mà cứ ngỡ mình là Chức Nữ đang đứng bên này Ô Thước...trong làn mưa bụi thê lương... để ngóng chờ chồng xuất hiện bên kia cổng trại giam... mà lòng tái tê sầu luỵ...Nhưng rồi cái giây phút thần thoại tưởng tượng hãi hùng đó qua đi...để đưa tôi trở về cái thực tại của ngày lễ Vu lan buồn thảm....Bên trong bức tường xám xịt chằng dây thép kia là bóng hình thân thương của anh..

ÔI! biết đến bao giờ anh lại trở về với em và các con...

Sự sống cứ khoắc khoải trôi qua một phút... một ngày! Một ngày... dài ghê, nhưng còn đủ để cảm nhận:

"Nhất nhật tại tù
Thiên thu tại ngoại"

..............................................................................

Những hạt mưa ngâu vẫn rơi rơi hoài trên thành Nội..cho lòng tôi tê tái ...
Huế 27 tháng 09 năm 2008
Phương Thuý
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #101 - 11. Sep 2008 , 12:05
 
Tiếng Nổ Sau Chiến Tranh


Trẩn Ngọc Tuấn


Sau chiến tranh tất nhiên vẫn có tiếng nổ ví dụ như: Mìn phá đá, bắn tội phạm mang án tử hình, công an bắn kẻ cướp, kẻ cướp bắn công an...nhưng cũng có những tiếng nổ không nằm trong sự liệt kê của các nhà xã hội học...

Tốt nghiệp đại học, tôi về một thị xã nhỏ ở vùng than lớn nhất tổ quốc để có nơi thực thi kiến thức của mình phục vụ nhân dân đất nước ̣̣(điều này thấm vào từ sự giáo dục của nhà trường từ khi còn bé) tôi phải chạy qua biết bao cửa ải, lắt léo khôn lường (sự việc này hoàn toàn không có trong sách vở), trong nghệ thuật ngoại giao, trong đạo đức học, thẩm mỹ học...tôi không muốn kể chi tiết làm gì, bởi nó nhục nhã, cay đắng, bỉ ổi và đê tiện, những điều mà tôi hoàn toàn không muốn, và tôi chắc cũng chẳng công dân nào muốn ....

Nhà anh Bảo nằm gần cơ quan. Cuối tuần tôi hay tới nhà anh nói chuyện lăng nhăng. Anh Bảo làm nghề nổ mìn phá đá, trước là lính đặc công, anh nói: Tôi được mệnh danh vua chất nổ từng phá sập bao nhiêu chiếc cầu, kho tàng thời chiến tranh. Vợ anh tên Thản, làm việc tại khách sạn chuyên gia, anh Bảo lấy vợ muộn, chưa có con, anh nói: Phải chiến thuật lắm tôi mới cưa đổ em nó lúc xuất ngũ chỉ có mấy bộ quần áo, mũ cối thì bán đứt chiêu đãi bạn bè bữa rượu còm, được cái nhiều huân chương, huy chương, bằng khen. Chị Thản rất quý tôi, chị nói: Chị thương em. Tôi hỏi: Tại sao? Chị tủm tỉm: Vì em đần mà đần và trong sáng từa tựa giống nhau. Anh Bảo gãi tai: Yêu mến ơi! Em toàn đánh tráo khái niệm. Chị Thản nói: Anh chẳng hiểu gì, em lấy anh làm chồng vì yêu sự ngây ngô của anh...Chị tiếp: Đẹp nhất là mắt trẻ con khi đói được mẹ cho bú tí, dịu dàng, mãn nguyện. Anh Bảo nói: Sung sướng nữa, khi anh được thưởng huân chương chắc cũng có đôi mắt như thế. Chị Thản mắng yêu: Thôi, ông nỡm, mắt ông lúc ấy chắc hừng hực khí thế tấn công, đừng so sánh với mắt trẻ sơ sinh, mang tội.(không nói ra song tôi biết hai vợ chồng anh đều mong có con cho bớt phần cô quạnh).

Gần nhà anh Bảo có ông Cúc, người Miền Nam tập kết, lấy vợ địa phương. Ông không về quê, khi tôi hỏi thì thở dài: Trong đó chẳng còn ai... Biết chuyện chị Thản bảo: Ông ấy có vợ trước khi ra Bắc, ngại không muốn về.

Tôi hay đi săn nhím ban đêm với ông Cúc khi những cơn mưa đầu hạ trút nước. Vườn sắn mênh mông nằm kề núi, đây là nơi tung hoành của loài gậm nhấm hôi mùi chuột chù , nhưng thịt trắng thơm như gà mái tơ chưa chung đụng xác thịt với lũ gà trống phóng đãng. Đeo đèn thợ lò trên đầu, hai chúng tôi dò dẫm trên trảng cỏ đẫm nước. Ông Cúc thích dùng CKC, tôi ưa AK điểm xạ ba phát một. Ông Cúc bảo: Chắc cậu chinh chiến nhiều, bắn AK kiểu ấy phải là lính cựu. Tôi trả lời: Cháu học trường dân sự ra, chỉ bắn bia, giờ thì bắn nhím. (Tôi thấy buồn, mới 23 tuổi đầu, có người tưởng là lính cựu chắc mình già lắm). Ông Cúc lại nói: Chưa trận mạc mà bắn như vậy, chứng tỏ cậu có năng khiếu sát thủ. Tôi chữa: Xạ thủ mới đúng. Ông Cúc bảo: Cậu nên chuyển ngành đi học luật vì cậu biết cách cãi.

...Tôi và ông Cúc nép mình sau bụi cây, khi mưa nhẹ hạt lũ nhím bắt đầu chui ra khỏi hang chuẩn bị tấn công vào ruộng sắn. Mắt nhím khi bắt đèn đỏ hệt than bếp lò rèn, cứ nhằm vào điểm giữa kéo nhẹ cò súng, quá nửa đêm cũng hơn một tiểu đội nhím nằm gọn trong ba lô.

Hồng – con gái ông Cúc vừa tốt nghiệp phổ thông, hình như ông Cúc đang xin việc cho Hồng ở mỏ than Đèo Vàng. Hồng không xinh, nhưng cũng chẳng xấu, ưa việc bếp núc, dịu dàng. Tôi khoái khẩu món thịt nhím om sả do Hồng chế biến. Nhìn tôi ăn, Hồng nói: Anh nhai rau ráu như yêu tinh ăn thịt trẻ con trong chuyện cổ tích, khiếp thật, ai mà dám yêu. Tôi hỏi: Tại sao? Hồng trả lời: Phàm tục! Ông Cúc quệt đũa ngang miệng: Đàn ông phải ăn như hổ. Hồng bảo: Con nhím hiền lành, bắn nó tội nghiệp gây mất cân bằng sinh thái. Ông Cúc ngẩn mặt hỏi lại: Thế nào là mất cân bằng sinh thái? Hồng trả lời: Ba nên đọc thêm sách. Ông Cúc cười: Tao chỉ đọc Duy Vật Biện Chứng, Duy Vật Lịch Sử và Luật Công Đoàn, từng ấy đủ rồi. Tôi bảo: Không có cái nhét vào miệng thì loài người không tồn tại, chúng ta ăn rau, thịt, ngũ cốc, ăn thịt lẫn nhau mới đáng lên án. Hồng hỏi: Thế nào là ăn thịt lẫn nhau? Tôi trả lời: Giống như nhà nước chơi đểu các công ty tư nhân. Hồng thở dài: Nhục nhã và cay đắng quá khác hoàn toàn với sách vở và trên ti vi. Tôi bảo: Chỉ có đi xin việc mới nhục nhã và cay đắng thôi, còn mọi sự đều là quy luật và đậm đà bản sắc dân tộc. Ông Cúc hỏi: Dân tộc nào? Tôi trả lời: Dạ thưa bác, dân tộc Kinh.

Tôi yêu Hồng lúc nào chẳng biết, không tỏ tình, không tặng hoa mà đè Hồng ra nghiến ngấu trong bếp khi Hồng đang nấu cám lợn. Lúc ấy, đã nửa đêm, Hồng ôm tôi thút thít: Em sợ có chửa. Tôi nói: Yên tâm, anh xuất tinh ra ngoài. Hồng hỏi: Anh có cưới em không? Tôi trả lời: Đợi lúc nào anh được tăng lương. Hồng ngập ngừng: Có lâu không anh? Tôi bảo: Điều này phụ thuộc vào sự thỏa hiệp của anh đối với cấp trên, phải biết im lặng, biết hèn và cộng thêm tố chất lưu manh, càng vô học càng tốt. Hồng nói: Em nổi hết gai ốc.

Ông Cúc hình như biết chuyện, cũng chẳng ủng hộ hay phản đối, chỉ xa xôi: Chồng kỹ sư, vợ công nhân đó là sự liên minh giữa trí thức và người lao động. Giai cấp công nhân luôn làm đầu tầu trong gia đình hay ngoài xã hội cũng vậy.

Phó Giám Đốc phụ trách kỹ thuật gọi điện cho tôi: Tối nay chiêu đãi chuyên gia Hàn Quốc tại nhà hàng “Biển Đông” vào lúc mười chín giờ ba mươi. Tôi sẽ cho xe tới đón cậu.
Nhà Hàng “Biển Đông” sang nhất thị xã, chiêu đãi viên cô nào cô nấy đẹp như tiên giáng trần, nói tiếng Anh trơn tru phát âm đúng giọng London, mấy anh bảo vệ giỏi võ Karate và KungFu. Xe vừa tới nơi, ông chủ quán xăng xái: Mời quý khách vào đây. Gian trong cùng kín đáo, ấm cúng, đèn mầu hồng, máy điều hòa nhiệt độ chạy rất êm, văng vẳng khúc tam tấu soạn cho Piano của Mozart, khăn bàn trắng tinh, thìa nĩa nạm bạc, ly cốc pha lê Pháp. Ông chuyên gia Hàn Quốc nom giống vị Chủ Tịch đã quá cố ở Bắc Triều Tiên. Ông tự giới thiệu: Tên tôi là Kim Young Sam, trước từng tham chiến tại Bình Định Miền Nam Việt Nam.

Khai vị bằng rượu rắn, con Hổ Mang trong tay người hầu bàn ngoe nguẩy đuôi, đường dao cứa nhẹ ngang cổ máu phụt ra có vòi xói vào từng ly rượu nếp. Ông chuyên gia Hàn Quốc nói: Món này tuyệt vời, người cắt cổ rắn như một nghệ sĩ không giọt máu nào rơi ra ngoài. Phó Giám Đốc lên tiếng: Sẽ còn nhiều bất ngờ cho ngài. Giám Đốc tiếp lời: Đất nước tôi có rất nhiều điều kỳ diệu ̣(Tôi dịch nhanh các mẩu đối thoại và không quên uống cạn ly rượu pha máu rắn)...Món chim sẻ nướng tẩm ngũ vị hương được bưng ra cùng lúc với đĩa thịt nai xào lăn, kèm theo mâm tôm hùm, hào sống và lỉnh kỉnh một đống gia vị. Tôi cắm đầu vào ăn, kệ cho mọi người uống rượu khui bia. Phó Giám Đốc vuốt má bẹo cằm cô phục vụ, giọng líu ríu: Thơm! Cho tụi anh bao tử lợn rừng tiềm thuốc bắc. Ông chuyên gia Hàn Quốc gọi thêm két bia, một chai nếp cẩm: Tôi chỉ thích rượu gạo, ông giải thích.

Giám Đốc nói như quát: Mở băng nhạc nào “bốc bốc” vào. Thơm nḥẹ nhàng: Thưa anh, đây là những bản nhạc cổ điển nổi tiếng của các nhạc sĩ lừng danh như Chopin, Mozart, J.S. Bach...Giám Đốc nói: Cả ba ông này là người Nga tôi không thích nghe, chỉ có nhạc Mỹ mới hấp dẫn, em gọi thêm mấy cô vào đây uống với bọn anh cho vụi, anh sẽ bao trọn gói.

Bầy tiên nữ mặc váy ngắn ùa vào bá vai bá cổ các vị khách, họ gắp thức ăn đút vào miệng nhau nom thật tình tứ. Ngồi trên đùi tôi là cô gái trạc mười tám, đôi mươi. Cô áp sát đôi vú mềm nhẽo õng ẹo: Em mớm cho anh ăn nhé. Tôi trả lời: Cám ơn, răng tôi còn chắc.

Vẫn đủ tỉnh táo quan sát bàn tiệc, tôi thấy tay của Giám Đốc luồn vào váy Thơm. Phó Giám Đốc đang “Bóp đất nặn tượng” trên ngực cô gái ngồi cạnh. Ông chuyên gia Hàn Quốc quỳ xuống vùi đầu vào háng một cô khác. Tôi cứ ăn, mặc kệ sự đời, ăn ráo riết, món nào ngon là gắp, tôi mong mình có được dạ dầy của cá voi và sự dũng mãnh của hổ báo vào giây phút này, mấy khi...

Hai két bia hết sạch, rượu cũng thế, Phó Giám Đốc gọi: Cho thêm hai két nữa, và rượu nếp cho đối tác Hàn Quốc. Giám Đốc phấn khích: Cứ uống cho đã, khỏi sợ say, ai nôn cứ việc nôn, đã có cháo yến và súp vi cá giã rượu.

Đến lúc cả ba ông “ Cho chó ăn chè” , họ nôn thốc lên bàn, tôi phải cố kìm nếu không cũng cho ra sản phẩm vì cái mùi hết sức khó chịu...

Ba anh say rồi, để em lấy khăn ướp lạnh lau mặt cho – Thơm nói.

Khỏi! Giám Đốc bảo, rồi tiếp: Nếu các em ăn hết chỗ bọn anh nôn ra, anh sẽ cho mỗi em ba trăm Dolars.

Tôi ngỡ ngàng vì cái sự thách đố, cả triệu Dolars thì cũng chẳng dám. Đã thế, tôi phải dịch lại cho ông chuyên gia Hàn Quốc biết được nội dung sự thách đố này theo lệnh của Giám Đốc.
Cô gái ngồi gần tôi nhấp nhổm mắt lòe lên ánh đỏ (y hệt mắt nhím khi bắt đèn). Chỉ một thoáng lưỡng lự, các cô tiếp viên cúi xuống, húp, nuốt, liếm hối hả và tốc độ còn nhanh hơn khi tôi ăn món thịt nhím om sả mà Hồng thường chế biến.

Ông Kim Young Sam vừa cười, vờa nói: Quả như Giám Đốc của ông nói lúc đầu, đất nước này thật lắm điều kỳ diệu. Tôi lảng sang chuyện khác để kìm lại sự nhục nhã, uất ức: Tôi muốn rủ ngài đi săn nhím, Thịt loài gậm nhấm này tuyệt vời khi nấu với sả. Mắt ông ta sáng lên: Tôi rất thích săn bắn, tuần sau được không? Tôi trả lời: Vâng! Tuần sau.

Bụng chị Thản đã to, anh Bảo vui lắm, anh nói: Bốn nhăm tuổi tớ mới chuẩn bị được làm bố. Tôi hỏi: Anh thích con trai hay con gái? Anh cười khì khì: Đầu gái, thứ là trai để nối dõi tông đường. Chị Thản lườm anh: Đẻ một đứa thôi, nhà mình nghèo lấy gì mà nuôi. Anh Bảo nói: Vùng than được mệnh danh là:”Vàng đen của tổ quốc”, thời đổi mới công nghiệp sẽ phát triển lo gì công ăn việc làm. Chị Thản gắt: Chờ đấy, vàng đâu chẳng thấy, chỉ hít bụi than lỗ mũi thọc tay vào đen sì...

Đúng hẹn, tôi và ông Kim Young Sam đi săn nhím. Trời mưa mỏng, cuối hè hiếm có những cơn mưu dữ dội, lũ nhím có vẻ lười biếng trong việc kiếm ăn, chúng ít ra khỏi hang, quá nửa đêm mới hạ được một con, bù lại đó là con nhím quái dị lông đỏ au. Ông Kim nói: Điềm gở, theo quan niệm dân tộc tôi, đây là nhím chúa, cái chết của nó báo hiệu sự bất hạnh...Chợt vang trong đêm tiếng nổ dữ dội không bình thường như tiếng mìn phá đá, âm thanh lay động những hạt mưa bám trên lá rơi lọt vào cổ khiến tôi rùng mình...

...Tôi về nhà lúc ba giờ sáng, mệt mỏi rã rời tưởng ngủ được ngay nhưng trằn trọc mãi, cảm giác bất an từ khi nghe tiấng nổ...con nhím lông đỏ au...lời ông Kim về điềm gở cứ ám ảnh. Sáu giờ sáng ông Cúc tới phòng tôi, mặt tái xanh, miệng lắp bắp: Vợ chồng anh Bảo chết rồi. Ông kể: ..Chị Thản trở dạ, anh Bảo và ông đưa chị vào bệnh viện huyện. Chị Thản tuổi cao nên đẻ khó phải mổ mới bảo đảm tính mạng cho chị và đứa con. Bác sĩ phụ trách khoa sản yêu cầu phải có số tiền hai triệu vì phải tiếp máu. Tôi và anh Bảo cuống lên chạy về nhà, tôi lục vét được một triệu, anh Bảo “tổng động viên” túi trên, túi dưới gộp lại vẫn không đủ. Năn nỉ mãi gã bác sĩ vẫn lắc đầu quầy quậy...Thế là...

Khi người hộ lý báo tin chị Thản đã tắt thở, cứ ngỡ anh Bảo phải lồng lên, nhưng không, mắt anh khô khốc, anh nói với bác sĩ: Cho tôi vào nhìn mặt vợ lần cuối. Trên đường về anh nói: Sẽ có trận đánh cuối cùng sau chiến tranh... Tôi ngắt lời ông Cúc: Bác chẳng nhạy cảm chút nào. Ông Cúc kể tiếp: Theo sự phán đoán của mọi người, anh Bảo buộc thuốc nổ vào người lao vào phòng gã bác sĩ và điểm hỏa, anh ấy từng được mệnh danh là vua chất nổ mà...
Thảo nào! Vào thời điểm ấy ̣(khi cùng ông Kim Young Sam đi săn nhím) tôi đã nghe thấy tiếng nổ dữ dội…Anh Bảo và chị Thản ơi! Hai triệu, không bằng số tiền ông Giám Đốc trả cho cô phục vụ ăn hết mọi thứ ̣nôn ra trong nhà hàng Biển Đông ( Tôi muốn hét lên nhưng cổ họng tắt nghẹn).

Ông Cúc mếu máo: Cái Hồng theo bạn bè buôn mắt mèo sang Trung Quốc, con ơi! (lần đầu tiên ông gọi tôi bằng con) . Hai tuần rồi không thấy nó về, ba nhờ con tìm cái Hồng dùm.
Tôi đi, rừng bạt ngàn, thị xã vùng than lùi sau lưng, biển không còn nữa, tiếng con nai gọi cái nghe thiết tha, buồn bã. Hồng em ở đâu? Tôi thì thầm, nước suối trong lạnh ngắt khi lội qua. Tôi tin sẽ gặp em, sẽ không có điều gì tồi tệ xẩy ra. Bởi lẽ niềm tin, hy vọng của con người vô cùng lớn, ch̉ỉ cần căn cứ vào số lượng phát hành tiêu thụ xổ số, đánh số đề trên khắp các hang cùng ngõ hẻm ở xứ sở tôi thì hiểu ngay, khỏi cần phải bàn cãi.
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #102 - 09. Oct 2009 , 21:08
 


...



Cứ đều đặn ngày nào cũng giống nhau, trời chưa sáng để nhìn rõ mặt người, người ta đã thấy bà cụ đã dọn hàng quà sáng ra bán.  Bà bày hàng trên một khoảng đất trống được tráng xi-măng, nằm lệch một bên hai cạnh cửa sắt lớn của một ngôi nhà khang trang.  Hai cánh cửa này rất ít khi được mở ra, những người trong ngôi nhà này thường ra vào bằng cánh cửa nhỏ bên cạnh, và họ đã tốt bụng cho bà ngồi đó.

Hàng quà sáng của bà bình dân, bản thân của bà bình dân, nên khách hàng cúa bà cũng rất bình dân, giản dị.  Họ là những anh chị công nhân, những em học sinh, những người làm thuê, những anh đạp xe ba-gác, xích lô v.v.. đủ mọi lứa tuổi.
 
 
Trong xóm tôi không ai biết bà từ đâu tới, ban đầu người ta thấy bà gánh hàng đến bán, một hồi lâu bà lại gánh đi, cứ đều đặn như thế cho đến một thời gian người ta không thấy bà đi đi, về về nữa.  Sáng ra đã thấy bà có mặt và khi bán xong thì bà thu dọn vào một chổ cư trú nào gần đó.  Vào xế chiều khi tiếng kẻng của ngôi Nhà Thờ nhỏ trong xóm tôi vang lên thì người ta thấy bà chậm rãi, bước lom khom với chiếc lưng hơi còng trong chiếc áo dài đã cũ nhưng rất tươm tất đi đến Nhà thờ xem lễ.  Người ta không biết bà tên gì, thứ mấy để gọi, nên họ chỉ gọi đơn giản là "bà cụ Cháo Lòng".  Họ gọi thế có lẽ vì bà nấu cháo rất ngon mà lại rẻ.  Khách đến ăn thường xuýt xoa vì mùi thơm của nồi cháo nóng bốc lên mỗi khi bà mở nắp vung ra để múc cháo vào tộ .  Những miếng thịt lòng đủ loại được xắt mõng bởi bàn tay khéo léo của bà được bày trên mặt cháo và phủ lên trên là một ít hành xanh, tiêu, ớt ...  Từng ngụm cháo nóng, thơm lừng được thổi phù phù trôi qua cổ họng.  Những miếng thịt ngọt ngào, béo ngậy cộng với hương vị tiêu, ớt cay nóng của cháo đã làm cho người ta vẫn còn thòm thèm muốn được ăn thêm nữa.  Khách hàng của bà ngày càng nhiều bởi tài nấu cháo của bà.

Về trưa vắng khách, người ta thường thấy bà ngồi im lặng, tay chống cằm, mắt bà nhìn tận đâu đâu...  Nếu để ý sẽ thấy hình như bà thầm thì nói chuyện một mình.  Bà cụ rất vui vẻ với mọi người nhưng cũng không che dấu được nét trầm ngâm toát ra trên đôi mắt, trên vẻ mặt của bà.  Nhìn những nếp nhăn trên gương mặt, những đường gân xanh nổi rõ trên hai bàn tay của bà, tôi nghĩ bà phải có đến cháu gọi bàng bà Cố, chứ chẳng chơi!

Cách nơi bà ngồi bán một đoạn ngắn là trường Mẫu Giáọ.  Bà thường cười nói với những đứa bé di ngang qua để đến trường.  Lâu dần những đứa bé này đều quen thuộc với bà và ngược lạị.  Cha mẹ chúng dạy chúng chào trả lại mỗi khi gặp bà.  Nghe tiếng nói xuất phát từ miệng của trẻ nhỏ, lòng bà ấm áp biết chừng nào.   Bà cười tươi khi thấy bóng dáng của chúng...  Tất cả những điều này tôi đều nhận thấy đã làm cho tôi tò mò muốn biết nhiều ít về bà.

Trong công việc mưu sinh hàng ngày, một mình bà làm tất cả: bà sửa soạn, nấu nướng, bày biện, dọn dẹp...  Bà làm bằng hai bàn tay, bằng đôi vai để tự nuôi sống mình sau khi bà đã bán đi gần hết những gì bà đã tậu được hầu tìm mọi cách cho người em trai của bà được ra nước ngoài.   Giờ đây chỉ còn lại bà lẻ loi trong cuộc đời, cô độc trong cuộc sống, cô đơn trong tâm hồn vì đã lâu, rất lâu rồi bà không còn biết tin tức gì về người em của bà nữa.  Bà nói với tôi nhưng đôi mắt của bà nhìn ra xa lắm, dường như bà thấy lại rất rõ hình ảnh của bà lúc mười chín tuổi, tay dắt đứa em trai mười ba tuổi, tay kia là một chiếc va-li nhỏ.  Hai chị em chạy vội vàng, vấp ngã, chen lấn, xô đẩy với đám đông để kịp bước xuống chiếc tàu thủy lớn đi vào miền Nam vào những năm xưa ấy.   Ông bà cụ thân sinh đã mất khi bà mười sáu tuổi.  Bà đã phải làm thuê, làm mướn, chịu cực khổ để nuôi hai chi em.  Bà thương em vì sớm mồ côi cha mẹ chỉ còn biết nương nhờ vào bà là người chị duy nhất mà thôi.

Vào đến miền Nam, bà làm tất cả những công việc gì có thể làm: làm thuê, làm mướn, phụ hồ, buôn bán ngược xuôi, bà không quản ngại nhọc nhằn, miễn sao có thể nuôi sống được hai chị em, và nhất là bà cố gắng cho em bà được đến trường học ...!

Tôi nhìn vào gương mặt bà để thử hình dung nét mặt của bà khi còn trẻ ra sao. Tôi có cảm tưởng bà là một người mẹ đúng hơn là một người chi..   Giọng nói chậm rãi, lời nói mộc mạc hiền từ của bà khiến người nghe cảm nhận được niềm hạnh phúc, vui sướng của bà khi thấy đứa em trai nhỏ ngày nào mỗi ngày học càng tiến tới.  Em bà học càng cao thì đôi vai của bà càng nặng.  Nhưng bà không ngại gì cả vì tình thương của bà chan hòa lên hết mọi sự.   Bà sẵn sàng hy sinh những gì có được để cho tương lai người em không phải chịu gian nan, khổ cực như bà.

Hàng quà của bà lúc nào cũng hết sớm.  Bà thu dọn mọi thứ rồi để vào một góc nhà.  Gọi là nhà chứ thực sự đó chỉ là một chái nhỏ được xây thêm bên hông của một căn nhà lớn.  Căn chái này có diện tích vừa đủ để kê một cái giường nhỏ, một tủ đựng quần áo, một cái bàn con, thấp. Trên vách tường người ta thấy có bức hình Đức Chúa Jesus, và bên cạnh đó có treo một xâu chuỗi hạt.  Đó là nhà của bà.  Bà đã có một nơi ở cố định và yên ổn sau một thời gian dài ở tạm rày đây, mai đó.  Sự tử tế, tốt bụng vẫn có trong cuộc đời này, nên bà đã được người ta để cho bà cư ngụ trong căn chái nhỏ này mà không đòi hỏi một điều kiện nào.  Từ lúc ấy bà không còn phải gánh gồng đi về xa xôi nữa.

... Xa xôi, phải! xa lắm rồi bà không còn nhớ rằng tuổi xuân thì của mình đã đi qua hồi nào không hay biết.  Bà không hề biết có người đàn ông nào yêu thương bà không, cũng như bà không có thì giờ để trái tim rung động trước ánh mắt của ai đó khi mà hoàn cảnh bơ vơ, nghèo khó của chị em bà nơi miền đất mới xa lạ này vẫn còn là gánh nặng trên vai.  Bà vừa hỏi chuyện tôi những câu thăm hỏi thông thường, vừa đưa hai bàn tay lên sửa lại cái khăn quấn trên đầu.  Tóc bà bạc gần hết nhưng còn rất dày.   Mái tóc này - tôi nghĩ - cho đến nay chưa có một bàn tay trìu mến nào vuốt ve lên nó.  Mái tóc này, vẫn còn nguyên vẹn sự trinh trắng, trong sáng của một người "con gái" đã già.  Từng sợi tóc già nua ấy đã được nuôi nấng bởi một tình thương bao la, một trái tim hiền hậu của bà.

Rồi người chị mười chín tuổi ngày xưa đó bây giờ đã đến lúc thay thế mẹ cha để cưới vợ cho người em trai ngày nào.  Bà rất sung sướng khi em của bà thành gia thất.  Bà xem đó là sự đền đáp công lao của mẹ cha.  Bà đã dành dụm chắt chiu để cho em bà có được ngày nay: học thành tài và lập gia đình.  Bà cũng chẳng bận tâm để nghĩ rằng hai chi em bà đã bắt đầu xa cách một chút rồi.  Bà chẳng cần nghĩ suy xa xôi.  Bà bằng lòng với tất cả những gì đã làm được cho đến lúc này.

"Bà Cụ Cháo Lòng" đã cư ngụ ở xóm tôi khá lâu, nhưng hình như chưa ai thấy có người nào đến thăm bà.  Buổi sáng bà dọn hàng ra bán, buổi chiều thì bà đi xem lễ ở nhà thờ.  Cứ như thế đều đặn ngày qua ngày.  Bà đọc kinh trong nhà thờ, và cầu nguyện với các đấng thiêng liêng mỗi ngày cho người em của bà được bình an, mạnh khoẻ ở nơi chốn xa xôi ấy, mặc dù bà không biết người em của bà bây giờ ra sao, và có còn nhớ gì về người chị này không.  Bà kể lại sự vui mừng xiết bao khi biết tin người em đã đi đến nơi yên ổn.  Bà tạ ơn đến các Thánh, Thần đã phù hộ cho hai chi em bà.  Bà vui sướng nhiều đến nỗi không nghĩ đến rằng hai chi em từ nay đã cách xa muôn trùng diệu vợi...

Tôi cố tìm trong giọng nói, trong ánh mắt của bà sự trách móc, than oán về người em... nhưng không!  Bà kể chuyện của mình giống như đang thuật lại một câu chuyện nào đó của ai kia - giọng nói của bà chậm rãi, đều đều, không có niềm vui cũng không pha lẫn sự buồn phiền.  Bà đã hiểu và mặc nhiên chấp nhận số phận của cuộc đời bà là như thế khi người em trai chỉ gửi về cho bà trước sau chỉ có ba lần thư thăm hỏi... rồi biệt tăm, biêt tích!!  Tình thương của bà đã thôi thúc bà tìm đủ mọi cách để thăm hỏi tin tức của em mình: bệnh tật, còn sống hay đã chết!  Dường như có nước mắt vừa ứa ra trong đôi mắt của bà khi kể cho tôi về lời nhắn gửi qua người quen của em trai bà rằng : Bà hãy tự lo cho bản thân bà đi ... đừng chờ trông gì nơi ông ấy.  Ông ấy bận rộn lắm, không có thì giờ để biên thư cho bà nữa đâu...

Tôi sợ mình sẽ khóc nên vội nhìn sang hướng khác. Tôi bồi hồi, có cảm giác như có vật gì chấn ngang cổ họng mình... , nhưng bà thì không, không có giọt lệ nào rơi xuống đôi má già nua ấy...!   Bà quen rồi, bà không trông chờ tin thơ của em bà nữa sau vài lần gửi thư đi mà không bao giờ được hồi đáp.  Bà chấp nhận sự chối bỏ tình thương ruột thịt của người em, một sự thực bất hạnh không thể biện hộ được sau một thời gian rất dài đã cho bà sự khẳng định này.

"Bà Cụ Cháo Lòng" vẫn bày hàng, dọn hàng thui thủi một mình, vẫn có lúc ngồi yên lặng nhìn về đâu đó trên ngọn lá, trên khoảng không, thì thầm một mình.  Vẫn như thế... chỉ có một mình.

Những tô cháo lòng nóng hổi, thơm ngon của bà đã làm những khách hàng nhớ tiếc vì từ nay đã vắng bóng hàng quà sáng của bà trên khoảng đất trống tráng xi-măng quen thuộc ấy vì một sớm mai kia bà đã yên bình đi về miền vĩnh cữu.  Bà ngủ giấc ngàn thu rất thư thái, trên tay bà vẫn còn cầm xâu chuỗi hạt. Tôi có cảm tưởng như bà đã biết trước sự ra đi của mình vậy!

Đưa tiễn bà có rất nhiều tấm lòng tử tế trong xóm.  Bà được đưa vào Nhà thờ lần cuối cùng.  Không có một vành khăn tang nào đi sau bà!!  Thân xác bà đã yên nghỉ. Tâm hồn bà cũng đã yên nghỉ.  Nơi bà tất cả đều là sự bình an vì trái tim của bà chứa chan tình thương yêu, lòng tha thứ, không hề oán trách, buồn phiền.

"Nước mắt bao giờ cũng chảy xuống !!"

Tôi cầu nguyện cho linh hồn bà - một "người mẹ" trong một người chị - mãi mãi bình yên.

H.D


Back to top
« Last Edit: 10. Oct 2009 , 19:46 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #103 - 18. Nov 2007 , 07:19
 
Lời Cuối
             Phạm Vỉnh Đông
Chiều chiều ra đứng ngỏ sau
Nhớ về quê mẹ. ruột đau chín chiều
          Ca dao
Chuông điện thoại reo vang, giật mình, như cái máy, tay bật đèn đầu giường , mắt nhìn đồng hồ : 12 giờ 30 đêm. Chờ đến tiếng thứ ba mới nhấc điện thọai.                                             
Giọng thằng em từ quê nhà lạc lỏng buông xuôi :
    - Má xấu quá rồi, không còn biết gì nữa ! Anh nói với Má vài tiếng đi.
Tôi tuyệt vọng :
    - Má đâu còn nghe được!?
Thằng em nài nỉ :
    - Anh nói với Má vài tiếng đi , Má còn chờ anh đó!
Tôi nghẹn ngào trong điện thoại như một lời tạ tội:
    - Má ơi, con không về kịp, thôi Má hãy đi đi, đừng chờ con nữa!
Mười lăm phút sau, chuông điện thọai lại reo vang, giọng thằng em nảo ruột : "Má đã ra đi

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #104 - 18. Nov 2007 , 07:21
 
From: Truc Cao
Sent: Sunday, November 18, 2007 6:37 AM
Cho mẹ hiền yêu dấu
Lang Le

Chiếc Boeing 767 cất cánh từ Hong Kong, với đa số hành khách là người Việt Nam, đảo một vòng tròn nhỏ trên không phận Sài Gòn rồi nhẹ nhàng đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất trong ánh nắng chói chan cuối ngày. Sau tín hiệu cho phép hành khách tháo gỡ thắt lưng an toàn, mọi người trên máy bay ùn ùn đứng dậy. Hình như ai cũng nôn nóng, có những tiếng hối thúc và có cả tiếng trẻ con khóc ở cuối phi cơ.
Tôi vươn vai, làm một vài động tác bẻ lưng cho đỡ mỏi sau chuyến hành trình dài, chung quanh là đại gia đình của tôi, gồm đủ mười hai người: ba tôi, vợ chồng chúng tôi và ba con, vợ chồng Thủy và hai cháu, và cuối cùng là vợ chồng Nguyên, đứa em út của tôi.
Chuyến đi này đại gia đình tôi đã dự định và sửa soạn trước cả gần hai năm, kể từ lúc Nguyên báo tin cho cho chúng tôi là muốn làm lễ hỏi với người yêu của nó. Ba tôi muốn Nguyên làm đám cưới vào cuối tháng Hai, và sau đó cả gia đình sẽ làm một chuyến về thăm quê hương. Ba bảo với chúng tôi là ba muốn đem toàn thể con cháu, dâu rể về trình diện mẹ.

Ba tôi là kỹ sư, trưởng ty công chánh Pleiku, còn mẹ tôi là cô giáo. Ba mẹ tôi quen và yêu nhau ngày ba còn là cậu sinh viên Phú thọ, và mẹ là dân Văn Khoa. Ba ra trường lên nhận việc ở Pleiku làm ông kỹ sư Công chánh trẻ tuổi. Mẹ ra trường sau đó hai năm. Hai người làm đám cưới, rồi mẹ theo chồng lên miền… phố núi mù sương. Có lẽ tiếc cho mảnh bằng cử nhân Văn khoa của mình nên mẹ xin vào dạy ở một trường trung hoc tư tỉnh lỵ. Mẹ làm cô giáo từ đó. Lúc ấy chưa có cả tôi.
 
Cuộc sống của gia đình tôi có thể gọi là một gia đình lý tưởng. Sau giờ làm ở sở, ba tôi thích nghe nhạc, làm vườn và sửa xe. Nhà tôi có một khu vườn rất rộng, ba để dành một khoảnh nhỏ để trồng rau cải cho cả gia đình ăn quanh năm, đất còn lại ba trồng toàn hồng. Tôi còn nhớ những trái hồng đỏ ửng, trĩu nặng làm cành oằn xuống. Những cọng lá hồng to xanh, ướt sương phản chiếu rực rỡ trong nắng mai...
Làm việc ở ty công chánh một tỉnh lỵ miền cao có lẽ cũng nhàn hạ, nên ba dành nhiều thì giờ cho các thú vui đặc biệt của mình. Không biết ba mua được ở đâu một chiếc mô tô hai bánh BMW đen rất cũ – Có lẽ nó đã được sản xuất từ thời Pháp thuộc, và đã nằm phơi sương nắng vài chục năm trời. Mang về chiếc xe không chạy được, hai bánh cao su xẹp lép và khung sắt thì đã hoen rỉ gần hết, ba mầy mò sửa chữa. Có những hôm ba mời mấy chú ở sở về, mấy người vừa săm soi chiếc xe vừa bàn tán gì đó. Có những món phụ tùng ở Pleiku không kiếm hay chế tạo ra được, ba phải về Sài Gòn lùng tìm. Ba tôi quý chiếc mô tô này lắm, tôi đã từng thấy ba bỏ nguyên ngày thứ bảy đánh vật với chiếc xe cưng …
Mẹ tôi trừ ra mấy tiếng đồng hồ đến trường mỗi ngày, thì giờ còn lại mẹ dành cho gia đình. Mẹ thích nấu ăn và nấu ăn rất khéo còn cha con tôi thì lại thích thưởng thức, nên ngôi nhà tôi mỗi ngày đều thơm lừng mùi thức ăn. Sau này được lên chức Phó ty rồi Trưởng ty, rồi lại có thêm hai em Thủy và Nguyên, ba mẹ tôi vui lắm. Cả nhà suốt ngày rộn rã tiếng cười…
Trí óc non nớt của tôi lúc đó chưa biết tại sao nước mình có chiến tranh và người ta đánh nhau để làm gì. Trường của tôi cũng không xa nhà nên tôi sáng sáng xách cặp tung tăng theo đám bạn, hồn nhiên vừa học vừa chơi. Thành phố Pleiku có đầy lính tráng, nhưng chiến tranh chỉ xẩy ra ở đâu đâu chứ chưa bao giờ về đến thành phố. Thỉnh thoảng vào buổi tối có tiếng đại bác từ xa vọng về nhưng tiếng nổ không đủ vang xa để đánh thức thằng bé đang trong tuổi lớn. Cũng có thể ba mẹ chúng tôi bảo vệ chúng tôi kỹ qúa, anh em chúng tôi như những con sâu nằm bình an trong cái kén rất ấm áp của ba mẹ mình, hồn nhiên vui đùa, ăn ngủ.
Cuộc sống hạnh phúc của gia đình tôi chấm dứt đột ngột vào một buổi sáng đầu tháng ba năm 1975. Tôi năm đó vừa vào lớp sáu trung học đệ nhất cấp, Thủy, em gái tôi đang học lớp ba tiểu học, còn Nguyên thì lững chững biết đi.

Đã hơn 30 năm qua, tôi vẫn không bao giờ quên được những giờ phút kinh hoàng của buổi mai lịch sử đó. Chín giờ sáng thứ bảy ba tôi hớt hải chạy vào ty và lái chiếc Jeep của sở về nhà. Chất vội lên xe mấy cái vali áo quần và giấy tờ, ba hối thúc mọi người lên xe và lái đi. Thủy còn nhất định phải ôm theo con búp bê biết nhắm mắt mở mắt của em. Mẹ ráng xách theo một giỏ lớn đồ ăn và nước uống cho cả nhà và mấy bình sữa cho Nguyên.
Lúc chiếc Jeep của gia đình tôi rẽ ra con đường chính của thành phố Pleiku thì đã thấy đặc kín những người. Người và xe. Xe GMC, Jeep của quân đội, xe đò, xe nhà của tư nhân, xe ba bánh, xe gắn máy, xe đạp… Có những chiếc Honda chở cả gia đình, vợ chồng, con cái và còn thêm hai ba cái vali cồng kềnh. Có những chiếc Lambretta chất không biết cơ man nào là người, người ngồi trong xe, người ngồi trên mui xe, người đu theo càng xe… Anh em chúng tôi trố mắt nhìn cảnh tượng lạ lùng đó. Chung quanh tiếng người gọi nhau, tiếng khóc, tiếng la hét, chửi thề, hòa với tiếng máy xe nổ và mùi khói xăng bốc nồng nặc trong buổi sáng mai tạo nên một hình ảnh vừa rộn ràng vừa kinh dị.
Chúng tôi nhập vào đám đông cuồng loạn trên con đường dẫn ra khỏi thành phố, nhích dần, nhích dần, tiến lên phía trước. Lâu lâu lại có vài tiếng súng nổ, đoàn xe khựng lại, mọi người nhìn nhau, những cái nhìn thất thần. Ba mẹ tôi trong cơn hốt hoảng cũng không ai nói với ai lời nào. Mặt trời từ từ lên cao, ánh nắng mỗi lúc mỗi thêm gay gắt, đoàn xe vẫn như những con rùa trôi đi trong cái nắng chói chan. Những chiếc Honda, Vespa hai bánh chen chúc lạng bên này, lách bên kia, nôn nóng tiến lên... Tôi nhìn về phía trước, phía sau, bên trái, bên phải, xe cộ chập chùng như một cơn đại hồng thủy đang cuốn trôi cả thành phố núi.
( còn tiếp )
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #105 - 18. Nov 2007 , 07:22
 
CHO MẸ HIỀN YÊU DẤU
( Tiếp theo )
Cũng mất hơn cả tiếng đồng hồ thì chúng tôi mới ra khỏi thành phố. Hai bên đường đã bắt đầu xuất hiện những đám vườn xanh lá. Nắng mỗi lúc một lên cao...
Sau những giờ phút kinh hoàng ban đầu , bây giờ có lẽ mẹ mới nhớ đến chúng tôi, lục vội túi đồ ăn mang theo, mẹ lôi bình sữa ra đưa cho Nguyên. Tội nghiệp em tôi, có lẽ nó lây nỗi sợ hải của mọi người mà quên đi cơn đói. Thủy thì hai tay vẫn còn ôm chặt con búp bê, mắt ráo hoảnh không dám làm nũng mẹ như ngày thường…
Đoàn xe vẫn như đám rùa bò nhích dần từng bước, có nhiều lúc tôi nghĩ thà là xuống xe đi bộ còn mau hơn. Có lẽ một số đông người cũng nghĩ như thế, nên thỉnh thoảng tôi thấy một vài chiếc xe bị bỏ lại bên đường. Ba tôi vẫn kiên nhẫn lái xe.
Đến khoảng ba giờ chiều thì con đường không còn là con đường nữa. Có lẽ trục lộ này đã bị bỏ hoang từ lâu, cỏ hai bên đường mọc tràn kín lối đi, những lớp nhựa đường đã bị bóc lên từng mảng, những ổ gà, ổ voi sâu hoắm, một số xe cơ giới hạng nặng như GMC còn có thể vượt qua, còn những xe nhỏ thì đành nằm lại. Ba mẹ tôi đang chần chờ chưa biết quyết định thế nào thì bất thình lình từ bốn phương tám hướng tiếng đại bác nổ chụp trên đầu… Ba tôi cuống cuồng một tay ôm lấy Nguyên, một tay ôm lấy Thuỷ nhào vào vệ đường, mẹ tôi trong phản xạ tự nhiên hai tay ôm lấy đầu cũng nhào theo ba tôi trong lúc miệng thét gọi tên tôi. Tôi phóng xuống xe lẫn vào bụi rậm bên cạnh. Chung quanh tôi tiếng chồng gọi vợ, cha mẹ gọi con và tiếng đạn rít lên trong không khí nghe rợn người. Trong tiếng đạn nổ, nghe tiếng ba gọi tên tôi, tôi lên tiếng trả lời. Chưa đầy mấy giây sau thì ba tôi đã bò tới bên cạnh, kéo tôi vào lòng, và sau đó hai cha con tôi bò trở lại gần mẹ và em. Mẹ tôi đang ôm Nguyên, Thủy thì răng đánh lập cập, mặt không còn chút máu. Cả gia đình tôi ôm lấy nhau, ba me tôi dang hai tay ôm hết đàn con như muốn che chỡ cho chúng tôi thoát khỏi những tai ương. Chúng tôi dán chặt mình xuống đất như cố tìm sự che chở nhiệm mầu ở nền đất ẩm.
Khoảng năm phút sau thì tiếng đạn chấm dứt, có lẽ đây chỉ mới là màn pháo kích dọa dẫm mở đầu. Chung quanh, mọi người đã lục tục đứng lên, cũng may chỉ có vài người bị thương nhẹ, không phải vì mảnh đạn mà vì lúc vội vàng nhảy xuống xe, bị té trặc tay, hoặc trặc chân. Loạt pháo kích mở đường này báo chúng tôi biết là Viêt cộng biết chúng tôi đang làm gì, ở đâu. Cửa lò sát sinh đang mở rộng và chúng tôi, vợ chồng, cha mẹ, con cái cũng đang tự nguyện bước vào lò sinh tử.
Ba tôi sợ mẹ đi bộ không nổi nên nhất định vẫn chưa chịu bỏ xe, cả gia đình tôi lại leo lên, lần này chúng tôi chở thêm một cụ già và một em bé của một gia đình không quen biết. Bẩy người ngồi chật cứng trên chiếc Jeep công chánh. Ba tôi nổ máy xe, hình như ông nhìn thấy một cái gì kinh hoàng phía trước. Tôi thấy hai tay ba tôi run run trên tay lái. Mẹ tôi hai môi tím ngắt ngồi ôm em Nguyên ở ghế trước. Trên xe im lặng không ai nói chuyện với ai. Có lẽ sự sợ hải đã giết hết cảm xúc của mọi người.
Khoảng nửa tiếng sau thì nhiều chiếc hết xăng bắt đầu tấp lại bên lề, những người ngồi trên lục tục leo xuống ôm theo vali túi xách nhập vào đám người đi bộ mỗi lúc một đông. Một vài cụ già được chuyển lên những xe khác tiếp tục cuộc hành trình. Đến phiên chiếc của chúng tôi, nó rên khặc khặc vài tiếng rồi tắt máy. Ba vội vàng ép xe vào vệ đường. Tất cả chúng tôi nhảy xuống. Tôi cố gắng kéo cái vali nặng lặc lè của mẹ. Ba tôi một tay bồng Nguyên, tay kia xách theo cái vali. Mẹ tôi một tay dắt Thủy, vai mang cái túi xách đồ ăn và sữa của con, tay khác cố mang theo cái vali nhỏ chứa những giấy tờ quan trọng của ba.
Tôi không nhớ mình đi như thế được bao lâu thì lửa địa ngục nổ chụp trên đầu, từng chùm, từng chùm không ngơi nghỉ. Những tiếng kêu thét kinh hoàng, những tiếng khóc lạc giọng, những ánh chớp xanh lè và sau đó là những tiếng nổ khủng khiếp. Chúng tôi nhào xuống ôm lòng đất, không biết chạy đi đâu, vì chung quanh chỗ nào cũng ánh chớp và tiếng nổ. Tôi không còn hồn vía, nằm dán mình chặt xuống đất, hình như giữa những tiếng nổ tôi nghe tiếng mẹ gọi tên tôi.
Đợt pháo đến thật bất ngờ và chấm dứt cũng thật nhanh. Tôi lồm cồm ngồi dậy đảo mắt tìm ba mẹ. Và ô kìa, tôi thấy máu, máu đang lan ra từ hông của mẹ tôi, máu đỏ loang ướt cả vạt áo, chảy xuống chân mẹ. Mắt mẹ mở to, mẹ nhìn tôi và môi mấp máy gì đó. Tôi chết sững, miệng cố mở lớn kêu ba mà kêu không ra tiếng. Ba tôi cũng đã thấy máu, ba lao người lại bên mẹ miệng la lên thảng thốt. Một vài người bu lại. Một người đàn ông vén áo mẹ tôi lên, một đường cắt thật dài bên hông và từ đó máu hồng chảy ra như suối. Một người đàn ông khác vội vàng bụm tay vào bịt chặt vết thương, tôi không nhớ ai sau đó đã băng bó cho mẹ tôi.
Chung quanh tôi có những tiếng khóc, có một số người chết và rất nhiều người bị thương, còn mẹ tôi sau khi được băng bó thì tỉnh lại, nhưng khuôn mặt mẹ tôi trắng bệch như xác chết.
Chúng tôi ngồi lại một hồi cho ba lấy lại bình tĩnh. Sau đó tôi cõng Nguyên, ba tôi tay dắt em Thủy và lưng cõng mẹ tôi. Tất cả các vali đều vứt lại hết trừ cái túi xách đựng một ít đồ ăn và những bình sữa mà Thủy mang trên vai. Chúng tôi tiếp tục lên đường. Tôi không biết chúng tôi đang đi đâu, chung quanh tôi là rừng, con đường độc đạo bây giờ đã trở thành con đường của thần chết.
Máu từ vết thương của mẹ vẫn chảy ướt đẫm. Mẹ nằm thiêm thiếp trên lưng ba. Cha con chúng tôi mệt nhọc lầm lũi tiến về phía trước trong ánh nắng nhợt nhạt của chiều tà.
Đi thêm một đoạn đường nữa, đến một chiếc cầu ngang qua một giòng sông nhỏ thì trời đã bắt đầu xẩm tối. Ba tôi dừng lại, đặt chúng tôi ngồi bên cạnh mẹ, ba lấy sữa cho Nguyên và đồ ăn cho Thủy và tôi. Lục một cái túi xách nhỏ của ai vứt lại bên đường, ba tìm thấy môt chiếc mền cũ. Ba đắp cho Thủy và Nguyên giờ này đang thiu thiu ngủ, rồi ba đưa cho mẹ một bình sữa của Nguyên và bắt mẹ uống nhưng mẹ không chịu. Ba nói gì thật nhỏ vào tai mẹ nhưng mẹ vẫn lắc đầu quầy quậy. Sau đó tôi cũng mệt qúa mà thiếp đi…
Lúc tôi thức giấc thì bốn bề là đêm đen, tôi gọi ba và ba vội vàng lên tiếng trả lời. Hai em tôi vẫn ngủ say, ba tôi vẫn ngồi thức ôm mẹ tôi đang thiêm thiếp. Tôi xích lại gần mẹ, sờ vào tấm băng chung quanh bụng mẹ, tấm băng ướt đẩm…
Sáng hôm sau vừa mở mắt dậy là tôi tìm kiếm mẹ, mẹ tôi vẫn còn đó, ngồi dựa vào lòng ba tôi. Vết thương của mẹ vẫn ra máu suốt đêm, mặt mẹ bây giờ không còn trắng bệch mà tái xanh, ba tôi sai tôi xuống sông nhúng ướt nước cái khăn rồi ba dịu dàng lau mặt mẹ, mẹ tỉnh ra đôi chút, mẹ cố mở mắt nhìn chúng tôi, mẹ cố đưa tay ra để sờ vào Thủy và Nguyên còn đang say ngủ, mẹ nhìn tôi, mẹ nhìn Thủy, mẹ nhìn Nguyên và mẹ nhìn ba, và sau đó mẹ nhắm mắt lại. Tôi thấy môi mẹ mấp máy và từ khóe mắt mẹ hai hàng lệ chảy dài…

Ở lại Saigon một ngày thì gia đình chúng tôi thuê xe lên đây. Chúng tôi đang trở về chốn cũ. Trời Pleiku vào tháng ba thật đẹp, màu nắng vàng thật tươi trên hàng cây xanh, bầu trời trong vắt với những cụm mây trắng như bông nổi trôi bồng bềnh. Sau một đêm nghĩ ngơi và sau buổi điểm tâm tại một khách sạn khá tiện nghi ở trung tâm thành phố, mười hai người chúng tôi chất lên chiếc xe mười lăm chỗ ngồi. Trước khi đi ba tôi đã xuống quầy tiếp tân của khách sạn để mượn thêm hai chiếc mền len lớn. Chúng tôi ghé chợ mua một ít đồ ăn và nước uống cho cả nhóm, không biết nghĩ sao, tôi mua thêm một bó nhang thơm
Ba ngồi ở ghế trước nói nhỏ với anh tài xế cho xe chạy một vòng phố cũ. Xe chạy ngang qua ty công chánh nơi bà làm việc, chạy qua trường tiểu học của tôi và Thủy, chạy qua những ngôi trường trung học mẹ dạy ngày xưa, rồi rẽ vào đường có ngôi nhà của chúng tôi ba mươi năm về trước. Ngôi nhà tôi và các em đã sinh ra. Ngôi nhà có mẹ và những món ăn ngon lành của mẹ. Ngôi nhà có vườn hồng trĩu nặng trái, có chiếc xe môtô đen BMW cưng của ba, có tiếng cười ròn tan của chúng tôi ngày nào…
Ba bảo người tài xế ngừng lại bên kia đường rồi bước xuống xe tần ngần đứng đó. Hình như ba muốn băng qua đường, muốn lại thật gần căn nhà củ ngày xưa. Hình như ba muốn tìm lại những hình bóng của mẹ tôi, của người vợ hiền yêu dấu. Có lẽ không đủ can đảm nên ba chỉ đứng chôn chân ở đó để nhìn qua phía bên kia đường. Tôi xuống xe, đi lại cạnh ba, mắt ba tôi đang nhòa lệ. Khoác vai ba, tôi thấy mình như cây cổ thụ đang che chở cho ba tôi nhỏ bé bên cạnh. Ba rùng mình, lắc đầu như đang cố xua đưổi một ý nghĩ nào đó rồi ba quay gót. Tôi bước theo, hai cha con chầm chậm trở lại bên xe.
Chiếc xe chạy trên con đường năm xưa dẫn ra khỏi Pleiku, đường đã được mở rộng tráng nhựa, gần thành phố hai bên đường nhà cửa đã mọc đầy. Chỉ mất hơn một tiếng thì chúng tôi đến đoạn đường ngày xưa. Cảnh vật đổi thay thật nhiều, hai bên đường không còn là rừng nửa mà thỉnh thoảng đã thấy thấp thoáng mấy mái nhà tranh.
Tôi nhận ra ngay cây cầu cũ và giòng sông nhỏ… Tài xế cho xe đỗ lại. Chúng tôi xuống xe. Bên ụ đất mẹ dựa ngày nào bây giờ là một gốc cây cao, chúng tôi chuyển đồ ăn ra khỏi xe. Ba cho tài xế lái xe đi và bảo khoảng trưa thì trở lại đón chúng tôi. Có lẽ ba không muốn sự có mặt của người lạ trong giờ phút này. Chúng tôi trải hai cái mền bên dưới gốc cây. Tôi rút bó nhang, châm lửa đốt và cắm khắp chung quanh, mùi nhang thơm lan ra trong gió.

Chúng tôi ngồi quây quần bên ba tôi. Ba kể lại cho chúng tôi nghe câu chuyện của đêm kinh hoàng đó. Đêm ba ngồi ôm mẹ bị thương trong tay, bên cạnh là những đứa con thơ đang say ngủ, và chung quanh là rừng đêm. Nhìn xuống dòng sông, ba nói với chúng tôi là đêm đó ba đã quyết định ngồi lại bên cầu, ôm mẹ vào lòng cho đến hơi thở cuối cùng của mẹ, sau đó ba sẽ đem cả đàn con tự trầm để cả nhà cùng chết với nhau. Nhưng mẹ nhất định không chịu. Trong chút hơi tàn mẹ bắt ba hứa với mẹ là sáng hôm sau phải lập tức theo đoàn người đem con xuôi Nam. Mẹ bắt ba hứa với mẹ là phải sống để nuôi con khôn lớn nên người. Suốt đêm ba không ngủ, ôm mẹ trong tay và nghe cái chết đang đến dần với người vợ mình yêu quý. Ba dịu dàng nhắc lại cho mẹ những kỷ niệm thuở hai người mới quen nhau. Ba nhắc cho mẹ những nỗi hân hoan của ba khi được tin mẹ có thai các con. Mẹ an lòng thiếp đi trong lời hứa của ba là ba sẽ sống và sẽ mang các con thoát ra cái địa ngục này. Ba hứa như ba đã hứa với mẹ trong ngày cưới, trước Chúa, là ba sẽ yêu thương, chung thủy với mẹ trọn đời.
Giọng ba vẫn đều đều kể chuyện bên tai, nhưng tôi nghe như tiếng gió ở xa xăm. Mở mắt thật lớn và tôi thấy… và tôi thấy buổi sáng tháng ba Pleiku có nắng hanh vàng.
Tôi thấy đoàn dân chạy loạn, Thủy ngồi cạnh tôi với con búp bê biết nhắm mắt mở mắt, Nguyên ôm bình sữa ngồi trong lòng mẹ, và mẹ tôi, và ba tôi, và cây cầu và giòng sông nhỏ… Tôi thấy ánh lửa chớp lên và sau đó là tiếng nổ xé tai của đạn pháo; Tôi thấy tôi đang dán mình xuống nền đất ẩm; Tôi thấy khuôn mặt mẹ với thân hình đầy máu; Rồi tôi thấy mẹ ngồi lại đó, bên ụ đất ở chân cầu, phía dưới một chút là gìong nước bình thản chảy lặng lờ. Tôi thấy mẹ tôi đôi mắt đã lạc thần, cố gắng nhướng lên nhìn chồng và bầy con mình lần cuối. Tôi thấy ba tôi mắt nhòa lệ cúi xuống dịu dàng hôn lên đôi môi khô của mẹ. Tôi thấy ba tôi vừa khóc vừa bảo tôi và Thủy quỳ xuống lạy mẹ lần cuối. Và tôi thấy… tôi thấy ánh mắt của mẹ nhìn theo mình, nhìn theo Thủy, nhìn theo Nguyên đang được ba ẵm trên tay… Rồi tôi thấy chúng tôi lại nhập vào đám đông hỗn loạn. Tôi thấy ba tôi quay đầu lại không biết bao nhiêu lần nhìn về hướng cũ, nơi có chiếc cầu bắt qua giòng sông nhỏ, nơi đang có mẹ tôi ngồi dựa vào ụ đất bên đường chờ chết… Tôi thấy tôi một tay nắm chặt tay em, một tay nắm chặt tay ba vừa khóc vừa theo giòng người… trôi đi... trôi đi….

Cho mẹ hiền yêu dấu: Kỷ niệm bốn năm ngày Mẹ qua đời ...
Nguyễn Hữu Viện

Trái tim Mẹ đập nhịp cuối cùng
Thời gian ngừng cánh đỉnh không trung
Linh hồn hình hài vào tro bụi
Trong con kỷ niệm vọng chập chùng
Hạc già run rẩy giương đôi cánh
Niết bàn Thiên đường cõi mông lung
Thái Bình nhớ xiết bao trông đợi
Lòng Mẹ mãi bao la ngàn trùng

Paris tháng 9 năm 2007

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #106 - 08. Nov 2009 , 01:57
 
NGUYỄN TẤN ÍCH
CON LU NHÀ TÔI


Trong ba chú chó mới sinh, bà dì ở Đà Lạt cho tôi một con và được chọn ưu tiên. Cả ba đều là chó đực nên chỉ cần lựa con nào có bộ lông đẹp nhất là đủ. Khi tôi ngồi sà vào ổ của ba chú chó chưa mở mắt, chợt con có màu lông xám, hai đốm vàng trên lưng ngúc ngoắc đầu đánh hơi bò về phía tôi. Nó đưa cái mõm mũm mĩm, ươn ướt ủi vào bàn chân của tôi. Cái đuôi cũn cỡn ngoe nguẩy như loài chuột xạ...
Hai tuần lễ sau tôi ghé thăm dì. Bầy chó đã mở mắt đang ngậm vú mẹ. Khi nghe tiếng tôi trốc trốc, chú chó lông xám ấy bỏ vú mẹ bò vào lòng tôi. Dù màu lông không nổi bật như hai con kia nhưng tôi thích cái tính thân thiện của nó ngay từ giờ phút đầu.
Mang chó về nhà, con tôi chê màu lông nhớp nhem rồi tự động đặt tên là Lu. Dù mới một tháng tuổi, nhưng khi rời chó mẹ về nhà tôi, Lu ít khi kêu đêm như những chú chó con khác. Ban đầu cho Lu bú bằng bình sữa, rồi cho ăn sữa đặc đổ vào đĩa. Chỉ ba tháng sau là Lu lớn như thổi.
Lai lịch của dòng họ nhà Lu cũng ly kỳ lắm. Jolie là tên mẹ của Lu, giống chó xù Nhật Bản, nhỏ con, chân thấp, dáng đi lũn cũn. Nó hay qua nhà láng giềng đùa giỡn với anh chàng berger to con, tai vểnh, đôi chân sau vạm vỡ. Một hôm, lũ trẻ đến trước nhà Dì tôi kêu giậât giọng rằng là con Jolie bị con chó berger của ông Tư Đợi tha đi khắp khu vườn. Dượng tôi hốt hoảng chạy sang. Những tưởng con berger đã cắn chết con xù của nhà dượng. Nào ngờ cảnh tượng lạ lùng rất khó tin đã xảy ra: Con berger lẹo với Jolie nhỏ hơn nó gấp mấy lần. Vì là phần kết thúc sau “cuộc mây mưa” của loài chó, cho nên hắn na con cái còn mắc cứng phía sau đuôi. Hai chân sau của con Jolie bị treo hỏng trên cao chỉ còn cái mõm và đôi chân trước bị kéo lê trên đất. Nàng kêu toáng lên khiến chàng đâm hoảng na chạy khắp vườn như na cái đuôi của mình trở nên nặng chình chịch. Kết quả cuộc tình giữa hai “chủng tộc”, nàng Jolie đẻ ra ba chú chó lai. Nhờ vậy mà đời con của nàng không còn mang dáng dấp thấp lè tè của loài chó xù nữa.
Con Lu lớn lên bộ lông ngày càng đẹp. Màu xám của mẹ pha màu vàng của bố mướt mượt như nhung. Hai đốm vá màu vàng đậm nằm hai bên hông, thoạt trông như yên ngựa. Dù không to con lớn xác như bố nhưng con Lu cũng vượt trội hơn đám chó nhà. Chân cao, dáng đi oai vệ như loài hổ. Hai vai rộng, u thịt nổi vồng lên khi nó bước đi. Cặp mắt ánh lên màu lửa như có thần lực. Đàn chó hàng xóm gặp Lu là cụp đuôi chạy dài. Sau này, những lần đi săn giải trí loanh quanh ở những khu đồi còn an ninh, tôi mới nhận biết loài chồn, loài thỏ thấy Lu là hồn xiêu phách lạc, đứng chôn chân tại chỗ.
Mỗi lần con tôi đi học về là dành nhau ôm Lu vào lòng. Tình cảm giữa chó và người không hề phân biệt. Ngoài cái khứu giác bẩm sinh độc đáo của loài chó có thể đánh hơi hàng mấy dặm, thính giác con Lu còn phân biệt được tiếng xe quen thuộc của tôi từ xa. Nó nghểnh mõm, ve vẩy đuôi chạy ra trước sân. Nhìn cử chỉ đó là nhà tôi đoán biết tôi sắp về đến nhà. Lu cạ vào chân tôi từ lúc xuống xe đến khi tôi vỗ về âu yếm nó mới chịu đi nơi khác. Lu cũng cảm nhận khá nhạy bén lúc tôi buồn bực hay giận hờn. Những lúc ấy nó nằm khoanh tròn nhìn tôi với ánh mắt buồn xo. Đến khi tôi vui vẻ trở lại là Lu chạy đến cạ lưng vào người và liếm tay tôi như để hòa đồng niềm hân hoan với chủ.


Sau ngày “gẫy gánh 75”, tôi lên đường trình diện ban Quân quản thị xã. Tôi mang theo mười ngày gạo cùng ít đồ dùng, từ biệt vợ con với bao âu lo trong lòng. Khi bước ra khỏi cửa, con Lu cứ luấn quấn cản bước chân, tôi trực nhớ đến nó liền cúi xuống ôm Lu vào lòng. Ánh mắt ươn ướt buồn thiu của nó nhìn tôi chẳng khác gì đôi mắt của vợ tôi rươm rướm lệ. Lu liếm vào mặt tôi như quyến luyến từ biệt chủ phải đi xa lâu ngày. Trong tù, nhớ lại ánh mắt con Lu, tôi hiểu ra rằng loài chó còn có một giác quan đặc biệt, cảm tính rất nhạy bén về thái độ và tâm trạng của người gần gũi nó . Những tưởng mười ngày nửa tháng rồi quay về, nào ngờ cách biệt gia đình với thời gian dài hun hút. Tôi nhớ con Lu cũng tương tự như nhớ các con tôi. Nỗi lo ngại của tôi là lương thực ngày một khó khăn làm sao vợ tôi chạy đủ bữa cho đàn con bốn đứa lại thêm miệng ăn con chó.
Một ngày nọ, nhà tôi lên trại tù thăm, cho biết chú Dương Thái Lân, con của bà cô Út tôi từ Bắc về Nam có ghé thăm gia đình. Chú ấy bảo con Lu có cốt tướng nòi săn, muốn xin nó về đơn vị nuôi để săn mồi cải thiện thịt tươi. Lân là vai em nhưng lớn tuổi hơn tôi nhiều. Đi bộ đội từ trước 1954, sau tập kết ra Bắc được sang Tiệp Khắc học ngành cầu đường. Hiện là thủ trưởng đơn vị Công binh sửa đường ở Cao nguyên. Vợ tôi nhất quyết không cho con chó, lấy lý do phải qua ý kiến của chồng.
Một hôm, quản giáo trại gọi tôi lên văn phòng ban giám đốc. Một anh bộ đội mặc áo quần đại cán ngồi trong phòng tiếp khách tay cầm một tờ tạp chí cuốn tròn. Anh cán bộ thấy tôi vào, liền hỏi :
- Nguyễn Tấn đấy à? Tôi ngập ngừng :
-Thưa vâng,
-Tôi là Dương Thái Lân.
Tôi à lên một tiếng để tỏ rằng mình biết hắn là ai. Thực ra, qua 21 năm ở Bắc và mấy năm đi bộ đội Vệ Quốc Đoàn làm sao tôi nhớ nỗi cái khuôn mặt ngày xưa của thằng em con bà cô Út. Đưa tờ báo cuốn tròn cho tôi, Lân bảo :
- Ngày trước anh cũng viết sách, làm báo dữ dằn đấy nhỉ ?
Tôi mở cuộn báo thì ra là tờ Bán nguyệt san Quyết Tiến. Đó là tạp chí do tôi trách nhiệm biên tập trước 75 do cơ quan USAID của Hoa Kỳ yểm trợ ngân khoảng để in ấn phân phát cho các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân. Tôi nghi là Lân đã tìm thấy tập báo nầy trong tủ sách tại nhà tôi.
Lân bảo :
- Tôi có đọc trong đó truyện dài “Nhật Ký Bích Phương” của anh viết đăng nhiều kỳ về Tết Mậu Thân 68. Viết bạo đấy chứ.
Tôi giật mình và cảm thấy bất an. Lân đưa tay ra hiệu lấy lại cuốn tạp chí rồi lên tiếng:
- Tôi có ghé nhà thăm chị Tấn. Giai đoạn này mà trong nhà còn nuôi con chó kiểu tiểu tư sản. Anh không sợ cặp mắt của quần chúng hay sao ?
Tôi than thở :
-Thời gạo châu củi quế, nhà tôi phải chạy gạo cho bốn miệâng ăn, nhưng vì nuôi nó từ lúc mới sinh nên tình cảm gắn bó như thành viên trong gia đình.
Hắn ngắt lời :
- Tôi có đề nghị với chị cho tôi mang con chó đó về đơn vị để đỡ bớt khẩu phần ăn cho gia đình nhưng chị bảo phải qua ý kiến anh. Mới nhìn là tôi biết nó thuộc giống chó săn quý hiếm và có thể chống lạïi cả thú dữ.
- Nếu chú thích con chó thì về hỏi nhà tôi, quyền quyết định ở bà ấy. Tôi trả lời.
Lân đưa cho tôi một cây thuốc Điện Biên, tôi từ chối không nhận vì tôi đã bỏ hút thuốc từ lâu, rồi chào hắn quay về trại.


Đến kỳ thăm nuôi sau, bà xã tôi báo tin chú Lân đến nhà bắt con Lu đi rồi. Bỗng dưng mắt tôi như nhòa sương, lòng xót thương con Lu vô hạn. Từ ngày vào tù, tôi nghi ngờ tất cả những gì người ta nói. Giờ đây Lân bảo đem Lu về nuôi hay ăn thịt chỉ có trời biết. Thấy mắt tôi rưng rưng ngấn lệ, vợ tôi an ủi:
- Lũ con mình cơm không đủ ăn mà phải nhường cho chó một ít, lòng em cũng xót xa lắm. Nó thiếu ăn nên cả đêm chạy rông kiếm mồi đến sáng mới về nhà. Lông nó ướt nhớp nháp, đầy bùn. Biết đâu có cơm bộ đội dư thừa thân nó sẽ mập ra. Mình có giữ lại một thời gian sau cũng bị người ta đập chết làm thịt thôi. Xã hội bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?
Hết giờ thăm nuôi, tôi đứng vào hàng. Nhìn đôi mắt nhòa lệ của vợ khiến lòng tôi xót xa vô cùng. Cả đêm hôm đó hình bóng con Lu cứ chập chờn trong giấc ngủ. Tôi mơ thấy đôi mắt buồn rười rượi của Lu nhìn tôi trong ngày ra đi như báo hiệu rằng nó không còn dịp gặp chủ nữa. Cái cảm giác man mác êm êm của lưỡi nó liếm vào mặt, vào cổ, giờ đây tôi vẫn không quên. Niềm tin gắng gượng nhỏ nhoi vào lời hứa của chú em con bà cô là xin con Lu để canh chừng thú dữ và săn mồi. Vả lại, cái công khó của Lân đã lặn lội đường xa đến trại cải tạo để gặp tôi nên cũng an ủi phần nào.
Ba tháng sau, vợ tôi với khuôn mặt hớn hở báo với tôi con Lu không còn ở với chú Thái Lân nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi dồn. Nàng kể:
- Cách đây một tuần lễ, chú ấy bất thần vô nhà mình không giữ kẽ như những lần trước. Chú dáo dác nhìn trước nhà, nhìn sau nhà, cả cái phòng ngủ của vợ chồng mình chú cũng ghé mắt quan sát. Đột nhiên Lân hỏi:
- Con Lu có chạy về đây không chị ?
Em sững sờ hỏi:
- Nó ở với chú mà ?
- Tức lắm chị ơi, Lân ngồi vào cái ghế đặt ngoài hiên, nói tiếp :
- Trước khi đi công tác Hà Nội, tôi gởi Lu cho chị nuôi lo ăn hàng ngày. Không ngờ các đồng chí trong đơn vị lợi dụng lúc tôi vắng nhà, bắt con Lu làm thịt đánh chén. Các anh ấy bỏ con chó vào bao bố dìm xuống nước. Khi mởû bao ra con chó không còn thở nữa. Họ yên chí ngồi chờ nồi nước đang nấu cho thật sôi để cạo lông. Ca nước sôi đầu tiên tưới vào lưng con Lu, bất ngờ nó vùng dậy chạy đi mất dạng. Lập tức các đồng chí ấy cầm súng lùng sục các ven rừng nhưng chẳng thấy nó đâu nữa. Tôi yên chí con Lu sẽ trở lại nhà chị vì nó vừa khôn vừa có sức mạnh khác thường. Tôi đánh giá thành tích săn bắt mồi của con Lu rất cao. Nó thường xuyên bắt được chuột đồng, thỉnh thoảng chồn hoặc thỏ. Mình có chất tươi thêm vào bữa ăn nên tôi quý nó lắm. Kể xong, Lân đi ra xe xách vào một bao cát đựng đầy gạo, bảo :
- Đây là số gạo tiêu chuẩn tôi đi công tác còn thừa, chị nhận cho các cháu bồi dưỡng và thêm phần cho con Lu. Nếu nó có trở về đây xin chị báo tin cho tôi biết.
Lân ra đi được một ngày.
Hôm sau, lúc chạng vạng tối, cả nhà đang ăn cơm, con Lu không biết từ đâu chạy xồng xộc vào nhà, mình nó ướt đẫm mồ hôi. Trên lưng một vết phỏng to bằng bàn tay lột hết lớp lông và đã bắt đầu làm mủ. Lũ con mình ôm con Lu vào lòng mừng rơi nước mắt. Cả nhà phải nhịn một phần cơm cho nó. Loáng cái là nó vét sạch đĩa cơm độn sắn. Lu ve vẩy đuôi, đưa lưỡi liếm từng người trong gia đình như để điểm lại những người thân. Mấy đứa con mang Lu ra giếng chà xát xà phòng, tắm rửa, bắt sạch ve vắt bám vào da. Em khui bình thuốc Peniciline rắc lên vết phỏng.
Chờ đến tối, bọn em mang Lu về gởi cho ông bà ngoại vì biết thế nào chú Lân cũng trở lại tìm chó. Đêm đó, Lu cứ theo chân em đòi về, thằng Doãn phải ngủ nhà ngoại để giữ con Lu ở lại. Em vuốt ve vỗ về:
- Con phải ở lại đây với ngoại. Lu không được theo mẹ về nhà, người ta sẽ đến bắt con đi, biết hông ?”.
Lu vểnh tai nghe lời em dặn nên ngoan ngoãn nằm trong lòng của Doãn mà không còn hậm hực đòi về nữa.”
Từ đó, hễ thấy người lạ vào nhà là Lu chui dưới gầm giường chìa đầu ra, nhe răng gầm gừ. Chỉ cần một cú giậm chân là đủ để nó phóng ra vồ ngay. Sau lần thoát chết, con Lu nghi ngờ hầu hết mọi người, chỉ trừ gia đình tôi và ông bà ngoại. Tính thân thiện của con Lu giờ đây không còn nữa. Loài chó rất trung thành với chủ nhưng khi bị một lần đối xử tàn nhẫn vớùi nó là bỏ nhà đi luôn.
Gia đình ông bố vợ tôi tuy ở thị trấn nhưng vì là vùng đấùt đai đã tạo mãi từ trước khi trở thành thị tứ nên nhà cửa vườn tược rộng thênh thang. Tiếp giáp với vườn cây ăn trái là cánh đồng mía, nay thuộc hợp tác xã nông nghiệp. Lu không bao giờ ra trước đường phố mà chỉ lùng sục trong vườn cây, ruộng mía sau nhà tha hồ bắt chuột, chim chóc, rắn rít. Nó sống như một tử tù thoát ngục. Nó biết ngoài xã hội loài người đang nhìn nó một cách thèm thuồng. Họ chỉ chờ cơ hội là biến thân xác nó thành miếng nhừ, miếng mận.
Ngày ra tù, tôi vào thăm ông bà nhạc gia. Khi vợ chồng tôi vừa đến cổng nhà, con Lu đánh hơi được từ trong nhà phóng ra chồm lên người tôi. Với sức nặng của nó đã khiến tôi té ngồi xuống đất. Người nhà ngỡ con Lu tấn công kẻ lạ mặt nên vội la lên : “ Bố đấy Lu, tránh ra!” Nhưng không. Nó xoải hai chân trước đứng trên đùi tôi rồi đưa lưỡi liếm trên khắp mặt mày, tai cổ của tôi. Qua cơn hốt hoảng vì cú ngã bất ngờ, tôi hiểu ra con Lu đang mừng chủ. Tôi liền ôm chầm lấy nó rồi người và chó lăn lộn trên nền sân xi-măng. Cha mẹ vợ tôi vui mừng thấy con rể được ra tù. Hàng xóm đứng nhìn cảnh người vật ôm nhau, họ không tránh khỏi xúc động trong lòng.
Sáu tháng sau, nhà tôi sắp xếp cho tôi và thằng con trai lớn một chuyến vượt biển. Tôi phải xin hộ khẩu ở nhà bà dì tận làng An Vĩnh gần mũi Ba-Tâng-Gâng. Tôi có tên trong tổ hợp đánh bắt cá bằng lưới mành với ông dượng và mấy người em bà con. Tôi dắt con Lu theo để tránh cặp mắt của láng giềng và tránh luôn chú Lân bất thần đến nhà bắt gặp nó.
Trước một ngày tới điểm hẹn, vợ tôi dẫn thằng Doãn, con trai đầu lòng của tôi xuống nhà bà dì để chuẩn bị lên đường. Sáng hôm sau, nhà tôi mang con Lu lên xe lam trở về nhà.


Đêm 30 tháng hai âm lịch, trời không trăng nhưng rừng sao trên trời đủ soi rõ đường đi trên bãi cát trắng lờ mờ. Hơi nước biển mát lạnh cùng với ngọn gió tây thổi lồng lộng làm cho đám người trốn trong các bờ bụi rét run cầm cập. Họ cố dõi mắt về hướng biển. Mười giờ... mười một giờ... đến mười hai giờ ba mươi khuya, ánh đèn pin từ gành đá chợt nháy sáng báo hiệu ghe con đã đến. Tốp đầu tiên gồm bốn người lần lượt tiến ra gành đá. Tiếp theo là hai cha con tôi cùng hai người ở cánh bắc cũng xuất hiện. Cuộc “ra quân” âm thầm nhưng đúng theo thứ tự ấn định. Còn mười phút nữa mới đến tốp cuối cùng. Bỗng, phía sau làng có tiếng chân người chạy rầm rập rồi tiếng súng nổ loạn xạ. Toán đầu quay trở lại chạy tản mác vào xóm. Hai người cánh bắc cũng thế. Riêng tôi chạy băng qua gành rồi luồn vào lùm cây đước . Thằng Doãn, trước khi đi tôi đã dặn dò kỹ lưỡng. Nếu họ bắt được là cứ khai đi một mình đừng để liên lụy đến Ba. Toán du kích chia nhau chạy lùng trong xóm. Một du kích đuổi theo Doãn, đến gần bìa làng anh ta chộp được cổ con tôi. Thằng bé la toáng lên : “Thả tôi ra, thả tôi ra”. Anh du kích xách thằng bé lên cao. Tay chân nó không ngừng giẫy giụa. Chợt, một bóng đen từ trong hàng dừa phóng ra nhảy chồm lên bám vào cổ anh du kích. Con chó ! Tôi thầm kêu lên. Nó tấn công khá bất ngờ khiến anh ta đánh rơi cây súng và buông thằng nhỏ để đánh vật với con chó. Anh ôm đầu con chó nhưng răng chó càng lúc càng lún sâu vào cổ như con quỷ Dracula đang hút máu người. Hắn kêu cứu. Một lúc sau mới có đồng đội đến tiếp sức. Con chó cũng vừa nhả ra chạy vào trong xóm. Một loạt súng của người mới đến bắn đuổi theo. Tôi nghe tiếng ăng ẳng của chó từ trong xóm vọng ra. Một nghi ngờ thoáng qua, chẳng lẽ con Lu ? Nhưng tôi yên tâm ngay bởi con Lu đã được vợ tôi dẫn về nhà trong ngày hôm trước.
Núp trong đám cây đước tôi quan sát đầy đủ cảnh chó và người vật nhau. Con chó xuất hiện trong bóng đêm chớp nhoáng như loài sói vồ mồi. Hình ảnh con chó ngoạm cổ anh du kích, tôi liên tưởng đến ma cà rồng đội lốt chó để hút máu người. Nhưng dù ma hay chó tôi cũng thầm cảm ơn nó đã giải cứu cho con tôi và giải thoát được bao nhiêu người.
Tôi về đến nhà lúc tờ mờ sáng nhờ chiếc xe Honda thồ đi kiếm khách sớm. Tắm rửa thay áo quần xong, chợt nhớ đến con chó . Tôi hỏi vợ :
- Con Lu đâu?
Bà ấy bảo:
- Khi xe lam vừa đến ngả ba quốc lộ, con Lu vọt xuống xe chạy ngược theo con đường về hướng biển. Em nghĩ nó trở lại với anh và con. Nếu có điều gì không may xảy ra cho nó thì em biết làm sao bây giờ. Tôi nhìn vợ buông tiếng thở dài :
- Thôi rồi !
Tôi nghĩ ngay đến tiếng kêu đau đớn của chó vang lên sau tiếng súng. Con Lu có thể chết vì loạt đạn bắn theo. Tôi cảm thấy đau xót vô cùng.
Chờ trời tối hẳn, dì tôi mướn xe Honda thồ đưa Doãn về với chúng tôi. Vợ tôi ôm con vào lòng, khóc thút thít:
- Giờ con đã thoát được về đây với mẹ cùng các em. Từ nay trở đi, đói no, chết sống mẹ nhất quyết không để gia đình ta chịu cảnh phân ly.
Doãn nhìn tôi hỏi:
- Ba có thấy con Lu không?
Chẳng đợi tôi trả lời, Doãn quả quyết:
- Lúc ông du kích buông con ra, trước khi chạy trốn, con có quay lại nhìn thấy con Lu đang ngoạm cổ ông ấy.
- Như vậy là con Lu đã chết vì loạt đạn, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi kết luận . Các con tôi đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Tôi an ủi:
- Dù sao thì mình đã dành tình thương và chăm sóc Lu như con trong gia đình. Nó có chết cũng là cái chết có ý nghĩa, một nghĩa cử vô cùng cao quý của loài chó không khác gì con người.


Cả nhà đang say ngủ. Đột nhiên, tôi nghe tiếng cào sột soạt vào cánh cửa trước. Im ắng một hồi lâu, tiếng cào lại nổi lên lần nữa. Ghé mắt nhìn ra ngoài, tôi chẳng thấy gì cả. Chỉ có bóng đêm bao trùm và sương mù dày đặc phủ đầy trời. Tôi thiếp đi một chốc. Tiếng sột soạt nổi lên lần thứ ba. Lần nầy lâu hơn và ở ngay cánh cửa hông. Tôi vội bật đèn lên, hé cửa nhìn ra. Hốt hoảng, tôi kêu lên :
- Em ơi, con Lu trở về.
Cửa mở toang, Lu đi khập khiễng vào nhà. Tôi ôm Lu vào lòng và nước mắt tôi tuôn trào. Tôi khóc vì vui mừng và khóc vì thương nó quá đỗi. Bầy con tôi xúm vào quấn quýt bên Lu. Máu khô bê bết trên mông và đùi trái của nó. Một viên đạn ghim vào đùi sau, rất may là không đụng xương. Tôi rửa sạch vết thương bằng rượu cồn, xoa thuốc đỏ rồi băng kín vết thương lại.
Từ năm 1986 chính sách đổi mới, thị trấn quê tôi bắt đầu có sinh khí trở lại. Chẳng bao lâu sau, nơi đây buôn bán sầm uất. Cửa hàng tư nhân được mở ra tranh đua cùng với cửa hàng quốc doanh. Đời sống có phần dễ thở hơn.
Sau trận chiến biên giới Việt Trung năm 1979, Dương Thái Lân và cả đơn vị công binh được điều động đến vùng thượng du Bắc Việt. Vì thế con Lu sống thoải mái với chúng tôi không còn lo lắng gì nữa.
Đến tháng 7 năm 1991, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện tỵ nạn HO8. Con Lu cũng vừa tròn 18 tuổi. Nó đã quá già chỉ lẩn quẩn trong nhà. Nhưng khi có khách đến là nó vẫn không quên chạy vào gầm giường.
Ngày gia đình tôi vào Sài Gòn để lên máy bay, tôi cho Lu theo đến ga xe lửa cùng với bà con đưa tiễn. Khi còi tàu hụ từ xa, Lu đứng dậy sủa vang cả khu vực nhà ga. Trước khi lên tàu, mỗi người trong gia đình chúng tôi đều thay nhau ôm Lu vào lòng, rưng rưng, lưu luyến. Khi tiếng còi báo hiệu tàu chuyển bánh, con Lu nhìn đòan tàu rồi tru lên một tràng dài. Đây là tiếng tru lần đầu tiên trong cuộc đời 18 năm của nó. Tôi rùng mình. Tiếng tru thật áo não tưởng chừng như lời trối trăng vĩnh biệt của Lu nhắn gởi.
Khi qua Mỹ rồi, chúng tôi được thư nhà cho biết, con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Đông rét buốt, Lu nằm chết bên đường ray xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu.
Hay tin Lu chết, con tôi ôm nhau khóc. Nước mắt chảy ròng ròng như khóc thương một người thân đã ra đi vĩnh viễn. Riêng tôi thầm nghĩ : “Cũng may là nó đã quá già yếu, thân chỉ còn da bọc xương nên được chết toàn thây. Dù muốn dù không nhân viên nhà ga cũng phải chôn xác Lu ở một nơi nào đó trong lòng đất. Đất mãi mãi ấp ủ thân xác nó và ngàn vạn năm sau biết đâu bộ xương của Lu sẽ hóa thạch tồn tại mãi trên mảnh đất Việt Nam.”
Tôi khóc âm thầm trong đêm như khóc cho đứa con của tôi còn để lại quê nhà nay không còn nữa. Suốt mấy đêm liền tôi nghĩ về Lu như nghĩ về một con người quả cảm và thủy chung.



Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Truyện ngắn NHỮNG NGƯỜI LÍNH
Reply #107 - 11. Nov 2009 , 01:55
 
Một câu chuyện cảm động

Để câu truyện thêm rõ ràng, tưởng cũng cần nói thêm là mấy lúc sau nầy, trong mục đích cạnh tranh giảm tiền vé tối đa, các hảng hàng không không còn serve thức ăn trên tàu cho hành khách economy class ( trừ business class hay first class và những chuyến oversea long haul) mà thay vào đó chỉ bán sandwich, snack dưới hình thức BOB (buy on board) những bao đồ ăn trưa.
NHỮNG NGƯỜI LÍNH
Tôi đặt hành lý vào hộc ở trên đầu  rồi ngồi xuống ghế. Đây là chuyến bay dài làm tôi ước gì mình có một quyển sách hay để đọc trên phi trình. Có lẽ tôi cũng cần chợp mắt một chút.
Vừa lúc trước khi máy bay cất cánh, một nhóm 10 người lính trẻ men theo lối đi và ngồi hết vào các chỗ trống rải rác còn lại. Chẳng có gì để làm, tôi bắt đầu gợi chuyện người lính ngồi gần  nhất:
- Các cậu đi tới đâu vậy?
- Petawawa. Chúng tôi sẽ ở đó hai tuần để thụ huấn một chương trình huấn luyện đặc biệt rồi sau đó sẽ bổ sung tới A Phú Hản.
Sau khi máy bay cất cánh độ một tiếng thì tiếng loa thông báo là trên máy bay có bán thức ăn nhẹ đựng trong bao giá 5 mỹ kim.
Cũng còn lâu lắm chuyến bay mới tới phía Đông nên tôi quyết định mua một bao đồ ăn để vừa ăn vừa giết thì giờ.. Khi tôi móc bóp lấy tiền thì chợt nghe một người lính hỏi bạn mình là có muốn mua thức ăn không.
- Không! Có vẻ như mắc quá đó.. Bao lunch gì mà tới 5$.
Thôi tao ráng đợi tới căn cứ hẳn hay.      
Và anh lính trẻ gật gù đồng ý với bạn.
Tôi đảo mắt nhìn chung quanh thì thấy mấy người lính khác cũng không có ý định mua gì cả mặc dù lúc đó cũng đã tới giờ ăn trưa rồi. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, tôi gọi người nữ tiếp viên tới đưa cho bà ta 50$ và nói:
- Xin  bà vui lòng lấy thức ăn cho những người lính nầy.      
Người tiếp viên ngạc nhiên nắm chặt lấy tay tôi, qua đôi mắt long lanh ngấn lệ vì xúc động, bà ngõ lới cám ơn tôi và nghẹn ngào:
- Con trai tôi cũng là một quân nhân đang chiến đấu tại Iraq . Nghĩa cử nầy của ông như đang dành cho nó vậy.  Rồi bà xăng xái đi lấy 10 bịch đồ ăn trao cho tất cả các người lính trên tàu. Sau đó bà dừng lại chỗ tôi hỏi:
- Thưa ông dùng gì ạ?  Bò, gà rất hảo hạng.
-  Xin cho tôi gà
Tôi trả lời bà ta trong một thoáng ngạc nhiên vì theo tôi biết hạng economy bây giờ chỉ có BOB  thôi mà.
Người nữ tiếp viên đi về phía trước của máy bay độ một phút sau trở lại với nguyên khay thức ăn nóng hổi dành cho hành khách vé hạng nhất, bà trịnh trọng nói với tôi:
- Đây là tấm lòng tri ân nho nhỏ của những người trên chuyến bay nầy đối với  ông
Sau khi ăn xong với tâm trạng sảng khoái nhẹ nhàng, tôi bước tới phòng vệ sinh ở phía sau cùng. Trên đường đi, một người đàn ông thình lình đứng lên chận tôi lại nói:
- Tôi rất cảm phục việc ông làm, xin ông cho tôi được chia phần mà vui lòng nhận cho.
Nói xong, ông ta dúi vào tay tôi 25 mỹ kim.
Sau đó không lâu, viên phi công trưởng rời buồng lái vừa đi vừa nhìn số ghế ghi trên hộc hành lý, linh cảm khiến tôi thầm mong ông ta đừng kiếm tôi nhưng Chúa ơi! Ông ta dừng lại ngay hàng ghế của tôi rồi cười thật tươi và chìa tay ra nói:
- Tôi muốn được bắt tay ông
Cực chẳng đã, tôi mở dây an toàn đứng dậy bắt tay viên phi công trưởng.
Với giọng hân hoan, ông ta nói lớn như để mọi người cùng nghe:
- Tôi cũng đã từng là một quân nhân và cũng là phi công chiến đấu. Có một lần có người cũng mua cho tôi thức ăn. Điều đó thực sự thể hiện cả một tấm lòng tốt đẹp mà tôi không bao giờ quên.
Cả một tràng pháo tay tán thưởng vang dội làm tôi đỏ bừng mặt vì mắc cở.
Chỉ với một hành động nhỏ nhặt tầm thường của tôi mà đánh động lương tâm con người đến thế sao?
Vì chuyến bay quá dài nên có một lúc, tôi phải đi bộ về phía trước để rản gân cốt thì bỗng nhiên có một nam hành khách ngồi trên tôi độ sáu dãy đưa tay ra bắt và để lại trong tay tôi cũng 25 mỹ kim.
Bầu không khí trên chuyến bay thật nhẹ nhàng và chan hoà tình người cho tới khi máy bay hạ cánh. Tôi lấy hành lý và bắt đầu bước ra khi vừa tới cửa máy bay thì một người đàn ông chận tôi lại và nhét nhanh vào túi áo tôi một thứ gì đó xong ông ta vội vả bước đi mà không nói một lời. Lại thêm 25$ nữa.
Nếu tính ra, tôi chỉ chi có 50$ mà bây giờ thu lại tới 75$. Kiếm được 25$ dễ dàng đến thế sao! À ! Quên! Còn bữa ăn thiệt ngon miệng nữa chứ.
Đúng là khi ta làm phải thì không bao giờ lỗ lã cả.
Tôi vui vẻ bước nhanh vào cửa phi trường thì thấy mấy người lính trẻ kiểm điểm nhân số để chuẩn bị về căn cứ. Tôi  tiến tới trao cho họ 75 mỹ kim và nói:
-  Từ phi trường về tới trại phải khá xa. Mà bây giờ cũng đã tới giờ để dằn bụng một cái sandwich chứ. Chúa sẽ ban ơn cho các cậu.
Mười người lính trẻ trong ngày hôm đó chắc đã rời chuyến bay trong tâm trạng yêu thương và kính mến những hành khách đồng hành. Tôi hăng hái bước tới xe với lời thì thầm nguyện cầu cho tất cả sẽ được trở về trong an bình.
Những chàng trai nầy đã hy sinh tất cả cho quê hương mà tôi chỉ biếu họ có một vài phần ăn. Thật là quá ít ỏi nếu không muốn nói là chỉ trong muôn một. 
Nghĩ xa hơn nữa, người cựu chiến binh đã từng đánh đổi cả cuộc đời khi viết lên chi phiếu trắng đề tên người nhận là “Hiệp Chủng Quốc” mà số tiền có thể lên đến chính sinh mạng của họ.
Đó là một vinh dự tối cao lẽ ra cả đất nước phải dành cho họ nhưng than ôi! Có nhiều người đã không cần biết tới và bỏ quên họ.
Xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho bạn chuyển tiếp câu chuyện nầy tới bạn bè quen biết.
Riêng tôi thì đã làm xong.

Toronto Sept 4,2009
Nguyên Trần

Back to top
« Last Edit: 11. Nov 2009 , 01:57 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #108 - 07. Jan 2010 , 14:07
 


 
Ông già ngồi bươi đống rác
>
>          Thành phố Hồ Chí Minh quang vinh vẫn còn rất nhiều rác. Hồi thời trước, Sàigòn đã có nhiều rác, nhưng so với bây giờ thì…thua xa. Rác bây giờ chẳng những nhiều hơn mà còn…rải rác hơn. Điều này chẳng có gì khó hiểu hết. Bởi vì, trong chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa, cái gì của ta cũng đều hơn của lũ chúng nó cả: rác của chúng nó là rác tư bản, rác ngụy, còn rác của ta là rác…nhân dân, do nhân dân, từ nhân dân mà ra. Có chính nghĩa, hơn là lẽ tất nhiên!
>          Vậy, ở một đống rác khá lớn nằm trên vỉa hè một con đừơng khá rộng trong thành phố, có một ông già ngồi ung dung như đang ngồi ở một nơi sạch sẽ! Ông già đó tuổi cỡ ngoài tám mươi, có chòm râu bạc giống râu bác Hồ. Ổng đội mũ tai bèo, mặc bộ đồ bà ba đen, mang dép cao su đúc. Ổng ngồi trên một ghế bằng nhựa nhỏ, thấp, loại ghế ngồi cho trẻ con. Ổng cầm cây gậy trúc dài bươi bươi rác, mắt nhìn châm chú chỗ đang bươi, mặc cho đàn ruồi bay lên đáp xuống như giành rác với ổng! Lâu lâu, ổng nói một mình: «  Nó nằm lẩn đâu đây hè! Mẹ bà nó!. »
>           Đường này lúc nào cũng đông ken. Xe đạp, xe gắn máy, xe hơi…hai luồng chen nhau chạy, giành mặt đường mà chạy, lòn lách lấn ép, bóp kèn inh ỏi. Chạy đầy đường như vậy mà chẳng ai nhìn thấy ở trên đỉnh đống rác cao nhòng đó có một ông già…Cho đến người đi bộ trên vỉa hè cũng chẳng thấy ai để ý đến ổng hết! Hơn hai chục năm sống quen với quá nhiều nghịch lý, con người ta không còn nhạy cảm trước những sự bất bình thường. Bởi vì cứ nhìn riết rồi quen con mắt, nên không thấy chướng, cứ nghe riết rồi quen lỗ tai nên không thấy ồn, cứ hửi riết rồi quen lỗ mũi nên không thấy hôi. Đó là một quy luật. Tiếp theo đó là một quá trình đi xuống dốc của con người, vừa nhanh vừa gọn, bởi vì nó dễ ợt hà!
>           Ông già lâu lâu ngừng bươi rác, móc túi lấy bọc ni-long thuốc rồi chậm rãi vấn hút. Điếu thuốc của ổng to bằng ngón tay cái, nên mỗi lần ổng nhả khói là thấy mù mịt, làm như đống rác đang ngún cháy vậy!
>           Trong khi ổng hút thuốc, ổng không bươi rác. Làm như hút thuốc là qua giai đoạn ổng nghỉ xả hơi! Ổng xoay người ra nhìn thiên hạ chạy loạn dưới đường giống như ổng đang ngồi xem kịch. Một lúc sau ổng nói một mình: « Thiệt…không giống ai hết!. » Mà thiệt! Người ta chạy đi đâu mà lúc nào cũng thấy chạy đầy đường. Người nào cũng hối hả. Người nào cũng bóp kèn. Kẹt không kẹt gì cũng thấy bóp kèn! Làm như nếu không bóp kèn thì xe sẽ…không chạy vậy! Còn luật lệ giao thông thì hầu như không có. Mạnh ai nấy chạy. Tay mặt tay trái gì cũng…như nhau. Đàn ông đàn bà gì cũng chen lấn lòn ép…như nhau. Chẳng ai nhường ai hết. Đàn ông con trai có người ở trần bận quần xà-lỏn, có người lại mặc quần áo gin, bên trong có sơ-mi và áo gi-lê giống như đang ở xứ lạnh! Còn đàn bà con gái thì phần đông ăn mặc không để…hở một chỗ nào hết. Áo pô-lô ngắn tay, quần dài, găng tay cao tới…nách, đội kết loại đấu thủ dã cầu, mang kiến đen, bịt mặt bằng chéo vải thêu bông hoa hay có ren giống đàn bà á-rập! Nếu có mặc áo dài thì cũng mang găng tay ngắn, rồi đội kết, rồi kiến đen, rồi bịt mặt! Thành ra không nhìn ra được ai là ai hết!
>            Hút tàn điếu thuốc, ông già lại quay về đống rác, châm chỉ bươi. Một lúc lại nói: « Mẹ bà nó! Tao bươi riết rồi cũng ra. Làm gì rồi cũng thấy!. »
>            Một cô gái nhỏ xách tới xô rác đổ xuống làm lũ ruồi lúc nhúc bay lên, thấy ông già ngồi đó, cô hỏi:
>            - Bộ ông không sợ hôi sao mà ngồi đó vậy?
>            Ông già cười mũi:
>            - Thời bây giờ, ở đâu mà không hôi không thúi, hả? Nó tràn đồng thì ngồi ở đâu cũng vậy thôi.
>            Cô gái lại hỏi:
>            - Thấy ông bươi bươi. Bộ ông mất cái gì hả?
>            Ông già ngừng tay, hỏi lại:
>            - Mất hả? Mất cái gì? Còn khỉ gì đâu mà mất!
>            - Vậy chớ ông bươi rác làm gì? Rác bây giờ đâu còn có gì đâu mà lượm.
>            Ông già cầm gậy trúc gõ gõ vào đống rác làm lũ ruồi hốt hoảng bay lên vù vù. Ổng hạ giọng:
>            - Tao bươi rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng mà hồi đó tao nuôi tao giấu trong nhà.
>            Có vẻ thấy ông già…khùng quá nên cô gái bỏ đi, vừa đi vừa nói:
>            - Họ là con người chớ bộ chuột bọ gì đâu mà ông tìm trong đống rác!
>            Ông già nhìn theo, nói lớn:
>            - Mà tao có nói tụi nó là con người đâu?
>            Tiếng của ông bị chìm lấp trong tiếng ồn hỗn tạp của đường phố, nên chẳng gợi được sự chú ý của ai hết. Ổng nhìn quanh, thở dài, rồi tiếp tục bươi…
>            Một thanh niên đang đi trên vỉa hè bỗng tấp vô đống rác vạch quần định đứng tiểu, một tay chống nạnh, trên môi phì phà điếu thuốc. Ông già nói lớn:
>            - Coi chừng! Nó phóng lên nó cắn sứt à!
>            Gã giật mình, vội vã buông quần bước đi như chạy. Vừa đi vừa nhìn lại, nét mặt còn đầy sợ hãi! Ông già không nhìn theo, cũng không cười... Làm như điều ông nói là điều có thật chớ không phải đùa. Cho nên nghe ổng nói tiếp:
>            - Cái lũ khốn nạn này có thứ gì mà tụi nó không đớp!
>            Ổng nói mà đầu gậy vẫn không ngừng bươi. Bầy ruồi nhặng vẫn bay lên đáp xuống, đáp xuống bay lên, lúc nha lúc nhúc…
>            Gần trưa, một người đàn bà đứng tuổi từ trong hẻm gần đó bước ra đi lại đống rác, thưa:
>            - Mời ông Hai về ăn cơm.
>            Ông già  nói ‘ờ’ rồi chống gậy đứng lên đi. Người đàn bà cúi lấy cái ghế nhỏ, xách đi theo phía sau ông, im lặng. Cả hai đi lần vào hẻm.
>              Con hẻm mới vào thấy rộng thấy thẳng, hai bên có phố lầu hai ba từng kiến trúc hiện đại, từng nào cũng thấy có máy lạnh lòi ra coi rất…văn minh! Hai dải phố lầu này kéo dài vào hẻm độ ba bốn mươi thước.Sau đó là một khúc quanh thẳng góc, rồi con hẻm chỉ còn lại không tới hai thước bề ngang, chạy quanh co rồng rắn vào tuốt bên trong tiếp nối với những con hẻm nhỏ khác không biết từ đâu tới mà cũng thấy…rồng rắn quanh co! Ở đây, nhà cửa lụp xụp hẹp té, khác hẳn với mặt tiền đồ sộ lộng lẫy. Đó là một thế giới khác, một thế giới nghèo khó núp sau cái thế giới phồn vinh bên ngoài. Người ta không thể nghĩ rằng nó  nằm ngay trong lòng thành phố, cái thành phố mang tên Người từ hơn hai mươi năm…
>            Ông già và người đàn bà bước vào một căn nhà nhỏ hẹp của khu hẻm rồng rắn. Ông già nói:
>            - Tao bươi hoài mà chưa gặp thằng nào hết.
>            Một người đàn ông trong nhà nói cho lấy có:
>            - Vậy hả ông Hai?
>            - Tụi nó chui rúc lì lắm. Mẹ bà nó! Hồi đó mà tao biết như vầy, tụi nó có chung vô quần trốn, tao cũng cởi quần tao giũ cho chết cha tụi nó hết!

>            …Người đàn ông trong nhà là cháu của ông già bươi rác, kêu ổng bằng ông chú, còn người đàn bà là vợ hắn. Hai vợ chồng đã trộng tuổi nhưng chưa có con. Họ lảnh may gia công quần áo cho một công ty may mặc, nên trong nhà lúc nào cũng nghe tiếng máy may chạy xành xạch suốt ngày. Họ ngủ trên cái gác lửng nhỏ bằng hai chiếc chiếu, còn ông già thì có cái ghế bố kê trong góc nhà. Nhà nhỏ xíu nên chỉ có một bóng đèn điện treo ở giữa.
>            Hai vợ chồng người cháu đem người ông về nuôi trong nhà từ ngày ổng ra tù cách đây hơn bảy năm…
>            Theo lời kể lại của người cháu thì “ông chú” ngày xưa là một nhà doanh thương - đại doanh thương - Ổng độc quyền nhập cảng vỏ ruột xe gắn máy, xe hơi, xe máy cày. Ổng có mấy kho hàng lớn ở Khánh Hội, một văn phòng ba từng lầu ở Chợ Cũ, một vi-la to ở đường Phan Thanh Giản và một vi-la vừa vừa nằm khuất trên một đồi thông ở Đà Lạt. Vợ và hai con ổng đều ở bên Pháp để làm một “đầu cầu” bên đó. Còn bên này ổng có một bà nhỏ lo về giao tế, xã hội và nhân viên. Lâu lâu, ổng bay qua Âu Châu thăm vợ con và làm việc với các hãng chánh ở bên đó.
>            Ổng nhiều thế lực lắm. Người cháu nói:”Hồi đó, tôi đang làm thợ may cho nhà may X thì bị động viên. Vậy mà ổng kéo tôi ra cái rẹt! Có điều làm tôi không hiểu là ổng như vậy mà trong nhà ổng nuôi Việt Cộng không. Ngay như cái nhà trên Đà Lạt mà ổng dùng cho mấy ông lớn mượn, từ anh quản gia đến chị bếp đến mấy người làm vườn đều là cán bộ Việt cộng ráo. Ổng nuôi họ như vậy cho đến năm 1973 họ mới lần lượt rút đi …”.
>            Hồi tháng tư 1975, ổng không di tản. Còn nói: ”Cách mạng chớ bộ ăn cướp giết người đâu mà sợ!”. Sau đó mấy người ổng nuôi có về thăm, ổng cũng đãi đằng hậu hỉ. Vậy mà khi cách mạng “đánh tư sản mại bản”, ổng cũng bị “đánh” tơi bời, tài sản bị tịch thâu hết còn bị đi tù cải tạo nữa. Vợ lớn của ổng chết ở bên Pháp, bà vợ nhỏ đi chui rồi mất tích ở biển Đông. Còn hai đứa con, sau này có người quen từ Paris về cho biết, đã phung phí hết tiền của mà ổng đã để cho họ bên đó rồi dọn nhà đi mất. Thành ra đi thăm nuôi ổng chỉ còn có vợ chồng người cháu thợ may…
>            Khi ông chú được thả ra khỏi tù - nghĩa là Nhà Nước xét thấy ổng đã hoàn toàn được cải tạo - ổng đã trở thành một người khác: một người mất trí! Người cháu nói: “Hồi đem ổng về ở với tụi tôi, tôi cũng ngại. Sợ ổng chê. Nhưng rồi ổng vẩn ở tự nhiên, không phàn nàn gì hết, tụi tôi cũng mừng. Rồi lo không biết chịu đựng ổng nổi không. Nhưng rồi thấy ổng không có điên loạn như những người điên khác nên tụi tôi cũng yên tâm. Ổng không nói gì hết, tối ngày bắc ghế ngồi dưới mái hiên hút thuốc đọc sách hoặc ngồi cả giờ nhìn đường hẻm như người ta châm chú coi ti-vi! Vậy mà lâu lâu ổng cũng nói nhiều câu làm mình ngạc nhiên tưởng như ổng là người bình thường. Khi mình thử hỏi tiếp, khơi lại thời cũ thì ổng lại ngẩn ngơ. Thấy tội nghiệp! Thiệt ra, người ta chỉ thấy ổng điên là khi nào ổng đi bươi đống rác, cứ hai ba hôm là ổng đi bươi…”

>            Và như vậy, “ông Đại Doanh Thương” đó bây giờ ngồi bươi đống rác giống như ổng bươi lại dĩ vãng của ổng, một dĩ vãng mà rác rến vun đầy... Ổng đâu biết rằng, đối với Nhà Nước cách mạng, ổng cũng chỉ là một thứ rác rến mà Nhà Nước đã vứt bỏ trên lề xã hội, không hơn không kém …
          
>  TIỂU TỬ





Back to top
« Last Edit: 07. Jan 2010 , 14:09 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #109 - 16. Jan 2010 , 00:48
 


RỪNG KHÓC GIỮA MÙA XUÂN


PHẠM TÍN AN NINH

Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư ở Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá, nhưng lại rất đẹp vào những ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm cho tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.

Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo tôi sau những buổi tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp từ thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính biệt động quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa mới trải qua khói lửa Mậu Thân.

Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ những khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.

Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên, Lê Cao Nguyên. Anh về phép thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, và đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một “lỗ tai nhỏ” như ba nó.

Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần VC pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau, khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau .

Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là “ may còn có anh đời còn dễ thương”. Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ !


Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, chồng tôi hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang theo những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.

Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng giã từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chũng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là một số đơn vị Biệt Động Quân được chỉ định đi sau, ngăn chận địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái. Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch quá đông, và bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đền gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và rất nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn. Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con sông nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt quá, tôi ngủ vùi một giấc, thức dậy thì trời vừa sáng. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp. Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch. Vừa rời đoàn người vài phút thì đạn pháo thi nhau rót xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng đã có một số người chết.. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính biệt động một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn : “Đạp lên mà đi!” Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa!

Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi. Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trân mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp. Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người. Tôi hình dung đến cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tội nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh đang tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến. Và không ngờ đó lại là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi. Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối cùng tôi chứng kiến những người lính biệt động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét “ Biệt Động Quân Sát” vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác.Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.

Tiếp tục di chuyển chừng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo tât cả chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi bàng hoàng nhìn thấy mấy người lính biệt động quân nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc. Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nữa thì chúng tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẳn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo với cái giọng rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).

Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn. Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.


Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà săn sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.

Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người con vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản, mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ một sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi được gặp anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người Thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số ngôi mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi , mà cho cả nhà chồng.

Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.

Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây.Và lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành một thứ âm thanh não nùng, xé ruột.

Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương và một đứa em trai của tôi được đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước ( chị đã về quê trên vùng Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.

Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây đúng vào giữa mùa Xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.

Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương, còn có cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn được mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban quân nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.

Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:

Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thoi

Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hơp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với giá rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M’dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới hơn 20 cây số.

Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.

Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc của người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là một anh đàn ông Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi.. Khi anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi , bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sóng mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc màu nâu sậm như màu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước.. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi kịp nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người Thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra rồi nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi bảo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa, nói vào tai chị:

- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không ?

Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình :

- Thằng Nguyên ? Chẳng lẽ là thằng cu Nguyên ?

Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi :

- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?

Anh người Thượng lắc đầu :

- Tao là thằng Ksor Tlang,

Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nữa, rồi buột miệng :

- Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá !

Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người tai mắt ở đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút, hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.

Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi với anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.

- Em có cha mẹ không ? Tên ông bà là gì ?

- Tôi có cha mẹ . Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu.

- Có anh em không ?

- Không.

- Anh có nhớ ngày sinh không ?

- Không

( Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ tìm khai sinh sau)

- Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không ?

- Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.

- Cái sẹo trên cánh tay trái , anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?

(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)

- Không ! Chắc là bị cành cây đâm trúng.

Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi :

- Cha mẹ anh đang ở đâu ?

- Buôn Ban Ma Dek .

(Gã công an nhìn tôi, bảo Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)

- Anh ở chung với cha mẹ anh ?

- Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.

- Đã có vợ con rồi à ! Tôi buột miệng.

Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo là chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi hộ chúng tôi bảy cái xe ôm.

Cha mẹ của anh bán gà đã khá già, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn .

Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực:

- Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lếch vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.

- Rồi xác người lính ấy ở đâu ? Tôi hỏi .

Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:

- Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.

Chúng tôi theo hai người công an dìu ông già đi về phía khu rừng.

Tôi khóc ngất khi nhìn thấy nấm mồ thấp lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng quỳ xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.

Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp tiền bạc cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông già một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể sống xa rừng cũng như loài cá không thể sống mà không có nước.

Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi dự định xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng trong nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao nhiêu đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất ở quanh đây.Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi cùng hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.

Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi đã trả công cho hai gã công an!

Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều , tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình.Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày chỉ vừa lên bốn tuổi.


--------------------------------------------------------------------------------





--------------------------------------------------------------------------------


Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theoTỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?

Back to top
« Last Edit: 16. Jan 2010 , 00:53 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #110 - 03. Feb 2010 , 15:08
 
[b]
Tiểu Thơ



Phạm tín an Ninh

Rầm!
Tôi và hai thằng bạn vừa rà thắng xe đạp trước rạp Tân Tân để vào xem phim "Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ" thì bị một chiếc Vélo Solex húc từ đằng sau tới. Cả ba thằng ngã xuống đất. Riêng tôi còn bị cái xe của thằng bạn đè lên bụng đau muốn nín thở. Mới loi ngoi bò dậy, chưa kịp phủi bụi trên áo quần thì nghe tiếng quát tháo:
- Ê! Bộ ba "chàng ngự lâm pháo thủ" mù cả hà. Dừng ngựa mà chẳng coi chừng phía đàng sau! Đáng đời!
Vừa ngượng vừa tức giận bởi tự dưng bị húc té nhào giữa thanh thiên bạch nhật và trước bao nhiêu nguời đẹp, chưa kịp nắm cổ áo cho một trận, thì bị thủ phạm tiếp tục tấn công phủ đầu. Đúng là cà chớn. Nhưng nhìn lên thì.. à.. cả ba thằng khựng lại: đối phương là một cô gái, tuồi ô mai, tóc còn thắt bím, ngồi trên Vélo, vòng tay trước ngực, trề môi, rồi trợn đôi mắt to như hai cái đèn "ô tô":
- Số còn hên đó. Cái vélo không bị hư gì. Tiểu thơ tha cho đó. Lần sau liệu hồn!
Nói xong cô bé nguýt một cái rồi rồ ga chạy mất tiêu.
Dù chưa bao giờ bị thầy Bửu Cân phán cho cái tội "con nhà không có lư hương", bọn tôi cũng phải chửi thề một tiếng cho hả giận. Thằng Cường, đứa hiền lành ít nói nhất trong bọn tôi, xăn tay áo, xổ nho trước:
- Đ.M., con gái nhà ai trông đẹp thế mà đanh đá như bà chằn. Phải mà con trai thì biết tay tao.
Đúng là cô bé khá xinh, nhất là đôi mắt thật to và đôi môi mộng đỏ, dù có trề lên ngạo nghễ, cũng vẫn đáng yêu ghê lắm. Tôi nghĩ vẩn vơ như thế khi theo người soát vé dẫn tới chỗ ngồi. Trong rạp tối mò. Ba thằng chúng tôi vào trễ. Trên màn ảnh đang chiếu phim thời sự: Tổng thồng Ngô Đình Diệm đang kinh lý Ban Mê Thuột (nhưng không thấy cảnh ông bị ám sát hụt).
Suốt buổi hôm ấy, mắt nhìn lên màn ảnh, mà tâm trí tôi thì chỉ thấy có đôi mắt cô bé, trừ khi nào có tiếng súng nổ của ba chàng ngự lâm, tôi mới giật mình trở lại với truyện phim đôi ba phút.
Cha tôi nói đúng. Hồi mới ba tuổi, tôi đã khóc đến cả tháng trời khi mẹ tôi mất, ông bảo rồi sau này tôi sẽ là một thằng đa sầu đa cảm. Và hôm nay, dường như tôi bắt đầu biết tương tư đây.
Nha Trang cũng chẳng lớn hơn cái thành phố núi Pleiku là bao nhiêu, để ông nhà thơ nào đó "đi dăm phút trở về chốn cũ", vậy mà cả mấy tháng rồi, tôi chưa gặp lại cô bé, mặc dù thời ấy Nha Trang đã có khá nhiều vélo solex, đủ làm tôi nhìn theo muốn ngoẹo cổ. Tôi nghĩ, chắc là cô bé từ đâu đến chơi. Trông nước da trắng hồng, có thể là từ Đà Lạt xuống thăm ai đó rồi lại biến mất như một nàng tiên trong cổ tích.
Quê tôi ở ngoài Vạn Giã. Vào Nha Trang học, ở nhà ông chú, trước ở gần rạp ciné Moderne của ông Bác Ái, sau này dọn lên gần Ty Thông Tin. Chú tôi, ngoài làm chủ tiệm bán mọi vật dụng về điện, còn thầu các công trình diện. Ông bà chỉ có một cô con gái rượu, cưng như trứng mỏng, nên mọi thứ ngược xuôi giao dịch ông cần tới tôi. Để tôi lên tinh thần, bỏ bớt cái tật ham chơi và lười biếng có lẽ từ khi còn trong bụng mẹ, ông thường bảo: "Cháu còn nhỏ mà coi bộ có khả năng thương mại. Cố gắng theo chú học hỏi, sau này dám qua mặt tao nữa đó ". (Cái này thì ông nói trật lất. Vì sau này tôi trở thành lính đánh giặc, nên cả đời có buôn bán được cái gì đâu).
Cả năm cứ mong tới mùa hè là tôi dọt về quê thăm cha tôi và chơi với mấy thằng bạn nối khố, rủ nhau ra con sông quê, ngày bơi lội, tối cắm câu, ngủ ngoài trời mà đua nhau đếm thử có bao nhiêu vì sao, tìm đâu là dải Ngân Hà có cái Cầu Ô Thước của Ngưu Lang Chức Nữ. Coi bộ vui và lãng mạn hơn ở trong cái thành phố Nha Trang này nhiều. Vậy mà mùa hè này tôi bị ông chú tôi giữ lại, sau khi thuyết phục được ông già tôi, bảo là để cho tôi tập làm quen với thương trường(!). Tôi nghe mà phát sợ, cứ như là sắp sửa bị ông đẩy tôi ra giữa chốn sa trường!
Bài học đầu tay là tôi xách cặp theo ông, đi dự một cuộc họp với mấy ông thầu khoán khác, trong một công trình "hợp tác mỗi bên cùng có lợi". Nơi họp là một ngôi biệt thự khá đẹp nằm trên con đường Duy Tân có gió reo sóng vỗ.
Tôi rụt rè theo sau ông chú, bước vào phòng khách. Nhiều người đã có mặt. Ông nào trông cũng bệ vệ, đặc biệt có một ông mặc quân phục, oai phong cao lớn, mà coi bộ mọi người ai cũng nễ trọng. Nghe nói chuyện một hồi tôi mới biết đó là ông đại tá Đỗ Cao Trí, chỉ huy quân trường Đồng Đế. Lúc ấy tôi còn nhỏ, đâu có biết gì nhiều về lính tráng, nhưng tôi có nghe nhiều người kể chuyện tình ông đại tá này với một bà dược sĩ nào đó có tiệm thuốc tây trên đường Độc Lập. Bà này mới vừa ly thân ông chồng dược sĩ, có ông bồ là đại úy phi công trẻ tuổi đẹp trai thường đèo bà trên chiếc vespa chạy vòng vòng ngoài bờ biển, mặc dù bà có chiếc xe hơi thể thao trọc mui duy nhất ở thành phố này. Tội nghiệp ông phi công, vừa mới bị ông đại tá này nói nhỏ bạn bè làm lớn bên Không Quân cho bay ra tận ngoài vùng 1 xa tít mịt mù. (Sau này ông phi công hào hoa lấy một cô ca sĩ có giọng hát buồn... vào hồn không tên nào đó). Nghe mấy ông bàn bạc, tôi mới biết buổi họp này là để bàn việc xây cất và chỉnh trang lại toàn bộ doanh trại của quân trường Đồng Đế, mà chú tôi và mấy ông bạn thầu khoán vừa mới trúng thầu.
Tôi ngồi sau lưng ông chú, ghi ghi chép chép cứ như là... phóng viên tập sự. Nửa buổi thì ngưng họp ăn cơm. Một bữa ăn thịnh sọan từ nhà hàng mang tới. Vì thuộc hàng con nít, nên tôi được ưu tiên ra sân sau ngồi chung với mấy anh tài xế và con cháu ông chủ nhà. Vừa bước ra, chưa kịp tìm chỗ ngồi, thì tôi giật mình, sững sờ đến mấy phút. Cô bé, cô tiểu thơ... vélo solex, tông bọn tôi trước rạp Tân Tân gần ba tháng trước, đang ngồi chễm chệ tự lúc nào trong cái ghế bành duy nhất bên bàn ăn.
Lấy lại bình tĩnh, tôi đến kéo chiếc ghế bên cạnh cô bé:
- Chào tiểu thơ, chàng ngự lâm pháo thủ bị xe tông... ngã ngựa có được phép ngồi đây không ạ?
Cô bé nhìn tôi tròn xoe đôi mắt. Đôi mắt mà tôi đã tìm kiếm hơn ba tháng nay, cứ tưởng đã biến mất khỏi Nha Trang, bỗng dưng bây giờ đang mở lớn hết cỡ trước mắt tôi. Tôi ngồi yên như bị thôi miên. Dường như vừa mới nhớ ra tôi, cô bé nhoẻn miệng cười:
- À, hữu duyên thiên lý năng tương ngộ! Vous cứ tự nhiên.
Tôi ngạc nhiên, cô bé coi bộ tây này còn xổ cả tiếng nôm tiếng hán. Tôi nhủ lòng: Không phải vừa đâu nghe.
Vậy mà cái cuộc trùng phùng khá bất ngờ này lại đưa đẩy tôi đến một nấc thang danh vọng: làm gia sư cho cô bé. Nói gia sư cho oai phong, chứ hồi đó chì có mỗi chữ "dạy kèm" thôi chứ sư với siếc gì.
Số là sau này, khi thực hiện công trình, tôi thường theo chú tôi đến đây, cũng có nhiều lúc tôi đến một mình để trao giấy tờ và tham khảo ý kiến của ông chủ thầu, papa của nàng. Dần dà tôi quen thân với cả nhà. Gia đình trước sống ở Đà Lạt, làm chủ mấy cái hotel. Bà vợ bị chết bởi một tai nạn giao thông ngay trên đèo Ngọan Mục, ông già buồn quá không muốn mỗi ngày nhìn thấy bóng dáng bà vợ trong thành phố sương mù, nên dọn xuống Nha Trang, trở lại nghề thầu khoán gia truyền từ mấy đời trước. Ông bà chỉ có mỗi một cô con gái, nhưng trong nhà ông nuôi nhiều cháu và gia nhân. Gặp tôi nhiều lần, và qua chú tôi, ông già cô bé nghe nói tôi cũng gốc nhà quê, hiền lành chăm chỉ, nên nhờ tôi, cứ ba tối mỗi tuần ghé lại nhà kèm cô con gái cưng của ông về môn toán và Việt văn. Cô bé vừa từ trường Domaine de Marie ở Đà Lạt chuyển xuống lớp đệ ngũ trường Nữ Trung Học Nha Trang, đọc thơ Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc mà không hiểu bà Đoàn thị Điểm và ông Ôn Như Hầu nói cái gì trong đó...  Môn toán thì tôi không biết vẽ rồng vẽ rắn, chứ cái môn Việt văn này coi bộ bao la trời biển quá, vẽ cái gì chẳng được.
Hôm đầu tiên, tiểu thơ vẫn còn cao điệu, gọi tôi là Thầy. Không biết là do lệnh của ông già, vì đề phòng tôi "tán bậy" con gái, nên phong cho tôi cái chức "bán tự vi sư nhất tự vi sư" để tôi biết phận mà giữ mình, hay là cô bé choc quê tôi không biết.
Thấy "diễn nôm điển tích" mấy câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc coi bộ không ăn khách, chẳng hấp dẫn nổi cô bé, tôi quay sang đọc thơ cho cô bé nghe. Hồi đó ở Võ Tánh có hai nhà thơ rất sớm nổi tiếng, mà dù là tên thật hay bút hiệu gì nghe cũng đẹp làm sao: Thanh Nhung và Cao Hoành Nhân, Tôn Nữ Nha Trang và Bùi Cao Hoành gì đó. Không biết có đúng hay không, nhưng tôi nghe bạn bè thêu dệt về cuộc tình lãng mạn của hai nhà thơ học trò vang bóng một thời này. Tôi chọn mấy bài thơ ướt át nhất của hai người đọc cho cô bé nghe. Và cũng lạ, không cần diễn nôm diễn nghĩa gì cả, cô bé không những hiểu rất nhanh mà còn cảm nhận đến độ lim dim đôi mắt... nhìn xa xăm.
Có một điều tôi quên nói: cô bé cũng thuộc dòng Tôn Nữ, cũng có một cái tên hay lắm: Tôn Nữ Giáng Vân. Nhưng tôi vẫn thích gọi cô bé là Tiểu Thơ, cái tên mà nàng đã tự xưng khi đụng tôi trước rạp Tân Tân. Hơn nữa tôi thấy cái tên này cũng hợp với cô bé lắm. Tôi nghĩ thầm, có lẽ nàng Tôn Nữ xứ Huế nào cũng đẹp và.. lãng mạn đa tình.
Các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, cô bé mê nhất là Hồn Bướm Mơ Tiên, nên thường bắt tôi kể lại cho nàng nghe. Mẹ nàng vốn là một phật tử ngoan đạo. Sau ngày bà chết, ba nàng cúng dường khá nhiều tiền để chỉnh trang hai ngôi chùa Tỉnh Hội, Hải Đức và cung thỉnh thêm nhiều tượng Phật. Cô bé thường theo cha lên chùa Hải Đức. Nàng bảo mỗi lần lễ Phật, nàng cứ tưởng tượng mình là "chú tiểu" Lan, nhưng lại rất sợ và bịt kín tai khi nghe có tiếng đại hồng chung, nên chắc không thể nào giả trai lên chùa tu được.
Một hôm cô bé nhất quyết bắt ông thầy phải làm cho cô bé một bài thơ. Nếu không thì không chịu học. Cái này thì đúng là tiểu thơ muốn hại "đời tư" của tôi đây. Mang tiếng là học ban C nhưng hồi giờ tôi có thơ với thẩn gì đâu, chỉ lâu lâu cùng với mấy thằng bạn trong lớp nghịch ngợm bày ra trò chơi nối vần một bài lục bát con cóc để ghẹo cô bạn nào đanh đá trong lớp. Vậy mà hôm ấy, không biết con tim nó ướt át đến cỡ nào, tôi phóng bút làm xong một bài thơ chưa đầy mười phút. Đọc qua nghe có mùi cải lương không chịu nổi, nhưng tôi cũng tự phục mình. Tôi đưa bài thơ cho nàng đọc:
Ngày tháng trôi dần theo nhớ thương
I như duyên nợ đã vấn vương
Nên tình mây nước cùng trăng gíó
Hẹn ở ngày mai một nẻo đường
YÊU vầng trăng sáng in cành lá
Và khúc nhạc lòng dâng đến hương
Ân ái giờ đây là mơ ước
Ngỡ một tâm tình một vấn vương
Cô bé đọc xong không biết có hiểu gì không, (mà thực ra bài thơ cũng có nghĩa gì đâu mà hiểu với không), gật gù khen và hỏi:
- Sao bài thơ không có tên?
- Có tên rồi đó mà tiểu thơ không thấy à?
Cô bé lật qua lật lại mảnh giấy:
- Tên với tựa gì đâu, không thấy. Trả lại thầy, không thèm.
Tôi cười, vuốt ve cô học trò:
- Thì Vân cứ ghép tất cả các mẫu tự đầu ở mỗi câu lại, sẽ thấy cái tựa liền.
Khổ thật, tôi còn phải giải nghĩa thêm mẫu tự là cái gì, thì cô ta mới tìm được cái tựa bài thơ. Cô bé đỏ mặt, vất mảnh giấy có bài thơ xuống đất :
- Không thèm chơi với Thầy nữa.
Nói là không thèm chơi, nhưng cũng kể từ hôm ấy cô bé thân thiết và gần gũi với tôi hơn. Ba nàng cũng thấy tin và quí ông gia sư nhóc tì này, vì thấy con gái cưng của mình chăm học, vui vẻ yêu đời hơn.
Mùa hè năm đó, cô bé theo tôi về nhà quê chơi, nhân tiện có cô con gái của ông chú tôi cùng về thăm quê nội. Dường như đó là lần đầu tiên cô bé ra một vùng quê. Không biết là gió nội hương đồng hấp dẫn cô bé, hay là suốt ngày dung dăng dung dẻ làm nũng làm nịu với "ông Thầy", cô bé ca hát líu lo và bảo là yêu... đồng quê ghê lắm. Và đó cũng là một mùa hè đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong đời học trò của tôi, dù ở quê tôi chẳng có cây phượng vĩ và cũng chẳng nghe có tiếng con ve sầu nào rên rỉ.
Hai năm sau, tôi rời Nha Trang vào Sài gòn học tiếp. Tôi buồn và tiếc nuối vì phải chia tay cái nghề gia sư với cô hoc trò nhỏ nhưng có đôi mắt thật to... của mình. Cô bé được ông già chở lên ga Nhatrang tiễn tôi đi. Tôi cũng cố làm ra vẻ "đi là chết ở trong lòng một ít", làm cô bé mủi lòng muốn khóc. Ông già cứ tưởng là nhờ ơn tôi mà cô bé vừa đậu cái bằng trung học kỳ rồi, nên cũng nắm chặt tay tôi, lì xì một mớ tiền và cám ơn rối rít...
Vậy mà cái tình yêu ấy (không biết có đúng là tình yêu hay không, nhưng cứ nói như thế cho nó lãng mạn và người lớn một chút) cũng làm cho lòng tôi xốn xang một dạo.
Sau đó chỉ có vài lần tôi nhận được thư cô bé, kể chuyện những bạn bè thân quen của cô bên trường Nữ, và chuyện chiếc máy bay phản lực rơi xuống bên cạnh rạp Tân Tân, nơi mà lần đầu tiên tôi biết cô bé nhờ chiếc vélo của cô tông tôi ngã xuống bên lề đường. Nhưng lần nào cũng kèm theo một bài thơ tình... con cóc.
Năm năm sau, khi cô bé đã trở thành người lớn và quên "ông Thầy" thích đọc thơ tình cho cô học trò... lim dim đôi mắt, thì cũng là lúc tôi hát khúc Biệt Kinh Kỳ, xếp bút nghiên theo việc kiếm cung.
Ra trường, tôi được bổ sung về một đơn vị lưu động trên vùng Cao nguyên gió lạnh mưa mùa. Năm 1972, tôi bị thương trong trận Mủa Hè Đỏ Lửa ở Kontum, được đưa về QYV Pleiku điều trị. Khi vết thương vừa lành, tôi nhận Sự Vụ Lệnh của đơn vì đề cử về Sài gòn trong đoàn "chiến sĩ xuất sắc" được Tổng Thống tiếp đón tại khu vườn Dinh Độc Lập. Thực ra là tôi có xuất với sắc cái gì đâu. Khi còn độc thân thì hăng máu lắm, chứ đã có vợ rồi thì cũng hơi lạnh cẳng, ngại cái cảnh "anh trở về dang dở đời em". Nhưng chiến tranh đang hồi ác liệt, nếu cử chiến sĩ xuất sắc thứ thiệt đi thì thiếu người đánh giặc giỏi, mà lại hao hụt quân số tác chiến, tôi đang trong tình trạng bất khiển dụng, nên cho tôi đi là nhất cử lưỡng tiện. "Chiến sĩ xuất sắc" được ưu ái đi bằng máy bay dân sự. Tại phi trường Pleiku bụi đỏ, tôi bất ngờ gặp lại Tiểu Thơ khi tôi vừa ngơ ngác bước lên máy bay Air Vietnam và khựng lại trước đôi mắt thật to của cô hôtesse de l’air đang mỉm cười chào khách. Trong chiếc áo dài màu thiên thanh, có thêu hai con rồng trên cổ áo, nàng đẹp như một nàng tiên. Khi chiếc máy bay DC 4 đã lấy lại thăng bằng trên cao độ, nàng đến ngồi chiếc ghế trống trước mặt tôi, quay ra sau trò chuyện. Trong chớp nhoáng, tôi biết là nàng đã có chồng. Anh ta là một phi công phản lực F5, thuộc dơn vị Biên Hòa. Hai người làm đám cưới hơn một năm. Tôi nghĩ, con gái đẹp thường chọn mấy ông không quân, vừa được tiếng có ông xã hào hoa, đi mây về gió, vừa khó trở thành góa phụ. Anh phi công nào phải vừa bô trai vừa tốt số lắm mới lọt được vào đôi mắt của Tiểu Thơ này. Tôi nghĩ như thế mà lòng thì cũng thấy một chút bâng khuâng.
Chỉ nói chuyện được vài câu, nàng ghi địa chỉ của tôi ở Sài gòn, rồi hẹn sẽ cùng đức lang quân ghé đón đi Maxim nghe Lệ Thu hát bài Kỷ Vật Cho Em. Tôi cười, bảo là rất sợ bài hát này, cái bài hát mà thằng lính nào nhát gan nghe xong là không còn muốn "đáo nhậm" đơn vị nữa.
Cuối cùng nàng đến có một mình, "ông xã" vừa mới biệt phái ra Vùng 1. Tối đó thay vì đến nhà hàng Maxim, nàng đưa tôi ra Quán Cái Chùa cho có vẻ nghệ sĩ một chút, mời "ông Thầy" uống cà phê có hương vị Tùng Đà Lạt - mà chủ nhân thường pha chế đặc biệt cho riêng nàng - để nhớ những ngày cô còn ở đó... Dường như khi đã lớn rồi, người ta lại muốn tìm về cái thời đi học. Hai đứa chỉ ngồi nhắc lại chuyện Nha Trang, chuyện mấy bài thơ con cóc, rồi chia tay không hẹn ngày tái ngộ. Thời chiến tranh mà, "cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" biết đâu mà hẹn.
Tháng 3/1975, Nha Trang rồi cả Vùng 2 mất. Bao nhiêu năm sống chết với núi rừng Hoàng Triều Cương Thổ, tôi theo đơn vị chỉ còn một phần tư quân số "di tản" vào Vũng Tàu để tái bổ sung, rồi kéo xuống tham dự những trân đánh cuối cùng cô đơn và buồn tẻ ở những địa danh xa lạ: Bến Lức, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An, nhằm ngăn chận địch quân đang tràn về vây hãm và pháo kích Sài Gòn.
Cũng như nhiều đơn vị khác, vào giờ thứ 25, chúng tôi đánh giặc không có "đại bàng". Lần cuối cùng tập họp anh em lại hô "tan hàng" mà không còn nghe "cố gắng" nữa, thì tôi mới biết là ông tướng tư lệnh đã có mặt trên đệ thất hạm đội Mỹ trước đó hai ngày rồi! Thôi thì, xưa nay người ta đã nói "nhất tướng công thành vạn cốt khô" mà. Cuối cùng thì miền Nam cũng thất thủ. Đám tụi tôi được người "anh em" chiến thắng mời vô trại cải tạo để được hưởng "chính sách khoan hồng của kách mệnh"!
Tám năm lưu đày từ nam ra bắc, cuộc đời thôi đành cứ như gởi theo những đám mây bay. Cái hạnh phúc bây giờ chỉ còn là những phút giây hồi tưởng. Mà hồi tưởng cũng phải "cảnh giác", chứ không khéo cũng bị cùm vì cái tội "luyến tiếc quá khứ". Bạn bè cùng cảnh luyến tiếc điều gì thì tôi không biết, nhưng riêng tôi lại tiếc nhớ cái tuổi học trò, và cái thời con tim mới biết yêu. Tôi lại nhớ đến Tiểu Thơ, đến đôi mắt tròn xoe của cô bé, và nhớ tới cái hạnh phúc làm "gia sư" của tôi còn hơn là nhớ tới mười mấy năm làm bạn với ông Nguyễn Bắc Sơn "ta vốn hiền khô - ta là lính cậu, đi hành quân rượu đế vẫn mang theo, mang trong đầu những ý nghĩ trong veo, xem chiến cuộc như tai trời ách nước". Tôi hình dung bây giờ chắc nàng đang hạnh phúc ở một chốn thiên đường nào bên nước Mỹ. Ông xã là không quân mà, lại đóng ở Biên Hòa nữa. Chỉ cần một lần cất cánh nhẹ nhàng là thay đổi cả cuộc đời.
Ra tù, trở lại thành phố xưa, tôi có cảm gíác Nha Trang sao bây giờ xa lạ quá, không còn là "hang động tuổi thơ" của bọn tôi ngày trước nữa. Nhưng rồi tôi cũng đâu có được phép ở lại cái thành phố này, mà phải về tạm trú ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Ở đó tôi chỉ còn một bà cô già sống quạnh hiu trong ngồi nhà từ đường có mái ngói âm dương của ông bà nội. Cha tôi thì cũng đã chết cách đây sáu năm trong trại cải tạo Đá Bàn. Mồ mả còn chưa biết ở đâu. Nhưng rồi tôi còn có cái may, là gần như mỗi ngày tôi đều ghé lại Nha Trang một lần, bởi tôi được ông anh bà con cho tôi làm tài xế phụ kiêm lơ xe cho chiếc xe đò nhỏ của ông chạy đường Nha Trang – Tuy Hòa. Xe chạy bằng than và khách hầu hết là mấy bà đi buôn chuyến.
Một hôm tôi đang lui cui đứng trên mui, thì một bà khách kêu tôi nhấc hộ đội thúng của bà lên. Bà lấy hết sức đưa từng chiếc thúng lên, nhưng rồi lại bị sà xuống. Trong đôi thúng là những thỏi đường màu đen khá nặng. Tôi phải dùng một cây móc sắt đưa xuống, bảo bà móc vào để tôi kéo lên. Khi lấy sức kéo đôi thúng lên tôi bất ngờ gặp đôi mắt thật to và tròn xoe. Đôi mắt nhìn tôi tựa hồ như xoáy vào lòng tôi nhát dao đau buốt. Tôi nhảy xuống xe, nắm chặt đôi vai gầy còm của bà khách:
- Là em, là Tiểu Thơ đây à?
Nàng nhìn tôi, rồi nước mắt đầm đìa.
- Tiểu Thơ, à quên... Vân, làm sao mà em lại ra đến nỗi này.
Nàng cúi xuống im lặng, không nói một lời nào.
Ra đến Tuy Hòa, tôi gánh hộ nàng gánh đường giao cho một cái quán trong chợ, rồi mời nàng đi ăn cơm trưa. Tôi đang nóng lòng được biết về hoàn cảnh của nàng:
- Ông xã em bị kẹt ngoài Vùng 1 rồi mất tích luôn từ đó tới bây giờ. Em có đi hỏi một vài người bạn cùng phi đoàn, thì họ cho biết là anh ấy bị bắn rơi khi yểm trợ cho anh em Thủy Quân Lục Chiến rút về Đà Nẵng. Em chờ đợi xem anh có bị bắt cầm tù ở đâu không, nhưng đến bây giờ thì chắc chắn là anh đã chết thật rồi.
- Còn ba em đâu?
- Nhà cửa ba em bị tịch thu hết. Ông bị bắt đi cải tạo với lý do từng thầu xây cất doanh trại cho Mỹ trong phi trường. Chỉ một năm là ông chết.
- Vậy bây giờ Vân ở với ai?
- Em ở với con gái em. Nó gần mười tuồi rồi. Khi gặp anh ở Sài gòn là em vừa mang thai nó mà chưa biết. Mẹ con em được đền bù một căn nhà tôn nhỏ của thương phế binh hồi trước, nằm sau ga xe lửa.
Tôi nhét vào tay Vân tất cả số tiền mà tôi kiếm được hôm ấy, bảo nàng mua hộ tôi quà cho cháu gái.
Sau đó, tôi gặp lại nàng chỉ thêm hai lần nữa, vì ông anh họ tôi đã phải bán rẻ cái xe hơi cho người khác, bởi không dủ tiền sửa chữa mà còn cứ bị chính quyền trưng dụng đi chở lúa cho hợp tác xã, không trả một đồng nào. Cũng đúng vào lúc này, tôi tính chuyện vượt biên.
Tôi kể chuyện Tiểu Thơ cho vợ tôi nghe. Bây giờ tôi thương cô như một người em gái. Vợ tôi tốt bụng, thương mẹ con cô cũng như hoàn cảnh của chính mình, sẵn sàng cùng tôi giúp mẹ con nàng đi cùng chuyến vượt biên, do chính tôi tổ chức.
Một tuần trước khi ra đi, tôi vào Nha Trang tìm đến nhà nàng. Căn nhà khóa kín cửa. Tôi chờ đến tối mà chẳng thấy mẹ con cô trở về. Tôi gõ cửa căn nhà bên cạnh. Chủ nhà lại là một anh thương phế binh, nhờ mất cả hai chân nên không bị đuổi khỏi nhà… Anh cho biết là mẹ con nàng đã dọn đi đâu cả mấy tuần rồi, không thấy về nhà.
Trời thương, chuyến vượt biên cũng đến được bến bờ, nhờ một chiếc tàu chở dầu của Vương Quốc Na Uy vớt trên biển, trước khi cơn bão ập đến. Với ân tình này, vợ chồng tôi chọn Na Uy là nơi để gởi gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.
Mùa hè năm 1989, vợ chồng tôi đưa hai cô con gái sang Mỹ học, nhân tiện ghé thăm và chia buồn gia đình ông anh họ, đi từ năm 78, định cư ở thành phố Sacramento, bắc Cali. Anh chị vừa có thằng con trai bị chết đuối khi theo cha đi câu ngoài biển.
Bao nhiêu năm gặp lại nhau, anh chị tiếp đón chúng tôi thật ân cần, nhưng không vui vì cái bàn thờ đứa con trai còn nghi ngút khói hương. Sáng hôm sau, anh chị đưa tôi đến nghĩa trang thăm mộ cháu rồi chở chúng tôi đến một ngôi chùa Sư Nữ ở gần đó, để bàn việc làm lễ cầu siêu cho cháu. Anh cho biết anh chị rất thân quen với Sư Bà trù trì, Bà rất quí anh chị không chỉ vì biết nhau từ lúc còn ở Nha Trang mà vì anh làm nghề thầu sửa chữa nhà cửa, nên cả ngôi chùa này phần lớn là do công sức của anh cúng dường.
Ngôi chùa không lớn lắm, khu chánh điện còn đang dang dở, nhưng vườn khá rộng và trồng nhiều loại hoa. Trong chùa tiếng tụng kinh, gõ mõ càng đượm không khí trang nghiêm. Chúng tôi được một cô phật tử mời ngồi uống trà và xin chờ chừng nửa tiếng, vì Sư Bà đang cúng ngọ.
Khi ông anh bà chị đứng bật dậy, chúng tôi chợt nhìn thấy Sư Bà vừa bước ra. Tôi ngạc nhiên vì Sư Bà còn trẻ và trông rất phương phi, nhất là hai tai thật to và dài xuống như tai các tượng Phật tôi thường nhìn thấy trong các ngôi chùa. Điều làm chúng tôi thú vị là bà rất vui vẻ cởi mở. Bà bảo bà cũng là dân Nha Trang nên rất mừng khi tiếp được người đồng hương từ tận bắc Âu đến viếng.
Sau một lúc hàn huyên, tôi biết được Sư Bà là người có trình độ học vấn cao. Bà có cử nhân Văn Khoa và đang học năm cuối cao học văn chương tại đại học Vạn Hạnh thì miền Nam thất thủ. Điều ngạc nhiên hơn là Sư Bà cho biết có khá nhiều ni cô gốc Nha trang đang tu ở chùa này, trong đó có con gái của ông chủ tiệm ảnh nổi tiếng một thời ở đường Phan Bội Châu mà ngày xưa tôi cùng đám bạn bè thường đến để chụp ảnh, con gái một bà chủ tiệm vàng trước Grande Pharmacie, và một vài ni cô nữa.
Bà còn bảo thật là tội nghiệp, có vài cô đã gặp bao nhiêu nghịch cảnh thương tâm trên biển Đông, chồng chết con chết, chỉ còn lại một mình. Ban đầu, Bà đưa về chùa cưu mang, rồi sau đó các cô xin được xuống tóc qui y luôn. Sư Bà mời chúng tôi ở lại dùng cơm chay cùng với Bà, nhân tiện bà giới thiệu với mấy ni cô gốc Nha Trang cho biết, bởi tôi cũng là một phật tử thuần thành.
Tôi theo ông anh bà chị xuống bếp phụ dọn cơm. Nhưng ông anh ngăn lại:
- Chú là người lạ, không nên vào bếp. Hôm nay chú thím là khách của Sư Bà mà.
Ngồi dọc theo chiếc bàn dài, gồm các ni cô và một vài phật tử, chỉ có chúng tôi là "dân sự". Sư Bà giới thiệu chúng tôi là đồng hương, những phật tử đến từ tận Bắc Âu. Tôi vừa đứng lên chấp hai tay trước ngực, bỗng bất ngờ bắt gặp đôi mắt thật to, tròn xoe của một ni cô ngồi ở phía cuối bàn. Ni cô cũng vừa nhìn tôi rồi cúi xuống. Đôi mắt đó với tôi có một cái gì thần giao cách cảm. Đúng. Trên thế gian này chỉ có Tiểu Thơ mới có đôi mắt ấy mà thôi
Dùng cơm xong, là đến giờ nghỉ trưa của Sư Bà. Chúng tôi cám ơn Sư Bà và xin được cúng dường một số hiện kim để trùng tu chánh điện.
Tôi từ giã Sư Bà, trong lúc mắt nhìn quanh như muốn tìm kiếm một điều gì. Nhưng tất cả chỉ có im lặng, ngoài tiếng chuông chùa ngân nga như chẳng bao giờ muốn tan đi trong không gian bao la vô tận.
Tôi bước ra khỏi cổng chùa. Chùa nằm trên một khu đất bằng phằng, nhưng sao tôi có cảm giác như mình đang lững thững bước xuống chân đồi. Tôi hình dung đến Ngọc vừa chia tay "chú tiểu" Lan lần cuối cùng ở chùa Long Giáng trong Hồn Bươm Mơ Tiên của nhà văn Khái Hưng, mà ngày xưa Tiểu Thơ đã bắt tôi phải kể đi kể lại bao nhiêu lần.

Phạm Tín An Ninh


Back to top
« Last Edit: 03. Feb 2010 , 15:10 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #111 - 08. Feb 2010 , 16:07
 
Còn 5 ngày nữa là Tết  Canh Dần , mời cả nhà  đọc một Truyện Ngắn  rất cảm động của nhà văn PHẠM TÍN AN NINH  -  GÓI QUÀ ĐẦU  NĂM  , để nhớ lại  truyện Em gái Hậu phương và  Anh Trai Tiền Tuyến.- Nhớ  để  bên cạnh hộp  Tissue.
   

GÓI QUÀ ĐẦU NĂM

phạmtínanninh



Tôi phải ngồi lại trên các bậc đá nghỉ chân đến ba lần trước khi bước vào cổng chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm trên một triền núi, được phủ mát bởi những tàng cây. Ngôi nhà khách bằng gỗ, khá xinh xắn, nằm trong một khu vườn toàn hoa vạn thọ. Phía trước là một tượng Phật ngồi dưới gốc cây bồ đề, cành lá được cắt tỉa công phu. Chung quanh là cả một vùng núi trời tĩnh mịch.Tôi không phải là phật tử, nhưng ngồi nghe tiếng mõ và lời cầu kinh trong chùa vọng ra, cũng thấy lòng nhẹ hẳn đi trước bao nhiêu điều phiền não.

Hôm nay là mồng một tết, nhưng cảnh chùa khá im vắng, bởi chùa nằm khá xa khu dân chúng. Ngày hôm qua tôi có đến đây, nhưng thầy trụ trì đi vắng. Tôi đã để lại tấm danh thiếp của chồng tôi, viết vài dòng phía sau xin hẹn thầy hôm nay trở lại.

Chú tiểu còn rất trẻ, mang trà ra mời và xin tôi chờ thêm mươi phút nữa vì thầy trụ trì đang khai kinh cho buổi lễ tân niên. Tôi nôn nao muốn sớm được nhìn mặt vị ân nhân của mình, nhưng cũng dặn lòng phải kiên nhẫn và cẩn trọng ý tứ trước một nhà sư.

* * *

Hơn ba mươi năm trước. Lúc ấy tôi còn là cô bé học trò trường trung học An Túc, nằm giữa thị trấn An Khê, bên quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn với Pleiku. Chiến tranh đang thời kỳ ác liệt. Tuổi còn nhỏ, nhưng ngày nào tôi cũng nghe cha mẹ và các thầy cô bàn chuyện chiến trường: đánh lớn ở Pleime, Dakto, Tân Cảnh. Mấy năm nay, An Khê tương đối bình yên, nhờ Sư đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ có căn cứ ở đây, và dọc theo đèo An Khê có đồn bót của các đơn vị thuộc Sư đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Giữa lúc chiến tranh ngày khốc liệt, bất ngờ lực lượng đồng minh rút quân về nước, làm dân chúng ở đây hoang mang, lo lắng. Xứ họ đạo của tôi cũng được cha chánh xứ tổ chức những toán tự vệ, phối hợp với quận, lo canh gác khu vực của mình.

Chiều ba mươi Tết, được thông báo của tỉnh, các cơ quan trên quận phối hợp với các thầy cô giáo và cả Hội Đồng giáo xứ đi mọi nhà kêu gọi đóng góp những gói quà tượng trưng dành tặng cho anh em chiến sĩ của một đơn vị từ xa tới đồn trú ở đây để thay thế lực lượng đồng minh.

- Tội nghiệp, nghe nói anh em đã phải rời căn cứ từ sáng sớm 30 để chiều mồng một Tết có mặt ở đây. Họ có biết tết nhất gì đâu! Ông cha xứ nói với chúng tôi như thế.

Cả quận vui mừng, nô nức trước tin vui. Riêng tôi còn vui hơn khi tưởng tượng sẽ có nhiều anh lính đến cái thị trấn nhỏ xíu buồn tênh này, nên rất sốt sắng trong việc gói quà. Tôi tự tay thực hiện được hai gói quà, gồm một số bánh mức, chiếc khăn tay do tôi thêu lấy, kèm theo lá thơ chúc mừng năm mới tới hai anh chiến sĩ vô danh nào đó. Tôi nắn nót viết thật đẹp rồi đề tên, lớp và trường học phía dưới. Vì “sao y bản chánh” từ một bài luận văn tháng trước, nên hai lá thư giống nhau như đúc. Nhìn hai gói quà tôi mỉm cười, khi nghĩ sẽ có hai “người tình không chân dung” nào đó nhận được lá thư nồng nàn của một cô “em gái hậu phương”. Ban đầu, các thầy cô cho biết, đám học trò chúng tôi sẽ được hướng dẫn vào căn cứ để tận tay tặng quà cho các anh chiến sĩ. Bọn tôi đứa nào cũng hớn hở, lăng xăng giặt ủi lại chiếc áo dài trắng ưng ý nhất. Nhưng sau đó dưới tỉnh cho biết là trước khi vào An Khê, các đơn vị này còn phải hành quân mở đường, giải tỏa một số đồn bót của lực lượng Đại Hàn nằm dọc theo đèo An Khê bị địch quân bao vây đã ba hôm nay. Cuối cùng tất cả quà đều được nộp cho trường, và thầy hiệu trưởng cùng các thầy cô giáo sẽ mang vào cho đơn vị để trao lại cho anh em chiến sĩ khi tình hình an ninh cho phép. Bọn học trò chúng tôi tiếc hùi hụi vì mất một dịp được vào xem căn cứ và ủy lạo các anh chiến sĩ.

* * *

- Nam mô A Di Đà Phật. Xin chào bà. Xin lỗi, chắc là bà đã chờ tôi lâu lắm phải không?

Câu hỏi của thầy trụ trì cắt đứt dòng hồi tưởng của tôi. Tôi đứng lên, vụng về chấp hai tay trước ngực chào lại thầy. Tôi muốn nhìn thật kỹ khuôn mặt của thầy, nhưng thấy ái ngại, nên chỉ cúi đầu im lặng.

- Cái cổng tam quan, ngôi nhà khách này, và những bậc đá trên con đường mà bà vừa đi lên là do tiền cúng dường của ông bà. Chúng tôi xin tán thán công đức và cầu xin chư Phật gia hộ cho ông bà cùng gia đình. Bà có muốn đi một vòng xem cảnh chùa không? Xin mời bà.

Thầy vừa nói vừa chỉ tay về phía cổng tam quan.

- Dạ, công ơn của thầy đối với gia đình tôi lớn lao quá. Biết làm sao đền đáp. Xin thầy đừng nhắc tới công đức, làm tôi thêm xấu hổ. Tôi vừa bước theo phía sau thầy, vừa nói.

- Mô Phật! Giúp người, đó là nhiệm vụ của kẻ tu hành, dù là tôn giáo nào. Sao bà lại gọi là công ơn. Thầy nở một nụ cười độ lượng.

Đi phía sau, nhìn dáng đi khoan thai của thầy, tôi băn khoăn suy nghĩ: Khuôn mặt thì có nhiều nét giống, nhưng với cái dáng đi thì lại khác hẳn. Có thể ngày xưa là lính nên cần phải nhanh nhẹn. Tôi nghĩ thầm như thế.

Khi đến cửa tam quan, thầy dừng lại và chỉ tay về hướng bờ biển, nơi có mấy tảng đá ở triền núi, phía dưới là một khu rừng rậm:

- Chính ở nơi đó, tôi đã tìm gặp chồng của bà.



Năm ấy, khi chồng tôi vừa mới trốn về từ trại tù cải tạo Gia Trung (anh chỉ là thầy giáo, dạy một trường trong khu người Thượng, bị bắt năm 1979 vì bị kết tội hợp tác với lực lượng Fulro chống lại nhà cầm quyền Cộng sản), được một người bạn thân cho đi theo một chuyến vượt biển do gia đình anh ta tổ chức. Lúc ấy ai cũng nghĩ ra đi là không bao giờ gặp lại vợ con, mà có ở lại cũng sống không yên, chỉ làm khổ cho gia đình. Hơn nữa lúc ấy tôi vừa mới sanh đứa con đầu lòng, nên không thể đi cùng. Chúng tôi đành gạt lệ chia tay mà không dám nghĩ sẽ có ngày tái ngộ.

Tàu vừa ra khơi hơn một ngày thì bị hỏng máy, trong lúc gió mưa tầm tã. Tất cả mọi người phải đem sinh mạng chống chọi với phong ba. Cuối cùng, sau gần ba ngày bềnh bồng trên biển, nhờ những cơn gió nhiệm màu đã đẩy chiếc tàu với hơn một nửa số người sống sót, giạt vào một ghềnh đá lúc trời nhá nhem tối. Tưởng đã thoát chết, nào ngờ khi vừa leo lên bờ thì bị một toán công an biên phòng vây bắt. Một số người yếu sức thì đành đưa tay cho họ trói. Chồng tôi cùng một vài thanh niên khác dùng hết tàn lực chạy trốn trong các hốc đá bên triền núi. Mấy lần thoát chết dưới những tràng đạn. Nhờ trời tối anh chạy thoát vào khu rừng trước khi kiệt sức. Khi tỉnh lại, anh thấy mình nằm trong ngôi chùa nhỏ nằm bên triền núi. Anh được vị trụ trì săn sóc và che dấu chu đáo, mặc dù biết anh là người công giáo, bởi trên cổ có đeo thánh giá. Sau hơn một tuần, nhờ thầy giúp cạo đầu, cho áo quần để cải dạng một thầy tu, và gởi theo một chiếc xe đò của một phật tử thân quen, chồng tôi mới trốn được vào nhà bà cô ruột ở Cam Ranh. Sau đó nhờ chính bà cô này tìm đường để vượt biển tiếp. Và lần này anh đã được tàu Pháp vớt, nên được sang định cư bên Pháp. Ba năm sau, tôi và đứa con được anh bảo lãnh với diện đoàn tụ gia đình.



- Mô Phật! Tội nghiệp, ông ấy đã về tìm thăm tôi hai lần, và giúp cho tôi khá nhiều tiền để lập lại ngôi chùa này và một nhà từ thiện nuôi các em bé tật nguyền dưới xóm. Công đức của ông bà thật lớn lắm.

Tôi nhớ lại tấm ảnh mà chồng tôi chụp chung với thầy trong lần thứ nhì về thăm thầy. Bao nhiêu lần tôi đã nhìn kỷ tấm ảnh, lại nghe chồng tôi bảo, ngày xưa thầy cũng là lính, nên tôi đã ngồi hằng giờ hình dung, nhớ lại một người quen lúc trước.

- Thực ra anh ấy ngại không muốn về, nhưng vì nhớ ơn thầy mà anh ấy mới về gặp thầy. Lần này chính tôi đề nghị được thay anh về thăm thầy, nhân dịp thăm mẹ của tôi đang ốm nặng.

- Mô Phật! Tôi hiểu nỗi khổ tâm của ông ấy.

Tôi nghe tiếng thở dài của vị trụ trì, và thấy thầy đưa mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Từ lúc mới gặp nhau trong ngôi nhà khách, tôi nghĩ là thầy đã nhận ra tôi. Tôi chờ thầy hỏi, nhưng có thể thầy đã quên hay bây giờ là kẻ tu hành, nên thầy không muốn nhắc lại chuyện thế tục ngày xưa. Không để lỡ mất cơ hội, tôi lên tiếng:

- Tôi về đây, gặp thầy cũng để muốn xin được hỏi thầy một điều, mà bấy lâu nay cứ băn khoăn mãi trong lòng, nhưng ngại thầy là bậc tu hành, nên tôi không dám.

Thầy nhìn tôi, im lặng giây lát rồi lên tiếng:

- Mô Phật! Kẻ tu hành lúc nào cũng muốn đem ánh sáng cho chúng sinh hầu giải tỏa những lo âu phiền não. Xin bà cứ tự nhiên

- Xin thầy tha lỗi, nếu có điều gì không phải. Có phải thế danh của thầy là Quế, Lê Phương Quế?

Thầy ngạc nhiên nhìn tôi, rồi nhìn lên khoảng không, nhíu mày.

- Mô Phật! Làm sao mà bà biết được tên của tôi?

- Thầy còn nhớ anh Lân, trung sĩ Đỗ Lân, ở Sư đoàn 23 Bộ binh, có đóng quân ở An Khê vào những ngày tết năm 1972?

- Bà còn biết cả bạn tôi? Anh Lân đã tử trận ở Kontum từ mùa hè 72. Bà có biết không?

Tôi có một thoáng giận thầy, vì nghĩ là đến bây giờ ông vẫn chưa nhận ra mình. Chẳng lẽ thầy vô tình đến thế. Nhưng ngay sau đó tôi hối hận về ý nghĩ của mình. Sao lại đem chuyện đời để mà trách một vị chân tu, một người đã xa lánh chuyện hồng trần, thế sự. Thầy đã cho mình hỏi và sẵn sàng tâm sự đã là một điều hỉ xả rồi.

- Dạ, tôi có biết, và tôi cũng có đến Kontum thăm mộ anh mấy lần. Sau này tôi về tìm để xây lại ngôi mộ cho anh, thì nghĩa trang không còn nữa, và không ai biết mộ anh đã chuyển đi đâu.

Đôi mắt của vị trụ trì sáng hẳn lên. Thầy mở đôi mắt thật to nhìn tôi, đưa tay lên định nắm vai tôi, nhưng rồi kịp khựng lại.

- Vậy là Xuân? Bà là cô Xuân ngày xưa? Mô Phật! Sao lại có chuyện kỳ ngộ lạ lùng này!



Vâng, tôi chính là Xuân, cô bé học trò trường trung học An Túc ngày xưa. Người đã gói hai gói quà Xuân ủy lạo cho những chiến sĩ đến giữ an ninh cho quê tôi vào đúng chiều ngày mồng một tết. Hai gói quà được nộp cho trường để chuyển tới cho các anh, vì lúc ấy đơn vị đang hành quân mở đường để đến nơi trú đóng.

Sau một cái tết an bình, cả thị trấn nhỏ của tôi nhộn nhịp hẳn lên bởi sự có mặt của một trung đoàn lính chiến, ngày mồng tám tết, đám học trò chúng tôi trở lại trường, nhưng các thầy cô biết là trong lòng đám học trò ai cũng còn dư âm ngày tết, nên cho chúng tôi tập họp lại hát hò và kể chuyện vui. Trong lúc thầy hướng dẫn đệm đàn cho cả đám học trò ca hát, thầy giám thị đến tìm tôi, bảo tôi lên văn phòng có người nhà muốn gặp. Bước theo thầy giám thị mà lòng tôi lo lắng không biết ở nhà có chuyện gì, thì ông đưa tay chỉ hai anh lính đang ngồi chờ trên chiếc ghế đá trong sân trường.

Hai anh lính thật trẻ đứng lên chào tôi, nhoẻn miệng cười:

- Hai đứa tôi đến để cám ơn Xuân và chúc mừng Xuân năm mới.

Tôi thoáng một chút ngạc nhiên và bẽn lẽn:

- Em có làm gì đâu mà hai anh cám ơn? Mà sao hai anh biết được tên em?

Hai anh cùng mở túi áo lấy ra bức thư. Vừa kịp nhận ra đó là hai bức thư mà tôi đã “sao y bản chánh” bỏ trong hai gói quà ủy lạo, thì một anh lên tiếng:

- Tôi là Đỗ Lân, và người bạn thân của tôi đây là Lê Phương Quế. Trông anh hiền như con gái, nhưng Xuân đừng nhầm với nữ ca sĩ Phương Hồng Quế nghe, mặc dù anh Quế bạn tôi cũng có giọng hát rất hay, không thua gì Phương Hồng Quế. Hai đứa tôi nhận hai gói quà của Xuân. Quà cáp như nhau và lời lẽ trong cả hai bức thơ cũng giống nhau như đúc. Cô Xuân thật công bình. Cám ơn nghe!

Tôi hơi quê, nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên:

- Hai anh tới trường tìm Xuân, không sợ thầy giám thị la Xuân hà?

Anh lính thứ nhì, tên Quế, lên tiếng:

- Bọn tôi bảo là anh em bà con với Xuân, đi lính xa nhà bây giờ mới gặp. Thầy giám thị coi bộ cũng thương lính lắm, nên chắc không nở la rầy người yêu, à xin lỗi, người em của lính đâu!

Mặc dù thấy hai anh chàng có vẻ thư sinh, vui tính, nhưng nhớ lời bà chị thường bảo mấy ông lính bạo dạn và tán gái hay lắm. Phải coi chừng. Tôi nhủ thầm như thế. Và để xem hai anh chàng này có thực sự bạo dạn hay không tôi khoanh tay:

- Nghe nói anh Quế hát hay không thua gì Phương Hồng Quế, em xin mời hai anh vào lớp em chơi. Bọn em cũng đang ca hát trong đó, chứ không có học hành gì đâu. Đám bạn em sẽ mừng lắm đó.

Hai anh nhìn nhau cười, rồi gật đầu, theo tôi vào lớp.

Cả đám bạn học trò im bặt, tò mò nhìn ra khi thấy tôi dắt theo hai anh lính trẻ. Tôi nói với vị giáo sư hướng dẫn:

- Thưa thầy, có hai anh lính nhận được quà tết của lớp mình, đến cám ơn và xin hát cho cả lớp mình nghe.

Thầy hướng dẫn lớp gật đầu, đến bắt tay hai anh, tươi cười:

- Hồi nãy tới giờ mấy cô chỉ hát những bài tình yêu lính chiến, bây giờ đích thân lính chiến hát tặng mấy cô thì còn gì hay bằng, phải không?

Cả lớp vỗ tay.

Anh lính tên Lân bước lên bục giảng, hai tay mân mê chiếc nón bê-rê:

- Kính thưa thầy, thưa các bạn. Tôi không biết hát, nên xin dành phần nói trước. Chúng tôi xin cám ơn những gói quà Tết của nhà trường, của các bạn. Trong không khí Tết, vì nhiệm vụ phải xa nhà, được những món quà của các bạn chúng tôi thấy ấm áp nhiều lắm. Đặc biệt hai đứa tôi đây đã nhận được quà của cô Xuân. Chỉ cần cái tên của cô là hai đứa chúng tôi cũng đã có cả một mùa xuân rồi. Xin cám ơn và kính chúc thầy, chúc các bạn một năm mới vạn điều như ý.

Cả lớp lại rộn lên tiếng cười và những tràng vỗ tay không dứt. Một con bạn có tiếng nghịch nhất lớp quay về hướng tôi ngồi:

- Xuân ơi, mày chỉ được chọn một trong hai thôi. Còn để dành cho đứa khác nữa chứ!

Đúng là nhất quỉ nhì ba, còn thứ ba là bọn này. Tôi đoán hai anh chàng lính sữa đang nghĩ như thế. Anh lính tên Lân bẽn lẽn, ngừng lại đôi phút rồi đưa tay về hướng người bạn, tiếp tục:

- Bây giờ, xin giới thiệu anh bạn thân nhất của tôi, Lê Phương Quế, mà chúng tôi thường gọi là Phương Hồng Quế, tiếng hát hàng đầu của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sẽ lên hát một vài bài tặng thầy và các bạn.

Tôi cũng phục tài ăn nói khá “tâm lý chiến” của anh chàng Lân này. Cái giọng Huế nghe cũng êm ái, cứ như rót mật vào tai người ta. Bây giờ nhìn kỹ thấy anh ta cũng đẹp trai, nụ cười cũng có duyên ghê lắm. Lính cỡ này chắc sẽ làm khổ vài cô em gái hậu phương đây. Tôi mỉm cười với ý nghĩ vừa thoáng trong đầu.

Anh Quế bước lại chỗ thầy hướng dẫn để xin nhờ thầy đệm đàn. Anh hát bài Xuân Này Con Không Về của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Trông anh có dáng dấp thư sinh và khuôn mặt hiền lành như một thầy tu.

Tiếng hát cất lên làm cả lớp im bặt. Đúng là giọng hát của anh rất hay, điêu luyện, lúc réo rắt lúc trầm buồn không thua một ca sĩ chuyên nghiệp. Dường như có cùng tâm trạng với nội dung bài hát, nên anh đã hát với tất cả cảm xúc, làm giao động trái tim mọi người. Bài hát chấm dứt, mà cả lớp dường như còn thẫn thờ, yên lặng. Sau đó bùng vỡ bởi những tràng vỗ tay và nhiều tiếng la: bis, bis...

Anh cúi xuống một lúc, hình như để dấu sự cảm xúc, rồi ngước lên nói nhỏ hai tiếng cám ơn và xin hát tiếp bài Chiều Trên Phá Tam Giang, thơ của Tô Thùy Yên phổ nhạc.

Lần này, chính tôi không cầm được nước mắt. Không chỉ vì anh hát hay, nhưng tôi thấy xúc động, thấm thía hơn cuộc đời của những người lính chiến.



- Thưa thầy. Bây giờ đã đi tu rồi, thầy có còn hát những bản nhạc tình lính ngày xưa? Tôi vẫn còn nhớ cái cảm xúc khi thầy hát cho cả lớp tôi nghe, sau cái tết năm nào ở trường An Túc. Thầy hát thật hay và truyền cảm. Hôm ấy là lần đầu tiên tôi được gặp thầy và anh Lân.

- Mô Phật! Bây giờ tôi chỉ còn biết tụng kinh gõ mõ, cầu cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc. Nhưng những gì bà vừa nhắc lại, cũng là con người, làm sao tôi có thể quên.

- Xin thầy thứ lỗi, nếu tôi đã nhắc thầy nhớ lại chuyện đời để làm bận lòng một bậc chân tu.

- Mô Phật! Đạo ở trong Đời, cũng như hai kẻ đồng hành. Hành đạo là để giúp đời. Kẻ tu hành như chúng tôi cũng chỉ là “cư trần lạc đạo” mà thôi, thưa bà.

- Cư trần lạc đạo là sao, thưa thầy?

- Có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo, vui đạo. Chứ không phải xa lánh trần thế đầy khổ nhục để tìm sự thanh thản riêng cho bản thân mình.

- Cám ơn thầy. Thầy giảng hay quá. Ngày đầu tiên gặp thầy, và nhất là lúc nhìn thầy đứng hát trên bục lớp, tôi đã thấy thầy giống một nhà tu. Có lẽ thầy đã có căn duyên từ trước, phải không thầy?

- Mô Phật! Ai cũng có thể tu hành, và bất cứ ai cũng có thể thành Phật được, thưa bà.



Không ngờ lần gặp gỡ đầu tiên năm ấy lại mang đến cho tôi mối tình đầu. Sau vài lần gặp nhau, tôi biết Lân và Quế là hai người bạn thân thiết từ lúc còn học trong trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Ra trường về cùng đơn vị, nên sống với nhau như anh em, mặc dù tôn giáo khác nhau. Quế đạo Phật còn Lân là tín đồ Công giáo. Những ngày chủ nhật không bận hành quân, Lân đều đi lễ nhà thờ, nên chúng tôi thường gặp nhau hơn. Và lần nào tôi cũng mời Lân về nhà. Cha mẹ tôi cũng rất thương quí Lân, nhất là sau khi biết cha mẹ Lân đã chết trong biến cố tết Mậu Thân. Tính tình Lân lại hiền lành chân chất và hiếu học. Dù bận hành quân liên miên, nhưng anh vẫn cố gắng tự học để thi tú tài vào mùa hè năm đó. Cũng có đôi lần Quế theo Lân đến nhà tôi chơi. Càng lúc chúng tôi càng thân nhau hơn.

Tôi biết là Lân cũng thích tôi. Trong túi áo của anh lúc nào cũng có chiếc khăn tay tôi đã tặng anh trong gói quà Xuân. Mỗi lần chia tay, anh bịn rịn lưu luyến không muốn rời tôi. Còn tôi, cũng thấy nhớ anh da diết và mong chờ anh từng ngày trong các lần anh đi hành quân. Tối nào tôi cũng đọc kinh cầu nguyện cho anh được bình yên trở về.

Bây giờ tôi mới biết tình yêu là gì. Tôi bắt đầu biết tương tư, mơ mộng, nhớ nhung và man mác buồn khi thiếu vắng anh. Những bản nhạc tình lính, người yêu của lính, dường như càng lúc tôi càng thấy hay hơn, và tôi hát nhiều hơn. Sau mỗi lần hành quân, Lân đều mang về tặng tôi những cánh hoa lan rừng. Tôi nghe nói vùng núi rừng An Khê này có nhiều hoa lan. Có những loại hoa lạ, thật đẹp mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy hoặc biết tên. Chỉ sau hai tháng, trong phòng tôi treo đầy hoa lan rừng. Tôi thích nhất là những cánh hoa màu tím. Có lẽ tôi nhớ tới màu tím hoa sim trong một bản nhạc mà tôi thường hay hát…

Chiến tranh lại ngày càng ác liệt. Ngồi trong lớp học, bọn tôi vẫn thường nghe tiếng súng, tiếng máy bay vần vũ trên bầu trời. Ban đêm, nhìn qua cửa sổ, những trái hỏa châu lơ lững giữa trời, soi sáng cả một vùng núi non nào đó. Rồi tôi nghe tin Dakto mất, Tân Cãnh thất thủ, thành phố Kontum bị pháo kích… Một số người đã phải bỏ nhà chạy xuống Pleiku, sống trong các trường học được chính quyền dùng làm trại tiếp cư.

Hơn một tuần, tôi chưa gặp Lân bởi đơn vị anh có lệnh cắm trại, ứng chiến. Bất ngờ gặp lại anh trong lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ. Khi tôi đang quỳ gối cầu kinh, Lân đến sau, quỳ xuống bên cạnh. Tan lễ, vừa bước ra khỏi nhà thờ thì chúng tôi gặp anh Quế đứng đợi từ lúc nào. Tôi mời hai anh về nhà. Trên đường đi, cả hai anh im lặng, không nói một lời gì. Nhìn nét mặt thật buồn, tôi nghĩ là họ đang ưu tư điều gì. Tôi hỏi, nhưng hai anh chỉ nhìn nhau rồi lắc đầu, không nói.

Suốt ngày hôm ấy hai anh ở lại nhà tôi. Mẹ tôi đãi hai anh một con gà tơ. Trong lúc Lân và Quế trong vườn, tôi tìm hái mấy trái cà, trái mướp và rau thơm. Cả ba chúng tôi cùng làm bếp, đùa giỡn, ca hát líu lo, không còn chút ưu tư nào trên khuôn mặt của mọi người. Ăn cơm xong, chúng tôi rủ nhau ra ngồi dưới những cây dừa rợp bóng, nghe Quế hát, rồi chúng tôi cùng hát theo những bài tình ca quen thuộc. Buổi chiều, Quế cáo từ tôi, chào ba mẹ tôi xin về trước. Trong phòng tôi chỉ còn có tôi và Lân. Lần đầu tiên tôi nghe Lân rụt rè tỏ tình. Anh bảo, đời chiến binh rày đây mai đó, rồi có một ngày, anh sẽ phải đi xa, nhưng lúc nào cũng mang theo bóng hình của tôi vào những nơi gió cát. Những lời anh nói làm tôi nhớ tới những câu thơ Chinh Phụ Ngâm thật hay của bà Đoàn thị Điểm mà tôi đã học. Những câu thơ thật buồn bây giờ lại càng buồn hơn. Tôi khóc. Lần đầu tiên tôi khóc, không biết là vì hạnh phúc đến bất chợt của mối tình đầu hay là vì nghĩ tới nỗi cô đơn của người Chinh Phụ. Tôi giật mình, khi Lân ôm tôi vào lòng. Tôi đứng im, bất động, đón nhận nụ hôn tình yêu đầu đời trong hai hàng nước mắt. Tôi tiễn Lân ra đầu làng, hai đứa ôm lấy nhau khi bóng chiều vừa tắt.

Sáng hôm sau, ngồi trong lớp học, khi thấy từng đoàn xe nhà binh chở đầy lính chạy về hướng Pleiku, lòng tôi thẫn thờ khi nghĩ là Lân đã đi xa... Tôi vội lên xin phép cô giáo ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa chạy đến hàng thông phía trước, thì đoàn xe cuối cùng đã chạy qua bên kia cầu.



Xuân ơi,

Anh đang ở phi trường Pleiku để chuẩn bị được không vận lên Kontum. Chiến trường đang ác liệt. Căn cứ Tân Cảnh vừa thất thủ. Địch quân đang tràn xuống uy hiếp thành phố Kontum. Thành phố đang bị cô lập nởi những cái chốt của địch quân trên đỉnh núi ChuPao, cắt đứt quốc lộ 14 nối liền với Pleiku. Sợ lên Kontum rồi, anh không liên lạc được với em, nên viết vội ít dòng tin em và cũng xin lỗi em vì hôm qua, khi chia tay ở nhà em, anh không nói chuyện anh đi. Mong em thông cảm bởi đó là bí mật quân sự, anh không được phép tiết lộ, mặc dù anh rất yêu em và tin em…

Không biết đến bao giờ mình mới gặp lại, nhưng dù bất cứ hoàn cảnh nào, anh vẫn luôn mang theo trong tim mình hình bóng của em. Em nhớ cầu nguyện cho anh nghe.

Xin cho anh kính lời hỏi thăm hai bác cùng gia đình. Cầu xin Chúa và Đức Mẹ Maria luôn che chở em cùng tất cả mọi người.

Hôn em.

Đỗ Lân.



Không ngờ lá thư này là lá thư cuối cùng tôi nhận được của Lân. Chỉ ba tuần sau, Lân hy sinh. Người báo tin buồn này chính là Lê Phương Quế, người bạn chí thân của Lân và sau này cũng là bạn của tôi. Lá thư có kèm theo vài di vật, Quế đã nhờ một anh phi công gởi cho tôi từ Pleiku, sau một chuyến đổ quân cho đơn vị của Quế ở Kontum. Lân đã bị thương rất nặng khi cùng với vị tiểu đoàn trưởng chui qua hàng rào phòng thủ, mở đường vào giải cứu Bệnh Viện 2 Dã Chiến, đang bị địch quân xua xe tăng đánh chiếm, với ý đồ lợi dụng những thương binh nằm trong bệnh viện, làm bàn đạp tấn công vào khu phi trường nằm sát thị xã Kontum. Lân chết lúc chờ máy bay tản thương. Chính Quế là người đã vuốt mắt cho Lân và nghe những lời trăn trối cuối cùng. Anh nhờ Quế giữ để trao lại cho tôi cái dây chuyền có mang thánh giá cùng mấy tấm ảnh có hình của cha mẹ anh và của anh mặc lễ phục trắng đội bê rê đỏ khi còn là thiếu sinh quân. Những tấm ảnh ấy bây giờ vẫn còn trong nhà thờ An Túc, và sợi dây chuyền tôi vẫn còn cất giữ đến hôm nay. Anh Quế còn cho biết thêm, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Lân còn thì thào gọi tên tôi, và khi lục trong túi áo, anh Quế còn thấy cái khăn tay và lá thư của tôi tặng Lân trong gói quà tết hôm nào.



- Thưa thầy, cuối năm 1973 tôi có nhận được thư của thầy. Lúc ấy thầy bị thương nặng, nằm ở quân y viện Pleiku. Tôi có tìm đến thăm, nhưng người ta bảo là thầy đã được chuyển về quân y viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang, để được gần nhà. Lúc ấy đoạn đèo An Khê lại bị địch chiếm, nên xe đò không chạy được. Mấy tháng sau, khi đi được xuống Nha Trang tìm thăm thầy, thì thầy đã xuất viện. Tôi có hỏi nhưng bệnh viện không biết thầy ở đâu.

- Mô Phật! Đúng như bà nói. Tôi được Hội Đồng Giám Định Y Khoa cho xuất ngũ, vì thương tích. Tôi về sống với mẹ già. Lúc ấy bà cũng đang tu tại gia, ăn chay trường. Suốt một đời bà đã lo lắng cầu nguyện cho cha tôi, rồi đến tôi. Cha tôi cũng đã tử trận năm 1965, trong trận Đồng Xoài, khi ấy tôi chỉ vừa 11 tuổi.

- Nhờ vậy mà thầy đã đi tu.

- Lý do đó chỉ một phần. Cái chính là do tôi đã sống trong chiến tranh, chứng kiến bao nhiêu cái chết quá đau lòng, như cái chết của những người còn quá trẻ như Lân. Họ đâu có tội tình gì. Tôi nghĩ tới cuộc chiến phi nghĩa, khi mà anh em cùng một nhà lại chém giết thù hận lẫn nhau. Nhất là những người lính miền bắc, chỉ vì một số người cầm quyền nhân danh các thứ chủ nghĩa này nọ, để xua họ vào miền nam chém giết chính đồng bào mình. Trước khi nhắm mắt, có lẽ họ chẳng biết họ chết trong núi rừng, trong đói khổ, để cho ai và được điều gì? Gia đình, cha mẹ hay vợ con họ ra sao? Tôi nghĩ tới cái Vô Thường, Vô Minh mà Đức Phật đã dạy, nên tôi đã tìm tới cửa Thiền để mong trút bỏ mọi ám ảnh, oan khiên.

Như vừa nhớ ra một điều gì, thầy chỉ tay về hướng sau chùa:

- Mời bà đi theo tôi. Mong bà sẽ tìm thấy một điều kỳ diệu.

Tôi theo thầy đi dọc theo triền đồi, đến một nơi tương đối bằng phẳng. Lại một khu vườn nhỏ toàn hoa sim. Tuyệt diệu hơn, bên trên các khung cây được treo đầy những cánh lan rừng. Tôi nhớ tới những cành lan mà Lân thường mang về tặng tôi sau các cuộc hành quân. Ngày xuân, tất cả đang nở rộ một mùa hoa. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn là giữa khu vườn là một ngôi mộ, trên tấm bia lại có cây thánh giá. Tôi thắc mắc hỏi thầy.

Thầy im lặng, không trả lời, ra dấu bảo tôi cùng thầy đến gần ngôi mộ. Tôi bàng hoàng khi đọc mấy dòng chữ trên mộ bia:

Giuse Đỗ Lân

Sinh ngày 10.7.1953 tại Huế

Tử ngày 11.5.1972 tại Kontum



Tôi quỳ trước ngôi mộ, đưa tay lên ngực làm dấu thánh giá rồi khóc sụt sùi. Một cơn gió xào xạc làm chao động cả rừng cây. Dường như tôi đã ngồi ở đây lâu lắm. Khi lau nước mắt đứng lên tôi không còn thấy thầy trụ trì. Có lẽ thầy muốn để tôi ngồi khóc một mình mà thổn thức với người xưa, hay là muốn tránh xa chuyện vui buồn của thế tục.

Khi trở lại chùa, tôi có cảm giác như chân mình đang bước vào khoảng không, hụt hẫng. Chú tiểu chờ tôi trong căn nhà khách, chuyển lại lời xin lỗi của thầy trụ trì và trao lại cho tôi một tờ giấy học trò được xếp làm đôi. Thầy trụ trì đang cúng ngọ. Tôi mở tờ giấy ra đọc, trong lúc tiếng chuông chùa ngân nga như muốn làm dịu đi phần nào những cơn sóng đang bềnh bồng trong lòng tôi. Trên tờ giấy chỉ có mấy dòng chữ: Xin chào bà và cám ơn bà. Chính tôi đã mang hài cốt của anh Lân về cải táng trong vườn chùa, khi được tin nghĩa trang trong thành phố Kontum bị giải tỏa. Anh Lân mồ côi, không còn ai thân thích. Từ nay, xin bà hãy cầu nguyện cho anh Lân, theo nghi thức tôn giáo của bà. Nam mô A Di Đà Phật.

phạmtínanninh 
 



Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #112 - 08. Feb 2010 , 21:36
 
Thân chào anh Toàn - Nhụng mẫu chuyện của anh hay mà buồn quá - Đọc xong thấy bàng hoàng và thấm thía 1 nỗi buồn không sao diễn tả nỗi anh Toàn ah. Chúc anh và gia đình 1 nam mới luôn hạnh phúc .
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #113 - 09. Feb 2010 , 17:03
 
   Ngày Tình  Yêu  14 tháng 2






BÓ  HOA  NGÀY  VALENTINE.

                                  Nguyễn Thị Thanh Dương


Giờ ăn trưa tại hãng, anh Bông đọc ké tờ báo của ai đó coi xong để lại trên bàn. Hôm nay là ngày Valentine nên có riêng một bài về chuyện này, số lượng thiệp gởi chúc nhau, chỉ đứng sau ngày lễ Christmas, quà tặng Valentine thì đủ loại từ hột soàn cho đến những hộp kẹo chocolate, nhưng hoa vẫn là món quà tặng nhiều nhất , thông dụng nhất.
Những cửa hàng bán hoa đang bận rộn vì những order của khách hàng, các nhân viên đang lo cắm hoa, gói hoa, và các xe giao phát hoa đang chạy tất tả trên các nẻo phố phường để giao hoa cho đúng hẹn.
Bó hoa trong ngày lễ tình yêu thật là trân trọng, thật là thắm tình.Thì ra có những người yêu nhau đến thế! mà sao tỉ lệ li dị vẫn cao, lấy nhau và bỏ nhau dễ dàng?
Người Mỹ đã quen thuộc với truyền thống này, như một định luật không thể nào cãi lại được. Còn người Việt Nam mình, không kể giới trẻ, những thế hệ tuổi trung niên, ngay cả khi đã sống lâu năm ở Mỹ không phải ai cũng biết mua hoa để tặng vợ trong ngày Lễ Tình Yêu, người Việt Nam mình vốn hay đơn giản, xuề xoà. Bản thân anh Bông là bằng chứng cụ thể nhất, lấy vợ đã 10 năm nay, anh chưa tốn một đồng nào mua hoa tặng vợ , mà anh Bông yêu chị Bông lắm chứ có ít đâu, gia đình lại hạnh phúc đề huề.
Đọc những bài báo ca tụng ngày lễ Valentine anh Bông thấy sốt ruột và cao hứng, anh bỗng có ý nghĩ chiều nay khi tan làm về sẽ ghé vào một tiệm hoa mua về tặng vợ cho có nghĩa tình và một chút lãng mạn như thiên hạ.
Chắc chị sẽ bất ngờ lắm? Càng bất ngờ càng vui. Anh sung sướng nghĩ thầm, chị rất xứng đáng được nhận bó hoa trong ngày Lễ Tình Yêu, chị vén khéo, lo toan cho gia đình, chăm sóc cho con, cho chồng, không chê vào đâu được.
Bốn giờ chiều anh rời khỏi hãng, đi thẳng tới chợ Kroger gần nhà, trong này có bán sẵn nhiều loại hoa, tha hồ mà lựa chọn. Anh đứng lẩn quẩn bên một rừng hoa, hoa chưng bên ngoài và bên trong tủ kính làm anh… hoa cả mắt, không biết nên chọn loại nào? Màu nào?
Hoa Hồng đỏ, Hồng vàng, Hồng trắng…tất cả đều tươi xinh.
Anh chợt nhớ ra cách đây 10 năm, anh và vợ anh cũng đã vào tiệm hoa này trong một ngày Lễ Tình Yêu. Hồi đó anh chị mới cưới nhau, hai người đều nghèo xơ xác vì cả hai mới đến Mỹ, dù mua một bó hoa cũng chẳng nghèo thêm bao nhiêu, nhưng chị đã khăng khăng từ chối. Chị rất bình dân và thực tế, không màu mè hoa lá cành.
Hồi chị còn ở Việt Nam , con nhà nghèo, đối diện với cuộc sống vất vả hàng ngày, thì cái chuyện mua hoa tặng nhau chỉ có trong tiểu thuyết và phim ảnh. Thế là đôi chim non thuở đó tung tăng dắt nhau vào chợ hoa để…ngắm suông, cũng lãng mạn và thắm tình biết bao! Họ cùng dí mũi vào tủ kính nhìn những bó hoa xinh đẹp, cùng chỉ trỏ, phê bình từng màu sắc, từng nụ hoa. Anh đã hỏi chị:
-         Em thích hoa nào? cứ chọn đi.
-         Nhưng không mua đâu nhé, chỉ tưởng tượng thôi. Chị ra điều kiện.
Cuối cùng chị chỉ chọn một cánh hoa Hồng bọc trong giấy kiếng, đơn giản nhất và rẻ nhất. Anh phải kêu lên:
-         Tại sao em không chọn những bó hoa to và lộng lẫy kia? Ngay cả “mua hoa trong ý nghĩ” mà em cũng tiếc tiền nữa.
-         Em quen rồi anh ạ, chẳng việc gì phải tốn tiền  để mua cái thứ chóng tàn phai ấy.
Kể từ ngày đó, chuyện mua hoa tặng nhau trong ngày lễ Valentine cũng xa vời theo ngày tháng, cuộc sống thực tế bận rộn, rồi chị liên tiếp sinh ba đứa con, một mình anh đi làm nuôi cả nhà vì chị ở nhà trông con, nên cuộc sống vật chất càng khít khao, eo hẹp, và tâm hồn càng không có chỗ trống để nghĩ chuyện “vu vơ”.
Thế mà hôm nay, tình cờ bài báo đã khơi dậy trong lòng anh một tình cảm đã lắng chìm theo dòng thời gian, người vợ hiền ngoan ấy chỉ biết làm lụng, chỉ biết tiết kiệm, thì có lúc chị cũng khao khát được nghe từ anh những tình cảm lãng mạn, ấm nồng yêu thương trong ngày lễ Tình Yêu chứ.
Anh băn khoăn ngắm đủ các bó hoa, sau cùng quyết định mua một bình hoa to, có 24 nụ Hồng đỏ đang e ấp. Anh hí hửng ra khỏi chợ, mặt anh ngẩng lên nhìn xung quanh như muốn khoe với mọi người rằng:“Ngày Lễ Tình Yêu này của tất cả mọi người yêu nhau, trong đó có cả tôi ”.
Đẩy cửa bước vào nhà, người đầu tiên anh gặp là thằng Cu Tí, con trai lớn 8 tuổi, nó hỏi ngay:
-         Ai cho bố hoa  đẹp thế?
Tabi, con em nó 5 tuổi, cũng xúm vào hỏi:
-         Bố lượm được  hoa này ở đâu?
Và cô con gái út Betsy 3 tuổi thì cứ kéo tay anh xuống để được nghịch ngợm vào món quà xinh đẹp đó. Anh phải gạt lũ con ra, lườm chúng nó một cái đầy vẻ doạ nạt, rồi hiên ngang hỏi:
-         Mẹ đâu?
-         Em đây. Tiếng chị âu yếm và thánh thót vọng ra.
Anh hồi hộp chờ đợi chị từ trong phòng ngủ đang bước đến gần, thấy chị khựng lại và mở to mắt nhìn bó hoa, anh phải phì cười:
- Sao em nhìn bó hoa sững sờ và kinh ngạc như người ta vừa nhìn thấy đĩa bay xuất hiện vậy?. Em không biết à? Hôm nay là ngày Valentine, Lễ Tình Yêu đấy.
-         Chẳng liên quan gì đến em. Nhưng anh lấy bó hoa này ở đâu ?
-         Mẹ con em toàn hỏi những câu vô duyên, bó hoa chứ có phải rác đâu mà lấy về, nhặt về?
-         Ở với anh 10 năm, lần đầu tiên trông thấy một bó hoa xuất hiện, ai mà không ngạc nhiên?
-         Anh mua bó hoa này để tặng em .
Thằng con lớn reo lên:
-         Con biết rồi, bố mua hoa tặng mẹ ngày Valentine.
Anh sung sướng nhìn thằng con trai:
    -  Con nói đúng đấy, cô giáo ở trường dậy con phải không?
Chị sững sờ, không thể tin được:
-         Xưa nay mình có bao giờ tặng hoa tặng hoét cho nhau đâu, mà bây giờ anh bày đặt?
Anh dịu dàng nói một câu đầy văn vẻ đã đọc được trong cuốn sách nào đó:
-         Thì hôm nay anh sẽ bắt đầu, vợ yêu quý của anh, anh mua bó Hồng này, nhân danh tình yêu, anh trân trọng tặng cho em.
Tức thì chị thảng thốt kêu lên thật to làm 3 đứa con còn đang luẩn quẩn bên cạnh cũng phải giật mình không hiểu vì sao bố nó mang về nhà một bình hoa đẹp mà mẹ chẳng hài lòng:
-         Trời ơi! Anh đã mua bình hoa to tổ bố này để tặng cho em hả?
Anh lại mang mớ văn chương trong sách vở ra:
-         Đúng thế, Em ơi, mỗi một nụ Hồng sẽ là ngàn lời tình ái của anh. Xin em hãy mở cửa trái tim mà đón nhận.
Chị gạt đi và rên xiết:
-         Thôi anh đừng nói những lời vay mượn ấy nữa, em biết anh đọc nó ở đâu rồi. Tại sao anh lại lãng phí thế? Trời ơi, phải nói là hoang tàn mới đúng. Anh có biết là anh đã tiêu xài một cách hoang tàn lắm không?
Rồi chị nhìn chăm chăm vào bó hoa, xót xa:
-         Bao nhiêu tiền bình hoa này?
-         Hơn 30 đồng tính cả thuế em ạ. Anh e dè đáp và chờ phản ứng của chị.
Chị lẩm bẩm tính toán:
-         Bằng giá hai con vịt quay. Thà rằng anh mua hai con vịt quay về, cả nhà còn được ăn vào bụng. Bó hoa này vài bữa là héo tàn, là vứt vào thùng rác.
-         Nhưng nó có ý nghĩa, nó nói lên tình yêu của anh dành cho em.
-         Thế thì tại sao anh không nói toẹt vào mặt em đây, rằng anh vẫn yêu em, việc gì phải tốn 30 đồng mua bó hoa này để nhờ nó nói giùm cơ chứ?
-         Ai cũng đơn giản, thực tế như em thì người ta khỏi cần trồng hoa nữa. Hãy tưởng tượng thế giới không có hoa , chỉ toàn là đồ ăn, cụ thể là vịt quay như em vừa so sánh thì cuộc đời sẽ không còn chỗ nào cho trái tim mình trú ẩn cả.
Chị vẫn lải nhải trách móc:
-         Ngày nào cũng gặp mặt, ăn chung bàn, ngủ chung giường 10 năm nay, anh khỏi nói em cũng biết anh yêu em thế nào rồi, không ngờ hôm nay anh nông nỗi dại khờ thế đấy.
-         Anh muốn được nông nỗi dại khờ vì em suốt đời.
Câu nói của anh làm chị dịu lại, thương cảm nhìn chồng:
-         Thôi lỡ rồi. Năm sau anh mà mua hoa nữa thì đừng có trách em đấy.
Chị nhận bình hoa và không quên than thở:
-         Vừa tốn tiền lại tốn cả công. Anh coi chừng con bé Betsy đấy, nó thấy hoa đẹp là nghịch ngợm cho mà xem, lại chảy máu tay vì gai, lại xả rác ra nhà. Tự nhiên muốn rước hoạ vào thân.
Anh cam kết:
-         Được rồi, anh sẽ trông chừng nó.
Cuối cùng bó hoa trong ngày Lễ Tình Yêu của anh cũng đến tay người vợ yêu dù thật là gay go, vất vả.
Bó hoa đã được sửa sang lại cho ngay ngắn trong bình, để giữa bàn trong phòng khách, trông lộng lẫy và ấm cúng hẳn lên. Người đàn bà chưa bao giờ biết nhận hoa như chị, hôm nay được làm chủ một bình hoa Hồng đẹp, do ân tình của người chồng  mua tặng, cũng thấy vui vui trong lòng, chị  mỉm cười và ngọt ngào :
-         Cho em xin lỗi nhé, vì đã đón nhận món quà ý nghĩa của anh một cách phũ phàng.
Anh sung sướng:
-         Em ạ ,vợ chồng dù hạnh phúc đến đâu chẳng có lúc gây buồn phiền cho nhau, thì chỉ có một ngày này để nói lên sự quan tâm, thương yêu nhau thôi mà.
Chị bỗng thắc mắc:
-         Nhưng xưa kia ông bà tổ tiên mình có tốn xu nào để mua hoa tặng cho nhau đâu, mà tình nghĩa vẫn bền chặt từ đời nọ đến đời kia? Còn ngày nay yêu nhau lắm mà li dị nhau càng nhiều.
-         Ừ nhỉ! Hãy tưởng tượng cụ đồ nho ngày xưa, mặc khăn đống áo dài đen, một tay cắp ô,  một tay ôm  bó hoa Hồng lộng lẫy về tặng vợ, bà đồ nho quần sắn ống thấp ống cao đang vất vả, đổ mồ hôi, nấu cám lợn trong bếp, khói lên mịt mù. Không biết bà  sẽ phản ứng ra sao ?
Chị Bông đáp ngay:
-         Nếu dây thần kinh yếu thì bà đồ nho sẽ ngã lăn đùng ra vì kinh ngạc khi biết cụ ông mua hoa về tặng mình. Ngược lại, vẫn tỉnh táo thì bà sẽ mắng ông là đồ điên, đồ dở hơi, tiền mua hoa ấy, để mà mua rau, mua cám cho lợn ăn còn ích lợi hơn.
  Anh âu yếm trách khéo:
-         Kể chi tới bà đồ nho của thế kỷ trước, ngay bây giờ cũng có bà vợ trẻ đang sống ở xứ Mỹ văn minh đã dẫy nẩy lên khi chồng mang về một bó hoa trong ngày Lễ Tình Yêu đấy thôi.
Chị nũng nịu:
-         Anh ơi, đừng trách em nữa, bây giờ thì em đã nhận món quà của anh bằng cả tấm lòng rồi.
Anh Bông cao hứng:
-         Tại mình chưa khá giả, anh còn muốn mua hột soàn tặng em nữa kìa, món quà này thì không bao giờ héo tàn, cho em xài cả đời.
Chị lườm yêu anh:
-         Thôi mà, đừng có vẽ vời, bó hoa này là vĩ đại với em lắm rồi. Kìa, cu Tí, Tabi, và Betsy, các con đừng có nghịch vào hoa của bố mua tặng mẹ nhé.
Ba đứa trẻ  không hiểu hết ý nghĩa của bó hoa trong ngày Valentine mà bố chúng vừa mang về, nhưng bây giờ thì chúng hiểu là mẹ đang vui vì bó hoa này, nên ngoan ngoãn gật đầu và chúng nhìn bó hoa trìu mến như bố mẹ đang trìu mến nhìn nhau.


                                   Nguyễn thị Thanh Dương
Back to top
« Last Edit: 09. Feb 2010 , 17:03 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #114 - 24. Feb 2010 , 23:37
 



Vượt Biển một Mình


Nguyễn Trần Diệu Hương

Tác giả, hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose, kể chuyện một mình vượt biển giữa thập niên 80’ và trở thành cô giáo cho những thiếu niên không thân nhân tại trại tị nạn.

Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một  thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu.  Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao "Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò." Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc.  Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.

Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời đó,  người dân  miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại "Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá." Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển.  Khả năng vượt thoát  chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của  UNHCR  United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là "Boat People") đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.

Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn,  tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một,  khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.

Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu.  Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng.  Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi,  vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường.  Ngồi trên xe đò từ  Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt,  để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.

Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi  nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là "mửa mật". Vậy mà chỉ hai ngày sau,  quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu" mặc dù đã hai ngày không ăn uống.  Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do.

May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng  vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm  lênh đênh trên biến.

Lên tới đất liền, cùng với  chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.

Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị "say đất". Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba.  Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là "Blue Dart", khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng.

Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên "đồi tôn giáo", có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là "Sick Bay". Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng  mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.

Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi.

Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh "thân gái dặm trường", không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong,  đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy  em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.

Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị "học tập cải tạo" - như Ba tôi - được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi  nhưng có sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người ngoài hai mươi  học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.

Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.

Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi,  nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì "tội nhà giàu", Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp "tư sản mại bản".


Còn biết bao các em khác nữa.  Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với  vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.

Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những ngưồi đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong  chỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn  các thuyền vượt biển bị hài tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó,  nỗi đau vượt quá sức chịu đựng, người ta mất cảm giác.  Nhiều người nữ thuyền nhân,  mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May,  Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần  dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt.  Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?

Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với  công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em , chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán.  Sách học là những quyển sách đơn giản tương đương trình độ của bộ "English for Today" quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam , nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng long thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện  ở trường Trung hoc, vẫn đùa với nhau là mình đã theo một "trường phái sư phạm mới", lối dạy "mèo nhỏ tha chuột lớn".

Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, "dignity" - có nghĩa là phẩm giá - tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ "We lost everything, but never lose our dignity".  Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo.  Những giọt nước mắt đó  vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim  Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ "dignity" hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình.

Mỗi tuần hai lần, tàu "Blue Dart" của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm, vào cho thuyền nhân.  Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần "second hand", tương tự như áo quần cũ bán trong  Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng  chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và  chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị,  Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người  tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm "Teacher Aid" cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines), những chuyến du lịch đặc biệt  bằng xe bus dành riêng cho các "Teacher Aid", chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.

"Nỗi buồn nhược tiểu" đó càng tăng cao khi  trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày  ở Tokyo - Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai.  Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng,  Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.

Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra  những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM  (International Organization for Migration), chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân .

Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về "American Culture Orientation" ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm  thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy  Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh "mán về thành", nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa  với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.

Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong  thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.

Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi  đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển,  và  mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội. Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ  năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến , bác viết cho tôi một reference letter và từ đó " I'm on my own way".  Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi.  Trời thương, "thánh nhân đãi kẻ khù khờ", tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi.  Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá , từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm.   Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà. Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là "trâu chậm", chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà  Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm.  Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ "No pain, no gain", và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình:  "Ai trở về xứ Việt, nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù .....",  nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.

Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với "scholarship foundation" sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút: - Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân  đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người  tỵ nan, lưu vong.  Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn còn đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do,  xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.

Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu.  Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người. Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ "mửa mật" của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi.  Cho nên, có lần được chọn là "Employee of the year" được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho "the runner up" trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ.  Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió  hàng giờ giương cao  những tấm biểu ngữ "Human Right for VietNam", "Freedom for VietNam" ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ. 

Sau  khi đã ổn định,  - đã có một "career" đàng hoàng thay cho cái "job" để kiếm sống - có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là  các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi.   Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm "Mùa hè đỏ lửa" của nhà văn Phan Nhật Nam,  từ bài thơ bất khuất "Nếu ai hỏi" của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay.

Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị "mửa mật", mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.

Và có một lần "chuyện hôm qua" càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần.  Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ:  - Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?

Tôi trả lời bằng tiếng Việt:

- Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?

Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:

- Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong.  Chị nhớ em không?

Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt  mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa, Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm ngườI Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.

Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan  Boston - là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh.  Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh về nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học.  Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần.  Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi.  Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu.  Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn  học lực, lại chăm chỉ học hành nền em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.

Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với  thành tích học tập xuất sắc trong bốn năm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bỗng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện  của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam.  Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO.  Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau. Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT.  Mổi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại "cải tạo". Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ.  Căn  phòng dù không còn được dùng thường xuyên, nhưng  trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới  đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho.  Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam.  Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng  thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.

Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ, mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo  để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn.  Điều "bí mật" đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo "để dành" thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc  trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kêt quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện.  Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã  rất lớn.

Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo.  Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào. Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước , sau tháng 4/75, nhà cầm quyền không cho phép mình làm.

Tất  cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoản tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.

Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:

- Điều em vui nhất là đã đền  đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui  Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là "gánh sơn hà" mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình.

Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu  mà  đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:

- Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị?

Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác  Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách.

(Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân  "đi biển" một mình).


Back to top
« Last Edit: 24. Feb 2010 , 23:38 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #115 - 07. Mar 2010 , 13:17
 




Mời đọc một câu chuyện cảm đông.

Cô giáo và học trò lớp 5



Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tai trường tiểu học của một thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ.
  Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp 5, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu thương tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. "Teddy trông thật khó ưa".
Chẳng những thế, cô Thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thập rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém).
Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích học tập của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những điều đọc được. Cô giáo phụ trách lớp 1 đã nhận xét Teddy như sau: "Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan... Em là nguồn vui cho người chung quanh". Cô giáo lớp 2 nhận xét: "Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu". Giáo viên lớp 3 ghi: "Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được giúp đỡ". Giáo viên chủ nhiệm lớp 5 nhận xét: "Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp".

Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn.
Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những món quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xạm màu mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hóa. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt một ít nước hoa trong chai lên cổ tay. Hôm đó Teddy đã nán lại cho đến cuối giờ để nói với cô: "Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa".
Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học trò cưng nhất của cô.
Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa. Teddy viết: "Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em".

Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng ba trong lớp và "Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em".

Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng "Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời".

Rồi bốn năm sau nữa cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sĩ và quyết định học thêm lên. "Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em", nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn. Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard - giáo sư tiến sĩ.
Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây. Một bức thư nữa được gửi đến nhà cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ cưới và ngồi ở vị trí vốn thường được dành cho mẹ chú rể.
Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra? Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất.
Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson: "Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ tiến bộ".
Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu:

"Teddy, em nói sai rồi. Chính em mới là người đã dạy cô rằng cô có thể sống khác đi. Cô chỉ biết thế nào là dạy học kể từ khi cô được gặp em".
Back to top
« Last Edit: 07. Mar 2010 , 13:18 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #116 - 15. Apr 2010 , 20:04
 
    
BAYBY  SIT


                   Nguyễn Thị Thanh Dương.

“Cần người baby sit ở tại nhà ,trông 3 đứa trẻ 7, 6, và 5 tuổi, làm vài công việc vặt. Có phòng riêng, lương hậu hỉ . Xin mời ”
Đọc hàng loạt mục cần người đến nhà giữ trẻ, tôi dừng lại ở đây, sao mà thích hợp với tôi đến thế, tôi đang tìm một nhà có đông trẻ con để đến giúp việc, vì tôi cô đơn quá đổi. Cái nghề baby sit này tôi đã nghĩ tới với rất nhiều hứng thú sau những tháng năm dài mấy lần vấp ngã trong cuộc đời.
Tôi gọi phone ngay:
- Hello, chào chị, tôi có đủ điều kiện để xin làm baby sit cho nhà chị đây.
Giọng hớn hở bên kia đầu dây :
- Chị trẻ không? khoẻ không? Em có 3 thằng con trai quậy dữ lắm, đến nỗi bác Ba hiện thời đang baby sit tụi nó chịu không thấu, bác quá mệt đòi thôi việc nên em mới đăng báo kiếm người thế vô, bác Ba làm nốt 2 tuần nữa cho tròn tháng rồi mới ra….
Chị ta nói dài quá tôi phải ngắt lời :
- Tôi hiểu rồi, năm nay tôi 40 tuổi, sức khoẻ tốt. Được không?
- Vậy thì tốt quá, coi như em nhận lời mướn chị, bữa nào mời chị đến nhà, coi những công việc bác Ba làm sao chị làm vậy.
Tôi đồng ý, Hai tuần nữa tôi lại có một cuộc sống khác.
Một cuốn tiểu thuyết có bao nhiêu trang buồn vui thì cuộc đời tôi cũng có bấy nhiêu trang. Tôi là một đứa trẻ không có cha ngay từ trong bụng mẹ, nghèo khổ và lam lũ tôi sống với mẹ bữa đói bữa no trong một xóm lao động ở Việt Nam, năm tôi 12 tuổi mẹ tôi bị bệnh chết, không thân bằng quyến thuộc. Tôi bơ vơ.
Tôi được một bà hàng xóm tốt bụng mang tôi đến một gia đình họ hàng của bà. Đó là  chủ hãng nước mắm ở bến Chương Dương, Sài Gòn, để tôi làm việc vặt gì thì làm, mục đích chính là họ nuôi tôi làm phước.
Ông bà chủ có hai người con gái tuổi mười tám đôi mươi, đa số tôi làm việc vặt cho hai cô. Biết thân phận mình tôi làm việc rất chăm và ngoan ngoãn nên cả ông bà và hai cô đều thương. Được sống ở thành phố, bên cạnh hai cô chủ, tôi phổng phao khoẻ mạnh và đầu óc khôn ra, những sinh hoạt của họ cũng cho tôi nhiều kiến thức. Lúc nào rảnh hai cô thay phiên nhau dạy tôi học chữ.
Tôi quý mến ông bà chủ hãng nước mắm lắm, tôi hay nói với ông bà con mong mau lớn con sẽ khuân nước mắm từ kho ra xe, ông bà đỡ phải mướn người ta. Nhưng chưa đến cái ngày tôi được làm công việc đó để đền ơn đáp nghĩa chủ, thì năm 1980 cả nhà ông bà tổ chức vượt biên, và tôi  nghiễm nhiên  đã là một thành viên của gia đình họ nên cũng được đi theo. Năm đó tôi 18 tuổi.
Sang đến Mỹ tôi vẫn tiếp tục làm người giúp việc cho họ. Vài năm sau hai cô học hành xong và lập gia đình, cuộc sống của tôi vẫn êm đềm theo gia đình chủ, nhưng hai cô nói tôi không thể suốt đời làm thuê làm mướn cho nhà cô mãi được, tôi đã trưởng thành cấn có một cuộc sống riêng, có vợ có chồng như người ta. Hai cô thương tôi mà nói thế, chia tay hai cô tôi buồn lắm và không tự tin chút nào, vừa xấu vừa  không trình độ thì ai dám lấy tôi?
Thế mà có người thương tôi, lấy tôi, làm tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, anh quê ở Long Đất, Vũng Tàu, làm tài công chở người vượt biên từ ghe nhỏ ra ghe lớn, một hôm anh liều mình lên ghe lớn đi luôn, qua đây tứ cố vô thân. Anh cũng bơ vơ.
Gia đình ông chủ hãng nước mắm ở California, còn tôi và chồng rủ nhau về tiểu bang Texas, nghe nói cũng đông người Việt Nam và nhà cửa thì rất rẻ so với Calif.
Sau này tôi hỏi chồng tôi với vẻ cảm động và vô vàn biết ơn rằng em xấu, em quê mùa thế tại sao anh lấy em, anh yêu em ở điểm nào ?? Anh đáp thản nhiên thời điểm đó ít người Việt Nam, đàn ông thì thừa , đàn bà thì thiếu, thà lấy em còn hơn ở giá, chứ có yêu thương gì đâu.
Sự thật mất lòng, nhưng chứng tỏ là anh thành thật, thôi thì “ bèo dạt mây trôi” gặp nhau, cho đời bớt buồn, bớt khổ. Chúng tôi an phận sống bên nhau và mong muốn có một đứa con, nhưng chờ hoài hết năm nọ, năm kia, hai vợ chồng tôi mới đi bác sĩ để biết một sự thật đau lòng tôi không có khả năng sinh con. Chồng tôi thất vọng, chán nản sinh ra nhậu nhẹt say sưa, một hôm tôi biết được anh đã ăn ở với một cô gái, và cô đang mang bầu, tôi hiểu phận mình thua thiệt, tự nguyện rút lui, trả anh cho cuộc đời mới đang mở ra cho anh.
Vài năm sau tôi lập gia đình với một ông lớn tuổi, bị vợ bỏ, ông chấp nhận hoàn cảnh tôi, không cần con cái, hình như ông dị ứng với vấn đề này, ông nói con cái ở Mỹ chỉ là một lũ mất dạy. Tôi an lòng sống với ông, tưởng sẽ được hạnh phúc cho đến tuổi già. Nhưng ông bị chết đột ngột vì bệnh tim, không kịp một lời trăn trối, nhưng cũng kịp để lại cho tôi một món tiền khá lớn….phải trả nợ cho credit card, không biết ông đã vay mượn từ lúc nào, mang tên hai vợ chồng , chỉ để đánh cá football (sau này tôi mới biết đó chính là nguyên nhân ông bị vợ bỏ, con khinh, và vất va vất vưởng như lục bình trôi sông rồi tấp vào đời tôi, để tôi phải trả một giá rất đắt cho cái hạnh phúc mà tôi chưa hề được hưởng).Tôi đã cần cù đi làm lương vài đồng một giờ trong vài năm để trả món nợ đó, tôi suy luận theo thuyết nhà Phật, có lẽ kiếp trước mình mắc nợ ông ta ? Bây giờ nợ trả hết rồi, tôi không oán hận gì ông đâu, ông hãy thanh thản giấc ngàn thu, chỉ mong rằng kiếp sau nếu có tái sinh , dù lấy ai cũng xin ông chừa thói cờ bạc, chừa đánh cá football cho vợ con ông nhờ.
Vừa xấu người, vừa xấu số, qua hai đời chồng mà chẳng được gì ngoài thất vọng khổ đau.Tôi quyết tâm an hưởng cuộc sống độc thân, tưởng rằng sẽ thanh thản mà sao buồn thế! đơn độc thế! Đôi lúc tôi muốn quay về tìm hai cô chủ cũ đang sống ở California, nhưng lại tự ái, và phụ lòng tin tưởng của người ta nên đành thôi. Tôi cũng là một người đàn bà như bao nhiêu người đàn bà khác, cũng thèm khát một mái gia đình, những đứa trẻ thơ, để được săn sóc chúng, thương yêu chúng. Thế là tôi nghĩ đến nghề baby sit, tôi muốn được ở tại nhà chủ, sống hàng ngày với họ, để hưởng lây không khí gia đình, để gần gũi những đứa trẻ mà đáng lẽ tôi cũng có.
                                           ******
Tôi đã đến nhà cô chủ mới để quan sát tình hình, vợ chồng chú An giới thiệu tôi với bà Ba và 3 đứa trẻ rồi họ vội vã rời khỏi nhà, họ đang kinh doanh một nhà hàng lớn rất đông khách nên bận túi bụi, việc nhà cửa, con cái giao phó hết cho người baby sit.
Lần đầu nhìn 3 thằng ranh tôi đã thích, còn chúng nhìn tôi với vẻ tò mò .Hôm nay ngày nghỉ nên chúng ở nhà đủ, bà Ba vừa làm việc vừa nói chuyện với tôi, bà hơn 65 tuổi, nhưng chưa có quốc tịch nên chưa được hưởng tiền già. Ôi, ở cái tuổi này mà phải quản lý 3 thằng vừa ăn khoẻ vừa nghịch ngợm như thế kia thì mệt thật ! Tôi bỗng thấy mình còn trẻ quá, sẽ đủ sức làm nữ tướng điều khiển 3 thằng lính quèn đó.
Tôi tiếp tục công việc của bà Ba không khó khăn gì, sáng dạy lo cho 3 đứa đi học, trưa lần lượt đón về, chiều nấu cơm, tắm rửa cho chúng, rồi dọn dẹp nhà cửa…Tôi vừa nghiêm vừa thân thiện để chúng không ăn hiếp và không quá sợ tôi. Ai như bà Ba muốn làm cái gì cũng phải năn nỉ nào ăn cơm đi, nào tắm đi, nào thay đồ đi.v..v..rồi bà thương, chúng nó đâu cần cái tình thương hứa hẹn của bà để phải đánh đổi những trò chơi hứng thú của chúng. Mỗi lần cho lũ trẻ tắm là một cuộc chơi “trốn tìm” và “đuổi bắt” đầy ngoạn mục, quần áo dơ thay ra, chúng không để vào rổ trong phòng tắm mà cố tình quẳng vào kẹt tủ, gầm giường, hay góc bếp cho bà Ba tìm mệt nghỉ, bà Ba đi khắp nhà tìm quần áo dơ của chúng như tìm chiến lợi phẩm sau một cuộc giao tranh. Xong, thì 3 thằng lại xổng mất, bà phải chạy từ phòng nọ đến phòng kia, từ tầng lầu xuống tầng dưới, và ngược từ tầng dưới lên tầng lầu để tóm chúng lôi vào phòng tắm...Bà mệt và căng thẳng đến nỗi có đêm bà thấy ác mộng, 3 đứa chạy nhảy bừa bộn trong phòng tắm, nước văng tung toé, nước tràn lan lênh láng, trôi bà đi khắp nhà…Giật mình tỉnh dậy người bà còn đẫm mồ hôi, bà không tin là mình vừa ngủ mê, lò dò bật đèn ra phòng tắm, thấy mọi sự yên tịnh bình thường bà mới yên tâm vào ngủ tiếp.
Khi bố mẹ chúng ra khỏi nhà, căn nhà rộng 4,000 sqft, đẹp đẽ sang trọng, trên khu đất rộng, vườn tược xinh tươi, hàng tháng có người đến làm vườn cắt cỏ này là của tôi, tôi tha hồ ra mà đi trên cỏ non xanh mướt, ngắm hoa lá, nhìn chim bay…Những giây phút thú vị đó, tôi tin chắc rằng vợ chồng cô chủ chưa bao giờ biết đến.
Vào nhà tủ lạnh đầy ngập đồ ăn, tôi muốn ăn, muốn bày món gì có mà trời biết.Tôi đã làm những món ăn, bánh trái khiến lũ trẻ thích mê, tôi kể cho chúng nghe những đứa trẻ bằng tuổi chúng đang ở Việt Nam, đang thiếu ăn, thiếu mặc, hay không được học hành gì cả…tôi kể về tuổi thơ nghèo khổ của tôi, chúng cảm động nghe tôi kể như nghe chuyện cổ tích, tôi dạy chúng phải biết quan tâm và giúp đỡ người khác, biết nhường nhịn thương yêu nhau. Dần dần 3 đứa đều quý mến tôi, ngoan ngoãn nghe lời tôi, chúng không nghịch phá nữa, tự mình làm những gì có thể được, tôi không phải hầu hạ chúng như bà Ba, trái lại tôi còn sai chúng làm được khối việc vặt, khi quần áo đã xấy khô, chúng gấp lại, của đứa nào đứa nấy mang về phòng, chúng vui thích vì được tự tay xếp quần áo vào tủ theo ý mình, tôi sai chúng nó lấy báo cho tôi đọc hay rót nước cho tôi uống là chuyện thường tình ở nhà, không biết bố mẹ chúng nhìn thấy có xót ruột không? chứ chúng làm với tất cả lòng hăng hái, mà tôi cũng thương yêu chúng biết bao nhiêu, không phải là nhiệm vụ của một baby sit đâu, mà bằng tấm lòng của một người mẹ.
Tôi và 3 đứa trẻ đã có những ngày êm đềm hạnh phúc, những bữa cơm chiều đầm ấm, những buổi trưa 3 đứa thì ngủ, còn tôi nằm khểnh  nghe nhạc, thảnh thơi như một kẻ vô công rỗi nghề, tôi mở máy nghe Chế Linh và Tuấn Vũ, hai giọng ca mùi mẫn là thần tượng của tôi, họ hát bài gì tôi cũng thuộc dù tôi không nhớ tên tác giả, nhưng chắc chắn là không có nhạc Trịnh công Sơn, dù ai cũng khen nhạc ông ta, có nhiều câu nhạc của Trịnh công Sơn nghe “mơ hồ” quá tôi không hiểu nổi: “tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống thành hồ nước lênh đênh.” Hay “ Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…” thà cứ cụ thể, huỵch toẹt như “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn…” hay “Đêm đêm một mùi hưong, mùi hoa sứ nhà nàng…” nghe mà thấm tới tim tới phổi, nghe mà rơi lệ.
Nằm nghe nhạc đã, tôi ngủ thiếp đi, tỉnh dậy 3 đứa trẻ vẫn nằm ngủ bên tôi trong căn nhà sạch sẽ thơm tho, chẳng có chuyện gì phải làm, tôi vẩn vơ nghĩ tới vợ chồng cô An, không biết ngay giây phút này họ đang làm gì nhỉ ? Tội nghiệp ! chắc chú An đang bù đầu trong khói bếp mịt mù, trước kia chú có thuê đầu bếp, nhưng đứa thì làm mình làm mẩy, đi trễ về sớm, đứa thì chuyên môn ăn cắp mang về nhà toàn những món đồ biển đắt tiền .Thế là chú vừa là ông chủ vừa kiêm luôn chức đầu bếp cho chắc ăn, khỏi phải trả tiền công đầu bếp mà lại quản lý được cả đám nhân viên dưới bếp, không thất thoát hao phí đồ ăn, thực phẩm. Còn cô An cũng bù đầu không kém, như tất cả những người Châu Á làm kinh doanh, khâu tiền nong thì chỉ có ngưòi nhà hay chính chủ nhân quản lý, cô An ngồi trong quầy thu tiền, mỗi ngày phải mỉm cuời không biết bao nhiêu lần, phải Hello, Thankyou với không biết bao nhiêu người, kể cả những người có bộ mặt đáng ghét nhất.
Chín mười giớ tối cô chú An mới về tới nhà, tắm rửa và hỏi thăm con cái qua loa xong là lăn vào phòng ngủ, nếu có động đất hay trời xập chắc họ cũng không biết.

                                                
Làm gì cô chú An dám mơ tới một giấc ngủ trưa thanh bình nhàn hạ như tôi? nằm nghe nhạc lâm ly sướt mướt như tôi?
Làm chủ nhà hàng, khách tới ăn tấp nập, nhưng cô chú An thường không ăn nổi những món ăn của mình, ngày nào cũng ngửi, cũng nhìn thấy, họ ngán quá rồi, cô An thường mang đồ ăn do tôi nấu ở nhà , tôi làm món dưa cải muối chua với củ hành đỏ thật thơm ngon, cô An rất thích.
Từ ngày làm baby sit, ăn, ở, chủ bao nên đồng lương tôi hầu như không dùng tới, dư được bộn tiền, tôi không có họ hàng gần xa ở Việt Nam để mà giúp họ. Tôi nghĩ đến những đứa trẻ nghèo-như tôi ngày xưa- và muốn đồng tiền của tôi được hữu ích tôi liên lạc với một ngôi chùa ở Việt Nam, thông qua đó, hàng tháng tôi gởi tiền về để chùa mang đến những cô nhi viện, những nhà nuôi trẻ em khuyết tật, cho các em được thêm manh áo mới, thêm miếng ăn ngon. Nếu quả thật kiếp này làm điều lành kiếp sau được hưởng thì tôi mong sẽ có một mái gia đình và những đứa con như 3 thằng mà tôi đang baby sit là đủ rồi, chẳng mong giàu có sang trọng gì.
Một hôm cô An mang về một tờ báo xuất bản ở Việt Nam, do người bạn cô mới đi chơi Việt Nam và mang về. Cô An chỉ cho tôi  bài viết về một bà người Việt sống ở Mỹ có lòng từ tâm, hàng tháng gởi cả ngàn đô về Việt Nam để giúp các trẻ em nghèo.
Cô An chặc lưỡi:
- Làm điều thiện mà dấu tên, ngu thật. Người ta đâu biết mình là ai, thì hãnh diện với ai đây?
Rồi cô so sánh, nửa đùa nửa thật:
- Chắc bà này giàu lắm mới chi ra như thế. Mà có giàu hơn tôi được không?
Mỗi ngày nhìn vợ chồng cô An ra đi, lao vào cuộc sống, tôi biết họ kiếm ra rất nhiều tiền, bằng sức lực mồ hôi và bằng cả sự khôn ngoan sống ở đời như cô An đã từng hãnh diện khoe với tôi, chị biết không, buôn bán kiếm lời là chuyện dĩ nhiên, ngoài ra phải biết kiếm thêm, mỗi bill tính tiền ăn của khách đều cộng thuế, nhưng tôi đâu có ngu mà khai thật lợi tức của mình với sở thuế, nên hầu hết tiền lời, tiền thuế của người ta trả đều vô túi mình.
Còn tôi, lương tháng 1,200 đồng, không kiếm thêm được đồng nào như vợ chồng cô chủ. Nhưng nếu so sánh giữa tôi và họ ai giàu hơn ? Thì …tôi chứ ai! Vì tôi còn có tiền phân phát cho người khác.Và ai sướng hơn?  Thì….cũng tôi chứ ai ! vì tôi có niềm vui khi đã mang lại niềm vui cho người khác.,.
                                            Nguyễn thị Thanh Dương

Back to top
« Last Edit: 15. Apr 2010 , 20:07 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #117 - 16. May 2010 , 23:39
 
                            


                                                    GẢ  BẤT CẦN

                                                

          Trước khi làm bản tự khai, tên quản giáo ngồi một chân để thổng, một chân chỏi trên mặt ghế. Hắn ngồi bật ngửa hút thưốc.Vài đám du kích mặt non choẹt mang vủ khí đủ loại đứng vòng ngoài phòng họp của trường trung học. Hắn từ từ đứng lên nói: Tất cả hồ sơ các anh chúng tôi đã nắm. Tội các anh theo Mỹ Ngụy đánh phá cách mạng là tội chết, nhưng nhờ lượng khoan hồng của nhà nước cách mạng các anh được tha và cho tập trung về đây để học tập chánh sách của nhà nước một thời gian ngắn rồi cho về với gia đình, làm công dân tốt của một nước Việt Nam dưới sự lảnh đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa và đảng Việt Nam quang vinh…..Hắn nói tràng giang đại hải như con vẹt, cuối cùng hắn gằn giọng: Các anh phải thật thà khai báo, các không qua mặt được chúng tôi, nhớ đó… Mọi người được cấp hai mảnh giấy trắng làm tờ khai lý lịch.

         Trong bản tự khai gã ghi sơ sài tên họ cấp bực, công vụ và địa chỉ tận miền Trung. Tư Cần trong ban quản giáo trại tù đọc tờ khai của gã và bắt gã làm lại có hơn ba lần, lần nào gã cũng khai y như củ. Tư Cần gọi gã lên la lối:

             - Anh chưa thành khẩn khai báo. Các anh khác khai đầy đủ còn riêng anh cứ còn dấu diếm. Tội không khai báo thành khẩn là tôi nặng anh biết không? gã thản nhiên trả lời:

              - Thưa anh, tôi đã khai đủ.

              - Anh không có thân nhân họ hàng?

              - Dạ đúng.

              - Ai sinh anh ra anh, anh không biết nửa hả!

              - Tôi không biết, hồi nhỏ tôi sống trong cô nhi viện nên không biết cha mẹ là ai. Tư Cần ngó anh luờm lườm và hỏi gằn:

              - Còn hoạt động đánh phá cách mạng anh ghi có bao nhiêu, đâu đủ!

      Gã nhỏ nhẹ:

              - Dạ đủ lắm rồi cán bộ. Cán bộ không tin cứ coi lại hồ sơ mà cán bộ có….

            Tư Cần bực tức, nhưng không biết phải làm gì với gã. Tư Cần đưa gã miếng giấy trắng khác và nói: Anh về khai lại cho đủ hơn, chưa thành khẩn…anh hiểu chưa???.Gã mang giấy về và vẩn khai y như củ. Tư Cần ra lệnh nhốt gã vào phòng tối hai tuần. Hôm tên du kích mở cửa phòng giam đặc biệt, tống anh về lại phòng, người anh xanh xao và hôi thúi. Mọi người dìu anh về chổ nằm. Anh em trong phòng bịt mũi vì chịu không nổi mùi hôi thúi bốc ra từ cơ thể của anh. Suốt hai tuần ở trong phòng tối gã ăn, ỉa tại chổ. Với mỗi ngày một lon nước trong phòng tối om làm gì để có cái sạch sẽ. Hồi ở ngoài phòng anh cũng là chúa nhát tắm gội rồi. Thế là vài ba anh đề nghị góp nước và lót miếng nylon ra giữa phòng, mời kéo gã ngồi vào để lau chùi, kỳ cọ cho gã hết mùi hôi. Gần ba tháng trong phòng giam ai ai cũng có người thân gởi đồ ăn vào bằng cách nầy hay cách khác, riêng gã thì không thấy ai gởi. Anh em hỏi gã thì gã cười mĩm nói: Tôi con bà phước làm gì có ai gởi. Gã ít khi quan đến sinh hoạt trong phòng, ai kêu làm gì thì làm không thì nằm phì phà hút thuốc một mình, không tâm sự với ai, ai hỏi gã điều gì thì gã nói cái kiểu trớt quớt không đâu vào đâu. Ngày tháng bị giam tù không biết rồi sẽ ra sao? Mọi người buồn bã ra mặt, riêng gã thì không ai đoán được gã có buồn hay không. Gã sống lè phè với cơm phát, nước đong. Anh em thấy vậy nên chia sẽ với gã khi có đồ ăn gởi vào. Gã không bao giờ từ chối món gì cả. Ai cho cái gì thì ăn cái đó, ăn không hết thì dồn hết vào lon Guigoz để dành ăn từ từ. Anh em thương gã vì biết gã chẵng có ai thăm nuôi, nhưng tin vào lời khai của gã thì chắc không ai tin, hoặc có tin cũng ở một giới hạn nào đó. Riêng về ban quản giáo thì thôi hạch hỏi gã từ khi gã từ hầm tối ra.Chắc họ có điều tra, nhưng không moi được gì thêm. Hồ sơ quân bạ ở tỉnh Chương Thiện bị đốt hết. Họ cứ dằn mặt: Các anh phải khai thật thà, hồ sơ của các anh chúng tôi nắm hết cả, đừng hòng khai gian! Thế nhưng cho đến khi chuyển trại lên Cần Thơ, mặc dù cũng qua nhiều lần làm lại tờ tự khai, gã cũng chỉ viết có bấy nhiêu mà chẵng thấy họ hạch hỏi gì  thêm.

                       Cũng như còn ở trại giam tỉnh, ở đây gã cũng lè phè, lếch thết. Mọi người được vợ con tiếp tế thăm nuôi, còn gã thì vẩn mồ côi như củ. Gã tự đi “Cải hoạt” với cái bẩy chuột tự sáng chế. Đó là chiếc cần bằng tre với sợi dây nhợ. Gã đánh bắt chuột cống trong trại, vì là chuột chui nhủi trong các hang dơ dái nên lông lá bị rụng, da trầy trụi lỡ lói. Khi bắt được con nào gã cắt đầu, lột da, bỏ bộ ruột, đem nướng hoặc kho mặn. Anh em thấy gã ăn mà thương hại và thường có ý ngăn cản vì sợ gã bị bệnh. Mọi người chia phần ăn cho gã và khuyên gã nên ngưng ăn chuột, nhưng gã vẫn tiếp tục bẩy chuột. Nhiều đêm cái bẩy sập đưa cần không? Gã tức lắm và cho là có người nào đó ăn chận, bắt lén. Để phát giác khi bẩy sập. Gã cột thêm mấy miếng nhôm để khi bẩy được chuột, chuột giẩy dụa sẽ kêu leng keng. Có hôm vừa mỗ bụng chuột xong, gã cười khà khà: Ê bắt được chuột có chửa, ăn chuột hà nàm bổ lắm. Gã lôi ra từng con chuột con trong bọc bỏ vào miệng ăn ngon lành, mấy anh bạn trong phòng bụm miệng, nôn ói. Chẵng ai cản được gã nên cứ để gã tùy tiện. Anh em đồn đại: Tay nầy đúng là một tên khật khùng…! Cán bộ trại gọi gã lên hỏi:

-      Chúng tôi lo cho các anh thức ăn đầy đủ, sao anh lại ăn chuột dơ bẩn như thế?

Gã cười cười trả lời:

-          Thưa cán bộ thêm thịt…

-          Thế chúng tôi cung cấp không có thịt cho anh à?

-          Dạ không có.

-          Cá nục…rau cãi, nước mấm đấy.

-          Dạ thịt cá đâu phải thịt heo.

-          Anh còn muốn ăn thịt heo… tư sản nhỉ?

-          Dạ ăn để sống mà cán bộ.

-          Thế chúng tôi có để cho các anh chết à….?

    Gã cúi đầu ngưng nói. Tên cán bộ tức khí:

-          Thôi anh về đi…cấm không cho anh bắt chuột. Gã làm thinh quay đầu đi

ra khỏi phòng.



     Gã cùng đoàn quân xuôi Nam vào tuốt tận vùng sâu rừng U Minh, nơi mật khu củ của mặt trận trá hình “Mặt trận giãi phóng miền Nam” dựng trại, phát hoang làm ruộng. Gã lè phè như bè trôi sông. Hồi mới tới U Minh mỗi tốp 10 người ngủ trong lều nilon, có đêm gió tốc mạnh mọi người thức dậy lo tu sửa căng lều lại. Gã vẩn nằm yên ngủ ngáy kho kho. Anh em cằn nhằn quá. Gã phân trần:

           -    Ngủ quên mà, sao không kêu tui.

      Ít lâu sau gã xin được một miếng nilon nhỏ che đủ một bên gần kế lều chung, để khi mưa gió, khỏi lo anh em cầu nhầu. Có hôm mọi người thấy gã ngủ với nửa người ướt nhem vì miếng vải che bị tróc một phần. Mặc kệ! Gã ngủ với cơn ngáy đều đều!!!

        Trong lao động hằng ngày hể gã đi chung với nhóm nào là các bạn trong nhóm nhăn mặt cười. Thế nào cũng phải gánh thêm để cho xong việc. Gã làm từ từ, đôi lúc nửa chừng than mệt, lên bờ ngồi vấn thuốc rê hút thở phì phèo. Anh em biết gã như vậy nên riết rồi cũng để mặc gã làm gì thì làm. Ai phàn nàn, nặng nhẹ, gã cười trừ: Làm gì mà dử vậy ông? Gã luôn từ tốn, hề hà không giận ai cho dù có bị nặng nhẹ, nên chẵng ai ghét gã được…?

        Công việc đi vào rừng sâu chặt cây và bè về để dựng trại thì được phân theo đầu người. Mỗi người mang về ba cây đước hoặc cây vẹt. Mỗi nhóm 10 người của ai nấy lo. Cây đốn xong dùng giây chạy cột lại và thả xuống lạch nước kéo về. Anh em đốn cây theo tiêu chuẩn, cây to, dài suông thỏng, còn gã thì chả cần miển có ba cây là được. Gã thả rề rề dưới nước và luôn luôn là người về rất trể. Có hôm anh em trong nhóm phải quay lại kéo phụ với gã về chổ tập trung. Có một lần vì không bó chặt, lúc kéo về bó cây bị sút ra, gã rị mọ cột lại, nhưng vì nước lớn cây trôi theo dòng chảy. Gã giử cây nầy thì cây khác bị trôi đi, phần vì không biết lội nên cứ loay quay mãi mà không gom được cây để cột lại. Một chị bơi chiếc ghe tam bản ghé lại và giúp gã thu gom. Chi kêu gã lên xuồng ngồi, be bó cây vào xuồng, chèo về hướng trại. Bàn tay gã bị xướt, máu chảy ướt đẫm, gã xé một bên áo cột rịt vết thương. Khi xuồng vào đến khúc kinh nhỏ gần khu vực trại. Chị bơi tấp xuồng vào bờ ra hiệu cho gã xuống xuồng. Chị nói: Em giúp anh tới đây thôi, em không được phép vào khu vực trại. Chị bảo: chờ em một chú, em đem đồ ra băng bó vết thương cho anh. Chị chống sào giử xuồng, lên bờ đi vào cái chòi lá mang ra một nhúm gòn, chai thuốc sát trùng và miếng băng vãi. Chị kêu gã đưa bàn tay bị thương ra. Chị dùng bông gòn thấm thuốc sát trùng chổ bị trầy, bôi vào một chút thuốc đỏ và băng bó vết thương cho gã. Chị làm công việc rất thuần thạo. Gã đoán chắc bà nầy làm y tá. Gã muốn hỏi nhưng thôi. Gã lại lí nhí nói cám ơn và lội xuống nước kéo bè gổ về điễm tập trung. Hôm nay gã là người về sớm hơn mấy người bạn, ai cũng hỏi: Sao hôm nay tài quá vậy? Gã cười mĩm không trả lời.

       Thời gian cứ trôi qua với những ngày những tháng tù đày nơi rừng U Minh. Lao động cực nhọc với mưa nắng, muổi, vắt, tuy nhiên ăn uống ở đây được tạm đủ nhờ rau hoang và bầy cá bạc ngàn đổ ra từ phía rừng sâu khi mùa mưa tràn đồng lênh láng. Hồi mới xuống đây vào đầu tháng tư, cơn mưa mới rỉ rả. Bây giờ cơn mưa đã tạnh, các láng trại được thành hình, mùa lúa gặt đã xong. Nông trường 30 tháng tư được thành lập.Tin tức chuyển trai đi nơi khác được anh em rỉ tay nhau…đi đâu…về đâu…??? Lại có tin đồn lần nầy trại sẽ thả một số người…Ai đây…???.Mọi đồn đại rồi cũng đi qua. Một hôm gã được gọi lên C với vài anh bạn khác. C trưởng cho hay toán nầy được cho về đoàn tụ với gia đình. Anh em trong nhóm ai cũng vui mừng, còn gã thì tỉnh bơ và nói với C trưởng:

-          Cho tôi ở lại được không cán bộ…?

-          Không được, có lệnh là phải rời trại.

       Gã làm thinh với mặt buồn buồn lầm lủi về láng. Anh em trong nhóm ngạc nhiên hỏi:

-          Ai cũng muốn về…còn mầy…điên hả!!! Gã cười méo mó và im lặng vấn

thuốc hút…Đó là cuối năm 1980.

         Ngày được thả về, tất cả nhóm hơn 12 người lên phòng họp của trại để làm lể và lảnh giấy lệnh rời trại. Tất cả mọi người ai cũng được thông báo cho thân nhân vợ con vào ký vào giấy bảo lảnh nhận chồng về. Chỉ trừ anh chẵng có ai. Ban chỉ huy trại hỏi anh, anh nói: Xin cho tôi ở lại nông trường, tôi không còn ai là thân nhân. Cuối cùng ban chỉ huy trại cấp cho gã một công rừng ngoài nông trường gần phía trạm xá. Khi được cán bộ trại chỉ cho gã miếng đất được cấp, gã nhìn cái chòi lá mà trước đây chị y tá băng vết thương ở tay, chỉ cách độ một vuông đất. Chuyện gã xin ở lại lan truyền khắp nông trường. Mọi người cho gã là thằng khật khùng mới chọn ở lại cái nơi cùn khốn nầy. Nhưng người vui nhất khi nghe tin gã ở lại là Lượm.

          Buổi sáng Lượm đứng trước cửa trạm xá nhìn mấy chiếc võ lãi chở mấy gia đình được cho về chạy ngang trước con rạch. Nàng nghĩ nếu gã mà có trong chuyến về nầy thì chắc nàng buồn lắm. Một cãm giác nôn nao truyền khắp cơ thể khiến Lượm mơ màng một đều gì đó không rỏ…. Lượm nghĩ trong những ngày sắp tới nàng sẽ còn được gặp gã. 

        Cuộc đời nàng rất hẫm hiu đau buồn, từ nhỏ tới giờ có khi nào nàng được cái cãm giác như bây giờ đâu. Mới 10 tuổi nàng đã mồ côi mồ cút vì ba má chết trong trận chiến Mậu Thân. Mười lăm tuổi đã vào đội giao liên. Nàng được nhào nặng hận thù Mỹ, Ngụy, học tập chiến đấu hy sinh theo các gương anh hùng mà nàng chỉ nghe thôi chớ chưa thấy tận mặt. Từ ngày vào đội giao liên tới giờ cứ luồn lách, chốn trui chốn nhủi khi lính đi càn. Nàng chỉ nghe báo cáo thành tích diệt địch, nhưng chưa bao giờ tham gia trận đánh nào.Trình độ thì chỉ nhá nhem đủ để có thể đọc được các chỉ thị công tác. Một hôm trên đường đi công tác với một anh bạn. Lính càn nhiều quá, hai đứa chém vè ở một cái hầm chìm dưới đám dứa gai. Cái hầm chật nứt hai đứa phải áp sát nhau suốt buổi. Hơi nóng hai cơ thể cứ như rang rang truyền vào nhau. Có lúc hình như thằng bạn để tay vào ngực áo đang bật khuy gần hết. Lượm vờ như không biết nhưng thấy rộn rả một thứ gì đó rất mơ hồ, cổ họng nàng như khô, nước miếng chực chờ chảy ra. Nàng nuốt một cái ực vào. Thằng bạn thấy nàng để yên nên làm tới. Nó đưa tay luồng xuống thấp và thấp hơn. Không biết tại sao nàng vẩn để yên cho nó làm gì thì làm. Buổi tối hôm đó khi vừa ra khỏi miệng hầm thì nó đè bật Lượm ra trên miệng hầm…Nàng nằm im, một lúc Lượm nghe gió thỗi lạnh khắp người, nàng ôm riết nó sát hơn…nàng tê dại và cãm thấy đau nhói như có một cây gai nhọn vừa đâm vào phía dưới…Tối hôm đó du kích xã phải đốt rọi đi tìm. Hai đứa rón rén về chòi canh. Mỗi đứa nằm một gốc ngủ say.

      Vài tháng sau, cũng trong chuyến công tác giao liên. Khi lính bố ráp. Lượm nhanh chân trốn được dưới hầm trú, nhưng thằng bạn bị bắn phơi thân ngoài đám dứa gai. Thấy cái xác bị bắn lòi ruột Lượm trừng trừng nhìn nó rồi bật khóc. Những ngày tháng sau đó Lượm ăn nằm hết với chủ tịch xả, tới xả đội trưởng. Hình như họ biết Lượm ăn nằm với thằng bạn du kích hôm đó. Họ tạo điều kiện đề gần nàng. Hình như nàng cũng hực nóng khi nghĩ tới chuyện làm tình. Nàng sẳn sàng nằm ra khi có cơ hội. Thật ra mấy anh ở trên cứ tạo cơ hội để được ngủ với Lượm. Các anh nói: Ủng hộ sinh lý cho các anh cũng là một công tác. Lượm tin như vậy, cho nên chuyện ăn nằm với mọi người là chuyện giống như thi hành nhiệm vụ. Sự ăn nằm quen dần cho đến nổi Lượm không biết cái thai chình ình càng nở to ra của nàng tác giả là ai. Lượm có bầu thì bị lôi ra xử lý. Chính anh Tư Hồng chủ tịch xã đã ngủ với Lượm không biết bao lần. Anh gay gắt phê phán trước buổi họp kiễm điễm nàng: Đồng chí đã làm mất tư cách một cán bộ cách mạng. Anh nhấn mạnh: Phụ nữ cách mạng luôn trong sạch để làm gương cho chị em trong đoàn ngũ, chưa có gia đình mà để có bầu là vi phạm điều lệ… Vợ của Tư Hồng là chủ tịch hội phủ nữ cách mạng, sau khi kiễm điễm gay gắt chuyện nàng có bầu và cuối cùng chị đề nghị thuyên chuyển Lượm sang cơ quan y tế khi sinh nở xong. Sau nầy Lượm biết được là bà vợ của Tư Hồng nghe phong phanh chuyện anh có ăn nằm với Lượm nên nhân cơ hội nầy đẩy Lượm đi xa. Còn Tư Hồng thì thở ra nhẹ nhõm.

          Lượm bị sẩy thai trong một chuyến đi công tác.  Nàng được nằm tại bệnh xá huyện và chuyển đi học y tá vài tháng thì ngày ba mươi tháng tư đến.

          Chuyện gần đàn ông của Lượm như một đòi hỏi của cơ thể chứ không có một chút tình cãm gì ở trong đó. Ăn nằm xong thì nàng lồm cồm ngồi dậy mặc quần áo và mạnh ai nấy đi. Cho tới khi gặp được gã. Một người tù cãi tạo làm lì, hiền hậu, ăn nói từ tốn. Khi gặp nàng gã dững dưng chẵng nhìn nàng như mấy lão ở trong nầy, khiến nàng cứ muốn lấn tới với gã trong nỗi xuyến xao kỳ lạ. Lượm thường đứng nhìn gã kéo gổ dưới lạch nước trước trạm xá với cái vẻ cô độc kham khổ thấy mà thương. Nàng tìm hiểu và biết gã chẵng có ai thăm nuôi. Nàng đoán chắc gã chưa vợ con nên đâm lòng yêu thầm.

          Khi cái chòi lá của gã khởi công thì mọi người trong trại phụ dựng nhà cho gã, chỉ trong hai ngày là xong. Miếng đất được nông trường cấp cho gã một công gần khu trạm xá cho nên Lượm có nhiều cơ hội đến giúp gã nhiều việc. Ngày tháng trôi qua, khi thì nàng mang cho gã một vài món ăn, vá cho gã manh áo rách…nhưng chưa bao giờ nàng nói được cái đều nàng nghĩ trong đầu. Lượm nói thầm: Đàn ông gì mà kỳ lạ…mình muốn ảnh mà ảnh ...cứ lơ lơ chẵng để ý gì hết ráo…

          Một buổi tối, Lượm nhìn qua kẻ hở của chòi tắm, thấy phía nhà gã chưa thắp đèn. Nàng quơ bộ quần áo mặc vào và thắc mắc: Cái anh nầy đi đâu, tối mò mà chưa zdìa để nhà tối om. Trạm xá cách nhà gã một vuông ruộng nhỏ cho nên nàng hay châm chú theo dõi sinh hoạt đi đứng của gã hằng ngày. Có hôm thấy gã ở trần trùn trụt phơi cái lưng vạm vở với màu da trắng muốt. Nàng thấy nôn nao một ham muốn dâng tràn, toàn thân nàng nóng rang. Luợm ước gì được nằm sát với gã. Khi ấy nàng nhấm mắt mơ màng nghĩ đến một một dòng ái ân tràn ngập trong đầu… Lượm quyết định sang nhà gã xem gã có ở nhà không? Trời mới nhá nhem tối nhưng Lượm cũng cầm theo cây đèn pin. Bước ra khỏi trạm xá, cơn gió chiều hôm thổi lùa, nàng nghe lành lạnh ở vùng ngực. Lượm chợt nhớ ra mình quên mặc áo lót. Nàng đưa đôi tay bắt chéo trước ngực khi đứng trước cửa nhà gã. Nhà tróng trơn không có cửa trước. Nàng nhìn suốt vào nhưng chẵng thấy ai bên trong. Lượm đi vòng ra phía sau, thì bất chợt nhìn thấy gả vừa mới ở dưới mương nước bước lên.Toàn thân trần truồng. Một bóng trắng chập chờn trước mắt. Nàng vội trở ra phía trước gọi: Anh ơi có nhà không, sao nhà tối om zdậy? Gã nghe nàng gọi thì vội đi ngay vào nhà lấy bộ đồ bà ba đen mặc vào và nói vói ra: Có tôi…chờ chút nha ?  vừa nói gã vừa mò tìm cái ống quẹt mồi cây đèn. Căn nhà sáng lên. Lượm đứng ngay khung cửa. Ánh sáng làm lộ thân hình người con gái với bộ đồ bông hường nhô cao đôi vòng ngực. Gã tằn hắn:

                 -   Có gì hong cô Lượm.

                 -   Thấy nhà tối em tưởng anh không có nhà nên đi qua coi thử anh zdìa chưa?

                 -   Tôi tắm ở dưới mương nước phía sau nhà.

          Nàng vờ như không biết gì và nói: zdậy mà em tưởng anh đi đâu? Nàng bước hẳn vào bên trong. Nhà tróng trơn chưa có bàn ghế gì ráo. Gã nói: Cô ngồi lên gường đở. Lượm ngồi lên mép gường nhìn quanh quất căn nhà rồi nói: Mai em đi chợ mua đồ cho trạm, chắc em mua cho anh một ít đồ xài, anh cần món gì cho em biết. Gã đứng xớ rớ một gốc nhà nói: Chưa biết cần gì nửa cô ơi?. Lượm dượm người đứng lên bước vài bước, rồi nhìn trước, ngó sau xem có gì mua được cho gã đây? Nàng chột dạ nói trong lòng: Nhà thiếu đàn bà có khác và cãm thương cho gả một cách chân thành. Lượm hỏi:

                 -    Anh ở như vầy…hỏng ai lo cho anh hết.

                 -    Tui quen rồi cô.

                 -    Em muốn lo cho anh...lo hoài hoài được hôn? 

         Gã xua tay:

                 -    Không được đâu. Cô là cán bộ, tôi là tên tù mới được thả ra...nếu người ta biết cô lui tới như thế nầy có hại cho tui. Tui cám ơn sự lo lắng và sự giúp đở của của cô.

         Lượm trân trân nhìn gã và nói:

                  -   Anh...! em thương anh mà. Không ai có quyền cản ngăn em hết á! Em là một người con gái...không là cán bộ gì ráo, em chán cái luận điệu của mấy ông trong bưng nầy lắm rồi. Thời gian qua nhìn các anh sinh hoạt mọi người ở vùng nầy đều biết các anh là ai...là những người tử tế chứ không như những điều bôi xấu mà em và các người ở đây nghe về các anh... Dường như có một cơn sục sôi bùng cháy trong lòng. Lượm bước tới ôm chầm lấy gã và nói: Em thương anh!. Mùi thơm bồ kết từ mái tóc mới gội của nàng cộng lại với sự cọ sát vòng ngực nóng ran làm gã boàng hoàng lo sợ hơn là cãm xúc... gã vội tỉnh trí đưa hai tay lên hai vai nàng đẩy nhẹ ra và nói: Không được đâu...cô về đi...! Không được đâu....! Bỏ Lượm đứng khóc trong nhà, gã chạy ra phía sau ... Cánh đồng mênh mông loáng nước trước mặt gã đã tối sầm. Gã khom lưng vóc một bụm nước úp vào mặt.



           Vào một buổi trưa ngày..  tháng ...năm  1984 một chiếc võ lãi chở một thiếu phụ sang trọng và hai người con tấp vô trạm xá. Người tài công bước lên hỏi Lượm nhà của anh T.... ở đâu? Lượm nhìn xuống chiếc võ lãi, lòng tự hỏi: Ai zdậy kìa???

            Khi chiếc võ lãi tấp vô nhà của gã. Lượm ra đứng ngoài sân bệnh xá nhìn sang đấy, thấy gả chạy ra ôm chầm lấy người thiếu phụ, còn hai đứa nhỏ thì kêu ba ơi ba...! Gã quay sang ôm hai đứa nhỏ hôn lấy hôn để... Tất cả gia đình gã di tản sang sống ở Mỷ. Sau khi liên lạc được với những người bạn còn ở Sài Gòn có chồng bị tù ở vùng U Minh. Vợ gã biết gã còn ở Năm Căn. Chị xuống Cà Mau dò la tin tức và biết gã đang ở nông trường Thống Nhất. Hôm nay chị mướn chiếc võ lãi vào rước gã về.  Lượm đứng như trời trồng và ôm mặt khóc: Trời ơi! vợ con của ảnh!!!!!

            Chiều đó chiếc võ lãi quay mủi chạy ra khỏi nông trường, đi ngang trạm xá. Gã nhìn vào một lúc rồi vội quay mặt về phía vợ nói: Anh có nhiều kỷ niệm với cái trạm xá nầy. Người thiếu phụ nói: Vậy hả...? Chiếc võ lãi chạy khuất ra vàm kinh lớn. Tiếng bành bạch của chiếc  máy đuôi tôm dội trong Lượm nỗi đau xót tận cùng buồn bã.  Anh đi thật rồi! Em mất anh thật rồi...!Nàng đứng khóc một mình trong buổi chiều U Minh lặng lẻ.



            Bẵng đi một thời gian rất lâu. Lúc nầy Lượm làm y tá cho một bệnh xá ở huyện...Một hôm nàng nhận được một món quà từ bưu điện. Đó là một sợi dây chuyền bằng vàng với hai trái tim kề nhau, kèm thêm có bức thư của gã bất cần năm nào gởi từ Mỹ về.



                                                    Cali..ngày... tháng....năm......



               Lượm thương mến,

        Tôi hiểu rỏ tấm lòng của em dành cho tôi và luôn ghi nhớ những sự giúp đở của em trong những ngày tháng ở rừng. Chiếc võ lãi chở vợ con của tôi vào ngày hôm đó cũng là một bất ngờ cho tôi. Trong cơn biến động trước ngày 30 tháng tư năm 1975. Gia đình tôi  lo di tản trước đó vài ngày.Vợ tôi từ Sài Gòn xuống Chương Thiện ngày 28 tháng tư để đón tôi về cùng di tản ra hạm đội Mỹ, nhưng không gặp được tôi. Mọi người trong gia đình tôi đã ra đi trong lúc chúng tôi được lệnh tử thủ của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Chúng tôi đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng...và rồi những gì em biết sau đó. Chúng tôi đành thua trận. Người anh đầu đàn của chúng tôi hiên ngang gục chết trước pháp trường. Tôi mất liên lạc với gia đình và không biết họ về đâu trong cơn biến động đau đớn đó. Tôi đành chịu số phận chung cuộc của những người bại trận. Chúng tôi hèn nhát hơn vị Đại tá của chúng tôi! Chúng tôi buông súng, nạp mình cho kẻ chiến thắng là phía của em. Tôi phó đời trong bất cần số phận...và cuối cùng tôi gặp lại vợ con trong bất ngờ như chiêm bao. Tôi cám ơn ơn trên đã cho tôi hồi sinh được cuộc sống và xin cám ơn em đã tân tụy giúp tôi trong cơn khốn cùng đã qua. Tôi nhận biết rằng: Từ trong trái tim yêu thương chân thành thì không có lòng thù hận. Xin gởi em món quà từ đất Mỹ. Mong em vui lòng nhận cho, trong đó có tấm lòng của tôi.

                                                               

                                                                          Thương mến,

                                                                            Lê văn T...

         Riêng Lượm từ hôm nhận được quà và thư của gã nàng khóc thật nhiều. Sau đó nàng rời bỏ bệnh xá. Người ta không biết nàng đi đâu...?


(Hội Ái hữu Biên Hòa )
Back to top
« Last Edit: 16. May 2010 , 23:41 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #118 - 18. May 2010 , 15:55
 
Về thăm Quê  Hương






Ai đã từng về thăm quê hương? Về Quê Hương để vui chơi hưởng thụ hay để tìm hiểu sự phát triển và cuộc sống thực của bà con mình? Kính mời (nhín chút thời giờ) đọc "Về Thăm Quê Hương" để cùng cảm nhận và chia xẻ. 
Về Thăm Quê Hương

Theo dõi và tìm hiểu về tin tức quê nhà từ mấy năm qua, nhiều tin đem đến cho tôi cảm thấy vui, và cũng quá nhiều tin nghe qua cảm thấy đau lòng, thất vọng. Việt Nam, một đất nước đã trên ba mươi năm được gọi là “giải phóng”, đã yên bình, vậy mà người dân nghèo nàn cơ cực. Đó là tin ghi nhận từ nước ngoài. Còn tin từ trong nước thì: Việt Nam đã phát triển nhiều, người dân đã có ấm no, bây giờ thi nhau để hưởng thụ, để làm giàu.
Mấy người bạn về VN (mỗi năm) ung đúc:
-Anh thử về Việt Nam một lần cho biết. Tha hồ mà ăn chơi, hưởng thụ. VN bây giờ thay đổi nhiều, cởi mở hơn, khấm khá hơn, đẹp đẽ hơn, không như những ngày lầm than cơ cực như thời 10 năm trước đổi mới nữa đâu.Về Việt Nam mà vui chơi…
Qua 13 giờ 40 phút, trên một thân tàu với chổ ngồi vừa đủ chật để xoay trở thân mình và ngã lưng ngủ chập chờn khi mỏi mệt, chuyến phi cơ China Airline đến Đài Bắc. Trên 300 hành khách, đa số là dân Châu Á, và đông nhất là Việt Nam.
Phi trường Taipei trong buổi bình minh lành lạnh. Cái lạnh tương đương với Cali của Hoa Kỳ. Không khí thoáng mát. Hít thở và cảm thấy khá thoải mái trong người. Thời gian cũng không có nhiều để thư thả ngắm nhìn. Cũng tất bật và vội vàng theo dòng người, cùng những thủ tục kiểm soát để chuyển đi một chuyến bay khác.
Viet Nam Airline, với những người cùng quê hương xứ sở.
Tiếp viên hàng không Việt Nam, đã từ lâu - từ sau 1975 - được tiếng là “thiếu nụ cười”. Lần về thăm quê hương tôi cũng có ý mua vé đi VN Airline cho biết. Dẫu sau thì cùng chung là Việt Nam thì đi HKVN cũng là nghĩa cử đóng góp cho đất nước của mình.
Qua những phút ban đầu gặp gở, tôi để ý và có nhận xét rằng: quả các anh chị của VN Airline hơi khó. Khó có nghĩa là cẫn thận và theo nguyên tắc, qui củ hẵn hòi thì cũng là đáng được hoan nghênh. Tuy nhiên, không hẵn vậy. Khó ở đây là tạo ra nhiêu khê, nhiều rắc rối để “người ta” (hành khách) phải e dè ngán ngại các nhân viên.
Kiểm soát giấy tờ, các anh, chị khá là cẫn thận, đến độ chậm chạp. Kiểm soát hành lý, theo qui định không sai chạy một ly. Các hảng hàng không khác thì không thấy, riêng HKVN thì qui định hành lý xách tay là kích cở của một cái khung (hộp) khối chữ nhật. Lớn hơn là bị chận lại không cho qua – đi qua theo một lối khác, và rồi cũng “lọt”, vẫn cho đi.
Một người cùng đi chung khá lanh lợi, lão luyện. Anh đã đi máy bay hà rằm, đi khắp các hảng Airline quốc tế, với cái va ly kéo, gọn, vừa, là hành lý xách tay anh đi khắp các nơi không bị chận. Khi qua ngõ VN là anh bị chận lại không cho qua. -Hành lý này quá cở qui định, phải được ký gởi. Một anh nhân viên VN Airline phán rất là rõ. Mọi người lần lượt qua đi, anh ở lại, được mời qua một quầy khác chờ lệnh.
Anh cự nự, anh phản đối, anh nói đã đi nhiều hảng hàng không, không bao giờ bị rắc rối như vậy, cũng với cái va ly xách tay này. HKVN lại qui định khó khăn thế?
Mặc cho anh phân trần phản đối (thái độ không xin xỏ, năn nỉ), người nhân viên vẫn lạnh lùng: Yêu cầu anh cho kiện hành lý qua phòng bên chờ giải quyết. Một vài anh khác đồng cảnh cũng theo anh.
Sau đó, trước giờ phi cơ cất cánh, các anh cũng có mặt để cùng đi. Hỏi ra, mỗi người mất 10 đô la – không phải đóng phạt sai qui định, mà là tiền phải quấy và thông cảm. Các anh thông cảm hay HKVN thông cảm thì không rõ.
Đoàn người lần lượt lên cửa phi cơ. Tại mỗi cửa bên lối đi, các cô tiếp viên mặc áo dài đỏ thẩm đứng để soát vé và hướng dẫn. Vẫn gương mặt điềm tĩnh, uy nghiêm – không có nụ cười. Các tiếp viên làm việc như robo người máy. Đúng ra, các “người máy” thỉnh thoảng cũng cười, nhưng cười với mấy người khác như: Mỹ, Đại hàn, Mã lai, Nhật…
Một anh bạn Việt kiều Mỹ, lịch lãm, tỏ ta đây là kẻ “ga lăng” cầm chiếc vé vừa đưa vừa nhoẻn miệng cười - cười cầu duyên? – Anh thất vọng, ngẩn tò te vì bộ mặt (khả ái) khá nghiêm nghị, không cười, chỉ hất hàm: ông đi theo lối này. Anh tức, thốt một câu (có lẻ) chỉ có mình tôi đi sau nghe: Địt mẹ.. chãnh.
Khá chật vật giữa hai hàng ghế, tôi tìm số ghế cho mình. Và cũng vất vả để đưa, nhét túi hành lý vào một khoang hộc trên một bệ cao.
-Bác bỏ hành lý nhanh lên, bao người đang chờ. Một cô tiếp viên vừa nói và cũng giúp tôi giữ cái hộc cho khỏi bật lên.
-Cám ơn cô. Cô yên lặng bỏ đi.
Ngồi vào ghế, yên vị, tôi cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng. Khỏe cái thân khi vừa trải qua những giây phút chật vật. Những người khác còn đang tiếp tục chen chúc, bận rộn. Tôi có cơ hội ngắm nhìn, quan sát mấy “cô nàng”.
Tiếp viên VN Airline cũng trẻ đẹp – đây là điều hẵn nhiên, đâu cũng thế. Chiếc áo dài màu đỏ thẩm cũng làm nỗi bật giữa mọi người. Huy hiệu là hình đóa hoa sen (chỉ với đường nét đơn điệu). Hoa sen tượng trưng cho tinh khiết, thanh nhả. Một hình ảnh mà từ xưa nay ở Việt Nam ta là tượng trưng cho Phật giáo. Bây giờ, có thêm HKVN dùng hình ảnh hoa sen, có lẻ cũng là nói lên trong sạch thanh cao. “Trong đồng gì đẹp bằng sen…” Bài học thuộc lòng cho bất cứ ai… mãi đến bây giờ, tôi vẫn không quên. Nhìn đóa hoa sen, tôi y như rằng (phải) nhớ đến quê hương, vì quê tôi là… Đồng Tháp.
Ngày trước - trước 1975. Hồi thời VNCH, VN Airline của Nam Việt Nam là áo dài xanh (xanh lá cây) và con rồng vàng trên ve cổ áo. Cũng tha thướt, cũng duyên dáng, và nhìn cũng nỗi chẳng thua gì hình ảnh của bây giờ. Màu xanh của dịu dàng tươi thắm, màu xanh của thanh bình, yên vui, dầu rằng quê hương đất nước đang thời loạn lạc chiến tranh. Và con rồng vàng nho nhỏ hai bên ve cổ áo dài đã là nỗi bật. Đẹp…đẹp làm sao! Vậy mà yểu mệnh. Bây giờ, nhớ lại, chỉ còn là hình ảnh và nét đẹp của một thời.
Hôm nay, chiếc áo dài màu đỏ thẩm với đóa hoa sen. Hai hình ảnh với hai màu sắc khá là tương phản, nó đang hiện diện đi khắp nơi khắp chốn giữa thời bình. Ôi! Dẫu gì cũng là vẻ đẹp. Tôi hân hoan mong tìm nét đẹp, nét duyên dáng của các Airline Stewardess của đất nước quê hương mình.
Sắp tới giờ phi cơ cất cánh, các tiếp viên đều chĩnh tề từng vị trí trong việc phục vụ, lưu ý, nhắc nhở các hành khách trên tàu. Cô tiếp viên ngồi trước mặt chúng tôi trông khả ái lắm. Nàng đẹp, nàng trẻ, nàng cũng duyên qua chiếc áo dài truyền thống Việt Nam. Có điều ra vẻ khá nghiêm trang, nghiêm nghị. Vẻ mặt trang trọng, không có nét cười, nàng ngồi vào ghế ở một mé cửa (qua lại) cài thắt dây an toàn, đăm chiêu nhìn thẳng về phía mọi người. Ước gì nàng tươi vui lên thì đẹp và tạo cảm tình biết mấy.
Tự dưng tôi liên nghĩ đến vẻ nghiêm trang của người Cộng Sản – đúng ra là nghiêm nghị -  Mấy anh CS lúc nào cũng tỏ ra nghiêm trọng trước mọi vấn đề. Và vì thế mà tư cách lúc nào cũng cố tỏ ra là nghiêm nghị. Nghiêm nghị để cho người ta nể vì? Thường là như vậy, và đã trở thành cái thói, cái tật trước mọi vấn đề, trước bất kỳ ai. Nghiêm nghị cũng để chứng tỏ là “ta đây” hay lắm, giỏi lắm, quan trọng lắm, trước những cái mà cảm thấy là mình còn dở, còn dốt. (Việc này, nếu có dịp sẽ phân tích, nói đến, khá dài dòng).
Âm thanh cũng được phát ra dặn dò (theo qui tắc) những gì cần giữ, cần làm, cần tuân theo khi trên phi cơ. Sau đó thì… ai nấy bình thường.
Máy bay boing 737, loại trung bình, có thể chở trên 300 hành khách, nhưng hôm nay, chuyến từ Taipei về SGN hành khách độ khoảng phân nữa. Đa số chổ ngồi còn trống.
Hàng không VN, đường bay quốc tế, bình thường nghe nói cũng ít người đi vì sức cạnh tranh còn thua kém. Ngoại trừ đường bay quốc nội thì tha hồ độc quyền. Thời gian này, kinh tế khó khăn, hành khách lại càng ít. Vì thế, hôm nay rộng, càng thoải mái. Có một số ngã ghế thay vì ngồi lại nằm. Các tiếp viên cũng không nói gì.
Đa số hành khách là Việt kiều – VK Đài Loan và VK Mỹ - Những người Việt Nam xa quê hương đất nước, gặp nhau cũng cảm thấy vui. Ngồi bên nhau làm quen và bắt chuyện thăm hỏi thân mật.
Riêng các tiếp viên thì hầu như đa số (đối với hành khách đồng hương) vẫn có khoảng cách. Nếu có gì thì hỏi, được trả lời, và rồi… hết chuyện.
Bao nhiêu năm xa cách quê hương, bao nhiêu năm xa vắng người cùng một nước, những tưởng gặp nhau là tình cảm dạt dào, là cởi mở, là săn đón, là thiết thân, là trao nhau những thân thiện chân tình… Nhưng mà không khí (thân quen) cảm thông nhau đang như có gì giữ ý, giữ kẻ và gượng gạo.
Máy bay cất cánh, an toàn, hướng về phía Nam, bay về mảnh đất hình cong chữ S quê nhà. Lòng tôi cảm thấy nôn nao rạo rực.
Thời gian chờ đợi, cũng là cơ hội để làm quen và nói chuyện cùng nhau. Anh chị, cô cậu xa nhà bao lâu? Có thường về Việt Nam không? Quê hương mình bây giờ ra sao so với trước? Không khí trong khung cảnh chật của con tàu cũng cởi mở vui vui. Các tiếp viên vẫn qua lại, lui tới, gương mặt vẫn bình thản ít nói, ít cười. Đa số là dân Bắc.
Một anh (cũng là Việt kiều Mỹ) muốn làm quen, gợi chuyện:
-Cô ơi, miền Bắc bây giờ so với miền Nam phát triển lắm không cô? Nơi đâu là vui đẹp nhất?
-Ông về đi thì biết. Bây giờ, ở đâu cũng đẹp, cũng phát triển nhiều so với trước.
-Cô vào làm việc đã lâu chưa cô? Và xin lỗi, tôi hơi tò mò, xin vào làm tiếp viên hàng không có khó lắm không cô? Một bà ngồi kế bên hỏi.
-Cũng không khó lắm đâu bác ạ, nhưng cần có sự quen biết giới thiệu. Cũng cần khá ngoại hình và ngoại ngữ. Cháu mới vào làm việc cho hàng không được 2 năm.
Cũng có cởi mở chuyện trò đấy! Người con gái quê hương! Tôi nghe mà thấy mừng thầm.
Một cô già hơn (có lẻ là “sếp”) vừa đi tới:
-Loan, đi lo công việc, không phải tiếp xúc lắm thế. Giọng chua như giấm.
Cô tiếp viên Loan lịch sự chào và đi. Tôi nhìn theo có phần tiếc nuối. Câu hỏi lởn vởn trong đầu. Đồng hương gặp nhau mà sao không cần thì giờ để cùng nhau chia xẻ - một ít phút cùng thăm hỏi chuyện trò?
Tôi đi lavatory, đứng vào hàng get line chờ đợi. Thời gian chờ khoảng 10 phút, tôi chứng kiến chính cô nàng vừa ra lệnh: “đi lo công việc, không phải tiếp xúc nhiều” lại đang búa xua nói chuyện với với một ông hành khách Đại Hàn và một thanh niên Mỹ. Nói cởi mở, nói không thấy dứt.
Có chăng là mặc cảm hay kỳ thị? Lại một câu hỏi. Hỏi thầm.
Một anh bạn, qua kinh nghiệm đã nói: Các tiếp viên hàng không VN hách cũng có mà mặc cảm cũng có. Hách vì nghĩ ta đây hơn người. Tiếp viên ở trên mây, trên trời mà! Mấy ai được vậy? Và cũng mặc cảm (tự ti) đối với Việt kiều – đa số là thành phần (cả con cháu) trước đây là thua cuộc, chẳng ra gì, bây giờ là làm nên danh phận. Những thành đạt này, so với dân Bắc (XHCN) họ kém thua xa – xa mọi mặt - Tiếp xúc với VK, dẫu sao cũng thấy ngỡ ngàng. Khó mà vênh váo. Khó mà kênh kiệu.
Tôi nhớ trước đây - thời gian sau 1975 – cũng có gặp, có tiếp xúc dân Bắc vào Nam. Đi đâu cũng nghe lời khoe khoang, khoác lác, kênh kiệu là hay, là giỏi, là hơn hẳn mọi người. Giọng điệu tự hào, cao ngạo một cách mù quáng, trơ trẻn không biết ngượng. Chả lẻ bây giờ, sau hơn 30 năm, đám con cháu của hạng “đỉnh cao trí tuệ” này, trong tư duy lại chưa có gì thay đổi?
Tránh. Không nên tiếp xúc chuyện trò thân mật với Việt kiếu về nước với mục đích, lý do gì? Sợ biết sự thật? Sợ tuyên truyền? Sợ diễn biến hòa bình? Hay sợ có được học hỏi để mở mang tầm nhìn và kiến thức?
Loài đà điểu có cái tính trời cho gặp bất trắc là chui đầu vào cát, không còn biết và thấy chi hết để chứng tỏ là mình khôn khéo, an toàn?
Sàigon khói, Sàigòn bụi, và Sàigòn lái xe loạn xà ngầu.
Quê hương ta đây rồi! Chiếc máy bay nghiêng cánh, lướt một khoảng rộng qua vùng Cát Lái, Thủ Thiêm, Hóc Môn, Gò Vấp… và hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất. Những phút giây ngắn ngủi, những hình ảnh lướt nhanh san sát qua ô cửa phi cơ. Nhìn mà nôn nao, nhìn mà rơi nước mắt.
Hình ảnh của quê hương mến yêu. Dù rằng bây giờ đã thay đổi, dù rằng hôm nay đã lạ lùng. Nếu không có một vài hình ảnh của thiên nhiên: con sông uốn lượn, ngọn núi, thế đồi,… tôi có thể lầm tưởng đến một vùng nào xa lạ. Rõ là Sàigòn đã thay đổi, thay đổi quá nhiều.
Ba mươi lăm năm, một đất nước thay chủ đổi ngôi. 35 năm, một quảng đời mất mát, và 35 năm Sàigòn biến dạng không ngừng…
Sau hơn một giờ làm thủ tục nhập cảnh, một hình thức kiểm tra và kiểm soát cũng khá là bề bộn nhiêu khê của hải quan. Người người thì đông, như dòng nước lũ tuông đổ vì cùng một lúc có 3 chuyến bay hạ cánh. Hơn 10 hàng get line chờ đợi - chờ đợi mỗi dãy một hàng dài. Vậy mà những “con rùa” hải quan vẫn dậm chân đều bước. Thủ tục giấy tờ cũng khá kỹ không thua gì Hoa Kỳ xét tra khủng bố.
Từ vài năm gần đây, người ta nói hải quan tại Tân Sơn Nhất của CHXHCNVN đã thay đổi và tiến bộ, không có vòi vĩnh tiền bạc, không hạch sách tra vấn khó khăn. Có lẻ cũng là tiến bộ thật, vì tôi không thấy ai đúc lót tiền. Nhưng chắc chỉ một phần. Dù sao đã có tiến bộ là mừng.
Hai vợ chồng Việt kiều Mỹ trình giấy trước tôi (cách 5 người), tự nãy giờ (hơn 20 phút) vẫn chưa xong. Nhân viên CA hải quan hết lật cái này, xem cái khác, hỏi han mọi lẻ kể cả điện thoại liên lạc đâu đó. Mọi người chờ mà sốt ruột. Sau cùng, bà vợ được cho qua và ông chồng đi theo một CA về hướng khác.
Thật ái ngại vô cùng. Kiểm soát kiểu này tôi cũng cảm thấy lo. Bao nhiêu năm viết lách tầm phào, không biết mình có phải lọt vào “tầm ngắm”?
Tiếp tục người kế tiếp 1, 2,3,4,5. Cũng may là tốc độ nhanh hơn. Tới tôi. Cảm thấy hơi lo, hồi hộp.
Lật, xem giấy tờ, ghi chép, đánh vào computer, nhìn mặt mũi và hỏi han đôi lời. Mọi thứ đều suông sẻ. Vẫn nét mặt nghiêm trang. Ước gì có nét tươi vui cho người đối diện đở khổ.
-OK, về quê hương vui vẻ. Hú hồn, mô phật! Tôi cám ơn và lẹ làng xếp giấy tờ cho vào túi, quảy túi xách đi ra.
Sàigòn khá là nóng. Vả lại, từ vùng xứ lạnh đi về, cái nóng của SG lại cảm thấy nóng thêm. Chiếc taxi rời khỏi phi trường chở tôi đi một vòng (theo yêu cầu) để tôi nhìn ngắm Sàigòn ngày trở lại.
Qủa là đông, so với trước thì có thể nói là gấp đôi, gấp ba nhân số. Sài gòn phát triển? Có phát triển thật sự với những dãy nhà cao tầng san sát, rải rác từng khu, từng vùng, bung rộng  ngoại thành theo lối kiến trúc nhiều kiểu đẹp đẽ, lộng lẫy. Tuy nhiên, bên cạnh và ngay bên dưới những cái nguy nga, lộng lẫy, đồ sộ, vẫn còn không ít những căn nhà sập xệ, những “ổ chuột” bên kênh rạch dòng nước đen ngòm.
Còn đâu là “hòn ngọc viễn đông” của thời xưa cũ! Còn đâu dáng dấp những tà áo phất phơ bay dưới những hàng sao, hàng me tàng cao râm mát khi gió về từng đám lá rụng rơi lả tả. Sàigòn bao đời thật sự không có mùa thu lá  vàng (vì ở vùng nhiệt đới), nhưng vẫn lá rơi ngập đường, vươn vải, lất phất - một hình ảnh đẹp như thơ. Sàigòn thoáng, mát, không nồng nặc, oi bức như bây giờ. Qua các đường phố, đường nào cũng vậy, có nhiều đường trở thành đại lộ khang trang và đẹp - như một đoạn của Nguyễn thị Minh Khai (cái tên của chế độ tô vẽ tự hào) thay thế Hồng Thập Tự - vẫn còn rất nhiều đường nhỏ và quá là chật. Và đâu đâu đều tấp nập xe đủ loại, nhiều nhất gắn máy hai bánh. Không thấy bóng dáng chiếc xích lô - một hình ảnh đặc trưng, thanh lịch giờ đã không còn – Sàigòn lái xe, mạnh ai nấy chạy, nấy lao, lách, rất đúng nghĩa là “loạn xà ngầu”, thấy mà thót tim, chóng mặt. Vậy mà cũng ít gây tai nạn. Hai xe chạy vun vút, cảm tưởng như có thể đâm vào nhau, khi tới gần thì rất nhanh cả hai đều “lách”, lách sang hướng nào lách được là cứ lách, cứ đi.
Xe cộ hầu như chạy không theo luật lệ thông thường mà theo lối phản ứng tự nhiên, theo phản xạ. Phải chăng nhờ vậy mà tránh được tai nạn? Người ta nói, lỡ khi có tai nạn thì cự, cãi, mạnh được yếu thua?
Lâu lâu mới thấy vài chú cảnh sát giao thông. Lượng xe chạy đông và “loạn” như vầy, nếu ở Mỹ, chắc phải hằng trăm CSGT cho mỗi khoảng đường. Sàigòn, còn thiếu kém, thì làm sao có đủ? Người ta (cũng nói) CSGT đứng là đứng cho có vẻ, phạt thì cũng phạt, nhưng phạt để “làm tiền”?
Sàigòn bụi? Bụi thì khỏi phải nói. Các công trình gọi là thi công làm đường đầy dẫy khắp nơi và không bao giờ dứt. Đa số dân đi xe đều bịt khẩu trang đủ thứ, đủ kiểu. Người giàu thì khẩu trang đẹp, người khá, khẩu trang bình thường. Người không khá thì khăn trùm cả mặt, cột túm phía sau, chỉ chừa hai con mắt đeo kính râm giống như điệp viên.
Hòa chung với bụi là khói, khói từ hàng ngàn ống “pô” tự do mà phun, mà xả. Xin đừng cho là nói xấu, xuyên tạc, có ác ý. Những hình ảnh trên internet nói về Sàigòn đã được thấy nhiều. Bây giờ có dịp về, chứng kiến thấy đúng là như vậy.
Thật ra, vài tiếng đồng hồ dạo quanh SG của ngày đầu trở về, tôi chưa dám nói và chưa có cảm nhận đúng về khói và bụi. Nhưng qua tuần thứ hai, có hai ngày dạo chơi SG, tôi cùng mấy đứa cháu, cũng như anh bạn chở đi nhiều nơi, càng thấy rõ, và chứng kiến khá đủ về SG. Một thành phố bây giờ đã đổi khác. Cũng đúng thôi, vì Sài gòn bây giờ là thành phố Hồ chí Minh, phải được “thay đổi” theo đúng cung cách danh xưng của nó.
Muốn tránh, muốn thoát (ngột ngạt), họa chăng nên vào một quán cà phê đâu đó. Cà phê giải khát và ăn uống khắp nơi. Vào quán cà phê thì… mát hơn và đở bụi.
Vườn sinh thái miền Tây, và cà phê võng.
Đồng bằng sông Cữu Long, ngoài ruộng lúa phì nhiêu còn có những vùng với vườn cây ăn trái. Dọc theo bờ sông Tiền và sông Hậu đa số là vườn. Hầu hết các loại cây ăn trái và hoa kiểng là ở vùng này. Tỉnh nào cũng có, quận huyện nào cũng có nhiều loại cây trái nổi tiếng, đặc trưng khắp bốn mùa, mùa nào loại đó. Bây giờ, bà con mình lợi dụng “du lịch” để phát triển đời sống có khá hơn.
Đi đâu cũng là vườn. Vườn với 5, 10,15, 20 mẩu. Cũng có vườn với một vài công, và cũng thấy vườn với một khoảnh đất nhỏ cạnh bên nhà. Người ta trồng nhãn, xoài, quít, cam, bưởi, sầu riêng, mận, thanh long, chôm chôm, măng cụt… Trồng cây truyền thống và cả cây nhập từ ngoài.
Một mãnh đất nhỏ, đầu thừa đuôi thẹo, trước chẳng để làm gì, thì bây giờ là đầy hoa kiểng. Có thể đúng với câu “tấc đất tấc vàng”.
-Kế hoạch do nhờ chế độ mà nên chăng? Một đất nước giàu đẹp nhờ ơn… Tôi đặt câu hỏi và bỏ lỡ một phần với hai anh bạn khá thân, sau 50 năm gặp lại trong một bàn tiệc dưới một gốc xoài trái oằn sai.
-Anh bạn thứ nhất: Cũng có thể là đúng. Nhờ chế độ (khốn khổ) nên gia đình tao gom góp có được bao nhiêu đất để ráng làm ruộng làm vườn, và bây giờ có ăn, có xài, có cả dư lo cho con đi học. Cũng giống như nhờ cải tạo lâu năm, mà mầy mới được đi Mỹ, khá ra.
-Thằng bạn thứ hai (bỏ dở thi tú tài, theo cách mạng vào bưng, là cán bộ có chút lương tâm, về hưu vui thú cùng hoa kiểng): Không phải là nhờ, mà rút kinh nghiệm từ bao nỗi cùng cực, người ta đã cố vươn lên.
Hai câu trả lời, chẳng đâu vào đâu, càng thêm khó hiểu. Thôi bỏ qua những chuyện “tào lao”, mình uống cho vui, mừng ngày gặp lại.
Năm mươi năm xa cách, mỗi đứa một con đường. Hồi đó là rất thân, bây giờ còn sống, còn gặp lại, mừng uống  với nhau hớp rượu dưới tàng cây quê nhà, qủa là điều diễm phúc. Hơn hai giờ nơi vườn cây khá là mát, một cuộc hội ngộ tuyệt vời.
Vườn cây sinh thái! Khung cảnh đại để như vậy được gọi là khu vườn sinh thái. Nhà nhà có được  một miếng vườn thoáng mát, có cây ăn trái sum xuê, là tạo nên một miếng “vườn sinh thái” để mời gọi khách đến viếng, đến chơi. Mà thường là khách từ xa – dân du lịch.
Trong cái nóng của mùa khô, trong cái mịt mùng bụi, khói và quá ồn ào nơi đô thị, nhiều người, nếu có thời gian rãnh, muốn đi chơi, muốn giải trí, muốn thoải mái thanh thản là rủ nhau đi về vùng sinh thái - đầy dẫy khắp miền Tây. Nơi đây, muốn nhậu, muốn thưởng thức thức ăn vườn hoặc chợ đều có. Rượu mạnh, rượu yếu, nước mắt quê hương hay nước cất xứ ngoài cũng không thiếu. Vườn sinh thái, tùy nơi, có thể cung cấp và phục vụ mọi thứ ăn chơi.
Vườn sinh thái được cọng thêm “cà phe võng”. Chiếc võng đong đưa, chiếc võng ngồi đâu đít đưa con, đưa em, đưa cháu của thời thuở xa xưa đã đi vào tình tự bao đời, vào câu hò, câu thơ, vào lời ca tiếng nhạc.
Nếu đã như vây, vẫn là văn hóa tốt. Bây giờ chiếc võng được dùng trong quán cà phê, nơi vườn sinh thái. Chiếc võng để nằm ngồi đong đưa qua làn gió mát, để chuyện trò, để thưởng thức cái êm ả của miền quê. Và cũng có thể, chiếc võng để đôi tình nhân nằm kề nhau tâm sự. Vừa nói, vừa ăn, vừa trao nhau yêu thương nồng ấm trong những chòi lá không có vách che, mái lá (hoặc đưng, tranh, lác) buông phủ vừa đủ để che chắn gió tạt, mưa sa, tầm nhìn soi mói.
Vườn sinh thái có hết, vừa phục vụ, cung phụng (theo nhu cầu), và cũng là cách kiếm tiền để nâng cao mực sống. Đồng bằng sông Cữu Long, vùng kênh rạch miền Tây từ lâu nỗi tiếng là khoang hòa, hiếu khách, là mời gọi, thì bây giờ tư thế vẫn hơn. Người ta từ khắp các nơi - cả các nước - vẫn đến vui chơi tấp nập.
Cám ơn những giọt phù sa mầu mỡ, cám ơn từng cơn lũ tràn bờ, đem đến cho miền Tây đất đai trù phú. Và hôm nay, bao vườn sinh thái xinh tươi đang góp phần nuôi sống người dân quê hương tôi.
Những căn nhà nghỉ
Người người đến, cũng cần nơi ở và nghỉ. Những dãy nhà gọi là “khu nhà trọ” được xây dựng khắp nơi. Đây là những “khách sạn” miệt vườn, cũng đầy đủ tiện nghi – tùy theo nơi chổ và cách trưng bày. Bốn mươi, năm mươi, sáu, bẩy mươi ngàn cho một ngày đêm. Thậm chí phòng nghỉ vẫn phục vụ cho khách chỉ cần một vài giờ nghỉ ngơi, thư giản.
Ai là khách trọ? Đủ hạng, đủ thành phần: già trẻ, bé lớn, trai gái. Lữ khách đường xa về miền Tây hôm nay tha hồ đi, tha hồ chơi, tha hồ thưởng thức hương vị ruộng đồng. Khách say, khách sỉn, khách quá chén, khách lỡ đường sẽ không còn sợ bơ vơ lạc lõng. Miển là khách còn trong mình giữ được một ít đồ giá trị hoặc tiền.. Quê hương mìền Tây, những con người hiếu khách sẽ phục vụ quí vị tới bến.
Không có ngôi nhà tranh nho nhỏ, không còn những chòi lá ven đường – có chăng là chòi tranh, chòi lá làm cảnh ở nhà hàng - Một vùng quê hương, đi qua không thể ai cho rằng có người còn nghèo, còn khổ.
Tôi cầm cái máy ảnh (loại bỏ túi) đi tìm chụp mấy cây cầu tre, cầu khỉ, những căn nhà lá ven sông để ghi lại hình ảnh ngày xưa. Đứa cháu (chạy xe ôm đi cùng) nói: -Bây giờ cậu đi tìm mấy thứ đó là khó lắm đấy. Đâu đâu cũng là nhà ngói, nhà gạch, tệ lắm cũng nhà tole. Cầu khỉ, cầu tre làm gì còn nữa. Mọi vật đã đổi thay rồi. Không hẳn là người ta hết nghèo khổ, vả lại còn nhìều, nhưng mấy cái nhà lá, nhà tranh không được phép tồn tại, dù vẫn có người nghèo đến mức ăn hôm nay, ngày mai chưa biết lấy gì ăn. Đau bệnh không có tiền mua thuốc. Có nhiều người như vậy, nhưng họ vẫn ở nơi nhà ngói, nhà tole. Nhà do chế độ ban phát trong từng khu dân sinh.  Nhà do đồng tiền nhận lãnh từ qui hoạch, từ giải tỏa được bồi thường. Từ chính sách và đường lối “đô thị hóa nông thôn”. Từ những sáng kiến “đem đất đổi vàng”, làm giàu ba năm, năm năm, rồi sau đó làm kẻ ở nhà cao cửa rộng mà không có gạo nấu.
Một đất nước tự hào là dân giàu, dân ấm no, hạnh phúc? Một quê làng không còn nhà tranh, nhà lá, nhà lụp xụp, thì ai dám bảo người dân vẫn còn nghèo? Ruộng đồng thẳng tắp lúa vàng, vườn cây sai quả tốt tươi. Bảo sao quê hương không vươn lên phát triển?
Thằng cháu chở tôi đi thăm một gia đình nghèo. Nó bảo: nếu muốn tìm hiểu, muốn biết người nghèo thì tôi giới thiệu với cậu.
Trong một căn nhà gạch, mái tole, nền gạch bóng loáng, một bà cụ ngồi vo gạo, lựa từng hạt đất, hạt sạn…
-Chào cụ, cụ chuẩn bị nấu cơm chiều?
Bà nhướng cặp mắt đổ ghèn, tèm lem, nhỏ xíu: -Mấy cậu là ai?
Thằng cháu vội vàng: -Khỏe không bà Bảy? Cháu là thằng Cam, bạn của anh Thân ghé thăm cụ. Và đây là câu Út từ xa về, có ý định đến thăm cụ.
-Ồ, thằng Cam, lâu quá con mới tới. Chào cậu! Đâu có cơm chiều, sáng giờ không có gạo, con Tư mới tìm đâu được ít lon đem về. Gạo ở đâu mà lộn đất nhiều quá, lựợm không xuể, lại tôi cũng không thấy đường mà lựa.
Khoảng hai lon gạo trong cái nồi gan ướt nhẹp lẫn đất và thóc (lúa), có cả cứt chuột, cứt gián, bà cụ bỏ ra ngoài một số, trong nồi cũng còn nhiều. Bà cụ tiếp:
-Nó nói gạo người ta cho, gạo vét kho, đem về ăn đở.
Xoay quanh câu chuyện, được biết: Bà cụ có bốn người con: hai trai, hai gái. Ông nhà chết sau giải phóng - chết vì bệnh - một đứa gái lớn chết vì chiến tranh. Đứa kế lấy Đại Hàn theo chồng, biệt tích. Hai đứa con trai: một theo Việt cọng, một đi lính VNCH. Hoàn cảnh trớ trêu, tên theo VC là anh lớn, theo VC vì lý tưởng cách mạng do lời khuyên dụ. Gia đình nghèo làm thuê ở mướn, đi CM để giải phóng đất nước, giải phóng con người. Có thành tích, nhiều chiến công, lên làm đến chức xã đội trưởng. Nhưng số phận không may, hy sinh trước ngày giải phóng.
Đứa em kế có học, hoảng sợ trước cái chết của người anh. Anh không đi CM để giải phóng, để báo thù mà lại đi sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ra trường hai năm, vừa lên thiếu úy thì cũng lại hy sinh, để lại một vợ, một con.
Sau giải phóng, bà được giúp đở chu cấp theo chính sách gia đình liệt sĩ, nhưng rồi lại bị thu hồi, tước mất mọi quyền lợi vì có đứa con là sĩ quan ngụy. Đặc ân cho bà còn được giữ lại ngôi nhà “tình nghĩa”. Đứa con dâu, lòng dạ sắc son chung thủy, ở vậy thờ chồng, nuôi mẹ chồng và con. Hoàn cảnh đơn chiếc khó khăn, từ hơn mười năm nay, cuộc sống chạy ăn từng bữa.
Một chuyện thương tâm, cảm động. Một hoàn cảnh quá éo le, và cũng là đặc biệt. Tôi cảm thấy thương bà, thương cho hoàn cảnh. Tôi cho bà 500 ngàn đồng. Bà thật bất ngờ, không tin là sự thật. Bà rơi lệ, cám ơn mà nói chẳng thành lời. Bà chắp tay xá lạy, lạy phật trời giúp gặp người nhân ái.
Quê hương làng mạc không có ngôi nhà lá, không có túp lều tranh, không có hình ảnh thôn xóm nghèo nàn. Lộ làng đều trải đá, tráng nhựa bằng phẵng. Sông sâu, kênh rạch tấp nập ghe tàu. Nhà nhà đều khang trang với điện đường giăng mắc. Vậy mà không thiếu những gia đình không có gạo ăn, phải ăn gạo mót, gạo đất cát, gạo cứt chuột. Quê hương tôi, vùng đồng bằng song Cữu, lúa làm ra đem bán khắp năm châu. Vậy mà bà mẹ “liệt sĩ” nuôi con đi lính cụ Hồ, hy sinh vì cách mạng giải phóng quê hương, ngày ngày chờ từng hạt gạo đổ, chờ từng cuộc lạc quyên bố thí để được sống qua ngày.
Ai có thể nhìn thấy được thảm cảnh? Nếu không chịu khó đi sâu vào đời sống người dân nơi từng ngỏ ngách?
Thăm “đảo Đài Loan, Hàn Quốc”.
Hai làng Tân Lộc (Tân Lộc đông và Tân Lộc tây) là một dãy cù lao nằm trên sông Hậu, giữa hai huyện Thốt Nốt (Hậu giang) và Lai Vung (Đồng Tháp), từ lâu nổi tiếng là “đất lành chim đậu”, vì là vùng trù phú nước bạc phù sa. Người ta đến đây khai khẩn lập nghiệp tự bao đời (hàng trăm năm) khá là phát triển. Nguồn lợi chủ yếu là làm rẫy, làm ruộng, làm vườn và giăng bắt tôm cá.
Thời chiến tranh chống Pháp, nơi đây cũng là nơi đùm bọc che chở những người con yêu nước. Cho đến những năm tháng về sau (thập niêm 1940-50) quôc cộng chiến tranh, vẫn thường là nơi cho người dân từ Lai Vung hoặc Thốt Nốt, Ô Môn qua đấy mà tạm thời lánh nạn tản cư.
Thuở nhỏ (1950), cũng đã đôi ba lần, tôi cùng gia đình đến cù lao Tân Lộc để tản cư – vài tuần lễ, một tháng thì về. Thuở là học sinh, tôi vẫn thích qua cù lao Tân Lộc. Thật thú vị vô cùng được qua đấy vui chơi, ăn trái cây (mận là chủ yếu), và xem lễ cúng đình (Tân Đông), đông và vui thì phải nói. Thời gian lớn lên, tôi ít có dịp về Tân Lộc. Và nhất là từ khi định cư xứ người, tôi chưa một lần về.
Bây giờ, cù lao Tân Lộc là một địa danh nổi tiếng - tiếng vang ra cả nước ngoài - người ta đặt cho là: hòn “đảo Đài Loan” của Việt Nam.
Nghe qua cũng thấy hãnh diện, mà suy nghĩ lại thấy đau lòng. Còn nếu đến thăm thì sao? Về quê hương lần này, tôi quyết đến thăm để tìm hiểu.
Bây giờ thì một số người (và gia đình) tôi có quen biết trước đây đã không còn, nếu có còn thì cũng tứ tán thất lạc. Tuy nhiên, có được cái may mắn là tôi tình cờ quen được một anh (bà con ruột với chị sui của người chị). Anh là con cháu sau này của làng Tân Lộc đông, làm ăn nên nổi, quen biết nhiều nên anh khá rành mọi sự. Chủ yếu của tôi là tìm thăm, và cũng để tìm hiểu một số gia đình có con gã chồng Đài Loan, Hàn Quốc.
Tôi được anh giới thiệu, có hai gia đình được đến thăm và tiếp xúc.
Gia đình thứ nhất: nhà khang trang, đẹp, rộng. Quanh vườn, cây ăn trái sum xuê nhiều thứ. Gia chủ khoảng trên dưới bảy mươi, tiếp khách lịch thiệp và niềm nỡ.
Chỉ là những cốc nước trà đạm bạc, nhưng câu chuyện khá thân tình. Người miền Tây thì tôi đã rõ, không cầu kỳ, không khách sáo, và nhất là thật lòng, thật dạ một khi được giới thiệu quen thân.
Anh cho biết, trước năm 1975 gia đình anh khá lắm. Vườn ruộng không nhiều nhưng nhờ buôn bán kinh doanh, năm đứa con (3 trai 2 gái) ăn học không phải lo lắng gì.
Thế nhưng, từ sau 1975 thì suy sụp. Qua một lần đổi tiền, một lần đánh tư sản, và qua thêm một lần vào hợp tác xã đưa tư liệu (máy móc) hợp tác làm ăn trong tập đoàn, gia đình anh trở nên trắng tay. Con cái lang bạt khắp nơi đi làm thuê ở mướn.
Sau, lại sanh thêm hai đứa gái. “Nhất con nhì của”, tại cái số nó vậy mình cũng chẳng đặng đừng. Nếu quan niệm cho rằng “trời sanh voi sanh cỏ”, nói là để an ủi, chứ thật tình nhiều khi hết cách. Voi cứ sanh mà cỏ ngày càng kiệt quệ.
Ngày hay tin đứa con gái áp út đi làm mướn ở Sàigòn sắp lấy chồng Đài Loan, tôi như người sa xuống vực. Đất trời sụp đổ, quay cuồng. Tôi không giận, mà đau – đau đớn vô cùng – Làm cha mẹ sinh ra con, để bây giờ con phải liều thân đi gánh vác. (Gả chồng Đài Loan chẳng khác nào đưa con đi cống sứ?) Nó nói nhận lấy chồng Đài Loan là để mong chút hy vọng có tiền lo trả nợ, lo cho gia đình. Dù muốn dù không, trước một sự việc như đã rồi. Tôi thì đang ốm đau, bất lực. Tôi muốn chết, nhưng làm sao mà chết, và chết có ý nghĩa gì? Vợ tôi, mấy đứa con, bà con khuyên giãi. Thôi thì đành.
Vận rủi lại là vận may, đứa con gặp phải một thằng chồng và gia đình không ác đức. Gia đình chồng nó (mẹ chồng chết) chỉ có 2 đứa con trai. Thằng này lớn tuổi, chết vợ, một đám con thiếu người chăm sóc, muốn thay đổi cuộc đời, tìm con gái Việt Nam để cưới. Về gia đình chồng cũng không khác gì đi ở đợ (ở đợ, luôn cả bán thân) đêm ngày cơ cực, nhưng được cái là chồng cho tiền gởi về giúp gia đình. Những đồng tiền của con: những giọt mồ hôi, nước mắt, những tiếng nấc tủi hờn, biết đâu có cả máu? Nó gởi về cho gia đình tôi giúp cơn túng quẩn nghèo ngặt.
Năm năm, mười năm, và bây giờ vợ chồng tôi như có hơi tiếp sức để gầy dựng lại cơ ngơi. Thoát đói, thoát chết và trở nên khấm khá…
Bao nhiêu đây cũng đủ cho tôi thấu hiểu được một hoàn cảnh. Tôi cám ơn nhiều và từ giả ông anh - một con người cần cảm thông, trân quí.
Gia đình thứ hai: Gặp mặt cả hai anh chị chủ nhà, còn trẻ, khoảng trên dưới sáu mươi. Anh chồng ra dáng khỏe mạnh - mạnh người, mạnh rượu.
Hai anh chị cũng mừng vui tiếp đãi. Không đãi trà mà rượu - rượu mạnh nước ngoài:
-Anh, Việt kiều về, uống rượu mạnh đúng hơn, phải hôn? Đừng từ chối, chẳng mấy khi mới gặp VK, mà nhất là VK Mỹ. Anh đon đả, anh tâng bốc, nhưng anh cũng thật lòng.
-Cám ơn anh chị nhiều, được anh chị đón tiếp đã là mừng lắm rồi. Nếu anh muốn rượu cũng được, nhưng về quê hương, rượu đế hoặc rượu thuốc (có lẻ) thích hơn. Nhưng xin phép, tôi chỉ uống cho có tình với gia đình anh chị, chứ thật lòng tôi uống không được nhiều.
-Vậy thì cũng được. Thôi thì mình dùng rượu thuốc, có sẵn trong nhà.
Hũ rượu thuốc được bà nhà bưng ra - rượu tắc ke ngâm thuốc bắc…
Nhất quá tam, sau ba cốc (uống ngọt sớt), rượu vào lời ra, anh chủ nhà tâm sự:
-Thú thật với anh, như anh Thanh (anh đi theo tôi) cũng biết, con gái tôi gả cho Đại Hàn là chính do tôi kiếm người môi giới. Gia đình sau bao năm làm ăn thất bại: anh nghĩ coi, ruộng thì không có đất, vườn thì chỉ vài công, trồng thứ gì cũng thất, cũng lỗ, buôn bán cũng không được, gia đình chỉ còn cách là phân tán đi làm mướn. Tôi thấy người ta, nhất là ở đây, cái xứ cù lao này, lấy chồng Đài Loan có tiền, cha mẹ ở nhà khá giả. Tôi có đứa con gái cũng mặn mà, lại học giỏi. Vừa tốt nghiệp lớp 12 là tôi lo kiếm chổ để gả nước ngoài. Thử thời vận phải đánh liều. Mà đem con đánh liều, liều thân là cả một sự đau lòng. Có mối rồi (nhờ người quen lo giúp) tôi trăn trở, tôi nghĩ suy. Ba đêm liền tôi không ngủ được. Ai đi lại bắt con mình phải hy sinh. Mình là một thằng súc sanh vô đạo? Mối là một người Hàn quốc. Hàn quốc ác cũng ác, độc cũng độc không thua gì đám Đài Loan. Con mình lỡ số không may thì chắc tôi chỉ có chết.
Đêm thứ tư cũng không ngủ được. Tôi tiều tụy héo gầy, cặp mắt hốc hác chỏm lơ. Bà xã và đứa con gái tưởng tôi bệnh, lo lắng hỏi han.
-Ba không sao, vì lo lắng mà bị khó ngủ.
Con tôi là một đứa chí hiếu - hiếu để với cha mẹ và rất mực thương em. Ngoài việc học là lo đi làm thêm (mọi thứ công việc ai thuê mướn) để mà phụ giúp gia đình, lo cho các em.
Ăn cơm vừa xong, tôi chỉ ăn được một chén. Ngồi uống tách trà do đứa con mang tới, tôi nắm lấy tay con:
-Con ngồi xuống đây, ba muốn nói với con. Đứa con gái hơi tỏ vẻ ngạc nhiên, vâng lời ngồi xuống ghế. Tôi quỳ xuống, chắp tay hướng về con.
Tôi chưa xá, thì đứa con đâm hoảng, quỳ xuống mà đở lấy hai tay tôi. Mẹ nó cũng hoảng hốt không kém, chạy tới ôm tôi, đở dậy:
-Trời ơi! Ông làm gì vậy hở ông? Mặt bà tái nhợt, run rẩy.
-Ba muốn lạy con trước khi ba yêu cầu con một việc.
-Trời ơi! Việc gì? Ba làm con lo sợ quá. Cả mẹ và con đều tỏ ra run sợ. Ba đứa nhỏ đằng kia cũng đang lơ láo chẳng biết chuyện gì.
-Việc là… ba muốn con đi lấy chồng. (Lại càng chẳng ai hiểu gì cả, cả mẹ lẫn con.)
-Ba muốn con đi lấy chồng nước ngoài… người Hàn quốc…
Gia đình như đang cơn địa chấn. Đất trời sụp đổ, căn nhà chao đảo. Không một ai nói được thành lời. Tôi gục đầu đau đớn, thổn thức… Từng tiếng nấc, nghèn nghẹn trong lòng.
-Trời ơi! Bộ ông muốn giết con mình? Tại sao ông có ý nghĩ như thế? Bà xã vừa nói, vừa khóc – ôm mặt khóc.
Đứa con gái im lặng. Bầu không khí tiếp tục vẫn là lặng yên, mỗi người một vị thế: buồn bã, khổ đau…
Đứa con gái, sau khi dọn dẹp xong, hai đứa em đi coi TV ở bên xóm, một đứa học bài. Con gái đến bên tôi, cầm tay tôi mà nhỏ nhẹ:
-Ba nói phải đó ba. Con đồng ý, nếu có chổ con sẽ xin đi lấy chồng người nước ngoài - lấy ai cũng được.
Bà nhà tôi thì cũng im lặng …miển cưỡng. Tôi cảm thấy thương con đứt ruột. Một nỗi hối hận, xót xa.
-Người ta nói đời người có mạng số (ông tiếp). Số mạng gia đình tôi, số mạng con tôi… tôi là kẻ sắp bày – con người bất lực, con người đánh liều, và con người cũng phải nhận lãnh mọi trả giá.
Con tôi lấy chồng rồi, tôi như kẻ hóa điên. Và từ đó, tôi bắt đầu uống rượu - uống ngày, uống đêm, uống say, uống sỉn. Và tôi trở nên là kẻ bất trí, bất trị, bất kham. Chẳng ai thích, chẳng ai thương, và chẳng ai chịu nỗi. Ngoại trừ vợ và các con tôi. Nhìều lúc tôi cũng thấy tôi là thằng khốn nạn.
Con tôi có tiền gởi về. Tôi cũng không tìm biết là con sướng hay khổ, hạnh phúc hay bị đọa đày, miển là con còn được sống. Đến nay, vừa đúng 5 năm, con tôi vẫn còn sống, có chồng có con và có 2 lần về thăm vợ chồng tôi. Con nói: ba má yên tâm, lo giữ gìn sức khỏe, lo nuôi dạy các em. Hy vọng gia đình mình sẽ hết cơ khổ…
Câu chuyện kể, cảm động, độc đáo và thú vị. Một người đàn ông còn khỏe mạnh, uống rượu không thấy say, cũng không tỏ vẻ gì là con người mất lý trí. Anh rất bình thường, khôn khéo, lịch thiệp. Tôi cũng uống theo anh - những giọt rượu nồng cay, lâng lâng nóng bừng chạy khắp cùng cơ thể. Cùng hòa chung chảy tràn trong cuộc sống, như uống từng giọt lệ cuộc đời.
Tôi hỏi: -Trước khi anh có ý định cho con đi lấy chồng nước ngoài, anh có tin tức, có biết gì về một số sự việc không may – mà được gọi là thảm cảnh - người con gái VN lấy chồng Đài Loan không?
-Có, tôi có biết, có nghe. Có nghe về chuyện cha Hùng (Công giáo) ở Đài Loan cứu giúp một số người con gái bất hạnh bị bạc đãi, bị đánh đập, hành hạ, và cả bị chết. Tôi có biết và nhiều bà con xã Tân Lộc này có biết – qua các đài nước ngoài. Tuy nhiên, có khổ mà cũng có sướng, có bất hạnh mà cũng có khá nhiều người sinh sống được, có tiền gởi về. May vẫn là nhiều hơn rũi. Bằng chứng hiện nay anh thấy đó, đa số nhà cửa khá giả, cuộc sống đở cơ cực, đở nghèo, là hầu hết các gia đình có con lấy chồng Đài Loan. Hàn quốc.
Một liều, ba bẩy cũng liều. Liều thân để may ra được thoát, được sống, còn hơn cứ phải đói, phải nghèo, rồi cũng chết. Biết chết mà cũng liều, và bây giờ trở nên khấm khá.
Uống cạn thêm một ly rượu nữa – ly rượu thuốc thứ mấy rồi tôi cũng không nhớ - bình rượu thuốc gần 2 lít cũng sắp cạn. Tôi cũng cảm thấy thấm và say. Say tình, say nghĩa, say sưa nghe câu chuyện kể, và cảm phục cho thứ lý luận không thể cho là sai: “Liều, liều mà may ra còn đở khổ, cuộc đời có khá hơn, còn cứ sợ, sợ chết, sợ khổ, mà cuộc đời vẫn không hề hết khổ”.
Cù lao Tân Lộc, được biết có khoảng trên 2.500 cô gái đi lấy chồng Đài Loan, Hàn quốc. Một vùng đất chỉ có hai làng mà số con gái đi lấy chồng ngoại là như thế. Nổi tiếng là phải.
Tôi không có thời giờ đi thăm nhiều hơn nữa, chỉ có thể đi qua và quan sát một số nhà hai bên đường, len lỏi theo từng con hẻm lớn nhỏ ngoằn ngoèo luồn lách. Nhà cửa có chổ chen chúc, có chổ thưa, rộng, nhưng hầu hết ít có ai nghèo. Cũng tiếc là không được đến gia đinh có con lấy chồng nước ngoài mà chẳng gặp may. Không biết có không?
Thật sự không phải ai cũng đều là may mắn. Những hoàn cảnh thương tâm vẫn có. Bao nhiêu nước mắt cũng đã tuông đổ vì cảnh mất con, vùi tăm, biệt tích. Dù vậy, vẫn cứ ước, cứ mơ. Vẫn cứ đi.
Người ta (theo thống kê) cho biết tỷ lệ bất hạnh là 15%. Những hoàn cảnh con gặp phải cảnh đọa đày, khổ ải đưa đến thương tâm chết chóc khoảng 3%. Dù tỷ lệ là bao nhiêu, nhưng mà là cả một nỗi đau thương, thảm cảnh cho quê hương đất nước mình. Từ xưa nay không bao giờ có. Cả thế giới cũng không.
Nơi hãi ngoại, người ta cũng đã biết nhiều: Việt Nam là thảm cảnh - cảnh lấy chồng ngoại, cảnh xuất khẩu lao động. Chỉ vì đồng tiền, chỉ vì cuộc sống, mà bao con người VN bị hành hạ bạc đãi. Thân đi lao động, đi làm dâu, đâu là vinh sang? Đâu là hãnh diện? Những con người bị đối xữ chẳng khác con vật. Thảm cảnh này, ai gây? Ai tạo? Không phải người cha nát rượu. Không phải những đứa con ham muốn, đua đòi?
Giã từ làng Tân Lộc, giã từ những gia đình có con gả nước ngoài, chia tay những kẻ làm cha mẹ yên hưởng nhờ con, tôi với tâm trạng bềnh bồng như lạc vào cõi mộng. Một vùng quê hương như không là thực - ốc đảo Đài Loan?
Vùng quê hương sau trên năm mươi năm, giờ trở dậy -  một “Phù Đổng” vươn vai? Không có mái lá nghèo nàn, mái tranh lụp xụp. Không còn cảnh trên bờ, dưới lạch, từng bếp lửa nấu ăn, từng nhóm người tản cư lánh nạn của thời giặc giã chiến tranh xưa cũ.
Tân Lộc bây giờ, được mệnh danh là đảo ngọc, cù lao đô la, là niềm kiêu hãnh, là tự hào. Nhờ được “giải phóng” mà nên? Cũng đúng?

5/10. Nguyên Dân
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #119 - 07. Jun 2010 , 23:58
 




Cái Duyên Bắc Nam


Tác Giả : Nguyễn Hữu Huấn   

Thứ Sáu, 04 Tháng 6 Năm 2010 07:47




Khi ngồi viết những giòng chữ này thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên giường. Nhìn đôi chân dài thườn thượt của bà thò ra khỏi chăn, tự nhiên cháu bật cười.
Thì ra vợ cháu cũng thuộc loại…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét chứ chẳng phải chơi. Năm ngoái gặp lại đám bạn cũ cùng binh chủng, trong lúc chụp ảnh chung bỗng có thằng la lớn : “Chúng mày ơi ! đứng bên cạnh bà này chắc ông phải kiễng chân lên mời xứng!“, làm vợ cháu ngượng chín người.

Nghe nói bên Việt Nam bây giờ người ta tung hô tán tụng “những cô gái chân dài“ dữ lắm, làm phim, lên ảnh, quảng cáo rùm beng, làm các cô cứ tưởng mình là cái rốn của vũ trụ không bằng.
Có điều lạ là hầu như các mợ toàn là gốc miền Bắc, nói năng giọng Bắc, nhìn đời với con mắt người Bắc và cư xử thì cứ “tự nhiên như người Hà Nội“.(Bật mí cho các cụ nhé: bây giờ thì đa số các mợ Hà Nội chính gốc đã thi nhau làm “con chim đa đa“ bay qua xứ khác lấy chồng xa hay đi kiếm cơm hết ráo, còn lại toàn là gốc Hà-Nam-Ninh hay Thanh-Nghệ-Tĩnh lên Hà Nội lập nghiệp).
Hay là ông Trời sinh ra người càng ở vùng phương Bắc thì da càng trắng, mũi càng cao và chân càng dài, cứ nhìn mấy ông Tây bà Đầm là biết ngay.
Thế nhưng ”bà già chân dài” vợ cháu lại là dân Nam kỳ tuốt luôn tận phương Nam, là thứ Nam kỳ chính hiệu con nai vàng, quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn. Hoá ra “mũi cao, chân dài“ đâu phải độc quyền của các mợ Bắc Kỳ 75, các mợ nhờ “tàn dư đế quốc“ nên chỉ mới xuất hiện sau này thôi, chứ ngay trong „thời kỳ chiến tranh“ cách đây mấy mươi năm thì “mũi cao, chân dài“ như Nam kỳ vợ cháu đã nhởn nhơ đầy đường. Đúng là một cọng giá “thời kỳ chiến tranh“ vẫn hơn một gánh rau muống “thời kỳ hoà bình đổi mới “!
Bố mẹ cháu sinh cháu ra tại miền Bắc, học hành và lớn lên cùng với gia đình trong miền Nam, để rồi trưởng thành tận ngoài miền Trung. Từ những tính chất của ba miền đã hợp lại tạo nên cháu thành một thứ “hẩu lốn“: “như canh chua nấu với...rau muống, giá sống ăn với...bún riêu, nhậu bia với ché mà lại chấm với ...xì dầu". Thế nhưng cái bản chất Bắc kỳ vẫn là cái cốt lõi trong con người cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc kỳ rau muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền thống, Bắc kỳ muôn thuở...Nhưng ông Trời oái oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe duyên cháu làm thằng tù khổ sai chung thân cho một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật ! Duyên hay nợ đây Trời!
Hồi còn bé, thú thật cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn ghét, còn hận nữa là khác. Chuyện cũng dễ hiểu thôi : lần đầu cắp sách đến trường tiểu học Bàn Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ có cháu với một thằng nhô nữa là Bắc kỳ. Thằng này có hàm răng đưa hơi xa ra phía trước, mà văn chương Bắc kỳ gọi là “vẩu“, còn Nam kỳ gọi đơn giản và rất tượng hình là cái “bàn nạo dừa“. Bố nó (không vẩu tí nào) rất thân với bố cháu (cũng chẳng có bàn nạo dừa) vì cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu “há mồm“ vào Nam năm 54.
Hai thằng Bắc kỳ con nhất định ngồi cạnh nhau tạo thế liên hoàn “dựa nhau mà sống“ trong cái lớp học 27 trự Nam kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu chọc, ăn hiếp hai đứa chúng cháu. Mỗi lần ra chơi hai thằng Bắc kỳ con luôn tìm chỗ ít người mà đứng để khỏi nghe bọn Nam kỳ đọc thơ chọc quê chửi bới. Thằng Vọng, đứa đầu xỏ và to con nhất đám (bây giờ đang ở Canada) leo lên cây vú sữa giữa sân, đọc thơ rang rảng:
„ Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm lựu đạn...chết cha Bắc kỳ “
Một thằng khác sẵn giọng phụ họa:
„ Có cái thằng nhỏ nó „đao“ làm sao
Lỗ đ. nó dính cái cọng „rao“,
Người ta ai mà kỳ như „dzậy“ ?
Thế là cả bọn đồng loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi rống lên: ”Thôi rồi ! Bắc kỳ, Bắc kỳ !”
Cháu tủi thân lắm ! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô biên, buồn phát nghiền !
Về nhà hỏi mẹ tại sao gia đình mình lại vào đây làm quái gì để chúng nó trêu con suốt ngày. Mẹ cháu rướm nước mắt, xoa đầu cháu giải thích đơn giản:
- Tại vì người ta đánh nhau quá nên gia đình mình phải “ri cư “ vào đây con ạ ! Thôi chịu khó đi con, mẹ biết làm sao bây giờ !
Nào đâu đã hết, chúng nó còn hè nhau tụ tập trước cửa nhà cháu. Mẹ cháu cầm chổi lông gà ra đuổi. Chẳng đứa nào sợ, trái lại còn tru tréo to hơn. Chợt thấy hàm răng của mẹ cháu nhuộm đen ngòm và bóng loáng, thế là chúng nó cứ thế mà gào:
"Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm cục c. , hàm răng đen thùi ”
Trong gia đình, chỉ có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ con nào dám giỡn mặt. Có lẽ nhờ khuôn mặt có oai hay nhờ đôi mắt nghiêm khắc của ông, mà chúng sợ một vành không dám trêu chọc một lời ?
Ngày tháng qua mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ ”ri cư”, trong đó có gia đình cháu, vẫn sống phây phây trên mảnh đất Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú này. Những cảnh chọc quê dần dần biến mất, bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa Sài Gòn chính tông, đứa Sa Đéc, đứa Vĩnh Long, đứa Mỹ Tho, Cần Giuộc...Nhưng đứa nào cũng chửi cháu là ”thằng Bắc kỳ lắm mồm”. Không ”lắm mồm” chứ để chúng mày ăn hiếp ông hả ?
Nghĩ cho cùng, không ”lắm mồm” thì đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ ”lắm mồm” được việc, ”lắm mồm” nghe vẫn bùi tai, ”lắm mồm” dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng thì mong, ”tay chơi” nhưng vẫn ”chân tu”, gái Nam kỳ cứ thế mà...”lắc lư con tàu đi”. Càng lớn lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái Sài Gòn, nơi dễ có nhiều bạn, mà bạn lại không tồi. Nơi đó có dừa xiêm dzú sữa, có chè đậu xanh bột báng nước dừa, có bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có nước mắm đường ngọt lịm, có cá bống trứng kho tiêu, có trái cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm muối ớt, có quán cơm bà Cả Đọi, có cả những con đường hẻm ngoằng nghoèo dẫn đến nhà ...chị Tình.
Miền Nam và Sài Gòn thật trong veo khoáng đạt, không tự tôn như cái Bắc kỳ đã có sẵn từ bẩm sinh trong bụng cháu, không rườm rà ”màu mè ba lá hẹ”, chân thành thật thà, thẳng ruột ngựa, không làm vẫn có ăn, chơi xả láng sáng về sớm, để rồi vẫn cứ yêu người, yêu đời.
Có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế nên đám Bắc kỳ ”ri cư” chúng cháu mới vào Nam chỉ có cái quần xà loỏng trên ”tàu há mồm” đã lợi dụng thời cơ hè nhau tung ra dành dân chiếm đất khắp cõi Nam bộ, mà lại ăn nên làm ra trên mọi lãnh vực, trong đủ tầng lớp xã hội, nhất là vùng Sài Gòn Gia Định và các vùng phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon lành thuận lợi là mấy mợ Bắc kỳ rau muống sang tay hàng loạt, ngoại trừ phía bên trong chợ Bến Thành và vùng Chợ Lớn, vì chẳng thèm ”kèn cựa” với các chú Ba. Đã bảo rồi mà...: ” Bà đã nàm thì nàm thật chứ không thèm nàm nấy ne, nàm nấy nệ !”
Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy ”dzô tuyến chuyền hình” hay cái ”ra dzô” ra thì thấy liền, các ”xướng ngôn dziêng” hầu như ”chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng ”E Việt Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe ”em người Hà Lội” hết ráo ! Chẳng biết tại ”dziêng dzáng” hay ”phe đảng” ?
Bố cháu trái lại, cái chất Bắc kỳ đã ăn vào máu, thấm vào cốt lõi xương tủy của ông từ bao đời, nhất quyết bắt anh em cháu phải thi vào trường Chu Văn An (CVA), con em gái phải thi bằng được vào trường Trưng Vương, toàn là những trường nổi tiếng từ miền Bắc, kéo theo các thày cô ”ri cư” vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học sinh trường Bưởi, phần vì ông cũng có chút thiên kiến và ít tin tưởng vào các trường miền Nam như Petrus Ký hay Gia Long. ”Mình dân Bắc thì phải học trường của người Bắc, chúng mày đừng có bàn với bạc lôi thôi !”, bố cháu phán cứ như đinh đóng cột.
Mà lạ thật ! Vào học Chu Văn An mới thấy toàn đám học sinh Bắc kỳ, le que vài trự Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa đủ mười đầu ngón tay đã hết đứa Trung kỳ. Cho đến các thày đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ thày hiệu trưởng Dương Minh Kính đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Còn bên Petrus Ký thì ngược lại, hầu hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn cứ đi tìm nồi nấy, hay hoặc giả có chính sách của chính quyền thời đó hay không ? Chẳng thành vấn đề, chỉ biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm đổi tên Chu Văn An thành ...Chết Vì Ăn ! Cháu tức máu trả đũa, rằng chúng mày ghen ông vì chúng mày chiêm ngưỡng các em Bắc kỳ Trưng Vương mà thèm nhỏ dãi, nhưng sờ vào thì chúng mày sẽ thành con dế mèn để các em Bắc kỳ thọc cọng nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức quá, mấy trự Petrus Ký chỉ biết ”ngậm ngùi” đồng ca bản ”Khúc nhạc đồng quê” rằng thì là:
”Quê hương tui Bắc kỳ nhào dzô quá trời
Bên bờ sông bên bờ ao...trồng rau muống !”
Hay cũng là: ”Quê hương tui cái mùng mà kêu cái màn !....”
Thôi thì cũng đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ chỉ cần nghe một mợ Bắc kỳ uốn éo ra chiêu vài đường lưỡi thì đã nhũn như chi chi, mắt trợn ngược, mồm há hốc, quên luôn cả tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới trị nổi các mợ Bắc kỳ thôi ! Này nhé, các cụ cứ chịu khó nhìn chung quanh đi, cứ một trăm trự Nam kỳ chưa chắc có được một trự vớ được một mợ Bắc kỳ.
Tìm mỏi con mắt mới có một trự ”diễm phúc” bế được một mợ mang về nhà thì bảo đảm suốt cuộc đời còn lại chỉ biết bốn chữ ”gọi dạ bảo vâng”, răm rắp tuân lệnh bà, chẳng bao giờ còn nhìn thấy mặt trời, mặc dù suốt ngày ngửa mặt than Trời ! Đấy mới chỉ là các mợ Bắc kỳ 54 thôi nhé ! Gặp cỡ các mợ 75 hay các mợ quê quán Hà Đông hay Bắc Ninh ”...cầm roi dạy chồng” thì ôi thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả tông ti họ hàng, suốt đời hưởng ”cái thú đau thương”, nghe chửi cứ tưởng nghe...hát. Hỡi các chú Nam kỳ hậu sanh: chớ chơi dại!
Đừng nghe ông Phạm Duy hát bài ”Cô Bắc kỳ nho nhỏ” mà ham, lừa đấy ! Gặp Nam kỳ thì cái ”nho nhỏ” kia sẽ phình to hơn cái vại, mà cái vại có nanh ! Ngược lại, một cậu Bắc kỳ rau muống quơ được một cọng giá Nam kỳ ”đem về dinh” –vụ này nhiều lắm- thì cứ như ”rồng thêm cánh”, như ”diều gặp bão”, như lái ô tô không cần Navigation.. . cả đời có người ”nâng khăn sửa túi” không công. Hóa ra hôn nhân cũng có quy luật đấy chứ:
Chồng Bắc kỳ + vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu biết cách
Chồng Bắc kỳ + vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè cánh nhạn.
Chồng Nam kỳ + vợ Bắc kỳ = Chồng te tua, lưng còng.
Nhưng đã là ”luật” thì bao giờ cũng có ”luật trừ”, nghĩa là cháu không dám vơ đũa cả nắm đâu, với lại cháu chỉ lợi dụng cái ”tự do ngôn luận” trên xứ người, xin bàn bậy vài chữ ngu ngơ để các cụ trong lúc ”trà dư tửu hậu” đem ra trước là mua vui, sau là cho bớt chút căng thẳng trong cái cuộc đời ... đen như mõm chó này. Xin lỗi các cụ, nẫy giờ nói loanh quanh mãi, bây giờ cháu xin trở lại chuyện của cháu.
Bố cháu nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo dục con cái theo truyền thống Bắc kỳ. Đã có gốc có ngạnh, có cả sự nghiệp bề thế trong Nam nhưng vẫn...thờ cơm Bắc kỳ, vẫn lễ phép Bắc kỳ, vẫn giữ giọng nói Bắc kỳ và thậm chí còn ra lệnh, dâu rể cũng phải...Bắc kỳ ! Mỗi lần cháu dẫn bạn gái về nhà, bố cháu liếc mắt một cái là biết ngay cô nàng Bắc hay Nam.
Có một ông bố tinh đời như thế đôi khi lại...phiền. Với một mợ Bắc kỳ, bố cháu thân mật tươi cười ”Cháu vào nhà chơi ! bố mẹ cháu khỏe mạnh không ?”, cứ làm như quen biết từ lâu vậy. Gặp cô ả Nam kỳ thì lạnh nhạt khinh khỉnh ”Không dám, chào cô !” Cô bạn gái Nam kỳ mặt nghệt ra thưởng thức văn chương Bắc kỳ, còn cháu nghe qua mà thốn từ dạ dầy đến ruột non.
Nghe Bắc kỳ chê, nghe Bắc kỳ chửi, mà cứ tưởng mình đang nghe thơ phú hay nghe nhạc êm dịu mới chết chứ ! Nếu quen cô nào Trời sinh có mấy cái vòng hơi...sexy một tí, Bắc cũng như Nam, cháu phải dấu biệt vì sợ lựu đạn nổ tung trong nhà. Điệu này coi bộ hơi khó sống. Thôi thì Bắc Trung Nam cũng một nhà, hạnh phúc lứa đôi đâu phải do thằng hàng xóm, mà là do chính mình. Thế rồi cháu đã từng hạ quyết tâm với bố: lấy vợ Bắc kỳ, cho phải đạo làm con. Em nào Bắc kỳ, rước về nhà cho bố xem mặt mà bắt hình dong (cứ như đi mua gà chọi). Em nào Nam kỳ, điểm hẹn sẽ là mấy ống cống dưới gầm cầu xa lộ Đại Hàn.
Thiên bất dung gian! cháu lại phải lòng một ả Nam kỳ, Nam kỳ không lai giống, cái thứ Nam kỳ Gia Long kên kên xí xọn. Hồi đó cháu đi lính Không Quân của miền Nam, thấy đám phi công trời đánh đa số cũng đều là Bắc kỳ, chẳng hiểu tại sao? Dân Nam kỳ cũng có, Trung kỳ lại càng ít hơn, nhưng đứa nào cũng có ...”cái mồm Bắc kỳ”.
Cháu còn nhớ khi thi gia nhập Không Quân, phải đủ ký lô, đủ kích thước, lục phủ ngũ tạng bị khám tuốt luốt, phải trần trùng trục như con nhộng rồi nhẩy lên nhẩy xuống cho mấy ông bác sĩ ...”vạch lá tìm sâu”, chứ đâu có thi tuyển đứa nào ”lắm mồm”! Thế mà thằng nào thằng nấy đều có cái ”chứng chỉ lắm mồm” cao hạng dấu kỹ trong túi áo bay.
Một hôm đang trực phòng hành quân thì ông xếp (ông này Nam kỳ quốc) hỏi có thằng nào rảnh ra phi đạo chở con cháu gái vợ của xếp theo tàu từ Sài Gòn ra Nha Trang đem về nhà bà vợ đang có bầu sắp đẻ. Tưởng đi biệt phái hành quân chứ cái màn này cháu khoái lắm: ”Chuyện nhỏ mà xếp, có tui ngay” Ông xếp của cháu cũng chẳng vừa, nhìn thấu tim gan thằng đàn em : ”Lẹ lẹ lên coi, tàu sắp đáp rồi đó, sách tao mày học hết còn dư có cái bìa, nhưng mà từ từ thôi nghe cha nội, lạng quạng con mẻ chửi tao thấy bà !” Lúc đó cháu đâu có ngờ rằng, cái chuyện nhỏ như mắt muỗi này lại thành chuyện lớn, lớn khủng khiếp, ảnh hưởng đến hết cả cuộc đời cháu !
Cô cháu gái ông xếp không có cái dạng ”ngực tấn công, mông phòng thủ” như trong ”xi la ma”, thế mà ngay từ phút ban đầu cháu đã bị dáng ngay tim một cái búa tạ chình ình chứ chẳng phải tiếng sét tầm thường.
- ”Cô đi máy bay có mệt lắm không ?”
– ”Dạ !”.
- ”Ra thăm cô dượng hả ?”
– ”Dạ !”.
-”Cô lên xe đi, tôi đèo cô về”
– ”Dạ !”...
Chèng đéch ơi ! sao mà cụt ngủn cộc lốc thế bà nội ? Cái gì cũng ”dạ” hết ráo thì cháu biết đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ ! Chợt nghĩ, không biết bà dzợ xếp tới giờ này có còn ”ngây thơ”, ”dạ dạ” với xếp như dzậy nữa hay không ? Xếp cháu đang ở San José, nếu xếp có đọc những giòng chữ này thì xếp cũng bỏ qua dùm vì thằng em đã thuộc lòng trọn bộ sách của xếp từ khuya rùi !
Từ đó cháu với nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau đánh vần mấy chữ ”hình như là tình yêu”. Cuộc tình của cháu với nàng êm ả như quả lắc đồng hồ treo trên tường phòng khách nhà cháu, nhưng mỗi khi nghĩ đến bố cháu thì quả lắc đồng hồ bỗng ngất ngư như bị đứt dây thiều. Thương quá, cháu đánh liều, ”mấy sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng qua”, chuyến này nhất quyết không chui ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt nàng về nhà trình diện bố. Bố vẫn khinh khỉnh: ”Không dám ! chào cô”. Nàng vui tính: ”Ba anh coi ngầu quá hén!”, cháu tỉnh bơ: ”Không ngầu sao làm bố anh được !”.
Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ phàn nàn rằng dân Nam kỳ được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ phong phú, không làm vẫn có ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang phí, không chăm chỉ hạt bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ. Ông chỉ vì thương con, lo cháu lấy nhằm cô vợ Nam kỳ cả ngày chỉ biết...phè cánh nhạn, ăn no lại nằm, thì con cưng của ông sẽ thành thân trâu ngựa suốt đời. Còn mẹ cháu, vốn dĩ nhà quê răng đen mã tấu bảo rằng, nghe Nam kỳ nói chuyện cứ tưởng nghe tiếng nước ngoài, chỉ hiểu một nửa ! Cháu cãi lại, Bắc kỳ cũng có khối đứa lười, lười như..cháu đây là hết mức rồi !
Một hôm cháu đưa nàng về nhà, gặp lúc bố mẹ cháu sửa soạn mở tiệc đãi ông bác từ Hố Nai lên thăm. Ông bác vui tính bảo tiện bữa ngồi ăn luôn, cháu đang chần chừ thì nàng vén áo hạ ngay cái bàn tọa tròn lẳng xuống ghế, cháu kéo lên không kịp. Cháu thủ thỉ giải thích cho nàng rằng, đi đâu gặp khách Bắc kỳ mời ăn thì chớ có ăn liền, cứ để người ta mời dăm lần bẩy lượt, ăn liền người ta chửi mình...chết đói !
Nam kỳ thì thẳng ruột ngựa, mời là cháp lẹ, không cháp dọn xuống bếp, đói ráng chịu, không mời lần thứ hai, ai biểu mời không ăn ! Bỗng mấy đứa em cháu thay phiên nhau : ”Mời bác xơi cơm, mời bố xơi cơm, mời mẹ xơi cơm, mời anh xơi cơm, mời chị xơi cơm”, mời... mời... mời tùm lum!. Thằng em út cháu mời dài nhất, mời lâu nhất, mời từ trên xuống dưới , trong nhà chỉ có con Tô Tô đang nằm chực dưới gầm bàn là nó không mời. Nó lại chẳng được ai mời để xơi, út mà ! nhưng rồi vẫn xực ào ào !
Cô bạn Nam kỳ của cháu trố mắt nhìn cháu chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Cháu vội ghé tai thì thầm:
- Em mời gia đình ăn cơm đi !
- Ủa ! gia đình anh mời em ”ăng” mà ? Bộ ”ăng” cũng phải mời...mời...xơi ...xơi sao?
Nàng ấp a ấp úng cũng ráng mời:
- Dạ mời bác, mời bác, dạ mời... à... à... mời anh, mời em...
Chợt bố cháu lên tiếng:
- Thôi đủ rồi, cháu mời người trên thôi, còn mấy em cháu không phải mời...Mà hay thật ! Con bé này vui vẻ, ngoan ngoãn lắm ! Sao con cứ ăn hiếp nó mãi !
Nghe bố cháu nói mà bụng cháu cứ như mở cờ, ông còn cao hứng bảo khi nào nàng nấu cơm Nam kỳ cho gia đình cùng ăn. Cô nàng hí ha hí hửng nói liền:
- Dạ ! (lại dạ!), để bữa nào cháu nấu bún(g) mắm dzới thịt heo ba rọi cho bác ăn(g), bún(g) mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền Nam nghe bác !
- Sao ? cô muốn búng hả ? Lỗ tai tôi đây này, muốn búng bao nhiêu thì cứ búng đi !
Thế là cả nhà cháu được một trận cười nắc nẻ. Nào đã hết đâu, mẹ cháu chợt bảo:
- Cháu xuống bếp lấy cho bác mấy cái ”cùi dìa” với cái ”muôi” để trong ngăn kéo đấy !
Nàng ngớ ra cứ như được nghe tiếng...Tây, nhìn cháu cầu cứu. Cháu cười hì hì khoái tỉ, ra cái điều thông thái giải thích ngay:
- Cái ”cùi dìa” Nam kỳ kêu là cái ”muỗng”, tại Bắc kỳ sống lâu với bọn Tây, chúng nó gọi là ”la cuiller” thì Bắc kỳ gọi luôn là cái ”cùi dìa” cho tiện. Còn cái ”muôi” Nam kỳ kêu là cái ”vá”, chữ ”vê” thì đọc là ”dê” cho nên gọi là cái ”dzá”, phải không ?
Nàng đỏ mặt, bĩu môi ”Cái đồ dzô dziêng, tui đi dzìa à nghen !”
Sau bữa cơm hôm ấy, hình như bố cháu bắt đầu ”chuyển hệ”, có vẻ gần gũi thân mật với nàng hơn vì thấy nàng thật thà, có sao nói dzậy, không bãi bôi, không vòng vo tam quốc, nhất là...không lười như ông nghĩ. Thừa thắng xông lên, cháu thủ thỉ với mẹ cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ. Mẹ bàn với bố, bố vẫn ngần ngừ.
Tại bố cháu không biết đấy chứ, cháu đọc lóm từ một quển sách nào đó người ta viết rằng, trong lịch sử nước ta hầu hết các vua chúa miền Trung đều có nhiều bà vợ bé, mà hầu như bà nào là Chánh Cung Hoàng Hậu cũng đều là Nam kỳ: vua Minh Mạng có rất nhiều vợ, đa số là các bà Nam kỳ, Chánh Cung là bà Hồ Thị Hoa, người Biên Hòa; Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà Từ Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng Hậu), là người Gò Công. Mấy ông vua cũng tinh đời đáo để ! Nhưng cháu ”không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường ”, chỉ xin ”...quỳ lậy Chúa trên Trời, sao cho lấy được ...con nhỏ Cái Bè con thương !”
Thật là oái oăm: cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn chưa cho giựt cần! Tuy thế, thỉnh thoảng bố cháu cũng dò hỏi về gia đình nàng. Thì cháu đã nói rồi mà, ”quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn”, ruộng đất mênh mông, sông nước dập dình, ăn nói ”ngắn gọn và dễ hiểu” chứ không ”dài dòng nhưng khó hiểu”... kiểu Bắc kỳ ! Chấm hết!
Ngày vui nhất đời cháu là ngày bố cháu ra lệnh sửa soạn ”lên đồ dzía” đến thăm gia đình nàng. Sao bố cháu không nói thẳng thừng ra là đi ”hỏi vợ”, đi ”chạm ngõ” cho xong. Nhưng mà cần gì phải ”chạm ngõ” với lại ”chạm cổng” cho rườm rà rắc rối, nhà của nàng cháu biết từng phòng, quen từng góc, rõ từng cột.
Mỗi lần cháu từ đơn vị ”dù” về đều có chút quà biếu ba má nàng, cho mấy đứa em nàng và cho cả cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách dụ khị của xếp cháu đấy !). Lần nào gặp ba nàng là lần đó có...nhậu. Đồ nhắm lúc nào cũng có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra sau hè ngắt mấy trái xoài tượng chấm mắm nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia cặm mấy con trùng liệng xuống sông, cũng câu được mấy con cá lên nướng làm mồi. Nam kỳ trù phú mà ! Ổng không nhậu bia nhậu rượu, mà nhậu đế; không nhậu bằng cốc hay ly mà nhậu bằng tô, tô nào tô nấy bằng cái bát ăn cơm nhà cháu. Thế mà ổng lúc nào gặp cháu thì cứ nói rằng: ”Dô dzới tao dăm ba sợi nghe mày !” Chưa tới nửa sợi cháu đã guắch cần cẩu ! ”Lính tráng như mày chi mà yếu xìu sao oánh giặc nổi ? Dzô cái coi !” Ổng thương, ổng coi như con như cháu, ổng mới kêu cháu bằng ”mày”. Tiếng ”mày” của Nam kỳ biểu lộ cái chân tình, sự gần gũi thân thương, không như Bắc kỳ khi đã xổ ra tiếng ”mày” rồi thì ... ô hô ! ô hô ! thiện tai ! thiện tai ! chạy cho lẹ !
Một hôm đang nướng con mực khô nhậu lai rai với ổng, bỗng có khách gõ cửa bước vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa cười vừa nói:
- Chèng đéc ơi anh Sáu Lèo ! hôm qua tui chờ qua qua mút chỉ cà tha, hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua mà qua lại qua, nay qua rồi có thằng rể tương lai tới thăm, nhào dzô chơi vài xị, hôm nay có ớt nè qua !
Nói chi mà cứ qua đi qua lại, qua tới qua lui, nói cũng như thơ phú đấy chứ, thế mà mẹ cháu cứ nói tiếng Nam kỳ nghe sao như tiếng...nước ngoài !
Bắc kỳ vẫn có câu ”dâu là con, rể là khách”, nhưng Nam kỳ thì ”dâu là con, rể cũng là...con luôn”. Bố dzợ chịu chơi lại gặp thằng rể cũng chịu chơi luôn, dzô ba xị rồi thì coi như...bạn, chơi xả láng sáng dzề sớm, còn má dzợ bỗng nhiên thành... chơi chịu ! Nàng kể cho cháu nghe, nhiều lần ổng đi nhậu quá giờ giới nghiêm chưa chịu về, cả nhà trông đứng trông ngồi. Chợt nghe tiếng xe Vespa quen thuộc chạy ngang nhà, cứ thế nghe cái ”dzù” rồi lại chạy mất tiêu, lại nghe cái ”dzù” rồi đi tuốt luốt ! Sinh nghi, nàng chạy ra cổng đón đường chặn xe : ”Ba ui ! Ba ui ! Tới nhà rồi nè !”. Ổng chợt tỉnh, quẹo dzô thắng cái ”két”, xe đổ cái rầm, ổng té cái đụi, miệng lèng nhèng ” Ủa, nhà mình đây rồi sao? Dzậy mà tao chạy dzòng dzòng kiếm hoài hổng ra !”
Ngày cưới, cháu chọn nhà hàng Đại La Thiên của chú Ba tuốt bên Chợ Lớn cho có vẻ trung dung, không Nam cũng không Bắc mà là cơm Tàu. Không xài Karaoke nhưng chơi nhạc sống. Có ông chú dzợ tên là Ba Phoóng làm nhạc trưởng cho mấy bà xồn xồn Nam kỳ lên sân khấu ca cải lương hà rầm. Hình như 7 thứ nghệ thuật của nhân loại đối với Nam kỳ đều tóm gọn trong mấy câu dzọng cổ thiệt mùi.
Đám cưới cháu người ta chụp nhiều hình lắm. Ông bố vợ coi hình gục gặc cái đầu: ”Chèng đéch ơi ! thằng rể tao chụp hình coi phông độ dzữ hén ! Ráng nghe mày !” Cháu chẳng hiểu ổng nói cháu phải ráng cái gì ? Nhưng có một cái cháu phải ráng là cái chắc, ai biểu ham dzợ Nam kỳ...mũi cao chân dài !
Còn bố cháu xem ảnh thì lại phán một câu xanh rờn: ”Con dâu bố chụp với bố ảnh này đẹp quá, giá mà đứng cạnh bố con khoanh tay lại thì còn đẹp hơn biết bao !”. Ông xếp cháu, khơi khơi tự nhiên thành ông dượng, sẵn có dăm ba ly nhưng mắt vẫn láo liên ngó bà cô, rồi len lén kể lể làm oai: ”Thấy chưa mày! Hồi đó tao xách máy bay xuống Vĩnh Long rồi lạng qua Cái Bè, mới lạng chơi dzài ba dzòng là dzớt luôn bà cô mày, ngon chưa !” Cám ơn ”ông xếp dượng” đã có công ”nối giáo cho giặc” rồi rước luôn giặc vào nhà. Còn mấy thằng bạn Không Quân quỷ sứ thì xúm nhau ca bản ”Mùa thu chết ”... đã chết rồi, cho mày...chết luôn!
Ngày qua ngày, cháu không chết mà vẫn sống nhăn răng với bà vợ ”quý phái bình dân”, bây giờ đã có 4 con với 3 đứa cháu ngoại để nựng. Nam kỳ cũng chăm chỉ đấy chứ ! Thế là xong một đời phiêu bạt giang hồ, bay bướm, quậy phá ! Được cái vợ cháu cưng cháu lắm (Nam kỳ mà!), bao nhiêu công việc trong nhà từ lau nhà, rửa chén, hút bụi, trồng cây, giặt đồ...vợ cháu dành làm hết ráo.
Bả nói ”tay chân ông như thằng cùi, làm đâu hư đó, để tui làm luôn cho lẹ !”. Cháu đi làm mang tiền về, bả cũng không thèm động tới, bảo rằng ”tui hỏng cần anh nuôi tui !” Thế nhưng vợ cháu ghen khỏi nói, trong vườn trồng nhiều ớt hơn trồng hoa, ghen có đẳng có cấp, ghen có kế hoạch, có phương án đàng hoàng. Ghen thì ghen, lâu lâu cháu cũng theo bạn bè...nhảy dù vài sô, về nhà im thin thít, thế mà bả cũng ”nghe” được mùi, lườm lườm, nguýt nguýt, rồi cũng huề tiền.
Sau này cháu mới khám phá ra vợ cháu rất sòng phẳng, đâu ra đó, nếu ”ăn bánh trả tiền” là...cho qua cầu gió bay, không thèm chấp. Một hôm vô tình đọc báo thấy tin cô Quờn, người Sóc Trăng, ghen chồng lăng nhăng, lẳng lặng lựa lúc chồng đang say túy lúy, xách con dao bếp cắt luôn...của quý của chồng đem quăng sau vườn. Cô Quờn ra tòa ngồi chơi 4 năm tù. Trời đất Thiên địa ơi! Nam kỳ mà ghen kiểu này chắc cháu chết sớm, cháu dấu luôn tờ báo, ai dè vợ cháu chu môi oỏng ẻng : ”Cái đó còn đỡ à nghen ! gặp tui là tui cho luôn dzô cái máy xay thịt rồi quăng cho bầy gà ăn, chớ giờ người ta dzăng minh lắm, khâu nối lại mấy hồi !” Má ơi là má ! Cháu nghe mà ớn lạnh xương sống! Chơi kiểu này thì hơn xa các mợ Bắc kỳ rồi ! Nhưng cháu lại được phép kéo bạn bè về nhậu...xả láng, nhậu ”vô tư”. Xỉn quá thì : “Anh mệt rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè, rồi dzô đây em cạo gió hết liền !”. Bạn bè ói mửa tùm lum thì : ”Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp mấy ảnh đi, em dọn cho !” Mấy thằng bạn có vợ Bắc kỳ ngó phát thèm !
Chắc khí thiêng sông núi Bắc kỳ linh thiêng hùng vĩ , hay nói theo khoa học hiện đại là cái ”dzen” Bắc kỳ quá mạnh, nên vợ cháu nửa dưới vẫn còn là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã hóa thành Bắc kỳ: không nói ”bự bành ky” mà nói ”to vật vã”; không gọi ”trái bom” mà gọi ”quả táo”; thích ăn canh rau muống hơn nấu canh chua; nhưng đặc biệt nhất là ăn nói không còn ”ngắn gọn và dễ hiểu” như xưa, mà bây giờ thì.. ôi thôi ! ”dài dòng, ào ào như thác đổ”, nghe riết muốn khùng !
Bố cháu ăn ”bún(g) mắm thịt ba rọi” của vợ cháu nấu, đến phát nghiền, nghiền luôn cả chén nước mắn pha đường. Nhà cháu có bốn anh em trai thì bố cháu có tới ba ả dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp lại vẫn thua xa một mợ dâu Bắc kỳ, ăn nói ngọt như đường phèn, dịu dàng khoai thai như thiên nga, thêm cái tài...chửi như hát di truyền. Thế là cái mộng ”dâu rể phải là Bắc kỳ” của bố cháu bị nước sông Cửu Long vùng Nam bộ cuốn trôi tiêu tùng. Bố cháu bây giờ cũng rành ”sáu câu” về Nam kỳ lắm, ông bảo người ta nói rằng:
- ”Tính tình gái Nam kỳ giống như mưa Sài Gòn: đỏng đảnh nhưng mau quên; tính tình gái Bắc kỳ giống như mưa Hà Nội: âm ỉ và dai dẳng”.
Lợi dụng lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ họa :
- Bố biết không, người ta cũng bảo : ”Ở Sài Gòn nhiều em sinh viên giống như ca ve; Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh viên”, đúng không bố ?
Bố cháu quắc mắt : ”Sao dám ăn nói lăng nhăng thế hả ?”.
Cháu chuồn nhanh kẻo ông nổi giận. Thôi thì đến nước này rồi, cúi xin các cụ cũng rộng lòng bỏ qua cho cháu nếu có gì gọi là thiên vị, bởi vì con gái Nam kỳ bây giờ đã là ”cây nhà lá vườn” của cháu, nên cháu đành phải ”ta về ta tắm ao ta”, ôm lấy cái ao Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu riêng Nam bộ cho phải đạo ”tình Bắc duyên Nam”, nếu không cháu phải ôm thùng mì gói suốt đời. Mong sao các cụ đọc xong rồi bỏ qua, cứ coi như một chuyện tầm phào, bởi vì cháu đã liều mình như mấy mợ Hà Nội làm con chim đa đa, không lấy vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận cái xứ Nam kỳ với giòng sông 9 cửa

Back to top
« Last Edit: 08. Jun 2010 , 00:00 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
ChíchChoè
Gold Member
*****
Offline


I love LVD SCHOOL

Posts: 8090
Gender: female
Re: NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #120 - 28. Jun 2010 , 20:15
 
Những lằn ranh nghiệt ngã


Tháng  bảy năm năm mươi  tư, một số thành  phố và vùng quê miền Bắc được  tiếp thu, người  ta lũ lượt kéo  về cảng Hải Phòng xuống tàu vào Nam,  những người giàu  có và công chức của chính phủ thì  đi bằng máy bay,  từ Hà Nội bay  thẳng vào Sài Gòn.

Dù đi bằng cách  nào, thì lịch sử  đã đánh dấu ngày  chia đôi đất nước,đời sống dân chúng  miền Bắc như khoác  lên chiếc áo mới  màu đen ảm đạm.   

Giữa  lúc ấy thầy tôi  bỗng dưng trở bệnh,  chứng đau bao tử của ông lần này  nặng hơn, hết thuốc  chữa. Biết khó  qua khỏi, trước khi chết, thầy tôi  dặn dò mẹ tôi  hễ ma chay xong  phải tìm đường đưa các con vào  Nam, đó là quyết  định cuối cùng  của ông , dù trước đó thầy  tôi không hề có  ý định bỏ tất  cả cơ nghiệp để  ra đi. 

Thầy tôi qua đời giữa cơn hỗn loạn của ngày đất nước chia hai. Còn một chút sức tàn và minh mẫn, thoi thóp như ngọn đèn lù mù sắp hết dầu, lóe lên một lần chót rồi tắt, thầy tôi đã hiểu thế nào là sự thay đổi của thời cuộc. Lý do thầy tôi bảo vợ đưa các con đi Nam, có lẽ chỉ thầy mẹ tôi hiểu với nhau, cả một sự nghiệp gầy dựng gần hai mươi năm đã vững vàng lắm, vậy mà thầy tôi không tiếc. /

Chỉ  ba hôm sau đám  ma thầy tôi, một  buổi sáng gần cuối năm, trời mùa Đông  có mưa phùn và  gió bấc, mẹ tôi  dặn dò người bõ già, rồi gần như  lén lút, dẫn ba  đứa con nhỏ đi  trước, để anh tôi ở lại đi  sau với người bõ  già, vì mọi người  không dám đi cùng một lúc. Anh tôi  khi ấy mới mười  lăm tuổi, còn người  anh lớn đã đi theo người bác vào  Nam trong chuyến tàu  trước. 

Mẹ con dẫn nhau ra Hải Dương trú ngụ ở nhà người chị họ, mẹ tôi định quay về đón anh tôi thì một người cháu họ cũng vừa thoát được, gặp mẹ tôi với lời nhắn của anh :-" Mẹ đừng về nữa, con sẽ tìm cách đi sau".

Nếu ở lại chừng vài hôm, chắc mẹ tôi chẳng bao giờ còn đi đâu nữa. 

Chờ  đợi mãi mà không  thấy anh tôi đến,  chỉ còn chuyến tàu chót vào Nam,  không còn cách nào  hơn, mẹ tôi không thể quay về mà  cũng không chờ đợi  thêm được, đành  gạt nước mắt ra đi. Cuối cùng  thì anh tôi ở  lại, chỉ bên này  với bên kia dòng Bến Hải mà tưởng  chừng vạn dặm,  mẹ tôi vào Nam  mang theo trong lòng bao đau đớn, khắc  khoải vì bỏ lại  một đứa con. Nỗi  đau của người mẹ có một đứa  con đã chết, có  đau đớn nhưng cũng có nguôi ngoai, nhưng  nỗi đau của một  người mẹ phải  chia lìa một đứa con còn sống, mà  bất lực không biết  con mình sống ra sao, lưu lạc phương  nào, ở với ai  khi không còn cha mẹ, sướng hay khổ,  nó cứ ám ảnh  mẹ tôi suốt một  đời, mãi cho đến hơn hai mươi sau  chiến tranh, mẹ  con gặp lại nhau  mừng mừng tủi  tủi.

Lúc  ấy tôi còn bé,  chỉ biết là trên  mảnh đất miền quê những ngày mới  vào Nam, mỗi buổi  chiều, khi đợt khói lam chiều tỏa  từ mái nhà tranh  bốc lên trời, theo gió chiều bay về  một phương trời  xa. Mẹ tôi nhìn  lũ con bé dại mà rơi nước mắt,  rồi lại xót xa  nhắc tới anh tôi  còn ở lại ngoài  kia. 

Nỗi buồn của mẹ tôi hình như cũng ảnh hưởng đến đám con côi. Chị em tôi tha thẩn chơi với nhau, lùi mấy củ khoai trong bếp lửa, hình dung đến người anh còn ở lại ngoài Bắc, đứa nào cũng ngậm ngùi . Ít lâu sau, người ta tìm cách liên lạc với người nhà còn kẹt lại miền Bắc. Qua ngả Cao Miên, mẹ tôi nhận được tấm Bưu thiếp của anh tôi gửi vào, có một đoạn viết cho mẹ tôi: " Mẹ đi rồi, gia đình vẫn vui vẻ, bình an. Hai ông cháu vẫn tăng gia sản xuất, đời sống no đủ như xưa.

Ai cũng mong ngày gia đình đoàn tụ...". Lá thư viết bằng mực tím, ngắn ngủi chỉ mấy hàng đã làm mẹ tôi khóc ròng rã. Làm sao mà vui vẻ, bình an khi gia đình tan tác, một ông già với một đứa trẻ con mười lăm tuổi làm gì có sức lao động mà tăng gia sản xuất? Không phải chỉ mình gia đình tôi mới tan tác như thế, thỉnh thoảng lại có người nhận tin từ miền Bắc, đưa cho nhau xem rồi mắt ai nấy đỏ hoe.

Chỉ  vài năm sau, đất  nước đã chia hai  lại tiếp tục chiến tranh, những người  tập kết vào mùa  thu ra Bắc không  có ngày trở về, những người di  cư vào Nam chờ  ngày xum họp cũng  chẳng hy vọng đoàn tụ. Người ta không  hình dung nổi vận  mệnh của đất  nước lại chỉ là một chuỗi chia  lìa đằng đẵng,  như khi xưa năm  mươi con theo mẹ lên non, năm mươi  con theo cha xuống  biển, như là một định mệnh oan nghiệt  cho lũ cháu con,  đeo đẳng lên số phận nghiệt ngã  của một dân tộc,  cứ mãi mãi phân  ly.

                                                        * * * 

Hơn hai mươi năm sau, ngày chiến tranh chấm dứt, may mắn là bom đạn không cướp đi của mẹ tôi đứa con nào, nhà nhà hai miền Nam Bắc đổ xô đi tìm nhau, qua những thông tin liên lạc về địa chỉ cũ. Mẹ tôi bảo người anh lớn viết thư về tìm em, chỉ ít lâu sau thì nhận được thư anh tôi gửi vào, kèm theo một tấm hình chụp cả nhà đứng dưới cây bàng trước cửa. Anh đã có thêm bốn đứa con, cháu lớn độ mười hai tuổi, mặt mũi đứa nào cũng buồn tẻ và gầy guộc, đứa bé nhất anh bồng trên tay, bẽn lẽn nép đầu vào ngực bố. Cả nhà mừng, thở phào. Thế là còn sống cả, chỉ trừ chị tôi đi nước ngoài vào những ngày cuối khi miền Nam thất trận. Vậy là thoát, vì trong nhà đã có người làm việc cho chế độ trước phải khăn gói đi tù, chị tôi thật là may mắn. 

Nhận  lá thư với tấm  hình anh tôi gửi  vào Nam cho gia  đình, đôi mắt mẹ tôi đã lờ  mờ, ngắm nghía  mãi hình ảnh đứa  con trai hai mươi năm xa cách, với  lũ cháu nhỏ mà  cứ chảy nước  mắt. Thế nào rồi mẹ con cũng gặp  nhau, tôi hiểu nỗi  vui trong lòng mẹ tôi, rồi khi nhìn  mẹ ngồi trầm ngâm  nhai trầu trong bóng tối ngoài hiên,  tôi hiểu mẹ tôi  đang nghĩ đến chị tôi, nỗi buồn trong  lòng bà mẹ Việt  Nam, tìm lại được một đứa con sau  hai mươi năm đất  nước chiến tranh,  rồi đến lúc hòa bình, lại thêm một  đứa con ra đi,  mà trong thời buổi ấy, không ai nghĩ  có ngày còn gặp  lại.Mãi năm sau anh tôi mới thu xếp đem đứa con đầu lòng vào Nam gặp mẹ và gia đình, kèm theo những món quà đơn sơ của miền Bắc. Khúc lụa đen Nam Định để mẹ may quần, anh nghe nói miền Nam không đủ vải vóc, cân bột sắn để mẹ uống cho mát, trà mạn Phú Thọ, vài quả hồng giòn xứ Lạng, khi vào đến miền Nam đã chín nhũn. 

Bữa  cơm xum họp trong  nhà thật cảm động,  chúng tôi nhắc những chuyện ngày thơ  ấu, dù bây giờ  không ai còn bé  dại. Có bao nhiêu chuyện để hỏi  để nghe, mẹ con  bà cháu quây quần  trên chiếc chiếu trải trên nền gạch  bông, mẹ tôi bõm  bẽm nhai trầu, nhìn đứa con trai nay  đã trưởng thành  trong đau khổ,  sau bao năm ở lại một mình nơi  quê nhà, đang kể  lại cho gia đình nghe nỗi đoạn trường  của anh. Họ hàng  ai còn ai mất, hàng xóm láng giềng  năm xưa, những năm  lũ lụt đói kém, những trận mưa  bom, gia đình bồng  bế nhau di tản  lên mạn ngược.

Chiến tranh là vậy,  nhờ phúc đức tổ  tiên mà gia đình  còn đầy đủ, dẫu chưa  trọn vẹn  niềm vui xum họp.   

Hình như tất cả anh em chúng tôi, dù lớn hay bé, đều mơ hồ nhớ lại căn nhà xưa của thầy mẹ tôi với không khí đầm ấm trong những ngày thơ ấu.

Căn  nhà nằm bên ngoài  bờ thành Sơn, một  cái thành cổ được xây từ đời vua  Minh Mạng. Sơn Tây  có hai cửa chính,  cửa Tiền và cửa Hậu. Phố cửa Hậu  đi thẳng ra bờ  sông Hồng, còn nhà  tôi ở phố cửa Tiền đi về hướng  núi Tản, từ nhà,  có thể nhìn thấy  dãy núi Ba Vì mờ mờ trong màn  sương, đường vào  trong đã nhấp nhô  những ngọn đồi thấp. 

Thầy tôi xây một cái bể chứa nước mưa ở góc sân sau, cạnh bể nước có trồng cây hoa ngâu để ướp trà, phía sau nhà bếp là mảnh vườn có cái ao vuông, xung quanh trồng rất nhiều tre trúc và chuối ngự, thuở ấy mẹ tôi còn trồng thêm rau cải hay rau muống. Anh tôi kể rằng sau ngày bố chết, mẹ và các em đi Nam, anh sống với người bõ già trong căn nhà gạch hai gian vắng lặng, tất cả tài sản của thầy tôi đã bị tịch biên, chỉ còn căn nhà trống trải làm chỗ ở cho hai ông cháu.

Những  buổi chiều mùa  Đông cô quạnh,  thui thủi hai người trong căn nhà thiếu  bếp lửa hồng và  tiếng cười đùa  của lũ em, anh tôi rống lên khóc  trong khi ông bõ  già ngồi rì rầm đọc kinh. Rồi chừng  như cám cảnh nỗi  tan tác phân ly, một già một trẻ  nhìn nhau rồi cùng  òa lên khóc. 

Sau đó ít lâu, anh tôi nhặt nhạnh tất cả những gì của cha mẹ để lại rồi một hôm bỏ nhà ra đi, chưa đầy mười sáu tuổi . Anh chỉ nung nấu một điều, vượt qua sông Bến Hải là còn hy vọng gặp lại gia đình. Chuyến đi không thành công, cầu Hiền Lương không dài bao nhiêu nhịp mà khoảng cách khó lòng vượt qua nổi, những họng súng đen ngòm chỉ chực nhả đạn vào bất cứ người dân hai miền Nam Bắc, khi điên rồ vì nhớ thương mà đi qua phía bên này hoặc phía bên kia.

Anh  tôi không đi đến  đâu thì bị bắt,  không có tội gì, chỉ là tội một  đứa trẻ con đi  tìm mẹ và anh  em. Anh bị hai năm tù, lúc được  thả anh vừa mười  tám tuổi, hai năm  tù đã khiến anh thành người lớn  để chịu đựng  được nỗi cô đơn  dằng dặc suốt hai mươi năm sau.   

Lúc ấy ở miền Nam, mẹ tôi cũng vất vả ngược xuôi để nuôi lũ con thơ ăn học, lòng vẫn ngổn ngang , nghĩ ngợi thương đứa con côi cút chốn quê nhà, chẳng còn hy vọng gì còn nhìn lại con, vì chiến tranh giữa hai miền hình như không có dấu hiệu chấm dứt. Anh tôi tuy chưa đủ lớn, nhưng đã sớm trưởng thành để tìm cách tự lực cánh sinh. Anh làm đủ mọi nghề. Hai cái lò gạch ngày xưa thầy tôi làm chủ, nay anh tôi vào làm công cho nhà nước như bao nhiêu người khác. Rồi làm thợ thổi thủy tinh, để sản xuất bóng đèn và chai lọ, đất nước lạc hậu, máy móc thô sơ, con người phải dùng chính sức người để sản xuất. Cơm gạo thiếu, may thì được ngày một bữa cơm, còn ăn độn thêm khoai luộc và ngô bung. 

Được ít lâu, người bõ già cũng lăn ra chết, anh bơ vơ có một mình, chỉ còn vài người hàng xóm thân tình chạy qua chạy lại. Cậu Hoạt thợ may là người hàng xóm tốt bụng, không vợ không con, sống khắc khổ như nhà tu, dạy cho anh nghề thợ may, vì nghề thổi ống thủy tinh vừa vất vả lại ăn uống thiếu thốn, dễ bị lao phổi. Hơn hai mươi tuổi anh đã lấy vợ, vì không chịu nổi nỗi đơn độc, đám cưới chỉ  đơn sơ như một bữa cơm trong nhà , gồm vài người hàng xóm với mấy người thân bên vợ, cô dâu chỉ duynhất có một chiếc áo dài để mặc trong ngày cưới, không có  được chiếc nhẫn kỷ niệm. 

Hai người hàng xóm của gia đình tôi ở ngoài Bắc , là những nhân vật đặc biệt còn rơi rớt lại từ thành phần tiểu tư sản. Cậu Hoạt sống một mình, ẩn dật với mớ kinh kệ và cô đơn, suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện tu than lên trời làm thánh.

Cậu  chán đời, sinh yếm  thế, một lần đổ  vỡ cậu nhìn đàn bà như tà ma,  dạo trước có người  rủ cậu đi Nam,  nhưng với cậu hễ đã buồn thì ở  đâu cũng vậy. Cô  Hạ có cửa hàng  đan len và hàng xén, bán đầy kim  chỉ và que đan,  cô còn nhận đan  áo cho khách , lúc rảnh rỗi vẫn  hay đọc tiểu thuyết  và ngâm thơ. Cô Hạ thuộc gia đình  trí thức tiểu tư  sản, thích văn chương, gần ba mươi tuổi  mà chưa chồng, cô  chờ người yêu  là một sinh viên Hà Nội, đi theo  nhóm Cách Mạng chống  Pháp mãi chẳng thấy về. Thỉnh thoảng,  trong ký ức của  chị tôi khi nhớ  về cô hàng xóm, cô vừa đan áo  vừa ngâm thơ, có  hai câu hay lắm  mà chị tôi còn  nhớ: 

" Chết đi là hết sự đời,
Chết đi là hết mọi mùi đắng cay." 

Cô  Hạ mang một mối  sầu lãng mạn ,  tay đan nhanh thoăn thoắt mà thỉnh  thoảng lại mơ màng  nhìn cụm mây bay  về một phương trời xa. Có lẽ  nỗi sầu ấy nó  vận vào đời cô,  cho nên nghe anh tôi nói, cô sống  thiếu thốn cả  về vật chất lẫn  tinh thần, sau bị lao phổi rồi chết.  Cậu Hoạt sau cũng  lẩn thẩn, đâm  mắc bệnh dở hơi, gàn gàn, dở dở.  . . 

Toàn những chuyện buồn khiến nghe xong ai cũng chảy nước mắt. . . 

* * *

Anh  tôi còn kể nhiều  chuyện nữa, rồi  thở dài kết luận, thầy tôi chết đi  là một điều may  mắn cho ông, nếu  sống, nhìn thấy sự nghiệp và của  cải của mình tạo  dựng bằng mồ hôi  nước mắt, bỗng một sáng một chiều  bị cướp giật  đi một cách tức  tưởi như thế, chắc ông cũng điên  lên mà chết. 

Lúc  anh tôi kể đến  cơ nguồn chạy lụt  và chạy bom, cả nhà đều đỏ hoe  đôi mắt. Riêng  anh, đôi mắt ráo  hoảnh, cứ mở to không chớp, nhìn  đau đáu vào khoảng  không như nhìn vào thăm thẳm của dĩ  vãng, có những nỗi  khổ tột cùng mà  người lớn còn không chịu nổi,  huống gì với một  đứa trẻ chưa thành  niên. 

Có lần lụt lớn, nước dâng lên nửa nhà, vợ chồng con cái bồng bế nhau chạy lụt, hành trang chỉ là mấy cái tay nải đựng ít quần áo và lương khô. Khi về, nhà cửa còn mốc meo, ẩm ướt, mấy tấm ảnh của thầy mẹ và các em bị loang lổ không còn hình dạng. Anh đau khổ nhìn tấm ảnh cuối cùng, một lần nữa, những trận lụt lớn, những cơn mưa bom, đánh bạt luôn trong anh chút kỷ niệm của người thân.

Bom  đạn giăng giăng  trên quê hương,  tạo nên những vết sẹo lồi lõm trên  thân thể một tổ  quốc bị đậu mùa.  Lúc miền Bắc toàn dân bị đẩy vào  cuộc chiến tranh,  thanh niên, thanh nữ hồ hởi lên đường  đi giải phóng miền  Nam, anh tôi cũng tình nguyện đi B,  nhưng không được  chấp thuận , vì  cái lý lịch có gia đình ở miền  Nam. Vậy mà ở  miền Nam, những  gia đình có cha , anh tập kết  ra Bắc, con em  vẫn được đi học  và nhận vào quân đội, có những  người còn được  học hành để trở  thành những nhân tài cho đất nước.

Cuộc chiến tranh ở Việt Nam rất ngộ nghĩnh. Người Việt ở miền Bắc được nhồi nhét lòng căm thù cao độ, lại thiếu thốn về đời sống vật chất, cho nên họ cương quyết chiến đấu với miền Nam để đoạt được Thiên Đàng tại thế. Người Việt miền Nam vừa chống giặc, vừa tò mò nhìn xem kẻ thù là ai, rồi khi biết "giặc" cũng chỉ là người Việt Nam như mình, thì họ rất bao dung để đơn giản nghĩ rằng: "Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.".

Đó có phải là nguyên nhân mà miền Nam thua, khi một nửa bên kia cố tình chiếm đoạt, một nửa bên này chỉ hòa hoãn chống đỡ để duy trì hòa bình, sự tương tàn chỉ vì hoàn cảnh bất đắc dĩ mà bắn giết nhau, chứ ai lại muốn gạch những vết mực đen lên bức tranh quê hương đẹp đẽ. 

Anh tôi vẫn nung nấu ý định đi vào Nam tìm gia đình bằng con đường đi B, nhưng vẫn không toại nguyện, nếu đi lọt, lại thêm một tiểu gia đình tan nát vì chiến tranh. Dấn thân bằng con đường chết để mong gặp lại mẹ và anh em, nhưng nếu chẳng may anh được chấp nhận, có thể bỏ xác trên đường Trường Sơn, hay trên một chiến trường miền Nam, thì liệu rằng có nên đếm xác anh vào số những kẻ thù bị tiêu diệt? 

Chắc  chắn là không thể,  nếu nhìn vào sâu  thẳm tấm lòng người dân miền Nam cũng  như miền Bắc, những  con người chân chất , mộc mạc, không  ai lại muốn đất  nước chiến tranh,  sẽ tội nghiệp vô cùng người dân  quê tôi, để hiểu  rõ cái áp lực  chính trị áp đặt lên thân phận người  dân đôi miền thật  nghiệt ngã. Sau này, khi hai miền thống  nhất, bên thắng  đàn áp bên thua trong hậm hực, bên  thua cũng khuất phục  trong hậm hực, hứa hẹn một màn đấu  đá cẩn thận trong  tương lai nếu có  dịp, những lằn ranh nghiệt ngã không  bao giờ mất. Cũng  chỉ vì e ngại lằn ranh nghiệt  ngã ấy, mà mẹ  tôi chưa dám thực  hiên một lần trở về, thì đã vội  vã lìa đời. Rồi  mỉa mai sao, không  khí chính trị làm miền Nam nghẹt thở,  để sự có mặt  của anh tôi trong  gia đình, lại vẫn là hiện thân cho  một tai ương của  dân tộc, khiến  anh em tôi có lúc không hiểu nhau,  như một câu hát  nghe rất buồn cười nếu được suy diễn  theo lối châm biếm  của người nghe:  "Vui sao, nước mắt lại trào..."   

Miền  Nam vốn từ trước  đến giờ, đã được  trời thương ban cho một mảnh đất  gió thuận mưa hòa,  kiếm miếng ăn không khó. Nay hòa bình, người dân được  quản lý chặt chẽ  bao tử như thời kỳ chiến tranh chống  Mỹ của miền Bắc, phân phối từng hạt gạo, lít nước  mắm, thước vải  để may quần áo. Ngay cả vấn đề tư tưởng, dẫu  rằng chưa hẳn đã  được thực sự  tôn trọng trong thời kỳ chiến tranh,  nhưng cũng không  đến nỗi bị bóp  nghẹt kiểu " trên đe, dưới búa,  đít ngồi bàn chông"  như lúc này. Anh em tôi đã bắt  đầu có những lấn  cấn, vì ít nhiều  gì mỗi bên đều bị ảnh hưởng  cuộc sống xã hội  nơi mình lớn lên, bởi vậy mà đôi khi vẫn có những  bất đồng tư tưởng  không thể tránh. Kinh tế  tụt dốc, người ta đổ  xô ra chợ trời  bán buôn những thứ  mà ngoài kia gọi là : " phồn  vinh giả tạo".

Giả  hay thật thì ai  biết cho ai, chỉ  thấy là miền Bắc  đổ xô vào vơ vét những thứ "giả  tạo" đó đem  về, người miền  Nam cũng vội vàng tống khứ những  thứ "giả tạo",  để hòa mình mau  chóng và khắc phục sự thiếu thốn  của đất nước  trong thời kỳ hậu  chiến. 

Mừng vui trong một nền hòa bình bi thảm như thế, cuộc tái ngộ thật ngậm ngùi. Nếu như người ta hiểu được cái giá quá đắt đã phải trả cho cuộc tương tàn, mà bỏ đi hai chữ hận thù, cùng bắt tay vào xây dựng đất nước thì giờ đây tổ quốc đã đẹp đẽ biết bao. Sự bực dọc khiến người miền Nam nhìn anh em mình ở ngoài Bắc với cái nhìn chung chung trong một nỗi thống hận, bất kể là ai, năm mươi con theo mẹ về trời, năm mươi con theo cha xuống núi, rõ ràng thì khó mà hòa hợp với nhau từ cách sống cho tới tư tưởng.

Cả  nhà nghĩ đến chuyện  về thăm quê. Đường  bộ sau chiến tranh còn gập ghềnh, đầy hang ổ bom  đạn, đường thủy  thì lâu lắc, xa xôi, chỉ chờ đường  tàu Thống Nhất  làm xong là thế  nào cũng có nhiều người hai miền  về thăm nhau. Riêng  điều ấy, với  mẹ tôi thì tôi hiểu đó là điều  bà ray rứt hằng đêm, nỗi sầu xa quê bao năm trường tưởng sẽ về ngay  được, nhưng mẹ  tôi vẫn không về, lý do vì có người con bỏ nước  ra đi, vẫn có  thể bị họ hàng  ngoài kia đàm tiếu theo quan điểm chính trị thuở đó. 

Trong đêm khuya, mẹ tôi bõm bẽm ngồi nhai trầu hàng giờ ngoài mái hiên không ngủ. Về. Không về. Mẹ tôi quay quắt trong ý tưởng được một lần về thăm mái nhà xưa, nơi chốn cũ, thành phố nhỏ mà quanh đi quẩn lại chỉ những người quen biết.

Con  đường về làng  cũ, có mồ mả  ông bà, có ngôi  mộ của thầy tôi nằm trong một nghĩa  trang cạnh ven đê  sông Hồng, có con đường ra Hà Nội  hai bên râm mát  bóng cây bạch đàn.  Những hình ảnh năm cũ, nay như  cuộn phim lần lượt  trở về trong trí  nhớ. Ít ra thì mẹ tôi vẫn ước  ao về xây lại  nấm mồ của thầy  tôi cho tử tế, được trở về  làng quê cũ, nói  lại ngôn ngữ quê  mùa với anh em, họ hàng trên mảnh  đất quê nhà. 

Tôi đã nhìn thấy bao điều nghịch lý sau những ngày hòa bình, có xum họp rồi vẫn thấy phân ly, có thương yêu rồi vẫn có hận thù. Người mẹ miền Nam vội vã hạ tấm hình đứa con đi lính đã tử trận xuống , chỉ vì anh ta mặc bộ quân phục lính miền Nam, có gắn chiếc huy chương trên ngực áo.

Sự  mất đi của người  con đã là một  đau xót cho người mẹ, ngay cả sau  khi chết, tấm hình  kia cũng không được  một chỗ đứng danh dự trên bàn  thờ. Mẹ tôi cũng  thế, dẫu hai mươi  năm trước bỏ lại một đứa con, chỉ  là cái oái oăm  của định mệnh,  hai mươi năm sau, một đứa con lại  ra đi, há không  phải là điều đau  xót. Thật vậy, cho đến cuối đời,  lúc thoi thóp trên  giường bệnh, dường như mẹ tôi vẫn  bị ám ảnh về  sự mất mát này.  Ngày mẹ chết, anh tôi từ Bắc không  vào được đúng  ngày chôn cất, chị  tôi cũng không về được vì người  ta vẫn cấm chợ  ngăn sông, những  lằn ranh vẫn còn, tiếp nối từ thời  kỳ này sang thời  kỳ khác. 

Có nhìn vào cái dáng buồn rầu của người mẹ xa con, mới thấy nỗi u uẩn trong lòng người mẹ. Buổi trưa hè, mẹ tôi ngồi nhặt gạo nấu bữa cơm chiều, thỉnh thoảng lại buột miệng gọi tên một người con bà nhớ, khi thì anh tôi, lúc lại chị tôi.

Dường  như lúc ấy trong  lòng mẹ tôi vẫn  là hình ảnh căn nhà lợp ngói hai  gian ở phố Cửa  Tiền năm xưa, anh  tôi độ ấy hơn mười tuổi, cõng  em chạy long nhong  ngoài hè đường,  hay là hình ảnh chị tôi , lũn  cũn đi nhổ hết  những cây cải non  trong vườn sau của  mẹ. 

Hai đứa con mà cuộc chiến Việt Nam đã thay nhau đẩy ra khỏi trái tim người mẹ, để mẹ tôi suốt đời nặng trĩu những nhớ thương, đau khổ. 

* * *

Anh tôi tính hơi bất thường, con người đầy tình cảm tha thiết như thế, bỗng dưng nhiều khi lạnh lùng, hoài nghi tất cả. Sự mâu thuẫn nội tâm này là kết quả của những tháng ngày anh cô đơn chống chỏi với đủ mọi thứ  bất trắc trong cuộc sống, nó ảnh hưởng lên tâm hồn anh khiến anh ngờ vực ngay cả lòng thành thật của người khác.

Càng  suy nghĩ, tôi thấy  anh tôi đáng thương  hơn đáng trách, chính chế độ đã  nhào nặn anh thành  kẻ đa nghi và  đánh mất niềm tin nơi con người,  bị lừa dối, bị  hắt hủi, bị cái  đói cái khổ dằn vật khiến người  ta lúc nào cũng  thắc thỏm lo âu.  Không tin cả Trời, không tin cả Người,  không còn niềm tin  thì đời sống làm gì còn ý nghĩa.  Chẳng phải mình  anh tôi, sau này  có dịp về lại miền Bắc, tôi mới   xót xa nhận  ra rằng, ngay cả  lòng nhân ái cũng không được tự  do bày tỏ, thật  gớm ghê cho cái  tàn nhẫn của chính  trị. 

Năm một chín tám mươi , tôi đi Bắc thăm chồng trong trại Cải Tạo, sẵn dịp về thăm anh chị và các cháu. Chuyến xe từ miền Nam đổ chúng tôi xuống vỉa hè một con đường của thị xã Thanh Hóa, lúc ấy tuy ban ngày mà phố xá thật vắng vẻ, không nhìn thấy một chiếc xích lô nào làm phương tiện di chuyển như ở miền Nam. 

Đang ngơ ngác tìm người để hỏi thăm đường ra bến xe đi Bãi Trành, như địa chỉ trong thư dặn dò. Một đống hành lý ngổn ngang toàn những thực phẩm tiếp tế, chúng tôi lúng túng chưa biết làm sao để chuyển được ngần ấy thứ ra bến xe,  đúng lúc ấy chủ nhân của căn nhà chỗ chúng tôi đứng tạm đi làm về, đằng sau chiếc xe đạp còn chở theo một bó rau muống thật to, có lẽ anh mới ghé qua chợ. 

Nhìn bộ điệu ngơ ngác của chị em tôi, anh đoán ngay là dân miền Nam ra thăm tù ở miền Bắc. Thành phố nhỏ, người qua kẻ lại nhìn chằm chằm vào những người lạ dọ dẫm khiến chúng tôi thật khó chịu. May quá, đúng lúc ấy, người chủ nhà chạy ra, anh nói: 

" Các em cứ mang hết hành lý vào trong này, đứng mãi ngoài đường người ta dòm ngó. Vào đây rồi tính sau, đi thăm người nhà cải tạo phải không?" Chẳng  cần anh phải nói  thêm, chúng tôi vội  vã khuân hành lý vào nhà ngay, lúc  này tôi mới chú  ý đến anh, chiếc  nón cối đội đầu, áo sơ mi trắng,  hình ảnh công nhân  viên hay cán bộ nhà nước. Tôi cũng  không hiểu sao anh  lại có vẻ tử  tế với chúng tôi như vậy, sau anh  mới kể, đã có  hai lần vào miền  Nam, anh có người anh làm nhà giáo  ở trong ấy, bảo  anh đưa vợ con  gia đình vào có nhà cửa và cơ  sở làm ăn, nhưng  anh không vào, vì  vợ anh vốn người chân quê, gia đình  chị lại ở cả  Thanh Hóa, chị sợ  đi xa không gần gũi cha mẹ anh  em, nên dù thấy  miền Nam phồn thịnh  và đông đảo, vẫn không đi. 

Nhà anh tuy ở phố nhưng vẫn theo kiểu nhà quê, phía sau có chuồng nuôi lợn và cái giếng nước. Sau khi nghỉ ngơi, tắm giặt sạch sẽ, đúng vào giờ tan tầm buổi trưa, chị cũng về nhà nấu cơm, các cháu gửi ở nhà trẻ. Chị ngạc nhiên nhìn chúng tôi, anh vui vẻ vắn tắt vài câu giới thiệu chúng tôi là người nhà của ông anh từ miền Nam ra.

Sau  đó vợ chồng rù  rì to nhỏ, chị  cũng không hỏi thêm, sẵn có túi gạo  ngon từ miền Nam  đem ra, tôi tế  nhị thổi nồi cơm trắng để cả nhà  cùng ăn, chị bảo  chiều sẽ dẫn tôi  đi chợ.

Hai chiếc bếp củi được đặt trên nền đất, căn bếp bé tý và tối om om.Trong buồng ngủ của anh chị, thấy có chiếc máy may , một chiếc máy truyền hình và chiếc máy hát đã cũ, chắc của người anh trong Nam tặng.

Còn phòng khách lại trống trơn, chỉ có chiếc phản gỗ và bộ bàn ghế cũ làm nơi tiếp khách. 

Cơm vừa chín tới thì một người đàn bà, chắc là hàng xóm của anh chị , thấy có người lạ chạy sang , xồng xộc đi vào nhà, anh vội giới thiệu " mấy cô em bất đắc dĩ" từ miền Nam ra.

Với  vẻ xông xáo rất  tự nhiên, bà ta  đi vào bếp, tự  tiện nhấc nắp vung nồi cơm vừa  chín tới ở trên  bếp, hít hít mấy  hơi  rồi nói với một vẻ đầy  châm biếm: 

" Hôm nay ăn sang nhỉ, nguyên một nồi cơm trắng." 

Rồi bà ta nhìn lom lom vào chúng tôi như dò xét, vì lúc nãy bà đã quan sát chúng tôi đứng ở lề đường khá lâu , cho nên sinh nghi trong bụng. Bà hàng xóm ra về, chúng tôi quả thật lo ngại và buồn nôn cho cái kiểu nhảy xổm vào cuộc sống của người khác như thế. Bữa cơm ăn không biết ngon, phần mệt, phần lo, tôi thấy anh thở dài, còn chị thì đăm chiêu, tư lự. Sau bữa ăn trưa, anh phải đi làm, chị cáo ốm ở nhà đưa tôi đi chợ, và sau bữa cơm tối, anh chuẩn bị đưa chị em tôi ra bến xe. Anh nói, giọng buồn buồn:  " Anh phải đưa các cô ra bến xe ngay tối nay, vì mỗi ngày chỉ có một chuyến xe đi Bãi Trành, sợ sáng mai không kịp." 

Thật  ra nhìn vẻ khổ  sở trên nét mặt  anh, tôi có thể hiểu là anh không  dám cho chúng tôi  ngụ lại nhà anh  đêm đó, vì những rắc rối có thể  xảy đến cho gia  đình anh. Chúng tôi thông cảm ngay nỗi  khổ tâm của anh,  một người xa lạ không chút máu mủ  ruột rà, vậy là  anh quá tốt, không  dám đòi hỏi gì hơn. 

Gửi gấm chúng tôi ngồi bên hàng hiên một quán nước, lù mù ngọn đèn dầu trên chiếc bàn thấp có bày vài nải chuối, mấy cái bánh in nhân đậu xanh, mấy chai nước chanh pha sẵn và nồi nước chè tươi. Suốt đêm hôm đó chúng tôi nằm trên tấm ny lông trải dưới đất, gối đầu lên đống hành lý sợ mất trộm. Bến xe càng về khuya càng vắng người, chỉ có một vài người lỡ đường chờ chuyến xe sáng ngồi uống nước và hút thuốc vặt. Lòng tôi nao nao buồn, nhìn quanh thì chỉ những mảnh đời khốn khổ, đói nghèo , đầy những bất trắc , càng nghĩ tôi càng muốn chảy nước mắt . 

Sáng  hôm sau, trời tờ  mờ sáng và chuyến  xe duy nhất đã vào bến, tôi thấy  anh đã lọc cọc  đạp xe ra. Quần  xắn cao, còn vác thêm một cây đòn  gánh, anh nói suốt  đêm cũng không ngủ được vì lo, anh  chỉ mong trời sáng  để ra bến xe  giúp chị em tôi lên xe, đề phòng  bị mất cắp hay  bọn lơ xe, khuân  vác bắt chẹt. Chờ chúng tôi lên xe  xong xuôi, anh dặn  dò mấy câu rồi  mới về, tôi ngồi nghĩ ngợi về ân  nhân mà muốn khóc,  xúc động vì lòng  nhân ái giữa con người với nhau.  Những lúc cấp bách  nguy nan, những lúc cô đơn trong dòng  đời , những chia  xẻ dù nhỏ nhoi  vẫn làm trái tim ta thổn thức, cảm  nhận thật sâu sắc  về tình người  quý báu đó. Có một điều đau xót là những ràng buộc của chính trị đã khiến người ta không dám thể hiện lòng nhân ái, vì những bất an cho cuộc sống và tương lai khiến phải hững hờ trước nỗi khổ của người khác. Đó có phải là cái lằn ranh nghiệt ngã mà chắc chỉ khi nhắm mắt , hai tay buông xuôi người ta mới thoát ra được. 

Tôi  viết những dòng  chân thật này để  cảm ơn anh, người tôi không hề quen  ở thị xã Thanh  Hóa êm đềm, buổi sớm mai còn phủ đầy sương  núi, chập chùng  những rừng cây  ở phía xa. Ít ra thì tôi cũng  một lần mở được  chút suy nghĩ hẹp  hòi cái lằn ranh vô hình, đã thắt  chặt lấy tâm tư  dân tộc sau bao  nhiêu năm đầy thành kiến với nhau. Anh  lại ngậm ngùi chia  tay chị em tôi và chúng tôi đáp  chuyến tàu đêm  về Hà Nội. Tôi  mua chiếc bánh mì mà nuốt không nổi,  vì nó cứng như  đá, những con rệp  đánh hơi người bò lên lổm ngổm,  bám chặt lấy da  thịt chúng tôi chích nhoi nhói. Tàu đi  qua những sân ga  buồn, leo lét ánh đèn đêm vàng vọt.  Đến ga Nam Định,  tàu ngừng, người ta chen chúc nhảy  tàu ngã dúi dụi  vào nhau, một chị  phụ nữ nhà quê đi buôn còn dẫn  theo đứa con gái  khoảng sáu tuổi,  đôi mắt con bé cứ dán chặt vào  ổ bánh mì trên  tay tôi thèm thuồng.

Tôi  đưa ổ bánh mì  khô cứng cho con  bé, nó mừng rỡ giương mắt ra nhìn  trong khi người mẹ  cảm ơn rối rít.  Một ổ bánh mì cứng như đá chọi  chó cũng u đầu,  vậy mà nó đã  mừng rỡ đến như  vậy ư ? Qua  đó, đủ hiểu cái  đói, cái nghèo đã  phủ lên đầu đồng bào tôi, tội nghiệp  biết bao. 

Sau này về miền Nam, một mùa Xuân tôi nhận lá thư của anh viết thăm, có thêm một câu thơ : 

" Trước sau nào thấy bóng người, 
Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông. . ." 

Tôi hiểu , thêm  một nét lãng mạn  và mơ mộng nơi  tâm hồn anh . Người ta có thể  bóp chết tất cả,  ngoại trừ tư tưởng.

***

Hai  miền Nam Bắc thông  thương được vài  năm thì mẹ tôi qua đời, thế là  cái ước vọng được  về nằm bên cạnh  ngôi mộ thầy tôi cũng không bao giờ  thực hiện được.  Ngay cả lúc chết,  các con vẫn còn tứ tán mỗi người  một nơi, anh tôi  ở miền Bắc không  vào kịp để chôn cất mẹ, chị tôi  ở phương xa vẫn  chưa có nẻo về,  chỉ còn vài anh em gần gũi lo  ma chay cho mẹ.  Đám ma đơn sơ  ở một làng quê miền Nam, có con  sông nước đục  ngầu phù sa và  những giề lục bình hoa tím trôi  lang thang, có hàng  dừa xanh soi bóng nước, có tiếng  chuông nhà thờ buông  những âm thanh buồn buồn mỗi khi chiều  xuống. 

Trước  khi đi xa, tôi  về quê bốc mộ  cho mẹ. Lần cuối cùng tôi cầm trên  tay nhúm tro cốt  của mẹ , rồi  nhìn những sợi khói mong manh bay  lên trời trong một  buổi chiều miền quê quạnh vắng,  tôi đã vừa khóc  vừa nói với mẹ  tôi rằng: " Thôi nhé mẹ ơi!  Bây giờ thì thầy  mẹ đã được gặp  nhau rồi. Dẫu đất nước chia lìa, dẫu  lòng người có phân  ly, nay trở về cát bụi, sẽ không  còn lằn ranh nghiệt  ngã nào bên kia thế giới. Mẹ đã  hoàn toàn bình yên,  bình yên mãi mãi."   

Để tưởng nhớ hương hồn thầy mẹ, 
Riêng tặng các anh chị của tôi. 

Nguyên Nhung
Back to top
 
mydung2003sg  
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #121 - 09. Jul 2010 , 18:41
 
 

Thân gởi đến quí bạn một câu chuyện ngắn.

Xin mời đọc để thấm kiếp người đọa đầy.

[bQUỲNH  NHƯ][/b]



HUẾ 1966.

Huế, thật đẹp, thật thơ-mộng, thật dịu dàng ướt át và cũng thật nóng bỏng. Huế thật đẹp với những hàng cây phượng vĩ chạy dọc bên những con đường nho nhỏ nên thơ. Huế thật thơ mộng với những hoa phượng rơi rơi trên áo dài trắng, trên mái tóc dài của những cô học trò đang trên đường về. Dịu dàng ướt át với những cơn mưa kéo dài hết ngày này sang ngày khác. Và nóng bỏng, với nắng Hạ, với tóc dài, buông lơi bay trong gió, với những tà áo trắng quấn-quít, bíu chặt đôi chân. Nóng bỏng.

Trên đường về nhà, mỗi cuối tuần, bỏ lại sau lưng Tu Viện buồn chán, Quỳnh Như suy nghĩ miên man. Gặp Mạ, mình sẽ nói gì đây? Nhớ Mạ? Thì đúng quá rồi. Mình đang nhớ Mạ quá đi nè! Nhưng trong tận thâm sâu của cô gái Huế, 20 tuổi, một cái gì xôn xao, trông ngóng. Trong Như, hình như có 1 điều gì đang thôi thúc và cũng đang niú kéo đôi chân dài thật dài của Như lại. Như muốn đi thật chậm, từng bước, từng bước, để có đủ thì giờ, suy nghĩ những gì muốn nói khi về tới nhà. Cùng lúc, Như muốn đôi chân mình, sẽ nhẹ như mây, như sương khói, để mình có thể lướt đi một cái vèo là về tới nhà. Nói về nhan sắc của Như, Như không những chỉ làm chủ đôi chân mà thật nhiều cô gái ngày đêm mơ-ước. Như còn sở-hữu 1 dáng người thật đẹp. Dáng người Như cao cao, những nét cong trên người nàng tuyệt hảo, tuyệt đối, không một chỗ nào dư, không một chõ nào thiếu. Perfect!, ngây-thơ!, và quí-phái. Gương mặt trái xoan của Như là những gì đẹp nhất, thanh-tao nhất mà Thượng-Đế có thể ban tạo được cho thế-gian. Chẳng thế mà bạn bè Như thường so-sánh Như với gương mặt của Đức Mẹ Maria. Với sắc đẹp tuyệt-thế như vậy, cũng chẳng có gì phải ngạc-nhiên khi mà những tiệm chụp hình ngoài Huế, tiệm nào cũng xin được chưng hình chụp của Như trong tủ kính để thiên hạ qua lại chiêm ngưỡng, ngợi khen. Ai đi qua những tiệm chụp hình đều không thể không trông thấy những bức hình chụp của Như.

Chỉ có một điểm không được cân xứng với nét đẹp tuyệt vời này. Như thường tâm sự vói một cô bạn nhỏ tuổi hơn Như, “Phải chi, tau được có đôi bàn tay và đôi bàn chân như mi, là tau không con mơ ước gì nữa”. Ông Trời sao thật trớ-trêu!!



Khác với một năm về trước, bây giờ, mỗi cuối tuần, Như nôn nao chờ ngóng để mau được về nhà. Như cũng nhận thấy đôi khi vào những ngày trong tuần, Như cũng tìm cách để xin phép Ma Seur, xin được về nhà.

Mạ Như, bà quản-lý trông coi một trường Đại Học. Những sinh viên Luật và Y khoa ngòai Huế thường xin được tạm-trú trong ngôi trường này. Đôi khi, bà cũng nấu những bữa cơm cho sinh viên khi được yêu cầu. Trong số những sinh-viên sống trong khuân-viên của trường Luật, từ trong Nam ra, có Lê đại  Bàng.



ĐÀ NẴNG 1968

Như suy-nghĩ mông-lung. Mới có hai năm thôi, mà sao cuộc-đời mình quá nhiều biến-đổi. Từ một nữ tu, bỏ viện, về ở nhà, để được gần Bàng, để được nấu ăn, săn-sóc cho Bàng. Bây giờ bụng mang dạ chửa, phải bỏ Huế, chạy trốn vào Đà-Nẵng một mình. Như biết, Mẹ Như chẳng biết gì, Bàng vẫn ở trọ nhà mạ Như, ngày ngày gặp bà, nhưng không bao giờ nhắc tới Như, coi như không có chuyện gì xảy ra hết!!



SÀI GÒN 1970

Từ lúc nghe tin Bàng sắp làm đám cưới với em một nhân vật quan trọng trong chinh phủ Nguyễn văn Thiệu. Như nghĩ “như vậy là anh sắp-sửa thực-hiện được giấc-mơ ngày còn đi học rồi, phải không?? Như nhớ, Bàng thường nói, “sau khi ra trường, hy-vọng có tiền, để có thể mở được 1 phòng mạch”. “Nhà Bàng nghèo mà!!!!Ai nghèo mà không ước-mơ được như vậy??!!” Như như biện bạch cho Bàng. Trước khi quyết tâm vào Nam một chuyến, Như tâm sự với người bạn gái: “Tau phải mang con bé vào Sài Gòn cho Bàng gặp mặt con anh ấy. Con bé đẹp quá mà, Bảng thích đẹp, chắc sẽ nhận con và từ bỏ đám cưới!!” Như không nói tới, nhắc tới hoặc nghĩ tới Bàng có còn yêu mình nữa hay không; cũng không nghĩ là mình muốn gì ở Bàng nữa. Như chỉ muốn con gái mình được sống bên cạnh cha của bé. Rồi cuộc đời Như tới đâu cũng được.

Tới Sài Gòn, trong khi chờ đợi giờ phút thuận-tiện để 2 cha con gặp mặt, Như đưa bé ra Bình Bung chợ Bến Thành chơi. Một trái lựu đạn nổ tung không biết từ đâu. Đứa con gái nhỏ của Như, trúng miểng lựu đạn, bé chết ngay tại chỗ. Như còn sống, Con Tạo chưa muốn kết-thúc cuộc đời Như. Chưa thể hết được. Trong lòng Như đã nát tan. Hết!! Như không còn một dự tính nào khác nữa, Như quay đầu trở về Đà Nẵng. Bàng cưới vợ, em một tướng Không Quân, mở phòng mạch.



ĐÀ NẴNG 1972 

“Gái 1 con, trông mòn con mắt” Hơn nữa, gái này lại là Quỳnh Như, hoa khôi tuyệt thế ngày nào. Ngày nào, Như nhủ thầm trong bụng, “Ừ, mới cách đây mấy năm thôi, mà bây giờ cuộc đời mình đã ra thế này. Con Tạo dễ sợ thật. Thôi thì cứ sống, thử coi Con Tạo xoay vần mình đến đâu”. Như xoay người, ngắm nhìn mình trong gương, cần sửa soạn gì nữa không? Sắc đẹp thì vẫn như xưa, còn đẹp hơn nữa là đàng khác. Nhưng, sao đôi mắt thần-tiên ngày nào, với ánh mắt trong sáng, đầy yêu thương như Đức Mẹ đã biến đi đâu mất rồi?! Bây giờ, đôi mắt ấy, ánh mắt ấy vẫn long lanh, nhưng thoáng như, lảng vảng như có những sợi tơ buồn vương đọng.

Ông Minh, Trung Tá Không Quân, đúng giờ, lái xe đến đón Như đi ăn tối. Như quen ông, để mong được quên đi tất cả những gì liên hệ tới quá khứ. “Quá khứ đã quá buồn rồi. Sống để nhớ quá khứ, để nhớ chuyện buồn, chuyện khổ nữa, thì ai sống nổi”, Như nghĩ vậy. Ông Minh đưa Như vào làm trong VNTT, một ngân hàng khá lớn tại Đà Nẵng, lương dư sống. Chiều chiều, ông đón Như đi ăn. Như vậy cũng được, cuộc sống như vậy cũng tạm gọi là ổn-định.



Một hôm, Như lái xe tới nhà cô bạn gái nhỏ tuổi. Vừa vào đến trong nhà, chưa kịp ngồi, Như đã rên rỉ “ Sao mi ác rứa, sao mi báo cho vợ của ông ta tau là bồ của ông ấy. Chỉ có mi là biết câu chuyện này của tau thôi, tau chưa từng nói với ai chuyện này hết”. Sau khi đầu đuôi câu chuyện đã ngã ngũ, cô bạn gái dặn dò Như “Sao chị không hỏi thử chị Đoan, bồ ông Tướng ... đó, thử coi”

Câu chuyện rồi cũng tạm ổn định. Bà Trung Tá chắc nghĩ mình cũng già rồi; với lại, chuyện đàn ông bồ bịch, ai cũng có. Mọi chuyện chỉ là tạm thời, rồi đâu cũng vào đó thôi, nên cũng chả thèm ghen tuông nữa.

Mau ngê!! Con trai của Như với ông Minh đã gần hai tuổi rồi đó.



ĐÀ NẴNG 30-4 1975

Miền Nam thất thủ. Sĩ Quan Quân Đội nhận được lệnh phải đi học tập cải tạo. Như lênh đênh, như thuyền không bến. Sống không nổi tại Đà Nẵng Như quyết định mang con vào Nam để được sống gần người chị ruột.



SÀI GÒN 1976

Một nữ tu, có một sắc đẹp mà bạn bè lúc nào cũng so-sánh “đẹp như Đức Mẹ”, con nhà khá giả. 10 năm sau thôi, bây giờ, một chị đàn bà, da đen-đúa, ngồi bán thuốc lá lẻ trước Công Viên Tao Đàn, nhìn người người đi qua, nhìn cuộc đời đi qua. “ Ê, mi là.....ở Đà Nẵng hồi đó, phải không? Như đây nè, nhớ không?” “Em nè. Chị Quỳnh Như, Chị có thay đổi, nhưng nét đẹp của chị vẫn còn đó, không thay đổi, Em nhận ra chị ngay”

Chị Em hàn thuyên, chuyện vãn. Như thổ lộ “tau đang bị bệnh lao phổi, nhưng không có tiền vào bệnh viện để chữa bệnh”. Cô bạn gái nhỏ tuổi bèn giúp đỡ để Như được đưa vào bệnh viện điều trị.

Tại bệnh viện, trong lúc nói chuyện với bác sĩ điều trị, vị bác sĩ này hỏi thăm và nhận ra cô bạn gái nhỏ tuổi của bệnh nhân là người mà anh ta đã khổ công tìm kiếm bao lâu nay, nay tình cờ tìm gặp lại được. Anh chữa trị thật tận tình và Như được ra khỏi bệnh viện sau thời gian ngắn chữa trị.



SÀI GÒN 13 NĂM SAU 1989

Một ông già, thật già, thật gầy, đầu đã hói gần hết tóc, lưng thì còng và răng thì đã rụng hết, không còn cái nào. Ông gõ cửa nhà Như, giới thiệu là Minh, vừa trong trại cải tạo về. Như thất thần, hốt hoảng, thầm nghĩ “Ông ơi, sao ông không về với vợ con ông?, ....., hỡi trời”



SUN CITY, 7/8/10

Câu chuyện trên đây là chuyện thật hay là chuyện tưởng tượng? Tôi không biết!

Những nhân vật trong chuyện là hư cấu hay là những nhân vật có thật trong cuộc đời?

Tôi không hay!

Những mốc thời-gian trong chuyện là sự-thật hay chỉ là tưởng-tượng?

Biết trả lời sao cho đúng bây giờ?

Nếu trí óc tôi còn minh-mẫn, thì đây là câu trả lời:

Tôi ngồi đây, một mình, nhớ chuyện cũ.

Muốn hỏi quá khứ, muốn hỏi thời gian:

Người cũ đâu rồi? Ai còn ai mất? Và ai đó, xin hãy nhắc tôi đây là chuyện có thật. Để tôi được buồn, được khóc với cuộc đời.



Nhưng, nếu đây chỉ là chuyện tưởng tượng, tầm phào của một người tuổi đã về chiều, thì xin đọc qua rồi bỏ.

Đời còn nhiều chuyện thương tâm hơn thế nữa, nhiều chuyện buồn hơn thế nữa, phải thế không, quí vị?

Trân trọng
Back to top
« Last Edit: 09. Jul 2010 , 18:42 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Dzitgo
Gold Member
*****
Offline


Cạp cạp cạp

Posts: 1887
Ý nghĩa về phong thủy
Reply #122 - 10. Jul 2010 , 14:06
 


Ý nghĩa về phong thủy



Bí ẩn các vật phẩm phong thủy (1)

Bày vật phẩm Phong Thủy trong nhà mà không hiểu biết ý nghĩa của nó quả là một hành động nguy hiểm, bởi đồ phong thủy không phải chỉ để bày biện cho đẹp.


Bạn hãy tìm hiểu về ý nghĩa của các vật phẩm thường gặp trong loạt bài "Bí ẩn các vật phẩm phong thủy" dưới đây.


1 - Hoa mẫu đơn - Biểu tượng cho sự sang trọng, quý phái và hấp dẫn

...

Những bức tranh phong thủy về Hoa mẫu đơn.


Người không những mong muốn thêm người, thêm của mà còn một điều mong ước nữa thường được thể hiện trong các câu chúc tụng nhau - đó là phú quý. Vì vậy, nhiều người thích trồng hoa cảnh hoặc cắm hoa trong nhà, một số loài hoa không những được người đời ưa thích mà còn coi đó là biểu tượng của phú quý, giàu sang, ví dụ Hoa mẫu đơn.

Tương truyền rằng, năm khai nguyên nhà Đường, thiên hạ rất thanh bình, nghe đâu năm đó ở Trường An, hoa mẫu đơn nở rộ, khi Đường Huyền Tông thưởng thức hoa mẫu đơn ở trong nội điện muốn cao hứng ngâm vịnh một bài thơ về hoa mẫu đơn, nhưng nhà vua chưa biết nên ngâm bài thơ nào, lúc đó Trần Tu ở bên cạnh liền tâu rằng: Nên ngâm bài thơ của Lý Chính Phong, trong bài này có câu:

Thiên hương tại nhiễm y
Quốc sắc triều hàm tửu.


(tức: "Hương trời nhuốm màu áo, sắc nước say cả triều")

Về sau người ta dùng từ “quốc sắc thiên hương” (sắc nước hương trời) để hình dung hoa mẫu đơn. Nhưng Âu Dương Tu lại có cách phác họa khác là:

“Thiên hạ chân hoa độc mẫu đơn”
(tức: "Chỉ có mẫu đơn mới xứng đáng là hoa thật trong thiên hạ").

Dường như mẫu đơn càng đẹp hơn, quý hơn nhờ được hai nhà thơ tôn vinh, còn người đời coi mẫu đơn là biểu tượng của phú quý, trong các dịp khai trương, người ta hay tặng nhau tượng hoặc tranh mẫu đơn để chúc nhau phú quý.


Hoa Mẫu Đơn được mệnh danh là bà chúa của các loài hoa. Loài hoa này thể hiện vẻ đẹp sang trọng, quý phái, sức hấp dẫn nồng nàn, cảm xúc của sức trẻ toát ra mạnh mẽ. Tinh hoa nó toát ra đem lại vẻ đẹp, sức quyến rũ và may mắn trong tình yêu.

Vì lẽ đó, bạn nên đặt tượng hoặc tranh hoa mẫu đơn tại cung tình duyên (Tây Nam) trong phòng ngủ nhà mình.


2 - Vương trượng - Biểu trưng cho uy quyền
...

Vương trượng mạ vàng - vật biểu tượng của quyền lực.


Vương trượng (Gậy như ý) là những vật hình cong đầu rất lớn. Ý nghĩa của biểu tượng là cầu mong đạt được mọi ước nguyện, việc gì cũng tốt đẹp, vừa ý. Trong tâm linh Phúc - Lộc - Thọ, thì Ông Lộc trong tay cũng cầm Vương Trượng. Đa phần, Vương Trượng được chế tác bằng ngọc nhưng cũng có thể làm bằng chất liệu khác như vàng, bạc đồng, sứ…

Vương trượng là vật đại diện cho quyền lực mà ngày xưa các vị quan lại vua chúa luôn sở hữu. Nó là vật khí rất quan trọng trong Phong Thủy chuyên dùng để củng cố địa vị và quyền lực, chống lại kẻ tiểu nhân; tăng thêm công danh, uy quyền, sự tôn nghiêm cho người sở hữu.

Vương trượng được mạ vàng, kèm thêm những viên ngọc nên cát khí của nó rất lớn, không những hoá giải được hung khí của sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc vốn gây tai họa mà còn đem lại uy quyền và công danh tài lộc.
Vương trượng rất thích hợp dùng cho người mệnh cao, giữ trọng trách lớn. Đặt trên bàn làm việc, trong phòng khách, văn phòng.


3 - Tháp Văn Xương - Đem lại may mắn trong học tập và công việc


Tháp Văn Xương thường được trưng trong nhà để cầu thi cử đỗ đạt.

Tháp Văn Xương hiện là một ngôi bảo tháp hàng đầu ở phía nam Quảng Tây, Trung Quốc. Tháp thường được xây dựng theo hình bát giác, cao tầm 36 - 45m, gồm 7 tầng với mái hiên bằng gạch trồng lên nhau và nhỏ dần từ tầng dưới lên tầng trên, đỉnh tháp là một khối hình hồ lô màu đỏ. Người Trung Quốc thường đến đây để cầu đỗ đạt, thăng tiến trong học tập và công danh sự nghiệp.

Ngoài ra, họ còn có thói quen bày mô hình tháp ở vị trí Văn Xương trong nhà. Bởi theo quan niệm từ xa xưa, chùa tháp tượng trưng cho trí tuệ và pháp lực vô biên của nhà Phật nên tháp bày trong nhà sẽ có tác dụng bảo vệ và đem lại may mắn, thuận lợi trong học hành, thi cử
Tháp Văn Xương có khả năng ngăn ngừa hung khí, tà ma bởi và được sử dụng trong việc loại trừ ma quỷ. Nó cũng rất hữu dụng cho những ai sắp trải qua những kỳ thi cử quan trọng hoặc những người muốn tăng tiến về trí tuệ và công danh.

Nếu dạo qua các cửa hàng chuyên bán đồ phong thủy, có thể dễ dàng nhận ra những mô hình tháp Văn Xương được chế tác từ thạch anh, ngọc lục bảo, pha lê hoặc đồng... bày bán khắp nơi. Trong trường hợp gia đình có con, cháu sắp phải tham dự kỳ thi lớn như tốt nghiệp, đại học..., tốt nhất nên đặt tháp Văn Xương trên bàn học của cháu, đúng huyệt văn xương trong nhà để cầu may mắn.

(Huyệt văn xương ứng với năm sinh của mỗi người khác nhau sẽ khác nhau. Vzone sẽ xin giới thiệu với bạn đọc về huyệt Văn Xương trong một bài viết khác).



4 - Quả cầu Phong thuỷ - Giúp trí tuệ minh mẫn, cải thiện trì trệ
...

Quả cầu ngọc thường được bày trên bàn làm việc hoặc tủ, kệ - nơi âm khí vượng.


Quả cầu thủy tinh là biểu tượng của trí tuệ và sự may mắn. Người ta cho rằng, quả cầu giúp tăng trí thông minh, công danh và tài lộc, đỗ đạt khoa bảng, cải thiện sự trì trệ và bế tắc trong công việc.

Trong vận 8, cát khí của sao Bát Bạch Thổ tinh phát ra mạnh nhất chi phối toàn bộ Tinh Bàn. Quả cầu thuỷ tinh mang cát khí của Thổ. Vì thế quả cầu thuỷ tinh là vật khí có năng lượng vô cùng mạnh mẽ cho những ai theo đuổi việc học hành cũng như thúc đẩy bạn quan tâm, chú ý hơn đến việc học hành.

Mặt khác, người ta còn quan niệm quả cầu mang nguyên khí của trái đất, tức Thổ. Chất làm quả cầu - pha lê - cũng là nguyên khí của Thổ đem lại Dương khí. Trong Phong Thuỷ thì đây là pháp khí rất quan trọng để bổ sung Dương khí. Dùng nơi âm khí quá vượng, tối tăm, thiếu ánh sáng để chống Âm khí gây hoạ như bệnh tật, tán tài, thị phi, tiểu nhân…

Bạn nên bày Quả cầu trên bàn học, bàn làm việc hoặc tủ sách, giá sách. Hoặc nơi các cát tinh Thiên Y, Diên Niên, nơi Âm khí vượng. Tránh bày trong bếp, nhà vệ sinh, nơi Tuyệt Mệnh, Ngũ Quỷ chiếm đóng.

Cầu thuỷ tinh mang lại sự thông tuệ, uyên bác, sáng suốt, chôi chảy và mở mang mối quan hệ, giao tiếp cho bạn. Tất cả các doanh nghiệp thành đạt, những người giàu có, học vấn cao, luật sư, chính trị gia, đều đặt cầu thuỷ tinh trên bàn làm việc.
Cầu thuỷ tinh cũng đem lại sự tôn trọng, tự tin, may mắn đến cho bạn. Đặc biệt với các nhà doanh nghiệp, cầu thuỷ tinh đảm bảo công việc kinh doanh trôi chảy, phát đạt, đó cũng là lý do tại sao rất nhiều logo của các công ty làm ăn phát đạt có hình quả cầu.


Bí ẩn các vật phẩm phong thủy (2)


Ngoài Tỳ Hưu và Thiềm Thừ - hai linh vật phong thủy đứng đầu về khả năng chiêu tài khí, tạo may mắn về tài lộc trong kinh doanh, thì bên cạnh đó vẫn còn những vật phẩm phong thủy khác được cho là rất linh thiêng trong việc nâng cao vận khí về tài lộc như sau.



5. Cá chép - Vì sao Cá Phong Thủy lại là Cá Chép?
...

Cá Chép rất linh nghiệm khi cầu học hành thi cử đỗ đạt.


Truyền thuyết kể rằng: "Vào một năm nọ, nạn hạn hán hoành hành vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hoà cho cả nhân gian. Ngọc Hoàng thượng đế liền tổ chức một cuộc “Thi Rồng” nhằm tuyển chọn các con vật đủ khả năng, phẩm chất làm Rồng cứu nhân độ thế. Khi chiếu Trời ban xuống, vua Thuỷ Tề loan báo cho tất cả các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi. Cuộc thi có ba kì. Mỗi kì vượt qua một đợt sóng. Con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt được cả ba đợt thì mới được hóa Rồng.

Trong một tháng trời, đại diện của bao nhiêu loài thuỷ tộc đến thi đều bị loại cả vì không con nào vượt được cả ba đợt sóng. Sau có cá Rô nhảy qua được một đợt nhưng cũng bị rơi ngay. Rồi đến Tôm nhảy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi, đã gần hoá Rồng, nhưng đến lượt thứ ba vì sức đã đuối nên bị ngã xuống, khiến lưng còng lại đến tận ngày nay.

...

Cá chép kết hợp với quả cầu pha lê - hai vật phong thủyrất linh cho đường học vấn.


Theo học thuyết Phong Thủy, sự kích hoạt cho dòng "Thủy" tại căn nhà nơi ta sinh sống là một trong những điều tối quan trọng. Trong khi đó, Cá Chép được cho là linh vật số 1 trong việc kích thích “nguồn Thủy” tại nơi nó trấn giữ.

Vì thế mà người đời cho rằng Cá Chép đem đến vận may, hoá giải sát khí, bệnh tật và tai hoạ. Cá Chép nếu để trong nhà sẽ mang lại sự may mắn, thịnh vượng, còn để ở bàn làm việc sẽ mang lại thành công sự nghiệp, thăng quan tiến chức.

Theo học thuyết Phong Thủy, sự kích hoạt cho dòng "Thủy" tại căn nhà nơi ta sinh sống là một trong những điều tối quan trọng. Trong khi đó, Cá Chép được cho là linh vật số 1 trong việc kích thích “nguồn Thủy” tại nơi nó trấn giữ.

Vì thế mà người đời cho rằng Cá Chép đem đến vận may, hoá giải sát khí, bệnh tật và tai hoạ. Cá Chép nếu để trong nhà sẽ mang lại sự may mắn, thịnh vượng, còn để ở bàn làm việc sẽ mang lại thành công sự nghiệp, thăng quan tiến chức.


6. Ngựa - Biểu tượng cho kinh doanh phát đạt
...

Tượng Ngựa phi nước đại bằng đá quý.


Ngựa là con vật rất trung thành, không những thế ngựa còn là hình ảnh của sự kiên nhẫn, bền bỉ, may mắn và thuận lợi. Người xưa cũng thường dùng ngựa để chúc tụng nhau trong hành sự hay làm ăn, ví dụ như: “Mã đáo thành công”.

Một trong những biểu tượng Ngựa Phong Thủy thường thấy là hình ảnh Ngựa phi nước đại (hay “Lộc Mã”). Biểu tượng này tượng trưng cho sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến trong tiền tài. Ngựa phi nước đại còn hàm ý về sự đi xa, nên rất thích hợp cho những người hay đi công tác lâu ngày hoặc bôn ba đây đó. Đây là một vật khí không thể thiếu cho những doanh nhân thường xuyên đi xa. Trong trường hợp này, nên đặt ngựa ở hướng Tây, Tây Bắc hoặc Đông Bắc để tăng cường cát khí cho các sao tốt ở các hướng này.

...
Treo tranh Bát Mã trong nhà, tài lộc vào nhà dồi dào như nước.


Ngoài ra, chúng ta cũng thường nhìn thấy biểu tượng Ngựa kéo của cải. Với biểu tượng này, Ngựa sẽ đem của cải về nhà, tiền của vào như nước. Vì vậy, nên đặt Ngựa kéo của cải ở phòng khách, bàn làm việc và chú ý quay đầu ngựa vào phía trong nhà.

Nhiều người cũng quan niệm bày Ngựa Phong Thủy trên bàn làm việc, bàn học hoặc tại vị trí của huyệt tài vị trong nhà, hướng đầu ngựa ra cửa chính hoặc cửa sổ sẽ đem lại Đại Cát.

...

Tượng Tam Mã bằng gỗ quý rất có lợi cho việc hỗ trợ vận khí văn phòng làm việc.


Đối với những ai thích dùng Ngựa Phong Thủy, xin được mách một vài điểm lưu ý như sau:

* Người tuổi Tý tránh dùng biểu tượng hay tranh ảnh ngựa.

* Không được đặt ngựa trong bếp, trong nhà tắm.

* Nếu đặt nhiều con ngựa, thì Tam mã - 3 con, sẽcó tác dụng phát huy Thổ khí trong “Vận Tám” nên còn có tác dụng bổ trợ phong thủy cho văn phòng. Lục mã - 6 con, thì rất tốt cho việc sinh tài lộc. Bát mã - 8 con phi nước đại tượng trưng cho sao Bát Bạch rất vượng khí, nên sẽ đem lại nguồn tài lộc dồi dào, vô tận cho gia chủ.

* Ngựa không được dùng trong việc hóa giải sát khí.

* Dùng Ngựa Phong Thủy khi bạn đang cầu mong tài lộc, phát đạt trong kinh doanh, tăng tiến về tiền tài, và các dự án được hoàn thành sớm trước dự kiến.


7. Thuyền buồm - Công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió

...

Thuyền buồm là biểu tượng thành công trong kinh doanh.


Theo phong thủy, thuyền buồm được xem là biểu tượng của thành công trong kinh doanh. Bởi vì nó tượng trưng cho Gió (một trong hai yếu tố quan trọng nhất của Phong Thủy – gió, nước), mang lại nhiều cuộc giao dịch kinh doanh tốt đẹp và thu được nhiều lợi nhuận. Sau biểu tượng rồng, hình ảnh thuyền buồm là biểu tượng được giới doanh nhân Trung Quốc ưa chuộng nhất.

Để kích hoạt vận may trong kinh doanh, bạn hãy đặt một chiếc thuyền buồm trên bàn làm việc hay gần cửa ra vào sao cho chiếc thuyền di chuyển theo hướng đi vào bên trong văn phòng, công ty.

Không nên để thuyền buồm hướng ra ngoài cửa, vì như thế nó lại mang ý nghĩa là thuyền buồm mang tiền bạc ra khỏi nhà.

Trong phong thủy, thuyền buồm lộng gió chở đầy vàng đến cho bạn được xem là thuận lợi nhất. Do đó, bạn có thể mua thuyền buồm rồi chất đầy trong lòng thuyền những nén vàng và tiền xu cổ Trung Quốc, sau đó đặt vào những vị trí như đã nêu trên.


8. Voi - Linh vật hút tài lộc số một
...

Tượng voi thường được gặp ở các đền, chùa...


Voi là con vật hay giúp đỡ con người. Ngay cả trong Phật giới cũng có thờ Thần Đầu Voi. Truyền thuyết cho rằng voi được sinh ra từ các mảnh vụng tan ra của sao Dao Quang. Vì thế, voi được coi là loài vật vô cùng linh thiêng. Mặt khác, voi là loài vật to lớn mạnh mẽ, nên bày voi trong nhà, thì vận nhà được bình ổn, người trong nhà làm ăn thuận lợi.

...

Vì Voi trong Phong Thủy là loài vật trấn thạch rất linh thiêng.


Với Voi đồng hoặc đá thì tác dụng chính của nó là Hút Tài Lộc, nhất là nhà mà mở cửa, cửa sổ nhìn thấy ao, hồ, sông, biển thì càng có hiệu quả cao.

Với Voi bằng gồm sứ, thường được dùng để hóa giải các cấu trúc nặng nề như dầm nhà , xà nhà đè xuống.

Thủy là biểu tượng của tiền của, nếu đặt một con voi đồng hoặc đá cỡ vừa trong nhà với dụng ý “hút Thủy” thì đại tài, tiểu tài sẽ đến, trong nhà luôn có điềm lành. Còn nếu đặt ở nơi có tài vị thịnh, thì cả nhà được lộc cát lâu bền.


Bí ẩn các vật phẩm phong thủy (3)


Tiền xu cổ luôn là một pháp khí sử dụng rất nhiều trong Phong Thủy. Tiền, ngoài ý nghĩa về sự thịnh vượng và tài lộc, còn mang ý nghĩa tốt lành, hoá giải những tai hoạ và các sát tinh chiếu đến trong bài trí Phong Thuỷ.

...

Vì thế phép trấn yểm không thể thiếu tiền xu Phong Thủy.


Người xưa cho rằng tiền xu dùng trong yểm Phong Thuỷ nếu là tiền cổ thì tốt nhất, vì tiền cổ được chế tạo đã nhiều năm nên hấp thu được “thiên khí”. Đồng thời do phần lớn các đồng tiền cổ được chôn vùi dưới đất nên đã hấp thu được “địa khí”. Ngoài ra, nó đã được qua tay nhiều người sử dụng nên đã hấp thu được “nhân khí” rất nhiều. Ba khí Thiên Địa Nhân đều có đủ, nên các đồng tiền cổ có thể tăng việc hoá sát rất mạnh.


Mai Hoa kim tiền
...




Ý nghĩa:

Tiền mai hoa thường treo thành đôi, 2 bông 10 cánh, tượng trưng cho thập toàn (sự hoàn hảo). Vật khí này được dùng để trấn yểm hung khí, đem lại sự thịnh vượng về tài lộc, kinh doanh. Ngoài ra, nó còn có công dụng rất phổ biến là giải trừ tiểu nhân, tránh thị phi.

Cách bài trí:

* Đặt ở chỗ tựa sau lưng của ghế ngồi, phòng tiểu nhân
* Đặt trong ngăn kéo bàn làm việc có giấy tờ quan trọng.



Tam xu tiền cổ
...



Ý nghĩa:

Số 3 tượng trưng cho Thiên - Địa - Nhân, là biểu tượng cho sự thịnh vượng cát lành.

Cách bài trí:

Để thu hút sự thành công của các dự án trong kinh doanh bạn hảy cung cấp năng lượng tốt cho các hồ sơ có liên quan bằng cách buộc 3 đồng tiền xu cổ với dây màu đỏ rồi dán vào bìa hồ sơ (bằng băng dính trong), hướng mặt dương (có chữ) lên trên. Điều này có thể sẽ tạo ra năng lượng thịnh vượng và mang lại sự thành công trong công việc của bạn.


Lục đế tiền cổ




Ý nghĩa:

Lục đế tiền là sáu đồng tiền cổ của 6 vị Hoàng đế cường thịnh nhất triều đại nhà Thanh đó là: Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, CÀn Long, Gia Khánh và Đạo Quang. Theo Phong thuỷ thì các đồng tiền của các thời đại cường thịnh thì khí trường của nó rất mạnh, vì thế nó sẽ tăng cường tài vận rất tốt.

Cách bài trí:

Xâu thành chùm với dây màu đỏ và treo ở các phương vị tài lộc.


Bát xu tiền cổ
...




Ý nghĩa:

Trong Phong Thuỷ thì đồng xu in hình Bát Quái là biểu tượng của sự giàu có, phát về tài lộc nhất là khi được kết bằng chỉ lụa đỏ. Đồng xu thường dùng là đồng tiền thời vua Càn Long có hai mặt Âm Dương thể hiện nguyên lý Âm Dương hài hoà. Tiền hình tròn tượng trưng cho Thiên, ở giữa có lỗ vuông tượng trưng cho Địa. Trên đồng tiền có in hình Bát Quái thể hiện Đạo lý Thiên - Địa - Nhân tương hợp tất tạo phúc và hưởng phú quý.

Cách bài trí:

Treo ở cửa nhà, cửa phòng, trong phòng khách, phòng ngủ hoặc trên xe ô tô.


Bí ẩn các vật phẩm phong thủy (4)


2 loại linh vật trong phong thủy tượng trưng cho tuổi thọ và sự trường tồn: Ve Sầu và Rùa.


Đối với người Trung Quốc, ve sầu và rùa là hai biểu tượng mạnh mẽ nhất cho sự trường tồn. Với người còn sống, hai con vật này mang đến cho họ một cuộc sống tốt đẹp. Con rùa không đơn thuần là biểu tượng của tuổi thọ, mà còn là biểu tượng của sự bảo vệ, che chở. Còn ve sầu cũng được coi như một lá bùa hộ mệnh, chống lại kẻ thù.


Ve sầu - Biểu tượng của sự bất tử và lá bùa chống lại những âm mưu
...
Ve sầu tượng trưng cho sự trẻ mãi không già,
rất phù hợp khi biếu sếp nữ


Thời xa xưa, những gia đình giàu có thường táng theo người chết một viên ngọc bích chạm khắc hình con ve sầu, đặt trên nắp áo quan, mong cho người đã khuất có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới khác.

Đối với người đang sống, ve sầu được xem là một biểu tượng của cuộc sống lâu dài, hạnh phúc và tuổi trẻ bất diệt.
Căn nguyên của biểu tượng này được bắt nguồn từ truyền thuyết xưa kia. Tương truyền: Có một nữ hoàng làm rất nhiều việc tốt cho dân, khi qua đời đã đầu thai thành con ve sầu. Khi đã trở thành ve sầu, bà không bao giờ già vì luôn lột xác sau mỗi mùa hè. Vì thế, loài ve sầu đã trở thành một biểu tượng cho sự trẻ trung của con người.

...
Ngọc Ve Sầu và Tỳ Hưu đều rất được ưa chuộng


Bên cạnh ý nghĩa đó, loài ve sầu còn được coi như một một lá bùa hộ mệnh. Khi đeo trên mình một vật có dáng ve sầu, bạn sẽ được bảo vệ khỏi những nguy hiểm, tiểu nhân và kẻ thù.

Một miếng ngọc bích hình con ve sầu có tác dụng bảo vệ tốt. Những nhân viên trong công ty muốn tìm kiếm sự bảo vệ trước một đồng nghiệp không đáng tin cậy hay người quản lý có mưu đồ xấu có thể tìm một miếng ngọc bích hình con ve sầu như mặt dây chuyền để đeo.


Rùa - Biểu tượng muôn đời của sự trường thọ


Rùa được các nhà khoa học chứng minh là một trong số những loài vật có tuổi thọ thuộc hàng cao nhất. Trong văn hóa Việt Nam, rùa là một linh vật được tôn trọng từ ngàn xưa. Còn riêng trong Phong Thủy, rùa là linh vật mang nhiều ý nghĩa nhất.

Nó là tạo vật duy nhất trong tứ linh thật sự tồn tại và có thể dễ dàng tìm thấy. Vì vậy, rùa không đơn thuần là biểu tượng của tuổi thọ, mà còn của sự bảo vệ, che chở, hỗ trợ, sự sang trọng và triển vọng.
...

Rùa đầu rồng (long quy) - Biểu tượng của vận may và trường thọ


Trong Phong Thủy, con rùa giống như những ngọn đồi phương Bắc vững chãi, đảm bảo cho gia đình có sự liên kết chặt chẽ, lâu bền. Con rùa còn được cho là người vận chuyển ma trận huyền ảo của chín con số cơ bản mang trên lưng và gây sự chú ý cho Phục Hy - vị hoàng đế đầu tiên trong truyền thuyết của Trung Hoa, người được cho là tác giả của Kinh Dịch, cuốn sách là cơ sở của tất cả lý thuyết trong Phong Thủy.

Con rùa giấu trong cơ thể và trong những hoa văn trên mai nó tất cả bí mật của trời và đất. Tục truyền rằng khi Ban Cố tạo ra thế giới, ông đã dùng những chú rùa như những chiếc cột chống để giữ vạn vật. Phần gù ở lưng con rùa được coi là trời và phần bụng của chúng là đất, khiến nó trở nên bền vững với thời gian.

Nếu nhìn kỹ con rùa, bạn sẽ nhận thấy nó có đầu và cổ rất dài. Các Phong Thủy gia thường hay trưng trong nhà con rùa đầu rồng để có thật nhiều vận may. Hình tượng con rùa đầu rồng này thường được cho ngồi trên rất nhiều đồng xu và những thỏi vàng, miệng có ngậm một đồng xu. Tạo vật này vừa mang hiện thân cho sự can đảm của loài rồng và sự bảo vệ chắc chắn của loài rùa. Các doanh nhân trưng hình ảnh này phía sau chỗ làm việc thì sẽ can đảm hơn trong việc ra quyết định đồng thời trách được những rủi ro trong kinh doanh.

Nên nuôi rùa ở hướng Bắc ngôi nhà vì chúng sẽ đem tới cho gia đình nhiều cát khí hơn.


Back to top
 

...
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #123 - 11. Jul 2010 , 08:29
 
Một câu chuyện đáng để đọc, không sợ phí thì giờ!

Đường Ra Khỏi Basra


Tác Giả Nguyễn Thị Thảo An 

Kính tặng Sgt. Nguyễn Khắc Bình & gia đình


Khi tôi đặt bàn chân đầu tiên chạm xuống đất Mỹ, tôi đã để ý rất kỹ, cái cảm giác đầu tiên bao giờ cũng vậy, nó gây một ấn tượng sâu sắc lâu dài trong ký ức. Vậy mà trong giây phút đó tôi chỉ ngẩn ngơ một chút, một chút thôi rồi bị đẩy theo dòng người… Cái cảm giác bàng hoàng, sâu sắc nhất phải kể là lúc máy bay cất cánh rời Việt Nam. Khi chiếc máy bay United Airline nhấc mình rời phi đạo, tôi ý thức được mình không còn đặt chân trên mảnh đất quê hương nữa. Tôi lơ lửng, bay cao và bay cao mãi. Đột nhiên tôi có cảm giác xác thân không còn tồn tại, tôi giống như một thứ linh hồn đang lơ lửng rời bỏ trần gian.

Mẹ tôi nói, đặt chân lên đất Mỹ tức là đặt chân lên tới thiên đàng. Cha nói, hãy bám trụ, đừng trở về cái địa ngục này. Tôi hiểu, cha mẹ đang cắt ruột đấy, và tôi cũng đang quặn lòng phải rời bỏ gia đình để đi du học.
“Phải bám trụ.” Ba cái chữ này ám ảnh và mọc rễ trong tâm trí tôi. Nhưng mà làm thế nào để bám trụ? Để được ở lại nước Mỹ, vào quốc tịch, và sau này kéo hết gia đình sang, đó là mục tiêu tối thượng, và cũng là niềm mơ ước của cả gia đình, điều đó thật không dễ. Con đường tắt là kết hôn với người có quốc tịch. Ở ký túc xá, trong lớp, đi shopping, đi làm thêm, hay bất cứ lảo rảo nơi đâu tôi cũng dán mắt vào những đứa con gái. Tôi đoán và xác định mục tiêu, con nhỏ này còn Việt Nam quá, chắc chỉ có thẻ xanh, con nhỏ kia có vẻ Mỹ hóa chắc chắn là có quốc tịch rồi hay nó đẻ ở đây. Tôi bất kể tuổi tác, nhan sắc, trong đầu vẽ ra một cuộc tình chớp nhoáng, mà cái nào cũng kết thúc bằng một buổi lễ tuyên thệ tại sở Di Trú. Nhưng mà thực tế, chưa có lần nào tôi mở miệng làm quen, tôi vẫn đứng đó với một tâm trạng xuôi xị, hèn hèn. Tệ hơn nữa, trước mặt họ, tôi có cảm giác mình là người làm bằng thủy tinh trong suốt, họ nhìn thấy tâm địa bất chánh, những ý đồ đen tối rõ mồn một như một vết mực đen vấy bẩn khắp người. Những thằng du học sinh khác bảo, hãy coi chừng, léng phéng với họ có ngày ăn dao, ăn đạn đấy. Chúng nó bày, muốn ở lại, chỉ có nước kết hôn giả. Kết hôn giả ngốn rất nhiều tiền. Cha mẹ tôi đã phải cầm cố nhà cửa, tài sản duy nhất để lo chuyện du học rồi, đánh chết tôi cũng không dám nghĩ tới tạo một gánh nặng nữa cho gia đình. Một thằng bạn khác bảo, đăng lính đi, phục vụ trong quân ngũ một thời gian vừa được quy chế vào quốc tịch, vừa được học bổng học đại học, nhất cử lưỡng tiện. Chiến tranh Iraq mới bắt đầu, nhu cầu cần lính đang cao. Và tôi, quyết định ngay, mở một con đường máu, vào quân đội để thoát hiểm.

Quyết định vào lính làm mọi người kinh ngạc. Bạn tôi nói, “Đi lính bây giờ là nhảy vô địa ngục.” Tôi cười cười, vò vò cái đầu gần như trọc lóc. Không, tôi chỉ muốn làm một cú “vượt vũ môn” thôi. Tương truyền ngày xưa có một loài cá chép, cứ ba năm thì được vượt vũ môn để hóa thành rồng. Từ dân Việt để trở thành công dân Mỹ cũng giống như đi đầu thai kiếp khác, tôi cần phải “vượt vũ môn” như một con cá chép thật.
Tôi không kể cho ai nghe về thời huấn nhục ở quân trường. Làm thế nào để từ một người dân trở thành một người lính? Nó đã tóm gọn trong hai chữ huấn nhục. Người ta huấn luyện người lính đứng vững trong mọi tình thế, kể cả khi địch bắt, bị tra khảo và chịu nhục hình.

Tôi gửi cho gia đình một tấm hình lễ mãn khóa. Tôi trong bộ quân phục bộ binh, vác súng, qua nhiều tư thế. Mẹ tôi khóc. Mẹ đã vất vả nuôi ba tôi trong tù nhiều năm. Còn cha, tuy là lính trơn nhưng lúc xe tăng T.54 tiến vào Dinh Độc Lập, cha cùng đồng đội còn đang lập chốt làm tuyến phòng thủ ở phía Tây Sài Gòn. Cha bị bắt ngay mặt trận vào giờ thứ 25 nên tù lâu là chuyện thường. Trong thư cha viết, “Cha tôn trọng quyết định của con. Phải nhớ rằng, một ngày làm lính, cả đời là lính. Người lính không sử dụng quân đội như một phương tiện… Khi con có mục tiêu thì phải chiếm cho bằng được.” Kể từ đó, cha không viết về những chuyện đã rồi, thư cha toàn là những trang liệt kê về những ưu điểm của đủ thứ vũ khí các loại, và cách đối phó những tình thế nguy hiểm. Không nói ra, nhưng tôi hiểu cha muốn truyền hết nội lực, tâm huyết cho tôi, không giữ lại một chút gì.Tôi nghĩ, những vũ khí xưa ở chiến trường Việt Nam hiện nằm trong viện bảo tàng. Chiến trường Iraq ở sa mạc, trong lòng núi, ngoài thành phố, chợ búa, và bên vệ đường. Nguy hiểm nhất là những “road bomb”. Nó chỉ là những chất nổ tự tạo, rất đơn sơ, nằm lẫn trong gạch đá, rác rến phế thải ở ven đường. Ở một nơi mà kẻ thù không những chỉ là con người, mà còn là gạch đá, rác rến, cỏ cây thì đó là nơi tối nguy hiểm. Nhưng tôi không nói với cha điều này.

Ra trường một năm đơn vị tôi mới tới phiên qua Iraq. Trước đó, chúng tôi đã được thao tập nhuần nhuyễn về chiến trường mới, thực tập trên các địa hình sa mạc Black Rock (Nevada), leo lên những mỏm núi chót vót ở những vùng thạch sơn kỳ vĩ của Arizona. Mùa Đông chúng tôi len lỏi hành quân trên những rặng núi trắng xóa trên Canada. Hè, chúng tôi xuống Texas, lang thang lạc lối trên sa mạc miền viễn tây, chịu đựng cái nóng và khát cả tuần để tự mưu sinh thoát hiểm. Bộ chỉ huy đơn vị nói, phải biết sinh tồn trong “tủ lạnh” và trên “lò nướng” để khi qua Iraq làm tụi Al- Qaeda “lé” mắt.

Chiến tranh Iraq bắt đầu vào ngày 20 tháng 3 năm 2003 và ngày 1 tháng 5 khi viếng thăm chiến hạm USS-Abraham Lincoln ông Bush tuyên bố chiến tranh chấm dứt. Chính quyền độc tài bị lật đổ, chuẩn bị cho một nền dân chủ đang được tiến hành, mọi đảng phái đều được tham chính thông qua bầu cử. Ngày 13 tháng 12 cùng năm đó, Saddam Hussein bị bắt, hy vọng phục quốc tiêu tan.

Nhưng mà ở Iraq súng vẫn nổ khắp nơi. Từ thành phố đến thôn quê, rừng núi, sa mạc, nhà thờ, trường học, chợ búa, đâu đâu cũng có những ổ kháng cự. Nhỏ thì dăm ba người, lớn lên đến vài trăm. Thoạt trông họ là thường dân, cầm súng lên họ là giặc. Không phải dân Iraq chỉ chống Mỹ, mà xem ra họ chống nhau còn tàn tệ hơn. Quân kháng chiến có thể xả súng bắn vào chợ búa, nhà thờ, trường học, thậm chí đám cưới hay tang lễ.

Khi tôi đặt chân đến Mosul, pháo đài kiên cố nhất của đảng Baath do giáo phái Sunni phe Saddam thì giao tranh vẫn còn ác liệt.

“Sức mấy mới hết chiến tranh.” Thằng Michael Tea, tiểu đội trưởng mới của tôi nói. “Mỹ có rút hết quân thì chiến tranh vẫn còn.”

“Tại sao còn?” Tôi ngạc nhiên.

“Mày tưởng tụi Iraq chỉ có chống Mỹ hả? Tụi nó chống nhau còn dữ hơn chống Mỹ.” Thấy mắt tôi vẫn tròn xoe, nó nói. “Cùng là dân Iraq, gốc Ả Rập, cùng Hồi giáo, nhưng phe Sunni chống phe Shi’a, hai phe này lại cùng chống người Kurd ở miền Bắc, người Kurd lại chống chánh quyền Iraq bất kể phe nào cầm quyền, người Turkman cũng chống chánh quyền Iraq, chống Sunni, chống phe Shi’a, chống người Kurd, người Assyrian Christian chống hết tất cả các phe khác họ.”

“Trời ơi, nhức đầu quá.”

“Tao điên mất.” Mấy thằng trong đơn vị tôi ôm đầu la.

Tôi bình tĩnh hỏi, “Trong các nhóm, nhóm nào đông nhất?”

“Giáo phái Shi’a đông nhất, chiếm gần 60% dân số. Phái Sunni 20% đứng nhì. Thứ ba là người Kurd miền Bắc cũng khoảng 20%. Mấy nhóm còn lại chừng 3%.”

“Dễ ợt. Chỉ cần ổn định các phe phái lớn trước thì các phe nhỏ phải chịu phép thôi. Iraq sẽ thái bình”
Michael Tea cười lớn, “Chuyện đó con nít cũng biết. Nhưng mà làm sao để họ ngồi lại với nhau họa chăng chỉ có Trời mới biết.”

“Nhưng tại sao họ chống nhau?” Thằng Ted hỏi.

“Nguyên nhân bắt nguồn từ Giáo chủ Muhammad. Sinh năm 571, nhưng mãi đến năm 610, bốn mươi mốt tuổi, ngài mới bắt đầu rao giảng kinh Qur’an và thành lập Hồi giáo. Đến năm 632, ngài bị bệnh và nghĩ tới việc truyền ngôi. Bấy giờ, trong hàng tín đồ bắt đầu chia ra hai phe. Một phe theo kiểu cha truyền con nối, Giáo chủ không có con trai nên ủng hộ người con rể tên Ali Abu Talid nối ngôi. Nhưng phe khác cho rằng, Giáo chủ là người thừa sai của Chúa, vậy người đại đệ tử Abu Bakr mới đủ đạo hạnh tiếp tục ngôi vị đó. Cuộc tranh chấp dẫn tới việc Giáo chủ phải ra phán quyết cuối, nhưng cả hai phe đều không chờ được nên xảy ra bạo loạn và khi ấy đã có kẻ ra tay giết Giáo chủ. Từ đó đến nay không thấy ai thắc mắc, điều tra hung thủ đã sát hại Giáo chủ. Người ta bận lo tới việc tranh ngôi. Cho tới bây giờ kể như bất phân thắng bại.”

“Hơn cả ngàn năm trôi qua, Ali và Abu cũng không còn, ai lãnh đạo thì cũng đọc kinh Qur’an thôi, có chi mà tranh chấp.” Tôi nói.

“Đạo Hồi có một tỷ ba dân số khắp thế giới, giáo quy gắt gao, người lãnh đạo quyền hạn hơn Tổng Thống, vua chúa một nước. Chính Ali và Abu chắc cũng không ngờ, nếu biết trước họ đã tận diệt nhau chứ không chịu chia thành hai phe, di họa tới bây giờ.” Michael Tea nói, “Mày không tranh chấp, dễ thua thiệt lắm.”

Tôi vào quân đội, rồi được nhập tịch, tương lai đem cả gia đình sang, nghĩ tới cảnh đoàn tụ, tôi “lời” quá cỡ, thua thiệt chỗ nào. Tôi tiếp tục thắc mắc.

“Vậy giáo phái Sunni của Saddam thuộc dòng nào?”

“Họ là truyền nhân của đại đệ tử Abu Bakr, là thiểu số. Còn phái Ali con rể Muhammad là phái Shi’a thân Iran chiếm đa số.”

“Trời đất!” Tôi kêu lên, “Làm thế nào mà Saddam lấy thiểu số thắng đa số ?”

“Lấy bàn tay sắt.” Michael Tea trả lời tỉnh bơ. “Chính nghĩa, công lý hay gì gì nữa cũng bị đè bẹp thôi. Trong 25 năm, Saddam xử tử cả trăm ngàn người.”

“Ối trời ơi.” Cả tiểu đội kêu lên, thật kinh khủng.

Đêm đó, tôi trằn trọc nghĩ về Saddam. Iraq là một vùng đất cổ, có hai con sông Euphrates và Tigris vắt qua. Nơi đây được mệnh danh là cái nôi của nhân loại, bởi người ta tìm thấy dấu vết con người xưa nhất trái đất ở đây. Vì sống giữa vùng đất được bồi đắp phù sa của hai con sông nên người ta gọi nền văn minh này là nền văn minh Lưỡng Hà. Thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt được dùng làm vũ khí. Các công trình nghệ thuật kiến trúc như thành Babylon, vườn treo sau này trở thành kỳ quan thế giới cũng phát xuất từ đây. Văn hóa phát triển rực rỡ như thế nhưng dân cổ đại Iraq yếu xìu, đánh giặc dở không thể tả. Liên tiếp trải mấy ngàn năm Iraq luôn bị các chủng tộc khác xâm chiếm và cai trị. Iraq chưa bao giờ giành được độc lập, tự vẽ biên giới cho mình. Sau thế chiến thứ nhất, đế chế Ottoman thống trị Trung Đông bị Anh, Pháp, Mỹ đánh bại. Chính người Anh đã vẽ lại bản đồ cho Iraq. Nhưng Saddam và đảng Baath mới giành độc lập cho Iraq từ Anh. Như vậy kể ra Saddam là một anh hùng, chưa chắc là tội nhân. Nghĩ tới đó, không chịu nổi, tôi hỏi Michael. Nó bật cười lớn.

“Ya, ya. Saddam là anh hùng, nhưng là anh hùng của 20% dân số thôi.” Nó nạt tôi, “Ngủ đi. Sống ở đây, khóa miệng lại. Tuyên bố bậy bạ, sáng mai 60% dân số còn lại sẽ giết mày đó.”

Nhưng mà tôi vẫn không tài nào ngủ được. Nếu Saddam là người Shi’a có thể tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không độc tài, tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không xâm chiếm Kuwait, không mơ làm Thành Cát Tư Hãn thống nhất Ả Rập, tình thế sẽ khác. Và nếu tôi không mất ngủ, tình thế cũng sẽ khác.

Mới mờ sáng, đơn vị tôi nhận lệnh tới Haji Ibrahim. Đây là vùng núi cao nhất Iraq, trên 11 ngàn feet, nằm sát biên giới Iran. Bộ chỉ huy đơn vị nói, những tổ chức người Sunni đang rút về đây, họ sẽ truy quét người Kurd ra khỏi vùng núi để chiếm lấy địa bàn. Nếu để họ chiếm được khu vực này sau rất khó kiểm soát. Đây cũng có thể là con đường vận chuyển vũ khí lậu từ Iran chuyển cho khủng bố. Nhiệm vụ chúng tôi là bảo vệ người Kurd, chận đứng con đường tiếp tế vũ khí từ Iran.

Mặt trời chưa lên, ba phi đội UH-60 Black Hawk bay hàng một luân phiên thả chúng tôi xuống chân núi. Chân vừa chạm đất, chúng tôi vừa lăn vừa chạy. Phải biết biến mình thành một mục tiêu luôn luôn di động. Có thể những tay bắn tỉa của địch đang phục kích đâu đây. Cuộc hành quân bắt đầu từ giữa hai khe núi thấp nhất và tỏa ra những vùng phụ cận. Núi Iraq rừng lơ thơ, cỏ không cao quá gối, nhiều nơi chỉ có toàn đá trọc. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh, tất cả tản ra, kiểm soát những hang động trước khi tiến lên núi, chú ý hầm hố và những bãi mìn.

Tiểu đội dàn ngang, ghìm súng chầm chậm tiến lên. Kiểu đội hình này, cha tôi viết, là thế tiến nguy hiểm, vì địch nấp ở đâu đó quạt một tràng là tiểu đội tiêu. Tôi đâm sợ, thằng Michael Tea không có kinh nghiệm, đáng lẽ nên dàn hàng một tiến lên mới đúng. Tôi kêu Michael trong earphone. Nó la, “Nhìn vô ống nhắm, quan sát những điểm đen kìa.” Những điểm đen thường là những cửa hang, lấp bằng vải bạt hay ván tạp. Tôi rùn mình xuống, lò dò tiến. Mắt dán vào ống nhắm và điều chỉnh. Cái ống nhắm này tôi nài nỉ mãi mới được loại 50MM có thể phóng mục tiêu lớn ra từ 3 đến 9 lần, rất rõ. Tôi gắn ống nhắm trên khẩu M4A4 có 2 cò, vì bên dưới còn thêm bộ phận phóng lựu M203, sức công phá mạnh và xa hơn M.79 ở chiến trường Việt Nam. Tiểu đoàn trưởng nói, hành quân 2 ngày, quân trang gọn, nhẹ để dễ leo núi, không quân yểm trợ nếu có tình thế bất ngờ. Nhưng cha tôi viết, nếu đụng trận diễn tiến không lường được, cuộc hành quân có thể kéo dài. Vì vậy, hành trang của tôi nặng trĩu như một cuộc chuyển quân xa hay sắp đụng một trận lớn. Ngoài ra, cái áo khoác tactical vest nhiều túi của tôi nhét đủ thứ, 4 băng đạn dự trữ 1,800 viên, 10 quả M203, dao găm Ka-Bar bén ngót, kính hồng ngoại tuyến ban đêm, một canteen nước, hai phần MRE thức ăn liền, mặt nạ chống hơi gas vì người Kurd đã từng bị Saddam tấn công bằng hơi độc Sarin chết hàng loạt.

Lúc ngồi trên trực thăng, thấy tôi vũ trang đến tận răng, cả đội nhìn tôi như quái vật.

“Ê, mày định một mình tiêu diệt hết một tiểu đoàn hả?” Thằng Ted xỏ ngón tay tìm coi có cái túi nào còn trống trên cái áo vest phồng cứng của tôi.

“Oh! My heroes” Thằng Robert láu lỉnh, giả vờ chắp tay ngưỡng mộ. “Có mày, chắc tụi tao ở không quá.”

Tôi nổi sùng, hất tay tụi nó, nạt. “Kệ tao.” Nhưng mà nhìn lại, tôi thấy mình giống như “Cái Bang Tám Túi” thật. Đem nhiều thứ quá cũng không giống ai. Lần sau tôi sẽ rút kinh nghiệm.

Có một bàn to lớn mò mẫm bóp cái ba-lô sau lưng tôi.
“Trời ơi, nó đem theo mền nữa đây này.” Thằng Ed cười hô hố, “Mày tính định cư trên núi luôn à?”

“Câm miệng.” Tôi quát lên một tiếng, bực tức, thằng này lớ quớ khi xuống đất tôi sẽ đá cho nó một cái để đời.

Nhưng mà nhìn lại, nó bự hơn, bàn tay của nó to gấp ba lần tay tôi.
Michael Tea, tiểu đội trưởng, nạt, “Shut up.” Đôi mắt nó rà một lượt, tia nhìn phát ra lửa, chúng tôi nóng ran cả người.

Có tiếng súng M4 “tạch, tạch, tạch… ” ròn rã. “Đụng rồi.” Có tiếng la sau lưng tôi. Cả bọn nằm rạp xuống. Chừng ba mươi giây, Michael ở đằng trước quay đầu ra hiệu, chúng tôi tẻ hai bên, nhường cho hai thằng mang M249 đi giữa, một thằng lui ra sau dự bị. Chúng tôi bò lên, ép sát hai bên, tiến gần cửa động. Chắc chắn có người, tôi thấy tấm bạt rung rinh, nhất định không phải dân, có lẽ tụi Baath đã đi trước một bước.

“Marhaba” Tiểu đội trưởng cầm micro gọi lớn ba, bốn lần, không ai trả lời.

Qua kính nhắm, tôi thấy tấm vải bạt nhúc nhích như có người đứng ngay sau đó. Tôi đặt tay vô cò sẵn sàng, thằng nào lú ra, tôi nả liền. “Tiên hạ thủ vi cường.” Tôi nghĩ, “Thà bắn lầm còn hơn bị bắn chết.” Tôi không muốn chết, nhất là chết ở đây. Mặc kệ ông Bush muốn xây dựng dân chủ hay phát huy tự do gì gì đó, tôi không “ke”. Tụi Iraq có chết khô trên giếng dầu, tôi cũng không “ke”. Tôi chỉ muốn sống để trở về. Để mơ, một ngày nào, cha mẹ em út tôi được đặt chân lên miền đất hứa.

“Hello. Hello. Anybody’s there?” Thằng Michael kêu muốn tắt hơi.

Cửa hang vén khẽ, một nhánh cây ló ra, đầu có cột một miếng vải trắng. Đầu hàng rồi, chúng tôi thở phào, không cần phải nổ súng. Nhưng vì đề cao cảnh giác, biết đâu địch trí trá khó lường, Michael vẫn kêu họ bằng tiếng Ả Rập.
Họ bắt đầu đi ra, dè dặt từng người một. A! tôi nhận ra, đây là dân quân Kurd, họ trang phục khác người Iraq, đàn ông mặc quần phùng (kiểu Thổ), áo sơ mi, đầu quấn khăn xếp, râu tóc ngắn gọn. Tất cả hai mươi bảy người, kể cả bốn đứa trẻ chỉ độ 12,13 tuổi. Trong bộ tộc Kurd, người nào vác nổi súng, người đó là lính, bất kể nam phụ lão ấu.
May quá, người Kurd ở đây, có nghĩa vùng này an toàn. Trong khi tiểu đội liên lạc cấp trên, tôi đi một vòng khảo sát.
Chỉ suy diễn từ cái hang này tôi cũng thấy vấn đề kiểm soát an ninh, hay ngăn chận sự chuyển vận vũ khí qua lại biên giới là một chuyện nan giải. Cửa hang nhỏ, nhưng càng vào trong càng rộng, khuôn viên chính giữa có thể chứa vài ngàn người. Ở giữa động có một hồ nhỏ, nước trong vắt. Họ nói, mùa Xuân tuyết trên núi tan, nước theo khe chảy xuống tích tụ nên hồ, đủ dùng quanh năm. Đàng sau còn có một cửa khác ăn thông, có thể thoát ra bằng vách khác. Cái cửa hậu này không phải do thiên nhiên mà do họ đào phá từ năm này qua năm khác mà thành. Tôi đi vòng lòng xem qua nơi ăn, chốn ở của họ. Có lẽ đây là trạm trú quân của quân du kích nên đồ đạc, bếp núc không có dấu vết đàn bà. Nồi niêu xoong chảo, ấm chén của họ có lẽ toàn là đồ từ thời Adam, Eva, cũ kỹ thấy phát sợ.

Người Kurd có mặt ở Iraq có lẽ từ thời khai thiên lập địa. Họ không phải giống dân Ả rập, không theo đạo Hồi. Sự khác biệt văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, trang phục, biến họ thành cái gai trong mắt dân Ả Rập. Trải qua hàng ngàn năm, họ đã bị các chủng tộc, các thời đế chế, vua chúa khắp nơi truy sát. Nhưng mà, với sức chiến đấu dẻo dai, khả năng sinh tồn mạnh mẽ, họ đã trốn chạy liên tiếp từ đời này qua đời khác. Khi bị truy sát ở Iraq, họ bồng bế nhau qua Thổ, khi Thổ đánh đuổi, họ chạy qua Syria, khi bị Syria càn, họ trốn qua Iran, bị Iran đánh, họ lại chạy về Iraq. Họ sống du mục và chạy loanh hoanh khắp biên giới bốn nước. Lịch sử của người Kurd là lịch sử chạy. Cho tới bây giờ họ chưa có điểm dừng chân.

Tôi nghe nói, sau thế chiến thứ I, người Anh ký hiệp ước giúp họ thành lập quốc gia Kurd, thủ đô đáng lẽ là Mosul. Đổi lại, người Kurd ký kết cho Anh khai thác mỏ dầu lớn ở miền Bắc, lãnh địa Kurd. Hiệp định đã ký kết, năm 1927, Anh đã khai thác dầu. Nhưng quốc gia Kurd đến nay vẫn còn nằm trên giấy. Không phải người Anh bội ước mà người Kurd đã bỏ mất cơ hội lập quốc có một không hai. Vì đây là thời gian, Anh cũng đang thành lập Iraq. Do trốn chạy khắp nơi, người Kurd đã bị phân hóa từ đời nào cũng không biết. Khi tiến hành việc thành lập quốc gia, người Kurd ở Thổ thích chính sách của Thổ, người Kurd ở Iran thích theo khuôn mẫu Iran, người Kurd ở Syria thích theo chế độ như Syria, người Kurd ở Iraq lại không thích ý kiến các nhóm khác. Không ai nhường ai. Mấy năm sau, Iraq tuyên bố độc lập, biên giới bao trùm luôn phần đất Kurd. Và người Kurd từ đó lại tiếp tục: Chạy.

Nghe tới đoạn này, tôi cảm thấy buồn. Mong rằng người Việt tỵ nạn khắp nơi Mỹ, Anh, Úc, Pháp, sau này trở về sẽ tránh vết xe đổ như người Kurd.

Tiểu đội ra lệnh tập hợp, chúng tôi trở vào trong hang. Một vòng tròn, nửa là Kurd, nửa Mỹ. Tiểu đoàn mới thả dù một quân nhân thông dịch tới. Người Mỹ sẽ bảo vệ người Kurd, tạm thời vẽ một khu tự trị cho họ. Từ thành phố Tikrit trở lên là khu Cấm Bay, ngoại trừ máy bay Anh Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Phía Mỹ sẽ cung cấp khí giới và huấn luyện dân quân Kurd. Đổi lại, Kurd kiểm soát và phát hiện những con đường vận chuyển vũ khí lậu qua biên giới. Vũ khí và toán huấn luyện sẽ tới sau. Nhiệm vụ chúng tôi rời khỏi nơi đây và tiếp tục hành quân sau lưng núi.
Thằng Ted chửi, Robert chửi, Ed cũng chửi, còn tôi chửi… thầm.

“Tại sao họ không để tụi mình ở lại huấn luyện?” Thằng Bob cự nự.

“Đây là lệnh. Chấm hết.” Tiểu đội trưởng kết thúc.

Chúng tôi đi vòng sau lưng núi. Núi này tiếp ngọn núi kia. Màu đá tim tím, phẳng lì, dốc cao thoai thoải. Ba-lô trên vai tôi chĩu xuống, oằn vai. Mới 17:00 tức năm giờ chiều, trời đã nhá nhem. Gió thổi buốt mặt. Chúng tôi dừng lại bên một khe trũng, mấy lùm cây thưa cao quá đầu người, che khuất một cái hang. Tôi mệt đứ đừ. Tựa vào gốc cây, tôi đứng thở dốc. Mấy thằng kia quân trang nhẹ hửng, cũng mướt mồ hôi. Khi thằng Michael chạy tới, nó xua tụi tôi như xua tà.

“Đi, đi vào trong kia kiểm soát trước.” Nó chửi te tát, “Chưa kiểm soát mà đứng đây chơi, tụi bây muốn chôn thây ở đây chắc?”

Cái thằng này có thể lên tới tướng đây. Nó không hề biết thương anh em đồng đội. Mồ hôi người ta mà nó tưởng như nước lã.

Chúng tôi chạy vào trong hang, kiểm soát. Tôi mệt muốn xỉu, từ sáng tới giờ chỉ đi và chạy, chưa có hột cơm nào. Đã vậy, đôi mắt chập chập cứ muốn ríu lại. Nếu gặp địch, tôi cũng phải ngã ra ngủ một giấc cái đã, chuyện đánh đấm tính sau.

May quá, cái hang cạn, không có người. Michael nói, khi nào chắc chắn an toàn mới được nghỉ ngơi, ăn uống. Thằng Ted giỡn, “Sao nó không nói, khi nào bắt được Bin Laden, ăn cơm cũng chưa muộn.”

“Clear.” Thằng Bob từ bên sườn chạy vòng qua nói.

“Clear.” Thằng Tom ở vách sau hay đâu đó cũng la lên trong máy.

“Clear, clear.” Hai ba tiếng nữa của ai đó vọng ra. Tiểu đội trưởng liên lạc với trung tâm hành quân rồi phân công. Chúng tôi đóng chốt ở đây. Một, hai, ba, thằng Michael chỉ tôi, Ed và Ted, ba đứa bây: chốt Một. Rồi nó khoác tay, kéo một đám theo sau, đi đóng chốt Hai. Nhưng mới vài ba bước nó quay lại, chỉ xuống chân núi.

“Đêm nay, tụi bây chia nhau canh giữ hẻm núi phía dưới. Có phát hiện gì báo ngay, không được tự ý hành động.” Nó quay qua tôi, “Còn mày, tối nay, không được làm thơ, không được ngủ.”

Chưa kịp phản đối, nó khóa miệng tôi. “Đây là lệnh.”

“Yes, sir.” Tôi gào lên, tức muốn ói máu.

Ted và Ed bảo, “Ăn cái đã, từ sáng tới giờ tao đói muốn rã ruột.” Tụi nó ăn, tôi kê đầu trên ba-lô ngủ. Có nhiều khi ngủ ngon hơn ăn gấp cả ngàn lần.

Ngủ được ba tiếng, thằng Ted lôi tôi dậy. Đổi phiên. Trời bây giờ tối đen như mực. Tôi có cảm giác bị người ta quẳng vào cái lỗ đen trong vũ trụ. Vừa nằm xuống, thằng Ed, thằng Ted đã ngủ say như chết. Tôi dụi mắt, mắt cay xè. Tôi uống một hớp nước, cũng chưa tỉnh nổi. Bây giờ thiên đường không phải là thành Babylon, không phải là vườn treo Hanging Garden, không phải ở Địa Đàng, hay trên Thiên Đàng, mà là ở trong cái mền bông mềm như nhung, mướt rượt, mượt mà. Tôi đang ước được chui đầu vào đó, đánh một giấc trăm năm.

Tiếng Michael léo nhéo trong máy. Tôi trả lời rồi lôi trong ba-lô một tấm ponchos, một lọ thuốc Alert. Thuốc này uống vào bảo đảm tỉnh như sáo suốt 48 tiếng đồng hồ. Tấm ponchos, tôi trải ra tủ đều cho hai đứa bạn. Đêm trên núi cao, sương xuống lạnh lắm.

Tôi ngồi thu lu trong bóng tối. Một chút sau mắt quen với màn đêm, tôi thấy đêm không đen như tôi tưởng. Trời trong và cao vút, đêm có ngàn sao lấp lánh, một mặt trăng lưỡi liềm chênh chếch hướng Đông. Trăng lưỡi liềm cong vút, bóng nguyệt treo ơ hờ, sắc trăng mờ nhạt lung linh làm đêm trở nên huyền ảo. Không hiểu sao trong tất cả truyện cổ Ả rập người ta chỉ thấy bầu trời và ánh trăng lưỡi liềm. Bây giờ, tôi ngó trăng. Trăng cũng ngó tôi. Mà không, trăng ngó vạn vật. Tôi cũng ngó vạn vật. Đêm thật yên tĩnh. Tôi lắng nghe tiếng gió mơn man vuốt ve lưng núi, tiếng cỏ lao xao, rì rào chen lẫn trong tiếng đập đều đặn của trái tim tôi.

Ba tiếng đồng hồ trôi qua. Tôi ngồi im trong một tư thế gần như bất động. Nhìn xuống khe núi bên dưới, bốn bề vắng tanh. Có ai biết nỗi khổ của một con sói rình mồi? Phải kiên nhẫn lắm. Tôi nhìn vào khe núi như nhìn vào một khoảng không vô định.

Hai giờ sáng. Giờ này là của thằng Ed đây. Nhưng tôi tỉnh táo lắm, cho hai đứa nó ngủ thêm một chút. Bây giờ, trăng chếch về Tây. Đêm Iraq thật huyền diệu, nhưng mà tôi vẫn nhớ một vầng trăng vằng vặc xa tít ở quê nhà.

“Trời xanh, trăng có tự bao giờ?
Ngưng chén, đêm nay hỏi một câu
Người với lên trăng, vin chẳng được
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.”*1

Có phải ánh trăng này từ Việt Nam đã theo tôi tới đây chăng? Còn sao nữa? Sao Hôm, sao Mai đâu? Tôi nhìn trời rồi nhìn điểm “nóng” dưới khe núi. Một vì sao đang rơi trong lùm cỏ. Sao nhấp nháy, nhấp nháy. Thật vô lý. Tôi dụi mắt mình mấy lượt. Quả thật, có một ngôi sao đang rơi trong lùm cỏ. Cái gì đó hả? Tôi chộp khẩu súng, mở kính nhắm, điều chỉnh tầm nhìn. Không phải ánh sao. Điểm sáng là ánh đèn pin đang vẫy qua, vẫy lại. Tôi lấy googles*2 nhìn, đèn tắt. Nghe tiếng lách cách, thằng Ted, thằng Ed đồng nhỏm dậy. Chúng bò lại bên tôi, thì thầm.

“What’s up?” Nó hỏi, “Cái gì vậy?”

Không đợi tôi trả lời, nhanh như cắt, nó chộp súng, quan sát qua ống kính, “Oh, men.”

Tôi gọi máy, báo cáo tình hình. Michael lệnh, theo dõi mục tiêu, khoan nổ súng. Nó báo cáo về Trung Tâm hành quân. Ba thằng tôi xác định tọa độ, theo dõi địch. Có thể đây là tụi vận chuyển vũ khí tiếp tế cho khủng bố. Có một đường hầm hay hang động bí mật nào đó đi ngang qua eo núi này. Có lối vào ắt phải có lối ra. Không biết phía trước núi có ai phát hiện gì không? Không biết số lượng vũ khí là bao nhiêu và số người tham dự đường dây này?

Của tổ chức nào?

Mười phút sau, tiểu đội tôi tề tựu. Vì hang động ăn sâu trong núi, không thể tiêu diệt hết nếu chỉ tấn công bên ngoài. Các đơn vị khác cũng đang bao quanh trước và sau núi. Trung Tâm sẽ chi viện một phi đội trực thăng AH-64 Apache để tấn công cả hai cửa hang. Nếu sức kháng cự lớn, trung tâm sẽ gọi các loại F mang bomb bunker*3 yểm trợ sau.

Trong khi chờ đợi chúng tôi di chuyển vào vị trí phối hợp. Mắt tôi không rời mục tiêu. Bên dưới một toán người sắp hàng một, lặng lẽ trước và sau đẩy những thùng sắt to và dài bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nóng ruột. Có thể là những air-missile SA-7B hay SA-14, dễ di chuyển. Cả đoàn khoảng hai mươi người đã bắt đầu đi vào cửa hang. Trời ơi! Không khéo họ sẽ mất hút trong ấy hay cố thủ sẽ khó đây. Cần phải tấn công ngay. Nhiều họng súng chĩa ngay về phía họ.

Trong phút chốc, tiếng máy bay vần vũ ngay trên đầu. Cả chục chiếc đèn cực mạnh sáng rực như ban ngày. Có tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Phía địch bỏ chạy tán loạn. Có kẻ chạy thẳng vào hang, có kẻ trở đầu súng chĩa lên bắn máy bay. Những chiếc Apache đảo vòng vòng. Chúng tôi nổ súng bắn địch. Họ buông súng, thân xác ngã vật ra. Tai tôi không nghe thấy gì. Tiếng nổ chát chúa, liên tục. Trên không, máy bay nả những chiếc rocket AGM-114 Hellfire bay liệng vô hang. Ầm. Ầm. Những tiếng nổ lớn, mặt đất rung rinh, lửa vụt sáng chóe và những luồng khói đen bốc lên cuồn cuộn. Tôi xoay nòng súng bắn như điên vào những lùm bụi gần cửa hang. Không thể để chúng bắn tỉa máy bay vì họ đang bay rất thấp.

Khi trận công phá kết thúc, tôi đi xuống dưới coi. Xác địch ngổn ngang, không biết tên nào do tôi bắn chết. Những kẻ này mặt mũi bình thường, nhưng giờ đã là những cái xác vô tri. Nếu sống, có thể có một ngày nào đó dám tôi mời hắn uống café trên đường phố Baghdad. Xem chán, tôi vào hang động, nhưng bị chận lại. Người ta đang đưa những chuyên viên vũ khí tới đây. Cũng có thể có mìn hay chất nổ tự hủy đã được gài sẵn.
Đơn vị tôi được lệnh trở về, tuy cuộc hành quân vẫn còn tiếp diễn. Về sau quân đội phải khóa kín biên giới Iran, Syria ngăn chận vũ khí đổ vào Iraq.

Từ mùa Xuân năm 2004, tổ chức Al-Qaeda với Musab-al-Zarqawi, dân quân vũ trang Mahdi của phái Shi’a, phe giáo sĩ Al- Sadr, tổ chức tấn công dữ dội khắp nơi. Trong đó Musab al-Zarqawi là tên khủng bố kinh hoàng nhất. Hắn dùng kiểu hành hình thời thượng cổ, lấy lưỡi gươm Sinbab chặt đầu tất cả các con tin ngoại quốc để áp lực Mỹ rút quân vô điều kiện. Các nạn nhân trước khi chết đều sợ hãi. Nhưng những người chưa bị bắt, chưa bị chặt đầu, chưa sợ. Thế giới Hồi giáo khắp nơi cũng phản đối. Al-Zarqawi bôi nhọ Hồi giáo. Hồi giáo không man rợ như Zarqawi. Phải chống Mỹ kiểu khác. Lực lượng vũ trang Sunni tổ chức phản công mạnh mẽ ở Fallujah bắt đầu tháng 3 năm 2004, giết bốn nhân viên an ninh cung cấp lương thực của tổ chức Blackwater. Họ cột bốn cái xác vào một chiếc xe, diễu lê khắp phố phường Iraq. Chủ ý răn đe buộc Mỹ rút quân. Nhưng cách đó thất bại. Người ta nhìn thấy tổ chức Sunni dã man, cần phải tiêu diệt. Trận đánh đẫm máu với Sunni là trận 46 ngày đêm ở Fallujah. Người Mỹ so sánh với trận Mậu Thân Huế năm 1968. Mỹ mất 95 binh sĩ, và địch bỏ lại 1,350 xác chết đủ mọi sắc tộc như Chechnyan, Iran, Syrian,… Ả Rập,…… Sau tháng 11 năm 2004 trở đi, tình hình có vẻ lắng xuống.

Người Iraq xoay qua chống Mỹ theo kiểu khác: Kiểu Việt Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ “thua” không phải trên mặt trận quân sự, mà “thua” trên mặt trận tâm lý. Chiến tranh tâm lý mở rộng. Phong trào phản chiến, những vụ Mỹ Lai được khai thác triệt để. Các tổ chức chống Mỹ, tổ chức nhân quyền đua nhau tố cáo những vụ vi phạm nhân quyền. Nổi tiếng nhất là cô Lynndie England và anh lính Charles Graner của trại tù Abu-Ghraib. Bức hình nổi tiếng tình tứ nhất của họ là bức hình lột truồng sáu người tù và bắt họ chồng chéo nhau xếp thành hình Kim Tự Tháp. Thế giới phẫn nộ, người Mỹ phẫn nộ, lính Mỹ phẫn nộ, chính quyền Mỹ rất phẫn nộ, nhưng tôi không… phẫn nộ. Tôi nghi, cặp tình nhân này điên ư? Họ không biết hành động vậy là vi phạm nhân quyền, vi phạm quân kỷ à? Tù như chơi. Họ biết, nhưng vẫn làm. Và ai là người đang đứng chụp hình cho họ đấy? Một nhân vật thứ ba. Rõ ràng đây là một vụ vi phạm nhân quyền có dự mưu. Cặp Lynndie và Charles đã lãnh bao nhiêu tiền? Khác với vụ Mỹ Lai, tòa án quân sự Mỹ làm rùm beng chuyện này. Họ xử nặng và tuyên bố sẽ lôi hết các vụ vi phạm nhân quyền ra công lý.

Cuối năm 2005, chúng tôi được lệnh điều về miền Nam. Mười lăm ngàn quân nhân canh giữ an ninh cho các thùng phiếu. Tất cả các tổ chức, giáo phái, phe phía chủng tộc, ghét Mỹ hay thân Mỹ đều được mời tham chính. Tất cả do người dân quyết định bằng lá phiếu. Ông Bush tin, với cách này, mọi người đều có mặt trong chính quyền, người dân sẽ quyết định chính thể của họ. Chúng tôi nghĩ, ông Bush lầm. Mọi phe nhóm đều không có ý định hợp tác tham chính, mỗi một phe đều muốn giành lấy độc quyền cai trị và tiêu diệt đối lập. Họ muốn dùng bàn tay sắt như Saddam. Họ chống Mỹ vì Mỹ không để điều đó xảy ra.

Sau bầu cử, người Iraq mở những mặt trận mới. Họ tiêu diệt nhau tận tình. Người Sunni xả súng bắn vào chợ búa người Shi’a, 65 người chết. Người Shi’a ném bom vào đám cưới Sunni, 124 người chết. Người Sectarian (không biết từ đâu tới) đánh bom vào thánh đường Al-Askari của người Shi’a ở Samarra, 165 người chết. Người Sunni lái xe bom lao thẳng vào lãnh địa Sadr giết chết 215 người. Con số người chết tăng đều như người ta nhân các giải độc đắc lotto hàng tuần. Đây chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc nội chiến tương lai.

Đầu năm 2007, ông Bush tuyên bố tăng quân, tăng chi cho cuộc chiến Iraq. Mặc, trong khi người ta phản chiến khắp nơi. Tình hình Iraq không thể ổn định, nhưng cũng không thể rút quân. Tiến thoái lưỡng nan. Mỹ rút, một cuộc nội chiến chắc chắn sẽ xảy ra. Tàn khốc còn hơn thời Saddam và chiến tranh hiện tại. Người Iraq giết người Iraq. Và mọi tội lỗi sẽ đổ lên đầu người Mỹ.

Giấc mơ ổn định Iraq giống như chuyện nằm mơ ban ngày. Mọi hận thù sắc tộc, tôn giáo gì đó là những mối thù truyền kiếp có thể sẽ kéo dài cho tới ngày tận thế. Đồng minh các nước lục tục rút quân về. Người Anh cũng bắt đầu giảm quân ở căn cứ Basra.

Tiểu đoàn tôi được lệnh di chuyển từ Samarra tới Basra. Khi ngang qua Baghdad chúng tôi được viếng thủ đô, thăm thắng cảnh trong 48 giờ. Nhiều người không đi, họ ở lại trong đơn vị, chỉ ra ngoài khi có nhiệm vụ. Baghdad là tụ điểm của khủng bố, phá hoại, bắt cóc, của “road bomb” và “tự sát”. Bởi đây là nơi gây nhiều tiếng vang, lấy thành tích dễ nhất. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở, tiểu đội tôi quyết định ra ngoài. Viếng thăm xứ Ngàn Lẻ Một Đêm là điều tối ư cần thiết.

Chúng tôi mặc thường phục, lận súng ngắn, máy định vị, rồi ra đường. Baghdad lớn lắm, người đông, có con sông Tigris bắc ngang chia thành hai khu vực. Thủ đô đầy nhà cửa dinh thự, kiến trúc cổ công phu rất đẹp, khu dân cư tầm thường đơn giản, và đường sá xây dựng rất cẩu thả. Những người trẻ mặc âu phục, đa số trung niên người già ăn vận theo truyền thống. Đàn ông mặc thawbs (áo dài chấm chân), đội mũ kufiyah (mũ úp) hoặc gutra (khăn trùm) có egals (vòng vải quấn quanh đầu). Đàn bà mặc abaya (áo đen trùm kín thân người), đầu quấn khăn choàng lớn.
Bỗng dưng, thằng Ted hỏi đố, “Thằng nào thấy đứa con gái Iraq đi giày cao gót đầu tiên, tao tặng $100 dollars.”
Cả bọn xôn xao, cười như Tết. Giải thưởng hấp dẫn đây. Nhưng làm sao kiếm ra. Bọn tôi chúi mắt vào chân tụi con gái. Thật đáng kinh ngạc. Lòng vòng nãy giờ, thấy hơn trăm đứa, chẳng có mạng nào mang giày cao gót cả. Mà đàn bà đẹp là nhờ giày cao gót. Giày cao gót làm dáng đi yểu điệu, mảnh mai. Bây giờ tôi chợt hiểu ra, trông con gái Iraq không có nét dịu dàng, mềm mại là bởi tướng đi chắc nịch, hơi giống tướng đàn ông. Đã vậy, khăn áo kín mít, trông như những con quạ di động, chẳng có gì hấp dẫn. Vòng qua nhiều đường phố, cả thành phố chỉ có một loại cây duy nhất là cây Chà là. Chúng tôi lẩn quẩn khắp nơi, đường phố Iraq rất dễ lạc, nhà cửa cây cối các nơi đều giống nhau. Chiến tranh, khủng bố, bom nổ làm khắp nơi tiêu điều. Iraq ít có nhà hàng, quán xá, café… như các thành phố khác. Tiếp xúc người dân ở đây cũng đáng ngại. Họ sợ bị nghi ngờ, bị trả thù. Chúng tôi cũng sợ hỏi trúng những người ôm bom tự sát.

Chúng tôi quyết định trở về khu trung tâm, viếng dinh Saddam. Nghe nói, Saddam cũng chán đàn bà trùm chăn, trong dinh treo toàn hình Marilyn Monroe vén váy. Nhưng mà Saddam có tới 23 cái dinh, luân phiên ngủ mỗi ngày, vậy cái nào mới có hình các kiều nữ Hollywood khỏa thân, ở truồng.

“Mày tưởng Saddam có dành một cái dinh để tu chắc?”

Cả bọn cười sằng sặc.
Chúng tôi quay lại con sông Tigris, băng qua cầu. Tại đầu cầu này, năm đó, khi tiến vào Baghdad, sư đoàn 3 đã dừng lại mấy ngày chờ lệnh. Người ta đợi một sự thỏa thuận buông súng của lực lượng Vệ binh Fedayeen trung thành với Saddam, để tránh những tổn thất nhân mạng không đáng có. Lúc đó Baghdad có tin đồn, Mỹ hết đạn. Một số tay súng lập lô cốt phòng thủ ngay trên đường phố, dùng AK-47 chống xe tăng M1Abrams. Trong chiến tranh đôi lúc cũng khiến người ta chết vì những tin đồn nhảm nhí như thế.

Bốn mươi tám giờ ở Baghdad qua mau, đơn vị gấp rút chuyển quân xuống Basra. Cách 55 dặm về phía Nam Baghdad là thành Babylon. Đoàn quân xa chầm chậm qua khu vực này. Thành Babylon cổ xưa, rộng tới mười cây số vuông, nơi cách đây gần ba ngàn năm người ta đã xây dựng đền đài cung điện cao ngất để lên trời. Năm 1258, Hốt Tất Liệt đã dẫn đại quân Mông Cổ đánh chiếm một nửa Châu Âu, rồi tràn qua Iraq. Lịch sử ghi, người Mông Cổ đi tới đâu, cái gì không cướp được là phá hủy. Kinh sách không đọc được đều bị đốt, kể cả những thứ về kiến trúc, y học, thiên văn. Ngọn lửa đốt cháy thành Babylon và tất cả sách vở hơn ba tháng mới tắt. Dân trong thành cũng chết sạch. Người Mông Cổ đã tiêu hủy cả một nền văn minh cổ xưa, phát triển rực rỡ nhất của loài người. Bây giờ, gạch đá ngổn ngang, phế tích tang thương, khiến chúng tôi không khỏi ngậm ngùi.

“Ôi, bên bờ sông Euphrates
Thành Babylon đổ nát
Mà ta còn ngồi đây
Đàn đã lỡ lên dây
Kẻ thù còn bắt hát,
Ngợi ca về Zion
Làm sao ta hát được
Bài ca trên đất lạ…”
(Psalm 137)

Nhưng mà, đáng lẽ người Iraq phải thù Mông Cổ mới đúng. Đằng này, họ đi thù Mỹ. Tôi nghĩ, có thể bắt đầu do một sự hiểu lầm nào đó. Năm 1927, khi người Anh phát hiện mỏ dầu ở Kirkuk, lần đầu tiên khoan giếng, một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Dầu bắn mạnh và phun cao như một thứ nham thạch vọt ra từ trong miệng núi lửa. Ngọn cao tới 15 mét, dầu tràn như lũ lụt. Chỉ cần một que diêm cả thành phố sẽ ra tro. Sau chín ngày, người Anh mới dập tắt được ngọn lửa. Mặc dù đó là một tai nạn, nhưng người Iraq vẫn ngờ, đó là một đòn dằn mặt. Chớ có tự ý khai thác dầu. Kỹ thuật khoan dầu, xưa nay vẫn được giữ kín như một thứ bí mật quốc phòng.

Đoàn quân xa theo quốc lộ chạy thẳng xuống Basra. Chúng tôi vượt qua nhiều khúc sông, hồ và đầm lầy. Nơi đây là bình nguyên trù phú nhất của Iraq, nhưng đất đai không màu mỡ. Cỏ lún phún thưa, gần đầm có lau sậy, có nơi có những hàng Chà là rợp bóng như hàng dừa của Bến Tre. Vùng cằn cỗi vậy mà là cái nôi của con người ư? Thủy tổ của loài người, dấu tích ông Abraham đã từng sinh sống nơi đây. Vùng đất nghèo dân khó, nông dân ở đây đi xuồng thô, ở lều vải, chẳng có ai cất nổi một căn nhà.

Bây giờ là tháng Sáu, trời vào Hè. Nhiệt độ 120F, Iraq trở thành một cái lò nướng khổng lồ. Nóng rát mặt, rộp da. Chúng tôi băng qua một khu sa mạc. Gió bắt đầu nổi lên. Bộ chỉ huy báo động, khoảng một tiếng nữa sẽ có bão. Bão sa mạc đến bất ngờ và qua cũng trong chớp mắt. Chúng tôi dừng lại và chờ đợi. Những tấm bạt, lều, ponchos được trưng dụng tối đa. Chúng tôi phủ lên những vũ khí, đạn dược và bịt chặt các nòng súng. Cá nhân đeo mặt nạ, và chui vào xe trú ẩn. Hơn một tiếng sau, bão rú. Tiếng gió rít như xé lụa tận trên cao, rồi bão ầm ầm xô tới. Một con sóng màu vàng cuồn cuộn cuốn tung đất cát ngùn ngụt lăn qua sa mạc. Chúng tôi khum đầu xuống, đất cát đổ xuống mình lộp độp nghe như tiếng mưa rào. Khi trời im bão, chúng tôi đứng lên, rũ cát, nhìn ra xa. Mặt đất như mới thay da, một màu cát mới tinh khôi trải dài ngút tận chân trời.

Cách Basra hơn 46 dặm, chúng tôi dừng lại nghỉ. Lính đua nhau nhẩy ào ào xuống, chạy vào làng. Đây là Al-Qurnah, Vườn Địa Đàng của Adam và Eva, thủy tổ của loài người. Tất cả kinh thánh viết, trong vườn Địa Đàng đầy cây trái và bát ngát hương hoa, duy chỉ có mỗi một thứ Trái Cấm của cây Tree of Life là không ăn được. Ai ăn Trái Cấm sẽ bị đuổi ra vườn Địa Đàng, tự trồng trọt để nuôi thân, rồi sẽ già và chết. Nhưng Eva hàng ngày nhìn quả Cấm trên cây và thắc mắc. Satan dụ dỗ, Chúa cấm ăn vì ăn Trái Cấm con người sẽ thông minh như Chúa, sẽ làm được những điều Chúa muốn làm. Eva cắn ngay một miếng và nàng dành một trái cho Adam. Ăn xong, khi đến trước Chúa, lần đầu tiên Adam bỗng mắc cỡ vì thấy mình lõa lồ. Chúa biết hai người đã phạm điều cấm nên đày họ ra khỏi vườn Địa Đàng…

Bây giờ, tôi cũng muốn chạy tới xem cây Tree of Life, bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ trộm cắn một Trái Cấm. Xin Chúa hãy đày tôi ra khỏi Vườn Địa Đàng hay nói đúng hơn đày tôi ra khỏi Iraq, tránh xa cuộc chiến này. Tôi chưa muốn chết, nhất là chết ở một đất nước không có dây mơ rễ má nào với tôi. Nhưng khi vào làng, tôi thấy một đám đông chùm nhum chờ đợi để chụp hình dưới cây Tree of Life. Một gốc cây sù sì không có lá, đang giơ những cành khô hiểm hóc nổi bật dưới trời xanh.

Tháng 7 năm 2007, 441 lính Anh thuộc nhóm Danish rời Basra. Đây có lẽ là nhóm thứ chín rời trại. Những chiếc trực thăng bốc họ rời căn cứ. Tôi ngó lên bầu trời nhìn cho tới lúc dấu trực thăng mất dạng. Tôi thèm có một ngày tôi cũng bay bổng để ra khỏi vùng đất Basra.

Chúng tôi đóng quân gần căn cứ Anh. Nơi này là ngoại ô bảo vệ Basra, bảo vệ các giếng dầu và hệ thống dẫn xuất, hệ thống khí đốt quan trọng của Iraq. Ngoại trừ thủ đô, đây là thành phố lớn nhất Iraq, dân số một triệu rưỡi. Basra còn nhiều ngành hóa học, công nghiệp khác. Chỉ nói về dầu, Iraq đã cung cấp 20% năng lượng cho thế giới. Trong cuộc chiến với Iran năm 1980, do lượng định sai, Iraq đã bất ngờ tấn công và bao vây nhiều làng mạc Iran, tiêu diệt hàng trăm binh sĩ. Nhưng sau đó Iran tập trung lực lượng phản công, đánh thẳng vào Basra, giết chết hàng ngàn lính Iraq, phá hủy hệ thống dẫn dầu của Basra. Tuy vậy, Saddam vẫn tuyên bố chiến thắng. Để bù đắp chiến phí và thiệt hại chiến tranh, Saddam quyết định cần phải nâng cao giá dầu gấp bốn, năm lần. Thế giới phải trả giá cho những sai lầm của Iraq. Nhưng Kuwait, một quốc gia kề cận Basra vẫn bán dầu với giá rẻ. Saddam lên án Kuwait phá giá dầu. Hơn nữa mỏ dầu Kuwait có một phần nằm dưới lòng đất Iraq. Năm 1990, Iraq xua quân xâm chiếm Kuwait. Cả thế giới nổi giận. Mỹ và đồng minh đánh vào Iraq. Trước khi rút quân, Saddam ra lệnh đổ hàng triệu thùng dầu xuống vịnh Persian và đốt 700 giếng dầu của Kuwait. Đầu năm 2003, để tử thủ Basra, Saddam cũng ra lệnh quấn mìn dầy đặc chung quanh 400 giếng dầu của Basra. Nhưng người Mỹ mua dầu bằng dollars, họ không bao giờ đi đốt tiền, dù là tiền của người khác. Mỹ bao vây giếng dầu, lính Iraq cũng không thể uống dầu để chiến đấu. Họ lục tục theo nhau kéo cờ trắng.

Chiến tranh kéo dài đến mệt mỏi. Để áp lực nước Mỹ rút quân, khối Ả Rập dùng đủ mọi cách tăng giá dầu. Thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ khủng hoảng năng lượng. Giá dầu nhích dần. Chính phủ mới của Iraq đã thỏa thuận ký hiệp khai thác dầu với Mỹ, Anh, Trung Quốc.

Ước mơ kết thúc cuộc chiến là ước mơ chung của tất cả mọi người. Hơn thế nữa, nó là nỗi hy vọng lớn nhất của những người lính, nhiều khi còn vui hơn niềm vui chiến thắng.

Ngày 10 tháng 9 Tư lệnh chiến trường Iraq General David Petraeus tuyên bố, Hè năm tới sẽ rút 30,000 quân số. Ông Bush cũng hứa, cho phép 5,700 quân nhân từ các đơn vị được về đón Giáng Sinh. Chao ơi! Chúng tôi nhẩy cỡn vì sung sướng. Niềm vui như được ngồi trên một tấm thảm thần của xứ sở Aladin bay lượn ra khỏi nơi đây.

“Kỳ này về, tao sẽ đi học trở lại.” Thằng Ted nói, nó vào lính để được hưởng học bổng toàn phần.

“Tao sẽ ứng cử nghị viên thành phố.” Michael Tea, đúng là con nhà nòi, ba nó là Thượng nghị sĩ.

“Tao sẽ lấy vợ và đẻ một chục con.” Edward tuyên bố thẳng thừng.

Tụi tôi hè nhau thụi nó. “Ê, mày muốn quân đội phá sản vì đám con của mày à?” Ed cười hô hố.

“Còn mày?” Tụi nó quay qua tôi.

“Ước mơ lớn nhất của tao là được nhập quốc tịch, rồi bảo trợ gia đình sang.” Tôi cười ngượng nghịu.

Cả bọn vỗ vai tôi, “Ô! Chuyện nhỏ.” Chúng nó cười khuyến khích, “ Mày sẽ được như ý.”

Hôm sau, đúng vào ngày thứ Sáu, tiểu đội nhận lệnh trực. Tiểu đội trưởng huấn thị, theo báo cáo Bộ chỉ huy tuy cường độ khủng bố giảm nhẹ, nhưng số thương vong do các vụ tấn công vào mục tiêu dân sự vẫn còn nhiều. Ở Baghdad 265 người, Kirkuk 450 người,… Dự báo, khắp nơi sắp có nội chiến.

Tôi mặc kệ nội chiến. Cứ giết nhau đi. Saddam này chết, sẽ có một Saddam khác lên thay. Còn tôi sẽ rời khỏi nơi đây, bằng cách này hay cách khác.

Chúng tôi bốn thằng, hai thằng trên lô cốt, hai thằng ở ngay cổng. Vai đeo súng, mắt nhắm ra xa, chúng tôi rảo bước trước doanh trại. Đi lính, tôi ghét nhất là đi tuần và canh gác. Nhiệm vụ chán chết người. Mà trong phim mấy thằng lính gác đều là mấy thằng chết trước.

Hai tiếng đồng hồ trôi qua. Trời ơi, khát. Uống bao nhiêu đi nữa, nước cũng bốc thành hơi trong bụng.Tôi nhìn qua thằng Ted, mặt mày nó khô khốc, đôi môi rộp, da đỏ bừng. Tôi tưởng tượng, chỉ cần bật tí lửa nó sẽ bốc cháy như cây đuốc sống. Nhìn nó, tôi thông cảm được tâm trạng người lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Tại sao tôi lại đổ mồ hôi và máu tại chiến trường này? Vì lý tưởng tự do dân chủ ư? Hai phần ba thế giới không có dân chủ, đâu phải chỉ mỗi mình Iraq? Vì Saddam độc tài, sở hữu vũ khí giết người hàng loạt à? Mỗi một nước thuộc thế giới thứ ba đều có một thằng lãnh đạo độc tài như thế. Hay vì dầu hỏa? Phong trào phản chiến ở tại nước Mỹ lên án, chính phủ đem sinh mạng người lính đi bảo vệ túi tiền cho các hãng dầu. Nhưng muốn ký kết hiệp ước khai thác dầu, hay hạ giá dầu có nhiều cách, không nhất thiết phải mở một cuộc chiến. Tổn phí cuộc chiến Vùng Vịnh lần I, sáu tuần lễ, ngốn hết 61 tỷ dollars, buôn bán dầu hỏa đâu giàu mau thế; chiến tranh Vùng Vịnh lần II trong 5 năm tiêu hết 577 tỷ. Thế giới nói, người Mỹ đánh giặc theo kiểu con nhà giàu. Nhưng trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ keo kiệt đến mức độ kinh tởm. Mỹ chi 111 tỷ cho cuộc chiến 20 năm. Lấy 111 tỷ chia cho 20, mỗi năm 5 tỷ rưỡi. Và trong thời kỳ cuối, quốc hội Mỹ đã từ chối 300 triệu dollars viện trợ để cứu lấy đồng minh.

(còn tiếp ...)
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #124 - 11. Jul 2010 , 08:30
 
Đưòng ra khỏi Basra
(tiếp theo):

Trưa đúng Ngọ, mặt trời đang đứng ở đỉnh đầu. Tôi đứng tỳ tay vào thành cổng, ôm chặt khẩu M4A4, đây là loại tối tân nhất, chỉ thiếu bộ phận hồng ngoại tuyến IRIS như đội đặc nhiệm. Còn cha tôi, và những người lính miền Nam chỉ được dùng loại M1 Garant hay Carbine, bắn từng phát để chống với AK-47 tối tân, hiện đại nhất Liên Xô. Dùng xe tăng M41, thiết vận xa M113 để dàn trận đánh nhau với T.54 của địch. Ví như người ta dúi cho lính miền Nam một con dao cùn trong trận tử chiến. Mãi đến sau Tết Mậu Thân, miền Nam mới được tiếp viện giới hạn M.16 và chiến xa M.48. Nhưng, đã quá muộn.

Người ta ví, chiến tranh Việt Nam là nơi tiêu thụ vũ khí thừa từ thế chiến thứ II, cứu các xưởng vũ khí Mỹ bị thua lỗ. Chiến tranh Iraq là nơi thử nghiệm những thứ vũ khí mới. Và những người lính miền Nam chết trong tay đồng minh nhiều hơn trong tay địch.

Ôi! Việt Nam. Ôi cha ơi! Những người tù sau chiến tranh bị đày đi chém tre, đẵn gỗ trên ngàn và bỏ xác trên núi rừng xa lạ.
Nước mắt tôi rơi, trái tim tôi vỡ.

“Khát quá.” Tiếng thằng Ted khàn đục. “Nước đâu?”
Nó chụp chai nước suối của thằng Ed quăng xuống, chuyền cho tôi một chai.
Không. Tôi không khát. Nước ở đây này. Nước mắt tôi rơi như mưa, và tôi đang nhấm từng giọt mằn mặn trên môi như người ta nhấm rượu.

Từ xa, một chiếc xe vận tải xuất hiện. Thằng Ted chộp ống nhìn, quan sát. Nó nói, xe giao sữa. Nó lui vào trong, ra sau cổng, lấy máy rà mìn. Tôi cũng ngó qua ống nhìn. Xe chạy băng băng. Tôi nhận ra, thằng lái xe là Abu gì đó, tôi quên mất. Nó vẫn thường giao sữa mỗi thứ Hai, thứ Năm. Nhưng hôm nay là thứ Sáu mà. Ngày thứ Sáu người Hồi giáo đồng loạt nghỉ, không có ai làm việc vào ngày này. Tôi dán mắt vào ống nhìn. “Trời ơi!” Tôi kêu lên, gần đến cổng, mà nó xả hết tốc lực.

“Xe bomb.” Tôi thất thanh kêu. Không còn kịp nữa, tôi lao ra về phía trước, đưa khẩu súng nhắm. Trong trại, đơn vị đang ăn trưa, hơn 400 lính đang ngồi đầy trong đó. Nếu bắn, thật nguy hiểm. Có thể tôi bị thương hoặc sẽ chết. Bắn thằng Abu, xe vẫn lao tới. Không suy nghĩ nữa, tôi quyết định trong nháy mắt.

Tôi bóp cò phóng lựu bên dưới khẩu M4, một quả M203 bắn vọt ra như hỏa tiễn, đâm ngay thùng xe. Tôi nhìn thấy một đường khói còn chưa tan hẳn. Một tiếng nổ kinh hồn rung chuyển mặt đất. Lô cốt rung rinh. Cát và đá mịt mù. Mà lạ quá, bỗng nhiên tôi thấy mình nhẹ hửng, bay lên, bay lên cao. Tôi nhìn xuống. Ôi, thân xác tôi kia. Tôi nằm bất động. Những mảnh kim loại cắm đầy người. Chiếc xe bomb nát như tương. Thằng Abu mất xác.

Khi cả đơn vị chạy ra, tiếng xe cứu thương kêu inh ỏi. Họ khiêng xác tôi lên. Cả tiểu đội khóc cuống cuồng.
“Còn nước còn tát.” Michael đập đập tay vô xe cứu thương.
“Hãy cứu nó đi.” Tụi nó gào lên, chạy theo xe.
“Cứu cái gì?” Tôi la lên, nhưng chúng không nghe. “Tao ở đây nè.”

Bây giờ, thế giới hai nơi. Tôi bắt đầu mơ màng chìm trong giấc ngủ. Đâu đây văng vẳng bài hát tôi yêu.
“… Trả súng đạn này. Ôi, sạch nợ sông núi rồi
Tôi trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất, năm nao… ” *4

Cuối cùng thì tôi cũng tìm được con đường ra khỏi Basra.


Nov. 10/2008
NTTA
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #125 - 28. Jul 2010 , 22:30
 


"Hai câu chuyện" không thể bỏ qua mà không đọc!


Chuyện thứ nhất

Có rất nhiều quân nhân can trường trong thế chiến thứ Hai, một trong những anh hùng đó là Trung Tá phi công Hải Quân Butch O’Hare. Trung tá O’Hare là phi công khu trục tùng sự trên hàng không mẫu hạm Lexington trong vùng biển khu vực Nam Thái Bình Dương.
Một hôm toàn thể phi đoàn của ông được giao phó thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh và gia nhập đội hình bay, liếc nhìn bảng phi cụ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó không bơm đẩy xăng cho ông.
Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về tầu được. Trung tá O’Hare báo với Phi ĐoànTrưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình của phi đoàn và quay trở lại hàng không mẫu hạm.
Trên đường về tầu, bỗng nhiên, trung tá O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: dưới thấp xa xa trước mặt ông là nguyên một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tìến về hải đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhìệm vụ và hải đội không còn ai bảo vệ cả. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không còn thời gian để báo với hải đội những nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi phá tan và chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.
Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình đoàn oanh tạc cơ Nhật, với bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh đỏ rực, ông tấn công tới tấp bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hải đội Hoa kỳ.
Cuối cùng, đoàn phi cơ Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo lại sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng hùng hồn nhất.  Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.
Đó là ngày 20 tháng 2 năm 1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ.
Năm 1943, trung tá O’Hare  tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường của thành phố Chicago , quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare. Dịp nào đó nếu dừng chân tại phi trường O’Hare, xin hãy đi thăm khu kỷ niệm O’Hare, nhìn tận mắt Huân Chương Danh Dự đã gắn lên ngực áo của ông. Khu lưu niệm này nằm giữa Terminal 1 và Terminal 2.

Chuyện thứ hai

Hơn mười lăm năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Easy Eddie. Trong thời gian này, Trùm tội ác Al Capone hầu như làm chủ thành phố. Capone nổi tiếng không do các hành động anh hùng mà vì các việc làm bóc lột, tàn nhẫn và hung ác. Thành phố Chicago , qua Capone, tràn ngập những nơi bán rượu lậu, các động mãi dâm và các vụ giết người không gớm tay.
Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi. Việc rành rẽ và biết lợi dụng các kẽ hở pháp luật của Eddie đã giúp Capone nhởn nhơ ngoài vòng tù tội. Để tỏ lòng biết ơn, Capone trả công Eddie rất hậu. Không chỉ về tiền bạc mà còn chu cấp về tài sản nữa. Chẳng hạn như gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, kín cổng cao tường và thừa mứa các tiện nghi của lúc đó với kẻ hầu người hạ ngay trong nhà. Lâu đài này lớn đến độ chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago
Dĩ nhiên với cuộc sống giầu có quyền thế của kẻ đương thời, làm sao Eddie có thể nhận và hiểu được những khốn cùng của xã hội chung quanh.
Như mọi người, Eddie có một yếu điểm. Có một con trai và Eddie thương con vô cùng. Cậu bé có đủ thứ ở trên cõi đời, toàn những loại thượng hảo hạng: quần áo, xe cộ ngay cả trường học nồi tiếng vì giá cả tiền bạc không thành vấn đề, không gì có thể  ngăn cản được. Mặc dù liên hệ chặt chẽ và chìm ngập trong tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dậy con thế nào là phải và trái.
Vâng, Eddie đã cố dậy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽ  là người tốt.. Cho dù giầu có và quyền thế xiết bao nhưng vẫn có hai thứ Eddie không thể cho con được, hai thứ mà chính Eddie đã chót bán cho Capone: làm gương và để lại cho con niềm danh dự.
Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định việc để lại danh dự cho con cần thiết, quan trọng và có ý nghĩa hơn là cho con cuộc sống giầu có với những đồng tiền  từ máu và nước mắt của người khác. Phải thay đổi hoàn toàn những việc làm lầm lỡ trước kia, phải báo với chính quyền những sự thật vế Al Capone. Eddie cố gắng rửa sạch những nhơ nhớp trên cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.
Để hoàn tất mọi chuyện, Eddie phải ra trước toà làm nhân chứng chống lại ông Trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Hơn tất cả mọi chuyện trên đời, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gưong và niềm danh dự.
Eddie ra trước toà làm nhân chứng, Trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago . Eddie đã để lại cho con trai một món quà lớn nhất trên thế gian này, mua bằng giá cao nhất là sinh mạng của chính mình.
Hai câu chuyện này có liên hệ gì với nhau ? Trung tá phi công Hải Quân Butch O’Hare là con trai của Easy Eddie.
Ước mong bạn cũng ngậm ngùi và cảm động như tôi khi đọc những giòng này.

Back to top
« Last Edit: 28. Jul 2010 , 22:31 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3583
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #126 - 06. Aug 2010 , 21:41
 
Đời  nổi,  hoa  trôi

            Tâm  Thanh -  Na Uy

Căn cứ không quân Banak trong một ngày hè uể oải. Dưới nắng chói chang, đường bay trải dài loang loáng như có ai khéo tạt một vũng nước vuông vức ra tận vịnh Porsangen. Ba dãy trại sơn trắng, ghép thành hình chữ U nằm buồn như chợ chiều. Cái hăng-ga khổng lồ đóng cửa im ỉm. Tôi ngồi "gác kiểng" trên đài quan sát, mường tượng cảnh những chiếc máy bay F-16, F-5 tấp nập lên xuống hồi Nato còn đóng ở đây. Bây giờ chỉ còn đàn hải âu lười biếng lượn trên bầu trời trong. Giá tôi có thể thả cho đời trôi như thế. Tiếng chuông điện thoại reo. Tôi hấp tấp bắt máy:

- Ðài quan sát, phi trường Banak, tôi nghe đây ạ.

- Thân đấy hả? Nghe đây: Có một người Việt Nam, đang ở phòng cảnh sát Tana, không biết một chữ Na Uy. Họ cần người dịch. Cậu có muốn giúp họ không?

Tôi nói như trẻ con xí đồ chơi:

- Dạ, muốn chứ, thiếu tá.

- "Muốn chứ"- ông thiếu tá có tật nhái lời, lúc mới nhập trại tôi cứ tưởng ông kỳ thị, rồi tiếp -Nửa giờ nữa có người lên gác thế, anh xuống văn phòng gặp tôi. Có trực thăng tới đón.

Bỏ điện thoại xuống, tôi mới bắt đầu tự hỏi: tại sao lại có người Việt nào lạc loài lên miền địa đầu giới tuyến này? Tưởng chỉ có mình tôi điên. Chắc là một du khách người Việt đi coi mặt trời đêm, quên đường về? Hay là một người từ Nga nhảy rào xin tị nạn chính trị? Ôi! Nếu là một vụ tị nạn thì thật hấp dẫn. Tôi nhìn cây kim đồng hồ treo dưới chân dung quốc vương Harald và hoàng hậu Sonja nhích đi chậm chạp.

Tôi thay đồ dân sự xong lên trình diện. Ông thiếu tá thấy vẻ hăng hái khác thường của tôi, tò mò hỏi:

- Tại sao anh - tay tổ làm biếng - lại sáng mắt lên nhận việc này?

- Lâu quá tôi không được gặp người đồng hương.

Vâng, tôi đang phục vụ ở một nơi hẻo lánh cỡ như Lạng Sơn của Việt Nam, nhưng trong vòng 1000 cây số hình như chỉ có một người Việt. Và lý do tôi vận động đi quân dịch, mặc dầu đã quá tuổi bắt buộc, là vì sau khi ra trường, tôi xin việc mấy chục chỗ không được, đâm buồn chán, trống rỗng, muốn đi thật xa một phen. Hơi quá xa.

Từ bãi trực thăng đi vào phố chỉ chừng 2 km. Tana là một xã nhỏ cực bắc của Na Uy, giáp giới Phần-lan, và là một trong những con đường chính từ Nga sang. Từ vài năm nay, mùa hè ở đây tràn ngập du khách, nhiều nhất là người Nga và Phần-lan. Người địa phương, phần đông là thổ dân Same, nghe nói cũng giòng giống Mông-cổ, nhưng so với dân Viking, không gần gũi với tôi gì hơn. Xe chở tôi chạy qua một khu chợ trời náo nhiệt. Sau ngày Liên bang Xô-viết sụp đổ, người Nga tuồn cả núi quân nhu, quân cụ ra bán. Nào là "mũ nơm gà" Hồng quân Liên xô, huân chương, áo giáp, ống dòm, la bàn, nào là quần áo nhà binh, tượng Lê-nin, Xít-ta-lin, bao cao-su... được bày la liệt trên lề đường, như một cuộc chiến vừa tàn. Ở vài góc đường, những cô gái Nga -rất dễ phân biệt với gái Na Uy nhờ nét mặt thanh tú, thân người thon nhỏ- ăn mặc phong phanh, mời mọc. Có lẽ đây là mấy cô mà bọn con trai trong trại thường to nhỏ, xuýt xoa mỗi lần đi phép về, và ông thiếu tá cũng đã cảnh cáo, nhưng vẫn không yên tâm, bắt cả trại thử máu thường xuyên.

Ty cảnh sát nằm sau nhà thờ. Người đón tôi là một ông trung sĩ cảnh sát, nhưng người điều tra lại là một cô sĩ quan xinh đẹp, tóc ngắn, da dẻ đỏ như đồng, chắc suốt mùa hè này chỉ tắm nắng. Cô tự giới thiệu là Marianne. Vào phòng thẩm vấn, tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng, không hiểu tại sao, khi thấy "đối tượng" thông dịch là một cô gái. Cô đang ngồi quay lưng về phía cửa ra vào, khi cô đứng lên, quay lại, tôi hoa cả mắt vì vẻ đẹp khác thường. Bị hớp hồn, tôi mở lời bằng một câu u mê:

- Cô người Việt?

Nàng cũng thẫn thờ:

- Anh người Việt?

Trong lúc chờ Marianne tìm thêm ghế, tôi nhìn trộm đôi môi hồng vừa thốt ra những âm hưởng Hà Nội ấm và sang, và nghĩ cái câu "Anh người Việt?" có thể dùng để chào nhau, thay cho câu "Bác xơi cơm chưa?" của miền bắc Việt Nam. Khi người nữ sĩ quan cảnh sát bắt đầu gài mẫu biên bản lấy cung vào máy đánh chữ, tôi hiểu đây không phải chỉ là vụ cớ mất bóp hay du khách lạc đường, và trong tâm trạng của một người chín tháng nay chưa thấy mặt người Việt Nam, tôi nghĩ bụng cô gái xinh đẹp này...oan, dẫu chưa biết sự cố liên quan tới việc gì. Người sĩ quan bắt đầu:

- Cô tên gì?

- Natasja Jakusjok.

Tôi không nghe kịp tên họ, phải chìa tờ giấy, xin cô gái viết. Trong lúc Marianne so mảnh giấy cô gái viết với tờ thông hành, tôi so nét mặt thuần túy Việt Nam với cái tên Nga Natasja, lòng đầy nghi hoặc. Marianne tiếp:

- Cô sang Na Uy làm gì?

- Du lịch.

- Từ bao giờ?

- Chiều thứ Sáu.

- Bằng phương tiện gì?

- Xe buýt.

- Khởi hành từ đâu?

- Murmansk.

- Ai mời cô sang Na Uy?

- Tôi tự sang.

- Không có ai từ Nga tự sang Na Uy được. Phải có người từ Na Uy mời, Lãnh Sự Quán của chúng tôi ở Murmansk mới cấp phép nhập cảnh.

- Tôi mà được mời?

Marianne tỏ vẻ nửa ngạc nhiên, nửa thất vọng. Tôi tự nhiên đâm thông minh hơn thường lệ một chút, dịch chữ "mời" thành "bảo lãnh", và nhắc lại câu hỏi. Quả nhiên người đồng hương hiểu ý, trả lời:

- Tôi không biết tên người bảo lãnh.

- Cái tên đó cô phải biết để viết đơn xin chiếu khán.

- Tôi không viết đơn.

Marianne như sắp chụp được con mồi:

- Ðó. Tôi muốn hỏi người nào viết đơn giùm và tổ chức chuyến đi cho cô?

- Tôi không biết. Tới phiên thì tôi mua vé xe. Người bán vé chỉ cho tôi đi xe nào, tôi lên xe đó.

Người nữ cảnh sát thất vọng, xoay mặt lại cái máy chữ từ nãy đến giờ nằm thất nghiệp, lùa tay vào mái tóc nâu. Tôi quay sang Natasja. Tia mắt tôi chạm phải bàn tay cô trắng nuột nà đặt trên đùi, tôi quay đi chỗ khác. Nhưng rồi trong lúc dịch tôi không thể tránh nhìn vào một trong hai người. Tôi nảy ra một so sánh: lúc mới gặp cô cảnh sát, tôi thấy cô đẹp như một nữ tài tử đóng trong các phim James Bond; lúc này ngồi cạnh cô gái Việt, cô trông như một nữ tì. Nhưng người "nữ tì" đã quay phắt lại, nghiêm nghị, dằn từng tiếng:

- Chúng tôi bắt được quả tang cô bán dâm.

Tôi hụt hẫng, bàn tay co giật, loại co giật mà tôi thường gặp khi rơi từ cơn chập chờn vào giấc ngủ sâu, hoặc như khi đi đường băng trơn với em gái, mà nó bị trượt. Tôi sượng sùng, dịch "bán dâm" thành "tiếp khách". Nhưng hai tiếng này cũng đủ như một tảng đá tròng vào cổ, cô gái Việt cúi đầu xuống. Ðầu tôi cúi theo. Một tiếng nhỏ, khàn đục bật ra từ khóe môi lợt lạt:

- Phải...

Cô thú nhận với người cảnh sát Na Uy, nhưng theo thói quen, cô quay sang người thông dịch tội nghiệp. Mắt cô mở lớn, trong vắt, van lơn. Lồng ngực tôi đòi lấy hơi để trút một tiếng thở dài, nhưng tôi cố nín, và càng khó chịu hơn. Và khoảng cách giữa tôi và người con gái đồng hương trở nên bồng bềnh như một mạn thuyền với một cánh bèo trên biển sóng, lúc xa, khi gần. Tôi không làm nghề thông dịch, nhưng hồi còn đi học, thỉnh thoảng tôi có đi dịch để kiếm tiền tiêu vặt. Trước khi được nhận làm, tôi phải học mấy giờ về luân lý chức nghiệp. Hình như tôi nhớ được đôi điều, và bây giờ tôi nhủ lòng mình "Ðây không phải việc của tôi". Cuối cùng cô gái "Natasja" tiếp:

- Nhưng... luật pháp Na Uy không cấm việc này... có phải không?

Phản ứng bớt buông xuôi của Natasja khiến tôi ngạc nhiên. Marianne nghe vậy, lại trở nên hăm hở:

- Ðúng. Luật pháp Na Uy không cấm việc mãi dâm, nhưng cấm hoạt động ma cô. Chúng tôi cần biết ai làm ma cô cho cô?

- Không ai làm ma cô cho tôi cả.

- Thôi. Xin hỏi câu khác: Cô vừa nói luật pháp Na Uy không cấm mãi dâm, mà cấm ma cô. Ai nói cho cô biết điều này vậy?

- Bạn bè.

Quanh đi quẩn lại, rõ ràng là cô cảnh sát chỉ muốn tóm cổ mấy thằng ma cô. Nhưng có gái giang hồ nào dám chỉ điểm ma cô của mình? Hồi nãy khi đi qua khu chị em ta, tôi cũng thấy những bộ dạng khả nghi, chẳng phải người địa phương, cũng chẳng phải du khách hay người thập phương tới buôn bán. Cảnh sát cũng dư biết như thế, có lúc gặp tên ma cô nhâng nháo quá, họ ngứa mắt, đã bắt thử, nhưng chẳng có chứng cớ, phải thả ra cho nó nhâng nháo thêm. Cơ hội duy nhất cho biện lý cuộc là lời khai của các cô gái giang hồ. Nhưng các cô ấy, nhất là cô gái lạc loài ngồi trước mặt tôi đây, làm sao dám nói? Tôi ngước lên nhìn Natasja, gặp đúng lúc cô cũng ngước lên nhìn tôi - trong đôi mắt sâu ấy, cô đang chới với. Marianne dòm lăm lăm vào tờ biên bản gài trên máy chữ như để moi ra câu hỏi mới. Cuối cùng cô ta chuyển đề tài:

- Cô có quốc tịch Nga, nhưng sanh tại Việt Nam?

- Vâng

- Cô lấy chồng Nga?

- Vâng.

Marianne ráng tỏ ra kiên nhẫn:

- Cô Natasja ạ, chúng tôi không bao giờ làm gì hại cô. Chúng tôi chỉ muốn biết tên và có bằng chứng truy tố bọn ma cô. Vậy cô cứ nói cho tôi biết ai đã đưa cô tới đây?

Natasja ngơ ngác:

- Ðưa tới đâu cơ?

Marianne nói muốn nghỉ giải lao mươi phút, trong khi đó tôi phải ra văn phòng làm thủ tục tính thù lao. Marianne gặp tôi ở phòng khách lúc tôi định lấy tách cà phê cho tôi và có lẽ một tách cho cô gái. Cô hỏi chuyện lính tráng của tôi, về người tị nạn Việt Nam ở Na Uy. Câu chuyện lan man sang việc, vào năm 93, cô tham gia chiến dịch vĩ đại chuẩn bị cho trường hợp một triệu người Nga tràn vào Na Uy tị nạn chính trị hoặc nạn đói. Một nhà báo nổi tiếng dí dỏm gọi chiến dịch đó là "cuộc chuẩn bị đón tiếp các công dân của Thiên Ðường đổ vỡ". Việc đó may không xảy ra, nhưng lại xảy ra một cuộc xâm thực dưới hình thức khác. Cô hỏi tôi có biết về các tệ nạn biên giới? Tôi nói có đọc loạt phóng sự của nhật báo Aftenposten và Verdens gang về việc người Nga sang đây buôn bán ma túy, rượu mạnh, quân nhu quân dụng, và mãi dâm. Tôi hỏi:

- Nghe nói có thể mua bất cứ thứ gì?

- Ðúng. Từ sau khi Liên Xô sụp đổ, người ta có thể mua mọi thứ, thứ dữ như bom nguyên tử, súng máy, xe tăng, tầu ngầm... Thứ hiền như đồ chơi. Ðồ chơi rẻ tiền có huân chương Anh hùng Liên-xô, huân chương Lê-nin, Anh hùng dân tộc, Anh hùng lao động. Và đồ chơi đắt tiền là các cô này.

- Bao nhiêu mà đắt?

- Từ 200 tới 500 kroner một đêm.

Tôi nghĩ tới Natasja. Theo cái giá mà văn chương Trung Hoa và Việt Nam đề ra, cô ta phải đáng "ngàn vàng" là ít. Tại sao xuống tới mức này?

- Giá đó tương đương với 2 tới 5 giờ làm việc của một người thợ Na Uy. Có gì mà gọi là đắt?

- Chỉ một cuối tuần các cô gái buôn hương kiếm được số tiền bằng lương một năm của một người thợ trung bình ở Nga.

- Vậy sao quý vị không để cho người ta kiếm ăn?

- Chúng tôi không muốn làm khó dễ các cô gái. Chỉ muốn trừ khử bọn ma cô.

- Nghĩa là nếu các cô ấy làm ăn độc lập thì được phép?

- Ðược.

- Cô thử hỏi cô gái tại sao không làm ăn độc lập?

- Cần gì hỏi. Tôi biết họ không thể nào làm ăn độc lập được. Người dân Nga tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Họ vừa thoát ách độc tài cộng sản, đã rơi vào nanh vuốt Mafia. Báo cáo của hội đồng an ninh kinh tế (NSR) cho biết 4/5 xí nghiệp Nga phải trả tiền bảo vệ cho Mafia. Ta không cần hỏi đồng hương của anh câu đó.

Marianne nhìn đồng hồ, ý muốn chấm dứt giờ giải lao, nhưng lại đứng thêm một lát hỏi về người Việt ở Nga. Tôi không biết gì ngoài những bài phóng sự về tình cảnh những người được chính quyền Việt Nam gởi đi nước ngoài lao động trả nợ chiến tranh, và công thức trả lương: một phần phát cho công nhân, một phần Nhà Nước Việt Nam "lấy thảo". Sau đó khi bức màn sắt sụp đổ, nhiều người ở lại phải xoay xở chật vật để sinh sống, kể cả việc phi pháp và mãi dâm. Và tới phiên người khác lấy thảo.

Tôi mang cà-phê vào cho Natasja, nhưng cô để nguội tanh không uống. Marianne tiếp tục lại cuộc thẩm vấn. Nhưng câu chuyện về sau biến thành một cuộc mạn đàm nhiều hơn. Sau cuộc thẩm vấn, Marianne tự động nói với tôi:

- Chắc anh muốn nói chuyện riêng với người đồng hương? Cứ ngồi đây mà nói. Anh không phải thông dịch viên chính thức, chúng tôi nhờ vả anh trong trường hợp đặc biệt, nên đền công đặc biệt. Nhân tiện, tôi nhờ anh nói cho cô ấy biết theo luật pháp Na Uy cô ấy không làm điều gì bậy cả. Cô ấy đẹp và hiền quá.

Tôi ngồi lại, không hiểu vì động lực nào - vì tò mò hay tội nghiệp, vì đây là một người con gái đẹp hay một đồng hương? Marianne đã khép cửa văn phòng lại. Bỗng nhiên tôi hoang mang, không biết tại sao ngày hôm nay, giờ này mình ngồi đây với một cô gái lạ. Tôi nghĩ có thể Natasja cũng có cảm giác đó, khi cô loay hoay sửa lại thế ngồi, rồi lại trở về thế cũ. Gò má cô từ từ ửng hồng. Cô mở lời rụt rè:

- Anh là người tị nạn ra đi từ miền Nam?

- Dạ.

- Nghe cách ăn nói đủ biết.

- Còn cô? Chắc từ Hà Nội?

- Vâng.

- Nghe giọng nói đủ biết.

Lần đầu tiên chúng tôi cùng cười nhẹ. Cô tiếp:

- Ở đây đông người Việt không?

- Chỉ có mình tôi đi quân dịch lên đây. Cách đây 500 cây số có một ông bác sĩ lên phục vụ để lấy thâm niên. Ngoài ra nhóm người Việt gần nhất ở cách đây chừng 1000 cây số.

Khi nêu những khoảng cách xa xăm, bỗng tôi cảm thấy cô gần lại một chút. Cô nói, do dự:

- Tôi... e..m tên Quỳnh Hương.

- Tên đẹp quá. Tôi tên Thân.

- Anh có trách em không?

- Tại sao lại trách?

- Em làm xấu hổ chung.

Tôi cảm thấy mình vụng về, không tìm được lời, chỉ biết nói:

- Cô cảnh sát nhắn tôi nói lại: Cô không làm điều gì bậy cả, theo luật pháp Na Uy. Cô ấy còn khen chưa thấy ai đẹp và hiền như cô.

“Chưa thấy ai” là ba chữ quá giang, nhưng thực tình không quá tải. Quỳnh Hương cảm động, nét mặt bớt căng thẳng. Nhưng giữa chúng tôi có cái gì thiếu tự nhiên, câu chuyện không hào hứng như tôi tưởng tượng lúc ngồi trên trực thăng đáp xuống Tana, và nhất là giây phút đầu tiên thấy mặt cô gái.

Vì lịch sự tôi vẫn cho cô địa chỉ và số điện thoại, dặn cần gì có thể liên lạc. Tôi ra ngoài móc hết tiền bạc trong túi - hình như dăm trăm - bỏ vào một phong bì, viết mấy chữ an ủi nhờ Marianne đưa cho cô gái.

Quỳnh Hương thất thểu theo một người nữ cảnh sát khác ra khỏi bót. Tôi đứng nhìn cô đi về phía nhà thờ, lủi thủi. Tôi tưởng tượng ra cô gái làng chơi Magdalena trong Thánh kinh trên đường đi tìm Chúa Giêsu để thú tội.

Nhưng cô có tội tình gì? Câu hỏi thành hình từ khi tôi ngồi lên trực thăng, và nó cứ lớn dần từng ngày khi tôi trở về trại. Tôi càng mong đợi càng bặt tin Quỳnh Hương. Tôi đinh ninh thể nào cô về cũng viết thư ngay cho tôi để cám ơn nghĩa cử, để tôi có thể nói những lời tốt đẹp, kể cả lời hứa giúp đỡ. Tôi còn tưởng tượng ra câu chuyện về một chàng thanh niên hào hoa, đóng ở "tiền đồn heo hút", tình cờ gặp một cô gái giang hồ và cảm hóa được nàng đi tu thành ma sơ thánh thiện. Không ngờ một tuần, hai tuần, rồi một tháng trôi qua, không có tin cô. Rõ ràng cô đã nhét địa chỉ tôi cho vào bóp. Ngoài ra, trên phong bì tiền tôi cũng quen tay ghi tên và địa chỉ một lần nữa.

Chờ đợi, băn khoăn, cuối cùng là hối hận. Tôi đã quá lạnh lùng, đã thay đổi thái độ quá nhanh sau khi biết cô là gái giang hồ. Tất cả chỉ xảy ra trong lòng tôi, nhưng tránh sao cô chẳng linh cảm được. Nét mặt thông minh ấy. Vì trịch thượng ngầm, tôi không nghĩ tới việc xin địa chỉ cô.

Năm tuần sau, tôi nhận được lá thư đóng dấu bưu chính Murmansk. Tôi mừng như được thư người tình, leo lên tháp canh đọc cho... thấm. Nhưng đọc thư xong tôi vô cùng thất vọng. Nét chữ xấu xí quê mùa, lời lẽ tình nghĩa kệch cỡm, nghe rợn tóc gáy. "Chủ đề" của thư đương nhiên là xin gởi tiền (bằng tiền Norway) về địa chỉ v.v… Tôi nổi giận, xé lá thư vất vào sọt rác. Không thể ngờ được bộ mặt xinh đẹp như thế lại mang tâm hồn bần tiện như vậy. Dù cố thử biện hộ cho cô gái bằng lý luận "cái khó bó cái khôn", tôi vẫn chán ghét cô gái, ê chề tình đời, tôi chán ghét cái vùng đất mất hết tình người. Ðau nhất là con người lãng mạn của tôi bị quê nặng quá.

Hết phiên gác, việc đầu tiên là tôi về phòng để hủy cái dấu vết cuối cùng về cô gái bất xứng - miếng giấy viết hai chữ Natasja Jakusjok. Ðó là miếng giấy mà cô gái viết tên trong bót cảnh sát, đi Tana về tôi gắn trước bàn viết để kỷ niệm một buổi gặp gỡ... hay hay. Nhưng khi gỡ miếng giấy, cầm trên tay, tôi bỗng giật mình - nét chữ này thanh tao, nhuyễn mềm, khác xa một trời một vực với nét chữ thô lậu, tục tằn trong thư tôi vừa xé. Tôi tức tốc chạy lên đài quan sát, lục lại lá thư. Chẳng cần so lại tuồng chữ, tôi cũng biết thư này không phải do Quỳnh Hương viết. Tôi "sang" hết mấy lời xỉ vả hồi nãy cho bọn bất lương, và nôn nả bắt tay vào việc tìm tung tích Quỳnh Hương.

Sau buổi thông dịch, tôi thỉnh thoảng có điện thoại cho cô cảnh sát Marianne, vừa để tán gẫu chơi, vừa thăm dò xem "ngựa có về đường cũ không". Bây giờ muốn biết địa chỉ thật của Quỳnh Hương tôi chỉ việc hỏi Marianne. Nhưng tôi không được phép làm như vậy. Tôi thử làm điệp viên si tình một phen. Một mặt tôi ra ngân hàng gởi 300 kroner cho bọn làm tiền, tất nhiên dưới tên Natasja Jakusjok. Na Uy đang mở rộng việc làm ăn với Nga, để biến đổi bán đảo láng giềng Kola thành một vùng bớt nghèo đói và ô nhiễm, nên có rất nhiều hãng xưởng và ngân hàng Na Uy mọc lên hai bên đại lộ Lê-nin. Tôi chọn gởi tiền qua ngân hàng Kirkenes, vì nó nằm đối diện với một khách sạn. Gởi tiền đi hôm trước, hôm sau tôi đáp xe đò đi Murmansk và thuê khách sạn đó, phòng có cửa sổ quay ra mặt đường. May mắn quá mong đợi, ngày rình chực thứ ba tôi đã thấy bóng Quỳnh Hương ra ngân hàng. Tôi không cần ngụy trang nhiều, chỉ cần cái quần soọc, cái mũ lưỡi trai, và cái máy Nikon là ra dáng một anh triệu phú Nhật Bổn rồi. Phải thêm cái kính mát to để che mặt.

Vào ngân hàng tôi đứng xa xa, thấy Quỳnh Hương đang xếp hàng quay lưng lại, tôi cẩn thận không lộ diện, nhỡ có tên cô hồn nào đi kềm nàng không. Khi nàng lãnh tiền xong quay ra, tôi đau nhói tim thấy mặt nàng tiều tụy, và có vết bầm xanh. Một tên đàn ông mặt mũi bất lương ở đâu sán lại kè nàng, chưa ra khỏi cửa, nó đã giằng lấy tiền, chửi thề "Ð.M. có mấy đồng ranh mà nàm nhọc xác ông". Quỳnh Hương cúi đầu, không trả lời. Tôi lén theo dõi hai người, nhưng tới ngã tư thì họ lên một chiếc xe hơi do người thứ ba lái chạy mất tăm, tôi đón taxi không kịp.

Tôi thất vọng trở về Na Uy, viết thư làm bộ nói nhớ thương Natasja và mong gặp nàng, bóng gió cho biết sang Na Uy sẽ dễ dàng mang tiền về hơn. Nàng sang thật. Vết bầm trên mặt đã biến mất, nhưng vẫn còn tiều tụy. Tôi đưa nàng thẳng vào một khách sạn đàng hoàng cho nàng nghỉ ngơi. Chúng tôi ăn ngay trong khách sạn. Nàng ngạc nhiên vô cùng khi tôi nói tôi biết hết trò giả mạo thư và làm tiền của bọn vô lại. Nhưng tôi thắc mắc:

- Tại sao chúng biết cô có liên lạc với tôi?

- Em vừa từ biên giới về, chúng nó lục lọi khám xét ngay, và tất nhiên thấy phong bì tiền của Anh cho, địa chỉ nằm đó. Chúng bắt em viết thư vòi tiền, em không làm, chúng đánh đập, bắt trở lại đứng đường. Em xin làm mọi việc trâu ngựa để hầu hạ cả bọn miễn đừng bắt em làm việc đó. Chúng chấp thuận nhưng vẫn giả mạo thư tống tiền Anh. Em xấu hổ quá.

Tôi hỏi một câu mà định hỏi mấy lần nhưng chưa có dịp:

- Cô sang Nga theo diện nào?

- Nghiên cứu sinh. Nghiên cứu sinh sử học.

Tôi kinh ngạc:

- Nhà nước Việt Nam gởi đi?

- Vâng.

Tôi nhớ lại việc thông dịch, hỏi:

- Sao cô không nói tiếng Nga, dễ kiếm người thông dịch ngay tại đây?

- Em muốn giấu tông tích. Chẳng may...

Tôi hơi phật ý về hai chữ "chẳng may", nhưng không tỏ ra, hỏi tiếp:

- Cô... xong tiến sĩ chưa?

- Thưa, rồi ạ.

- Vậy cô chỉ việc trở về phục vụ đất nước.

- Trễ rồi.

- Sao vậy?

Quỳnh Hương hít hơi thật sâu, như để đè nén cái gì, cuối cùng nói nhẫn nại:

- Truyện dài lắm. Em chỉ vắn tắt thế này: Khi em đang chuẩn bị về nước, thì bố em bay sang nói bất cứ giá nào đừng về.

- Tại sao vậy? Ở Việt Nam bây giờ thay đổi khá lắm, và bắt đầu đãi ngộ những người có trình độ.

- Lợi dụng thì có, đãi ngộ không.

Chúng tôi ra ban-công. Nắng đêm quyện vào gió bắc cực lùa vào mặt mát rượi. Tóc Quỳnh Hương thơm. Tôi hỏi:

- Ngoài ra bố cô nêu lý do gì để khuyên cô đừng về nước?

Nàng nhìn con hải âu đậu một mình trên cột đèn, đáp:

- Là lý luận gia lâu năm của Ðảng, khi thấy bức tường Bá Linh rạn nứt và thiên đàng Liên Xô sắp bốc lửa, Bố em dự kiến Ðảng cộng sản Việt Nam sẽ biến từ một tổ chức cách mạng thành một guồng máy tư bản.

- Vậy càng tốt chứ sao?

- Anh không hiểu đâu, cũng như em hồi đó không hiểu. Vì thế Bố phải đích thân bay sang. Gặp Bố em vừa mừng vừa ngạc nhiên hết sức, nhưng run sợ khi ông nói nước Việt Nam sẽ không còn là nơi dung thân của con người nữa.

- Sao vậy?

- Bố hỏi em "Chị xem - cái thiên đàng kiểu mẫu mà sắp sụp đổ nay mai, thì cái thiên đàng mô phỏng sẽ ra sao?" Em không trả lời, ông nói "Các ông ấy là những kiến trúc sư chuyên vẽ thiên đàng. Kiểu này đổ vẽ kiểu khác. Mà mỗi lần đổ, mỗi lần đổi kiểu là hàng vạn người chết vì cột kèo đè."... Bố em về, tự vẫn chết, để họ không còn gây sức ép với em được, trước khi bị cột kèo đè.

Nghe đến đây, tôi lạnh toát xương sống, khô cổ họng. Cột đèn đằng trước, con hải âu đã bay đi, còn cái tay đèn đua ra, như chờ một sợi dây thòng lọng. Mãi lâu sau tôi mới thốt lên được câu gần như vô nghĩa:

- Khủng khiếp quá!

Quỳnh Hương mím môi để khỏi bật ra tiếng khóc, nhưng giọng ướt lệ:

- Người ở ngoài không hiểu nổi sự khủng khiếp tới mức nào đâu. Người trong cuộc, đa số khi hiểu thì trễ quá rồi.

Vai tôi chờ một mái đầu tựa vào. Nhưng tôi phải làm như tỉnh táo, hỏi:

- Với cô, có quá trễ chưa?

- Em không biết. Nhưng để em kể em đã sa xuống chỗ nào. Lúc đầu em may mắn trên con đường tị nạn. Ông giáo sư đỡ đầu cho em ly dị vợ để cưới em. Anh đừng trách em. Vì ông ta li dị xong mới cho em biết đã có vợ và mới li dị. Ở Nga, li dị là chuyện cơm bữa, cũng như chuyện trai gái chung chạ. 30% các cặp vợ chồng li dị. Việc làm tình hổ lốn trở thành phổ thông là vì tình trạng ăn chung ở chạ, nhà cửa chật chội. Chồng em là một tên ghiền rượu, đánh đập em mãi, em vẫn chịu đựng được. Nhưng hai ba lần em bị anh họ chồng, em chồng, rồi cả bố chồng cưỡng hiếp, thì anh bảo sao em chịu được? Em phải ra đi, và sa vào tay Mafia.

Tôi lại ớn lạnh. Không phải vì gió đêm. Mà vì nhớ chúng tôi đang ở gần biên giới. Tôi dìu Quỳnh Hương vào trong. Ðóng cửa sổ lại. Chúng tôi im lặng uống một thứ rượu kem gì đó khá ngon. Tôi quyết định ngày mai ra lãnh sự quán bí mật làm giấy bảo lãnh hẳn cho Quỳnh Hương sang Na Uy. Ðiều làm tôi do dự là cái giấy hôn thú. Trước khi về phòng riêng, tôi đắp mền cho Quỳnh Hương như một đứa em gái và nói:

- Ngủ ngon. Ðừng mộng mị gì cả, dù thiên đường.

Quỳnh Hương sang chơi Na Uy lần kế tiếp vào ngày lễ Sankthans, ngày dài nhất, đúng hơn, không có đêm. Nàng từ xe buýt Murmansk bước xuống, ăn mặc đơn giản, càng xinh đẹp hơn. Nàng tha thướt đi giữa những huân chương và mũ áo Hồng quân bên vệ đường, tàn tích của một thiên đường vừa đổ vỡ, diễm lệ như một nàng tiên, tôi đặt tên cho nàng là "Trích Tiên". Khi tôi nói ra, nàng cười tươi, chấp nhận. Từ đó cuối tuần nào nàng cũng qua. Thường tôi đưa nàng về căn chòi thuê của xã ở sườn núi trông ra biển, rất thơ mộng. Từ mùa thu không còn mặt trời giữa đêm nữa, nhưng rừng thu biến thành những tảng màu đỏ, vàng tuyệt diệu. Vài cánh buồm trắng nhẹ trôi trên mặt nước xanh lộng bóng núi. Ban đêm trời trong, trăng sao vằng vặc chiếu xuống vịnh bao la. Chúng tôi ngồi bên nhau ngoài hiên nói chuyện tới khi sương ngập thềm. Tôi gọi căn chòi này là "Ðộng Tiên", muốn vĩnh viễn ở lại không về trần gian. Nàng "trích tiên" thỉnh thoảng lại khóc làm tôi lo lắng. Nhưng nàng nói:

- Xin lỗi Anh, em khóc chỉ vì quá hạnh phúc.

Tôi uống những giọt hạnh phúc này từ mắt nàng, và nói:

- Ðây là nước mắt hạnh phúc. Nhưng nước mắt đau khổ của Em, anh cũng xin uống.

Chúng tôi chỉ ước có phép mầu cho thời gian và không gian ngừng ở đây. Lạ lùng là những lúc tôi gần gũi Quỳnh Hương trên chòi nghỉ mát, tôi chỉ say sưa nhìn ngắm, lắng nghe, ngửi hương nàng, không xàm xỡ. Tôi sống sự hiện diện nàng. Sự sống nồng nàn, ngây ngất mà thanh khiết. Tạo hóa đã khắc cho nàng một chân dung kỳ diệu - từng nét thì đối chỏi mà toàn thể thì hài hòa. Các nhà giải phẫu thẩm mỹ không bao giờ làm được như vậy. Chỉ có Nhà Ðiêu khắc tối cao, thừa thương yêu và tinh quái mới nắn nên khuôn mặt và thân thể Quỳnh Hương - để tặng riêng tôi, cho riêng mỹ cảm mà Ngài tạo cho tôi. Và Ngài gởi tặng phẩm tới cho tôi qua con đường sầu thảm quá. Con đường các phép lạ thường đi.

Khốn nạn thân tôi (tiếng Bắc của Quỳnh Hương), nỗi đam mê lành thánh kia, tôi chỉ giữ được khi có sự hiện diện của nàng. Khi nàng qua lãnh thổ Nga, tôi trở về trại Banak, thì xác thịt tôi giằn vặt, réo gọi. Tôi quằn quại trong giường lính độc thân, thèm khát thân hình nuột nà cô gái giang hồ Natasja. Xác thịt tôi trách móc tôi đã dại dột bỏ qua cơ hội nọ, cơ hội kia trên Ðộng Tiên. Cho tới khi tôi ngủ thiếp đi. Có vài lần trong mơ... Nhưng thường trong mơ tôi thấy nàng Trích Tiên mặc áo dài trắng tinh khiết trổi lên từ giòng nước trong xanh vẫy gọi tôi. Phải chờ tới buổi sáng, khi mặt trời mọc, rọi sáng vào những góc tăm tối trong tâm hồn, tôi mới thực tỉnh táo, và hãnh diện cuối tuần trước đã giữ mình đứng ngoài cái giòng đục lềnh bềnh những xác bố chồng, xác anh, xác em chồng nàng, và những thiên đường mà nàng đang vùng vẫy thoát ra. Ðúng hơn, chúng đẩy nàng ra như một vật lạ trong cơ thể.

Chỉ có một lần tôi táo bạo, lần đi thăm Nordkapp. Nordkapp hay "Mũi Bắc" nằm trên vĩ độ cao nhất nước, có lẽ là kỳ quan Na Uy thu hút nhiều du khách nhất. Mỗi năm, hàng vạn người từ khắp thế giới, nhất là Nhật, Ðức, Mỹ mua vé máy bay lên đây, chỉ để coi mặt trời đêm. Lúc tôi đưa Quỳnh Hương đi thăm Mũi Bắc, trời đã sang đông, không còn du khách nào nữa, cũng không còn mặt trời đêm. Tôi nắm tay Quỳnh Hương đứng trên ghềnh đá vách dựng đứng. Nước biển vẫn thăm thẳm. Gió lạnh buốt. Nhưng chúng tôi càng thích thú. Bỗng nhiên, mây trên trời biến thành màu xanh như lân tinh, và quay tít như đèn kéo quân, hào quang lấp lánh rực rỡ, những luồng điện nổ tí tách trong mây như hàng ngàn tràng pháo chuột ngày Tết. Quỳnh Hương kinh sợ nhưng lại reo vui vì có tôi bên cạnh. Tôi giải thích:

- Ðó là nordlys (bắc quang). Hiện tượng huy hoàng này không phải lúc nào cũng xảy ra. Hôm nay nó xảy ra đúng lúc Em tới đây. Ðó là dấu hiệu Trời cũng muốn chào đón Em đó.

Quỳnh Hương tựa lưng vào ngực tôi. Giọng nàng mật ngọt:

- Còn Anh, Anh cho em dấu hiệu gì?

Cầm lòng chẳng đậu, tôi xoay người nàng lại, và hôn vào đôi môi nồng nàn. Ðó là lần đầu tôi hôn một người con gái. Trên mỏm đá lịch sử Nordkapp, dưới ánh bắc quang.

Chỉ còn một tháng nữa là Tết ta. Thu An gọi điện thoại nhắc thế nào tôi cũng phải xin về phép cho kịp ngày cúng Giao Thừa. Thay vì nói trong điện thoại, sợ không đủ mạch lạc và không đối đáp được con em lí lắt, tôi viết cho nó một thư dài 6 trang trình bày ý định mời Quỳnh Hương về Oslo ăn Tết. Tất nhiên trong thư tôi dấu một số chi tiết về thảm cảnh của Quỳnh Hương, nhưng tên "Trích Tiên" thì không thể không khoe. May quá con bé chấp thuận liền, còn hào hứng chuẩn bị đón "chị dâu". Tôi nói tuyệt đối nó không được... lạc quan.

Gia đình chúng tôi đã nhận bao nhiêu tai họa bất ngờ, đúng trong những lúc tưởng là hạnh phước nhất. Tết Mậu Thân Ông Nội đang công tác ngoài Huế bị cộng sản Bắc Việt bắt đi chôn sống, đúng lúc ông được điện tín về mà coi mặt và đặt tên cho cháu đích tôn là tôi; Bà Nội đi bốc xác Ông, về phát điên rồi mất. Năm 75 con Thu An vừa sanh ra, để trong cái biệt thự thơ mộng Ba Má mới mua ở Chí Hòa mấy năm sau "có một tiểu thư ra vào", thì cộng sản tràn vào "giải phóng"hoado Ba đi tù, Má bị sa thải. Ba trốn học tập về, đúng lúc Má đặt được chỗ vượt biên chính thức, tưởng vĩnh viễn thoát khỏi cái thế giới điêu ngoa, hận thù, gian manh, thì tầu do tỉnh ủy Ðồng Nai đóng bị vỡ, Ba Má chết đuối.

Từ đó, cứ thấy bóng dáng hạnh phúc là tôi giật mình. Lần này, với Quỳnh Hương, tôi lại lăn xả vào, không phải như con thiêu thân nhào vào lửa nhan sắc, mà như muối gặp biển mặn. Nàng là hiện thân của tôi - phần nước mắt, và cả gia đình, dân tộc tôi, phần ước mơ và bất hạnh. Tôi đón nhận hết. Một lần, trong Trích Tiên.

Tôi thu xếp cho Quỳnh Hương sang đúng dịp tôi và Thu An nghỉ phép mùa đông. Và để tránh mọi dị nghị, tôi trình bày nội vụ với ông thiếu tá, và nhờ ông trình ông đại tá luôn. Ông dễ thương tặng Quỳnh Hương cái vé máy bay. Thu An bày đặt mang hoa ra phi trường Fornebu đón khách. Vừa giáp mặt Quỳnh Hương, nó đã reo ầm lên:

- Eo ơi! Chị Quỳnh Hương đẹp dễ sợ.

Quỳnh Hương bật cười vì những từ ngữ kỳ cục của con bé, cảm động nhận hoa. Tôi giới thiệu với khách:

- Ðây là đứa em gái thua tôi tới sáu tuổi, nhưng từ ngày chúng tôi mồ côi, nó nhảy tót lên ngôi chị hai, "kềm kẹp" tôi từ miếng cơm tới manh áo.

Thu An cong cớn:

- Từ nay em không thèm kềm kẹp nữa, em sắp bàn giao chủ quyền Trường Sa cho người khác.

Quỳnh Hương chỉ biết đỏ mặt. Tôi huých Thu An một cái làm nó chạy giạt sang bên kia, núp bóng Quỳnh Hương.

- Ê ê! Từ nay có chị Quỳnh Hương che chở, anh Hai không được ăn hiếp em nữa.

Thu An vừa lái xe vừa giới thiệu thành phố cho khách. Chị em nói chuyện líu lo. Tôi ngồi băng sau, nhắm mắt nghe giọng Hà Nội và giọng Sài Gòn quấn quít. Quỳnh Hương như thơ trẻ lại. Tôi ngả người tận hưởng hạnh phúc của một gia đình, lần đầu tiên sau 15 năm cô độc, lạc lõng nơi xứ người. Ðêm giao thừa, cúng vái, ăn cơm xong, Quỳnh Hương dọn trà mứt, Thu An bưng ra một cái bánh bông bơ, thắp 30 ngọn nến. Quỳnh Hương trầm trồ:

- Người Việt tại Na Uy có tục lệ riêng để đón xuân? Ðẹp quá!

Thu An trả lời:

- Không phải đâu, chị. Năm nào chúng em cũng ăn Tết, đồng thời mừng ngày sanh anh Hai. Nhưng năm nay đặc biệt hơn, vì năm nay anh Hai "tam thập nhi lập".

Quỳnh Hương hiểu ngay:

- Thế tức là Anh sinh năm 1968?

Tôi nói:

- Ðúng, năm Mậu Thân.

Thu An hớt:

- Vì thế Ba Má mới đặt tên ảnh là Thân. Ba Má nói "Thân" đây có hai nghĩa là "yêu mến", "thân thiện" chứ không phải "con khỉ". Nhưng em thấy ảnh "mậu thân" với em lắm. Từ nay ảnh "mậu thân" là ảnh chết.

Quỳnh Hương cười ngặt nghẹo. Chưa bao giờ nàng cười nhiều như vậy. Tôi nói:

- Năm đó con khỉ con này chưa sinh ra, sao bây giờ khoọc khẹc dữ vậy?

- Chính anh Hai nghe lóm Ba Má kể rồi khoe với em hết chứ bộ. Cũng như Anh, năm Mậu Thân đâu có biết gì về chuyện Ông Bà Nội, bây giờ cũng kể vanh vách.

- Chuyện gì vậy?

Quỳnh Hương hỏi. Tôi chần chờ. Thu An lần lượt kể về những thảm cảnh gia đình. Thảm cảnh nào nó không trực tiếp trải qua, nó kể lể rành mạch như chuyện cổ tích; đến thảm cảnh Ba bị công an vào nhà còng tay Ba lần thứ hai, cảnh đắm tầu thì nó kể lộn xộn như cơn ác mộng. Cuối cùng tôi kết luận một câu mà trong những dịp thiêng liêng thường nói với em gái, như bổn phận nhắc lại một gia qui đơn giản, Quỳnh Hương là người dưng đầu tiên nghe:

- Ba Má chỉ dạy chúng tôi một điều: lòng trắc ẩn.

Một làn khói hương từ trên bàn thờ bay là đà xuống đầu Quỳnh Hương. Nàng lên tiếng:

- Hai Bác thật là nhân hậu, từ những khủng khiếp của năm Mậu Thân và bao năm sau đó, chỉ rút ra chữ "Thân" đặt tên cho con trai và hai chữ "Trắc ẩn" khắc trong lòng hai con.

Không muốn hai người con gái thấy ngấn nước trong mắt tôi, tôi bèn đứng lên thắp thêm nhang trên bàn thờ ông bà. Nghĩ tới "Trích Tiên" và mấy chục triệu người đáng thương xót ở ngàn dậm xa, tôi khấn thầm: "Lạy Trời Phật! Hai chữ trắc ẩn Ba Má khắc trong lòng chúng con, cũng là lẽ sống bàng bạc trong lòng Trời Ðất. Xin Trời Ðất nhỏ xuống lòng mọi người ở bên kia một giọt trắc ẩn. Riêng tình yêu của con dành cho Quỳnh Hương, đã khởi đầu do lòng trắc ẩn, nhưng bây giờ kết thúc là tình yêu. Xin Trời Phật, Ba Má chứng kiến và chúc phúc cho chúng con".

Im lặng một lúc, Thu An hỏi:

- Anh Hai vừa ăn mảnh, lén xin Ba Má thêm cái gì, phải không?

Tôi nửa đùa nửa thật:

- Anh không xin xỏ gì cả, chỉ hỏi ý kiến thôi. Ba tháng nữa anh Hai hết thời hạn quân dịch, và có quyền bảo lãnh một người ngoại quốc sang Na Uy. Anh hỏi Ba Má muốn con dâu là một người trần hay tiên.

Quỳnh Hương mắc cỡ gục mặt xuống, trong khi Thu An nhảy lại ôm vai nàng, reo:

- Em thay mặt Ba Má trả lời: Tiên. Trích Tiên!

Nhưng còn Quỳnh Hương, nàng có ưng thuận vào trong cái mà tôi cho là "thiên đường" của chúng tôi không? Một con người suốt đời bị số phận đẩy đưa và người khác định đoạt, lần này quyết định phải thuộc quyền nàng. Vì thế lúc bạn đọc tới giòng này, tôi vẫn đang ở trong giây phút thiên thu chờ đợi nàng trả lời.


Tâm Thanh(NA UY)
Back to top
« Last Edit: 06. Aug 2010 , 21:43 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Hoa Hạ
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 1628
CA, USA
Gender: female
Ánh mắt
Reply #127 - 13. Sep 2010 , 00:25
 
Tôi và cô em gái đang háo hức thu xếp hành trang để làm một chuyến du lịch qua xứ Chùa Tháp thì chợt có tiếng chuông điện thoại reo. Tôi nói:

- Chắc là chị Ðiềm gọi. Ðể chị ra nói chuyện với chị ấy.

Nói xong tôi đứng dậy vươn vai vì nãy giờ ngồi lâu cũng thấy mỏi. Chị Ðiềm là chị cả của ông xã tôi. Chị về VN trước tôi 2 tuần. Chúng tôi đã hẹn nhau đi Campuchea chung, và nhờ đứa cháu chồng của chị ấy đặt vé giùm. Thuận, em gái tôi sẽ đi cùng với chúng tôi.

Nhưng người gọi điện thoại không phải là chị Ðiềm mà chính là ”Xếp” của tôi từ Na-Uy. Nghe tiếng tôi ở đầu dây, anh vui mừng nói:

- Hên quá, hôm nay lại từ bi ở nhà chứ không đi chơi rong à! Chừng nào thì em đi Campuchea?

- Ba ngày nữa mới đi, ngày mốt lên Sàigòn ngủ để sáng dậy đi cho sớm. Nhưng nhỏ Thuận nói phải sắp xếp đồ đạc từ bữa nay kẻo bị chụp rụp rồi quên nọ quên kia mất công.

- Nó nói đúng đó. Nhưng mà sáng mai lên Sàigòn đi, anh có chuyện cần nhờ.

- Nhờ gì nữa đây? Hảo nó hẹn em với Thuận trưa mai tới nhà nó ăn bún riêu cua đó.

- Thôi dẹp cái vụ bún riêu đi, bữa khác ăn. Thằng Hân nó nhờ em đi kiếm mấy người thương binh, em cho mượn tiền tặng cho họ mỗi người 5 chục. Thấy em không đủ thì giờ nên anh chỉ nhận 2 địa chỉ.

Anh Phạm Bá Hân là một người bạn học hồi xưa của nhà tôi. Anh ấy đang hoạt động trong một Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa nơi xứ Cờ Hoa. Tôi nổi tính tò mò:

- Mấy người đó là bạn của anh Hân hả anh?

- Không! Ðó là số tiền của Hội Thương Phế Binh tặng cho họ. Thằng Hân chỉ có nhiệm vụ chuyển giao số tiền đó đến tay họ thôi. Khi gặp em hãy nói với họ như vậy. Tên và địa chỉ người nhận anh viết trong email đó, mở ra đọc rồi kêu Hải in ra, đem đi để tìm cho dễ.

Việc gì chứ đi tìm gặp những người thương binh của những ngày tháng cũ thì tôi không thể, và cũng không muốn từ chối chút nào. Họ đã hy sinh một phần thân thể của mình trên một chiến trường cay đắng. Nghe ra thì có vẻ như sự hy sinh đó là vô ích khi cuối cùng rồi đất nước cũng rơi vào tay Cộng Sản. Nhưng những người dân sống yên bình trong thị thành, những người như tôi vào thời gian đó được cắp sách tới trường, được học hỏi thế nào là hai chữ Dân Chủ, sống một cuộc sống vô tư, hít thở không khí tự do thì phải nói là đã chịu ơn họ rất nhiều. Nhứt là một người con của một cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như tôi thì cảm giác gần gũi đó lại càng mãnh liệt hơn nữa. Vì thế, tôi nhận lời với một xúc cảm khó tả và trong lòng lan man một nỗi đau buồn.

Thế là sáng hôm sau, hai chị em dậy thật sớm để ra đón xe đò lên Sàigòn. Chúng tôi phải đi sớm vì lo lắng sợ không tìm ra nhà trước khi trời tối. Chúng tôi dự định đến nhà ông Bùi Phương trước vì ông ở quận Tân Bình, là nơi gần nhứt. Nhưng việc đầu tiên là phải vô Cư xá Ðô thành, mượn cái xe Honda của thằng cháu kêu tôi bằng dì ruột để dùng làm chân chạy. Tuy đã được trang bị khá kỹ lưỡng bằng một cái nón rộng vành, một cặp kiếng râm to che gần hết nửa khuôn mặt và cái khẩu trang bịt kín từ dưới mắt trở xuống coi giống xã hội đen hết sức, vậy mà tôi vẫn bị mùi khói xe làm nước mắt chảy ràn rụa và lợm giọng gần như muốn ói. Sàigòn bây giờ người đông nghìn nghịt, xe cộ chen chúc nhau nhả khói mù trời và ngoài tiếng động cơ rền rĩ thì hai người ngồi chung một xe cũng khó nghe nhau nói gì nếu không hét cho thiệt lớn.

Cuối cùng rồi chị em tôi cũng đến được quận Tân Bình. Tôi mừng quá sức! Cứ nghĩ là sẽ tìm ra nhà tới nơi. Nhưng tôi đã lầm! Tới được Tân Bình là chuyện nhỏ, còn kiếm cho ra nhà mới là chuyện lớn! Cô em gái tôi đã qua mấy năm học đại học ở Sàigòn nên khá rành rẽ về đường đi nước bước. Cô ta nói vanh vách những tên đường ngày xưa bây giờ bị đổi lại thành đường gì. Vậy mà cứ loanh quanh luẩn quẩn kiếm hoài không ra. Cho chắc ăn, chúng tôi tìm mấy ông xe ôm đang ngồi chờ khách để hỏi. Họ cũng trả lời giống y như em gái tôi đã biết: Con đường mà chúng tôi muốn kiếm nằm ở cạnh đường nào! Vậy thì tại sao lại kiếm không ra? Có khi chúng tôi đã tới đúng con đường rồi nhưng lại không tìm ra số nhà! Trời đã về chiều làm chúng tôi càng thêm bồn chồn.

Mãi tới khi đã đi tới cuối con đường hẻm bên cạnh có cùng một số nhà cho cả mấy chục căn kế tiếp nhau, nhưng có thêm dấu “xẹc”, tôi bỗng hiểu ra một “chân lý”! Ðó là biết đâu căn nhà của ông Bùi Phương cũng giống như những căn nhà kia, tức là thuộc loại “nhà mới cất” trong một khu hoàn toàn mới?! Nếu không tại sao lại đẻ ra những tên đường chỉ có những số “xẹc” như những căn nhà này? Ðể giải quyết vấn đề, tôi bèn tìm một người lái xe ôm, đưa cho ông ta địa chỉ nhà rồi đề nghị ông ta đi trước dẫn đường. Thì ra những căn nhà cũng mang tên đường Hiệp Nhất nhưng thuộc loại “xẹc” lại nằm bên hông một con đường khác, tuy không xa mấy nhưng coi chẳng có sự liên hệ nào với con đường Hiệp Nhất chính cả, nếu không có ông xe ôm, thổ công của vùng này, thì không biết chị em tôi tới khi nào mới tìm ra được nhà của ông Bùi Phương?

Cũng chính vì vậy, đã đứng trước cửa nhà, chúng tôi vẫn còn e dè không biết đây có thật là nơi mà chúng tôi đã mất biết bao nhiêu là thời giờ và mồ hôi để tìm cho ra hay không! Sau khi đã hỏi hai người hàng xóm cho chắc ăn, chúng tôi mới yên tâm gõ cửa. Nhưng cái cửa này nó lùng phùng, ọp ẹp chẳng ra cửa, cũng như căn nhà gọi là nhà cho sang thôi chứ thật ra nó chỉ là một cái chái của căn nhà chính có mang địa chỉ là một tên đường khác, được vây kín lại bằng những lá tôn cũ xì. Vào mùa nắng như thế này, cứ tưởng tượng ra cái nóng hầm hập được gói trong những lá tôn đó cũng đủ có cảm tưởng như bị nướng huống hồ sống từ ngày này qua ngày khác! Có lẽ vì tiếng ồn ào từ ngoài đường nên trong nhà không ai nghe thấy tiếng gõ cửa của chúng tôi.

Một cô bé hàng xóm đang đút cơm cho đứa em nhỏ đã giúp chúng tôi bằng cách thò miệng vô cửa sổ, kêu mãi mới có một thanh niên chạy ra mở cửa cho chúng tôi vào. Tôi chào cậu ta rồi hỏi.

- Xin lỗi, chúng tôi muốn gặp ông Bùi Phương. Ông ấy sống ở đây phải không cậu?

- Dạ đúng rồi, bác và cô có chuyện chi muốn gặp cậu của con?

- À... Có hội Cựu Quân Nhân ở bên Mỹ họ nhờ tôi tới thăm ông ấy.

Tôi nói vậy và tự hỏi tại sao tôi lại không thể dùng tiếng Cựu Quân Nhân để gọi những người cựu chiến binh này chứ? Họ là anh hùng của chúng ta kia mà! Ba tiếng Thương Phế Binh nghe sao mà đau lòng, chua xót quá!

Ông Bùi Phương được đặt nằm trên một cái ghế bố đặt ở phần trong cùng của căn phòng sinh hoạt chung cho cả gia đình. Có một người đàn bà cỡ tuổi tôi hoặc trẻ hơn chút ít đang ngồi trên một cái võng ở góc nhà. Bà ta khẽ gật đầu chào, ánh mắt lộ vẻ thắc mắc khi chúng tôi được người thanh niên đưa đi qua nhưng không nói gì hết. Ðến nơi, chúng tôi cất tiếng chào và được ông Bùi Phương chào lại. Ông tỏ vẻ dửng dưng trước cuộc thăm viếng này, dường như biết bao nhiêu bất thường trong cuộc đời đã xảy đến khiến ông có thái độ thản nhiên đón chờ những việc sẽ tới! Ông nhìn chị em tôi như chờ đợi điều gì sẽ xảy đến cho mình.

Bằng giọng nói nhỏ nhẹ, ông mời chúng tôi ngồi trên hai chiếc ghế bên cạnh chiếc bàn nhỏ kê gần phía tay phải của ông, trên mặt bàn có đặt một chiếc quạt máy nhỏ đang quay vù vù nhưng đối với sức nóng khủng khiếp trong nhà thì nó chẳng thấm vào đâu.

Khi nghe chúng tôi tự giới thiệu về mình, tôi mới nhận thấy nỗi vui mừng bừng lên trong đôi mắt. Ông nói bằng giọng nghẹn ngào:

- Các anh em bên nước ngoài vẫn còn nhớ tới chúng em... Họ không quên chúng em... Em cảm động quá! Em xin cám ơn mọi người.

Phải nói là tôi thực sự xúc động khi chứng kiến một thân xác tội nghiệp như vậy! Ông gầy ốm tới độ thân người mỏng tanh không hơn gì một lớp vải mỏng phủ trên bề mặt của chiếc ghế bố. Tấm vải đó hầu như chỉ để chứng minh cho người ta biết rằng phía dưới đó là thân xác một con người. Có một cái ống để rút phân và nước tiểu nhô ra bên ngoài. Có lẽ nhận thấy ánh mắt kinh hoàng của tôi nên ông giải thích rằng toàn bộ phần xương mông của ông đã bị “bay mất” khi bị trọng thương. Ðược cái là nơi ông nằm rất sạch sẽ, không có mùi ô uế nào, chứng tỏ ông được chăm sóc rất chu đáo. Khi em gái tôi hỏi thì ông cho hay sống được tới giờ này là nhờ tình thương của người chị ruột. Bà đã nuôi nấng và săn sóc ông rất chu đáo. Hầu như chỉ có em gái tôi nói chuyện với ông, còn tôi thì chỉ có khóc vì xúc động!

Tôi đưa mắt nhìn về phía người đàn bà ngồi trên võng thì thấy bà đang cúi đầu xuống và đưa tay quẹt mắt. Có lẽ trong lòng bà cũng đang rào rạt một mối thương tâm. Tôi thầm cám ơn trong lòng với người chị đã cưu mang cho đứa em xấu số! Tuy khuôn mặt có vẻ lam lũ, khắc khổ, nhưng coi bà ta có vẻ trẻ hơn tôi đến mấy tuổi. Rồi tôi nghĩ tới thời gian kinh hoàng đó! Khi người em tàn phế bị tống cổ ra khỏi Quân Y Viện năm 75 thì người chị kia còn trong lứa tuổi thanh xuân. Hỡi ôi! Một cô gái trẻ đã can đảm quên tuổi xuân của mình để khoác lên vai gánh nặng là một người em trai hoàn toàn phải trông cậy vào sự giúp đỡ từ tất cả mọi mặt như thế này.

Tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng! Trong thời gian dầu sôi, lửa bỏng, những người lính anh hùng của Quân Ðội Việt Nam Cộng hòa, có người còn trẻ tuổi hơn tôi như người lính đang nằm trước mặt tôi kia, họ phải xả thân ngoài chiến trận, đem mạng sống của mình để bảo vệ quê hương, và không biết sự bất hạnh sẽ ụp xuống đầu họ vào lúc nào thì tôi và chúng bạn vô tư chân sáo tới trường. Chúng tôi cười đùa giỡn hớt với nhau, nắn nót viết từng trang nhật ký đầy những mộng mơ của tuổi học trò mà không quan tâm tới những gì đang xảy ra quanh mình. Quả thật bây giờ ngồi đây, trước một thể xác tả tơi, còm cõi, và một người chị tiều tụy, khô gầy, tôi cảm thấy mình thật nhỏ nhoi, vô dụng!

Em gái tôi khẽ nhắc đã tới giờ về vì còn phải tới thăm một người nữa. Tôi lấy ra 50 USD là số tiền được dặn sẽ trao cho ông Bùi Phương và bùi ngùi đặt thêm 200 ngàn đồng VN lên bàn, tặng ông thêm một chai dầu gió Singapore. Tôi lí nhí chúc ông ở lại mạnh giỏi rồi đứng lên để ra về. Ông nhìn chị em tôi bằng một cái nhìn cảm kích và biểu lộ một tia hy vọng xen lẫn nỗi buồn rầu. Ông rưng rưng nói:

- Em nhờ các chị chuyển lời cám ơn đến các ân nhân, và em cám ơn hai chị đã có lòng đến thăm em.

Tôi cúi xuống nắm lấy tay ông và nghẹn ngào nói:

- Thật ra tôi mới là người phải cám ơn anh.

Tôi chào mọi người trong nhà và bước ra cửa. Lòng nặng trĩu. Tôi nghe loáng thoáng những người hàng xóm nói với nhau:

- Mấy người lính cũ họ tốt vậy đó. Mấy chục năm mà còn đi kiếm để giúp đỡ Thương Phế Binh của họ chớ hổng có quên. Thiệt là tốt hết sức!

Tôi cũng cảm thấy vô cùng hãnh diện khi được đứng chung chiến tuyến với những người lính Cộng Hòa đầy ắp tình người.

Trời đã về chiều, tuy không khí đã dịu lại một chút nhưng cái nóng vẫn phả xuống hầm hập. Chúng tôi lên Bình Thạnh để đi tìm nhà ông Nguyễn Kim Lăng. Ðường Bùi Hữu Nghĩa không xa lạ gì. Nhưng mới trải qua kinh nghiệm tìm nhà ông Bùi Phương nên hai chị em chuẩn bị tinh thần kỹ càng. Ai ngờ trái với dự đoán của chúng tôi, chẳng bao lâu chúng tôi đã đứng trước một ngôi nhà khá khang trang với bức tường xây kiên cố. Thuận và tôi nhìn nhau, ngập ngừng mãi vì chỉ sợ lầm nhà. Sau cùng, tôi đánh bạo giơ tay nhấn chuông cửa.

Một cô bé xinh xắn khoảng chừng 14, 15 tuổi ra mở cổng. Cô chỉ thò đầu ra như e ngại những người lạ mặt sẽ xông vô nhà. Tôi hỏi đây có phải là nhà ông Nguyễn Kim Lăng không và được cô trả lời là ông Lăng chỉ ở đây để làm nghề sửa xe, còn nhà ông thì ở phía sau. Tôi vui mừng nói rằng muốn tìm gặp ông có công chuyện. Vừa lúc đó thì người mẹ của cô bé đi chợ về. Sau khi nghe con kể lại, bà ta quay sang hỏi chúng tôi muốn gặp ông ấy có chuyện gì. Ðược cho biết nguyên nhân của cuộc tìm kiếm, người đàn bà lộ vẻ vui mừng ra mặt. Bà nói bằng giọng tiếc rẻ:

- Trời đất ơi! Phải chi hai chị tới sớm một chút thì đỡ biết mấy! Ông ấy sửa xe ở trước cửa nhà tôi, mới dọn dẹp để ra chở rau cho bà vợ ngồi bán ở chợ.

- Ổng sắp về tới chưa hả chị?

- Chưa đâu! Ổng còn ngồi bán phụ với bả, chắc tới tối hù tối hì mới về tới nhà, vì còn phải phụ vợ dọn hàng về nữa chứ. Hai chị đợi không nổi đâu. Thôi ngày mai hai chị tới sớm hơn thì mới gặp. Ðể rồi tôi sẽ kể cho ông ấy mừng. Ðược đồng đội còn nhớ tới, chắc ông ấy cảm động lắm. Hoàn cảnh của vợ chồng thấy cũng tội nghiệp lắm nên tôi mới cho sửa xe trong sân nhà tôi đó. Những người Thương Phế Binh ngày xưa rất đáng cho mình giúp đỡ phải không các chị? Các chị về bên ấy làm ơn kêu gọi lòng từ tâm giúp đỡ những người như ông ấy với nhé.

Chúng tôi cảm thấy thất vọng, nhưng đành phải ra về vì không thể làm cách nào khác hơn!

Ngày hôm sau, chúng tôi lại đi sớm, mong làm xong việc để còn trở về Mỹ Tho. Ðồ đạc còn liệng bừa bãi ra nhà, mà sáng mai đã phải lên đường.

Lúc hai chị em tới thì ông Lăng không có mặt ở đó, người đàn bà mà tôi đã gặp hôm qua phải chạy ra sau nhà, là nơi ở của vợ chồng ông để báo tin. Ông Lăng khập khiễng đi ra, tay chống chiếc nạng. Vì đã được bà chủ nhà báo tin trước nên ông không tỏ vẻ ngạc nhiên. Ông lịch sự kéo ghế mời chúng tôi ngồi và hỏi han vài câu xã giao. Khi tôi nói mục đích chuyến viếng thăm, ông cúi đầu lắng nghe. Sau đó, ông cũng nhờ tôi chuyển lời cám ơn đến hội Thương Phế Binh đã có lòng nghĩ tới ông. Khi nhận số tiền 50 USD từ tay tôi, mặt ông lộ vẻ xúc động, và nơi khóe mắt của ông, hai hàng lệ rưng rưng. Tôi quên chưa kể với quý vị là ngoài cái chân mang thương tật, ông Nguyễn Kim Lăng còn bị hư mất một con mắt.

Khi chống nạng tiễn chúng tôi ra cổng, ông ngập ngừng hỏi:

- Không biết những người Mỹ họ lo cho chúng tôi đến đâu rồi hả chị?

Tôi quay mặt đi vì không nỡ nhìn thấy sự thất vọng của ông. Tôi đáp nho nhỏ mà cảm thấy chua xót trong lòng:

- Anh đừng hy vọng những chuyện đó làm gì. Chỉ là những đồng đội của các anh nghĩ về các anh thôi chứ không có người Mỹ nào đâu.

Trên đường về, tôi cứ miên man suy nghĩ về câu thắc mắc của ông Nguyễn Kim Lăng và câu trả lời của tôi và tự hỏi không biết mình có quá chủ quan khi nói như vậy hay không? Trong lòng tôi thầm cầu xin những điều tốt đẹp sẽ đến với những người Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa. Trong cuộc chiến đã qua, họ đã đóng góp một phần máu xương trên mảnh đất đau khổ, khốn cùng này,

Và tôi chợt nhớ đến ánh mắt! Ánh mắt buồn rầu có bừng lên một tia hy vọng! Ánh mắt của ông Bùi Phương! Làm cách nào tôi có thể truyền đạt ánh mắt đó tới các đồng đội của ông đây? Hỡi Trời?!?...

Nguyễn Phạm Thỵ Hảo

(Na Uy)

Ghi chú:

Ðịa chỉ TPB Bùi Phương,
1051 Hiệp Nhất - Phường 4
Quận Tân Bình - Saigon

Email: buiphuong18@gmail.com
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #128 - 15. Sep 2010 , 23:22
 

Tình Yêu




Bố tôi mắc bệnh hiểm nghèo, chắc chẳng sống được thêm bao lâu nữa mặc dù tuổi ông còn khá trẻ.
Việc mà ông cụ canh cánh trong lòng nhất là người mẹ của tôi. Nhân lúc còn chút sức tàn, ông cụ tìm cách điều mẹ tôi đi nơi khác, rồi gọi vợ chồng tôi đến trước giường nằm nói :” Các con,bố giao mẹ con cho các con, mẹ con ở với bố chả được hưởng sung sướng nào. Sau khi bố chết, các con hãy chăm sóc mẹ cho tốt!”. Chúng tôi chảy nước mắt khi nghe lời dặn dò, và hứa: ” Bố yên tâm,chúng con nhất định sẽ trông nom mẹ chu đáo”. Bố tôi vui lòng gật đầu, lại dặn thêm:” Các con yêu quý, bố đã viết di chúc, sau này hãy làm theo những điều viết trong di chúc!”.
Chúng tôi lại hứa xin làm theo.
Không lâu sau đó, bố tôi qua đời...
Tang lễ bố tôi rất long trọng,những vị cao tuổi trong thôn đều cho rằng bố tôi là người may mắn, hai vợ chồng sống với nhau suốt đời, con trai con dâu đều hiếu thuận, sống được như vậy, đáng lắm!

Lo liệu xong việc tang, tôi tìm được di chúc của bố,lòng rất bồn chồn: mọi việc trong nhà đều rất mĩ mãn, không rõ bố còn dặn dò điều gì?
Thế nhưng, bố đã viết di chúc, tôi quyết định sẽ làm theo. Hôm sau, tôi và vợ mở di chúc ra xem.
Di chúc viết như thế này:
“ Các con yêu quý, bố có một việc nhờ cậy các con. Việc này liên quan đến mẹ các con. Các con đều không biết, mẹ các con rất thích cho dấm vào thức ăn, nhưng mấy chục năm nay, khi làm món ăn không bao giờ mẹ con cho dấm vì biết bố không thích ăn như vậy. Vì bố mà mẹ các con mấy chục năm nay không hề ăn các món có trộm dấm, vì vậy bố xin các con, từ nay trở đi khi làm món ăn đều cho dấm vào. Được như vậy,coi như là các con thay cho bố có chút đền bù cho mẹ!”

Đọc xong di chúc, hai vợ chồng tôi không nói ra lời. Mối tình sâu nặng giữa bố, mẹ chúng tôi, lòng thương yêu nhau ấy, mặc dù chất phác, đơn sơ, nhưng cảm động biết bao!

Ngay chiều hôm đó, khi làm cơm tối, vợ tôi đã cho dấm vào các món ăn. Trước khi mọi người ngồi vào bàn, mẹ tôi bỗng đột nhiên bảo tôi: ”Này, xếp ghế ngồi cho bố các con đi chứ!”.

Tôi vội bê ghế đến, lấy thêm bát, đũa, và còn đặt một chiếc ly lên bàn rồi rót đầy rượu. Sau đó chúng tôi lặng lẽ nhìn mẹ gắp thức ăn...
Ai ngờ vừa gắp ăn một miếng nhỏ, mẹ lại thử tiếp mấy miếng nữa, rồi nhíu mày lại...
Thấy vậy, tôi rất lo, đang định nói ngọn nguồn, thì mẹ tôi đã đặt đũa xuống, nước mắt trào ra, nói:” Các con không biết bố con không thích ăn chua hay sao? Vì sao bố các con vừa đi, các con đã làm thức ăn chua thế này, bố con ăn làm sao được!”.

Nghe những lời nói đó của mẹ, tôi và vợ tôi cùng khóc theo…
.......Thời gian cứ trôi qua, mẹ tôi vẫn ở với chúng tôi, cùng bóng hình của Bố, bà sống với tất cả tấm chân tình, cùng những kỷ niệm cho đến lúc bà mất...Có phải chăng đó là TÌNH YÊU (?)

Lanh Nguyen



Back to top
 
 
IP Logged
 
Ti Vi
Full Member
***
Offline



Posts: 104
Orlando
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #129 - 16. Oct 2010 , 11:15
 
Truyện thật 99.99%!

Trầm Hương (UT)


Chuyện như chơi


"Bà muốn biết tại sao tui ly dị hả ? Trời ơi, mười mấy năm sống chung là muời mấy năm chén cơm chan canh nước mắt. Hổng bỏ cũng hổng xong, bà ơi! Giả đánh bạc như máy, thiếu điều bay luôn căn nhà. Đã vậy, hễ mở miệng ra là đ.m. Đ.m, cái xe bà đụng móp một miếng bự tổ chảng mà còn nói là không sao hả? Giả nhẩy chồm chồm, xỉa xói vào mặt tui khi tui như con gà mắc mưa lái xe về nhà. Tai nạn xẩy ra, gọi cho giả, giả hổng thèm hỏi thăm tui có bị chi nặng không mà câu đầu tiên là cái xe ra sao. Thiệt tủi cho cái mạng mình hết sức. Tiền lương thì đem nướng cho sòng bài không tiếc mà kêu về VN thăm má, giả hẹn lần hẹn lữa là không có tiền. Tui nóng mặt, bắt giả cầm 6,000 đô la về thăm bà già . Em không muốn má nghĩ anh bị vợ cấm không cho về. Má già yếu lắm rồi . Anh là con trai một. Về thăm thôi rủi có chuyện gì xẩy ra, mình hối không kịp.

Bà biết sao không, giả tới Saigon, im re luôn 3 ngày. Tui nghi có điều bất thường, điện về hỏi. Giả nghẹn ngào, anh lỡ đánh bạc hết trơn tiền cho má rồi. Tui lặng người chết điếng. Con gái tui thấy má cầm ống điện thoại mà nước mắt ròng ròng, không thốt được tiếng nào, nó thất kinh: Ba bị cái gì hả má. Tui dộng cái điện thoại lên giá: Má cũng mong ba con bị cái gì cho chết luôn đi. Trời ơi là trời!

Kể bà nghe cái chuyện này mới vui. Tui đang làm việc trong hãng thì giả phone vô.

- Em về gấp, mang cái xe tui đi thay kiếng. Đ.m cái thằng dịch vật nào đập bể cái kiếng trước xe tui rồi.

Tui nói:

- Anh vào ca 3 giờ chiều lận . Giờ này mới 9 giờ sáng, còn 6 tiếng, anh ngồi không làm chi?

Giả gào lên:

- Tui gọi điện khảo giá mấy thằng sửa xe hết trơn rồi đó chớ. Đ.m mấy thằng cắt cổ thiên hạ. Đứa nào cũng rập khuôn nói từ 200$ đến 300$. Em giỏi mặc cả, về trả giá với tụi nó cho tui coi. Nhớ nghen, tui đi làm 3 giờ đó.

Thế là tui đành gặp boss, xin về vì con... té gẫy tay ở trường học. Nước mắt tui dàn dụa vì tức tối làm boss tưởng tui đau lòng thương con, hết sức an ủi.

Tới nhà, giả đã ngủ ngáy khò khò, cái máy Karaoke với những hình ảnh và bản nhạc hết sức tình tứ còn vang vang bên cạnh: "Gọi người yêu dấu bao lần". Gọi người... Gọi người về sửa xe chớ yêu dấu cái con mẹ.

Tui mở niên giám điện thoại VN, gọi đại một cái tiệm chuyên thay kiếng xe. Bà biết rồi đó, trời sanh ra tui có cái giọng nói ngọt như mía hèn chi vừa nghe tiếng tui, đầu giây bên kia thả dê liền:

- Em cần chi vậy em.

Tui hết hồn nhưng liền tương kế tựu kế:

- Dạ, có chuyện cần em mới phải gọi anh chớ.

Cha nội sửa xe vẫn tiếp tục chớt nhả:

- Gấp không em?

Tui õng ẹo:

- Dạ gấp lắm . Anh tới liền được không?

- Í, tới liền thì không được, em ôi!

Tui thắc mắc:

- Sao vậy anh?

- Ờ, nói thiệt, anh đang mắc... nhậu.

Trời thần! Tui la làng:

- Mới sáng sớm mà nhậu rồi, làm sao sửa xe được?

Cha sửa xe giả lả:

- Ủa xe em hư hả? Chồng đâu hổng lo mà bắt tội em gái vậy?

Nghe nhắc tới giả, tui muốn trào máu họng, tức tưởi:

- Xời ơi, phải chi em có chồng cũng còn đỡ. Li dị rồi anh ơi. Một mẹ một con, rầu muốn chết nè.

Cha sửa xe xớn xác:

- Tội nghiệp dữ hông? Đâu, xe bị sao nói anh nghe!

Tui thổn thức:

- Tảng sáng thức giấc, tính đi mua sữa cho con thì thấy cái kiếng trước bị đập bể rồi. Em đâu dám lái, gặp cảnh sát mấy ổng cho giấy phạt chết.

- Kiếng trước hả? Nặng đa! Xe em hiệu gì, đời mấy?

- Cái xe Honda cà tàng, cũ mèm hà anh ơi. Honda Civic, 1988.

- Cha, xe mới còn dễ kiếm, xe cũ chăm à nghen.

- Tội nghiệp em mờ, anh ráng dùm em nghe. Bao nhiêu tiền vậy anh?

- À ... à, tiền kiếng cộng với labor cũng phải $260.

- Trời ơi, dữ vậy anh, tiền đâu em trả?

Cứ vậy, tui cù nèo cù nây với thằng sửa xe. Tui nói, Em còn đang ăn weo-phe, anh giúp em đi mà. Cuối cùng, bà tưởng tượng được không, nó chịu thay cái kiếng cho tui, lại tận nhà nghen, với giá là 40.00$. Tui còn làm bộ tử tế:

- Anh nè, anh khoan tới bây giờ nghen. Anh đang uống rượu, gặp cảnh sát là tán mạng đó. Anh tới sau 3 giờ nghen . Cho hơi rượu bay đi đã. Nhớ nghe anh. Sau 3 giờ, em đợi.

Chồng nghe tui khoe thay kiếng xe có 40.00$, giả nịnh: "Thì biết em giỏi mấy cái chuyện trả giá anh mới phải gọi em lo". A, té ra là vậy, chữ tài liền với chữ tai một vần thiệt hổng sai.

Còn cái thằng thay kiếng hả, hắn tới, tui dặn thằng con ra nói má con đi chợ với bà ngoại, chút xíu má về. Giả làm xong, lấy tiền, uống hết mấy lon bia vẫn không thấy tui, biết bị gạt, tức tối chuồn êm.

Mấy năm sau khi chồng tui về VN thăm má, một buổi đi làm về, tui ngạc nhiên thấy xe giả còn đậu trước nhà. Vừa xuống xe đã nghe giả khóc hù hụ ngoài sân sau. Nhìn ra, thấy giả đang ôm hình má vật vã. Má ơi, sao má nỡ bỏ con đi bất tử như vậy? Má ơi, thằng con bất hiếu giờ đây biết tìm má nơi đâu v.v...

Tui nhớ tới 6,000 đô la tanh banh theo cờ bạc của giả hồi đó, tui nổi điên, bước ra chỉ mặt giả:

- Nín! Tui nói anh nín liền nghe chưa. Anh đừng làm cái trò cải lương đó. Lúc má sống, bỏ mặc má bơ bất. Giờ má chết, kể lể dông dài ra điều con có hiếu. Nín dùm cái coi. Tui nghe mà thất cười, haha..

Cơn giận khiến tui cười không đúng lúc, không đúng chỗ. Nguyên cái khung hình bay lên đầu tui. Miểng kiếng bể, những dòng máu ngoằn ngoèo chẩy xuống. Thằng con bấm số 911. Cảnh sát tới. Cuộc hôn nhơn chấm dứt luôn từ đó. Chuyện nghe như chơi mà thiệt.

Trầm Hương (UT)
Back to top
« Last Edit: 16. Oct 2010 , 11:17 by Ti Vi »  
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #130 - 23. Feb 2011 , 17:25
 


MÙA XUÂN 1975



   Mở: Truyện ngắn này, thực hư trộn lẫn, được viết vào đầu năm 2001 và đã được đăng trên Nguyệt San PHỤ NỮ VIỆT Số Mùa Xuân Tân Tỵ/2001 dưới bút hiệu PHƯỢNG. Đọc lại thấy ‘cũng vẫn còn được’, và thể theo lời yêu cầu của My Better Half, xin gửi để, nếu được, đăng lại trên DĐLVD, dưới bút hiệu thực, LĐ, để Quý Vị thưởng thức nhân dịp chúng ta đón Xuân Tân Mão/2011 - và cũng để chúng ta cùng nhớ lại một chút về Mùa Xuân Định Mệnh 1975. LAN ĐÀM

*
**
   Những cơn mưa mùa dài dòng như một người kể chuyện vô duyên nhất đã chỉ làm được một điều tốt là làm cho bầu trời ô nhiễm của vùng Los Angeles sạch sẽ hẳn. Những cơn mưa lê thê cũng níu kéo cái lạnh của những ngày cuối đông, làm cho tháng ba ở đây mang đầy hình ảnh của một thành phố Đà Lạt trong quá khứ. Tâm Như mặc chiếc áo coat bằng dạ màu nâu sậm mua tại Ann Taylor từ hơn ba tháng trước. Lúc đó là mùa thu. Buổi chiều thứ sáu Bích Hà điện thoại cho Tâm Như, giọng nói hốt hoảng như vừa nghe tin động đất ở Seattle:
   - Ann Taylor nó hạ đại giá mùa thu! Mày ghé tao rồi chúng mình đi Brea Mall.
   Tâm Như chọn hai cái khăn quàng cổ và chiếc áo coat dạ. Hai món hàng này đều được trừ 50% và còn trừ thêm extra 10% nữa. Bích Hà chọn một chiếc áo coat màu đen.
   - Tao thích màu nâu như mày chọn. Nhưng nếu cả hai đứa đều mặc màu nâu, tụi bạn chúng lại kêu lên là mình ở viện mồ côi ra…
   Ngồi ở food court, Bích Hà kể:
   - Mày biết không, năm 1975 tao vừa bảy tuổi, bố tao định cho hai anh em tao làm trẻ mồ côi để được di tản sang Mỹ …
   Tâm Như Ngạc nhiên:
   - Hai anh em? Tao có bao giờ thấy anh mày đâu?
   - Anh Hải ở với chú tao bên Maryland. Chính chú tao đã lo cho gia đình tao đi Mỹ. Mày không biết là tao còn một người anh lớn nữa. Anh ấy ở Virginia. Bốn mươi lăm tuổi rồi mà chưa có vợ!
   Tâm Như thấy đau nhói trong tim. ‘Mình cũng ba mươi lăm rồi mà vẫn chưa có chồng’. Ba Tâm Như là một sĩ quan cao cấp trong quân đội VNCH cũ. Ông là một người lịch thiệp nhưng kín đáo. Ngay đối với vợ con, ông cũng không bao giờ để lộ một xúc động tình cảm nào cả. Một vài lần cả gia đình đi ăn tiệm, Tâm Như hết sức cảm động khi thấy nhiều người đồng hương ghé lại bàn chào ba Tâm Như thật kính cẩn, ‘Ở nhà Ba chỉ là một người cha bình thường. Ra đường Ba được mọi người kính trọng…’. Một lần ba Tâm Như giải thích ‘ Họ là những chiến hữu của ba’. Những companion in arm. Tâm Như biết ba là một quân nhân, nhưng Tâm Như không biết một chút gì về quá khứ của ông. Tâm Như cũng không biết gì về chiến tranh, ngoài những cuốn phim như Forest Gum, Saving Private Ryan hay The Longest Day…mà Tâm Như đã xem một cách thờ ơ. Tâm Như không thể hiểu được rằng tại sao lại phải có chiến tranh? Tại sao con người có thể cầm súng bắn con người, như người thợ săn bắn một con thú? Trong cuốn album gia đình, chỉ gồm những tấm ảnh ghi lại những ngày còn ở quê nhà, có một tấm chụp ba Tâm Như mặc đại lễ đứng giữa một đám đông trong một buổi tiếp tân nào đó. Tâm Như rất thích hình ảnh của những quân nhân lịch thiệp trong những bộ đại lễ lộng lẫy giữa khung cảnh rực rỡ của những buổi dạ vũ mà Tâm Như thường thấy trên màn bạc. Tâm Như nhớ hình ảnh của André và Pierre trong War And Peace, của Napoléon trong Désirée…Nhiều lúc Tâm Như thấy mình như là một thứ alien, một kẻ ngoại cuộc giữa đám đông vui vẻ, nhộn nhịp. Một lần Tâm Như đã thoáng nghe mẹ than thở với ba:
   - Con gái hơn ba mươi tuổi rối mà chưa lập gia đình. Con mình nó đẹp chứ nó đâu có xấu! Lại còn học hành đàng hoàng…
   Mẹ Tâm Như nói về số mệnh, về tuổi tác, về các vì sao trên trời. Tâm Như nghe ba trấn an mẹ:
   - Mình đang ở Mỹ chứ không còn ở Việt Nam thời Tự Lực Văn Đoàn nữa. Con gái bây giờ muốn lấy chồng lúc nào cũng không muộn…
   Mẹ thở dài:
   - Vẫn biết vậy nhưng nếu con nó lập gia đình sớm, mình sớm có cháu ngoại bế…
   Những cơn mưa vội vàng buổi sáng đã tạnh hẳn. Bầu trời phía bắc còn u ám nhưng nắng đã trải óng ánh trên thảm cỏ vàng của những ngọn đồi nằm hai bên xa lộ. Xe chạy qua exit Imperial Highway, lối dẫn vào Brea Mall, đường bắt đầu lên dốc. Ở điểm cao nhất của xa lộ, những ngọn đồi hai bên như vạt rộng ra, mở trước mắt Tâm Như một khoảng núi trùng trùng điệp điệp, đỉnh cao phủ tuyết trắng như bạc. Tâm Như ngẩn ngơ, ‘ Mấy tuần nay không ghé thăm Bích Hà, không ngờ thiên nhiên đã thay đổi tuyệt vời như vậy!’. Cảnh đẹp khiến cho lòng Tâm Như tươi sáng. Tâm Như chợt hứng khởi hát nho nhỏ theo người ca sĩ qua radio trên xe ‘ I just call to say I love you’. Tâm Như không có ai để điện thoại và nói ‘ I love you’ dù Tâm Như muốn được nói điều này. Tâm Như khao khát được nói ra điều này. Tâm Như rất ngạc nhiên trước thái độ sống của Bích Hà. Vinh, chồng Bích Hà, tình nguyện đi làm ở Singapore hai năm. Bích Hà không đi theo vì ‘ Tao có công việc của tao ở đây và tao cũng còn phải trông coi bà già tao nữa chứ! Đi hai năm không đóng thuế, không chi phí gì, anh ấy có thể để dành tiền, mai mốt retire sớm…!’.
   Khi Tâm Như đậu xe trước cửa nhà Bích Hà, trời đã nắng ráo. Tâm Như mở cửa xe bước xuống đường và chợt chú ý đến một chiếc SUV to cao sừng sững đậu trên driveway. Xe mang bảng số của tiểu bang Virginia với dòng chữ ‘Virginia Is For Lovers’. ‘ Bích Hà có khách phương xa lại thăm. Nó không cho mình biết gì về việc này cả…’.
   Bích Hà đón tiếp Tâm Như thật nồng nhiệt, tưởng như hai người đã lâu lắm không gặp mặt nhau. Bích Hà lúc nào cũng có nụ cười trên môi, nụ cười thật tươi, thật tự tại, ‘ Con nhỏ này không bao giờ biết buồn’. Tâm Như ngồi xuống ghế sofa trong family room. Bích Hà đi vào trong bếp,
   - Để tao pha bình trà.
   Bích Hà biết Tâm Như thích uống trà. Bích Hà luôn luôn ghi nhớ những ý thích của bạn hữu. Tâm Như hơn Bích Hà ba tuổi nhưng hai người thân thiết với nhau từ những ngày học ở UCLA. Những ngày thật vui, thật vội vã, thật nuối tiếc, ‘ Mình bắt đầu thấy sợ hãi những bước chân của thời gian’. Bích Hà từ trong bếp đi ra với một khay trà.
   - Mày có khách phương xa tới thăm à?
   Bích Hà đặt trà xuống bàn:
   - Không phải khách. Anh Phong, anh già của tao ở Virginia, có job mới ở California nên bỏ đất của những người tình để về đây.
   - Ông ấy đâu rồi? Xe đậu ngoài cửa…
   - Ông ấy đưa bà già tao đi chợ. Bà già bảo không bao giờ bà thèm leo lên chiếc xe cục mịch như xe đò của anh Phong. Anh Phong lái chiếc Saab của tao.
   Bích Hà gọi mẹ là bà già, nhưng Tâm Như thấy bà chưa già. Mẹ Bích Hà có một vẻ đẹp quý phái, bà có đôi mắt như mắt người mẫu trong tranh tố nữ của Trung Hoa. Mẹ của Bích Hà chắc chưa tới cái tuổi sáu mươi, bà là một người có trái tim rộng lượng, lúc nào cũng trang trọng như một người khách quý ghé thăm bạn hữu trong những chuyến du lịch mùa hè. Bà ăn nói điềm đạm nhưng cởi mở, hành động chững chạc nhưng thân tình.
   Bích Hà rót trà ra tách nhỏ :
   - Trà sen thật do bà ngoại tao từ Hà Nội gửi qua đấy. Trà sen hóa học uống hắc xịt mà còn hại cho sức khỏe nữa.
   - Bà ngoại của mày ở Hà Nội?
   Tâm Như thấy Bích Hà như một cuốn sách, mỗi trang lại có thêm cái mới, mỗi chương lại có thêm một biến cố. Tâm Như thích thú tìm hiểu về Bích Hà, về gia đình Bích Hà, như một người say mê đọc một cuốn tiểu thuyết.
   - Chắc có một ngày nào đó mày sẽ cho biết là ông tằng tổ của mày là một vị vua nhà Lê…
   Bích Hà đưa tách trà cho Tâm Như:
   - Giòng họ tao không có ai làm lớn cả. Hình như tao có ông cụ ngoại đậu cử nhân nên được gọi là Cụ Cử. Mẹ tao rất hãnh diện về cái lai lịch này.
   Tâm Như nhìn Bích Hà, và chợt ghi nhận những thay đổi nhỏ trong cách trang trí cái family room quen thuộc này. Trong những bức hình treo trên tường có một bức hình mới. Hình một người lính trẻ đứng bên một dòng sông. Bức hình mờ nhạt như bị out-focus, nụ cười của người trong ảnh chỉ là một vệt dài trắng xóa. Và bức tượng bán thân của Beethoven đặt trên mặt chiếc đàn dương cầm, mọi lần chỉ đeo cái headphone, hôm nay lại được trang bị thêm một chiếc mũ beret đỏ. Tâm Như chợt nhớ lại có một lần Bích Hà tâm sự:
   - Anh tao là lính nhảy dù. Qua Mỹ, anh ấy giữ mãi chiếc mũ beret đỏ. Ông ấy dặn dò mẹ tao giữ cái mũ cho ông ấy như của gia bảo vậy.
   - Mỗi người đều giữ một kỷ niệm…
   - Kỷ niệm của anh tao là chiếc mũ beret đỏ. Ông ấy gàn bát sách nên đến bây giờ vẫn không có vợ…
   - Chưa có vợ?
   - Tao nghĩ tao dùng chữ ‘không’ rất chính xác. Mỗi lần anh tao về Cali, anh ấy lại đem cái mũ beret đỏ ra đội và ngắm mình trong gương cứ như anh chàng Narcissus vậy.
   - Tao nghĩ ông ấy không chỉ yêu một kỷ niệm mà còn hãnh diện về quá khứ. Người ta có quyền hãnh diện với quá khứ là cựu cái này, cựu cái kia. Ông ấy có quyền hãnh diện với quá khứ là người lính đội mũ beret đỏ…
   Tâm Như đặt tách trà xuống bàn, chậm rãi đứng dậy và bước lại bên bức tường treo những khung ảnh đủ cỡ.
   - Người lính này là anh của mày phải không?
   - Ừ, hình anh Phong đấy. Hình chụp bên bờ sông Thạch Hãn. Anh Phong bảo Thạch Hãn có nghĩa là mồ hôi của đá. Tao thấy đó là hình ảnh của cuộc đời người lính…Mẹ tao được điện thoại anh tao bảo về Cali, bà mang hình đóng khung và treo ở đây. Bà cũng đem cái mũ beret đỏ của anh Phong ra triển lãm…Tao nghĩ mẹ tao phải là một chính trị gia, một chính trị gia giống như Bà Hillary… Anh Phong về, anh ấy cảm động lắm, anh ấy mua tặng bà già tao cái đồng hồ Cartier.
   - À, từ lúc nãy tao để ý không thấy bác trai đâu. Chắc bác đi xoa mà chược?
   - Không, bố tao theo ông chồng tao qua Singapore. Ông chồng tao điện thoại về mời, Bố retired rồi, bố qua đây chơi cho nó thay đổi không khí. Vui thì bố ở lâu, buồn thì bố về Mỹ…. Tao xúi dục thêm ‘ Bố qua bên đó canh chừng chồng con hộ con…’
   Tâm Như cầm chiếc mũ beret đỏ trên đầu bức tượng bán thân của nhạc sĩ Beethoven. Tâm Như chợt nhớ như một bức ảnh phóng đại đặt ngay trước mắt, bức ảnh những người lính đội mũ beret đỏ đứng giữa một khu phố vắng tanh vào một buổi chiều mùa xuân kinh hoàng tại thành phố Sàigòn hơn hai mươi lăm năm về trước…
   Tâm Như nhớ thật rõ theo nhịp tim đập dồn dập, Sàigòn đang tắt lịm như một ngọn nến tàn. Chiến tranh dưới mắt nhìn của một đứa trẻ lên mười mang những đe dọa thật kinh hoàng. Chiến tranh đang tiến dần về thành phố Sàigòn, đang bao quanh thành phố Sàigòn. Chiến tranh như một đám mây đen chụp xuống một tòa lâu đài cổ trong một cuốn phim ma quái.
   Tâm Như nhớ mãi buổi chiều hôm đó, mẹ mặc chiếc áo len xanh cho Tâm Như, mẹ viết tên tuổi Tâm Như lên một tờ giấy lớn gấp tư, nhét vào túi áo trước ngực có kim băng cài giữ. Mẹ vẫy xe taxi đưa Tâm Như vào Tân Sơn Nhất, ‘ Mẹ muốn cả gia đình xum họp vào lúc Sàigòn sụp đổ’. Xe taxi bị chặn lại trước Bộ Tổng Tham Mưu. Tâm Như ngơ ngác trước những người lính nhảy dù đội mũ đỏ. Tâm Như nhớ mãi khuôn mặt người lính nhảy dù thật trẻ nhìn qua cửa kính xe,
  - Thưa bà, bà nên đưa em trở về nhà. Nơi đây sắp sửa thành bãi chiến trường.
  Người tài xế taxi hốt hoảng đuổi khách, ông ta nhảy bổ khỏi xe và mở toang cửa sau,
   - Bà xuống đi, tôi không tính tiền xe đâu! Tôi phải trở lại Sàigòn ngay…
   Hai mẹ con Tâm Như đứng giữa một con đường lặng câm, với người lính bình thản, và bầu không khí chiến tranh nặng nề đến nghẹt thở. Người lính nhảy dù trẻ ái ngại nhìn hai mẹ con Tâm Như :
   - Bà nên đưa em về nhà ngay…
   Mẹ Tâm Như đáp thật tự nhiên, Tâm Như chưa lần nào thấy mẹ lạnh lùng như vậy:
   -Tôi là vợ Đại Tá Thu, tôi muốn ở bên cạnh chồng tôi vào lúc nguy khốn này. Xin anh giúp tôi và cháu gặp nhà tôi..
   Người lính dù chợt đổi sắc diện. Tâm Như tưởng như đôi mắt sáng trưng của anh chợt mờ đi:
   - Bà và em đứng tránh dưới gốc cây này, để tôi trình với thượng cấp của tôi .
   Anh vội vã chạy đi, và một lúc sau đó trở lại với một người sĩ quan cũng còn thật trẻ :
   - Thưa bà, đây là thiếu úy Phan…
   Thiếu úy Phan nghiêng người chào mẹ Tâm Như:
   -Thưa bà, ông nhà đang họp trong Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi được lệnh đưa bà và em vào phi trường di tản. Trung sĩ Phong sẽ đưa bà và em vào phi trường. Xin bà đừng lo, ông nhà và chúng tôi sẽ di tản sau nếu cần thiết.
   Trung sĩ Phong lái xe Jeep đưa mẹ con Tâm Như vào phi trường Tân Sơn Nhất. Tâm Như nhìn sang, thấy người lính nhảy dù trẻ có một vết sẹo ở phía trên lông mày. Vết sẹo như nhát dao xẻ trên những ổ bánh mì nóng Tâm Như vẫn thường ăn vào buổi sáng mỗi ngày . Tay áo trận sắn cao, cánh tay anh xâm hình một con chim soải cánh.
   Xe đậu giữa phi đạo hỗn loạn, trung sĩ Phong đưa mẹ con Tâm Như đến bên một chiếc trực thăng lớn. Anh dơ tay chào người phi công và gửi gấm:
   - Gia đình Đại Tá Thu, xin Đại úy lo giùm.
   Trung sĩ Phong giúp mẹ con Tâm Như leo lên trực thăng. Trước khi từ giã, anh dúi vào tay Tâm Như một thanh kẹo chocolat:
   - Chúc bà và em may mắn.
   Mẹ Tâm Như móc tờ giấy trong túi áo Tâm Như, viết vài hàng chữ và trao cho trung sĩ Phong:
   - Nhờ anh đưa cho ông nhà tôi.
Sau này khi gia đình đoàn tụ tại Subic Bay, ba Tâm Như kể với mẹ, ‘ Nhận được giấy từ trung sĩ Phong, anh yên tâm vì em và con đã di tản nên sau đó, ở phút cuối cùng, anh đã quyết định cùng một số chiến hữu ra đi…’
   Tâm Như và Bích Hà đang ngồi nói chuyện ngoài sân sau thì mẹ Bích Hà đi chợ về. Bác Minh Tâm, mẹ của Bích Hà, ôm Tâm Như:
   -Tuần trước Bích Hà xuống dưới đó chơi với cháu nên bác không được gặp cháu. Bác cảm thấy như mất một buổi xum họp đại gia đình. Cháu vào trong nhà để bác giới thiệu anh trai của Bích Hà với cháu.
   Ba người cùng đi vào nhà trong. Khi đi qua phòng bếp, Tâm Như thấy một thanh niên hai tay ôm hai túi giấy đi chợ. Tâm Như tự hỏi, ‘ Mình xếp loại anh ta là một trung niên hay một thanh niên? Anh chàng chưa già nhưng cũng không còn trẻ nữa!’
   Bác Minh Tâm nắm tay Tâm Như:
   thanks.gifhong, anh của Bích Hà đấy cháu. Còn đây là Tâm Như, bạn của Bích Hà.
   Phong gật đầu chào Tâm Như. Phong có một vẻ gì thật quen thuộc, ‘ Mình phải gặp Phong ở đâu rồi? Hay Phong giống một người nào mình quen?’. Tâm Như chợt để ý đến vết sẹo phía trên lông mày phải của Phong . ‘Chẳng lẽ anh chàng này là…? Không hiểu cánh tay Phong có xâm hình con ó hay không?’. Phong đặt hai túi giấy xuống bàn :
   - Mẹ tôi bảo nhà có khách. Mẹ tôi lại không giỏi nghề nấu nướng. Bà đề nghị ra tiệm Tàu mua thức ăn về nhà ăn cho tiện.
   Bà Minh Tâm cười:
   - Tiệm Sam Woo nấu ăn được lắm cháu. Bác nghĩ nấu nướng ở nhà cũng chỉ ngon đến vậy là cùng…
   Mọi người vui vẻ bày thức ăn ra bàn. Khi Phong đưa bát cơm cho Tâm Như, anh phân trần:
   - Ba tôi bảo nếu mẹ tôi nấu nướng cũng giỏi như bà chơi mà chược thì ông là người hạnh phúc nhất trên đời này!
   Bích Hà bênh mẹ:
   - Mẹ bỏ mà chược cũng đã hơn bốn năm nay rồi!
   Bác Minh Tâm nhìn Phong, đôi mắt bác chợt mang đầy nét trìu mến. Bác nói thật nhò nhẹ, thật chân thành:
   - Từ hơn bốn năm nay mẹ vẫn ăn chay mỗi tháng một tuần. Mẹ cầu xin Trời Phật cho Phong lấy được một người vợ hiền. Nếu mẹ giầu, mẹ đã xây chùa, mẹ đã đúc chuông…
   Bích Hà nắm tay bác Minh Tâm:
   - Con cũng sẽ ăn chay để cầu Trời Phật cho anh Phong lấy được vợ.
   Phong cười lớn:
   - Cám ơn mẹ, cám ơn Bích Hà. Nhưng tại sao mọi người đều đang đói bụng, nhìn thức ăn thì ngon mà không chịu ăn đi. Nhà lại có khách quý, chúng ta không nên làm phiền khách quý vì những chuyện lôi thôi của tôi…
   Tâm Như tự nhiên muốn đặt mình vào trong cuộc:
   - Tại sao anh Phong sợ lấy vợ? Tôi nghe nói một người lính chiến không bao giờ biết sợ. Anh là người lính dù, anh yêu cái mũ beret đỏ của anh…
   Phong quay sang nhìn Tâm Như, đôi mắt chân thật, đôi mắt tự tin của một chiến sĩ :
   - Chuyện sợ hay không sợ là một chuyện thật dài. Tôi mong sẽ có dịp trình bày với cô Tâm Như. Chuyện tôi không có vợ nó không liên hệ đến chữ sợ mà nó liên hệ đến chữ cơ và chữ duyên. Cái cơ đã đẩy tôi chạy thục mạng trong suốt cuộc đời tôi. Ngày trượt tú tài, tôi tình nguyện đi lính nhảy dù. Chọn lựa này cũng chẳng liên hệ gì đến chữ sợ hay chữ không sợ. Nó là một chọn lựa bốc đồng. Cả nhà tôi khóc như mưa, như gió. Lính nhảy dù đánh trận quanh năm không có thì giờ nghĩ đến chuyện lập gia đình. Tôi đi lính đúng vào lúc chiến trường sôi động cực độ. Qua Mỹ, tôi cắm cố đi học lại cho mẹ vui lòng. Học xong đi làm để trả nợ. Và ngoảnh đi ngoảnh lại đã… sắp già. Còn chữ duyên thì là tôi không có duyên với ai, hay chưa có duyên với ai…
   Tâm Như thấy Phong thật lạ, anh nói về cuộc đời như anh nói về một cuộc vui chơi. Tâm Như cố xếp Phong đứng ở một khu phố vắng tại Sàigòn vào một ngày cuối cùng trước khi sụp đổ. Phong cũng có vết sẹo ở trên long mày phải . ‘ Phong có xâm con ó ở tay hay không?’. Trời tháng ba ở Cali còn lạnh. Phong mặc chiếc áo len rộng màu ngọc thạch. Tâm Như chợt thấy Phong thân thiết như một người bạn cũ, một người bạn chân thành và tận tình. Một người bạn hiểu rõ lòng ta như một thứ alter-ego. Phong nói về Phong, như nói về Tâm Như. Tâm sự của Phong cũng là tâm sự của Tâm Như . ‘ Mình cũng chạy hụt hơi theo cuộc đời, và bây giờ mình đã ba mươi lăm tuổi rồi!’.
   Sau bữa cơm trưa thật thoải mái, Bác Tâm Minh bảo bác có tật xấu do ảnh hưởng của thực dân Pháp để lại . ‘ Bác phải ngủ trưa nửa tiếng đồng hồ thì đầu óc bác mới minh mẫn…’. Bích Hà pha một bình trà mới.
   - Tụi mình ra ngồi ngoài patio nhìn tuyết trên núi cao.
   Buổi trưa tháng ba thật đẹp. Những cơn mưa vừa đổ qua khiến bầu trời như tấm kính được lau chùi sáng choang. Không khí thoang thoảng mùi hoa trà. Ba người ngồi quanh chiếc bàn gỗ đặt dưới giàn hoa giấy. Bích Hà là người yêu nghệ thuật, hay nói đúng ra, Bích Hà là người yêu vẻ đẹp của vườn tược. Khu vườn sau nhà Bích Hà giống như một khu rừng nhiệt đới, đầy bóng mát, đầy cây cỏ. Màu xanh của lá khiến cho Tâm Như cảm thấy lòng mình thật thoải mái.
   Phía sau bức tường đá xanh che chở khu vườn là những dốc đồi ngổn ngang. Tường có treo những chậu hoa đầy màu sắc, tô từng mảng màu rực rỡ trên nền đá sần sùi. Xa xa là những dãy núi đỉnh phủ đầy tuyết trắng. Tâm Như chợt hiểu tại sao tâm Bích Hà lúc nào cũng bình yên. Thiên nhiên là bàn tay vỗ về và nâng đỡ dịu dàng nhất. Thiên nhiên không bao giờ làm dáng nhưng thiên nhiên lúc nào cũng đẹp tuyệt vời.
   Tâm Như chợt ghi nhận là Phong đội chiếc mũ beret đỏ không rõ từ lúc nào. Hơn bốn mươi tuổi, Phong trông vẫn còn nhiều nét thơ dại. Hình ảnh ngày cuối cùng ở Sàigòn đột ngột chuyển qua lũ lượt trước mặt Tâm Như. Những người lính dù ở gần phi trường Tân Sơn Nhất. Những người lính thầm lặng và bình thản giữa một không khí chiến tranh ngột ngạt. Tâm Như hỏi Phong:
   - Anh là một người lính chiến, anh hãy kể một kỷ niệm đẹp nhất trong đời quân ngũ của anh đi. Tôi đọc sách, thấy những người lính chiến thường nhắc lại quá khứ của họ như nhắc về những mối tình thật đẹp…
   Phong gỡ chiếc mũ beret đỏ đặt xuống bàn:
   - Kỷ niệm tôi không bao giờ quên được là kỷ niệm về lần uống rượu sau cùng với các bạn đồng ngũ. Tôi không bao giờ uống rượu sau lần đó nữa. Tôi nhớ chúng tôi nghe lệnh đầu hàng của vị tổng thống sau cùng đọc trên đài phát thanh. Lệnh đầu hàng như một trái bom nổ ngay chỗ đóng quân. Chúng tôi đang ở giữa thành phố Sàigòn thân yêu vậy mà chúng tôi vẫn cảm thấy thật cô đơn, cô đơn như những kẻ sống sót cuối cùng trên một hành tinh đang tàn lụi.
   Tôi nhớ anh Sáu, anh Sáu là xếp lớn, là đại bàng của chúng tôi, anh Sáu đứng trên capot xe Jeep chỉ huy, anh nói thật bình thản, thật gãy gọn như anh vẫn thường nói với chúng tôi từ bao nhiêu lâu nay. Anh bảo, ‘ Vận nước có lúc thịnh, có lúc suy. Nhưng ngay bây giờ đây là vận mạt của tổ quốc. Cũng đành vậy thôi !’                Cũng đành! Nghe như một tiếng thét tuyệt vọng. Anh Sáu bảo ‘ Chúng ta hãy uống với nhau một lần sau cùng rồi chia tay’. Rượu chỉ còn hai chai Martell. Anh bảo,‘ Hãy bắt chước người xưa, rượu hòa với nước, trên dưới cùng uống’. Rượu được hòa với nước, mỗi người múc môt ca mà uống, như uống chính nỗi điên cuồng trong lòng mình. Rượu nhạt thếch, nhưng rượu thật đắng cay. Thiếu úy Hạnh uống ca rượu, rồi ngẩng mặt nhìn trời khóc nức nở,‘Tại sao?’. Chính tôi cũng tự hỏi tại sao ? Và tôi, cùng đồng đội, cùng bật khóc như Thiếu Úy Hạnh.
Rồi mọi người chia tay sau những cái vung tay chào giã biệt. Tôi tình nguyện lái xe đưa anh Sáu đi ‘ thăm Sàigòn của chúng ta một lần cuối cùng’, vì tôi chẳng còn nơi đâu để về… và trời đất xô đẩy làm sao, hai thầy trò ghé vào một tiệm hủ tiếu ở Cầu Ông Lãnh. Một ông chủ ghe đã mời hai thầy trò chúng tôi lên một chiếc ghe bầu chở đầy dưa hấu. Ghe chạy ra Vũng Tàu, rồi ra khơi nơi có hạm đội Mỹ. Khi chia tay, người chủ ghe bảo ‘ Con trai tôi cũng là lính nhảy dù!’. Tôi không bao giờ uống rượu nữa, vì tôi không bao giờ quên được bữa rượu ngày hôm đó…
   Tâm Như cảm thấy mình cũng muốn tâm sự với Phong:
   - Tôi cũng có một kỷ niệm về những người lính mũ đỏ. Tôi nhớ một buổi chiều mùa xuân buồn thảm của một ngày Sàigòn đang chờ tan rã. Mẹ con tôi vẫy được chiếc taxi để đi tìm bố tôi. Xe bị chặn ở gần phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi nhớ người lính mũ đỏ nhìn qua cửa kính xe. Anh có vết sẹo phía trên lông mày bên phải.

LAN ĐÀM
3/2001

Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #131 - 02. Mar 2011 , 11:40
 
LẤY MỸ



Tác giả: Lệ Hoa Wilson


Tác giả là một Phật tử,  pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, sinh  năm 1940 tại Cần Thơ. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là “Có Tội Hay Không Có Tội”, tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Ky.ø “Hai đứa gặp nhau  khi ông xã làm việc tại bệnh viện Hải Quân Hoa Kỳ, núi Non Nước Đà Nẵng. Cưới nhau: 1972, hiện có 5 con. Tới Mỹ năm 1975. Từ 1985, hai vợ chồng mở v/p Di Trú và Thuế Vụ tại Long Beach.” Sau đây là bài viết của bà.

***

Bất cứ người con gái nào lớn lên, đến tuổi trưởng thành cũng đều mơ ước một ngày bước lên xe hoa để làm vợ.
Có những người đầy đủ phước đức, sanh ra, lớn lên, lấy chồng, làm vợ, làm mẹ, làm bà, sống trong danh dự, chết trong thương yêu. Có những người thiếu kém nghiệp lành, sanh ra, lớn lên, lấy chồng, làm vợ, làm mẹ, làm bà, sống trong đau khổ, chết trong cô đơn.
Dù kém nghiệp lành hay đầy đủ phước đức thì những người đàn bà nầy đã hạnh phúc với  hay khổ đau do một ông chồng ViệtNam nên được xã hội ViệtNam trân trọng tặng cho cái danh dự “bà vợ”.
Tôi đã lấy chồng, làm vợ, làm mẹ, làm bà nhưng tôi đã hạnh phúc hay đau khổ với một ông chồng người Mỹ nên được xã hội Việt Nam khinh khi ban cho danh từ “Me Mỹ”!
Ở cùng một hoàn cảnh, ăn mặc cùng một kiểu, nói bá láp cùng một câu, phạm cùng một lầm lỗi nhưng “bà vợ” thì được cảm thông và tha thứ vì bà tuy nói ác mà tốt bụng, tuy ăn mặc hở hang mà tánh rất đàng hoàng, tuy có ra ngoài vòng lễ giáo một chút nhưng hoàn cảnh thật đáng thương v.v.., còn “me Mỹ” thì sẽ nhận đựợc một bản án nặng nề, không hồi tố, không biện minh, không chống đỡ.
Một người khách đến văn phòng tôi làm giấy tờ bảo lãnh thân nhân. Trong khi tôi điền đơn ông vui miệng hỏi chớ cô ở Mỹ bao lâu rồi mà giỏi vậy và có  đứa con nào chưa?  Tôi trả lời cháu ở Mỹ đã 19 năm (thời điểm 1994) và có được năm con. Chồng cháu người Mỹ. Ông khách nhìn tôi kinh ngạc và hạ một câu: “ Cô Lấy Mỹ mà cũng đẻ dữ vậy hả!”. Âm thanh khinh bạc trong câu Lấy Mỹ của người khách đáng tuổi cha chú làm tôi hơi khựng lại và trong một phút vô minh  trong óc tôi cố nghỉ ra một câu gì tương xứng với hoàn cảnh của ông để nói lại cho trái tim mình đở rướm máu, nhưng đức Phật Quan Âm đã mau hơn  cái phút vô minh đó nên tôi chỉ từ tốn trả lời: “Dạ  vợ chồng cháu định có bảy đứa nhưng ở đây nuôi con cực quá nên dừng lại ở năm đứa.”. Chắc ông khách cảm nhận được sự lỡ lời của mình và thái độ từ hoà của tôi nên có vẻ bẽn lẽn. Ngày hôm đó tôi được mặc cái áo Lấy Mỹ mà đẻ nhiều con !.
Lại có một cô đáng tuổi em út nhờ tôi kêu điện thoại lên tòa án dàn xếp một vụ hiểu lầm rắc rối do cô gây ra. Mọi việc ổn thỏa rồi cô cám ơn tôi và nhận xét: “ chị lấy Mỹ mà cũng biết làm nghề nầy nữa há.”. Có nghiã là nghề văn phòng phải do mấy bà vợ đảm nhận mới phải. Mấy bà nầy ngày xưa bên ViêtNam là người có học, nay tiếp tục văn phòng là lý đương nhiên. Còn chị lấy Mỹ sao lại ngồi đây ?, sao dám chen chân trong vòng danh lợi nầy ? Sao lại ăn nói nhẹ nhàng giúp đở đồng hương ? Đáng lẻ chị phải tiếp  tục bán bar, bồi phòng hay cái gì hạ tiện một chút, ăn nói có một chút chữi thề, thái độ có một chút sắc sảo thì mới hợp lý chớ . Tôi  nhìn người  đồng hương hiền lành ít học  và nhẹ nhàng nói :” Nghề nào cũng vậy thôi em à. Nghề nào làm ra tiền để nuôi con thì bà mẹ nào cũng làm hết, bất kể sang hèn.”. Ngày hôm đó tôi được mặc chiếc áo Lấy Mỹ mà biết làm nghề văn phòng !.
Một hôm có một ông lạ hoắc ở tận Canada, do một người mách bảo, tới văn phòng tôi để xin băng giảng kinh Phật. Lúc đó chưa có CD, băng kinh còn rất hiếm. Sau khi chuyện vãn tôi tặng ông băng của thầy Thanh Từ, thầy Nhất Hạnh, thầy Thiện Huệ, sư cô Như Thủy v..v.., ông vui mừng cám ơn rối rít:          
“Không ngờ cô lấy Mỹ mà cũng biết tu hành dữ vậy!”. Tôi mĩm cười chọc ông: “ Vậy là ông nói tôi đi sai đường phải không? Đáng lẻ tôi đi theo quỷ Sa Tăng mới đúng. Đáng lẽ tôi phải vào trà đình, tửu quán, tay cầm ly rượu, tay cầm điếu thuốâc thì mới đúng điệu me Mỹ chớ me Mỹ gì mà sờ mó kinh sách, thật là ốt dột ông há”.  Ông khách biết mình nói quá lố vội xin lỗi, tôi lại mỉm cười. Vậy là tôi lại được mặc thêm một chiếc áo Lấy Mỹ mà cũng biết tu hành!.
Bạn tôi, sau khi cằn nhằn, phê phán, chê trách con dâu và bà xuôi gia đủ điều liền hạ một câu kết luận: “ thằng con tôi là thằng chúa ngục. Không biết sao mà nó mê con quỉ nầy dữ vậy? Má nó là cái thứ lấy Mỹ thì làm sao biết dạy con?!” Thêm một chiếc áo nữa Lấy Mỹ không biết dạy con!
Tôi thường hay thắc mắc tự hỏi không biết mình làm vợ Mỹ thì có khác biệt gì với mấy người làm vợ ViệtNam ? và người chồng Mỹ của mình có khác biệt gì với người chồng ViệtNam?
Khi vui tôi cười, khi buồn tôi khóc. Khi nấu ăn bị đứt tay, máu cũng đỏ thắm. Khi nhìn đồng bào lầm than trong đói nghèo, lụt lội thì ruột tôi cũng mềm. Khi chồng thất nghiệp hay gặp cảnh gian nan  thì tôi cũng đở nâng, an ủi. Khi chồng vụng dại, lỡ lầm thì tôi cũng gây gổ, giận hờn.
Khi chồng tôi cầm bảng học bạ đầy chữ A của các con thì mặt mày cũng tươi vui hớn hở. Khi bị trường kêu lên mắng vốn thì cũng buồn bã lo âu. Khi con nhỏ ốm đau thì cũng thức trắng đêm lo thang thuốc. Khi con nên vợ nên chồng thì cũng hãnh diện, mừng vui. Buổi sáng hôn nhau từ giã hăng hái đi làm nuôi con. Buổi tối hôn nhau cám ơn một ngày bình an, hạnh phúc.
Chúng tôi cũng có những luật lệ riêng của gia đình. Khi các con còn nhỏ ngồi ăn cơm chung với cha mẹ, ăn xong trước rồi muốn ra khỏi bàn ăn  phải xin phép. Khi cha nói NO rồi thì không được nhõng nhẻo qua hỏi mẹ. Khi cha mẹ đang coi TV thì không được tự động đổi đài khác.
Chồng tôi người Mỹ mà lại tin vào chánh sách ‘thương con cho roi cho vọt’ của VN, nhưng ảnh không đánh con trong sự giận dữ. Ảnh bắt chúng nằm sấp xuống ghế, nói cho chúng biết chúng đã phạm lỗi gì và hình phạt ra sao  (một roi chổi lông gà hay không có TV một tuần hay 8 giờ tối phải vô phòng không được  hội họp với gia đình v..v..). Tôi không bao giờ xen vào binh vực cải cọ lúc ảnh răn dạy các con dù đôi khi cây roi hạ xuống một tiếng chát, thằng nhỏ rú lên, lòng mẹ nghẹn ngào. Sau mỗi hình phạt, tôi dẫn các con đi rửa mặt, cho chúng ly cà rem, cái bánh ngọt rồi dẫn chúng vào phòng xin lỗi cha.
Các con ơi, dù cha không phải lúc nào cũng đúng khi răn dạy các con, nhưng hãy nhìn mỗi buổi sáng, dù nắng dù mưa, dù mạnh giỏi dù khó chịu, cha chúng con vẫn ra xe đi làm. Cái lap top, cái  cell phone, cái phòng ngủ, cuốn sách, áo quần, sách vở,máy sưởi, nước nóng, sự hiểu biết, sự tiện nghi, sự trưởng thành…trăm ngàn thứ  trong cuộc đời con đang hưởng thụ đều đổ lên hai vai của người cha đó thì đôi khi một vài hiểu lầm có đáng là bao. Vợ chồng tôi không hoàn toàn nhưng đã cố gắng dạy con the best we know.


Tôi được người đời tặng cho nhiều chiếc áo khác nhau nhưng ít có chiếc nào nhuộm lòng Từ Bi  và Hiểu Biết.  Tôi lẳng lặng nhận những chiếc áo khắc nghiệt đó, không oán trách cũng chẳng hạ mình.  Tôi không có gì phải cúi mặt khi nói cho người đối diện biết chồng tôi người Mỹ. Trái lại những lời khinh bạc, những dè bỉu trước mặt hay sau lưng đó đã giúp tôi tăng thêm phần nhẫn nhịn, thứ tha và thông cảm hơn đối với những chúng sanh bạc phước khác. Và tôi tin rằng vì thế tôi hoá giải được một phần những oan khiên, nghiệp chướng của kiếp nầy cũng như của những kiếp trước. Quả nhiên phiền não là bồ đề và cuộc đời thì không có gì là tuyệt đối hết. Cũng có người thương tôi. Tôi xin gởi lời cám ơn với tất cả trái tim chân thành đến các đồng hương tại Long Beach đã từng dùng qua các dịch vụ của văn phòng tôi và đã thương mến tôi như một con người, đã đối xử với tôi như một “bà vợ”.

*
Tôi đóng cửa văn phòng lái xe thẳng ra nghĩa trang thăm mộ con. Chúng tôi mất một đứa con trai trong một tai nạn xe hơi lúc cháu vừa 16 tuổi. Từ xa tôi thấy một người ngồi bên cạnh mộ, hai đầu gối cong lên, hai tay ôm lấy đầu gục xuống chân. Tôi lại gần. Té ra là Ron, chồng tôi. Tôi quì xuống trước mặt anh, hai tay nâng đầu anh lên, để trán tôi cụng vào trán anh. Anh nhìn tôi thì thầm : “ Honey, help me, please help me. I can not go through our son’s loss without your love and your support.” ( em ơi, giúp anh, em hãy giúp anh. Anh không thể nào vượt qua cơn đau khổ mất con  nầy mà không có  tình yêu và sự chia xẻ của em  ). Tôi ngồi xuống bên anh, bên cạnh mộ đứa con yêu dấu. Tôi để đầu anh dựa vào má tôi và dịu dàng nói : “ Em yêu anh. Chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua nổi đau khổ nầy !”
Một giọt nước mắt của anh thấm vào miệng tôi.


Giọt nước mắt của người chồng Mỹ với người vợ Việt, của người cha Mỹ khóc thương cho đứa con trai vắn số cũng mặn như giọt nuớc mắt của bất cứ người chồng người cha nào khác.
Có khác gì đâu. Vô thường!


Lệ Hoa Wilson
Back to top
« Last Edit: 02. Mar 2011 , 11:41 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #132 - 07. Mar 2011 , 22:31
 


TÌNH NHƯ LÁ  THU


Truyện ngắn của Nguyễn Thị Bích Nga (Wesminter)


Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi. Nhưng với mái tóc nhuộm đen nhánh, với hàng lông mày được xâm theo hình lá liễu cong cong, với cặp môi tô son đỏ – màu của sự gợi cảm, người đối diện nghĩ rằng bà chừng bảy mươi lăm là cùng.

Vốn là nhà thời trang nổi tiếng của thành phố Sài Gòn trước đây, bà cố gắng ăn uống điều độ và tập thể dục hàng tuần để thân hình không phì nhiêu cũng không nhão nhét. Trời cũng không phụ lòng mong đợi của bà. Càng nhìn bà, người ta càng kinh ngạc, cứ tưởng thời gian đã quên đi, không hề nhớ tới sự hiện hữu của bà trên cuộc đời này.

Cách đây tám năm, chồng bà mất. Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba đúng là một bi kịch. Ban ngày bà loay hoay đi ra đi vào một mình, ban đêm bà trằn trọc không ngủ vì nhớ tiếng ho nhè nhẹ của ông, nhớ tiếng dép lẹp xẹp trên sàn gỗ, nhớ tiếng nước chảy vào ly thủy tinh mỗi khi ông rót trà... Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba, bà không khóc lóc như những phụ nữ trẻ tuổi, bà chỉ bàng hoàng trong im lặng, đôi mắt bà ráo hoảnh nhưng đôi môi bà cứ run run như muốn gọi tên ông.

Rồi những ngày tháng lạnh lùng kinh khủng đó đóng chặt lại và trở thành quá khứ sau khi bà gặp ông Luân trong một cuộc tiệc cưới cháu ngoại của người bạn. Hôm đó bà ngồi bên cạnh một người đàn ông có mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ, có giọng nói chậm rãi nhưng ấm áp, có sự quan tâm chăm sóc đặc biệt tới bà khiến bà cảm thấy lạ lùng trước điều đó. Ông Luân chỉ phục vụ một mình bà, thỉnh thoảng ông gắp thức ăn để vào trong chén của bà, ông hỏi bà ngon miệng không, ông lựa những phần gỏi bắp cải không có ớt vì sợ bà cay, thậm chí ông thận trọng lột vỏ từng con tôm xú luộc rồi đưa bà ăn. Bà cảm kích nên hỏi tên ông, hỏi tuổi ông. Ông không giấu diếm, ông nói ông đã bảy mươi bảy tuổi rồi.
Bà nhìn ông cười, ánh mắt lẳng lơ:

-Bảy mươi bảy tuổi còn yêu được không nhỉ?
Ông Luân cũng nheo nheo mắt nhìn bà, cười đáp lại:
-Sao lại hỏi vậy? Cứ yêu thử đi rồi biết.

Tối hôm đó bà đi lòng vòng trong cư xá nửa tiếng đồng hồ để suy nghĩ thật chín chắn rồi quyết định gọi điện thoại cho ông. Chuông vừa reng lên một tiếng ngắn là ông mở máy trả lời liền, cứ như suốt cả buổi tối ông chỉ làm mỗi một việc là ngồi rình cái điện thoại, đợi nó reng lên là bấm nút “A-lô” ngay. Ông hỏi bà đang làm gì, bà nói bà đang đi bộ trong cư xá. Ông nói ông sẽ đến để cùng đi bộ với bà. Bà không tin lắm, nhưng chỉ cười cười. Vậy mà ông đến thật. Ông đưa cho bà một ly giấy to tướng đựng đầy bắp rang, bà chìa tay cầm lấy và trong một thoáng bà cứ ngỡ vẫn còn đang ở tuổi mười tám đôi mươi. Bà hít một hơi dài rồi ngước lên nhìn ông bằng đôi mắt có hàng trăm vì sao trời đang lấp lánh trong đó.
-Em thấy bắp rang ở đây không thơm như bắp rang ở Sài Gòn.

-Ừ, bắp rang trên con đường Hai Bà Trưng thơm mùi bơ. Anh nhớ mỗi lần đi ngang xe bắp rang bơ là phải dừng lại, mua một gói, rồi vừa đi vừa ăn vì không thể nhịn thèm nổi.
Bà cười khẽ. Giọng cười của bà dù có khàn đi nhưng nghe cũng còn quyến rũ lắm.

-Có những món ăn ngày xưa em thích mê tơi, thí dụ món ốc leng xào dừa, ngày nào em cũng phải ăn một dĩa đầy mới đã, còn bây giờ mới nhìn thấy là ngao ngán liền. Em không hiểu tại sao nữa.

-Vì bây giờ mình trưởng thành hơn, mình hưởng thụ cũng nhiều hơn nên cơ thể cảm thấy không cần thêm nữa. Chỉ mới vài năm trước anh còn khoái ngồi uống bia với bạn bè, tối nào cũng phải một chai ướp lạnh mới ăn cơm được, nhưng từ sau lần anh bị ói ra mật xanh phải vào bệnh viện, nghe nhắc tới bia hay nhìn thấy chai bia là anh xanh mặt liền.

Không khí ban đêm lành lạnh nên bà đi sát vào người ông, nép vai bà bên vai ông, nhưng bà vẫn cố ý đút hai bàn tay vào trong túi áo khoác để có một lần vải ngăn cách giữa hai người. Ông Luân nhận ra điều đó. Ông tìm ngón út của bà và giữ chặt nó một lát trong tay ông. Xuyên qua lớp vải dày của chiếc áo khoác, bà vẫn cảm nhận được sự rung động nhẹ nhàng của người đàn ông có độ tuổi đã chấm tới con số bảy mươi bảy. Bà im lặng, không rụt ngón tay lại, để mặc cho trái tim đột nhiên thay đổi nhịp đập rộn ràng như pháo nổ ngày Tết. Bà cần tình yêu như như đũa có cặp, bà cần một người đàn ông bên cạnh bà như dép có đôi. Bà sẵn sàng thú nhận bên tai ông điều đó mà không cảm thấy xấu hổ.

Ông Luân có tiền hưu, có tiền con cái chu cấp, có tiền tiết kiệm trong ngân hàng nên cứ đến cuối tuần là ông dẫn bà đi ra khỏi thành phố, tận hưởng một không gian vắng lặng chỉ có hai người. Những nụ hôn hiếm hoi ông dành cho bà thật nồng nàn trên trán, trên má, nơi khóe môi. Bà cũng đáp lại cuồng nhiệt, bà ôm ghì lấy đầu ông, vừa hôn vào mép tai ông vừa vò vò mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ. Ông Luân thích thú trước tình cảm của bà, bấu bấu những ngón tay có móng hình vuông được cắt ngắn vào vai bà. Họ ngồi trên băng ghế đá âu yếm nhau mười lăm, hai mươi phút giữa khung cảnh thiên nhiên lãng mạn, tĩnh mịch và đồng lõa. Tình yêu mà họ dành cho nhau chỉ có vậy thôi, có muốn hơn nữa thì cũng không được bởi vì ở tuổi bảy mươi bảy, khả năng tình dục của ông đã hết rồi – đã chết rồi!

Hai người thuê một ngôi nhà gỗ ở bìa rừng để họ có thể lái xe đến đó bất cứ lúc nào họ muốn. Chiều cuối tuần, ông Luân ngồi bên bờ suối câu cá, bà ngồi bên cạnh nép vào ông, theo dõi từng con cá vô tư lượn lờ qua qua lại lại nhưng chẳng con cá nào tỏ vẻ thích miếng mồi trùn sống đang ngo ngoe của ông. Thỉnh thoảng bà cười tủm tỉm khi thấy ông sốt ruột thở dài vì cá không cắn câu. Bà đặt bàn tay phải của bà lên đùi ông như khích lệ, thấy vậy ông cũng đặt bàn tay trái của ông lên bàn tay bà và giữ thật lâu. Đột nhiên bà nhổm người lên chỉ xuống dòng suối, khuôn mặt bà hớn hở với giọng nói vang vang như xé toạt sự yên tĩnh của thiên nhiên:

-Kìa, cá dính câu rồi kìa anh! Giựt lên đi! Giựt lên đi!

Ông Luân dùng cả hai tay giựt chiếc cần lên cao, miệng nở nụ cười thật rộng khi nhìn thấy một con cá đang vùng vẫy dữ dội nơi đầu sợi dây. Bà mở nắp máy chụp hình ra và chụp ông vài tấm hình cùng với “chiến lợi phẩm”. Sau đó ông vụng về loay hoay gỡ con cá tội nghiệp ra khỏi chiếc lưỡi câu và nhẹ nhàng thả nó xuống nước. Con cá sung sướng quẫy mạnh cái đuôi, lướt sang chỗ khác sau khi bị một phen hoảng hốt.

Hai ông bà sống hạnh phúc với nhau được ba năm thì ông Luân tỏ ý muốn đi du lịch sang Canada để thăm con cháu. Bà vui vẻ để ông ra đi. Nhưng sau đó con cháu ông viện cớ ông đã tám mươi tuổi rồi, sức khỏe yếu kém lại bị thấp khớp nên họ không cho ông quay trở về với bà nữa. Khi nghe ông thông báo tin tức đó qua điện thoại, bà chưng hửng – nhưng đành thở dài cam chịu. Một lần nữa bà chấp nhận cảnh cô đơn, nhưng lần này sống cô đơn ở độ tuổi bảy mươi sáu, ở độ tuổi bà nhận ra mình đang già đi thật nhanh, là điều bà không thể quen thuộc nổi. Tạo hóa đã sinh ra muôn vật sống phải có đôi, có cặp, bà không thể sống trái với quy luật sinh tồn của Tạo hóa. Bà cần một người đàn ông, cho dù người đàn ông đó đang lọm thọm chống gậy ở tuổi tám mươi thì ông cũng vẫn là một người đàn ông!
Trong một buổi tiệc cưới của đứa cháu ngoại của một người bạn khác, bà tình cờ ngồi bên cạnh ông Nguyện và một lần nữa duyên số lại kết hợp hai ông bà với nhau. Tuổi tám mươi nhưng ông Nguyện còn khỏe mạnh, còn lái xe được và đi đứng thẳng thớm chứ chưa đến nổi phải vịn tường lết đi từng bước. Ông Nguyện sống một thân một mình, đám con lớn có vợ có chồng ra riêng hết chẳng thèm ngó ngàng tới cha gì, thỉnh thoảng cuối tuần bọn họ ghé vào thăm ông, hỏi han mấy câu: “Ba có mạnh giỏi không?”, “Ba có cần ăn uống gì không?”, rồi lên xe dông đi mất.

Thấy tội nghiệp ông, bà mở lời đề nghị:
-Anh dọn qua ở với em luôn đi.
Ông nhìn bà, ngỡ ngàng rồi lắc đầu:
-Cảm ơn em, nhưng anh không muốn làm phiền em đâu.
thanks.gifhiền gì mà phiền? Coi như anh với em góp gạo nấu cơm chung. Anh nấu cơm thì em rửa chén. Em quét nhà thì anh lau nhà.
Ông bóp bóp bàn tay bà, giọng nói tràn ngập cảm xúc:
-Cảm ơn em. Để anh thu xếp rồi anh sẽ trả lời em sau.

Nhưng rồi ông Nguyện giải quyết theo cách khác, ban ngày ông ở nhà bà, ban đêm ông về nhà ông, họ sẽ sống với nhau không hẳn như hai người tình mà là như hai người bạn, dù sao “tương kính như tân” vẫn hơn “thân quá hóa lờn”. Bà lắc đầu chịu thua, đành phải làm theo quyết định của ông. Nhưng rồi bà lại thấy ý kiến đó hay ho và thú vị. Buổi sáng ông lái xe đến, nhẹ tay mở cửa và bước vào trong nhà cùng với một món ăn điểm tâm cho hai người. Tính bà thích trang điểm kỹ lưỡng cho nên sau khi son phấn lượt là xong bà mới bước ra khỏi phòng ngủ để đón ông. Bà quàng tay ôm cổ ông và đi vào bếp pha cho ông một tách cà phê nóng, pha cho bà một tách sữa ca cao. Nơi bàn ăn, chỗ ngồi của ông phải là chiếc ghế đối diện với bà, ông không bao giờ muốn ngồi ở chỗ khác cho dù đó là chiếc ghế đặt bên cạnh bà.

-Tại sao kỳ cục vậy anh?

-Kỳ cục gì đâu? Tại vì anh thích vừa ăn vừa ngắm em vừa nghe em nói. Nhan sắc của em vẫn còn mượt mà và trẻ đẹp trong mắt anh. Giọng nói của em vẫn còn ngọt ngào và êm ái trong tai anh.

Bà biết ông nói thật. Người đàn ông ở lứa tuổi nào cũng có thể nói dối hoặc nói cho qua chuyện, nhưng khi đã bước qua tuổi bảy mươi, họ chỉ thích nói thật. Bởi vì nếu hôm nay họ không nói thật lòng, biết đâu ngày mai họ chẳng còn cơ hội để làm điều đó nữa.

Bà và ông Nguyện ngồi đối diện nhau, vừa nhâm nhi ăn sáng vừa rủ rỉ nói chuyện. Chuyện tuyết rơi ở New York . Chuyện hoa mộc lan nở tím trên cành. Chuyện mấy con quạ kêu ầm ĩ mỗi khi kéo nhau bay ngang qua mái nhà. Chuyện ông Bill đi lượm chai trong bồn rác để mang đi bán kiếm vài đồng. Họ ăn xong bữa sáng rồi mà câu chuyện vẫn chưa dứt.

Buổi trưa nếu bà làm biếng nấu nướng thì ông đi bộ tới tiệm cơm ở bên kia đường để mua hai hộp cơm mang về. Sau đó ông cầm bịch rác to tướng mang ra khỏi nhà, lững thững đi tới bồn rác ở cách nhà khoảng bốn trăm thước, vừa đi vừa hít thở cho tiêu cơm.

Buổi chiều hai ông bà rủ nhau đi lòng vòng quanh cư xá để tập thể dục. Họ bước chầm chậm trong ánh nắng chiều vàng vọt, trong sự im lặng và tĩnh mịch của buổi hoàng hôn.

-Anh có thấy lạnh không anh?
-Không, em. Anh mặc đủ ấm rồi em.
-Một lát nữa mình ăn tối với cái gì nong nóng nghen anh.
-Nếu em thích ăn mì vịt tiềm thì anh đi mua cho.
-Mì vịt tiềm của tiệm Lục Đỉnh Ký ăn được lắm đó anh.
-Ừ. Lát nữa anh đi mua về cho em.

Ông Nguyện chìu chuộng bà như thuở vẫn còn đôi mươi, còn bà thì mềm mỏng và dịu dàng như cô thiếu nữ mười tám. Họ nói chuyện thủng thẳng với nhau, không cáu kỉnh cũng chẳng giận hờn, cứ hết lòng “tương kính như tân” với nhau. Khi bà mệt thì ông đứng sau lưng bà, bóp vai, bóp lưng. Khi ông mệt thì bà đỡ ông nằm xấp xuống, xoa dầu, cạo gió cho ông. Bà nương vào ông, ông tựa vào bà, họ cần có nhau như đũa phải có cặp, dép phải có đôi, không cần biết ngày mai ngày mốt ai sẽ là người ra đi trước, ai là người khóc ai trước, ai sẽ là người tiễn đưa ai trước.

Sau bữa ăn, bà đứng trong khung cửa sổ nhìn theo ông tay cầm bịch rác to tướng, đi chầm chậm tới bồn rác. Mái tóc ông bạc trắng như cước làm trái tim bà gợn lên chút xót thương. Sống với nhau hơn gần hai ngàn ngày (chỉ là ngày thôi, không hề có đêm) bà nhận được biết bao sự chăm sóc tự nguyện mà ông dành cho bà. Bữa điểm tâm sáng nóng hổi. Bữa cơm trưa nhẹ nhàng với dĩa trái cây ngọt ngọt, chua chua. Bữa ăn tối nóng sốt dưới ngọn đèn chùm màu vàng cùng với một ly rượu chát nhỏ chia đôi. Những hình ảnh ấm cúng giữa ông với bà như cuộn phim quay chậm cứ hiện về rõ mồn một trong trí óc khiến có lúc bà mỉm cười một mình khi vân vê tấm rèm vải trong tay, chờ đón ông đẩy cửa bước vào trong nhà.

Tình yêu của người già mong manh như chiếc lá úa vàng trong mùa thu. Lúc đó những chiếc lá khô quắt queo lại chỉ dính một chút xíu vào cành cây chực chờ một cơn gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng lả tả. Bà hiểu điều đó nên rất trân quý tình yêu, tình bạn của ông Nguyện dành cho bà. Đi đâu (đi shopping, đi mua sắm) bà cũng năn nỉ ông đi theo, để bà được nắm tay ông, để bà có thể làm bộ hỏi ý kiến ông về món đồ muốn mua, để bà được hưởng cảm giác bà vẫn là một nhân vật quan trọng, quan trọng nhất trong đôi mắt ông.
Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi. Còn ông Nguyện thì được tám mươi lăm. Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…



NGUYỄN THỊ BÍCH NGA
( Westminster )


---


Back to top
« Last Edit: 07. Mar 2011 , 22:32 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Pham_Kieu_Lieu
Full Member
***
Offline


My heart belongs to Mommy

Posts: 227
Re: Truyện ngắn
Reply #133 - 14. Apr 2011 , 05:36
 



Chuông gió màu tím


Đoàn Thị Hồng Thủy

  “Em sẽ chờ, cho đến ngày anh nói yêu em!”


Anh biết không Sơn, tình yêu đích thực ấy, cũng như âm thanh của chuông gió, mỏng mảnh đẹp đẽ và cũng thật khó nắm bắt. Nhưng nó chẳng bao giờ mất đi cả, chỉ cần có gió thì chuông gió sẽ lại kêu.

...


Ký ức

Mấy đứa bạn thân vẫn bảo Nga là mẫu con gái chỉ tồn tại trong tiểu thuyết, truyện tranh và phim ảnh. Nghĩa là nhạy cảm quá, lãng mạn quá, chung tình quá! Nga chỉ cười. Nga cũng có muốn thế đâu, nhưng biết làm sao được, tại vì đó là Nga và… cũng tại vì đó là Sơn.

Nga gặp Sơn trong kỳ thi học sinh giỏi năm lớp 4. Nói ra thì chẳng ai tin nhưng ngay từ ánh mắt đầu tiên Nga đã đổ Sơn, đổ đứ đừ đừ. Chuyện say nắng trẻ con tưởng thế là xong nhưng chắc là duyên phận nó không buông tha Nga (!) nên giữa học kỳ II, Sơn chuyển đến. Trường của Nga, lớp của Nga.

Sơn đẹp trai, học giỏi. Nhưng tính tình đáng ghét không chịu được. Thế mà Nga vẫn thích Sơn, thích đến phi lý, thích đến không chịu nổi (!). Thích đến mức Nga đâm ra cáu cả với bản thân, cáu vì không dám nói, cáu vì sao Sơn lạnh lùng thế, sao chẳng bao giờ biểu lộ chút ít rằng Sơn cũng thích Nga!

Lên cấp II, vẫn chung lớp và Nga vẫn thích Sơn. Nhưng Sơn không còn lạnh lùng nữa, Sơn quay sang… thích một cô bạn khác. Nga xé tan cuốn nhật ký đầy những dòng chữ về Sơn, quệt nước mắt và tự nhủ rằng lần này sẽ ghét Sơn thật, ghét mãi mãi.

Sang cấp III, hai đứa chung truờng nhưng khác lớp. Hình như Nga đã quên Sơn thật rồi, chỉ thỉnh thoảng vẫn lắng tai nghe khi biết Sơn có bạn gái, chỉ thỉnh thoảng vẫn cười khi gặp Sơn trên đường. Trái tim con gái mới lớn mềm lắm, thích lưu giữ kỷ niệm như món đồ yêu thích để lâu lâu lôi ra ngắm nghía và mỉm cười.

Nga đỗ ĐH. Ngày chia tay ngôi truờng quen thuộc, Nga mua một chiếc chuông gió màu tím, treo lên khung cửa sổ ngập gió và nắng. Tiếng chuông leng keng leng keng mỏng tang, trong vắt. Nga gửi một phần ký ức vào tiếng chuông ấy để gió cuốn đi, cuốn xa, xa mãi.

Chuông rung

Ba năm trôi qua, Sơn đã gần như hoàn toàn biến mất khỏi ký ức của Nga, chỉ thi thoảng, rất thi thoảng thôi mới lại xuất hiện trong giấc mơ nhạt nhoà của thiếu nữ như vệt nắng bướng bỉnh cuối chiều dùng dằng chưa tắt hẳn. Giờ đây Nga có thể vừa đi bộ vừa thản nhiên bàn tán trêu đùa với hai con bạn thân về cái ngày xưa cũ kỹ và ngốc nghếch ấy. Vậy mà…Sơn không để cho Nga yên. Giữa lúc câu chuyện đang sôi nổi, Sơn dừng xe, xen vào giữa ba cô gái:

- Chào, lâu lắm không gặp!

Chỉ thế thôi mà tim Nga chòng chành. Khi hai con bạn rất tự nhiên thoải mái hỏi Sơn đủ thứ chuyện thì Nga hầu như im lặng. Sơn khác quá. Trước mặt Nga là một chàng thanh niên đã hoàn toàn trưởng thành, ánh mắt rắn rỏi, bờ vai vững chắc. Nga cảm thấy nước mắt chực trào ra đến nơi. Sơn vẫn cười, còn hỏi Nga có người yêu chưa. Nga lắc đầu. Nga cố cười một cái mà không nổi. Đã 3 năm rồi, 3 năm Nga không gặp Sơn dù hai đứa học ĐH chung thành phố. Hốt nhiên con bạn đáng ghét (hay đáng yêu) chỉ về phía Nga, giọng nửa đùa nửa thật:

- Ông có rảnh thì đưa nó đi chơi với! Nó dở hơi lắm, ở giữa thủ đô mà chẳng chịu hưởng thụ gì cả, suốt ngày chỉ sách với vở.

Sơn gật gật, quay sang nháy mắt với Nga một cái. Nga lặng đi, bỗng nghe trong đầu hình như có tiếng leng keng. Gió cuốn đi tiếng chuông gió và rồi lại trả lại, nguyên vẹn.

Bước tới

Nga không còn là con bé con học lớp 4 nữa, cũng không còn là cô nữ sinh cấp II cấp III. Nga yêu và muốn được nói ra tình yêu ấy. Chỉ cần một lần với tất cả khắc khoải tích tụ bao năm và toàn bộ can đảm có thể gom góp. Dù cánh cửa mở ra hay khép lại thì Nga tin rằng từ nay có thể nhẹ lòng bước tiếp mà không cần phải nuối tiếc nhìn về phía sau nữa. Cánh cửa vẫn khép. Nga khóc thêm một trận rồi mỉm cười, tháo chiếc chuông gió khỏi ô cửa sổ. Hôn nhẹ lên ngôi sao màu tím, Nga thì thầm: “Tạm biệt!”. Chiếc chuông được đặt vào ngăn kéo cuối cùng, khoá chặt.

Xuất phát

“Sơn buồn quá! Nga có thể chia sẻ nỗi buồn với Sơn không?”

12h đêm. Màn hình điên thoại loé sáng, phả vào khuôn mặt ngái ngủ của Nga màu xanh chập chờn. Không chủ định nhưng Nga vẫn bật dậy đọc đi đọc lại tin nhắn ngắn ngủi.

Những con chữ như xô lệch nhau. Kể từ sau khoảng thời gian ấy hai đứa y như hai dòng kẻ song song, không có giao điểm. Nhưng giờ đây Sơn tìm Nga. Linh cảm con gái trong Nga rung lên. Những ngón tay lẩy bẩy, truợt khỏi bàn phím.

- Sơn đây - Sơn gọi thẳng, không đợi mail hồi đáp - Nga ngủ chưa?

- Chưa - Nga đáp, hoàn toàn tỉnh táo.

- Vậy Nga nói chuyện với Sơn một lát nhé?

- Ừ!

- Sơn gặp chút chuyện Nga ạ. Nhưng Nga đừng hỏi là chuyện gì nhé! Chỉ biết là giờ tâm trạng Sơn y như tờ giấy nhàu nhĩ, cần có người giúp vuốt thẳng lại. Ở cái nơi xa lạ này chỉ có mình Nga là người quen cũ, biết Sơn lâu nhất thôi.

Suốt phần còn lại của đêm hôm ấy Nga hầu như chỉ lắng nghe. Sơn nói toàn chuyện linh tinh, tràn từ chuyện này sang chuyện khác. Nỗi buồn như cốc cà phê đặc, khó uống đến mấy nhâm nhi mãi cũng phải cạn. Khi mặt trời hắt tia nắng đầu tiên lên bệ cửa sổ thì Nga đặt mobile xuống, đứng dậy mở ngăn kéo cuối cùng ra. Chiếc chuông gió vẫn nằm yên tĩnh, hắt lên màu tím trong suốt đến lạ lùng. Nga treo chiếc chuông lại chỗ cũ. Không có gió nhưng những ống kim loại vẫn va vào nhau kêu leng keng leng keng.

Hành khất

- “Em yêu, chào buổi sáng !”

- “Em yêu, chúc ngủ ngon !”

Rất nhiều lần Nga tự hỏi không biết mình có phải là một cô gái quá dễ dãi trong tình yêu không, bởi một cái ôm đã đủ để Nga ở bên Sơn vô điều kiện, bởi chỉ cần hai tin nhắn suốt cả ngày đã làm Nga vui sưóng đến điên lên. Nhưng không phải thế. Chẳng ai biết Nga thèm được nghe nhiều thật nhiều câu yêu thương ra sao, thèm được trò chuyện nhắn tin thật lâu cho thoả nỗi nhớ nhung thế nào. Thế mà Nga vẫn luôn phải giữ vẻ thăng bằng tuyệt vời, hài lòng với những gì nhận được. Ngay cả khi Sơn không liên lạc gì suốt vài ba ngày. Ngay cả khi những tin nhắn quan tâm không được hồi đáp. Ngay cả khi Sơn cáu kỉnh giận dữ vô cớ. Và ngay cả khi Sơn chưa bao giờ nói được với Nga một lời yêu hoàn chỉnh. Trong tình yêu ai yêu nhiều hơn sẽ là kẻ yếu thế. Nga chưa khi nào tính toán kiểu ấy, nhưng giờ đây… Không, Nga không hối hận vì đã dành tình cảm cho Sơn. Chỉ có điều Nga không muốn làm một kẻ hành khất, nghèo túng dến mức phải đi mót tình yêu và hạnh phúc từ người khác.
Sinh nhật Nga. Nga chọn chiếc váy trang nhã thậm chí còn trang điểm đôi chút và hồi hộp chờ đợi. Sáng, trưa, chiều rồi chiều tối. Niềm háo hức cạn dần theo mỗi phút lạnh lùng trôi qua. Đến khi trời tối hẳn thì Nga không chịu nổi nữa. Nga lên xe, phóng tới chỗ trọ của Sơn. Sơn về muộn. Thấy bóng Nga đứng im lặng bên cánh cửa, Sơn ngạc nhiên rồi khó chịu:

- Sao em tới mà không báo trước?

- Anh ăn tối chưa? - Nga không trả lời mà hỏi lại.

- Chưa.

- Vậy anh mở cửa đi. Em sẽ nấu bữa tối. Em mang đồ tới rồi.

Nga giơ chiếc túi nặng trĩu lên, nói. Bữa ăn diễn ra trong im lặng. Đang gắp vào bát Sơn miếng nem rán, Nga bỗng dừng lại, hỏi một câu, giọng nhẹ tênh:

- Em có làm phiền anh không?

  Sơn ngẩng lên, ngạc nhiên rồi ú ớ. Nga cười:

- Em đùa thôi!

Bữa tối kết thúc, Nga dọn dẹp gọn ghẽ rồi xách túi ra về. Bước ngang qua cửa, Nga đột ngột dừng lại, chừng như bỏ quên món đồ nào đó:

- Này anh không biết đâu, em thích anh từ hồi năm lớp 4 cơ đấy!

Nga lại cười nhưng lần này không kèm câu “em đùa thôi” đằng sau nữa. Còn Sơn sững ra như một thằng ngốc lần hai. Nga vẫy tay, bước ra sân lấy xe phóng đi. Không ai biết làn gió lạnh đêm đó đã lau khô rất nhiều nước mắt trên gò má trắng xanh. Suốt đêm ấy Nga ngồi rất lâu bên khung cửa sổ. Tiếng chuông gió yếu ớt lúc có lúc không. Mobile liên tục loé sáng báo cuộc gọi lỡ và tin nhắn. Đêm nay ít gió quá. Ừ, dù chuông tha thiết muốn ngân vang nhưng đâu phải lúc nào gió cũng thổi đúng không?

- “Anh có yêu em không?”

Ốc sên

Sau tin nhắn cuối cùng ấy Nga không gặp Sơn nữa. Như chú ốc sên cô độc Nga rúc sâu vào cái vỏ của mình, tự gặm nhấm và hàn gắn vết thương. Sơn vẫn liên tục gọi điện, gửi tin, email thậm chí thông qua bạn bè tìm cách gặp Nga. Nga biết hết, thậm chí cũng có lúc mềm lòng, định nhượng bộ nhưng rồi kịp kềm lại, tự nhắc nhở bản thân phải kiên cường hơn. Một tháng sau, Nga đọc được những dòng comment trên blog:

- “Anh xin em. Anh sắp phát điên rồi!”

Nga đọc đi đọc lại dòng chữ ngắn ngủi rồi rút điện thoại, bấm số của Sơn. Cho một cuộc hẹn.
Sơn đến rất sớm. Chiếc bàn quen thuộc vẫn trống trơn. Sơn ngơ ngác ngó quanh, cố tìm kiếm một bóng dáng thân yêu.

- Thưa anh là Sơn?

Tiếng người bồi bàn vang lên sau lưng... Sơn ngoảnh lại. Anh ta đặt vào tay Sơn một hộp giấy nhỏ, nói:

- Có người gửi cho anh thứ này.

Sơn quay lại chỗ ngồi, lặng yên ngắm chiếc hộp một lát rồi mới cẩn thận mở ra. Bên trong là một chiếc chuông gió màu tím tuyệt đẹp. Khi Sơn nhấc nó lên, những ống kim loại khẽ va vào nhau tạo thành âm thanh mảnh dẻ trong trẻo. Đáy hộp còn một tấm bưu thiếp gấp đôi.

“Sơn anh đừng giận khi em lẩn trốn không ra gặp mặt anh. Em cần có thời gian để lấy lại sự bình ổn cho bản thân. Hơn nữa, nói ra thì xấu hổ, em sợ chỉ cần thấy mặt anh là em sẽ lại nhào vào vòng tay anh mất. Bởi em còn yêu anh nhiều lắm! Nhưng nếu như thế liệu tình yêu của chúng mình có khác đi không hay lại đi vào lối mòn như cũ, cứ mãi dằn vặt và làm tổn thương lẫn nhau. Anh hãy cho em, cho anh và cho cả tình yêu của chúng mình thêm chút ít thời gian nữa nhé. Anh biết không Sơn, tình yêu đích thực ấy, cũng như âm thanh của chuông gió, mỏng mảnh đẹp đẽ và cũng thật khó nắm bắt. Nhưng nó chẳng bao giờ mất đi cả, chỉ cần có gió thì chuông gió sẽ lại kêu”.

Sơn lặng đi, cảm thấy giọng nói dịu dàng của Nga, trái tim tha thiết của Nga đang rất gần đâu đây.

Chờ

Từ hôm ấy bên khung cửa sổ của một chàng trai có treo một chiếc chuông gió. Lần này đến lượt chàng trai chờ đợi, chờ ngày có gió thổi và chuông gió lại kêu.

Back to top
 
 
IP Logged
 
Hoa Hạ
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 1628
CA, USA
Gender: female
Ngày 30 tháng 4 năm 1975..... moi doc
Reply #134 - 14. Apr 2011 , 06:33
 
Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG Cái Bóng Của  HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN
hay Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn VŨ TIẾN QUANG

(Trích trong bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)

Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”.
Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:

Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.
Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.

Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.
Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.
Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm.
- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả “.
Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…
Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi :
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
“Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:
- Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
- Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ?
Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?

Ghi chú :
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique) , tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.

Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.
Back to top
« Last Edit: 14. Apr 2011 , 06:34 by Hoa Hạ »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #135 - 15. May 2011 , 21:24
 

Truyện rất Ngắn


1.- Nồi cá bống kho tiêu
Ba mươi tuổi đầu, lận đận chiến chinh, chưa kịp lấy vợ thì trời sập. Đi tù. Mẹ thăm nuôi 6 tháng một lần. Quà chỉ có nồi cá bống kho tiêu và nước mắt thương con. Được 3 năm thấy mẹ già đi, tóc bạc phơ. Thương mẹ, hắn bảo mẹ đừng lên thăm nữa. Nhưng đến kỳ thăm lại đi ra đi vào, trông ngóng mẹ. Suốt hai năm không thấy mẹ lên thăm.

Được tha, về nhà mới hay khi mẹ về gặp mưa bị cảm nặng trong lần thăm nuôi sau cùng và đã qua đời hai năm rồi. Giỗ mẹ, hắn đi chợ mua cá bống về kho tiêu. Giỗ xong bưng chén cơm và đĩa cá bống kho tiêu cúng mẹ xuống ăn, hình như có vị mặn của nước mắt.

2.- Tình đầu
Mười tám tuổi, yêu tha thiết, tỏ tình. Nàng chu mỏ: học trò ,nhỏ xíu, bày đặt. Hai mươi hai, Thiếu úy Sư Đoàn 18, về phép đến thăm, nàng lạnh lùng. Sợ làm góa phụ lắm. Hai mươi sáu Đại úy Trưởng khối CTCT Trung Đoàn. Khó chết rồi, xin bỏ trầu cau. Nàng ậm ừ để suy nghĩ lại đã. Tháng 4/75 chạy giặc, lạc mất nhau.

Ở tù ra, gặp lại. Nàng đã có chồng, hai con. Buồn và mặc cảm, thôi cứ ở vậy không lấy ai. Ba mươi năm sau, lận đận quê người ,gặp lại. Nàng chồng chết, các con trưởng thành ra ở riêng. Mừng rơn ,mời nàng đi ăn cơm tối nhà hàng. Tỏ tình. Nàng thẳng thừng: già rồi bận bịu nhau làm gì, ở một mình cho khỏe.

3- Hai chị em
Chị quen anh Hân, trung úy phi công. Anh đến nhà chơi, thấy em gái quấn quít Hân, chị nhường. Hai người tổ chức đám cưới, chị gom hết tiền để dành tặng đôi vợ chồng mới.

Em có thai đứa con đầu lòng được 6 tháng thì Hân đi tù cải tạo. Chị thương em đang có con dại, thay em đi ra Bắc thăm nuôi Hân. Con được hai tuổi, em đi buôn hàng chuyến, lỡ có thai với người tài xế. Chị tiếp tục đi thăm, dối Hân em dẫn con đi vượt biên rồi. Thấy Hân mừng cho tương lai vợ con mình, chị xấu hỗ, tủi thân, âm thầm khóc lặng lẽ trên chuyến tàu lửa từ Hà Nội về lại Sài Gòn.

Hân về, biết sự thật. Buồn, dẫn con gái đi vượt biên. Nghe tin hai cha con chết trên biển, chị lập bàn thờ. Lấy tấm hình Hân đứng bên cạnh chiếc máy bay phản lực F5 Hân tặng chị hồi mới quen rọi lớn ra, bỏ vào khung đặt lên bàn thờ, chị khóc gọi Hân ơi…

4- Khói thuốc
Năm thứ hai ở Đại học CTCT Đà Lạt, Duy quen Trinh, học năm thứ nhất ở Đại học Chính TrịKinh Doanh. Hai đứa yêu nhau tha thiết, thề hẹn sống chết với nhau . Tốt nghiệp, Duy về Sư Đoàn 5 bộ binh, hành quân liên miên Bình Dương, Bình Long, Phước Long. Đêm hành quân giăng võng nằm trong rừng cao su Đồng Xoài, Duy mơ có dịp về phép Đà Lạt, cùng Trinh tay trong tay dạo khắp Thành Phố Sương Mù, rồi vào Cà phê Tùng gọi một gói thuốc Capstan, một tách cà phê sữa, một ly sữa đậu nành nóng, cho ấm.

Trinh ra trường về nhà ba mẹ ở Sài Gòn. Duy xin phép thường niên được 7 ngày, ghé thăm. Trinh báo tin ba mẹ gả em cho anh giám đốc Trung Á ngân hàng. Cưới xong chắc em cũng vào làm ở đó luôn cho tiện. Mẹ bảo em hãy quên ông Trung úy đó đi.

Hai tháng sau Duy bị thương về nằm Tổng Y Viện Cộng Hòa. Anh lính đơn vị cử đi theo chăm sóc chạy về báo tin hôm nay đám cưới cô Trinh, thấy nhà trai tới với nhiều xe hơi sang trọng lắm.

Duy chống nạng ra ngồi trước hiên, châm điếu thuốc. Thẩm quyền! bộ ông đang khóc đó hay sao? Không phải đâu, chỉ là khói thuốc lá cay cay làm chảy ra nước mắt…


5 - MẸ VÀ CON

Con lên ba, chơi bên nhà dì, bị xe đạp ngã, trúng đầu chảy máu. Mẹ đang nấu cơm, hốt hoảng bế con chạy ngay đến bệnh viện. Hú vía. Vết thương chỉ nhẹ bên ngoài thôi. Hoàn hồn, mẹ nhìn lại mình: chân không dép, quần ống cao ống thấp, áo loang lổ vết máu. Chả giống ai! Mẹ cười.
Con lớn, mẹ bỗng bị chứng nặng tai. Lần lữa mãi, mẹ mới nhờ con đưa đi khám bệnh. Bác sĩ bảo: Để quá lâu, hồi phục thính lực cũng khó. Nhìn mặt mẹ ngơ ngẩn. Con khóc.



6- BA VA CON


Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như hai năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân lên đưa cho tôi.
Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:
- "Có dư đồng nào không con?".
Tôi đáp:
- "Còn dư bốn ngàn ba ạ".
Ba nói tiếp:
- "Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa".
Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng.


Back to top
« Last Edit: 15. May 2011 , 21:26 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #136 - 14. Jun 2011 , 18:06
 
Nhân ngày father's day  chủ nhật 19 tháng 6 - thân tặng truyện ngắn 

BỐ  -CON 

Tác giả NGUYÊN NHUNG






Bố Và Con

* Nguyên Nhung



Nhà tôi “dương thịnh âm suy”, một ông bố với ba thằng con trai mà tôi hay gọi đùa là “bố già, bố trẻ”. Đàn ông lo việc ngoài, đàn bà lo việc trong, người lo việc ngoài ăn xong bày bừa ra cho nên việc trong dù  không ít hơn việc ngoài, nhưng vẫn mang tiếng là “ngồi chơi xơi nước”. Ngày được định cư tại Hoa Kỳ, vừa đặt chân đến phi trường Quốc Tế, người bảo trợ có mời thêm vài người quen cùng đón cho xôm tụ, một bà  nhìn gia đình mới đến  phán một câu xanh rờn: “ Nhà này kém phúc đức nên đẻ toàn con trai”. Cả nhà ngớ ra không hiểu, sau mới biết gía chi có một cô con gái xinh xinh tuổi cập kê, nhà sẽ tấp nập vài chàng trẻ tuổi đang kiếm vợ chở đi làm giấy tờ, khám sức khoẻ hay chợ búa, không vắng như “chùa Bà Đanh”.



Tôi không thích khoe khoang về ông “Bố” của nhà  đâu, vì chả lẽ lại “mèo khen mèo dài đuôi”,  những điều tầm thường trong cuộc sống gia đình chắc nhà nào cũng giống nhau. Ngày lễ Cha ai cũng nhắc đến công ơn sinh thành dưỡng dục của Bố, nhưng cha tôi mất sớm lúc tôi mới năm, sáu tuổi, nặn óc để tìm lại hình ảnh người đã tạo ra mình tôi vẫn không nhớ được bao nhiêu. Vì vậy, người gần gũi nhất trong cuộc đời tôi là bố của lũ con, nếu ví von như cái nóc nhà che mưa che nắng thì cũng không sai chút nào.



Khi hai đưá con tuổi còn thơ ấu bố đã không có nhà, đây là sự thiệt thòi của tuổi thơ mặc dù có mẹ nuôi dưỡng. Thời gian ấy mọi sự bế tắc đè nặng lên gia đình tôi, trong cũng như ngoài, tôi ôm hết cả hai. Nỗi đoạn trường này là của chung nhiều nhà chứ chẳng phải riêng nhà tôi, lưới giăng lồng lộng chẳng chim nào bay thoát nên tôi đành chấp nhận, vừa chạy chợ kiếm ăn vưà dạy con.



Con vừa lớn là bố về kịp lúc, cả nhà mừng húm dù thêm một miệng ăn. Sau một ngày vất vả, lúc về tôi thường tạt qua chợ chiều tìm mua thực phẩm  ế ẩm cuả bạn hàng trong chợ, cuối ngày bán tống bán tháo để về nhà. Bữa cơm nhà nghèo thường chẳng có cao lương mỹ vị, tôi tìm cách chia sao cho bố con cùng vui cùng no. Ít trái cây, vài cái bánh, tôi chia phần:



“Ai nhiều tuổi thì được ăn nhiều, ai ít tuổi ăn ít. Bố hai cái, mẹ và các con mỗi người một cái đồng đều.”



Thằng bé con ngồi đếm xong con toán nhỏ phụng phịu hỏi:

“Sao mẹ lớn mà cũng chỉ có một? Con cũng muốn hai như bố.”



Trẻ con chưa hiểu nổi cảnh nhịn cơm xẻ canh trong thời buổi khó khăn, người lớn chỉ biết cười mà ngậm ngùi trong dạ. Trong trại ngày hai bữa cơm tù, ăn thế nào cũng xong. Trở về với gia đình chưa vui hết niềm xum họp, lắm nhà đã vỡ tan vì cơm áo gạo tiền. Tôi nhìn quanh cuộc sống, nhiều gia đình như vậy nên biết phải tế nhị hơn để cuộc sống tuy thiếu thốn một chút, nhưng chẳng có lúc nào chữ tình chữ nghĩa quý bằng lúc này, chỉ cần gắt gỏng nói một câu thiếu suy nghĩ là hết cả cái tình mình hằng nâng niu gìn giữ.



Thằng bé chào đời sau ngày bố đi xa, mãi đến 7 tuổi mới thấy bố xuất hiện nên  cũng hay “ghen” với bố, tự nhiên trong nhà có một “ông” lạ hoắc đi ra đi vào, lại có vẻ được săn sóc, chia phần nhiều hơn thì  khó chịu lắm. Nhưng dần dần cu cậu lại thích vì từ nay đã có bố đón đưa khi đến trường hay tan học, đối mấy thằng nhóc to con  ăn hiếp thì cu cậu đã vênh mặt lên ra điều “Bố tao đấy!”. Oai thật, bài vở khó đã có bố giảng giải cặn kẽ đến khi nào hiểu mới thôi. Tuy bố chưa kiếm được việc làm để có tiền mua đồ chơi cho con, nhưng mùa trung thu Bố làm cho cái đèn lon sữa bò đục lỗ, trong để cây đèn cầy kéo leng keng trên con hẻm nhỏ, nghe cũng vui tai mà không bị cháy như đèn con gà, con thỏ. Bố về, thêm những món đồ chơi thủ công đẹp khéo tuyệt vời, máy bay, xe tăng, chim chóc xếp bằng giấy, cu cậu tha hồ chơi suốt ngày không chán.



Có bố ở nhà con học hành khá hơn, đứa lớn đã bước vào Trung Học, bỏ đi những môn vớ vẩn nhồi nhét chính trị, bóp méo lịch sử thì mấy môn chính như sinh ngữ, toán bao giờ cũng được kèm cặp đâu vào đấy. Dù sao vốn chữ nghĩa của bố không đến nỗi tệ, tôi yên tâm chạy chợ kiếm ngày hai bữa cơm, việc dạy dỗ học hành cuả con giao toàn quyền cho bố đảm trách. Thỉnh thoảng bố chở con ra bờ sông câu cá, vào công viên chơi đá banh, hôm nào có tiền mua cho con diã bò khô, cây “cà rem”, mấy bố con chơi với nhau , nhìn  bên ngoài tưởng an nhàn, thảnh thơi nhưng thực ra cuộc sống  đang tắc nghẽn trong vòng rào kẽm gai.



Khổ thay! Từ ngày Bố về từ cái nhà tù nhỏ là bước luôn vào cái nhà tù lớn, màng nhện giăng tứ phía như “thiên la địa võng” nên đi đâu cũng có người “quản ný” chặt chẽ. Bực lắm nhưng biết làm sao, ngay cả cái hộ khẩu cũng không có nên hễ đêm nào nghe tiếng chó suả, tiếng bước chân đi rầm rập trên con hẻm tối thui, thêm một hồi chuông cửa lảnh lót giữa đêm khuya là biết nhà được “hỏi thăm”.



Cửa vừa mở, bốn năm cái bóng ùa vào nhảy thoắt lên cầu thang, chỉa đèn pin sáng loè ra tứ phía, vào tận mấy cái giường còn buông mùng sùm sụp. Đang ngủ ngon bị ánh đèn pin chiả ngay vào mặt, thằng bé con ngái ngủ càu nhàu:



“Thằng nào chơi kỳ dzậy?”



Đèn tắt ngúm, các chú “công an” đi xét nhà kiểm soát người cư trú bất hợp pháp đấy chứ có  “thằng” nào đâu, nhưng trong mùng chỉ là thằng con nít đang say ngủ, lục khắp nhà cũng không kiếm ra người ở lậu không khai báo. Sống không hộ khẩu là bất hợp pháp rồi, lại đuổi, đêm nào nghe tiếng chó sủa ồn lên từ ngõ ngoài vào ngõ trong là biết những nhà nào trong xóm được hỏi thăm. Nhà bác Mười “Biệt Kích Dù” bán cá kiểng cá đá, nhà bác Ngôn cựu giám đốc huấn luyện trường Phi Hành  ở Nha Trang ngày xưa, toàn những người vừa từ trại cải tạo về. Sáng hôm sau lại vắt giò lên cổ trình quan Quận, thiếu thủ tục “đầu tiên” nên khi ra về ai cũng nhận tờ trát phải đày đi vùng kinh tế mới. Vẫn lì ra không đi, viễn ảnh một vùng đất khô cằn trơ trụi, không trường học chợ búa, lấy chi mà sống, bao người từ những nơi ấy đã liều lĩnh trở về, không nhà, không hộ khẩu ngủ đầy dưới mái hiên hè phố, đã sao đâu, cùi đâu còn sợ lở.



Muốn lì lợm sống còn trong thời buổi đó cần phải có việc làm, kẻo mang tiếng ăn bám xã hội, lười lao động. Bố đi tìm việc làm, chỗ nào cũng lắc đầu quầy quậy vì cái lý lịch tối thui, may quá nhờ người quen dẫn vào làm một chân “cu ly” đẩy xe ba gác cho hợp tác xã Cơ Khí. Sài Gòn nắng nung người, nắng như thiêu như đốt nên Bố đen thủi đen thùi như con cháu nhà Sihanúc, nhìn thoáng là biết Bố thuộc tầng lớp nào trong xã hội. Dù lương ít nhưng vẫn có lý do “lao động là vinh quang”  để bám trụ thành phố. Mặc kệ, sóng đánh tới đâu thuyền neo tới đó, cạn ao thì bèo xuống đất, vẫn hiên ngang ngẩng mặt nhìn đời vì miếng cơm manh áo mình làm ra từ giọt mồ hôi lẫn trong nước mắt.



Chịu đựng mãi rồi cái gì cũng qua, cho đến một ngày thấy thiên hạ ùn ùn đăng ký đi Mỹ theo diện H.O thì cả nhà vừa mừng vừa không tin nổi, cứ như truyện huyền thoại cây đèn thần xứ Ba Tư. Thời bấy giờ người ta gọi là “những người ho hen” vì ở tù về có hằng trăm thứ bệnh, nhưng cũng nhờ cam khổ  khi thất thế mà sau này cái gì cũng chịu đựng được.  Ánh sáng le lói cuối đường hầm, hình như mãi đến lúc này những người như Bố mới có cơ hội ngẩng mặt lên nhìn ánh mặt trời. Người có tiền rỉ tai nhau  ùn ùn ra Hà Nội chạy chọt để được đi trước, ai cũng bảo nhau “sang sau, trâu chậm uống nước đục”, Bố vẫn bình chân như vại vì nghĩ chương trình “Ra Đi Có Trật Tự” thế nào cũng tới lượt, với lại con người còn  có số mạng.  Ở đó mà chờ tới lượt, không có thủ tục “đầu tiên” thì đừng nói chuyện ra đi. Sốt ruột quá, mẹ lại vét hết trong nhà cho đủ tiền lên danh sách mới chóng được rời khỏi đời sống tối tăm này, thôi đành “qua sông thì phải luỵ đò” vậy.



Ngồi trên máy bay rồi cả nhà mới thở phào, dù rằng trước giờ ly biệt với người thân, những giọt nước mắt ngắn dài thi nhau tràn ướt má. Người ở lại vẫn vất vả với cuộc sống vá víu hằng ngày, người đi mơ ước một tương lai xán lạn  cuối chân trời, nhưng vẫn lo lắng chẳng biết sẽ làm gì nơi xứ lạ. Mãi tới khi đặt chân đến phi trường đầu tiên ở San Francisco chờ máy bay chuyển tiếp sang Houston, thấy người lao công quét dọn rất nhàn tản trong nhà vệ sinh mát rượi , Bố cứ thắc thỏm mơ ước sao qua Mỹ kiếm được một cái “job” thơm  như vậy.



Mùa Đông đầu tỉên ở nước Mỹ mưa gió lạnh lùng, buồn bã làm sao, nhưng đó là cảnh ngoài trời còn trong nhà thì đang chứa chan niềm hy vọng. Khổ nhiều rồi, chả lẽ không chịu nổi khi xứ sở này cơ hội có bỏ ai bao giờ, nếu không lười biếng mà chấp nhận ngay một công việc tầm thường, đời vẫn còn ngon chán. Ở quê nhà, ai cũng tưởng hễ sang Mỹ là lũ nhỏ nhảy tót vào trường học, chỉ một thời gian là tốt nghiệp bằng này cấp kia. Thực ra con ngu ngơ chưa biết gì, tiếng Anh còn ngọng ngịu nói mãi chưa được một câu, Bố vẫn hiên ngang  làm cái “đầu tàu” kéo nguyên một toa tầu nặng nề vượt qua những chặng đường ray dài dằng dặc.



Vừa qua Mỹ người tỵ nạn nào cũng cuống quýt lên đi tìm việc làm, trước hết trả tiền nhà cửa , “bill” bọt hằng tháng, sau là gửi về VN cho người thân để khoe cái may của mình khi ở  “xứ sở của mật ong và sữa”, mấy ai đã có lúc hiểu nổi cái khổ của con bò và con ong. Chân ướt chân ráo vừa đến được hơn tuần, một bà cùng quê đã ưu ái quan tâm gọi tới, giọng “bề trên” chắc nịch:



“Nếu cô chú muốn mau ổn định như người ta, phải nghe tôi. Tôi có cái tiệm “Grocery” khu da màu đắt hàng lắm, thấy chú nhanh nhẹn tôi dành cho một chân bán hàng từ 5 giờ chiều đến 11 giờ đêm, (giờ của bóng đêm và tội ác), buổi sáng vẫn đi học được như thường. Cô sạch sẽ khoẻ mạnh, đến nhà giữ cháu nội cho tôi và làm việc nhà, mỗi tuần hai trăm, người khác chỉ trả trăm rưởi.”



Cả nhà ngồi tính toán, lại mừng húm, trước mắt có công ăn việc làm rồi nhà cửa, xe cộ mấy hồi, đời cứ đẹp như mơ. Nhưng khi hai vợ chồng dẫn nhau đến “tham quan”  tiệm tạp hoá trong khu nhà thấy mấy ông da màu đang xúm quanh đống củi sưởi ngoài sân , giương  mắt chò hỏ nhìn chằm chằm mấy người Á Châu thì hãi quá. Vợ phát rét bảo chồng:



“Thôi anh ạ, khổ thì khổ nhiều rồi. Chính phủ cho mình 8 tháng trợ cấp là để đi học tìm một việc làm hợp khả năng,thế nào họ cũng giới thiệu công việc cho mình, đi làm hãng xưởng vẫn yên tâm hơn. Tại sao không hưởng những ngày học hành thư thả cho người nó khoẻ ra rồi hãy đi làm? Em cũng không thể bỏ chồng bỏ con ở nhà để làm “ô sin”, tiền thì lúc nào chả cần nhưng so với cái “đoạn trường” sau năm 75 chả thấm gì.”



Hai vợ chồng dắt nhau về, còn nghe thêm một bài “gia huấn ca” của người đồng hương là cái thứ mới qua “bày đặt học với hành”. Mãi sau này mới nghe bà ta tự thú rằng đã từng bị kê súng vào màng tang mấy lần mà may quá nó không “ bóp cò”, chứ không cũng đã “tiêu diêu miền cực lạc”. Sau này nghe nhiều người đi trước cũng bảo, chẳng thời gian nào khoẻ bằng lúc mới đến hưởng trợ cấp đi học, khi đi làm rồi mới thấy cái khổ cuả những sáng mùa đông rét thấu xương, những trưa mùa hè nắng cháy, những chiều mệt nhọc khi tan ca mặt trời đi ngủ sớm .





Cuối cùng Bố cũng tìm được việc làm do  Y.M.C.A giới thiệu, lương bổng chẳng bao  nhiêu nhưng cứ hai tuần lại có cái “check” mang về khoe vợ con. Công việc không nhọc nhằn lắm so với những ngày lao động ở quê nhà, nhưng gò bó thời gian như một cái máy chạy đúng giờ giấc. Sáng mù sương rét buốt đã phải lóc dậy lái xe đi làm, hai cha con chung nhau một  xe, chiều về đi xe bus vì con đã lái xe đi làm đi học. Nhờ cái xe tàng mua rẻ được của một ông Mỹ gìa, trong thời gian này hễ có ngày nghỉ  là cả nhà kéo nhau đi chơi. Hết câu cá câu cua lại ra biển tắm tát, điếc không sợ súng nên chỗ nào cũng mò tới mà không sợ xe bị “banh ta lông” dọc đường.



Nhà ba thằng con trai là ba thế hệ khác nhau, tuổi tác chênh nhau nên mỗi đứa Bố lại phải hướng dẫn một kiểu. Đứa lớn nhất đã trưởng thành ở VN, không sợ con hư hỏng nhưng đường đời con còn non nớt quá, chưa hòa nhập được với xã hội mới vì bất đồng ngôn ngữ cũng có, sự học dở dang từ VN nay bắt lại từ đầu khó nhọc biết mấy, cũng vẫn bố khuyến khích dìu dắt để vào đời. Lo nhất là thằng tuổi “teen” mà cha mẹ nào ở Mỹ cũng phát sốt lên vì những phức tạp tâm lý trong những con người trẻ đang tuổi dở dở ương, nhưng cũng nhờ phước đức ông bà để lại, sóng trước đánh sao sóng sau vỗ đó nên thằng anh lại hướng dẫn thằng em, 5 ngày trong tuần đi học còn cuối tuần đi bưng phở kiếm tiền xài thêm.



Mới đút đầu ra đời cu cậu đã choáng váng với cách “vắt chanh phải vắt cho kiệt, xứng với đồng tiền bát gạo” cuả bà chủ tiệm, suốt hai ngày cuối tuần làm việc cật lực nên không có giờ đàn đúm với bạn bè. Khi đổ rác, lúc bưng tô, vài đứa trẻ tuổi mới từ VN sang đã có lúc bị bà chủ mắng té tát khi đứng nói chuyện với nhau ngoài thùng rác. Một anh có tuổi hơn thở dài khuyên thằng đàn em cùng ngành bưng bê:



“Ráng học em ơi! Sau này anh em mình phải ráng thành tài để khỏi bị người ta mắng mỏ như vậy, nhục lắm!”



Nhờ ý chí vươn lên mà sau này cả hai đều đậu bằng Cao học, một kỹ sư điện toán và một kỹ sư xây dựng. Khi dẫn bạn đến ăn ở tiệm phở ngày xưa, bà chủ đã đon đả chào và  khoe với khách hàng: "Tiệm của tôi toàn đào tạo kỹ sư, bác sĩ”. Thật vậy, nếu không nhờ những lời mắng mỏ như té nước của bà thì xã hội đâu có nhân tài.



Thằng bé nhất còn nhỏ quá khi đến Mỹ, đây là sản phẩm “Made in Vietnam” mà Thượng Đế tặng cho cặp vợ chồng gìa, nhưng  hoàn toàn hấp thụ văn hoá Mỹ, nếu như bố mẹ không khéo gần  sẽ thấy cách con hằng vạn dặm. Cha con bàn với nhau, nhà cần có người cơm nước, em cần có mẹ đưa đón khi đi học, và sau giờ học điều cần nhất là không để thằng lỏi lang thang không ai kèm cặp. Giữ thêm vài đứa trẻ nữa để mẹ ở nhà chỉ lo việc trong mà khỏi lo việc ngoài, khỏi thức khuya dậy sớm dầm sương dãi nắng. Kể cũng là nghề tự do, nghe thì nhàn thật đấy nhưng nghề giữ trẻ cực nhọc chứ không nhàn hạ như người ta nghĩ.





Ba đưá con lớn lên trong sự đùm bọc cuả cha mẹ, nhưng lại gần gũi bố nhiều hơn vì khi bước ra đời, có bao nhiêu điều mà người đàn bà ở nhà không làm sao hiểu hết được. Cách ứng xử trong  cuộc đời đầy lừa lọc nơi nào cũng thiên hình vạn trạng, với thời gian các con đã tiến lên nhưng vẫn là con nai tơ đối với cuộc đời muôn mặt. Bố tuy đã lùi bước ra sau nhưng vẫn là điểm tựa tinh thần để con hỏi ý kiến, rút kinh nghiệm khi gặp khó khăn trên đường đời. Bản tính bố cần cù, trầm tĩnh, thận trọng và biết lắng nghe, những điều này cần thiết cho con nhìn rõ những phức tạp trong dòng đời, giải quyết nhiều vấn đề khi con gặp trở ngại, khác với mẹ lúc nào cũng cuống quýt lên như gà mắc đẻ.



Bố còn là chuyên viên kỹ thuật và sửa chữa các thứ hằm bà lằng trong nhà, chiếc lò nướng cũ mẹ vứt vào thùng rác, hôm sau ra “garage” đã thấy nó chễm chệ trở lại nằm cạnh cái bếp điện. Cái xích đu hỏng biến ngay thành cái giàn cho hai nàng tóc tiên và tigôn nở hoa. Cả nhà hay gọi bố là người làm cho nền kinh tế Hoa Kỳ không phát triển, vì chả chịu mua sắm gì cho bản thân, nhưng lại rộng rãi với vợ con trong nhà , vậy mới kỳ cục!



Bây giờ đầu bố đã bạc, mắt đã mờ chân đã mỏi, bố nói năng không hoạt bát, chẳng biết thơ phú văn chương nhưng biết sửa cái nhà cái cửa, biết đóng cái giàn cho bầu bí, hoa kiểng trèo leo. Những công việc tầm thường nhưng thật là cần thiết, nhiều khi hạnh phúc gia đình chỉ cần có thế, các con cần một người hướng dẫn chỉ bảo trong nhiều tình huống xảy đến trong cuộc đời.Bố là chiếc  bóng thầm lặng  nhưng là  bóng mát chở che để gia đình luôn là một mái ấm. Các con lớn dần lên đã có cuộc đời riêng, bên ông bố gìa lại thêm mấy ông bố trẻ, mấy nàng  dâu thì thầm với mẹ chồng:
” Con cũng chỉ mong nhà con được như bố !”



Nguyên Nhung

( Father’s Day 2011
Back to top
 
 
IP Logged
 
TuyetNgo
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 508
Re: Truyện ngắn
Reply #137 - 02. Jul 2011 , 23:59
 


Sự khác nhau giữa chúng tôi và các anh



...





Giữa chúng tôi và các anh có những cái khác nhau.
Chúng tôi hiểu rằng chúng tôi chỉ là con người và các anh cho rằng các anh văn minh hơn con người.
Chúng tôi xây dựng nền văn minh cho dân tộc và các anh khai thác nền văn minh của dân tộc để hưởng thụ.
Chúng tôi yêu đồng bào và các anh yêu đồng bọn.


Chúng tôi có lý tưởng quốc gia và các anh có lý tưởng quốc tế.
Chúng tôi can đảm cá nhân và các anh đê tiện tập thể.
Chúng tôi thương xót các anh vì cho rằng các anh ngu dốt hơn chúng tôi và các anh tiêu diệt chúng tôi vì các anh cho rằng chúng tôi hiểu biết hơn các anh.
Chúng tôi vẫn ảo tưởng các anh là đồng bào và các anh quy chụp chúng tôi là phản động.

Chung quy cũng vì chúng tôi khác các anh.
Khốn nạn thay, chúng tôi và các anh cùng mang dáng vóc con người, cùng là chủng người da vàng và cùng là người Việt Nam!

Và chúng tôi bị các anh cai trị vì chúng tôi nhân đạo hơn các anh.


Bùi Vũ Châu (danlambao)
http://danlambaovn.blogspot.com/
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: Truyện ngắn
Reply #138 - 15. Jul 2011 , 20:44
 

                   
Bé  Mốc ngày xưa


                             Nguyễn Thị Thanh Dương

Từ phi trường Tân Sơn Nhất, Khoa được gia đình chú Tuyên đón về nhà ở Bà Chiểu chơi mấy hôm.

. Hôm nay Khoa mới xách va ly trở về xóm cũ Gò Vấp. Mới rời xa Việt Nam 6 năm mà đường phố thay đổi lạ hoắc, cũng may vẫn còn những dấu vết hay chi tiết quang cảnh cụ thể khác để anh không đi lạc.

Cổng vào chùa Thiền Quang đây rồi, cũng là ngõ chính dẫn vào nhà anh, phải đi qua một khu mả bằng đá ong, những tảng đá ong nằm có, đứng có, cao hơn đầu người, người ta đồn rằng của người Pháp xây hồi xưa, nên lối xóm quen gọi là khu mả Tây. Trẻ con khu xóm vẫn chơi đùa ở đó, leo trèo lên những ngôi mộ. Nay khu mả Tây không còn, nên trông cái ngõ như rộng ra.

Gặp anh, nhận ra anh, ai cũng cất tiếng hỏi han thân mật, bù cho những tháng năm sống ở Mỹ hàng xóm lạnh lùng như người tình đang trong cơn hờn dỗi.

Căn nhà của anh được bao quanh bằng bức tường gạch thấp, phía trên cắm những hàng rào bằng sắt, và vẫn là hai cánh cổng sắt, nhưng không còn cây hoa giấy màu đỏ bên cạnh xòe cành lá và hoa đung đưa trong gío nữa.

Chưa kịp tra chìa khóa mở cổng thì một bà hớn hở từ đâu bước vội đến:

-         Cậu Khoa mới về thăm nhà hả? Sống ở Mỹ vui lắm hả cậu?

Khoa chưa kịp nhận ra ai cũng mỉm cười đáp lại:

-         Vâng, chào bác, sống ở đâu cũng có vui có buồn.

-         Có nhớ ra tôi không nào? Tôi ở đằng sau nhà cậu đấy…

Khoa gật đầu:

-         À, bác tên Năm, làm nghề thêu, nên thành tên Năm Thêu chứ gì? Bây giờ bác còn sống bằng nghề thêu, rua gì không?

-         Theo nghề đó là chết đói luôn cậu ơi, thời buổi hiện đại, nghề thêu đan, may vá phải dẹp tiệm nhường cho sản xuất công nghiệp hàng loạt. Tôi chuyển “ngành” rồi, nấu cơm bán cho mấy em công nhân tạm trú ở xóm này, dân miền Trung, miền Bắc “di cư” vào, đói nghèo nên dễ tính, dễ chịu. Hàng cơm tôi cũng đủ sống qua ngày.

Bà Năm Thêu đon đã mời mọc một hơi:

-          Cậu về đây bao lâu?  khi nào đi chơi đâu ăn đó thì thôi, còn về nhà thì ăn cơm ủng hộ hàng tôi nghe? Tôi biết Việt Kiều thì chỉ ăn ở những nhà hàng nổi tiếng hay sang trọng, nhưng cậu thử ăn hàng tôi cho biết đá vàng, ăn bữa nào tính tiền bữa đó, đơn giản và sòng phẳng mà. Việt Kiều tôi sẽ nấu loại đồ ăn cao cấp tiêu chuẩn Việt Kiều, nhưng gía cả vẫn là tình làng nghĩa xóm.

Khoa cảm động, khiêm nhường và hào hiệp:

-         Việt kiều mới là thèm những món ăn bình thường dân dã đó bác Năm Thêu. Nhiều người từ hải ngoại về Việt Nam chỉ để ăn cơm nhà rau dưa. Tôi đồng ý ăn cơm ủng hộ hàng bác, vì tôi sẽ ở Việt Nam khá lâu và thường xuyên ở nhà.

Bà Năm Thêu còn nhiều chuyện, hỏi tới luôn:

-         Nghe nói cậu về bàn căn nhà này, phải hôn? Có gì tôi kiếm người “mai mối” cho mau lẹ…

-         Uả, sao bác biết tôi về Việt Nam để bán nhà?

-         Dễ ợt mà, mỗi lần ông chú của cậu đến quét dọn hay sửa sang nhà cửa tôi có nói chuyện và hỏi thăm về gia đình cậu hoài, nghe nói ở bển gia đình cậu ổn định, khá gỉa tôi cũng mừng giùm. Vừa rồi ông Tuyên nói là cậu sẽ về bán căn nhà này. Thế là ông Tuyên sẽ rảnh tay khỏi phải lò mò từ Bà Chiểu đạp xe xuống Gò Vấp để chăm sóc căn nhà vắng chủ nữa.

-         Dạ, đúng thế. Đáng lẽ tôi bán nhà trước khi xuất cảnh, nhưng để lại cho gia đình thằng em vợ chờ đi xuất cảnh sau. Nó dùng dằng mãi mới chịu đi nên giấy tờ bảo lãnh trễ hơn tôi mấy năm.

-         Nhờ vậy mà hưởng lời đó cậu. Đúng là số cậu trời cho hưởng mà, được gia đình vợ bảo lãnh đi Mỹ sung sướng mọi bề, ngay thời điểm này nhà cửa đang hút gía dữ dội lắm, căn nhà của cậu nằm trong khu đất rộng, có vườn cây, lại thuộc phạm vi thành phố nên khẳm tiền chứ không ít đâu.

Khoa đùa vui:

-         Trời, bác Năm Thêu chuyển ngành nghề môi giới địa ốc, chắc sẽ thành công hơn nấu cơm tháng đấy.

Bà Năm Thêu nhắc lại:

-         Thôi vậy nghen, chiều nay cậu ăn cơm nhà không? thì có cơm mang sang nhà cậu liền.

Khoa nể lòng bà hàng xóm:

-         Vâng, chiều nay cho tôi mở hàng một bữa thử coi, nhớ là mấy món ăn nhà quê dân dã nhé. Tôi muốn ở nhà vài ngày, sống lại kỷ niệm rồi mới đi thăm bạn bè sau.

Bà hàng xóm nhanh nhẩu tốt bụng đi rồi, Khoa mới thực sự bước vào nhà mình, hầu hết những đồ đạc của vợ chồng Khoa để lại, gia đình người em vợ vẫn giữ y nguyên, có lẽ vì họ nghĩ cũng sẽ đi xuất cảnh nên chẳng cần thay đổi hay mua sắm thêm đồ mới làm gì.

Khoa ra vườn sau, khu vườn trồng nhiều cây mít và cây na, lá rụng quanh năm. Anh dẫm chân lên lớp lá khô tưởng như mùa lá cũ năm nào vẫn nằm ngoan hiền ở đây đợi  anh về hội ngộ.

Những cây mít đang treo đầy qủa, anh còn nhớ cây này là mít dừa, cây kia là mít nghệ, múi mít loại nào cũng to bằng cả nắm tay. Còn những cây na cũng có giống na dai, giống na bở. Na để chín cây, mắt na nở ra, nhẹ tay bóp qủa na, ăn những múi na trắng thơm, ngon ngọt lạ lùng

Trong vườn có một cái giếng sâu và trong, cạnh đó là buồng tắm. Khoa sung sướng được sống lại qúa khứ, anh ra quay nước giếng đổ đầy thùng trong buồng tắm và mang những thứ xà bông, dầu gội đầu vào tắm gội, tưởng như mình vẫn đang sống ở Việt Nam của 6 năm về trước.

Tắm xong Khoa vào nhà ngủ một giấc thoải mái, chưa tỉnh giấc hẳn thì đã nghe có tiếng gõ cửa rụt rè, Khoa vội ngồi dậy, vuốt sơ mái tóc và ra mở cửa, anh ngạc nhiên khi thấy một khuôn mặt xinh đẹp, một cô gái lạ, rất trẻ, đang khép nép bên ngoài. Trong phút giây này, khỏanh khắc này, anh bỗng nhớ đến bao năm về trước, Huyền cũng đã e ấp gõ cửa nhà anh, cho anh cảm xúc xao xuyến bất ngờ.

-         Dạ, em chào anh…

Khoa bối rối:

-         Cô tìm ai? Cô có đi lầm nhà không?

-         Dạ, em tìm anh Khoa…má em sai em đến giao cơm chiều cho anh.

Bây giờ Khoa mới để ý đến gỉo cơm trên tay cô gái. Thì ra lúc nãy anh vào nhà và quên không khóa cổng nên cô gái mới đến thẳng cửa nhà anh như thế này. Cô có đôi mắt to đen như nhung mang phảng phất nét buồn, làm người khác nhìn mà phải u uẩn theo. Dáng cô thon thon cao ráo, không lẽ cô là con gái bà Năm Thêu ? người đàn bà suốt một thời tuổi trẻ chăm chỉ ngồi bên khung vải thêu, rua, đến nghọeo cả cổ và gù cả lưng ?

Thấy chủ nhà tần ngần chưa chịu tin, cô gái giới thiệu thêm về mình:

-         Anh không nhớ em thì thôi, nhưng để em kể ra nhé, ngày xưa em hay sang nhà anh bồng em bé và đút cơm cho con anh đó, em là bé Mốc.

-         Ôi, bé Mốc !!

Khoa reo lên, thêm một lần nữa ngạc nhiên, anh nhớ ngay ra con bé Mốc nhếch nhác ngày xưa, bây giờ lại biến hóa thành cô gái đẹp xinh, duyên dáng y như trong chuyện cổ tích. Giây phút gặp gỡ đầu tiên vẻ đẹp của cô làm anh chóang váng, bây giờ định thần nhìn kỹ lại, đúng là cô gái có những nét hao hao bé Mốc. Mà sao ngày xưa anh ghét nó thế? chỉ sợ nó lây cái vẻ xấu và bẩn của nó sang cho con anh thôi, nhưng Huyền vợ anh vốn thương người, muốn giúp nhà bà Năm Thêu chứ thuê mướn người bồng em đầy rẫy trong xóm, thiếu gì người khá hơn nó.

Cô gái thao thao kể tiếp:

-         Nhà em nghèo, má em đã đưa em sang nhà anh chị, coi em, bồng em để anh chị cho chút tiền, được đồng nào hay đồng đó. Năm đó em 13 tuổi.

Khoa hỏi một câu ngẩn ngơ vì vẫn còn bối rối trước vẻ xinh đẹp của cô Mốc:

-         Nhưng sao em lại là bé Mốc nhỉ?

-         Má em nói hồi nhỏ em xấu xí, lại bẩn thỉu, mốc meo và ốm tong teo, bé xíu  nên gọi em là bé Mốc chết tên  luôn, còn tên thật của em không đẹp lắm, nhưng cũng…đỡ hơn. Em tên là Nguyễn thị Nâu.

Khoa thành thật:

-         Dù bé Mốc ngày xưa hay cô Nâu ngày nay, cả hai tên đều lạ cả.

Cô Nâu mang giỏ cơm vào nhà, cô nhẹ nhàng và cẩn thận lôi ra chén bát, đũa thìa và cơm canh nóng hổi để lên bàn rồi nói:

-         Mời anh dùng cơm kẻo nguội, má em nấu món dân quê theo ý anh, cần món gì anh cứ yêu cầu mỗi ngày nghe. Em về đây, lát nữa em sang thu dọn chén đũa.

-         Sao cơm bình dân mà bát chén kiểu sang vậy cô Nâu?

Cô Nâu mỉm cười:

-         Anh không nghĩ ra hả? vì anh là Việt Kiều thì cũng phải lịch sự với anh chứ, mấy chén đũa này má em mới sắm riêng để phục vụ anh đó.

Khoa cảm động ngẩn ngơ. Cô Nâu nói xong từ tốn cúi đầu chào và ra về, dù Khoa chỉ muốn cô ở lại nói chuyện, và dù có ăn cơm canh nguội lạnh anh cũng vui lòng.

Bà Năm Thêu cho anh ăn cơm với món đọt rau lang luộc chấm nước mắm tỏi ớt, và món tôm đất rim mặn. Qủa thật là ngon miệng..

Ăn xong Khoa rửa tất cả chén bát sạch sẽ và đợi chờ cô Nâu đến.

Cánh cổng ngoài vẫn chỉ khép để đợi cô vào tận cửa nhà, cô đến đúng hẹn, lần này cô lại thay cái áo khác. Thấy mọi thứ đã sạch sẽ sẵn sàng, cô Nâu không hài lòng:

-         Kìa anh, sao anh lại rửa ?, lần sau anh cứ để em làm cho, đó là việc của em mà.

-         Tôi rảnh cũng chẳng biết làm gì.

     -     Việt Kiều như anh hiền qúa chừng, người ta về Việt Nam là tưng bừng hoa lá ngoài đường, ngoài qúan đó anh.

Ngay từ đầu cô Nâu đã xưng hô “anh, em” nên Khoa cũng thoải mái, tự nhiên, dù ngày xưa con bé ranh này anh coi như đồ con nít.

-  Nay mai anh cũng sẽ đi thăm bạn bè, họ hàng chỉ có gia đình ông chú chứ chẳng còn ai.

Lần này cô Nâu ngồi nói chuyện lâu hơn. Trong căn nhà vắng êm đềm cô gái như một bức tranh thiếu nữ rực rỡ bội phần làm tâm hồn đa cảm yếu đuối của Khoa bị choáng ngợp trước hào quang của cô Nâu.

Cô kể nhà cô từ xưa đến giờ vẫn nghèo, cô bỏ học khi xong bậc tiểu học, làm đủ thứ nghề lao động, và bây giờ thì ở nhà phụ với mẹ nấu cơm, bán cơm trong xóm lao động này. Đôi mắt cô có lúc lóng lánh như muốn khóc, Khoa phải chạnh lòng:

-  Không ngờ hoàn cảnh em đáng thương thế.

Khi cô Nâu đứng lên chào tạm biệt ra về, Khoa tiễn cô ra cửa, khỏang cách hai người rất gần, mùi hương thơm nào đó từ người cô làm anh thoáng ngây ngất. Đôi mắt cô nhìn anh giùng giằng và sâu thẳm:

-  Em về nhé. Mai anh có ăn cơm không?

Khoa trả lời không cần suy nghĩ:

-  Coi như ngày nào anh cũng ăn cơm hai buổi, cho dù đi đâu anh cũng về ăn cơm…nhà.

Cô Nâu ngoan ngoãn:

-         Dạ, em sẽ ngày hai buổi mang cơm phục vụ anh.

Cô Nâu về rồi, nhưng hình ảnh bé Mốc ngày xưa lại lần lượt hiện ra.

Dạo đó anh và Huyền ở trong căn nhà này, hai đứa con, đứa lên 4 và đứa lên 2. Vợ anh làm kế tóan tài chánh cho một công ty nước ngoài, còn anh là kỹ sư. Chiều đi làm về, mang hai đứa con từ nhà trẻ về, cả hai vợ chồng đều bận rộn nhiều chuyện khác. Thế là mới có chuyện con bé Mốc thỉnh thoảng sang nhà giữ em giùm để vợ anh nấu cơm, còn anh thì nghiên cứu đọc tài liệu bổ sung cho công việc đang làm tại hãng.

Bé Mốc qủa đúng là con bé nhà nghèo, quần áo lôi thôi cũ kỹ, đầu tóc rối ren, mặt thì nhem nhuốc, thế mà hai con anh lại thích bé Mốc, nó bồng bế hay đút cơm, đút cháo hai đứa đều ăn nhiều, có lẽ vì bé Mốc cũng trẻ con, biết cách chiều trẻ con?

Bé Mốc hay dẫn hai con anh ra chơi ở sân trước, chán lại ra vườn sau. Có lần anh thấy bé Mốc hái mấy dái mít non ở sau vườn chấm muối ớt ăn ngon lành. Tội nghiệp, con bé đói khát ăn rờ ăn rẫm, từ đó trở đi anh không còn ác cảm với nó nữa, cũng đồng tình với vợ anh để cho bé Mốc trông nom hai con khi vợ chồng anh bận bịu.

Những hôm không trông hai con anh, bé Mốc chạy ra khu mả Tây chơi đùa với lũ trẻ cùng xóm, mấy lần Khoa trông thấy nó leo trèo, nghịch ngợm hay lê la đất cát bẩn thỉu từ đầu đến chân.

Một buổi chiều anh ra vườn sau kéo nước giếng và tắm táp xong như thường lệ, vợ anh cũng đã xong công việc, chiều ấy Huyền thật xinh và tươi mát với bộ đồ mỏng mới may, làm Khoa bỗng dưng  “thèm muốn”, anh kéo vợ vào phòng. Chợt trông thấy con bé Mốc  bế em ở một góc nhà đang chăm chú nhìn theo vợ chồng anh, hình như nó hiểu chuyện và biết anh đang muốn gì?. Làm Khoa “quê”, liền bực mình gắt với nó:

-         Bế em ra vườn chơi đi, chốc nữa hãy vào nhà.

Bé Mốc vội vã tay bế tay dắt hai đứa con anh ra vườn sau.

Nghĩ đến đây Khoa cười thầm, không biết cô Nâu có còn nhớ chuyện xưa ? Bây giờ anh sẽ “quê” hơn ngày đó nữa.

Từ ngày sang Mỹ, vợ anh trông coi một tiệm nail cho em gái mình, vì cô em có hai tiệm nail nên không thể ba đầu sáu tay qủan lý hết được. Cửa tiệm lâu năm, quen khách, đắt hàng nên cô em trả lương chị rất rộng rãi.

Còn Khoa học nghề trung cấp kỹ thuật hai năm và ra đi làm. Nhưng mới bị lay off , đang ngồi nhà ăn tiền thất nghiệp.

Gia đình thằng em vợ đến Mỹ mấy tháng nay, đúng là thời điểm thuận tiện cho Khoa về Việt Nam lo chuyện bán nhà cửa. Khoa về một mình vì Huyền bận 6 ngày một tuần với tiệm nail, không dứt ra được.

Căn nhà nhờ ông Tuyên đứng tên và chăm sóc giùm, hàng tháng vợ chồng Khoa vẫn tế nhị gởi biếu ông chú tiền coi như trả công lao chú hậu hỉ.

                          ****************

Cô Nâu đã trở thành hình bóng thân quen không thể thiếu, mỗi ngày mấy lượt đến giao cơm và lấy đồ về, lần nào cô cũng kín đáo tránh cho hàng xóm biết cô đã ở lâu với người đàn ông trong căn nhà vắng.

Hôm nào Khoa đi vắng về trễ thì anh hẹn mang cơm trễ, nên hầu như họ vẫn gặp nhau dù Khoa bận rộn đến đâu.

Đã có vài người khách đến xem nhà và đang thương lượng gía cả, Khoa không ngờ bà Năm Thêu nói đúng qúa, người mua sẵn sàng trả gía cao, nhưng anh còn chần chừ xem ai trả cao nhất mới quyết định. Mọi giấy tờ hợp lệ có sẵn, và ông Tuyên cũng sẵn sàng để ký tên.

Hôm nay Khoa về nhà hơi muộn, cô Nâu cũng vừa mang cơm đến. Dù đã ăn ở nhà bạn khá no, Khoa vẫn ăn cơm của cô Nâu cho cô vui lòng, và chính anh cũng muốn thế, để giữ chân cô. Nhiều ngày nay đã thân quen, cô ở lại đợi anh ăn cơm xong và dọn dẹp chén bát rửa ráy tại chỗ luôn. Họ đôi bóng như đôi vợ chồng son .

Khoa ngắm cô Nâu đang đứng rửa bát, cô mặc bộ đồ bộ lụa mát màu xanh nước biển nhạt, hở vai và đôi cánh tay trần giống như Huyền ngày nào đã làm anh bừng dậy một niềm khao khát. Hôm nay anh gặp lại niềm khao khát ấy.

Bất chợt cô Nâu quay đầu lại, nhìn nét mặt bần thần của anh, cô ngây thơ nũng nịu:

-         Anh nhìn trộm em và chê em gì hả? hả?

Trong đôi mắt đen thăm thẳm của người con gái đầy vẻ bí hiểm và thông minh, có lẽ cô Nâu lại đọc được ý nghĩ trong đầu óc anh như khi cô chỉ là con bé Mốc 13 tuổi năm xưa.

Anh bối rối chưa biết nói sao thì cô gái nũng nịu tiếp:

-         Bắt thền anh đó, anh nhìn em hoài làm em rửa chén không có sạch nè !!

Anh như bị mê hoặc đến bên cô Nâu và vòng tay ôm lấy đôi vai tròn của cô:

-         Anh đền em đây…

Toàn thân cô gái tựa vào người anh, làm người anh nóng bừng lên, anh xiết chặt thân thể mềm mại của cô Nâu trong vòng tay của mình, thì thầm:

-         Anh yêu em qúa Nâu ơi…

-         Em cũng yêu anh…

Cô bạo dạn thêm:

-         Em yêu anh từ hồi em còn là bé Mốc lận, anh không biết đâu, mỗi lần anh tắm em đều lẩn quẩn ở ngoài vườn, chỉ để ngửi  mùi xà bông rất thơm tho của anh…

Cô áp mặt, dụi dụi vào ngực áo anh rồi hỏi:

-          Sao bây giờ anh  xài mùi xà bông khác ? em không thấy giống mùi cũ nữa…

Khoa càng mê man:

-         Em yêu anh đến thế ư? Em nhớ cả mùi xà bông tắm của anh ư? Ừ, ngày xưa anh dùng xà bông Coast, qùa từ bên Mỹ gởi về, anh thích mùi ấy lắm, nhưng bây giờ anh qua Mỹ thì không còn xà bông hiệu này nữa, nên anh dùng loại khác.

-         Có lần anh tắm xong, anh rủ chị Huyền vào phòng, em buồn lắm, em ganh với chị Huyền vì đã có anh.

-         Trời ơi, em còn nhớ vụ ấy hả? Anh xin lỗi Nâu, hôm nay anh sẽ đền cho Nâu ….

Người Khoa như lên cơn sốt, quay cuồng, tối tăm mặt mũi, anh không biết gì đến trời đất bên ngoài. Chỉ có cô Nâu xinh đẹp và quyến rũ tuyệt vời trong căn nhà vắng đồng lõa, đồng tình.

Chiếm được thân thể cô Nâu với tình yêu đáp trả nhiệt tình của cô, Khoa bỗng là một chàng trai mới lớn đang yêu và si tình, ngày nào anh cũng mong chờ cô Nâu. Cách đây 6 năm làm sao Khoa có thể nghĩ sau này mình sẽ yêu con bé Mốc đến thế này?

Cánh cổng sắt ngôi nhà mở đón cô vào, và khép chặt để không bị ai làm phiền, ngoại trừ những lần có hẹn cho người môi giới dẫn khách đến coi nhà.

Anh yêu Nâu thật rồi hay chỉ là một cơn choáng ? anh chẳng tha thiết gì đến chuyện trở về Mỹ với vợ con. Khoa còn đang như một cánh buồm lênh đênh trên biển.

    “ Anh chỉ là một cánh buồm tuyệt vọng,

       Giữa biển khơi không biết rẽ lối nào?

       Ở nơi đâu cũng là em, là sóng,

       Vỗ vào đời anh hạnh phúc, thương đau”

Tình yêu đã làm anh lãng mạn, anh làm 4 câu thơ ấy, đọc cho cô Nâu nghe, không biết cô Nâu có hiểu thơ không mà cô đã khóc trong lòng anh.

Khoa buồn bã và thành thật khuyên cô:

-         Dù muốn dù không anh cũng phải về Mỹ. Anh yêu em, nhưng không thể bỏ vợ con được. Em hãy quên anh đi Nâu nhé ?.

Cô Nâu trả lời trong nước mắt:

-         Em chỉ lấy người đàn ông nào giống hệt như anh thôi, hoặc là em sẽ đợi chờ anh về Việt Nam thăm em, làm người vợ không bao giờ cưới của anh, giống như một tuồng cải lương cũ má con em hay coi….

-         Tội em qúa ! mấy kiếp nữa anh cũng không đủ trả nợ tình cho em.

Khoa đã đồng ý bán nhà, vì không còn thời gian chần chờ thêm nữa. Khách hẹn sẽ đến coi lần cuối trước khi chồng tiền và tiến hành thủ tục giấy tờ.

Những ngày hiếm hoi còn lại anh càng say sưa yêu cuồng yêu vội cô Nâu hơn nữa.

Nhưng chiều nay người giao cơm không phải là cô Nâu mà là mẹ cô, bà Năm Thêu, làm Khoa thất vọng và ngạc nhiên.

Bà Năm Thêu theo Khoa vào trong nhà, tự động ngồi xuống ghế và lên tiếng trước:

-         Tôi biểu con Nâu ở nhà để tôi sang nói chuyện với cậu.

Linh tính báo cho Khoa biết một điều gì đó không hay đang xảy ra cho Nâu và cho anh. Bà Năm Thêu nhìn thẳng vào mặt Khoa và tiếp như quan tòa lên án:

-         Tôi đã biết chuyện tằng tịu giữa cậu và con Nâu nhà tôi. Bây giờ cậu tính sao?

Biết không thể chối cãi được, Khoa đành buông xuôi:

-         Tôi trót yêu Nâu, yêu rất nhiều bác biết không?

-         Nhưng cậu cũng phải tính sao chứ, không lẽ cậu hưởng con nhỏ cho đã đời rồi khơi khơi về Mỹ với vợ con cậu như không có chuyện gì xảy ra ?

Khoa khổ sở:

-         Tôi cũng không biết mình phải làm gì nữa, thật tình tôi đau buồn khi chia tay Nâu.

Bà Năm Thêu đanh thép:

-         Cậu phải cưới nó, giữ danh dự đời con gái cho nó.

Khoa hoảng hốt:

-         Bác Năm Thêu biết tôi còn vợ, còn con mà…

Giơ cao đánh khẽ, bà Năm Thêu xuống giọng tử tế:

-         Thôi, không ai nỡ làm gia đình cậu xào xáo ly tan, nhưng cậu phải đền bù đời con gái con tôi cho xứng đáng, cậu giúp nó một số tiền làm vốn, làm lại cuộc đời. Tôi sẽ bỏ qua chuyện này.

Khoa cũng đã nghĩ tới điều này, vì tình yêu anh dành cho cô Nâu chứ không phải vì bị cưỡng bức, đòi hỏi như bây giờ, nên Khoa đồng ý ngay:

-         Điều này tôi có thể làm được, tôi cũng muốn giúp Nâu có cuộc sống khá hơn.

Bà Năm Thêu đòi hỏi huỵch toẹt:

-          Cụ thể tôi đề nghị cậu cho nó 10 ngàn đô la Mỹ.

-         Mười ngàn đô la Mỹ?

Thấy phản ứng của Khoa sửng sốt ngạc nhiên và không hài lòng bà Năm Thêu giáng một đòn đe dọa:

-         Nếu cậu muốn trong ấm ngoài êm, chuyện tình của cậu và con Nâu hàng xóm láng giềng chưa ai hay biết đâu. Tôi thề sẽ giữ kín, cậu mới bán nhà được gía qúa mà, tiếc chi món tiền này.

Mười ngàn đô la là số tiền không nhỏ, ngoài dự tính của Khoa, nhưng tội anh to lớn qúa, làm hại đời con gái trinh trắng của cô Nâu, và anh cần bảo vệ hạnh phúc gia đình, với gía ấy vẫn còn rẻ.

Khoa ngẫm nghĩ và đồng ý. Cũng may anh chưa gọi phôn báo cho vợ về gía cả căn nhà mà anh vừa quyết định bán, nên anh có thể thêm đầu này bớt đầu kia cho hợp lý và Huyền sẽ tin, miễn là bán xong căn nhà cho rảnh tay.

                    ***************

Khoa về Mỹ, lại lao vào cuộc sống hàng ngày.

Một năm trôi qua, tình yêu nóng bỏng dành cho cô Nâu qủa là một cơn chóang, đã  vơi dần theo ngày tháng vì xa mặt cách lòng. Khi lạc vào biển yêu trong hoàn cảnh trái ngang ai cũng chỉ là cánh buồm tuyệt vọng, ngẩn ngơ.

Bây giờ tỉnh người ra anh mới thấy mình hư qúa, vô tình đã phản bội vợ và hại đời con gái của cô Nâu .

.Anh thấy lòng tạm thanh thản, với 10 ngàn đô la, có thể đã giúp cô Nâu hay gia đình cô thay đổi cuộc sống khá hơn với một ngành nghề nào đó. Anh chỉ cầu mong cô Nâu sẽ gặp được người đàn ông giống anh, cho cô yêu và lấy làm chồng thì anh mới thật sự yên tâm.

Một hôm Huyền hỏi chồng:

- Anh có nhớ nhà bà Năm Thêu ở phía sau nhà mình ngày xưa không?

Khoa giật bắn người, tim anh đập thình thịch chỉ sợ nghe vợ nói ra những điều  tội lỗi thầm kín của anh, nhưng Huyền vẫn vô tư kể tiếp:

-  Bà Năm Thêu má bé Mốc, con bé ngày xưa bế con mình đó, nhớ ra chưa?

Khoa dè dặt:

-  Biết rồi, sao?

-  Chị bạn cùng xóm mới về Việt Nam qua kể lại là năm rồi nhà bà Năm Thêu trúng mối gì không biết, bỗng khá gỉa lắm, có tiền sắm ti vi, xe gắn máy và đồ đạc trong nhà. Nhưng sắm bao nhiêu bà lần hồi bán bấy nhiêu vì bài bạc và số đề…

Khoa buột miệng:

- Tội nghiệp qúa !

Vợ anh chép miệng theo:

-  Chưa tội nghiệp bằng con Mốc, tên nó là Nâu, bây giờ người ta đồn nó bị bệnh Aids rồi, nên hàng cơm bà Năm Thêu bị ế ẩm, không ai dám ăn, cảnh nhà càng khốn khổ.

-    Trời ơi ! cô Nâu bị..bị…??

Vợ anh lập lại:

-         Bị bệnh Aids, tội con bé qúa hở anh? Bé Mốc hồi mới lớn, mới trổ mã đã đi bán bia ôm, làm gái rồi, nhưng kiếm tiền sao cho xuể với người mẹ ham mê bài bạc quanh năm suốt tháng. Trước sau gì cũng đi đến bước đường cùng này thôi.

Trong lời nói và cử chỉ của vợ, Khoa tin là Huyền không hề hay biết gì chuyện tình cảm của anh và cô Nâu. Bà Năm Thêu dù là người tệ hại thế nào, ít ra cũng biết giữ lời hứa, không xì ra chuyện anh đã ngủ với con gái bà, mà nói ra thì mẹ con bà cũng mang tiếng xấu chứ hay ho gì. Có lẽ đó mới là cái “tình làng nghĩa xóm” của bà, mà anh mong muốn nhất.

Bây giờ Khoa đã hiểu vì sao bà Năm Thêu đon đã hỏi thăm anh, mời anh ăn cơm hàng nhà bà và gài độ cho cô Nâu, đứa con gái đã từng bán thân nuôi miệng, nuôi cả gia đình, đến với anh, như một đứa con gái trong trắng con nhà nghèo hiền lành, để anh lọt vào cạm bẫy tình yêu của mẹ con cô.

Bây giờ anh cũng hiểu con bé Mốc thuở lên 13, không hề là đứa trẻ ngây thơ, nó đã tinh ranh, biết rình rập khi anh tắm và khi vợ chồng anh vào phòng ngủ.

Thảo nào khi hai người gần gũi, cô Nâu đã tỏ ra rất nhiệt tình, biết cách làm cho anh thêm say đắm.

Suốt mấy tuần lễ cô Nâu mang cơm cho anh, cô đã đóng vai kịch con nhà nghèo, ngây thơ, thật xuất sắc, qua mặt thằng đàn ông thật thà và nhiều tình cảm như anh dễ dàng. Những giọt nước mắt, những lời thổn thức yêu đương của cô dành cho anh, có lẽ cô cũng từng dành cho nhiều người đàn ông khác để làm họ hồn siêu phách tán. Đó là nghề của cô.

Khoa thấp thỏm lo âu lén vợ đi thử máu, xem có dương tính HIV không, có bị lây nhiễm từ cô Nâu không? mặc dù một năm qua anh không thấy có dấu hiệu gì khác lạ cho sức khỏe.

Kết qủa thử máu làm anh sung sướng như vừa được cứu sống từ cõi chết, anh bình thường không hề bị HIV.

Có thể cô Nâu bị bệnh HIV nhưng  may mắn cho anh đã không bị lây nhiễm? hoặc có thể sau khi chia tay anh cô Nâu mới bị bệnh HIV, khi cô giao tiếp với những người đàn ông khác??

Thôi, dù vì lý do gì anh cũng hãy cảm tạ thượng đế đã che chở cho anh an toàn sau một cơn sốt tình mê dại.

Anh đã trả gía cho cơn sốt tình ấy 10 ngàn đô la, qúa đắt so với “gía cả” bình thường của cô Nâu “đi” với những người đàn ông khác, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh và vợ anh, cũng như tương lai của hai con sẽ ảnh hưởng không biết tai hại đến chừng nào.

                   Nguyễn Thị Thanh Dương.

                      ( June 19, 2011)

-


Back to top
« Last Edit: 15. Jul 2011 , 20:45 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #139 - 08. Mar 2012 , 16:27
 




Truyện ngắn
Bầu Bí Một Giàn


...



Bầu Bí Một Giàn là truyện ngắn hóm hỉnh với nhiều tình tiết cười ra nước mắt. Gia đình anh Phàn cũng như hàng triệu người Việt tị nạn khác, rời quê hương đến vùng đất tự do để có cuộc sống xứng đáng với số phận con người: được tự do, được yêu thương, được tôn trọng và được quý mến. Tuy nhiên, vì phải sống nhiều năm dưới sự cai trị, giáo dục nhồi sọ của cộng sản, và chịu ảnh hưởng của chiến tranh nên anh Phàn và gia đình có lối hành xử không thích hợp trong một xã hội văn minh. Bởi những hệ lụy của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, anh Phàn và gia đình luôn nghi ngờ lòng tốt của người đồng hương và các cơ quan từ thiện. Tất cả tình tiết trong truyện đã diễn ra trong khung cảnh cười ra nước mắt. Có phải chăng tựa đề của truyện nầy đã được mượn ý từ câu ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Tác giả đã ngầm nhắc rằng dù vạn dặm xa quê, nhưng chúng ta vẫn có cùng chung giòng máu Việt. Đùm bọc yêu thương cần sự nhẫn nhục, lòng nhân từ, và sự cảm thông nhất là với những người có cùng tiếng nói, mầu da.
Huỳnh Kim Khánh

vuonhoa


Người xưa viết rằng, tha hương mà gặp người quen biết cũ là một trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ, cần chi phải là quen biết cũ, tha hương mà gặp một đồng hương, cũng mừng đến lịm người đi chứ. Đó là trường hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm 1981. Tôi vì cơm áo, mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Anh được định cư trong thành phố nầy đã hơn một năm. Thế là có được hai gia đình Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền hòa nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quý và thân thiết nhau còn hơn cả anh em ruột thịt. Gia đình anh Hy có năm người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rưng rưng vì mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay vợ tôi mãi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà. Bà cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc nhiều năm mới tìm lại được. Gặp người đồng hương là sung sướng thế đó. Chị vợ anh Hy thì không dấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và nhìn hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhưng nụ cười trên môi nở mãi không tàn. Hai đứa con chưa biết gì, chạy nhảy, reo hò. Gia đình anh Hy sung sướng, chúng tôi cũng hân hoan mừng.
Một buổi tối, tôi đi làm về, được điện thoại của anh Hy, anh hớn hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đình Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt thì giờ, để cùng mấy người trong họ đạo đi đón người mới đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi vội vã báo tin mừng cho vợ , và trong lòng nghe lâng lâng vui. Có thêm càng đông đồng hương, càng đở buồn, và thỉnh thoảng qua lại chuyện trò cũng bớt cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận tiện, thì chúng tôi cùng đi đón gia đình Việt Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái tình thân thiết lúc ban đầu.
Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng cho gia đình mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức gì về người sắp đến, chị vợ anh Hy vội vã điện thoại báo cho chúng tôi biết ngay.
Máy bay sẽ chở gia đình người tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm thứ tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên cơn sốt, thân nhiệt nóng hơn một trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về. Họ yêu cầu tôi thay anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội vã, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, phòng khi đường sá có gì bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi để hướng dẫn và chỉ đường trên bản đồ. Tôi cũng run lắm, vì chưa bao giờ đi đến phi trường nầy, và thấy cái bản đồ ghi chằng chịt đường sá đan nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi chạy bám sát xe ông, nhưng chưa được mười phút thì đã lạc nhau. Khi cách phi trường ba mươi dặm, thì xa lộ bị tắc nghẽn, vì chiếc xe vận tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi trường, tôi bị lạc đường hai lần, chạy quanh mãi mới vào được nhà đậu xe. Ông bà Gary cũng đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên máy bay cũng đến trể. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên người chủ gia đình là Phan Ly, đưa lên cao trước cỗng đi ra của hành khách. Gặp dáng người Á Đông nào, tôi cũng chăm chắm dòm kỹ. Cho đến khi hành khách không còn ai cả, thì ông bà Gary bối rối. Ông chạy đi hỏi hãng máy bay, họ bay xác nhận là có gia đình anh Phàn trên chuyến máy bay vừa rồi. Hai vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề tên anh Phàn đi quanh các ghế chờ trên phi trường, thấy gia đình Á Đông nào, cũng chìa cái bảng tên ra trước mặt họ, để dò hỏi. Đi quanh ba vòng, mà không tìm được, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi gia đình anh Phàn ở đâu, cho biết để người bảo trợ đón về. Cũng vô hiệu. Đi tìm gia đình anh Phàn cả tiếng đồng hồ mà không kết quả, cả ba người chúng tôi ngồi xuống ghế nghỉ một chốc với lòng vô cùng chán nãn. Tôi bảo hai ông bà Gary ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên đi tìm một lần nữa. Tôi đi dò tìm tên từng gia đình trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của cơ quan ICM phát, khi họ cho mượn tiền máy bay. Tôi đến gần một anh mang cà vạt đỏ, áo vét ba mảnh bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng dạ. Tôi nhìn tận cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh bạo hỏi:
"Anh là Phàn phải không”
"Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?”
"Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ người Mỹ đến đón gia đình anh. Sao nãy giờ chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đưa cái bảng tên anh ra, mà anh lại ngồi im?” - Tôi nói với giọng hơi mất kiên nhẫn.
Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói:
"Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông Mỹ chìa ra trước mặt tôi ba lần, nhưng đâu phải tên tôi mà nhận. Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là Phàn.”
Tôi cười, nói nhỏ nhẹ:
"Đây là tên anh . Theo lối Mỹ, ghi tên trước, họ sau.”
"Ngược ngạo thế thì ‘bố giời’ mới biết được”.
"Thế thì loa kêu tên anh nhiều lần, sao anh cũng chẵng trả lời?”
"Nghe được cái quái gì đâu?”
Tôi chợt nghĩ ra, nếu người ta có gọi tên tôi trên loa, chưa chắc tôi đã nghe kịp, huống chi anh Phàn là người mới đến. Tôi quay lại báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không tìm ra. Ông bà Gary mừng, và tôi đọc được sự kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông bà, khi đêm khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm đặm, đi đón một gia đình ngoại quốc, khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà con, không hề quen biết. Và trước đó nữa, phải làm bao nhiêu giấy tờ, mất bao nhiêu bao nhiêu thì giờ, tốn kém đủ thứ. Chỉ vì trái tim biết thương người mà thôi.
Gia đình anh Phàn có hai vợ chồng, năm đứa con, đứa đầu mười bốn tuổi, đứa út còn ẵm trên tay. Anh Phàn người da sậm, gầy ốm, cái má thóp, răng cỏ đen điu vì khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hơn, có bề ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài khoác áo bành tô cứng ngắt. Gia đình anh còn có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có che miếng vải đen, gợi tôi nhớ rõ hình vẽ trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày còn bé tôi hay đọc. Bà cụ y hệt cái hình vẽ bà già mù trong sách. Trang phục của vợ chồng anh Phàn có vẽ sang trọng hơn cả ông bà bảo trợ nhiều, nhưng cũng không dấu được vẻ quê mùa.
Hành lý được chất lên cao trên bốn chiếc xe đẩy. Ông Gary , tôi, vợ anh Phàn, và cháu bé gái mười bốn tuổi, mỗi người đẩy một chiếc xe. Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc lá châm mồi và hút trong hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc. ( Dạo nầy, chưa có luật gắt gao cấm hút thuốc nơi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh Phàn, và ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy. Thấy đi mãi trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi tôi:
"Sao không kêu tài xế lái xe vào gần đây, mà phải đi xa quá vậy?”
Tôi cười và trả lời:
"Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi đây. Xe đậu trong ga-ra là nơi gần nhất rồi, không có nơi nào gần hơn nữa”.
Anh Phàn hỏi tôi:
"Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy? Lương trả có khá không?”
"Không, tôi làm việc cho công ty tư vấn. Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi đón, phụ đưa gia đình anh về. Đường xa, anh có mệt lắm không?”
"Cũng mệt, nhưng chẵng can gì cả.”
"Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu bé thì hơn”- Tôi nói.
"Kệ nó, để nó làm việc cho quen”
Hành lý quá nhiều, hai chiếc xe hơi không đủ chở. May mắn ông Gary gặp người quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ đến lấy.
Vào ngày chủ nhật đầu tiên của anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng và đãi đồng hương. Anh Hy và tôi, mỗi gia đình đóng bảy mươi lăm đồng làm chi phí. Chị Hy và vợ tôi trổ tài nấu ăn, rộn ràng nấu nướng từ sáng sớm tinh sương. Anh Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, mượn thêm ghế của các gia đình bên cạnh. Chai rượu nho hồng đậm đặt trên bàn bên cạnh bình hoa giả. Anh Hy và tôi lái xe đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi người, cả cháu bé còn bế trên tay. Ba gia đình vui vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng dì. Tôi cảm phục cái tình gia đình của anh Phàn, khi đem bà dì mù lòa di vượt biển. Anh Phàn uống rượu rượu nho như uống nước ngọt, tu một hơi hết nữa ly lớn. Anh nói:
“Rượu nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc rượu Tây mới đã miệng.
Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ, lôi ra nữa chai Vodka, rót vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một hớp nói:
"Cái nầy mới thật là rượu.”
Khi đã ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về cuộc chiến anh hùng chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy bay của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến thì bắn hạ rụng như sung chín. Anh kể công ơn bác, đảng, văn minh tiên tiến. Những chuyện nầy, tôi đã nghe nhiều lần khi còn ở bên nhà. Chị vợ anh Hy giận, nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với bác đảng anh hùng của anh, mà lại đi qua Mỹ làm chi. Anh trả lời là sống với bọn đó không được, sống không nỗi, đời sống thua con chó, khoai sắn còn không có mà ăn, chứ đừng nói đến cơm.
Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng, chị nói:
"Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích ăn cơm.”
Chị vợ anh Hy nói:
"Sống với bác đảng, đói cho rã họng ra, ở đó mà thích quà không thích cơm. Nói làm sao mà tôi không hiểu chi cả.”
Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ đến đưa vợ anh Phàn đi chợ hai lần. Họ nhờ chị Hy đi theo để hướng dẫn và thông dịch. Mỗi lần đi chợ về, thì chị vợ anh Hy cũng kêu điện thoại cho vợ tôi để than vãn:
“Chị biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn thổ quách. Chị ấy lựa những tảng thịt bò đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tướng. Lựa các thức ăn ngon nhất, đắt nhất trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ chưa bao giờ dám đụng đến các thứ thịt đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ vào thịt gà, thịt heo, mà chị ấy lờ đi. Em thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn như cái bị rách. Khi trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt vì số tiền phải trả.”
Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng, nên chọn các thức ăn có giá trung bình hoặc rẽ mà mua, vì chính ngay các bà bảo trợ, cũng rất ít khi dám ăn các thứ đắt tiền đó. Vợ anh Phàn lắc đầu mà nói rằng, mình không trả tiền, tội gì không lựa món ngon mà ăn. Từ đó , vợ anh Hy sinh ra có thành kiến với gia đình anh Phàn.
Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất chu đáo. Mua cho các cháu bé áo quần, giày vớ, áo lót chống lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết chì, viết màu, túi xách mang lưng để đi học, ghi tên cho các cháu đến trường. Khi họ đến thông báo cho gia đình anh Phàn, để hẹn ngày đem các cháu đến trường, thì anh Phàn phản đối, nhất quyết không cho cháu gái đầu mười bốn tuổi đi học. Anh lấy lý do là nhà đông con dại, cháu nầy đã lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt , giúp mẹ nấu nướng. Ba bà bảo trợ cố gắng giải thích, qua sự thông dịch lỏm bỏm của vợ anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ con dưới mười tám tuổi phải đi học. Nếu không được đi học, thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chị vợ anh Hy cũng chỉ hiểu lơ mơ lời các bà, và thông dịch cho anh Phàn. Anh Phàn cứ lắc đầu, nhất quyết không chấp nhận lời khẩn cầu của các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ thuyết phục mãi làm anh Phàn nỗi giận nói gằn với chị vợ anh Hy :
"Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó đi học hay không là quyền của tôi. Sao các bà ấy cứ muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi mãi thế.”
"Pháp luật bắt buộc cho trẻ con đi học. Không phải các bà muốn đâu”
"Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn cảnh gia đình mỗi người, mà cho con đi học. Nhà nước nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự do mà.”
"Đúng, xứ tự do, nhưng không phải cha mẹ muốn làm gì thì làm. Pháp luật bảo vệ con trẻ dưới tuổi trưởng thành.”
"Thôi, chị đừng nói nữa, tôi đã nhất quyết rồi. Tôi đã có phương án riêng cho gia đình tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền tôi nửa.”
    Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc vì không phá vỡ được cái vỏ cứng rắn của anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối hôm đó, bà Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải thích cho anh Phàn hiểu luật pháp Mỹ .
Tôi chưa kịp kêu cho anh Phàn để giải thích, thì điện thoại reo. Anh Phàn ở đầu dây bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi học. Anh nói là họ làm áp lực anh, họ vô lý. Còn bày đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa anh. Nghe giọng nói của anh, tôi cũng phải chùn lại, vì biết rất khó thuyết phục anh trong lúc nầy. Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ theo phe anh, mà nói :
"Anh nói đúng, mỗi gia đình có hoàn cảnh riêng, giải quyết theo cách riêng. Không ai có quyền ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, thì tôi cũng không được rõ lắm. Hay là anh thử kêu điện thoại qua Oklahoma hỏi những người anh quen biết từ ngoài Bắc, mà họ đã đến xứ nầy từ lâu rồi, để biết thêm cho rõ. Biết chắc luật lệ, mà thi hành. Không ai có quyền ép mình theo ý họ, nhưng mình cũng không nên làm trái luật. Có gì thì anh cho tôi biết với.”
Không biết anh có kêu điện thoại cho người quen ở Oklahoma hay không, nhưng sau cùng, anh Phàn cũng phải nhượng bộ yêu sách của nhà thờ, để cho cháu gái mười bốn tuổi đi học. Anh nói rằng : “Thôi, thì tôi cũng tạm thời lui một bước, mình mới đến đây mà căng quá cũng không nên. “
Các ông bà bảo trợ để anh chị Phàn nghỉ ngơi cho hoàn hồn trong hai tháng. Trời tuyết đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, lò sưởi mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi trên ghế bành . Cái máy truyền hình nhấp nhem, nói tiếng Mỹ ồn ào. Anh Phàn bảo rằng, không đi tù, mà cũng giống như bị giam lỏng, bị quản chế. Ra ngoài thì trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cũng không biết đi đâu, đi xa thì không có xe cộ.
Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc cho anh chị làm, thì anh gạt ngang. Anh nói với ông bà bảo trợ, qua thông dịch của vợ tôi:
"Chưa biết nghe, biết nói chi cả chưa thể đi làm được.”
Bà bảo trợ thuyết phục:
"Công việc cần làm, không cần nói, cũng không cần nghe.”
"Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi như các bà, chúng tôi sẽ đi làm việc. Gấp làm chi. Tôi cần đi học tiếng Anh cho giỏi.”
Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm năm ba chục năm nữa, cũng không thể nói và nghe bằng họ được. Đi làm việc, chỉ cần cố gắng làm. Còn nghe và nói, thì ai cũng lơ mơ, nghe một phần, đoán một phần. Mình không lớn lên tại Mỹ, thì hiếm hoi lắm mới nghe và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải vừa làm, vừa học. Nhưng anh Phàn nhất quyết rằng, chưa nghe, chưa nói giỏi thì chưa chịu đi làm. Nghe vậy, mấy bà trong họ đạo, ngày nào cũng thay phiên nhau đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tưởng rằng, trong vòng ít tháng, thì cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ, không giỏi bằng họ, thì cũng một tám một mười. Trong những buổi học tiếng Mỹ, anh Phàn và vợ thấy buồn ngủ khủng khiếp, cứ rán chống mắt lên, mà cái đầu cứ gục lia lịa. Anh chị uống trà đậm chống cơn buồn ngủ cũng không hiệu quả. Anh chị thấy những buổi học nầy, như cực hình, như tra tấn, và nản lòng vô cùng. Học được phút trước, thì phút sau quên béng đi. Không nhớ gì cả. Anh chị kết luận, là cái óc của anh chị đã hư rồi, không thể học được gì nữa. Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cũng nản lòng, bỏ lớp dần dần, và không đến dạy nữa. Kết quả vượt bực. Anh Phàn thì chỉ ấp úng nói được hai chữ “yes” và “no” , vợ anh giỏi hơn, nói được rất ngọng thêm chữ "thank you”. Vợ tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phương pháp sư phạm, nên dạy không kết quả.
Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận là không thể học nói học nghe cho giỏi bằng các ông bà Mỹ được, và anh chị cắn răng để cho nhà thờ thu xếp việc làm cho anh chị.
Mỗi buổi sáng tinh sương, anh Hy đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều chở về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở, xe anh Hy là một đống tuyết khổng lồ, anh phải vất vả đào tuyết moi xe ra. Trong khi anh Hy quần thảo với đống tuyết, với nước mãng nước đá đông cứng trên kiếng xe, thì anh Phàn đứng hút thuốc lạnh lùng nhìn. Anh Hy bất bình, nhưng không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín được, quay qua hỏi anh Phàn:
"Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết cho mau mà ra về?”
"Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!”
"Nhưng... anh có đi trên xe nầy không?”
"Anh lái xe mà, đâu phải việc của tôi”
  Anh Hy giận lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều ngày liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, vì đã lỡ nhận lời gởi gắm của bà Mỹ bảo trợ, nếu không, thì anh chẵng chở anh Phàn đi làm nữa. Tôi an ủi anh Hy, khuyên anh đừng giận anh Phàn, vì đồng hương còn có ai đâu, giận nhau nữa thì còn ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy vì đã đến đón sớm hơn giờ quy định. Những khi nầy, anh Phàn rề rà cho anh Hy phải ngồi chờ thật lâu trong xe dưới tuyết đổ. Có lần anh Phàn ngần ngừ hỏi:
"Tôi hỏi thật, anh đừng dấu nhé. Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao nhiêu, để anh đưa đón tôi đi làm ?”
Anh Hy nghe mà buồn cười, hỏi lại:
"Anh hỏi làm chi vậy?”
"Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số tiền đó khá, thì tôi xin lảnh tiền, và kiếm chiếc xe đạp đi làm cũng được.”
"Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn phí, vì anh là đồng hương, và vì tôi cũng đã từng qua thời kỳ mới đến định cư như anh. Đáng ra anh phải chia tiền xăng, tiền hao mòn xe với tôi mới phải lẽ.”
"Tôi không tin.”
"Không tin thì anh thử hỏi mấy ông bà bảo trợ xem.”
Anh Phàn cười mũi:
"Có hỏi mấy ông bà Mỹ, thì vợ anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn nói chi mà không được. Thà đừng hỏi.”
Anh Hy buồn lắm, nhưng không nỡ nói nặng lời, anh chỉ thở dài:
"Năm ba năm nữa, nếu nhớ lại chuyện nầy, anh sẽ biết rõ sự thực.”
Mỗi ngày, có xe nhà trường đến tận nhà chở ba cháu bé đi học. Cháu lớn học ở trường xa hơn, hai cháu nhỏ học trường tiểu học gần nhà. Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt với nhà thờ về vụ cho đứa con lớn đi học, mà nhà thờ phải nhượng bộ, bằng cách đem xe đón tận nhà, đưa luôn ba đứa đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ con ở thành phố nầy, em nào cũng được vậy, không riêng gì các cháu con anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cười ruồi đáp lại.
Mùa đông miền Trung Bắc nước Mỹ, như mọi ngày đông khác, tuyết đổ ngập đường trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt động liên miên. Muối được rải ra những con đường chính cho xe chạy. Một cháu trai nhỏ con anh Phàn đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng dậy ôm sách vở ra về. Cô giáo cản lại. Hai bên trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai . Cô giáo chỉ ra sân đầy tuyết trắng chất thành đống cao, như muốn nói cho em hiểu rằng không thể đi được, và dắt em về lại chỗ ngồi. Em rươm rướm nước mắt, và đứng dậy, nhất định ra về. Cản mãi không được, cô giáo kêu bà hiệu trưởng. Bà xuống lớp, khuyên bảo em. Hai bên cũng không hiểu nhau. Bà không thể để em bé bảy tuổi ra về một mình trong gió hú, trong tuyết cao chất đầy như thế. Bà cầm tay giữ em bé lại. Em khóc lớn. Hai bà giáo nhìn nhau thất vọng, không biết phải làm gì. Bỗng bà hiệu trưởng nhớ là em bé có con chị học trên nó hai lớp. Bà cho người đi kêu chị nó xuống. Con chị xuống gặp đứa em, nói vài câu. Xong, con chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội cản lại. Kéo hai em vào bên trong lớp. Cả hai đứa đều khóc ròng. Bà hiệu trưởng dẫn hai chị em đứa bé về phòng, và kêu điện thoại cho bà Mỹ trong gia đình bảo trợ, nhờ giúp đở. Bà bảo trợ vào trường ngay. Bà dắt hai chị em về lớp, hai đứa không chịu đi, mà nhất định kéo nhau ra sân, để đi bộ về nhà. Ba bốn cô giáo họp lại bàn cãi. Một hồi sau, bà bảo trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe đến công ty anh Phàn đang làm, xin cho anh được tạm nghỉ, đến trường giải quyết việc học của hai cháu. Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai cháu không chịu học, mà đòi đi bộ giữa mưa tuyết, để về nhà. Anh Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy : "Con cái mất dạy. Đề tôi dến cho chúng vài bạt tai, cho bớt biếng nhác.” Anh Hy vội vã níu anh Phàn lại, đặn dò: "Không được, đánh trẻ con thì cảnh sát còng tay đó . Đừng dại dột.” Anh Phàn hất tay anh Hy ra, và chưa dứt cơn giận: "Vợ chồng anh được cái giỏi là hay hù họa tôi mà thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, thì thành hư đốn. Dạy con từ thuỡ nên ba.” Anh Hy biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng theo: "Bớt nóng giận. Đừng đánh con, tội nghiệp. Có chi thì từ tốn, dạy bảo.” Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát còng tay. Khi xe đến trường, anh Phàn hùng hổ, xăm xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa con. Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt còn ướt sũng lệ. Anh lớn giọng gằn hai đứa bé. Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt chúng ra về. Tuyết ngập trời, tuyết cao nghệu, các bà giáo cản cha con anh lại không cho đi. Không ai cho anh dắt trẻ con đi trong mưa tuyết lạnh lẽo nầy. Anh kéo con đi, nhưng một ông giáo to lớn như hộ pháp đang giữ tay hai em bé lại. Các bà giáo đang vây quanh thì líu lường xôn xao. Anh Phàn nhìn đám thầy cô người Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với nét mặt anh nhăn nhúm đầy đau khổ, anh vội cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và òa khóc lớn. Cả ba cha con cùng khóc vang thảm thiết. Mùi thối tha bốc lên làm ngát mũi. Mấy ông bà giáo người Mỹ cùng ồ lên một tiếng lớn, và cùng cười. Họ hiểu, em bé đã phóng uế ra cả quần. Em đã không biết nói sao để xin cô giáo đi ra phòng vệ sinh, và cũng không biết phòng vệ sinh ở đâu, rán sức cầm cự, và khi hết chịu nỗi, thì phóng ra quần.
Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn đi làm về chừng một tiếng, thì có bà Mỹ đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ xin cho chị được chân rửa bát tại một khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng mười giờ rưỡi đêm, thì mấy bà Mỹ trong họ đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết lạnh, đến chở vợ anh Phàn về nhà. Mùa đông tỉnh lẻ, họ ngủ sớm, mười giờ đêm là đã say giấc, họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ tôi thường biểu lộ sự cảm phục lòng tốt của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai mà không muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội tuyết ra đi là một cực hình. Có nhiều đêm, vì lý do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy lúc năm giờ, để kịp năm giờ rưỡi khởi hành, đi làm, nhưng tôi vui vẻ nhận lời ngay, để cám ơn cái lòng tốt của các bà Mỹ, đã giúp cho người đồng hương của tôi. Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không dám từ chối, sợ các bà cho là tôi không có lòng. Mỗi lần đi đón, thì tôi phải cào tuyết trên xe hơn mười lăm phút, chờ máy nóng mới đi được. Bỡi thế, nên thường đến trể. Chi vợ anh Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời nào . Cả không một lời cám ơn, một lời chào khi được đón và khi về thấu nhà. Có lần chị nói :
"Nếu đón tôi, thì đừng đến trể. Ngồi chờ rất nản.”
"Tôi được các bà Mỹ kêu, nhờ đi đón chị, thì tôi đi ngay. Phải mang áo, phải cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hơi trể, chị đừng buồn. Các bà người Mỹ tử tế quá, đêm nào cũng đi đón chị trong lạnh lẽo, mưa, tuyết.”
"Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử tế!”
Tôi không buồn mà thương cho chị. Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất nhiều về lòng tốt của những người chung quanh.
Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà, để nhờ chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện gì, anh nói sẽ cho biết sau. Anh Hy cười nói với tôi rằng, sao cái lối nói nầy giống hệt cách thức của công an nhà nước cọng sản hồi trước. Buổi chiều đi làm việc về, có “giấy mời” tối nay ra trụ sở công an, lý do "Cho biết sau”. Cứ thế mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện gì, không biết có bị nhốt luôn hay không. Ra đi mà hồi hộp, mà dặn dò vợ con phải làm gì để sinh sống, nếu bị nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh Phàn mà không phải hồi hộp, không phải lo lắng. Anh Chị Phàn cùng bà cụ đã ngồi sẵn trong phòng khách. Họ rót nước trà mời chúng tôi, xem bộ trịnh trọng, không lạt lẽo như thường ngày. Sau một hồi thăm hỏi xả giao, anh Phàn tằng hắng nói:
"Tôi mời các anh chị đến đây, vì không còn ai có thể giúp cho chúng tôi được trong hoàn cảnh câm điếc này. Nhà thờ đã ăn chận của gia đình tôi mỗi tháng hơn hai ngàn đô. Tôi van xin các anh chị, nói với các ông, các bà trong nhà thờ, cho chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm vốn, ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho hãng sửa tàu, cho khách sạn, thì biết bao giờ mới ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi van lạy các anh chị, xin giúp chúng tôi, và vì thương các cháu nhỏ ...”
Cả bốn người chúng tôi bàng hoàng, không tin vào lổ tai mình. Chị vợ anh Hy ấp úng hỏi lại:
"Nhà thờ ăn chận tiền của anh chị? Mỗi tháng hơn hai ngàn ? Sao? Anh nói rõ hơn được không?”
Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rõ ràng:
"Đừng vờ vĩnh. Gia đình tôi có tám người, nhà nước Mỹ cấp cho, ít nhất cũng trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ, tiền nhà mà mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng mấy trăm là cùng, thì cũng còn hơn hai ngàn đồng mỗi tháng, chứ có ít đâu. Nếu không ăn chận, thì tiền đó để đâu, vào túi ai?”
Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi:
“Ai nói với anh điều đó? “
"Chúng tôi biết rõ lắm, không cần ai nói cả.”
Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cũng đã đến đây trước. Anh rõ thủ tục. Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ, mua cho đủ các thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ kiếm việc cho mình làm. Khi đã có lương tiền, thì mình phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà thờ.”
Mặt anh chị Phàn và cả cụ già đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua ngoét:
"Chúng tôi đâu có ngu. Tôi biết rõ hai ông bà Hy nầy là những con cò mồi của nhà thờ. Biết rõ đến mười mươi.”
Anh Hy run lên vì giận, chị Hy thì mặt đỏ bừng, thét lên the thé:
“Làm cò mồi để được cái gì? Ăn nói như những kẻ vô ân bạc nghĩa. Nói như vậy mà không biết tự xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng người nầy thêm xấu hổ, thêm nhục nhã cho cái giống nòi mình mà thôi.”
Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy, giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói với anh Phàn:
"Tuần tới, ông tự kiếm lấy phương tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm mọi cho ông nữa.”
Vợ tôi cũng giận và muốn ra về theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu, bảo ngồi yên. Anh Phàn phân trần tiếp:
“Chuyện trợ cấp cho người mới định cư là luật của nhà nước Mỹ. Rõ ràng, không ai chối được. Chúng tôi đã biết rõ từ hồi còn ở trại tị nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận tiền, rõ ràng thế, mà còn chối loanh quanh.”
Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng anh Phàn, vì hiểu lầm, nên có nhiều suy nghĩ và hành động đáng tiếc. Tôi cũng không dám nói thẳng là anh đã hiểu lầm luật lệ. Biết là khó mà giải thích cho gia đình anh Phàn hiểu, không chừng càng giải thích, thì càng gây thêm nhiều ngộ nhận khác. Tôi ngồi im một lúc suy nghĩ. Anh Phàn nói tiếp :
"Bây giờ chỉ còn hai anh chị. Tôi nhờ anh chị ‘báo cáo’ lại cho nhà thờ những đòi hỏi chính đáng của gia đình chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.”
Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống hệt những anh cán bộ trong các buổi học tập chính trị bên nhà, thì phì cười, hết giận. Vợ tôi nói:
"Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ đạo nầy dư công rỗi nghề gớm nhỉ. Mình ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân nghĩa, không nợ nần, lại nai lưng ra bảo lảnh mình vào đây, cho nhà ở, cho cơm ăn, cho áo mặc, lo cho đủ thứ. Lại bị ghét bỏ, thật đáng đời. Của nợ giữa đường mà mang cõng lên lưng. Anh chị xem, không biết họ bảo lảnh cho mình, thì được lợi lộc gì nhĩ ? “
Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một lúc, với giọng chắc nịch:
"Để lập thành tích chứ để làm gì. Ai mà không biết.”
Vợ tôi bật cười ha hả và nói tiếp:
"Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng !”
Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng đùa nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai anh chị Phàn và gia đình. Chữ hứa của tôi, trong thâm tâm, là hứa cố gắng giúp anh chị giải tỏa những hiểu lầm đáng tiếc, nhưng có lẽ anh chị Phàn tưởng là tôi sẽ đến nhà thờ đòi tiền “ăn quỵt” giúp cho anh chị.
Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy. Anh chị Hy chưa nguôi giận. Chị vợ anh Hy nói:
"Chúng nó là thứ vô ân bạc nghĩa, không biết đạo lý làm người. Khi nào cũng ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là đấu tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà ngứa lỗ tai, chịu không nỗi.”
Vợ tôi nói:
"Họ còn cho rằng, nhà thờ muốn lập thành tích nên bảo lảnh họ đến đây.”
Anh Hy phì cười, nói:
"Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết hết không còn một mống. Thôi, anh chị cũng nên tránh xa gia đình anh Phàn, để tránh bực mình và rắc rối về sau. Những hạng người nầy, không chơi được.”
Tôi nói:
"Thôi, anh chị bớt giận. Tất cả cũng do hiểu lầm. Người ngoài, không cùng màu da, không cùng dòng giống, mà họ còn tận tình giúp đở. Mình không giúp nhau, thì làm sao cho lòng yên ổn được.”
"Nhưng họ nói cái giọng khó nghe của ‘bọn dân tộc anh hùng’, ngứa tai chịu không nỗi.”
Tôi dịu giọng:
"Họ cũng là nạn nhân dài hạn của chế độ. Họ còn đáng thương hơn chúng ta nữa, vì chịu đã chịu đựng chế độ lâu dài hơn hai mươi mấy năm. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, được giáo dục theo lối đó, thì không chừng chúng ta tệ hại hơn anh chị Phàn bây giờ. Anh chị đừng buồn nữa. Thứ hai nầy, anh cứ đến chở anh Phàn đi làm như thường nhé. Chúng ta không thương nhau, thì ai thương chúng ta được?”
Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết nghĩ sao, vào tối chủ nhật, anh Hy nhờ tôi điện thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ hai, sẽ đến đón anh Phàn đi làm như thường lệ. Tôi nghe mà mừng. Nhưng anh Hy và anh Phàn vẫn còn buồn nhau. Cùng đi cùng về mà giữ im lặng, không nói một lời. Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: “Bố bảo, thằng Hy cũng không dám thôi đưa rước tôi đi làm. Nó còn phải rình mò, dò xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ.”
Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ đến chở toàn gia đình anh Phàn đi nhà thờ xem lễ. Với ý nghĩa làm ơn, làm phước, cứu vớt linh hồn của một gia đình ngoại đạo tội nghiệp, chưa biết đến danh Chùa Trời, đem ơn phước đến cho họ. Nhưng gia đình anh Phàn cắn răng chịu đi nhà thờ, là để làm ơn cho các ông bà Mỹ, làm họ vui lòng, may ra họ nghĩ lại mà trả lui số tiền họ đã ăn chận. Chứ đến nhà thờ, theo anh Phàn nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói gì, buồn ngủ lắm, ngồi lâu mỏi lưng, tê chân. Anh Phàn nói với tôi rằng: "Mấy ông bà Mỹ sang trọng, giàu có nầy, nhưng keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi lễ xong, có người cầm cái vợt đi thu tiền, tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một đồng thôi. Để cho họ xấu hổ, nhục nhã, khi nào tôi cũng bỏ vào vợt mười đồng.” Tôi chỉ cười, không dám có ý kiến.
Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi vào buổi tối, đem tặng một gói trà Tàu bèo nhèo mà anh đã mua từ Hồng Kông . Sau một vài câu chuyện vu vơ, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có mười bốn tờ, đưa cho tôi xem, và hỏi những món hàng ghi trong điện tín có thể mua ở đâu, làm sao tìm ra tiệm bán giá rẻ. Tôi lật từng trang điện tín từ Hãi Phòng, Hà Nội. Móng Cáy điện qua, do nhiều người khác nhau đành đi, yêu cầu gởi những món đồ gia dụng như máy nghe nhạc, máy chụp hình, xe đạp đua, vải vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những món linh tinh khác nữa. Anh nói :
“Bên nhà tưởng tôi qua đây đi ăn cướp tiền của thiên hạ anh ạ. Tiền đâu mà đòi hỏi đủ thứ như thế nầy? Tôi cũng nhức đầu về mấy cái điện tín và thơ từ liệt kê dài lòng thòng các món hàng họ đòi hỏi. Điên lên được đấy chứ .”
Tôi an ủi anh:
"Bên nhà họ khổ quá, mình giúp đở được ít nhiều chi, thì giúp trong khả năng của mình. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích.”
"Người ta tưởng qua đến Mỹ là hốt tiền thiên hạ như hốt lá vàng. Mỹ nó ngu cả hay sao? "
Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe đưa anh lên Chicago, tìm các tiệm bán hàng cần thiết để anh dò hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm trăm đồng, có tiền lời mười phân, và sẽ hoàn trả lại khi lảnh được tiền trợ cấp. Tôi cười bảo anh:
"Để tôi bàn lại với vợ tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. Vì hầu bao trong gia đình do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi ngày tôi phải ngữa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và nếu có cho anh vay, thì cũng không dám lấy lời. Ở Mỹ mà cho vay cắt cổ, thì cũng dễ vác chiếu ra tòa lắm.”
"Tiền lời là do tôi đề xuất, và bằng lòng, chứ anh có ép tôi đâu? Anh tự quyết định cho tôi vay không được sao? Các anh yếu đuối quá, anh Hy cũng vậy, để cho vợ lấn lướt, qua mặt. ”
Tôi cười, nói đùa:
"Đàn ông miền Nam chúng tôi không được dũng cảm như các anh. Mà khi ở trên đất Mỹ nữa , thì chúng tôi càng xìu như sợi bún thiu.”
Làm việc được bốn tháng, anh Phàn bỏ việc mà không thông báo cho công ty, nên anh bị sa thải. Mấy người bảo trợ trong nhà thờ đến nhà anh tìm hiểu sự việc để giúp đở. Họ kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông dịch, nhưng anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ tôi. Nhóm nhà thờ gồm năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi lý do thôi việc. Anh Phàn lừng khừng đáp:
"Không muốn làm việc nữa, thì nghỉ.”
"Thế anh đã kiếm ra việc làm khác chưa ?”
"Chưa”
"Không có việc làm, lấy tiền đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?”
"Tôi không biết!”
"Tại sao anh không muốn làm việc đó nữa? Có vấn đề gì không? “
"Không có vấn đề chi cả. “
"Anh có muốn nhà thờ tìm việc khác cho anh không?”
"Chưa muốn. Khoan đã.”
Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu, nhìn nhau, rồi nhìn anh Phàn với ánh mắt thương hại. Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn gì không? Anh nhờ vợ tôi nói, là muốn nhà thờ trả lại cho anh số tiền hơn hai mươi ngàn mà họ đang giữ giúp, để anh tính kế làm ăn. Vợ tôi tái mặt, không biết phải nói làm sao, để hội nhà thờ không bất bình. Ngập ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết muốn biết những chi phí của nhà thờ đã chi tiêu cho anh, và ai đã đóng góp bao nhiêu, quỷ nhà thờ bao nhiêu, và nhà nước cho bao nhiêu, để anh tri ân họ. Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết, đừng nghĩ đến, đừng thắc mắc. Vợ tôi năn nỉ, nói rằng, nếu không được biết những điều đó, thí anh Phàn cứ thắc mắc mãi, không yên tâm để làm ăn. Các ông bà cười sung sướng, thoải mái.
Cuộc đấu tranh kiên cường của anh Phàn gần thành công mà anh không biết. Khi nhà thờ thấy anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa, họ cũng quýnh lên, lo lắng lắm. Họ đạo cũng nghèo, tín hữu cũng không giàu có chi, không thể đài thọ dài ngày cho cái gia đình đông đảo nầy được. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định ngày đem gia đình anh Phàn lên sở xã hội xin trợ cấp của quận hạt. Nhưng anh Phàn loan báo rằng, anh sẽ dời nhà về Oklahoma City. Cả họ đạo thở phào. Anh Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị nạn cũ, họ đã định cư ở Oklahoma, và biết rành mạch cách xin trợ cấp xã hội.
Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia đình về Oklahoma City, đồng thời dàn xếp xe cộ để chở anh chị ra phi trường. Ông Gary và bà Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn, để chở hành lý cồng kềnh của gia đình anh. Tôi và anh Hy, hai xe sẽ chở người trong gia đình. Anh Phàn nói nhỏ với tôi rằng, trước khi đi anh sẽ đốt căn nhà dể trừ vào số tiền nhà thờ đã ăn quịt của anh. Ăn của ai thì được, ăn của anh thì nuốt không trôi đâu. Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI của Mỹ giỏi lắm, thế nào họ cũng điều tra ra. Và tội chi đi tù cho khổ thân, con cái không ai nuôi. Mình đến đây, đời sống còn dài, còn sức thì còn làm ra tiền. Vã lại, có đốt căn nhà, mình cũng không được đồng xu nào, chưa chắc đã hả được cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào thân. Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, thì thêm tội nghiệp những người láng giềng tốt của anh. Anh nói rằng, nếu không đốt được nhà, thì trước giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống nước, phá tủ lạnh, đập bếp. Tôi cười bảo rằng, anh cứ lo đi trước, sau khi anh đến Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi được, mất toi tiền máy bay.
Ngày anh Phàn ra phi trường, tôi và anh Hy xin nghỉ việc, thay phiên nhau đến nhà anh, lấy cớ là phụ soạn hành lý, nhưng thật tâm là để ngăn cản anh phá hoại căn nhà. Khi cả nhà lên xe hết, anh Hy chạy vào một vòng bên trong nhà, xem có gì hư hại không. Anh Hy ra xe và đưa hai ngón tay lên làm một vòng tròn, cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp. Tôi thở phào.
Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với ông Gary và bà Eva rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gời tiền, mua vé máy bay, mời cả họ đạo của ông bà qua chơi, anh sẽ bao tiền săn ở, bao tất. Tôi dịch khác đi, nói là anh biết ơn hai ông bà lắm, và không bao giờ quên cái ơn bảo bọc lúc ban đầu nầy. Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy anh chị mà nói cám ơn rối rít. Anh Phàn thì tưởng hai ông bà mừng vì được anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo sẽ được đi chơi.
Khi đưa gia đình anh ra máy bay, chúng tôi ôm nhau thân thiết, và mắt anh Phàn cũng rươm rướm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng, thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.
Đưa gia đình anh Phàn đi rồi, anh Hy nói với tôi rằng: "Thế mà tôi cũng thấy buồn, trống trải, như mất mát một cái gì đó. Bây giờ chỉ cỏn hai gia đình mình trong thành phố nầy thôi.”. Trong lòng tôi cũng thấy buồn.
****
Mười sáu năm sau, kể từ khi đưa gia đình anh Phàn về Oklahoma, tôi tình cờ gặp lại anh trong một tiệc cưới tại Houston, Texas. Anh nhận ra tôi, mà tôi không nhận ra anh. Vì bây giờ anh mập mạp, trắng hồng, ăn mặc chững chạc, không còn dáng quê mùa như xưa. Chị vợ anh thì sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, như cô ca sĩ. Anh ôm chầm lấy tôi, hỏi có còn nhớ ra anh là ai không. Anh nói: “Phàn đây, Phàn ở Morris, Illinois đây mà.” Tôi cũng mừng vui gặp lại người quen biết xưa. Anh xin chuyển bàn, để vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn huyên. Anh cho biết ở Oklahoma được hai năm , thì dọn về Houston, bây giờ cả hai vợ chồng đều làm việc cho một hãng sản xuất đồ nhựa. Suốt hơn mười mấy năm anh làm hai việc toàn thời gian, mỗi đêm chỉ ngủ năm sáu giờ thôi. Ngày nghỉ thì đi sửa chửa nhà cửa, ống nước. Hai cháu gái lớn đã có gia đình. Cháu trai kế thì vừa tốt nghiệp đại học. Bây giờ anh chị Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn cho thuê.
Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng thành thật:
"Hồi mới qua, chắc anh chị buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi còn ân hận, và xấu hổ vì chuyện xưa. Bị thông tin sai lạc, tôi hiểu lầm, làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ cục, bậy bạ. Lại ăn nói ngang ngược. Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ‘ Bầu bí một giàn’ của anh Hy nói ngày xưa.”
Chị vợ anh Phàn cười vui vẻ, nói tiếp:
"Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng không bỏ được cái phét lác đã ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời.”
Chúng tôi cùng cười với nhau. Tôi nói đùa:
"Nếu phét lác mà không hại đến ai, thì cứ để anh phét lác cho sướng cái miệng. "
Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc, cười vui vẻ.


thanks.gif
Back to top
« Last Edit: 08. Mar 2012 , 16:31 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Truyện ngắn: Giặc I-Meo
Reply #140 - 19. Mar 2012 , 22:35
 




Truyện ngắn
Giặc I-Meo


...






1 Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ này rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hoá Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
Tiễn bé Út đi rồi, trên đường từ phi trường San Francisco về nhà, ông Giáo vừa lái xe, vừa im lặng trầm ngâm như một nhà hiền triết. Bà Giáo ngồi bên cạnh ngủ lơ mơ hay làm bộ nhắm mắt không phải vì bà đã quá quen thuộc với con đường mà vì bà cảm thấy trí óc trống không. Hai vợ chồng già đã sống chung với nhau hơn 30 năm dưới một mái nhà nên hình như mọi góc cạnh của đời sống đã đạt đến trạng thái “bão hòa”. Những xôn xao tình cảm và xúc cảm rạo rực quấn quyện nhau một thời rơi dần vào kho chuyện tình quá khứ và “đằm” xuống đến độ những bọt sóng trên mặt hồ ái ân tan loãng và mất dấu sau bầy sóng gợn lăn tăn. Hấp lực tạo hoa lá cành cho cuộc sống mất dần, để còn trơ lại những nhánh cây tình cảm thu đông. Hai ông bà Giáo bắt đầu mất đi cái nhìn sáng tạo của tình yêu, nên nhìn nhau bằng hình ảnh hiện thực khẳng khiu của những cành cây trụi lá. Chuyện ái ân thể xác đến và đi hiếm hoi, bất chợt như những đám mưa giông mùa hè. Có cũng được mà không có rồi cũng dễ dàng quên đi. Nhưng quên đi để mà nhớ. Nỗi nhớ từ khát vọng rất người vắng bóng dần trong hiện thực, nên chỉ còn lại khung cảnh vẽ vời trong hoang tưởng ước mơ.
Hiện thực mất đi những cặp kính màu sương khói. Bà Giáo nhìn ông Giáo bằng cái nhìn “khám phá”. Bà bắt đầu cảm thấy tiếng ngáy đêm đêm của ông Giáo cục cằn và thô thiển quá. Bà khám phá mùi mồ hôi toát ra từ thân thể của ông Giáo ngày một hăng nồng khó ưa. Bà không chịu nổi mùi thuốc lá thoang thoảng đâu đó từ hơi thở của ông ta mà bà đã từng làm thơ học trò thuở ban đầu hò hẹn: “Em vẫn yêu hương khói Capstan. Thoảng ra dìu dịu từ môi anh...!”. Hương khói Capstan lãng mạn ngày xưa nay chỉ còn là sự ngu ngơ dại khờ của quá khứ. Bà cảm thấy dáng nằm co quắp của ông Giáo quả là tội tình không quý phái... Sự khám phá không sáng tạo, mỗi ngày một thô và cứng hơn làm bà phải trăn trở đêm này qua đêm khác. Bà không ngủ được. Bệnh mất ngủ ngày một nặng hơn. Mãi cho đến khi ông phải tình nguyện xách gối qua phòng khác...
Ông Giáo nhìn bà Giáo bằng cái nhìn đầy... “triết lý trần trụi”. Nhìn nụ cười hằn sâu nét chân chim hai bên khóe mắt của bà Giáo, ông Giáo ngậm ngùi yên lặng và cảm thấy thương Bà hơn. Nhưng đó là cái thương nghiêm trang và đủ mạnh để khoanh tay thi lễ chứ không phải tạo sự xúc động để ông mở rộng vòng tay ôm choàng lấy bà trong đam mê. Nhìn hàng chân tóc bạc chưa nhuộm kịp của bà, ông cảm thấy ngao ngán và thương cảm cho kiếp người ngắn ngủi “sớm như tơ mà tối đã như sương”. Mái tóc bạc làm cho ý thơ về mái tóc trầm hương, tóc mây cuộn gió một thời bay đi không về lại. Mỗi lần bà Giáo leo lên xe, nếu không nằm ngủ thì cũng nhắm mắt lim dim như thể ông Giáo cũng là một cái máy chạy bằng cơm đang lái cái máy chạy bằng xăng chẳng ăn nhập gì đến bà.
Ông bà Giáo đã sống lặng lẽ những tháng ngày “bách niên giai lão” trong ngôi nhà sang trọng, tưởng như là tổ ấm của hạnh phúc nhưng quả thật đó là một “ngôi nhà ly dị”. Sự ly dị thầm lặng của tâm hồn. Sau giờ làm việc về nhà, ông Giáo sống lui cui hết vườn trước, ra vườn sau để đào đất, trồng cây, tỉa hoa, cắt lá... cho đến tối mịt. Gặp khi trời mưa, ông sống đam mê trong việc trang trí nhà cửa. Bà Giáo cũng vẫn còn đi làm phụ để tiêu khiển nhiều hơn là vì sinh kế. Về nhà, bà không có thì giờ nghỉ tay. Ngôi nhà mênh mông cũng giống như người đẹp cần chút son phấn hàng ngày. Bếp núc tân kỳ, nền gạch hoa, thảm mới, bàn ghế đắt tiền, giường tủ... đâu đâu cũng vướng bụi đòi hỏi bàn tay lau chùi chăm sóc của bà. Góc này chưa lau sạch, góc kia đã vướng bụi trần gian. Cũng như ông Giáo, bà Giáo làm cho đến khi đi ngủ.
Hai người lặng lẽ, rán sức gìn giữ ngôi nhà tươm tất từ trong ra ngoài. Nhiều khi suốt ngày người này nhận biết có sự hiện hữu của người kia trong nhà nhưng chẳng hề thấy nhau. Ông đăm đăm nhìn vào đối tượng cần làm với búa kềm, cuốc xẻng trong tay. Bà miệt mài kỳ cọ lau chùi nên chỉ thấy nền nhà và vật dụng. Đêm đêm bà ngủ một mình trong phòng ngủ chính rộng thênh thang ở tầng trên. Ông nằm lơ mơ coi truyền hình chút đỉnh ở phòng sinh hoạt gia đình ở tầng dưới và ngủ luôn trên ghế sô pha. Năm phòng ngủ trang bị tân kỳ để trống cho bụi tháng ngày phủ xuống, mời gọi bàn tay lau chùi thoăn thoắt của bà ngày lại ngày.
Mỗi người đều có nỗi “đang bận tay nửa chừng” nên thản nhiên khuyên người kia cứ ăn cơm trước. Bữa ăn chiều thưa dần hình ảnh hai mái đầu tiêu muối so đũa cho nhau. Cơm canh chỉ là phương tiện làm no bụng. Miệng ông nhai nhưng đầu óc vẫn gắn chặt với công việc đang làm còn bỏ dở ngoài kia. Bà nuốt miếng cơm như cái máy xay sinh tố, không một chút quan tâm vì tâm trí còn nằm lăn lóc đâu đó trên nền nhà, mặt ghế.
Ông bà đã sống gần như ly thân một cách êm ái từ trên giường ngủ và ly dị một cách vô hình chung từ trong suy nghĩ về nhau.
Ngôi nhà đã âm thầm quyết định và làm chứng cho sự ly thân không có lệnh tòa phán quyết của hai ông bà Giáo.
Ngôi nhà rồi cũng cũ dần như tuổi già mệt mề của hai ông bà Giáo. Hai ông bà chỉ có chung một niềm vui là ngôi nhà càng ngày càng lên giá, nhưng lại có riêng nỗi buồn là tình già càng ngày càng xuống giá. Sự lên giá vật chất không chuộc được sự phá sản tâm hồn. Bè bạn đến thăm để chung vui, nhưng chẳng có ai đến chia sẻ nỗi buồn vì niềm vui có thể tính toán được bằng giá trị vật chất, nhưng nỗi buồn lại được gói trong trong chăn bông và bên ngoài bọc giấy kiếng nên thiên hạ làm sao thấy được giọt nước mắt của thằng hề nơi hậu trường sân khấu.
Rồi có những lúc ông bà nhìn nhau thật xa lạ. Mỗi người có cảm tưởng như đã gặp người kia đâu đó nhưng chả có gì quan trọng để nhớ lại. Tình cảm như tấm thẻ tín dụng đã hết hạn không “renew”. Đó là tấm thẻ chết và tình cảm vô tri. Khi không có một bình minh thì làm sao thấy được một hoàng hôn. Nếp sống ngày lại ngày chỉ còn là một chuyến tàu tình cảm bay lạc mất trong không gian.
Lại đến sinh nhật thứ 60 của ông Giáo.
"Kính mừng Ba lên Lục Tuần Thượng Thọ – Happy to your 60th Golden Birthday, Daddy!”
Đọc hàng chữ đỏ ghi trên tấm thiệp vàng dán ngoài thùng quà, ông Giáo bỗng thấy một cảm giác là lạ như đang chứng kiến chuyện của ai kia! Cái gã “lục tuần” đó là ai thế? Mình đang trở thành ông Cả, ông Lý, ông Hương... như ngày xưa các vị bô lão chức sắc trong làng, trong xã chiều chiều khăn đóng, áo dài đen chống dù đi ăn giỗ rồi sao? Hình như vào chặng tuổi năm lăm, sáu chục về sau, người ta không lớn kịp với tuổi trẻ và không già kịp với tuổi già. Thời gian thì qua nhanh vun vút mà giới tài tử giai nhân ngũ thập, lục tuần vẫn cứ quen nhìn thằng Cu, con Bé hai chục năm xưa qua hình ảnh ngây thơ thời tiểu học và quên mất cảnh gối lỏng, chân mòn hôm nay của gã hào hoa tam tứ núi cũng trèo thuở nọ.
Tâm lý “ngồi lại bên cầu” làm ông Giáo cảm thấy bâng khuâng. Ông thở dài, nhìn ngôi nhà nguy nga đồ sộ, nhìn lại dáng vẻ mệt mõi, bạc màu của bà Giáo và của chính mình. Ông cảm thấy như đang làm kẻ thua cuộc. Quay lại nhìn ngày qua, cây non trong vườn đã thành đại thụ và ông thành gỗ mục tuổi già. Cây đại thụ thì vươn mình với nắng gió mà tuổi già của ông thì lặng lẽ thu mình.
Nhưng rõ ràng trước mắt là cảnh tre già măng mọc. Ngôi nhà lại rộn lên với bóng dáng của con cháu đầy đàn. Ông bà vui cười hể hả vì thấy rõ ràng mình chính là tác giả của bầy nhân loại trẻ trung, nhiệt thành, đầy sức sống đang vây quanh. Quà sinh nhật cho ông Giáo năm nay là cái máy computer Dell xách tay đời mới nhất, thay cho cái máy để bàn sẽ được chuyển giao lại cho bà Giáo. Quà kèm theo là việc gắn hệ thống “internet” chạy nhanh DSL trong nhà. Cũng trong dịp này, bầy con dùng áp lực bắt ba mẹ già phải nghỉ ngơi, bằng cách thuê bao người làm vườn và chùi dọn nhà cửa hàng tuần.
Lại hết một cuối tuần sinh nhật rộn ràng, bầy con ai về nhà nấy, trả lại cho ông bà Giáo cái không khí yên tĩnh gần như cô liêu của căn nhà.
*
Khi một thế giới tình cảm rơi vào im lặng của một trật tự mới, những kẻ có lòng thường không chịu buông xuôi. Người ta làm văn, làm thơ, và thậm chí, ... làm ồn – để khỏi... làm thinh!
Thiên tài văn nghệ phát xuất từ ngạch đất của bà Giáo. Sự nghiệp văn chương le lói hay lẫy lừng của bà Giáo chỉ thật sự bắt đầu từ ngày bà làm chủ riêng cái máy computer và biết sử dụng i-meo (email). Từ một mình cô độc trên mạng lưới “Yahoo.com”, bà Giáo đã dần dà quy tụ được hàng chục, rồi hàng trăm bạn hiền trên trường văn trận bút của mạng lưới khắp năm châu, bốn bể. Những người bà chưa biết mặt, cũng chẳng biết tên. Khuôn mặt và lai lịch mỗi người chỉ có một dãy chữ số. Có người thầm lặng, có kẻ lao xao. Có người bốn mùa chỉ đọc mà không lên tiếng, có kẻ siêng năng vẫy vùng trên mạng lưới suốt ngày.
Làm sao quên được cái quán thơ của bà Giáo thuở mở hàng chỉ có lơ thơ dăm ba hàng chữ nghĩa mây bay: Đấy là vài bài thơ xào nấu lại từ thuở học trò. Thế nhưng cái “lộc” văn chương từ đâu lại đến. Chỉ mới dăm bài thơ tung ra chưa hết quyền cước thi ca thì đã có lời khen tặng tung ra trên mạng lưới. Lần đầu, bà cảm thấy vừa vui vui, vừa đỏ mặt một mình, vừa có chút xôn xao đâu đó mới dấy lên trong lòng như thuở mới yêu đương lần đầu có chàng tán tỉnh: “Em yêu ơi! Em đẹp quá!”. Đó là khi có người gọi bà là “Nhà Thơ”, là “Thi Sĩ”! Ôi! Cái huyền thoại thi nhân không lẽ chỉ dành riêng cho Lý Bạch, cho Nguyễn Du, cho Xuân Diệu, Tản Đà, Hàn Mặc Tử... ngồi mòn đũng quần trên những chiếc chiếu hoa cạp điều làng thơ muôn thuở hay sao.
Ngay cái việc chọn bút hiệu cũng đủ làm bà nhiều đêm thao thức. Nếu chọn những tên hay nhưng quá xa lạ, lỡ bà làm thơ hay thì người đời còn lâu mới biết thân thế sự nghiệp thực sự của bà. Còn nếu chọn tên thật lỡ biết đâu thơ bà dở như hạch thì sẽ muối mặt muối mày với bà con bằng hữu! Thôi thì cứ níu áo đức Khổng Tử mà nương theo cái thuyết Trung dung vô thưởng vô phạt của ngài. Bà giáo xin cắt phần trước cái tên cúng rượu Lê Thị Trâm của bà để thành “Trâm Anh” cho nhẹ bước đi vào đường văn học sử. Nhà thơ Trâm Anh, thi sĩ Trâm Anh... nghe ra cũng chan chứa hồn thơ! Bên cạnh địa chỉ email chính thống của mình, Trâm Anh còn tạo ra thêm vài ba địa chỉ email “vệ tinh nhân tạo” bay vòng vòng xung quanh nàng, đóng vai tam nương phò đại hãn. Lỡ có bề nào cãi cọ nhau thì vẫn còn bên vuốt, bên thoa.
Với Trâm Anh thì hồn thơ lai láng, nhưng với ông Giáo thì hồn thơ “ngao ngán” vì từ ngày hồn thơ nhập xác bà Giáo rồi thì ăn ngủ, chơi đùa, mua sắm, rửa chén, chùi nhà... nơi đâu cũng thấy lãng đãng một trời thơ. Có lẽ cũng nhờ thế mà bà Giáo bỗng nổi tiếng trên thi đàn hải ngoại khá nhanh. Chỉ trong một thời gian ngắn, thơ bà chuyển từ thế thủ sang thế công, từ tĩnh sang động, từ phóng tác sang sáng tạo. Như một môn sinh môn phái thần quyền trong thi ca, bà niệm chú và múa quyền là nguồn thơ tuôn trào như thác đổ. Bà quên dần những tượng đài thi ca sừng sững của Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử, Quang Dũng, Xuân Diệu... từng có một thời bám sát theo dòng tưởng tượng của bà. Mỗi ngày, có cả hàng chục, đôi khi hàng trăm i-meo ào ạt gửi tới xông đất nhà bà. Cái đòi xướng họa, cái khen tặng, cái phân tích, cái bình phẩm thơ Trâm Anh. Khách mộ điệu “hàng sỉ – whole sale, bulk rate” thì bà trả lời chung chung hàng loạt. Khách yêu thơ “hàng lẻ – celebrity” có chút tiếng tăm thì bà lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Bà đã mất nỗi lòng ngượng ngập của cô dâu mới khi có ai gọi bà là “nhà thơ” là “thi sĩ”. Tiếng trống múa lân đã làm cho đầu rồng thi ca hứng chí bay lên chín tầng mây. Bà cảm thấy thơ mình hay qua lời ca tụng của khách i-meo nườm nượp trên màn ảnh nhỏ. Bà bắt đầu cảm thấy khó chịu khi có những i-meo lạc loài tỏ ra ương ngạnh chưa chịu “mê” thơ bà. Gặp những trường hợp như thế thì bà chỉ cần vươn tay bóp chuột “đi lết” (delete) một phát là xong đời thằng nhỏ. Cái màn ảnh computer còn phù du hơn cuộc sống. Cả một thành quách lâu đài của vẻ đẹp, khôn ngoan, trí thức, ân tình... chỉ cần dòng điện không qua hay một động tác bấm nút chớp mắt thì tất cả chỉ còn là cái màn ảnh trống trơn, đen ngòm, lạnh lẽo.
Thế nhưng, cái thế giới tưởng như ảo ảnh phù du đó trở thành lẽ sống của người đàn bà ở lứa tuổi ngoài 50 ấy. Bà chuyện trò với nó, vui buồn với nó, ôm ấp nó. Trừ những lúc bận rộn thái quá hay ngủ say, bà siêng năng và nhẫn nại “check email” trong mỗi 15 phút.
Thế giới i-meo là một thế giới của “thực tế ảo”. Người đó nhưng là ma đó! Phải có người thật làm chủ i-meo, nhưng người đó là ai, ở đâu, già trẻ thế nào, mặt mũi ra làm sao thì chỉ có trời mới biết. Những dòng chữ hiện ra trên màn ảnh đôi khi ngỡ gần gũi và nồng ấm như đang thì thào bên mang tai. Nhưng thật ra là muôn trùng xa cách. I-meo như tiếng hát của loài mỹ nhân ngư gần gũi mà xa vời trên bờ đại dương. Vì chưa gặp nhau, chưa biết nhau và thường thì sẽ chẳng bao giờ gặp nhau nên cái biên giới ngượng ngùng của hai cõi riêng tư không có người canh gác, hai “emailers” tha hồ thủ thỉ tâm tình mây mưa, vặn hết “volume” nói trạng hay đăng đàn diễn thuyết răn đời mà chả sợ khán giả khen chê.
------------------------
2
Ông Giáo là người nhạy cảm, thông minh, nhưng nhiều mặc cảm tự tôn và tự ti lẫn lộn. Xuất thân là nhà mô phạm dạy văn chương nên ông canh gác nền văn học nghệ thuật của thế giới rất nghiêm túc. Ông cười nhạt nhìn hiện tượng “nhà thơ vợ” Trâm Anh với đôi mắt đầy nghi ngờ và phê phán về mặt giá trị văn chương. Ông rất sợ đọc “thơ vợ”. Thơ tình yêu thì ông chẳng thấy mình trong đó. Thơ tả cảnh mây nước thì ông chỉ thấy toàn chén dĩa mệt mề mà ông phải rửa hàng ngày. Thơ nói chuyện trời biển thì ông chỉ thấy “má sáp nhỏ” một thời vừa vạch áo cho con bú, vừa với tay lặt rau cho kịp giờ nấu ăn đi làm. Bụt ở nhà không thiêng nên “thơ vợ” chưa có cơ hội ngàn vàng lọt vào mắt xanh ông Giáo.
Thế nhưng, thực tế cuộc đời vẫn thường xảy ra là cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Bà Giáo bỗng in thơ, phát hành thơ, tổ chức ra mắt thơ... làm xáo động cả vùng trời và mảnh đời yên tĩnh của ông giáo. Điện thọai nhà reo liên miên. Những “độc giả trung thành” với giọng lưỡi khen tặng trơn tru khó ưa muốn gặp thi sĩ Trâm Anh cứ thường xuyên quấy nhiễu lòng thanh tịnh của ông Giáo. Nhất là trong ngày ra mắt tác phẩm thơ đầu tay của bà Giáo, ông Giáo bấm bụng tươi cười như phải thi hành án khổ sai khi trước mặt ba quân phải cùng với bầy con lên sân khấu tặng hoa cho thi sĩ Trâm Anh và nói đôi lời với quý vị quan khách. Ông Giáo nghĩ bụng: “Quái thật! Ai cũng nghĩ rằng, mình là một người chồng có máu nghệ sĩ, khuyến khích vợ làm thơ, nay bà ra mắt ra mũi mình có chút hãnh diện. Thế nhưng ngược lại, mình bực bội. Từ lâu, không hề đọc một dòng nhưng mình vẫn yên chí là thơ bà ấy nhạt phèo như nước ốc. Một triền núi xưa nay chỉ có cây dại và hoa đồng thì làm sao bỗng dưng có cỏ hoa vương giả? Cho nên, bà ấy bày đặt làm thơ là làm chuyện vác chữ chăn chim!”
Chất keo giữa ông Giáo và bà Giáo mỗi ngày một loãng đi gần như nước lạnh. Khoảng cách vật lý chỉ cần vươn tay ra đã níu được nhau, nhưng khoảng cách tâm lý lại thăm thẳm nghìn trùng. Hai cái computer như hai chiếc tàu vũ trụ bay ngược chiều, chở ông bà Giáo mỗi ngày một cách xa. Mỗi thế giới i-meo là một vũ trụ chưa khai phá. Trong đó, những dòng chữ Việt thường không dấu nên người đọc phải cố mà hình dung cho ra cái văn cảnh của lá thư, mường tượng phong thái của người viết, ước đoán mối giao tình của bên gửi và bên nhận mới khỏi nhầm “tài hoa” với “tai họa”; “mất dấu” với “mắt đau”, “mất đầu”; “vô đề” với “vỡ đê” hay “vợ đẻ”...! Những chữ không dấu có thể kéo theo 9 dạng khác nhau: Sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, mũ, râu, ria, đờ... nên rất dễ biến “hiểu lầm” thành “hiểu lắm”!
Thi sĩ Trâm Anh bắt đầu nếm cái hương vị phù phiếm của “nhà thơ nhớn”. Bà Giáo mất dần sự hồn nhiên của mơ mộng tung tăng. Bà có cảm tưởng như mình không còn có tự do để sáng tác, để làm thơ cho sự rung động của chính mình. Bà làm thơ để thỏa mãn sự đòi hỏi của những độc giả ái mộ đang đợi bà một cách vô hình, vô ảnh đâu đó ngoài kia hay trên màn ảnh nhỏ. Những kiểu cách tình yêu không phải là của kho vô tận. Những cuộc tình ảo ảnh cũng như những cuộc cờ hết nước, bà Giáo đã lôi hết tất cả các từ nào về cảm xúc, tình tự, nhung nhớ và thương yêu... mà bà cho là tuyệt vời nhất ra xào đi nấu lại trong thơ. Người trốn chạy thì phải tìm vào hang động để ẩn núp. Thi nhân trốn chạy thì tìm vào thơ bí hiểm. Cờ hết nước thì cờ bí, thơ hết ý thì thơ... bay. Chữ và chữ nối đuôi với những gạch ngang, gạch dọc. Nhân gian chưa hề thấy Hằng Nga nên Hằng Nga mới đẹp; người đọc thơ mà không hiểu thơ, thơ mới thành kỳ tú. Thi nhân không hiểu thơ mình thì lại càng huyền diệu hơn vì thơ sẽ thành thánh, thành thần, thành chú ngôn, sấm ký... Nhân gian ngoài kia có yêu thơ thì rán giả vờ rằng hiểu hay chẻ thơ ra để hiểu.
Cho đến một ngày, ông Giáo đọc trong một cái i-meo gởi tập thể nhận định về thơ Trâm Anh một cách hảo hớn là “...nay thơ bà ta đã thành danh, thành giá, thành thần chú và sấm ký trạng Trình.” Ông Giáo gục gặc đầu cười khoái chí, nói một mình: “Già đời rồi mà còn muốn chặt sừng làm nghé. Bày đặt làm thơ làm thẩn!” Rồi như một cuộc cờ mỗi nước một tân, cuộc tranh luận về thơ “bí hiểm” của Trâm Anh mỗi lúc một hăng. Chiến trường chữ nghĩa sôi động. Bắt đầu có tiếng tên réo đạn bay vi vu lời qua tiếng lại. Ông Giáo ngồi canh trên computer như canh nạn đói năm Thân, Dậu. Đến khi phe ủng hộ Trâm Anh thưa dần trong lúc phe tiến công xung phong vào sào huyệt của thơ Trâm Anh làm chủ chiến trường, ông Giáo mới bắt đầu cảm thấy chột dạ. Chỉ còn một giọng nói phản công yếu ớt của một nhân vật nữ nào đó với địa chỉ i-meo rất Huế là “ Dongkhanh@...com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it ” dưới biệt danh Hương Giang thì vẫn còn chiến đấu. Không rõ nguyên động cơ nào đã lôi kéo ông Giáo bước vào sân đấu. Không biết vì cảm mến nhân vật Hương Giang hay vì từ trong sâu thẳm của tâm tư, thi sĩ Trâm Anh vẫn còn nghiêng nón vẫy gọi chàng trai xứ Huế về chiều, mặc dầu bà Giáo đã làm chàng ta nguội lạnh.
Để chuẩn bị cho đợt phản công tái chiếm hồn thơ, ông Giáo đã âm thầm tìm đọc tất cả những bài thơ lớn nhỏ đủ các thể loại của Trâm Anh. Ông hơi ngạc nhiên vì có khá nhiều bài, nhiều câu, nhiều từ trong thơ Trâm Anh làm cho ông Giáo thực lòng cảm động. Người đàn bà luống tuổi sống ngày lại ngày như chiếc bóng đã phôi pha bên cạnh ông không phải là Hòn Vọng Phu hoá đá. Đó là một người đàn bà sống thực. Một người có dòng máu nghệ sĩ và sự nhạy cảm tinh tế của trần gian. Một tâm hồn đầy khát vọng yêu thương và chia sẻ già dặn nhưng vẫn còn nồng nàn và mơ mộng. Tuy ông Giáo vẫn chưa ra khỏi cửa cái pháo đài của định kiến và khước từ, nhưng ông cũng cảm nhận được lòng mình đang mềm lại. Càng gần gũi với thơ Trâm Anh, ông Giáo lại càng hăng hái hơn trong quyết tâm đứng vào trận tuyến với Hương Giang. Ông mở ngay một địa chỉ email mới, “đối bóng” với Hương Giang: “ Quochoc@...com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it ” dưới biệt danh là Ngự Bình. Tận dụng sở học văn chương trong bao năm qua, ông Giáo tự thổi còi mở màn cho trận đấu. Cùng với Hương Giang, người bạn đồng hành trên mạng lưới email chẳng biết là ai, ông Giáo thúc ngựa, cầm thương xung trận chạy bao sân. Từ trong thinh lặng của vô thức, sau mỗi đợt email công đồn đả viện, ông Giáo đều cảm nhận như có tiếng reo hò đâu đó thật ngọt ngào và dễ thương của chiến hữu Hương Giang ấm hơi thở dập dồn bên cạnh. Ông Giáo lý luận văn chương càng rạch ròi và khúc chiết chừng nào thì sự hỗ trợ và tán đồng của Hương Giang càng uyển chuyển và đầy sức thuyết phục ngọt ngào chừng ấy.
Thi ca là đám mây ngũ sắc mà màu nào cũng có vẻ đẹp rực rỡ riêng của nó. Đẹp hay không là tùy người biết lựa chọn và pha màu. Hương Giang chọn màu dịu và ấm. Ngự Bình chọn màu nóng và đậm. Họ hòa lại với nhau thành một bản sắc màu đầy ấn tượng. Chiến trường email xoay chiều rõ rệt. Trận giặc email với đoàn quân xa lạ nên tụ cũng nhanh mà tán cũng vội. Ngày thơ Trâm Anh ca khúc khải hoàn thì cũng là ngày dòng thơ Trâm Anh mất hút trong nội dung trao đổi email giữa ông Giáo và Hương Giang. Thế giới của họ càng gần lại thì sự hiện diện của người thứ ba không có lý do tồn tại. Hương Giang tự giới thiệu mình là cựu nữ sinh Đồng Khánh. Ngự Bình cũng tự giới thiệu là một cựu học sinh Quốc Học. Điểm gặp gỡ của hai người bây giờ là chuyện ngày xưa của bến đò Thừa Phủ, có áo trắng, có phượng hồng và những khung trời nhuộm màu kỷ niệm của Huế. Tuổi lục thập đàn ông, và tuổi ngũ tuần đàn bà là lứa tuổi đứng trước ngưỡng cửa hoàng hôn; mệt mỏi nhìn tới, thơ thẩn nhìn lui và phân vân nhìn hiện tại. Cuộc đời còn lại quá ngắn để cho một sự bắt đầu và quá dài cho một sự đợi chờ không hứa hẹn. Nhu cầu tình cảm thầm lặng và lành mạnh ở lứa tuổi này tuy không phải là tình tự, bướm ong như thời son trẻ; nhưng cũng không thể là sự hóa vôi tình cảm và ly thân hóa mối quan hệ để rút vào căn nhà tiền chế của định kiến, kiêu hãnh và chán chường kiểu ông bà Giáo. Bởi vậy, khi ông Giáo biến thành Ngự Bình là khi ông ta “thanh xuân hoá tuổi già” của mình. Ông cảm thấy thoải mái và hồn nhiên với một người chưa biết mặt vì người Hương Giang đối với ông là một trang mới của cuốn sách đời không dấu vết của trói buộc, đòi hỏi, khen chê, tranh cãi... mà chỉ có niềm vui thoáng mát và nhẹ nhàng chia sẻ. Hai người bạn trên email như ánh nắng và dòng sông. Như biết rõ mà vẫn là xa lạ. Khi song hành thì soi bóng; khi một phía quay lưng thì chỉ còn khoảng trống lạnh lẽo ngoài khung kính nhỏ vô tri.
Không một tiếng súng, không một chiến trường, không một lời tuyên chiến nhưng mặt trận email vẫn trùng trùng sôi động đêm ngày ở bất cứ nơi đâu có ánh sáng của con người rọi đến. Giặc email có một đạo quân hùng hậu trên tòan thế giới. Và có lẽ trong lịch sử cổ lai chinh chiến của sinh vật địa cầu, không có cái tinh thần tự nguyện nào lại thường hằng và năng nổ đến như thế. Người ta mở nút email trước khi mở tất cả các loại nút khác, kể cả nút cà vạt và nút áo quần sau giờ làm việc, ngay khi vừa về đến nhà. Vũ khí nào đã làm cho giặc email mạnh đến thế? Đó là khi tri thức và tình cảm trong tay không đủ lấp đầy cho sự cô đơn của hiện thực! Thế giới vật chất càng tràn đầy, thông tin khoa học càng nhanh chóng làm cho địa cầu ngày càng nhỏ lại, con người càng cảm thấy cô đơn. Cô đơn vì tình cảm mất dần bóng im thần thoại để ẩn núp. Cô đơn vì nỗi sợ hãi khó tìm những miếu đền thần linh để nép mình. Và cô đơn vì quan hệ giữa người với người mất đi lớp vỏ hào hoa của đợi chờ và mơ ước. Sự thật trần trụi bao giờ cũng cô đơn như pho tượng lõa lồ... Có vẻ như ông Giáo và Hương Giang đi tìm chỗ núp vì cả hai đều sợ nỗi cô đơn của chính mình. Sợ đối diện với những pho tượng vợ chồng đang dần dần hoá đá. Đá triệu năm không hoá được thành người, nhưng con người trong cuối cuộc vợ chồng mà ngày lại ngày không biết nâng niu vun xới cho nhau thì thật đễ dàng hoá đá.
º
Sau bữa tiệc cưới về nhà còn ngây ngây men rượu, ông Giáo sà ngay vào máy và mở i-meo. Ông Giáo hình dung Hương Giang với vẻ quyến rũ của một nàng thơ. Cái tên làm ông gợi nhớ tuổi học trò bên dòng sông con gái một đời không bao giờ thành thiếu phụ. Dòng sông ấy có cố nhân là Ngự Bình và người tình là Kim Phụng. Những người tình trông bóng nhưng không bao giờ gặp nhau, nên tình đẹp nhất của Huế là tình cảm trông vời... Trong phút lãng mạn bất chấp, thay vì xưng tên như mọi khi, ông bắt đầu thư i-meo cho Hương Giang với chữ “Em” ngọt lịm. Click! “Em” bay vào không gian. Ông Giáo hơi ngẩn ngơ một chút vì sự xua quân qua lằn ranh hơi táo bạo của mình. Sáng mai, thư không có hồi âm. Hôm sau và hôm sau nữa khung “inbox” vẫn trống không. I-meo là giống bạc tình. Lỡ bước bay đi không bao giờ gượng lại. Những tờ thư trên giấy còn có địa chỉ dò la, nhưng những cánh thư i-meo chỉ là ảo ảnh. Không ai rõ nguồn cội nhân vật nơi mô mà tìm. Giữa khi bất ngờ nhất, thư Hương Giang chợt đến. Tất cả chỉ vỏn vẹn mấy dòng từ biệt: “Anh! Thư này là thư cuối của em. Có những giới hạn tuy vô hình, nhưng nếu mình vượt qua là bị lạc và sẽ tự đánh mất mình vĩnh viễn. Ai cũng có những phút ngoài chồng ngoài vợ. Đừng trách chi một chút xao lòng…... Em HG”. Ông Giáo lẩm bẩm lập lại câu thơ của một nhà thơ nào đó mà Hương Giang nhắc lại: “Ai cũng có những phút ngoài chồng ngoài vợ. Đừng trách chi một chút xao lòng...”
“Chút xao lòng” có khi chỉ là cái nghiêng nón che tia mắt nhìn của người khách lạ. Nhưng “chút xao lòng” ấy cũng có khi là cái lách mình qua ngả khác của một mảnh đời bão nổi, buông tay.
Email là sản phẩm của con người và kỹ thuật, là dụng cụ để phá màn bí mật chứ không phải để tạo ra sự bí mật mới nên i-meo chẳng bao giờ là vùng đất riêng tư của ai cả. Với một số kiến thức căn bản về vi tính, chẳng khó khăn lắm để ông Giáo tìm xuất xứ cội nguồn của Hương Giang bằng phương pháp “tầm nguyên”. Bất ngờ như mũi tên bắn sẻ: Hai địa chỉ email “ Dongkhanh@...com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it ” và “ Tramanh@...com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it ” đều phát xuất từ một chỗ. Nghĩa là Hương Giang cũng chính là Trâm Anh. Với phản ứng tức thời, ông Giáo ngửa mặt lên trời cười khan. Nhưng cái cười đột phát ấy lại tức khắc rơi xuống lòng ông làm cho tay chân ông bắt đầu run rẩy và trái tim nhói lên như khi An Dương Vương khám phá ra “ ả giặc yêu quý” Mỵ Châu đang cùng ngồi trên mình ngựa sau lưng mình. Ông có thể tin Liz Taylor cặp bồ với gã tình nhân thứ 100, nhưng lại không cho phép lòng tự hào của ông tin là bà Giáo đã có một phút “xao lòng”. Ông chạy bổ lên lầu, vào phòng bà Giáo, nhưng đứng sững lại trước vẻ mặt đăm chiêu và câm lạnh như bức tượng sành sứ của bà. Không nói một lời, ông Giáo đóng sầm cửa lại và đi ra. Cái nhà rộng thênh thang đứng trên đỉnh đồi lộng gió bỗng trở thành nực nội và chật chội, không đủ chiều cao và chiều sâu để chứa cho hết một trời thất vọng và nhức buốt của ông Giáo. Nổi lọan, câm lặng hay quên đi trong hoàn cảnh này đều là cách dễ dãi để trốn chạy chính mình.
Đã bao nhiêu năm, với một niềm tin không cần kiểm chứng, ông Giáo yên chí là bà Giáo đã hoàn toàn thuộc về ông, cả thân xác lẫn tâm hồn. Ông mặc nhiên coi bà Giáo là vật sở hữu của riêng mình. Từ đó, sống chung dưới một mái nhà, cả hai ông bà hùng hục làm việc lo cho con, lấy tương lai và sự thành đạt của con cái làm hạnh phúc của mình. Ông Giáo đã quên rằng, có một “cây hoa biết nói” hàng ngày sống bên cạnh. Cây hoa cũng cần tưới bón và chăm sóc để đừng khô héo với thời gian, nhưng cây hoa mẹ đã hoàn toàn bị lãng quên cho vườn hoa con đâm chồi nẩy lộc. Hai ông bà ngày lại ngày chỉ “thấy” nhau qua hình ảnh trung gian của đàn con. Khi đàn con lớn khôn và tung cánh ra đời, hai người tình năm xưa vẫn nhìn nhau dưới một mái nhà nhưng chẳng thấy nhau mà chỉ thấy khoảng trống vì những đôi mắt vẫn còn bị lực quán tính của những năm dài “không nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng... nuôi con” lôi đi xềnh xệch. Email như một viên sỏi ném vào con cọp ngủ. Email khiến họ thức giấc và tò mò khám phá lại mình; đánh động nguồn cảm xúc tiềm ẩn trong chiều sâu lên tiếng.
Sau “biến cố email” ông bà Giáo lại càng lặng lẽ với nhau hơn. Những đêm sâu trăn trở nghe tiếng ho húng hắng của bà Giáo ở tầng trên vọng xuống, ông Giáo cảm thấy lòng se lại. Ông cũng rán ho trả lời như để xác nhận sự hiện diện của mình với bà Giáo. Sự lặng lẽ sâu hút của hai ông bà như là một cuộc thi gan ai là người bản lĩnh hơn ai. Hình như dần dần cả hai ông bà khám phá ra rằng cả hai đều mệt mỏi và thua cuộc. Chỉ có cái đồng hồ treo tường là bản lĩnh nhất, là kẻ thắng cuộc trong ngôi nhà mênh mông này, vì đêm ngày nó vẫn thản nhiên chạy tí tách và đúng giờ reo lên hát hỏng một mình.
Rồi một đêm khuya, ông Giáo ngồi lặng lẽ trong bóng tối. Chẳng phải là thiền định hay ngủ gật, nhưng là để lặng lẽ suy tư. Cuốn băng email quay lại trong dòng suy tưởng của ông. Sao ông không là Ngự Bình; sao bà Giáo không là Hương Giang. Sao cả hai người đang sống thực mà phải đóng vai những bức tượng cổ bị trói buộc và đặt ngay ngắn trong ngôi nhà rộng lớn này, để đợi chờ một điều gì đó mơ hồ không ai hình dung nổi của một mảnh đời chưa đến gọi là tương lai. Ông Giáo vào phòng mở lại email và bấm nút hộp thư lưu trữ có tên là “Hương Giang”. Từng mảnh nhỏ tâm sự hiện ra. Bà Giáo đó, Trâm Anh đó, Hương Giang đó... trong cùng một con người khao khát sống trở về. Ông Giáo cảm thấy mắt mình nhoà đi trong nỗi xúc động vô chừng. Ông thẫn thờ ôm mặt cúi gục trên bàn. Đêm khuya khoắt, ông nói thì thào qua kẽ tay: “Anh thật vô tình! Anh có lỗi!” Tưởng như đêm có một bàn tay kỳ bí. Rồi hai bàn tay mềm và ấm từ phía sau đặt lên vai ông. Có tiếng nói thì thào đáp lại: “Em cũng vô tình! Em thật có lỗi!” Im lặng như chứng nhân của ân tình vừa sống lại. Hai người áp má vào nhau. Rất xa mà gần, có mùi vị mặn. Trên màn ảnh của bóng tối, hai hình mường tượng hiện lên: Hương Giang và Ngự Bình từ một quá khứ chưa phai.


Mùa Valentine 2012
(Không biê't tên ta'c giả)




thanks.gif

Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re:Một truyện ngắn về tôn giáo rất hay và dí dỏm: Có tội hay không có tội ?
Reply #141 - 10. Apr 2012 , 15:32
 



Một truyện ngắn về tôn giáo rất hay và dí dỏm:
Có tội hay không có tội ?


...




Tôi thật không biết phải bắt đầu từ đâu để câu chuyện đời lộn xộn của mình có được một chút ngăn nắp để bạn hiểu tôi hơn. Thôi thì bắt đầu vào một ngày nắng đẹp, tôi bước ra khỏi toà án Saigon với cái giấy ly dị trên tay. Tôi có một trai và một gái và quan toà đã rộng lượng xử cho tôi được trọn quyền giữ cả hai với điều kiện là không nhận được chu cấp từ người chồng. Tôi hoan hô quan toà cả hai tay. Đó là năm 1969.

Bà chị tôi có hãng thầu cung cấp dịch vụ hớt tóc, giặt quần áo, bán hàng kỷ niệm cho quân nhân Mỹ tại Việt Nam và hàng ngàn xe đá để hãng RMK làm phi trường. Đó là một công cuộc làm ăn lớn lao có tới vài trăm nhân viên nên chị nhận cho tôi theo làm để nuôi con. Do đó tôi gặp Ron, người chồng hiện tại.

Bạn ơi, không biết tôi đã tốn bao nhiêu nước mắt cho cuộc hôn nhân nầy. Không biết tôi đã nhận được bao nhiêu lời sỉ nhục khi đi sánh đôi với người chồng  Mỹ tại Việt Nam. Nếu phải đếm hết những danh từ thô bỉ, những ánh mắt chê bai,  những  đối xử khinh bạc của bạn bè, của những người quen biết cho đến những kẻ qua đường vì tôi "lấy Mỹ" thì chắc tôi phải biến thành con rết khổng lồ với cả ngàn chân tay mới đếm hết nổi. Thôi thì chẳng qua là cái nghiệp. Chắc mình đã dè bỉu, chê bai bao nhiêu là người ở những kiếp trước nên kiếp nầy nhận lại "gậy ông đập  lưng ông" thôi mà.

Mỗi lần bị "tai nạn" như vậy, tôi giả vờ phớt tỉnh. Những dòng nước mắt tủi hổ cứ chực tràn ra. Ông xã cứ hỏi là "họ nói gì vậy?", tôi thì cứ  ai biết đâu, họ dùng danh từ em không hiểu!". Nhưng ông xã thì biết vì anh có rất nhiều nhân viên Việt Nam làm việc cho anh và chắc họ đã giải nghĩa cho anh hiểu địa vị của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội khi họ vô phước kết hôn với ngươì Mỹ.

Sau khi anh hiểu được, tôi không bao giờ quên được ánh mắt của anh nhìn tôi trong những lần "tai nạn" đó. Đôi mắt anh chứa đầy những biết ơn, những chia xẻ, những đau thương, những căm giận, những cảm thông.. Anh cầm tay tôi nói: "Thật là không công bình cho em. Anh rất biết ơn em. Sự chịu đựng những nỗi nhục nhằn của em làm tan nát tim anh.  Anh cảm thấy không xứng đáng với sự hy sinh của em." Tôi chỉ nói nhỏ: "Cả hai, em và họ đều là nạn nhân, mỗi người mỗi cách. Có phải chúng ta đã hứa là sẽ cùng chung chịu những niềm vui và nỗi khổ trên đời không? Vậy đó không phải là sự hy sinh. Đó chỉ là sự chia xẻ."

Và tôi đã sát cánh cùng anh nổi, chìm trong cõi ta bà, trong nụ cười khi gia đình xum họp,  trong nuớc mắt khi một đứa con sớm vội ra đi, trong thành công, trong thất bại suốt bốn chục năm qua.

Rồi Trời Đất nổi cơn gió bụi. Năm 1975 tôi dắt díu các con qua Mỹ sống tại California.  Bà mẹ chồng ở tận Boston qua CA thăm cháu nội và dâu lần đầu tiên.

Mẹ ruột kẹt lại quê nhà, mẹ chồng ở kề cận, thôi thì hãy vui với hiện tại và những gì mình có. Gạo trồng ở Việt Nam hay trồng ở Mỹ thì cũng nấu thành cơm. Mẹ ruột hay mẹ chồng thì người đàn bà đó cũng đã thương yêu và dưỡng nuôi người mình yêu dấu. Bà hỏi chớ các cháu đã được rửa tội chưa? Tôi nói ngắn gọn "Dạ chưa. Con đạo Phật." Bà mỉm cười không nói gì và không bao giờ nhắc lại.

Hình như người Mỹ có tâm hồn rộng rãi hơn. Bà thường hay lục lọi và gởi về cho cháu nội những quyển thánh kinh rất cũ của gia đình. Tôi nhận và trân trọng giao lại cho các con.  Mẹ chồng gần với con dâu hơn người con ruột.

Thời gian qua, một hôm thằng con cả báo cho mẹ biết là nó muốn cưới vợ. Mình đã già rồi mà không hay bạn ơi. Khi nghe con trình bày mọi điều, bà chị la làng chói lói. Trời ơi, nó là con trai lớn nhất mà theo đạo Chúa thì lấy ai mà thờ phượng em?  Bạn ơi, bạn nghĩ sao? To be or not to be? Nói Yes, con cứ tiếp tục lo hôn lễ hay nói No, No Way.

Hừm, thờ phượng là nó sẽ nhớ tới ngày mình theo Phật, mua một mâm đủ cả heo quay, gà vịt, có cả bia rượu, bưng lên bàn thờ để một tiếng đồng hồ rồi dọn xuống mời bạn nhậu? Hay là nó cúng mâm chay nhưng lại không ăn? Hay là nó tới chùa nhờ thầy đọc một thời kinh? Thầy lo  đọc, nó lo nhớ tới cái đầu gối hơi đau vì quì lâu! Hay nó dọn một cái bàn thờ trong nhà, chưng cái hình mình lên. Có ai đó hỏi con nó trưng hình của ai vậy thì thằng cháu nội nhìn hình và nói "I don't know" !

Chỉ còn cách hỏi nó.

Cô đó hiền không? Dạ hiền. Cô đó giỏi không? Dạ giỏi. Cô đó thích săn sóc con cái, nhà cửa không? Dạ thích. Cô đó thương con không? Dạ thương. Vậy thì Yes, con ơi, Yes. Mẹ chỉ cần thấy con được hạnh phúc, an vui. Mẹ tin vào sự khôn ngoan và lựa chọn của con. (Cho con học bao lâu chắc con không ngu đâu, phải không?).
Vợ chồng con thương yêu nhau và tử tế với Mẹ khi Mẹ còn sống là con đã "thờ phượng" Mẹ rồi. Trong con đã có dòng máu của Mẹ. Con làm một người chồng tốt, một người cha tốt, một con người tốt là con thờ phượng Mẹ đó, phải không? Bạn ơi, bạn có thấy tôi quá "văn minh" không?   Quá... quá... tiếng gì hả mà người Mỹ thường hay chỉ mấy ông nghị viên trong đảng dân chủ đó? À à, quá "liberal" không?


Vậy là tôi có hai thằng con theo đạo Chúa của vợ và năm đứa cháu nội biết Phật là Budha chớ chẳng biết Nam Mô. Quên cho bạn hay là tôi đã không rửa tội hoặc bắt các con theo đạo nào hết. Tôi để cho chúng tự do chọn lựa khi chúng đến tuổi trưởng thành (hoặc "được" vợ dẫn dắt). Tuy nhiên tôi cũng thường đem các con đi chùa khi chúng còn nhỏ và mỗi khi tết tôi đều dạy chúng lạy bàn thờ Phật và bàn thờ tổ tiên. Cho đến bây giờ vẫn vậy. Phải lạy bàn thờ.  Đó là điều kiện duy nhứt tôi đòi hỏi gia đình các xuôi gia trong ngày cưới, dù họ là đạo nào. Tôi kính trọng tất cả các đấng dẫn dắt linh hồn.

Mỗi khi gia đình tụ họp tại nhà thằng con cả, nhằm ngày ăn chay, tôi luôn có ít nhứt một món chay rất ngon do con dâu Công giáo nấu. Tôi biết ơn chúa Jesus quá đỗi vì con dân của Ngài quả là một người đầu bếp giỏi và là một đứa con dâu rất  hiếu thảo.

Thế là tôi trở thành minority, có nghĩa  là thiểu số trong gia đình tôi. Ông xã, hai thằng con, hai cô dâu, năm đứa cháu nội, tất cả là mười người con Chúa. Một đứa con gái và chồng cùng ba đứa con tin tưởng cả Phật lẫn Chúa. Ngày lễ Giáng Sinh và cuối tuần thằng cháu ngoại mười hai tuổi đi đờn violin trong nhà thờ.  Khi về nhà ngoại thì vô lạy Phật và... ngồi thiền!



Thằng con út thì , bạn có thể gọi nó là người vô tôn giáo, khuyên các cháu của nó không nên mỗi chút mỗi đổ thừa cho Chúa và khi xưng tội thì phải nhớ chừa cái tội đó đừng lập lại và nhận xét rằng thuyết nhân quả của nhà Phật rất hay nhưng đôi khi Phật tử lạm dụng thuyết nhân quả để chê đè người khác và vì thế làm cho người ta đau khổ. Bạn thấy nó đúng không? Nó mới hai mươi bảy tuổi và đôi khi nó nói chuyện đạo Phật làm tôi cũng ngẩn ngơ. Nó nghiên cứu đạo Phật bằng tiếng Mỹ. Tôi học Phật bằng tiếng Việt. Không biết có khác  nhau nhiều không?

Nói cho bạn mừng dùm là dù thiểu số nhưng đạo Phật trong nhà tôi vẫn thịnh vượng. Tôi chưng bày tượng Phật tùm lum, trong vườn hoa đằng trước, trong sân đằng trước, trong vườn hoa đằng sau, trong sân đằng sau, ngay giữa vườn, trong luống hoa, giữa bụi lan... Bàn thờ Phật ở phòng  khách, bàn thờ Phật trong phòng thờ, tượng Phật trên đàn dương cầm, tượng Phật trên đầu ti vi. Đây cũng là một tội ăn hiếp người (chồng) quá đáng, chắc kiếp sau lại phải trả thôi.

Rồi cách đây hai tháng, khi anh và tôi cùng ở tuổi bẩy mươi, phải bạn ơi cái tuổi 'thất thập cổ lai hi' đó, thì có một người quen từ Việt Nam qua chơi. Người nầy đã đi tu Chúa khi còn con gái mười bẩy tuổi và hiện nay năm mươi bẩy tuổi và đã được lên chức Mẹ Bề Trên. Trong khi trò chuyện, Sơ (xin tạm gọi như thế cho gọn) khám phá ra là chồng thì đạo Chúa chánh gốc (quên nói cho bạn biết là bố chồng mình gốc gác người Ý), đã được rửa tội, đã hưởng hết các phép ban ơn v.v.. mà lại đi cưới một người vợ ngoại đạo, lại còn không bắt vợ theo đạo của mình. Thế thì khi chết sẽ không được vào nước Thiên Đàng, sẽ không được Chúa tha thứ, sẽ xuống địa ngục v.v.. Và Sơ chỉ cho tôi nên đi kiếm Cha để xin Cha làm phép, xin Chúa tha tội cho ông xã để ông xã được trở về với Chúa.



Tôi hoảng hồn nghĩ mình thật là tội lỗi, bấy lâu nay chỉ lo cho linh hồn của mình, còn người bạn đời thì mình lại thờ ơ, may mà có Sơ nhắc nhở. Tôi bèn dịch lại những lời Sơ nói. Ông xã vẫn làm thinh  (lại cho bạn biết anh là người ít nói nhất thế gian, bạn có biết tại sao không? Vì chị vợ đã nói hết thời gian rồi, anh chồng làm gì còn chỗ và thời gian để nói nữa, đã cưới nhau bốn mươi năm rồi, phải quen tánh quen nết chớ, phải không bạn?). À hình như anh có lầm thầm cái gì là anh chưa từng bao giờ bỏ Chúa thì tại sao phải trở lại? Tôi thì sợ hãi nên thúc giục anh mau đến tìm Cha.

Bạn có thấu hiểu được nỗi đau lòng của tôi không? Chắc là không. Vì để hiểu được bạn phải ở trong hoàn cảnh nầy và tôi thì không muốn cho bất cứ ai vướng vào cái vòng tục lụy nầy hết. Giống như cái ông gì đó (trí óc tôi lúc nầy chậm chạp quá, đã quên béng tên ổng) đang làm quan lớn với đầy đủ vợ đẹp, con khôn, quyền cao, chức trọng thì bỗng giựt mình tỉnh giấc Nam kha thấy mình vẫn đang ngồi dưới đất, vợ con không, lầu đài không, tiền bạc không, quan chức không.

Giống như bạn, tôi đã "cho anh cả cuộc đời", những tưởng mình đã cùng ai chung chịu nhục nhằn, hạnh phúc, đã cùng ai nở nụ cười, lau nước mắt, đã cùng ai ngẩng mặt, cúi đầu... Ngờ đâu bừng con mắt dậy thấy mình tay không! Mình đã đẩy người ta xuống địa ngục, mình là nguyên nhân để người ta xuống địa ngục. Bạn khuyên tôi phải làm sao? Người ta xuống địa ngục chưa thì tôi không biết, mà tôi thì đã ở trong đó rồi. Lòng tôi tan nát, bạn ơi. Tôi phải đọc tụng kinh gì hả bạn? Lương Hoàng Sám? Thủy Sám? Mà tụng thì ăn thua gì! Nếu tụng mà hết được tội đẩy người xuống địa ngục thì tôi nguyện đọc mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút , từ đây cho đến hết cuộc đời.

Ngày hôm sau khi ngồi ăn cơm, dưới cái diã, tôi thấy một cái bao thơ, giống như cái card chúc tết hay chúc sinh nhật vậy. Tôi ngạc nhiên vì không phải tết, cũng chẳng là sinh nhật. Anh chẳng nói gì. Tôi mở card ra đọc những dòng chữ có thể dịch ra Việt ngữ như sau:

"Nếu phải xuống địa ngục và vĩnh viễn bị cấm cửa thiên đàng thì anh sẵn sàng và hạnh phúc chấp nhận. Ngày em nhận lời làm vợ anh là ngày Chúa đã ban ơn phước cho anh và chấp nhận anh vào cõi Thiên Đàng và anh đã ở Thiên Đàng từ dạo đó, nay sao lại còn phải xin xỏ để trở vào? Anh không ăn năn. Anh không ân hận. Anh không van xin. Anh chắc rằng Sơ đã không nhìn thấy những giọt nước mắt của em đã đổ ra cho anh, vì anh, vì hạnh phúc của anh, vì tội lỗi của anh. Nếu thấy thì anh lại tin chắc rằng Sơ sẽ bảo anh:

“ Con hãy cám ơn Chúa đã cho con gặp người vợ ngoại đạo nầy'. Em hãy yên lòng, đừng thúc giục anh tìm Cha.  Chúa rất nhân từ và thông cảm. Anh đang ở Thiên Đàng."


Đọc xong, tôi ngẩng lên nhìn anh. Tôi lại để cho nước mắt chảy ra thấm ướt tờ thư. Đã lâu rồi tôi không khóc. Lần nầy tôi không cố ngăn lại. Khóc được cứ khóc bạn ơi. Chỉ sợ rằng mình không khóc được và không được khóc!

Bạn có thấy dị không khi một bà già bẩy mươi tuổi còn khóc được vì một lá thư.. (có thể gọi là thư tình không bạn?). Không, đây không phải là thư Tình!  Đây là thư Nghĩa! Tình yêu sôi nổi với dục vọng, với ghen tương, với giận hờn đã qua lâu rồi. Đây là sự thương yêu, nâng đỡ, dắt dìu nhau của hai con người đang đi vào đoạn cuối của cuộc đời mà không lãng quên những hứa hẹn ở buổi ban đầu. Đây là Nghĩa Vợ Chồng. Dù cho bạn có thành hôn với người Việt Nam, người Mỹ, người Trung Quốc, người Đại Hàn, người Pháp, người da đen, da trắng, da màu... thì nó vẫn tồn tại và rực rỡ trong tâm bạn.

Tôi hy vọng mãnh liệt rằng Chúa sẽ không bắt tội anh vì tôi tin rằng anh đã sống giống như  ý Chúa: Thương Yêu, Trung Thành và Nhân Ái.

Đây là một phần câu chuyện đời lộn xộn của tôi và tôi xin chia xẻ cùng bạn với tất cả trái tim tôi.  Có tội hay không có tội?  Anh đã đi trật đường của Chúa dạy? Anh đang từ bỏ Thiên Đàng và trên đường xuống địa ngục? Anh thật không biết. Tôi là tên ác quỷ đang đẩy người vào chốn tối tăm? Tôi thật không biết.  Chúng tôi chỉ biết cầu xin Chúa và Phật cho chúng tôi được có mặt bên nhau những khi hoạn nạn, được giúp đở nhau những lúc vấp ngã,  được nấu cho nhau chén cháo trong lúc ốm đau, được nắm tay nhau mỉm cười khi mở cửa nhà đón đàn con cháu.

Bạn ơi, tôi không cần phải có bàn thờ và anh thì không cần phải kiếm Cha để rửa tội. Tôi vẫn là một Phật tử thuần thành và anh vẫn làm dấu thánh giá. Chúng tôi không quá "liberal" phải không bạn ? Thiên Đàng và Niết Bàn của chúng tôi có nghĩa là " in the here, in the now" như Sư Ông Nhất Hạnh vẫn nói. Không biết chúng tôi có hiểu đúng ý của Sư Ông không?

Hai chúng tôi Tội Lỗi và Hạnh Phúc ngang nhau. Cả Phật, cả Chúa đều rất Bác Ái và Công Bằng, Bạn đồng ý không?


Le Hoa Wilson



thanks.gif

Back to top
« Last Edit: 10. Apr 2012 , 15:32 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Ông Giáo sư dạy Sử
Reply #142 - 25. Apr 2012 , 17:14
 


Ông Giáo sư dạy Sử



Vương Mộng Long
- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A SocialSciences and Communication.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
___________________________


Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).

So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”.
Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.

Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.

Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.

Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.

Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân... chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh ...nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,

“Book said!”

Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.

Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.

Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.

Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!

Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn. Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng. Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,

- Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

Thầy Dan niềm nở,
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.

Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng,
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.

Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.

Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng-Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những gì liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.

Chính tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Genève năm 1954 và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.

Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.

Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.

Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,

- Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời :

- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi :

“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”

Tôi cứ tình thực trả lời,
Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Buthanks.gifrang vào những năm 1972-1973.

Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù. Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.

Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng :

“Trời ơi!”

Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi chuyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.

Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt-Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.

Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam-Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại. Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,

- Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.

Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,

“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”

Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,

-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?

- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!

- Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những điều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,

- Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,

“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”

Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.

Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).

Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm :

“Long! I’m proud of you!”

Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu,
“My soldier! I’m loving you!”

Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.

Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.

Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,

“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”

Seattle tháng 7 năm 2011
Vương Mộng Long-K20


thanks.gif
Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3583
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #143 - 26. Aug 2013 , 18:21
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU  

CHƯƠNG I

Trời tối đen , xòe bàn tay ra trước mặt nhìn không thấy , thế mà Ba Chạy đi trên đường thảnh thơi như thể con đường này ông ta đã đi rất quen . Không ông ta chỉ đi quen trong bóng tối , chứ con đường này ông ta chỉ mới đi trở lại nó sau nhiều năm xa cách chừng vài ba lần ...
Ba Chạy dẫn theo bốn người và đi thẳng đến nhà anh Tư Nguyễn Trung Cang ...Anh Cang mới từ tỉnh về chơi chiều hôm , chắc là sau những ngày nghỉ cuối tuần Cang lại trở ra tỉnh để tiếp tục học ...Nghe tiếng gõ cửa Bà Bảy mẹ của Cang ra vừa vặn cây đèn dầu cho sáng thêm vừa hỏi vọng ra
- Ai đó  ?
- Chào Thím Bảy , thím bảy mở cửa cho tôi nói chuyện với Cang chút ...
Nghe giọng nói lạ bà Bảy bắt đầu sợ nhưng vẫn cầm đèn ra mở cửa
Cửa vừa hé Ba Chạy lách vào một cách gọn gàng mau lẹ bà Bảy không kịp nhận được mặt người khách ...Lúc này Cang cũng đã thức vừa bước ra khỏi phòng mắt vẫn còn cay cất tiếng hỏi vọng ra
- Ai dzậy má ? giờ này khuya lắc khuya lơ mà còn đến làm phiền , thiệt tình hết chỗ nói
Nghe Cang cằn nhằn , Ba Chạy lên tiếng trả lời thế cho bà Bảy
- Tui đây cậu Cang , Cậu còn nguyên cả ngày mai để ngủ lo gì , tui muốn nói chuyện với cậu chút xíu mà
Ba Chạy đã giành được cây đèn dầu trên tay bà Bảy bước vào trong nhà đưa ánh đèn soi sáng khuôn mặt ngái ngủ của Cang ...Rồi như ra lệnh
- Cậu ngồi xuống đây , tui nói dăm ba câu chuyện rồi đi ngay ...Tui gấp lắm , anh em còn chờ tui ở ngoài , nói câu này ý Ba Chạy muốn cảnh cáo Cang tốt nhất là ngồi xuống nói chuyện , đừng có ý định phản kháng hay bỏ chạy vì ở ngoài còn có những anh em canh cửa ...
Cang cũng biết điều đó nên riu ríu ngồi xuống chiếc ghế quen thuộc trong nhà mình mà Ba Chạy đã chỉ
Ba Chạy đưa mắt nhìn quanh căn phòng khá rộng , nhận thức thật nhanh chỗ cửa sau rồi đặt cây đèn dầu xuống bàn , phía gần tay hắn hơn là Cang , với kinh nghiệm nếu có điều gì bất lợi , nghe tiếng đàn em hút gió bên ngoài , thì Ba Chạy sẽ đưa tay ra gạt cây đèn dầu cho ngã xuống sàn nhà , bóng tối ập vào và hắn sẽ phóng tới cánh cửa phía sau mà ra ngoài ...Cây đèn cũng đặt xa tầm tay của Cang tránh Cang có thể hiểu được mà làm liều
Hai người đã ngồi xuống Ba chạy quay qua nhắc bà Bảy
- Thím Bảy đi ngủ lại đi tụi tui nói chuyện chút xiu là đi liền , thức chi cho mệt
Rồi quay sang Cang Hắn hỏi ?
- Cậu mới dzìa chiều qua hả  ?
Cang  gật đầu xác nhận , lòng hoang mang không biết ba Chạy muốn gì mà đầy bí hiểm ...Ba Chạy hỏi tiếp
- Chừng nào cậu thi lấy bằng thành chung ( Trung học )
- Da cuối năm nay !
- Như dzậy còn mấy tháng nữa ?
Cang bấm đốt ngón tay xong mới trả lời
- Da còn bảy tháng nữa ?
- Như dzậy có kịp không ?
Cang không hiểu câu hỏi của Ba Chạy nên hỏi lại
- Ông nói không kịp là sao , không kịp điều gì !
- Trời cậu còn muốn tui nói trắng ra nữa sao , tui muốn nói đến cái bầu của cô Út Lành con ông Hội Đồng Sang đó ...Có kịp để cậu thi xong lấy cái bằng thành chung hay là ổng ra tỉnh còng cổ cậu bỏ cậu ngồi tù ...Thứ nữa chúng tui cũng muốn cậu có bằng thành chung mang theo mình thì anh em sẽ trọng vọng cậu hơn , nhưng kiểu này thì không kịp nữa rồi
Khi Ba Chạy nói , sắc mặt của Cang biển đổi nhăn nhó thật khó coi , ba Chạy quan sát thấy hết nhưng cứ làm như không quan tâm tới điều đó ...Ba Chạy hỏi tiếp
- Dzậy cậu tính sao ?
Cang nhỏ nhẹ như mắc cỡ
- Tui cũng đang rối trí cái vụ này , Tui định thưa chuyện cùng má tui ngày mai sau đó kiếm bà mai sang nhà ông Hội Đồng hỏi xin cưới đàng hoàng trước khi  chuyện cô Út lành có bầu với tôi loan ra ngoài ...
- Cậu tính gọn hén ! nhắm ông Hội Đồng có chịu gả không ? cậu chưa có công danh sự nghiệp gì ?
- Dạ tui cũng ngại nhưng tui và Lành yêu nhau thiệt sự
Ba Chạy cất tiếng cười khan
- yêu nhau đâu có cơm no , đâu có áo mặc ...Hơn nữa ba thằng tư bản cường hào như lão Hội Đồng Sang đâu dễ gì để cho con gái út cưng của hắn sống đời sống nghèo khổ với cậu , thời buổi này ai tin được một mái nhà tranh hai trái tim vàng ...
Cang nghe bàn càng thêm lo ngại nên liều hỏi :
- Dzậy ông có cách gì khác không ?
Ba Chạy đưa tay che miệng giả bộ ngáp ngủ
- có thì có nhiều cách , nếu không có thì hôm nay tụi tui đâu tìm gặp cậu ...
Để cho Cang nóng ruột chờ đợi Ba Chạy ngồi ung dung vấn một điếu thuốc Rê nhả khói đầy phòng rồi mới tiếp
- Cậu nghe kỹ nhé rồi cho tui biết cậu chọn cách nào từ đó tui sẽ liệu cho cậu

1/ Cậu lên tỉnh làm quen  bạn lính ở tỉnh xong lấy tin tức như ngày giờ chúng đi hành quân , ...Cung cấp tên tuổi những thằng chỉ huy từ cấp trung đội trưởng trở lên , đến thằng tỉnh trưởng ...Móc nối thêm gài người vào tiểu khu để tin tức được đảm bảo , về mặt dân sự cậu có thể móc nối với các thày , cô , nhất là ông hiệu trưởng , được những người này làm hậu thuẫn thì chắc ăn ...Tuy nhiên công việc đó cũng cần có khả năng ngoại giao và nhận xét sắc bén nếu không ...dễ dàng bị lộ khi bị lộ thì cậu đi tù , chắc là không cần tới ông Hội Đồng Sang đưa cậu vào khám

2/Cậu  trốn vô bưng  , vô trỏng thì đảm bảo anh em sẽ đùm bọc nhau , thằng cha Hội Đồng  Sang có ba đầu sáu tay cũng không sao còng cổ cậu được nữa ...Đừng lo chúng tôi sẽ sắp xếp cho cậu hoạt động tại làng xã này để cậu có thể dễ dàng liên hệ với Út Lành , như tôi về đây đêm nay đương nói chuyện với cậu đây ...
Nghe thấy lời đề nghị thứ hai của Ba Chạy , Cang mơ màng đến lý tưởng vào bưng  , dâng hiến đời trai để đánh Mỹ dẹp Ngụy , lật đổ chế độ độc tài của Diệm đem ấm no hạnh phúc lại cho người dân .... Đang từ một kẻ phải chạy trốn sợ bố của bạn gái phát giác vì mình đã hủ hoá làm cho người yêu chưa cưới hỏi đã mang bầu , giờ đây sửa lại thành lý tưởng cao cả , Cang thấy sung sướng quá , như người chết đuối gặp được phao
Cang hỏi thêm
- Nếu vào bưng chừng nào đi
- Tui cho cậu ba ngày để thu xếp công chuyện nhà ...Ra tỉnh thu dọn quần áo , về đây từ giã với Út lành rồi tui sẽ trở lại đón
Cang bồn chồn
- sao gấp vậy ,cho tui một tháng được không ?
- Không , thời gian này là thời gian nguy hiểm nhất , trước kia thì không sao , nhưng bây giờ thì vì cậu còn nhiều lưu luyến muốn giã từ nên dễ dàng để lộ , cậu cứ đi đi còn những gì khúc mắc chưa lo xong , lần sau theo tui, tui sẽ đưa cậu về
Thôi chào cậu tui còn phải sang gặp cậu năm Tài , cậu biết chuyện của Tài chưa , tui chắc chắn kỳ này hắn cùng đi với chúng ta , vì tuần rồi hắn đi thu tiền thuế điền trạch  cho Hội Đồng Sang , thay vì đem tiền về nộp cho chủ nó đã đi nhậu xong bị chúng gài ngồi binh xập xám thua hết tiền rồi , kỳ này không kịp chạy thì Hôi Đồng Sang sẽ còng đầu nó trước cậu nữa không chừng ..
Nghe thế Cang thêm yên lòng chắc sẽ có thêm bạn cùng vào bưng chuyến này ...
Trước khi chia tay với Cang , Ba Chạy đưa tay ra cho Cang bắt lúc đó mới tự giới thiệu
- tui là Trần Bá Chiểu , tự Ba Chạy vậy từ nay cậu cứ gọi tui là anh Ba được rồi , thôi chào cậu , hẹn gặp cậu đêm thứ tư cũng khoảng giờ này, nhớ không được tiết lộ cho bất kỳ ai biết đó nghe chưa !
- Dạ chào anh Ba !
Ba Chạy đi rồi Cang lại đóng cửa cài thêm then còn lấy chiếc ghế đẩu chống cửa thêm cho chắc đúng là "mất trâu mới rào chuồng"
Cang tắt đèn vào giường , nhưng từ đó đến sáng trắng Cang không thể ngủ lại được , việc đầu tiên cái tên Trần Bá Chiểu làm Cang nhớ tới nhân vật cách đây khoảng  năm năm
Chiểu là chân đá banh khá nổi tiếng cho đội bóng đá làng bên , hồi đó hầu như mỗi làng đều có một đội bóng đá , sân đá banh thường là ruộng lúa sau mùa gặt Có một vài làng thì lấy riêng ra một vài công đất làm sân đá banh hay gọi là sân vận động ...Mỗi đội banh có một ông bầu , nhiệm vụ của ông bầu không phải để huấn luyện các đội viên mà chỉ để liên lạc với các làng lân cận hoặc mời họ hoặc giả được họ mời rồi thông báo ngày giờ cho cả các hội viên cũng như cả làng biết để đi coi ủng hộ , cổ võ tinh thần ...
Hôm đó có trận đấu ở làng bên , đội banh của Trần Bá Chiểu đã bị đối phương cho lọt lưới hai trái mà chưa gỡ được trái nào , Chiểu còn bị đối phương kềm sát nút không phát huy được khả năng dẫn banh như các trận đấu trước ...Chiểu đâm quạo ..nhè ống quyển đối phương để đá , thế là gây ra xích mích , Chiểu lăn xả vào đấm đá tứ tung , vô tình Chiểu đá trúng hạ bộ của tay tiền đạo phía đối phương , làm địch thủ lăn ra sân cỏ lăn lộn vì đau rồi ngất đi , khi mang được vào đến nhà thương thì đã tắt thở ...Biết tin ấy Chiểu kinh hoàng sợ hãi nhờ có người anh họ đi tập kết lâu rồi nên Chiểu vào Bưng theo hắn để tránh phải vác chiếu đi hầu toà ...Bí danh Ba Chạy có từ đó
Nghĩ đến việc ba ngày nữa Cang cũng vào bưng tập kết ...Để dâng hiến đời trai cho non sông, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của nhà độc tài Ngô Đình Diệm và nhất là đuổi Mỹ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam ....
Mới nghĩ thì thấy lý tưởng cao cả tốt đẹp quá nhưng nghĩ lại thì ...Giải Phóng dân tộc , những người dân đang sống an bình vui vẻ tại sao phải giải phóng cho họ mà sau khi giải phóng chưa thấy hình ảnh gì tốt đẹp hơn ...Nói chế độ họ Ngô là độc tài , là gia đình trị , cũng có mặt nào đúng nhưng nhìn kỹ thì thấy Tổng Thống Diệm là người yêu nước yêu dân tộc Việt Nam , sau khi lật đổ Diệm chắc gì đã tìm được người lãnh đạo đất nước có lòng hy sinh như Ngô Đình Diệm ... Đánh Mỹ ư , lúc này trên toàn lãnh thổ miền nam chỉ mới có khoảng hơn một ngàn cố vấn đa số là những cố vấn cầu cống đường xá , nói chung là họ cố vấn cho miền nam kiến thiết Chứ không có cố vấn quân sự chỉ đạo cho chiến tranh , như vậy đánh đuổi họ làm gì ...
Nếu đầu quân làm anh lích VNCH cũng có lý tưởng là gìn giữ quê hương chống lại bọn Cộng sản bắc Việt xâm chiếm làm trái với hiệp định Genève...
Nhưng nghĩ tới gương mặt ông Hội Đồng  Sang ,sau khi ổng biết chuyện cô Út Lành có bầu thì mọi suy nghĩ đều chấm dứt, chỉ còn lối trốn vào bưng là an toàn nhất
Rồi lan man lại tưởng tưởng , sau khi mình đi rồi Mẹ sẽ sống ra sao , ai giúp đỡ tuổi già khi bệnh tật , thây kệ nếu mình đi làm lính VNCH thì cũng thế đâu phải muốn về lúc nào là về ...Lại nghĩ tới Lành với những lời thề sống chết có nhau khi nàng trao thân cho chàng vào đêm chàng từ giãi lên tỉnh học đầu niên khóa vừa rồi ...Không biết phải nói sao với nàng ...Nhưng tưởng tượng ra gượng mặt giận của ông Hội Đồng Sang khi biết con gái cưng có bầu , chắc là hung dữ lắm làm cho Cang càng sợ hãi và quyết định vào bưng ...
Chàng chạy ra cầu ao vục nước đìa lên rửa mặt cho tỉnh sau đó vào nhà gom ba cái  quần áo nhét trở lại tuí xách rồi ra chào mẹ lên tỉnh
Bà Bảy ngạc nhiên hỏi
- Sao bay đi sớm quá dzậy , hôm qua ai đến nói chuyện,nói chuyện gì mà tới khuya dzây con ?
Cang quay đi che dấu nói vội
- da người quen không có chi đâu má
- Còn chuyện con lành bay tính sao có nhờ người qua nói chuyện với ông Hội Đồng không , chừng nào đây , không chờ lâu được đó nha
Thì ra bà Bảy cũng đã lén ngghe cuộc nói chuyện giựa Cang và Ba Chạy , bởi thế mới biết chuyện Út Lành có bầu
- dạ má để con lo chiều mai co dzìa rồi tính
Thế là Cang quảy tuí ra đi ...
Nhìn theo sau lưng của Cang vội vã ra đi , bà Bảy thấy hình ảnh của chồng ...Và rồi bà thêm lo sợ hoạt cảnh đêm qua khi Ba Chạy gõ cửa khuya vào nhà làm bà liên tưởng nhớ đến tám năm trước
Cũng một đêm không trăng trời tối đen như mực đang khuya có tiếng gõ cửa bà Bảy ra mở cửa thì có ba người cùng phóng vào nhà , rồi xông thẳng vào đè ông Bảy xuống trói tay ông dẫn đi ...
Sáng hôm sau ở cuối kênh Tám Ngàn người ta cho hay có một xác chết , hay tin bà Bảy chạy đi tìm thì thấy ông Bảy tay vẫn còn bị trói một vết dao đâm xuyên vào lồng ngực trái ...Và nơi đấy được gắn lên một mảnh giấy với hàng chữ :
" Đứa Phản Động "
Bà Bảy nhào xuống ôm xác chồng gào thét , một lúc sau , thấy bà vật vã khổ sở sợ bà kiệt sức những người tò mò đi xem , đứng chung quanh đấy mới can ngăn kéo bà ra , bà Bảy nhờ mấy anh thanh niên khiêng xác ông Bảy về nhà, chiều hôm ấy nhờ người ra tỉnh mua dùm cỗ áo quan loại thường thôi miễn sao có đủ bộ để tẩm niệm cho ông Bảy, chỉ cốt cho có , vì Bà Bảy một mình nuôi con đã mười mấy năm nay , nói thật ra chỉ đủ ăn đủ mặc cho con thì đã gọi là giỏi lắm rồi ...Rồi mai  đây Cang còn phải ra tỉnh theo học bà tuy chả biết bằng cấp là gì nhưng nghe người ta nói ...Bà cũng cố cho Cang học để thi lấy cái bằng Thành Chung
Lính trên bót hay tin nhưng họ cũng không làm khó,trái lại còn cho người xuống lo phụ giúp nếu cần như đào huyệt khiêng hòm ...Bà Bảy chỉ phải ra Hội Đồng Xã lo cái giấy khai tử cho ông Bảy thế là mang chôn , nhiều lời đồn ra tiếng vào , kẻ chê người khen ...Nhưng đại đa số khen trường hợp của ông Bảy là may , thiệt tình đã chết rồi còn gọi là may không biết may ở chỗ nào ! , theo họ giải thích ông bảy còn có xác để bà Bảy lo an táng , chứ nhiều người bị bắt đi là biệt tích không có ngày về , chả biết sống chết ra sao ... Có những người thì bị cho vào bao bố rồi kèm theo mấy cục đá , liệng đại xuống sông mà trong dân gian thời đó gọi là " cho đi Mò Tôm " ...Sau đó ít tháng ít năm những người chài lưới ở ven sông vô tình vớt lên được chỉ còn là cái bộ xương ...Đại đa số không nhận ra được là ai , một vài trường hợp hi hữu còn có những kỷ vật đặc biệt bên mình thì mới nhận ra được ...Trong ba ngày đó bà bảy khóc hết nước mắt , tính bà vốn ít nói , sau ngày chồng bị giết bà càng ít nói hơn ...Cái bản án treo ở ngực ông Bảy bà Bảy cất rất kỹ , định khi nào Cang lớn bà sẽ đưa cho Cang và kể lại chuyện ông Bảy bị giết như thế nào tận tường cho Cang nghe , rồi tùy ở nó muốn trả thù ra sao cũng được ...Ý định ban đầu là thế , nhưng cách đây hơn ba năm bả Bảy đã âm thầm lấy bản án đó mang ra trước hương án của chồng và đốt đi ..Bà nghĩ bậy giờ biết ai mà trả thù , giết thêm một người thì thêm một gia đình tan nát , mẹ mất con , vợ mất chồng , hay con mất cha ...Vì thế bà muốn mối thù kia chấm dứt nơi này , đêm đó khi đốt bản án của chồng bà đã khấn vái cùng vong linh ông Bảy những ý nghĩ thầm kín ấy ...
Đêm qua có người gõ cửa đến nhà vào đêm khuya , tuy Cang nói không có gì nhưng bà Bảy lo lắng lắm " cây mưốn lặng , gió chẳng ngừng " , người ta đã giết chồng bà chả lẽ bây giờ còn muốn giết luôn cả con bà nữa sao ...Câu nói " diệt cỏ phải diệt tận gốc " làm bà Bảy càng thêm lo sợ , nhưng không dám tâm sự cùng ai
Chẳng qua trước đó ông Bảy có gia nhập kháng chiến đi chống Pháp nhưng sau khi Pháp đã đầu hàng rút khỏi Việt Nam và Đông Dương , thì ông Bảy nghĩ trở về với vợ với con lo tay cày tay cuốc phụ vợ lo canh tác nuôi con , tuy Nguyễn Trung Cang là thứ tư nhưng hai chị gái của nó đều chết lúc chưa đầy tháng , nên hai người dồn hết tình thương cho Cang
Năm ông Bảy bị giết Cang còn nhỏ , không biết Cang còn nhớ không mà Bà bảy chả thấy Cang nhắc lại bao giờ , hay là Cang cho rằng những người giết ba mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam , còn bây giờ vào bưng là theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mới được thành lập ,do một nhóm trí thức Miền Nam bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm , bởi vậy Mặt Trận và Đảng Cộng Sản Việt Nam là hai không có liên quan ...Tư Cang lầm cũng như rất nhiều thanh niên trong thời đó đã lầm chạy theo Mặt Trận để thực thi lý tưởng chứ không muốn phục vụ cho Đảng Cộng Sản VN , họ có biết đâu Mặt Trận chỉ là con đẻ của Đảng do Đảng dựng lên và điều hành còn nhóm trí thức Miền Nam chỉ là cái danh mà không có thực quyền , cái danh đó để lòe Thanh Niên , dụ dỗ họ gia nhập mang đời trai cống hiến cho non sông tổ quốc .
Lại nói về cô Út Lành ...Chiều trước cô đã hay tin Cang về thăm mẹ , trong lòng cô mừng thầm thế nào thì chiều nay Cang cũng hẹn với mình , thế nhưng đợi tới trời đã nhá nhem tối mà không thấy đứa nào đưa tin nhắn gửi gì cả ..Cô nóng ruột làm liều đi ngang nhà Cang , cũng may thấy bà Bảy đang lôi cất mớ quần áo giặt phơi trên giây ở trước sân , cô Út đánh liều lên tiếng chào
- Dạ bác Bảy , bác bảy khỏe hôn  ?
- Dạ chào cô Út , tui khỏe , cô Út vào nhà chơi
- Dạ thui tối rồi , bác bảy cho hỏi anh Cang lâu rồi có về thăm bác Bảy không  ?
- Có đó cô chiều qua nó dzìa nhưng sáng này nó đi ra tỉnh trở lại rồi ,nói là có chuyện chi gấp lắm
Nghe Bà Bảy nói, cô Út rất buồn , như vậy tin tức của cô không sai nhưng vì Cang không yêu thương cô nên đã không ghé qua thăm cô cho dù chỉ để cô được nhìn thấy mặt cho đỡ nhớ thương ...
Cô Út Lành chào bác Bảy từ giã ra về ... Cô út là con của ông Hội Đồng Sang , cô học chung một lớp với Cang nhưng vì là con gái , hơn nữa hai anh trai của cô cũng đã đi xa để tiếp tục việc học nên cô đành phải bỏ học ở nhà , tiếng là phụng dưỡng cha mẹ , chứ thực ra cả đời cô chưa đụng đến móng tay , tất cả việc vườn tược ruộng nương bếp núc đều có kẻ ăn người ở lo ...Ông Hội Đồng rất giầu , nhà cao bảy gian mái ngói to nhất làng , còn nói về ruộng của ông thì thật đúng với câu : " cò bay thẳng cánh , chó chạy cong đuôi ", nhưng ông đã chia ra và cho tá điền mướn lại bây giờ ông không phải làm gì nữa , tá điền mướn , người nào khá giả chút thì trả bằng tiền mặt trước vụ gặt , còn những ai khó khăn thì đợi tới mùa khi vừa thu hoạch xong ông cho người mang ghe bầu tới nơi mua , gọi là thu mua lúa non ,để gật nợ ...Nhưng ông cũng có lòng nhân đạo và thương những tá điền của ông , khi nào họ lâm nạn như vợ đau con bệnh không có tiền chạy thuốc thang ..Hay tin ông đều đến thăm và móc tiền giúp , hoặc giả năm đó vì thiếu nợ tiền thuốc quá nhiều cần tiền trả những nơi đó trước ông đều đồng ý cho hoãn lại đến năm sau mới thanh toán ...Bởi thế ông rất được lòng kẻ ăn người ở
Cô Út sau khi đã được nghe tận tai , Bà Bảy xác nhận Cang có về nhưng cũng đã vội vả ra đi sáng hôm rồi , cô buồn lắm cả chiều hôm tối hôm đó trốn miết trong phòng bỏ cả cơm tối , cô lo sợ cái bụng mỗi ngày mỗi lớn của cô , không biết cách nào để giấu , cô lo sợ Cang thay lòng đổi dạ , không chừng đã có ai đó khác , ở ngoài tỉnh ...Ôi thì cả trăm mối lo toan , sao người ta bảo yêu nhau là hạnh phúc , mà mối tình của cô với Cang toàn gặp những khổ đau ...Cô nằm ân hận cái đêm hôm đó ở ngoài chân đụn rơm,khi hai người hẹn hò từ giã để Cang lên tỉnh học khoá cuối thi lấy bằng Thành Chung , cô đã nhẹ dạ dâng hiến cả đời con gái cho Cang ...Cái đau khổ và éo le thay , sau đó hai tháng thì cô phát hiện những triệu chứng của người đàn bà mang thai ...Cô đã viết thư này gởi ra cho Cang hay , và cũng chính vì vậy mà Cang về chơi những ngày cuối tuần này ...Ý của Cang cho cô hay là sẽ lo cưới hỏi đầy đủ trước mùa thi ... Thời này các học sinh có vợ có con vẫn cắp sách đến trường là chuyện thường , đọc thơ Cang viết cô cũng an tâm nhưng bây giờ thì lại hoàn toàn đổi khác không biết Cang đang nghĩ và làm gì ...Sao lại ra đi vội vã như thế mà hỏi thẳng bác Bảy chắc là Cô Út mắc cỡ không dám ...Bởi thế cô Út cứ nằm lỳ trong phòng mà giọt ngắn giọt dài
Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 10:48 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3583
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #144 - 26. Aug 2013 , 18:32
 
TA GIÀI PHÓNG NHAU 

CHƯƠNG II

Sáng hôm đó Cang đón ghe máy ra tỉnh , trên đường đi Cang đã đủ thì giờ để tính toán những việc cần làm phải làm , và việc gì làm trước làm sau nhất là cái lý do mà Cang sẽ tạo ra để nói cho xuôi khi thi hành những công việc đó , nói là vậy chứ khi ra tới nhà trọ , sau khi chào hỏi Cang quá mệt mỏi lao đầu vào phòng nằm và ngủ thiếp đi cho tới bữa cớm tối , nếu bác Hai không cho người gọi thì có lẽ Cang sẽ ngủ qua đêm không chừng
Cang bò dậy ể oải ra ăn cơm , sao những miếng cơm lùa vào miệng nó tẻ nhạt quá chừng , nhưng Cang cũng cố nuốt cho trôi, sau bữa cơm , Cang vào phòng lấy ra cái phong bì mà trong đó Cang cất tiền , Cang bắt đầu câu chuyện
- Bác hai cho con gởi số tiền ăn và tiền nhà tháng này , chắc con ở lại đây hết ngày mai , sáng thứ ba con phải trở lại quê bác Hai ạ
- Sao dzậy ? rồi việc học của bay ra sao ?
- Dạ má con bệnh , con phải dzề chăm sóc cho bả ...Con sẽ nhờ thằng Trường bạn của con chắc bác Hai nhớ , nó chép bài ra làm hai gởi cho con , con cố gắng tự học ở nhà rồi đi thi bác Hai à
Bà Hai tính nhẩm số tiền từ đầu tháng đến nay cũng không có là bao, chỉ mới hơn một tuần nên bà nói
- Thôi bay có chuyện phải đi thì cứ đi , việc báo hiếu mẹ cha không thể không làm mà được , còn số tiền đó cất đi cứ như tao giúp cho bả thang thuốc mong sao bệnh tình bả mau khỏe lại , ừa mà khi nào có ghé tỉnh nhớ tạt thăm tao nha
Cang đưa qua đưa lại số tiền cơm cho bác Hai nhưng bác nhất định không chịu nhận ,cuối cùng Cang nhét bao thơ vào túi quần nói cám ơn rồi vô phòng ...Giờ này Cang không thể ngủ được , nằm đó chàng thấy nhớ Út Lành quá chừng , Chắc là Út Lành buồn lắm cách xa nhau đã gần bốn tháng rồi đó , thế mà chàng về không kịp nhìn mặt nhau đã ra đi ...Nhất là bây giờ Út Lành lại mang cái bụng bầu , không biết lớn chưa cũng đã bốn tháng rồi còn gì ...Nằm mãi ngủ không được , Cang bò dậy chạy ra quán tạp hóa ở đầu đường mua gói thuốc Ruby , Hằng ngày Cang đâu dám xài sang như vậy nhưng nay có số tiền của bác Hai không nhận nên dư ...
Cang nằm đốt thuốc đến vàng ngón tay , và suy nghĩ lan man qua bao nhiêu chuyện dùng dằng nửa muốn đi nửa muốn ở lại rồi ra sao thì ra ... Làm trai là phải có trách nhiệm với những gì mình đã gây ra ..Nhưng không biết từ lúc nào Cang đã nhuần nhuyễn cái lý tưởng là vào bưng là đem đời trai dâng hiến cho non sông tổ quốc , là vì dân cứu nước khỏi ách thống trị của nhà độc tài Ngô Đình Diệm , là đuổi Mỹ có ý đồ xâm lăng , xua đuổi bọn đế quốc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam giành lấy độc lập và thống nhất hai miền nam băc ..Cái lý tưởng mà Cang mới khoác lên mình đêm qua nó to hơn cả tình yêu Cang dành cho Út lành , chính vì điều đó cũng đã xoa dịu những bứt rứt trong lòng hắn , Cang cứ coi như đã tìm ra con đường giải thoát , Thế rồi Cang thiếp đi trong giấc ngủ về sáng
Sáng hôm sau Cang cũng mặc quần áo bình thường như đi học để đến trường , Cang muốn vào trường để xin cái học bạ , dù sao cũng cần chứng minh rằng Cang đang học lớp đệ tứ trường trung học tỉnh dù chưa thi bằng Thành Chung , nhưng có nhiều cơ quan họ cũng cho rằng nó có giá trị tương đương ...Cô thơ Ký hỏi thăm Cang tại sao lại bỏ học , Cang cũng nói lý do như hôm qua đã thưa với bác Hai , Má Bệnh không người chăm sóc nên phải về quê phụng dưỡng cho má ..Cô thư ký tỏ ra rất buồn khuyên Cang cố gắng tìm giải pháp khác xem có thể được hay không vì Cang bỏ học không thi rất uổng , Cang là một học trò xuất xắc của trường nên ai cũng quí mến , khi đưa học bạ sang cho ông Hiệu Trưởng ký ông cũng ngồi khuyên Cang như vậy ...Nhưng không còn phương pháp nào khả dĩ có thể thực thi , ông HT đề nghị ông sẽ nhớ thày Viễn sao chép bài rồi gởi về quê cho Cang khuyên Cang cố gắng học để rồi cuối năm ổng sẽ nộp đơn cho Cang đi thi ... Lời đề nghị này chính ra Cang sẽ nhờ Trường nhưng nếu được thày Viễn thì chắc chắn bài vở đầy đủ hơn Trường, hơn thế nữa còn vấn đề giấy học trò để sao chép Trường sẽ phải mua ...Biết tính sao trả như thế nào cho phải lễ , Được lời như mở tấm lòng Cang hoan hỉ cám ơn ông Hiệu Trưởng rồi xuống lớp gặp Thày Viễn là thày phụ trách lớp của Cang , nói sơ qua dự tính của ông Hiệu Trưởng xem ý thày thế nào , thật may mắn thày nhận lời ngay , thế là Cang chào thêm vài ba nggười bạn thân quen nữa rồi ra đi
Mọi việc dự định làm sáng nay đều xuông xẻ và tốt đẹp hơn cả Cang dự tính , từ giã bạn bè ra đi cũng nhiều lưu luyến nhưng biết sao hơn , thôi thì hẹn gặp lại nhau khi đất nước thanh bình
Cang trở về nhà trọ , ăn cơm trưa với bác Hai , sau đó vào phòng tính thu dọn tất cả các bài vở giấy tờ , các dụng cụ vặt vãnh cho vào bao để sẵn sàng ra đi , nhưng vừa ngả lưng trên giường , Cang cảm thấy mệt mỏi và thiếp đi trong giấc ngủ trưa ...
Khi Cang chồm dậy đã ba giờ chiều , giờ này không còn đò máy về quê ...Cang ra sau vườn múc nước tắm , thay quần áo xong không biết làm gì cho hết buổi chiều , Cang khoác áo ra chợ đi lòng vòng quanh hai dẫy phố ..Cang không có ý định mua bất kỳ món gì , nhưng lâu rồi vì bận học tuy ở ngay đây mà hình như Cang chưa bao giờ dạo chơi qua Phố chợ như hôm nay ...Cang ghé vào một tiệm bán quần áo , Cang nẩy ra ý muốn mua một món hàng gì đó mang về tặng Út Lành như một lời xin lỗi và cũng là kỷ niệm cho những ngày tạm xa nhau ...Đưa mắt nhìn qua tủ kiếng , Cang thấy một cây kẹp tóc với hình con bướm trắng thật xinh , chắc là Út Lành sẽ thích vì nàng có một mái tóc dài óng mượt , chuyên gội bằng dầu dừa nên lại càng bóng , nhưng coi giá Cang thấy hơi nhiều tiền ...Với số tiền đó chàng có thể mua được hai gói thuốc Ruby , nghĩ thế nên Cang không mua bước ra khỏi tiệm
Ngang qua một quán bán hủ tiếu , tuy không đói nhưng tự dưng Cang cảm thấy thèm , chàng bước vào kêu một tô xí quách , với một chai bia lớn , bia con cọp , mà có lẽ đây là lần đầu tiên Cang được thưởng thức vị ngọt của bia , Cang cảm thấy thèm không phải là bây giờ mới thèm nhưng đã thèm từ lâu mà không dám mua uống , nhưng chiều nay nghĩ đến ngày mốt sẽ vào bưng , ở trỏng chắc là không có những thứ xa xỉ này ...Nên Cang càng muốn được hưởng thụ cho biết mùi với đời
Ở dưới quê đôi khi thay mẹ đi dự những tiệc cưới, hỏi hay giỗ kỵ , Cang đã từng uống rượu , nhưng chỉ là loại rượu Đế ngon , trong vắt rót ra có sủi bọt vài sợi lăn tăn là cùng , còn đây trong ly đá cối bia được rót ra , với cả một dề bọt trắng xóa phủ kín mặt ly , mới chạm vào đầu lưỡi Cang cảm nhận được vị hơi đăng đắng , nhưng sau đó là vị ngọt dễ chịu khi chạy qua cổ họng chứ không nóng rát như rượu Đế ...Cang thấy mình lớn hẳn lên mặc dù chàng mới chỉ là cậu thanh niên mười bảy tuổi ,Cang lại kêu thêm một gói thuốc Ruby ..Sau khi đã tính tiền ra về trời đã chiều mặt trời đã tắt , một mình nằm trong căn phòng trọ vắng vẻ với hơi men ngà ngà của chai bia đầu đời , Cang đốt thuốc hút và cảm thấy nhớ Út Lành quá chừng ... Cang ân hận nếu như mình không ăn uống và hút thuốc thì đã có dư tiền để mua cái kẹp tóc bướm trắng kia tặng cho Út Lành , Đằng này mình chỉ biết hưởng thụ ích kỷ một mình , nhưng rồi chàng lại tự an ủi , ừa mà mua cái kẹp cho Út lành , thì Út Lành cũng kẹp tóc rồi mình ra đi đâu có được ngắm mái tóc dài óng mượt của nàng ...Thôi lỡ rồi
Sáng hôm sau Cang dậy gom hết quần áo , sách vở kể cả những tờ giấy nháp bỏ vào túi sách , rồi ra chào bác Hai từ giã , bác Hai chỉ nói với theo
- Khi nào có rảnh hay có dịp qua tỉnh thì nhớ ghé thăm tao nha , cho tao gởi lời thăm bả chúc bả mau lành bệnh !
- Dạ con cám ơn bác Hai con sẽ chuyển lời tới má con , thôi chào bác Hai con dzìa !
Đứng ở bến sông đợi tàu đò vê quê , nhìn sinh hoạt của khu dân cư gần đó có lẽ là lần cuối , Cang cảm thấy có một nét gì rất thanh bình ...Như những đứa trẻ chơi cù trên sân nhóm khác vài đứa con gái đang nhảy lò cò , bến sông các cô gái gánh nước mướn nói cười vui vẻ , cùng với những đứa trẻ đang nô đùa tắm dưới sông
Chợt Cang cảm thấy rất yêu hoạt cảnh đó , như vậy mình vào bưng đi làm cách mạng , giải phóng , cách mạng cái gì, giải phóng ai khi họ đang an vui , và tất cả những người kia toàn là những người tử tế ...Cang chả có điều gì cần phải cách mạng cái xã hội , với những người như Thày Hiệu Trưởng , như thày giáo Viễn , như bác Hai ...
Thế rồi tàu đò đến Cang nhảy lên đò và cắt đứt những tư tưởng đang nghĩ ...
Đò máy chạy ào ào trên sông Cang đưa mắt quan sát , hai ven bờ , với những đồng lúa xanh ngát , lúa bây giờ đang thời con gái , nước ruộng lấp xấp , thật đẹp lâu lâu lại có một một con trâu với chú bé ngồi trên lưng hay cánh có trắng đang nghỉ chân  trên đó ...
Có những lúc Cang muốn quay trở lại để học tiếp lấy bằng thành chung , cưới Út Lành và nuôi con , bình thường như mọi người , với cái bằng thành chung thời buổi đó đi kiếm việc không khó , chắc hắn Cang sẽ kiếm được tiền để gầy dựng một mái ấm gia đình nho nhỏ không phải chỉ là mơ ước ... Nhưng rồi Cang lại nghĩ , biết học xong đi thi có đậu không ? lỡ rớt thì sao , chắc chắn ông Hội Đồng Sang sẽ không gả Út Lành cho Cang nếu Cang không giựt được cái bằng Thành chung kỳ này , cho đến đậu còn chưa chắc chứ đừng nói là rớt , vì ngoài Cang ra còn có nhiều người trên tỉnh với môn đăng hậu đối , với những chàng đẹp trai con nhà giầu đã có công ăn việc làm chắc chắn ngoài tỉnh còn đang dòm ngó Út Lành ...Có chăng là nhờ Út lành làm reo với cái bụng bầu , để cho ông Hội Đồng Sang ngại tiếng tăm , miệng đời mà gả cho Cang ...Nghĩ như vậy nên Cang yên lòng ra đi cho lý tưởng hiến đời trai cho non sông đất nước , làm cách mạng lật đổ ngụy quyền Sài Gòn lật đổ gia đình trị độc tài Ngô Đình Diệm , cứu tổ quốc giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của Đế Quốc Mỹ .
Ở đời đôi khi người ta phải tạo ra những cứu cánh cho cuộc sống , Cang hiện tại cứ yên trí đó là lý tưởng của mình , đó là cái cứu cánh của cuộc đời
Cang về tới nhà chào mẹ xong vào phòng nằm , nửa Cang muốn hẹn gặp Út Lành nửa lại sợ nếu gặp mặt và cho nàmg biết nàng sẽ khóc bù lu bù loa , chuyện bí mật không giữ được anh Ba Chạy đã dặn rất kỹ không được cho ai hay chuyện này ...Không phải là Cang không tin Út Lành , nhưng Cang biết rất rõ Út Lành sẽ khóc nếu chàng cho Út Lành hay chuyện dự trù vào bưng của Cang. Út Lành sẽ níu kéo và có thể còn làm lớn chuyện , sẽ thưa chuyện nàng đang có bầu với Cang để nhờ tình thương con của ông Hội Đồng Sang can thiệp ...Với áp lực đó vì muốn giữ đạo hạnh cho gia đình vì không muốn mang tiếng là nhà có con gái chửa hoang , có thể ông Hội Đồng Sang sẽ nuốt đắng mà chấp nhận , nhưng nếu ông không chấp nhận thì sao !!, chuyện gì sẽ xẩy ra , chắc chắn Cang sẽ bị ông Hội Đồng Sang lôi đầu vào bóp nằm ở trỏng để đền tội , rồi nữa chuyện bỏ học của Cang sẽ được mọi người biết và Cang đang nói dối , bà Bảy đâu có bệnh vậy Cang nghỉ học vì lý do gì , có thể họ sẽ hiểu ra Cang có ý định trốn vào bưng để trốn tránh trách nhiệm ...Lúc này thì hỡi ơi có muốn vào Bưng cũng không còn cơ hội để thực hiện
Chi bằng Cang cứ âm thầm ra đi , sau này đúng theo lời hứa của anh Ba Chạy , Cang sẽ được hoạt động ở vùng này , Cang sẽ quay trở về giữa đêm tối như anh Ba Chạy , sẽ đến thăm Út Lành , như anh Ba Chạy tuy vào bưng hoạt động thế mà chị Ba ở nhà vẫn có bầu và đẻ năm một ...Chuyện đó làng nước biết rất rõ và còn biết rằng chị ba rất chung thủy với chồng chưa bao giờ lăng loàn hay xàm sỡ với trai khi chồng đi vắng , Chị ba luôn luôn sống chung với mẹ chồng .
Như vậy thì cứ đợi khi Cang đã trở thành cán bộ cho mặt trận xong Cang sẽ trở về thú tội với Út Lành và tin tưởng rằng Út Lành cũng sẽ tha thứ cho Cang , còn chuyện ông Hội Đồng Sang lúc đó không thành vấn đề nữa , ông Sang bằng lòng thì tốt đẹp bằng không ông mà cứng đầu không chịu gả con gái thì chỉ cần trói gò ông lại ,bịt mắt dắt đi sau đó treo vào cổ cho ông bản án Cường hào ác bá địa chủ , thế là xong , gả Út lành làm vợ lớn cho Cang chứ làm vợ lẽ chắc chắn ông Sang cũng đành chịu nghĩ đến đây Cang chợt mỉm cười sung sướng .
Chuyện Cang sắp trốn vào bưng Cang chỉ cho mình bà Bảy hay vì Cang biết mẹ rất yêu thương mình hơn nữa bà Bảy tính tình ít nói lại kiên cường , khi được Cang cho biết tin không vui ấy bà bảy chỉ thở dài , chứ không còn biết nói gì hơn , chuyện sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó , Cang đang bước đi đúng con đường của Ông Bảy ngày xưa đã đi , có lúc bà bảy tỏ ra hối hận đã đốt mất bản án treo ở ngực của ông Bảy lúc ông bị người ta giết .. Có lẽ lúc đó Cang còn quá nhỏ không nhớ chuyện gì trong khi bà Bảy lại ít nói ít gần gũi con không muốn tâm sự cùng con những chuyện buồn mà bà nghĩ chỉ mình bà gánh vác cũng đủ để cho con được vô tư ...Tới bây giờ thì mọi chuyện đã lỡ dĩ bà chẳng biết nói gì hơn , bà cũng nghĩ như Cang Mặt Trận không phải là Cộng Sản , mặt trận là do những nhà trí thức tư bản miền nam bất mãn với chế độ độc tài Ngô Đình Diệm rồi cùng nhau thành lập để cứu nguy dân tốc khỏi bị thống trị của đế quốc Mỹ đang cho người sang thăm dò lập đầu cầu đổ bộ quân của chúng sang sau này ...Thì ông Bảy khi xưa cũng vậy ông Bảy chỉ đi tập kết theo tiếng gọi non sông để chống lại thực dân Pháp đã đến đô hộ Việt Nam cả gần trăm năm , ông Bảy nào có ý định gia nhập đảng công sản Việt nam hay đảng cộng sản Đông Dương đâu cơ chứ , vì không muốn gia nhập đảng cộng sản ông đã bỏ về sau chiến tranh và ông đã bị trả giá mang bản án : ĐỨA PHẢN ĐỘNG
Bà bảy lại trước bàn  hương án của chồng lấy ba nén nhang , lạy chồng như tạ lỗi cùng chồng,bà đã không biết dậy con , bà không hề hở môi than oán , Cang đưa cho bà lá thư nhờ bà trao lại cho Út lành sau khi Cang đã đi , bà cũng nhận nhưng trong lòng dâng tràn đau xót ....

Đêm thứ tư,Ba Chạy mò đến gõ cửa có lẽ khuya hơn đêm trước ,Bà Bảy ra mở cửa nhưng không hỏi như hôm trước , vì bà đã đoán ra được là ai rồi , Ba Chạy thì vẫn lách mình vào lẹ làng và gọn như lần trước , Cang cũng đã bước ra sẵn sàng lên đường ...
-Cậu đã sẳn sàng cả chưa , thôi chúng ta đi , bên ngoài còn anh em đang đợi !
Cang tiến lại cầm tay mẹ muốn nói điều gì đó nhưng nghẹn ngào không thốt ra được
Ba Chạy lại dục
- Thôi chúng ta đi , bên ngoài còn anh em đang chờ chúng ta
Hắn gật đầu chào bà Bảy rồi cầm tay Cang lách ra khỏi cửa , bên ngoài bóng tối ấp đến , Cang như vừa bước vào một không gian nào đó hoàn toàn xa lạ, gió khuya lành lạnh , chàng riu ríu bước theo Ba Chạy như đứa trẻ được bố dẫn đi trong đêm , lạ một điều là chính con đường này , những lần hẹn hò cùng Út Lành đêm có về khuya Cang vẫn không hề sợ sệt vì đã quá quen thuộc , nhưng đêm nay cái cảm giác an toàn trong Cang đã biến mất , Cang bước theo Ba Chạy mà như kẻ trộm lần mò trong đêm lòng lo sợ bị phát giác , bởi thế mà trán chàng lấm tấm những giọt bồ hôi ..
Đi gần hết con đường ở cuối làng thì Ba Chạy cùng bốn anh em khác đưa Cang rẽ xuống ruộng rồi đi thẳng đến khu rừng trước mặt
Đêm đó Cang được chỉ định ngủ trong một túp lều lá bốn bề không có vách , không bàn ghế , dĩ nhiên là cũng không giường chiếu , một người trong bọn đưa cho Cang mượn một cái bao dệt bàng cói , mà sau này Cang mới biết nó có một tên gọi là cái móp , cái móp như một cái bao bố khá to tìm chỗ nào bằng phẳng trải móp xuống , móp có hai lớp , người mình chui vào giữa , lớp dưới làm chiếu lớp trên làm chăn vừa ấm vừa tránh được muỗi
Vì đi đêm khuya nên mệt, khi Cang thức dậy thì mặt trời đã lên , ánh nắng đã xuyên qua những cây rừng che kín trên đầu Cang nhìn quanh không nghe tiếng động , tất cả vắng lặng như đây là rừng hoang không một bóng người lai vãng
Không lâu Ba Chạy đã đến bên hỏi
- Dậy rồi hả đêm ngủ ngon không ? thôi lo dẹp móp rồi đi theo tôi
Cang riu ríu làm theo mệnh lệnh của Ba Chạy , Sau đó Ba Chạy đưa Cang vào sâu nữa trong rừng , đường càng đi rừng càng rậm trên đầu những cành cây đan kín từng tầng từng lớp , với vận tốc đi đêm qua Cang nghĩ chỗ này không xa nhà là bao tuy nhiên Cang chịu không thể đoán ra nơi đây là đâu ...
Ba Chạy rất thận trọng nhìn trước ngó sau rồi mới khom minh , vén dạt gốc cỏ lau sang một bên để lộ ra một miệng đường hầm hẹp chỉ vừa một người tụt xuống với chiều thẳng đứng
Ba Chạy hất hàm nói với Cang
- Cậu xuống trước đi
Cang tuân lệnh bước tới miệng hầm thòng hai chân xuống trước rồi dùng hai cánh tay giang ra treo thân hình tòng teng trên miệng hầm , Ba Chạy mách
- Buông người xuống sẽ chạm đất không té đâu
Cang làm theo và quả thật chân chạm đất vững vàng , tới lượt Ba Chạy tụt xuống gọn gàng như một con mèo nhảy từ trần nhà xuống đất , sau đó Ba Chạy còn nhến chân lên đưa tay kéo nắp hầm lại như cũ , thế là đường hầm trở nên tối om Cang phải tránh qua một bên nhường bước cho Ba Chạy bước trước , Bây giờ thì Ba Chạy luồn chui nhanh nhẹn như một con chuột trong hang , đi sâu vào chừng mười thước thì đường hầm chợt rộng ra , và từ xa có ánh sáng , đúng là "ánh sáng cuối đường hầm"làm cho người ta tin tưởng vững tâm ...Khu vực chỗ có ánh sáng khá rộng ở đó có năm bảy người đang ngồi ăn sáng và chụm đầu nói chuyện , Cang thoáng nhìn thấy bóng của Tài , Tài cũng nhận ra Cang nên đứng dậy mừng rỡ Cang hỏi
- Anh Tài vào đây hồi nào ?
- đêm qua hình như chúng mình đi cùng tuyến đường mà ...
Bây giờ nhớ lại Cang nhớ rằng sau khi đã rẽ xuống ruộng đi được khoảng nửa giờ thì trong đoàn hình như có thêm một nhóm  nữa hoà nhập vào , tuy nhiên theo chỉ thị của Ba Chạy khi đi trong đêm như vậy , cấm không ai được lên tiếng nói chuyện , kể cả thở cũng cố thở cho nhẹ ...Bây giờ Cang mới cảm thấy Mặt trận tổ chức hết sức chu đáo và bí mật ...
Ba Chạy lại lấy cho mình một củ khoai và cũng lấy đưa cho Cang hai củ nhỏ hơn , đó là phần ăn sáng của tất cả các Kháng Chiến quân ... Phần ăn sáng này đã được các anh nuôi nấu từ sớm trong một căn hầm có nhiều đường cong gọi là bếp Hoàng Cầm , vì nhiều đường cong , khói bốc lên cứ cắm đầu vào đất , đến lúc thoát ra được bên ngoài thì đã loãng , tránh được sự quan sát của những người trên mặt đất
Ăn sáng xong Ba Chạy dẫn Cang đến gặp một người mà lúc đó Cang nghĩ là làm lớn lắm , ông là chính ủy đại đội , Cũng là Thủ Trưởng cái căn cứ địa này ...
Căn cứ địa đã có từ thời chống pháp trước năm 1946 , sau này khi anh em tập kết ra bắc thì trung ương vẫn gài người ở lại giấu vũ khí , gìn giữ tu bổ căn cứ , Và người đàn ông này đã có mặt ở chõ này ngay từ thời đó ...Đây là Ông Tám Nhang , Tám Nhang trông tầm thước người rất mạnh , da hơi đen ăn mặc giản dị , Ba Chạy tiến tới trước mặt Tám Nhang đứng nghiêm dơ tay chào
- Anh Tám đây là Cang mà tôi đã nói chuyện với anh hôm trước , Cang đang học chương trình để cuối năm nay thi bằng Thành  Chung
Cang cũng bước lên một bước đứng nghiêm và cúi đầu chào rất cung kính ...
Tám Nhang chỉ hất hàm ra lệnh cho Cang ngồi xuống manh chiếu trống kế bên ..
- Cậu Cang tới tối hôm qua hả
- Dạ tới tối hôm qua thưa anh Tám
Rồi quay qua ông Tám hỏi Ba Chạy
- Tối qua chú đưa được bao nhiêu người về đây với cách mạng
- Thưa anh Tám chỉ tối qua thôi, toán em dẫn về được 6 người còn ..
Tám Nhang đưa tay ra hiệu cho Ba Chạy ngừng nói
- Tôi biết , mấy tháng nay chú làm việc rất tốt ,đạt chỉ tiêu , tôi sẽ đề nghị lên trên về khả năng của Chú ...Chắc cũng đủ túc số cho một chuyến đi R rồi đấy nhỉ , chú nhớ lo vấn đề giao liên để đưa họ đi R nhé , càng sớm càng tốt ở lại đây đông quá không có lợi chỉ làm dễ bị trống lưng hơn nữa vấn đề anh nuôi cũng không thể cáng đáng mãi với số người đông như vậy , chú hiểu không
- Da em nhận rõ thưa anh Tám ...
- Vậy chú đi lo chuyện của chú đi còn Cang để đây tôi muốn nói chuyện thêm với chú ấy
Ba Chạy chào rồi bước ra chỉ còn lại mình Cang và Tám Nhang , Tám quay qua hỏi Cang
- Chú gia đình có đông anh em không ?
- dạ có mình tui thôi anh Tám , má tui có thêm hai người con nhưng đều chết từ hồi còn rất nhỏ , bởi thế tui coi như con một mà lại mang thứ Tư
Tám Nhang gật gù xem ra đã hiểu rõ
- Ồ thì ra là thế , rồi hai bác như thế nào còn sống cả chứ
- Da ba tui mất lâu rồi , ngay sau ngày kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp về nước vừa thành công thì ba tui mất
- còn má chú như thế nào chắc gia đình nhiều ruộng đất lắm hả chứ không sao lo cho chú việc học hành như thế này được
- Dạ không có đâu anh Tám má tui chỉ đi làm mướn , bà đã sống như vậy từ khi còn đang chiến tranh chống thực dân Pháp vì thời đó ba tôi đâu có ở nhà , sau khi kháng chiến thành công thì ba tôi mất , bà lại tiếp tục gánh thuê cắt mướn dành dụm tiền để chăm lo cho tôi ăn học , gia đình tôi thuộc giai cấp vô sản đó chứ

     - thôi được , tui nghe lời Ba Chạy muốn giúp chú ở lại đây cho gần nhà , nhớ rằng không được trốn về thăm nhà khi chưa có lệnh của tôi đấy nhá , tôi sẽ xin với cấp trên để chú lại đây làm thư ký cho tôi , chú bằng lòng không ?

Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 11:30 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3583
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #145 - 26. Aug 2013 , 18:35
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU 

CHƯƠNG III

Nghe nói có chuyến đi R , Cang quả thật không hiểu R là cái gì, chỗ nào nhưng chắc là căn cứ to hơn ở đây và có lẽ cũng xa đây lắm , máu giang hồ Cang cũng muốn đi cho biết , nhưng nghĩ tới tình cảnh của mẹ, của Út lành ,được ở gần nhà là nhất rồi nên Cang gật đầu ưng thuận
- Dạ tùy thuộc ở anh Tám và anh Ba phân công thế nào thì em nghe theo thế đó
- Tốt , rồi Tám Nhang đưa tay gõ nhẹ vào cái chuông trước mặt , tức khắc có hai người lính kháng chiến xuất hiện ,
- Đây là cang , Minh mày dẫn Cang tới văn phòng tao chỉ cho Cang những giấy tờ mà mày chưa làm xong để Cang tiếp tục hoàn tất bây giờ là hai đứa bay đó , tất cả những gì Cang không hiểu không biết bay đều phải giải thích và hướng dẫn đàng hoàng cho Cang biết không
- Da em hiểu thưa anh Tám
- Tám Nhang hất hàm ra dấu Cho Minh như bảo xong rồi lui ra
Minh đưa Cang đến một căn hầm khá rộng , có đủ ánh sang từ ngoài trời …Với những vệt nắng rọi trên nền như vệt nắng xuyên qua mái dột , những vệt nắng đang lung linh nhảy múa theo ngọn gió trưa ru êm nhè nhẹ
Trong căn hầm có kê một chiếc bàn hình chữ nhật nhỏ và ba cái ghế , ở một góc hầm có một cái tủ đứng trông đã cũ lắm rồi
Minh chỉ chiếc ghế ,
-      Cang ngồi đây đi , rồi Minh chạy đến bên cái tủ đứng , lấy đưa đến cho Cang một quyển tập giấy học trò
Minh ngồi xuống chiếc ghế cạnh Cang rồi lật cho Cang xem , trên quyển tập đó có những dòng chữ nghệch ngoặc , nói theo bình dân là trông như gà bới , không biết của ai viết mà giống như của đứa trẻ lớp ba lớp tư ...Thấy Cang nhìn soi bói vào những hàng chữ kia Minh hiểu nên giải thích
-phần đầu là của anh Tám Nhang , phần sau này anh Tám Nhang giao cho tôi nên tôi cũng cố làm theo ý ảnh muốn , bây giờ tôi giao lại cho anh , Anh Tám muốn mỗi ngày đều ghi lại trên quyển sổ này những sinh hoạt của căn cứ địa , chuyện gì đã xẩy ra , như mấy lần trong ngày có tiếng máy bay bay ngang , đêm qua có bao nhiêu nggười đến , rồi mai mốt đây có bao nhiêu người đi , công việc dễ ẹc nhưng phải nhớ và liên hệ với những nơi đó để lấy tên người đến và người đi , không được ghi thiếu , anh Tám kiểm soát hoài ...
Cang thắc mắc qua chuyện khác
- rồi tôi ăn ở đâu , ngủ ở đâu , tối qua anh Ba Chạy cho tôi ngủ trong cái móp trên nền nhà ở bià rừng
- Vậy hả , thôi ngủ chung với bọn tôi đi , bọn tôi hiện có ba người , tôi , Lương ,Tính ..Còn ăn thì xuống nhà anh nuôi , trưa chúng ta đều đến đó lãnh khẩu phần ăn rồi kiếm chỗ nào đó ngồi ăn chung ...Ừa còn tắm ,chiều  bọn tôi ,thường kéo nhau ra con suối ở phía tây ...Tắm và lấy nước về uống , chiều nay đi theo bọn tôi nha , như nhớ ra điều gì Minh chạy lại mở tủ lôi ra một cái bọc vải khá cũ nhìn kỹ hình như có nhưng vệt máu đọng trên đó
- Đây là gia tài của Chiến nó đã chết hồi tháng trước khi đi vào làng , bị lính phát giác và bắn chết may quá lấy được xác của nó về đây , rồi Minh lôi trong bao ra gồm có một cây dao găm , hai trái lựu đạn , tất cả ba vật dụng này đều được gói trong bọc ny lông rất cẩn thận ...Mò mãi Minh lấy thêm ra được một vật gì trong bọc ny lông rất kỹ đưa cả cho Cang , thôi anh Cang giữ luôn đi để phòng thân  đây là lọ thuốc trị rắn cắn nghe nói ...Rất công hiệu
Cang ngần ngừ cầm lấy lọ thuốc trị rắn của người tên Chiến nào đó , lọ thuốc được bọc trong nhiều lớp ny lông và cuốn giây thung rất chắc , cả hai trái lựu đạn và cây dao găm cũng vậy , Cang chợt có ý nghĩ  không biết khi có việc khẩn cấp cần xử dụng thì phải làm sao ??
Nhưng Minh đẩy cho Cang thì Cang cũng giữ lấy trong lòng trộm nghĩ rằng hy vọng những thứ này không phải dùng tới , chỉ là bảo quản dùm người đã chết mà thôi
Minh dặn thêm
-Chút nữa tới giờ ăn trưa xuống nhà anh nuôi nhớ mang theo cuốn sổ này anh Cang sẽ gặp anh Ba Chạy ở đó và xin tên những người mới tới tối qua nha , tất cả , muốn gặp mặt hầu như dễ dàng nhất là gặp tại nhà anh nuôi và làm việc tại chỗ luôn , tới đó gặp tôi sẽ giới thiệu với anh Cang những người mà sau này cần biết để làm việc
Kể từ đó Cang đi đâu cũng cầm theo cuốn tập giấy học trò kia , cũng như trên tuí áo lúc nào cũng có hai cây viết nguyên tử một đỏ một xanh ..Anh em trên khung hay gọi Cang bằng cái danh xưng khá kêu - bí thư đại đội
Sinh hoạt nơi đây rất thoải mái , sáng là giờ ăn sáng , cùng trong giờ ăn sáng này anh Tám Nhang luôn luôn có mặt để nhận những bá cáo trong ngày , cũng như anh Tám sẽ chỉ đạo cho các bộ phận những công tác cụ thể cần làm , ngoài ra những ai không có công tác giao phó thì muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì cũng được nhưng tránh không nên ra khỏi bìa rừng và nhất là khi nghe có tiếng máy bay thì phải nhanh chân ẩn núp , không để cho máy bay quan sát thấy có bóng người ...
Với công việc Tám Nhang giao phó cho Cang , quả thật chẳng có gì để làm , nên thời gian này Cang quá rảnh rỗi , rảnh rỗi hơn thời còn đi học , sáng tụ tập ăn sáng , bữa thì khoai ngày thì sắn ( khoai mì ), trưa hai chén cơm lửng với miếng khô lóc , khô sặc ...Rau xanh ngày có ngày không thường là rau rừng , như rau dền rau ngót ...đấy là cơ bản còn ai muốn có thêm để bồi dưỡng thì tự túc do người nhà gởi vô , hay đôi khi được công tác về qua làng tiện ghé nhà gói mang theo ...Ở đây đã hơn ba tháng , những buổi chiều mưa không đi đâu được , mưa rừng thì mưa đến thúi đất không ngừng , nằm trong móp nghe Minh ca vọng cổ , thêm tiếng đàn của Tính ôi sao nó buồn rười rượi lại nhớ Út Lành kinh khủng nhớ cả má nữa, nhớ ánh đền điện ở tỉnh nhớ hết mọi người  ... Thế mà xin với anh Tám mấy lần rồi anh Tám vẫn chưa cho ghé về thăm nhà
- Lần thì anh Tám nói còn sớm quá để đó anh tính cho , lần thì anh Tám nói đêm nay Ba Chạy rất vội chỉ đi ngang thôi không  ghé chờ lâu được , lần cuối cùng này thì anh Tám thẳng thừng từ chối ,
-Thằng Hội Đồng Sang là tay Cường hào ác bá địa chủ hút máu cần phải tiêu diệt , bởi thế chú đừng có những liên lạc với hắn nữa , kẻo đôi khi thiệt hại cả đến bản thân
Nghe anh Tám nói Cang thấy lạnh người , nhưng thầm nghĩ mình đâu có liên lạc với ông Hội Đồng mình chỉ muốn thăm Út Lành thôi mà ... Nghĩ như vậy nhưng Cang chỉ còn biết cúi đầu vâng dạ không dám nói ra.

    Thời gian sau này Cang mới hiểu , tại sao Tám Nhang lại giữ Cang lại đây cho gần nhà mà không cho về thăm !
Tám Nhang chả tốt lành gì với Cang , cũng chẳng phải vì nể Ba Chạy mà Tám Nhang giữ Cang ở lại đây ... Chẳng qua là thời gian sau này lệnh từ Trung Ương Cục đưa xuống , khuyến khích tất cả các bộ phận hãy tranh thủ để tìm cách phấn đấu nâng cấp văn hoá cho các anh em kháng chiến quân vì hoàn cảnh đất nước , vì sự kìm kẹp của Ngụy quyền Sài Gòn mà các anh đã không được đi học ...đa số vào bưng rất sớm đã lâu,nên bây giờ đương nhiên trở thành những cấp lãnh đạo nồng cốt của mặt trận , nhưng tiếc rằng không có văn hóa , nhiều người không biết đọc biết viết , bởi thế trong hàng ngũ nẫy sinh những sự phân hóa bất phục của một số lớn sau này vào bưng có văn hoá cao hơn , nhất là một số trí thức của miền nam như bác sĩ kỹ sư luật sư , thì chất xám đã đạt tới ngoại hạng , càng khó làm việc chung
Bởi lý do đó Trung Ương Cục muốn các bộ phân tranh thủ lập ra những lớp học chữ ban đêm khuyến khích các kháng chiến quân phấn đấu thi đua học chữ...Nhìn lại tất cả kháng chiến quân trong căn cứ địa này mà Tám Nhang đang làm thủ trưởng , thì chẳng có ai có khả năng dậy học , người có học cao nhất là Minh chỉ mới học xong lớp ba trường làng , Còn Tám Nhang trước ngày tập kết chưa bao giờ được cắp sách đến trường , Tám Nhang biết đọc chữ và nghệch ngoặc chút đỉnh cũng nhờ bạn bè chỉ sau này ...Bởi thế Tám Nhang ra lệnh cho Ba Chạy hãy mau tuyển nhận một người có bằng Tú tài hay ít nhất cũng có bằng Thành Chung mang về cho cách mạng để rồi Tám Nhang sẽ tổ chức lớp học đêm ...Ngặt vì Cang chưa thi bằng Thành Chung , nhưng hiện tại cũng không có ai có văn hóa hơn Cang ...Nên Tám Nhang vẫn lưu Cang tại đó ...
   Những người theo cách mạng đã lâu họ học được cách đối xử rất được lòng người là không bao giờ nói thẳng mục đích , nếu có thể vì vậy mà làm cho người kia trở thành cao ngạo hay gây khó khăn , mà luôn luôn tạo ra những điều ân nghĩa ,những công cán mà kẻ được giao phó công tác cứ nghĩ rằng đang được hưởng ơn mưa móc từ các người chỉ đạo , như Cang đang hiểu là nhờ có anh Ba Chạy nói với Tám Nhang thì Cang mới được lưu lại đây cho gần nhà ..Và ngay cả Tám Nhang cũng vì có cảm tình với Ba Chạy vì Ba Chạy là cán bộ cốt cán làm việc tốt nên nhận lời Ba Chạy mà giúp Cang
Cang biết hết những điều đó vì ,Tám Nhang một sáng kia đã tìm Cang trao đổi :
- Chú Cang nay không đi đâu sao ?
- Dạ không anh Tám , lười quá , Minh nó rủ ra ngoài kiếm rau rừng về bồi dưỡng mà em không đi , chắc tụi nó đi rồi
Tám Nhanh kéo ống quần ngồi chồm hổm xuống cạnh Cang
-nè tui hỏi chú , chú nhắm có thể đứng lớp được không ?
Cang ngạc nhiên hỏi lại
- Đứng lớp gì anh Tám , trong này mình có trường học nữa sao ?
Tám Nhang vừa vê thuốc rê vừa trả lời
- không phải , tui định tổ chức lớp học bổ túc văn hoá cho các anh em kháng chiến quân trong này , họ cần tránh nạn mù chữ chú Cang biết không đó là lệnh trên Trung Ương Cục chỉ đạo ...Chú nhắm được tôi sẽ cho anh em chuẩn bị dựng lớp ngay chỗ căn hầm kế nhà anh nuôi, tôi nhắm chỗ đó đủ rộng cho chừng 100 người ngồi chú nghĩ sao
- Trời gì mà đông quá dzậy anh Tám , thôi chia hai , hay chia bốn càng tốt anh Tám à , Lớp sáng lớp trưa lớp chiều và lớp tối ...Làm như vậy rất tiện lợi cho anh em theo học , hơn nữa công tác của căn cứ không bị đình trệ , tùy vào ai rảnh giờ nào thì vô lớp giờ đó , hay muốn  theo hai lớp cũng được đâu có sao
Tám Nhang nghe nói mừng rỡ
- tôi sợ chú mệt đứng lớp không nổi chứ !
- dạ anh Tám chọn thêm chừng ba người nữa cùng đứng lớp với em có như vậy mới dễ dàng và hiệu quả
Tám Nhang vò đầu bứt tóc
- biết tìm đâu bây giờ , trong đây đâu ai có văn hóa đủ khả năng đứng lớp chú ơi , Biết đọc biết viết như thằng Minh cũng chỉ đếm được vài ba người
Cang sáng mắt mừng rỡ
- Được đó anh Tám , mình phân biệt ra bốn lớp , có lớp vỡ lòng , lớp tập viết , lớp tập đọc và lớp văn hoá ...Để cho mấy người như Minh đứng những lớp kia , có thắc mắc gì em sẽ phụ giảng , còn em sẽ đứng lớp văn hóa anh Tám thấy sao
Tám Nhang như gỡ được trói reo vui , móc túi lôi ra bọc thuốc rê thảy lại trước mặt Cang nói
- Nè vấn thuốc đi chú , thuốc Gò Vấp đó nha tôi nhất trí với chú ...
Cang lấy gói thuốc vấn một điếu đưa lên môi châm lửa , sau khi nhả khói
- chà thuốc này ngon quá anh Tám , lâu ghê mới thấy được mùi thuốc này , đâu thua gì Ruby hả anh tám
Tám Nhang lấy làm hãnh diện nói thêm
-Đã nói rồi thuốc này là Gò Vấp thứ thiệt đó nhờ mấy anh trên  T bữa trước về thành mua hộ đó chứ ở gần đây có tiền cũng không có thuốc chú à ..Nói xong Tám Nhang lấy gói thuốc cuốn lại cẩn thận nhét vào túi xong chống gối đứng dậy
- Chuyện tôi trao đổi với chú hôm nay , chúng ta sẽ bắt đầu từ tuần sau nha chú , chú viết dùm một cái thông báo dán ở nhà Nuôi cho anh em biết mà lo đăng ký , còn tôi sẽ cố kiếm ít tập vở học trò , ít phấn một cái bảng chú thấy cần không
- Dạ cần chứ anh , nếu được xin anh cho một ít cây viết chì nữa cứ tính một tập vở là một cây viết chì nheng
- rồi nhất trí để tui cho người lo vụ này
Ba ngày sau Tám Nhang cho treo một tấm bảng đen khá to trên vách căn hầm kế bên nhà anh nuôi , và giao cho Cang 100 cuốn vở học trò cùng với 100 cây viết chì ...Tám Nhang cũng không quên kiếm cho Cang đủ ba người phụ giáo Minh , Thành và  Thu
Minh thì Cang đã biết học lực mới có lớp ba , còn Thành   thì mới hết lớp tư
Đặc biệt là Thu , có biệt danh là Thu Ba , vì cô tên Thu lại là thứ Ba nên anh em cho đọc ngược lại . Thu Ba người Đà Nẵng , không biết do ai móc nối mà trôi dạt tới đây , Thu Ba gia nhập mặt trận lúc còn rất trẻ , khi nàng mới có mười lăm ,  Thu Ba học xong lớp nhất thi bằng tiểu học không đậu ..Giận đời , nghĩ rằng thày HT cũng là ông Trưởng Ty Tiểu Học trong tỉnh lỵ đã cố tình đánh rớt mình , vì thế Thu Ba kiếm cách trả thù ... Thày Hiệu Trưởng có đứa con gái tên Liễu bằng tuổi Thu Ba , nên dễ làm quen và trở thành bạn , hôm đó Thu Ba rủ Liễu đi tắm sông , biết Liễu bơi không giỏi Thu Ba vẫn dìu Liễu ra tới giữa dòng , nước chảy xiết Thu Ba vờ như đuối sức buông Liễu ra , thế là Liễu không chống cự được với dòng nước chảy mạnh , Liễu chết , Thu Ba sợ nên tìm cách vào Bưng ...Thu Ba không đẹp , da đen tóc dài có duyên , đang công tác ở đội anh nuôi ......Lúc này Cang đương nhiên trở thành " Cán Bộ Văn Hóa " và là thủ trưởng của trường văn hoá bổ túc , trưa đó Cang cho gọi cả ba người đến gặp Cang làm việc
Cả bốn người ngồi chồm hồm chụm đầu vào nhau , hút thuốc rê làm việc
sau khi đã giới thiệu biết nhau Cang lên tiếng trước
- Như các chú đã biết đây là vấn đề trọng đại  , chúng ta đang là những chiến sĩ cách mạng chống nạn mù chữ ...Tôi muốn các chú và cô Thu Ba phải phấn đấu triệt để hy vọng sau một năm chúng ta sẽ đạt chỉ tiêu , các anh em lớp vỡ lòng sẽ biết đánh vần , lớp tập đọc , sẽ biết coi nhật trình ...lớp tập viết sẽ có thể tự viết được những bức thư gởi về thăm nhà chứ không như bây giờ các chú ấy phải nhờ anh em viết dùm ...còn lớp văn hóa do tôi đảm nhận ...
Đó còn ba lớp vậy tùy vào khả năng các chú muốn chọn lớp nào cho tôi biết ...Nhớ là chúng ta phải thành lập chương trình và có giáo án trươc khi vào đứng lớp , tôi không muốn chúng ta làm thì láo bá cáo thì hay như các cán bộ trong đây thường làm , chúng ta là cán bộ văn hoá phải nêu gương sáng cho mọi người , không được như thày trò thì cũng phải đạt được tương tự như thế , các chú quán triệt chưa , ba tiếng  Dạ cất lên rất râm ran rõ ràng
Minh nói , tôi xin anh Cang cho tôi đảm nhận lớp  vỡ lòng 
  Không được , lớp vỡ lòng nên để cho Thu Ba đảm nhận , bởi vì là lớp cơ bản nếu cơ bản hỏng thì sau này sẽ hỏng , như xây nhà mà nền không vững, xi măng cốt trúc thì sẽ xụp thôi ...Đề nghị hai chú đảm nhận hai lớp kia thôi vầy nhé chú Minh lớp đọc , chú Thành lớp viết , nhất trí chưa , nếu đã nhất trí thì buổi làm việc đến đây chấm dứt ...Tôi sẽ bá cáo việc này tới anh Tám , để giảm bớt công tác cho các chú . Cả bốn người đưa tay chống đầu gối đứng lên miệng hô
- Nhất trí !
Thế là lớp văn hóa bổ túc đã được thành hình , đã có nơi để học , là căn hầm cạnh căn tin nhà bếp Hoàng Cầm ..Đã có đầy đủ học cụ như bảng như phấn tập và viết chì , nay lại thêm ban giảng huấn thật là hùng hậu , tinh thần cao do Cang chỉ đạo , bây giờ chỉ còn tùy vào các chiến sĩ kháng chiến quân có chịu khó để đăng ký theo học hay không mà thôi , thông báo đã dán rồi mà sao chưa thấy người đăng ký , việc này chắc phải nhờ anh Tám qui tụ và lên lớp một buổi thì may ra mới có người theo học
Buổi lên lớp được tổ chức ngay trong căn hầm mà sau này sẽ là phòng học :
Mở đầu anh Tám Nhang nói :
- hôm nay tôi cho gọi các anh về đây là để giới thiệu với các anh ban giảng huấn trường học " Khai Hóa ' của chúng ta :
xin các anh cho một tràng pháo tay cho thày Tư Cang ... Là cán bộ văn hóa nồng cốt của trường ...Anh Cang sắp thi bằng thành chung với đầy hy vọng sẽ đậu cao nhưng vì nghĩ cái bằng thành chung do ngụy quyền cấp phát sẽ không có chất lượng nên anh Cang đã vào đây theo Cách mạng ...
Rồi lần lượt Tám Nhang giới thiệu tương tự ba người kế tiếp , cứ mỗi người được giới thiệu Tám Nhang đều ngưng chừng 30 giây , để xin anh em cho một tràng pháo tay , thế là cả căn hầm tiếng vỗ tay rào rào , thật là hoành tráng
Sau hết Tám Nhang đã mượn câu nói của cụ Phan Bội Châu mà rằng :
- chắc các anh cũng nhất trí với tôi : Tiếng Việt còn , thì người Việt còn , đất nước Việt Nam còn chúng ta sẽ đánh cho Mỹ cút ngụy nhào quyết định đạt được thành công , nhất trí ...Chờ cho tiếng hô nhất trí của cả hơn một trăm người cùng tiếng vỗ tay râm ran tưởng như không ngừng xong Tám Nhang đưa tay ra hiệu chấm dứt ....

    Sau buổi lên lớp của Tám Nhang quả thật có kết quả rất tốt , các kháng chiến quân thi đua nhau đăng ký , cho cả bốn lớp , mỗi lớp được chừng gần 30 người
Tư Cang cho chia ra thời khóa biểu như sau
- lớp tập đọc do Minh đảm nhiệm học buổi sáng sớm   , lớp tập viết từ sau giờ ăn trưa   , sau đó là lớp vỡ lòng do Thu Ba đảm nhận buổi cơm chiều, lớp văn hóa của Cang chỉ học một tuần ba giờ thứ hai thứ tư và thứ sáu ..Phòng học cũng lưu động tùy vào lúc nào có phòng trống , còn ba lớp kia học 2 giờ mỗi ngày
Việc lấy tư liệu để dậy , Minh phải đi thu tất cả các tờ nhật trình cũ mới gì cũng được miễn là còn có chữ và có thể đọc được mang vào lớp , sau đó Minh tự đọc một đoạn thông tin xong chỉ thị cho người kế tiếp đọc những thông tin kế tiếp , việc học thật là uyển chuyển và đạt hiệu quả cao . Minh thường ngồi nghe sau đó giải thích cho tất cả các học viên hiểu phải ngắt câu ở đâu , ngưng nghỉ lấy hơi cho đúng nơi đúng chỗ tương tự như ca Vọng Cổ phải biết ngân biết lên biết xuống theo tiếng đàn ... Các học viên rất lấy làm hồ hởi
-Lớp tập viết cũng tương tự , Thành đi thu được những quyển truyện ngắn những tờ đặc san của các bộ phận trước đây làm để mừng xuân đón Tết , rồi lấy các bài ngăn ngắn trong đó , đọc cho các học viên tập viết như viết chính tả , chỉ có một điều trở ngại nếu tập viết như thế sẽ rất tốn giấy ,đa phần các học viên viết thì ít mà xé vất đi thì nhiều  Thành đã bá cáo lên trên mà vẫn chưa được giải quyết 
Lớp vỡ lòng của Thu ba , cũng không có trở ngại , Thu Ba cho tập viết và học thuộc lòng 26 chữ cái trước , thời gian này đã chiếm hết hơn một tháng các học viên mới đạt chừng 50% nhận được mặt chữ ...Vì là lớp cơ bản cần phải học tập thật kỹ nên chiều chiều Cang hay đến lớp để phụ Thu Ba đứng lớp cho nghiêm chỉnh , khi Thu Ba đứng giảng trên bảng thì Cang hay ngồi chung với các học viên chỉ bảo riêng một cách tận tình ...Nhờ vậy thành quả cũng tốt hơn
Lớp văn hóa của Cang , lúc trao đổi với Tám Nhang Cang đã hăng say phóng đại , chứ thực sự Cang chẳng biết sẽ hướng dẫn điều gì cho các cán binh đã biết viết đọc  tạm , nhưng lỡ phóng lao rồi thì phải theo lao
Hôm vào đứng lớp Cang lần đầu
- Thưa các đồng chí , như đồng Chí Tám Nhang đã nói , hôm nay tôi chỉ nhấn mạnh thêm : Ca dao còn thì dân tộc Việt Nam còn " từ rất xa xưa ca Dao đã đi vào lòng của dân tộc ta , qua các câu nói hằng ngày qua các bài ca quan họ , qua các khúc hát ru em , như vậy ở lớp này tôi xin giới thiệu với các đồng chí một số ca dao hay những bài hát ru con từ thuở còn nằm trong nôi mà tôi còn nhớ , song song với việc này , sau giờ học nếu đồng chí nào , nhớ những câu hát thì xin biên lại thứ tư đưa cho tôi , rồi chúng ta cùng đào sâu , những câu hò bài hát ấy các đồng chí nhất trí không
Tất cả gần ba mươi cái miệng đều hô to
- Nhất trí ,cùng tiếng vỗ tay rào rào

Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 13:06 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3583
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #146 - 26. Aug 2013 , 18:37
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU

CHƯƠNG IV

Đợi tiếng vỗ tay chấm dứt , Cang cầm phấn viết lên bảng câu :

" dzí dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó đi
Khó đi mẹ dẫn con đi
Con đi trường học mẹ đi trường đời "
Đây là bài hát ru em Nam bộ của chúng ta , đấy các đồng chí thấy từ ngàn xưa các cụ đã đoán được ngày hôm nay chúng ta có những lớp học như thế này , trong câu chót này :
" Con đi trường học mẹ đi trường đời " tả cảnh hai mẹ con cùng phải đi học , con đi học chữ , còn mẹ cũng phải phấn đấu tránh nạn mù chữ cố học chữ quốc ngữ để giúp đời ...
Đại khái Cang cứ thuộc câu nào nói câu nấy và dĩ nhiên là nói thao thao như con vẹt , chả biết đúng hay sai , cứ nói xong thì kêu gọi học viên cho một tràng pháo tay thế là tất cả đều vui vẻ
Hay :
" con cò con vạc con công
Sao mày dẵm lúa của ông vậy cò
Không không tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái vac nó ngờ cho tôi
Không tin ông đến mà đôi
Mẹ con nhà nó  còn ngồi ở kia "
Thưa các đồng chí lại đây là bài hát ru em từ miền bắc bộ , bài này cho chúng ta thấy rõ bọn cường hào ác bá phú ông ... Chỉ buộc tội cho những người lao động bần cố nông như Cò , rồi nữa các cụ cũng đã nói lên được , cung cách của xa hội ta thời bây giờ , nếu cần thì lập ngay một toà án nhân dân để xét xử , tránh những hàm oan bất công trong xã hội ...Bài hát hay quá phải không các đồng chí , xin một tràng pháo tay ...
- Nói thao thao như vậy nhìn đồng hồ cũng đã gần hết giờ , Cang dặn
Các đồng chí nào chưa thuộc hai bài hát này xin lấy tập vở ra chép lại và học thuộc lòng , chép xong thì giải tán , nhớ lần sau ai có những câu ca dao hay các bài hát ru em nhớ đưa cho tôi nhé để chúng ta cùng đào sâu học hỏi , chào tất cả
Thế là Cang buông cúc phấn bước ra trong tiếng vỗ tay
Cứ như thế một tuần ba lần , lớp văn hóa của Cang trở nên vui nhộn và hào hứng , học viên tăng lên , Cang vẫn lấy các bài hát ru em để làm giáo án học tập , mà bài nào Cang giảng cũng là bài có lợi bài đó cứ như là viết riêng cho cánh Mạng , còn bài nào không lợi thì Cang bỏ qua một bên như :

“Con cò lặn lội ven sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng hát nỉ non
Còn giời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa "

Cang cho rằng ủy mị văn hóa đồi trụy , không nêu cao tinh thần phấn đấu của Cách mạng , làm cho tình thần anh em xuống thấp ...
Nhưng thời gian trôi qua những câu ca dao những bài hát ru em cũng dần cạn ...Cang liều đưa cả thơ của các nhà thơ lớn vào chương trình học tập ...Cang nhớ câu nào thì cho học tập câu nấy chẳng hạn :

             "Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông
Một người chín nhớ mười mong một người "

Hai câu thơ này của Thi Sĩ Nguyễn Bính Cang diễn giải như sau , các đồng chí thấy chưa Nguyễn Bính là nhà thơ của Cách mạng , thôn đoài đây là miền tây có thành phố Sài Gòn , còn thôn đông ý chỉ vùng đất Tây Ninh có Cục R của chúng ta đóng ở đó , như thế đã rõ ,những người trong thành đang mong đang ngóng chúng ta về Giải Phóng
       Hay là :
          " Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn
...
Giá đừng có giậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng "

    Tới đây thì không còn gì để chối cãi hay phản biện là Nguyễn Bính không phải là nhà thơ của Cách Mạng
Các đồng chí thấy , chỉ có một cái giậu mùng tơi , thân trai  như Nguyễn Bính hay chúng ta chỉ nhẹ gót là vọt qua ngay , thế mà Nguyễn Bính phải ao ước cái giậu kia đừng có , bởi vì cái giậu mùng tơi chính là ranh giới ngăn cách tầng lớp tư bản và vô sản ...Mà chủ thuyết xã hội là đại đồng là xóa bỏ cách ngăn , là bình đẳng xã hội , làm thế nào để xóa đi cái giậu mùng tơi kia chắc các đồng chí đã biết , chính vì vậy mà chúng ta phải ngồi đây hôm nay để cống hiến đời trai cho non sông cho dân tộc ,để tranh đấu nhất định tiến tới thành công là xóa tan mọi ranh giới giầu nghèo , phải tiêu diệt giới địa chủ , lũ cường hào ác bá hút máu nhân dân Các đồng chí có nhất trí không
lại một tiếng hô đồng loạt
-      Nhất trí và tiếng vỗ tay  râm ran …
Từ ngày lớp học bổ túc được thành hình hoạt động hữu hiệu , Cang rất hồ hởi , bận rộn với công tác , giúp các lớp khác, cũng như chính lớp của Cang thành lập giáo án ...Ngày không phải đứng lớp thì Cang lại mon men đến lớp học vỡ lòng để giúp Thu Ba ... Kể từ đó hai người trở nên thân cận , Thu Ba thường hay tranh thủ lấy thêm thức  ăn dưới nhà bếp để hai người có thứ mà bồi dưỡng , rồi họ ăn chung ...Cang đã quên hẳn chuyện nhà , chuyện cô Út Lành .Cũng đã hơn hai năm kể từ ngày Cang vào bưng , thế mà chưa được một lần về thăm
Ngày nọ Cang bị cảm sốt nhức đầu và chảy mũi , Thu Ba rất lo lắng sang tận nơi chăm sóc cho Cang , từng chén cơm ly nước.
Trong cơn nóng sốt , Cang cảm động đưa cánh tay quàng lấy vai Thu Ba kéo nằm xuống tấm chiếu trải ở góc hầm , giờ này tất cả đã đi lao động , Căn hầm chỉ còn hai người , Thu Ba có thể gỡ tay Cang ra được nhưng không hiểu tại sao Cô cũng ngả người theo , và môi chạm môi , họ hôn nhau thắm thiết
Nửa tiếng đồng hồ sau Thu Ba ngồi dậy thút thít khóc ...
- Bây giờ biết làm sao ? nếu để trên biết được chúng ta hủ hóa , thì chắc chắn sẽ bị , cách ly và hạ tầng công tác
Cang nghe thế cũng vội ngồi bật dậy
- Em đừng lo , anh sẽ xin phép với cán bộ trên khung , sau đó chúng ta làm đám cưới với nhau thì đâu còn là hủ hóa nữa đúng không  ?
Nói là nói vậy để an ủi Thu Ba , chứ quả thật Cang cũng hiểu bây giờ mà xin được phép cưới hỏi nhau trong cùng bộ phận như thế này rất khó , vì chiến dịch " tam khoan" đang được phát động
_" khoan yêu
Nếu lỡ yêu rồi thì khoan lấy
Nếu lỡ lấy rồi thi khoan đẻ "
Họ sẽ viện cớ vì nhưng lý do này mà làm khó dễ ngăn cản ...
Mà cố tình vi phạm thì việc gì sẽ xẩy ra Cang và Thu Ba đều rõ
Nhưng biết làm sao hơn bây giờ , họ đã yêu nhau từ lúc nào không biết , cho đến sáng nay khi bàn tay của Cang chạm vào người Thu Ba thì như có một lực thu hút mà cả hai người không thể tách ra được
Cang thở dài
- thây kệ tới đâu thì tới
Họ đã nghĩ tới cách liều lĩnh là bỏ bưng trốn về thành , nhưng chỉ nghĩ tới thôi đã thấy lạnh người vì họ mường tượng ra những lần xử các tội phạm trước ... Không tiếc một viên đạn tặng cho những người can vào tội phản đảng ...
Sau đó họ vẫn lén lút yêu nhau , khi ngoài rừng lúc sau bụi chuối bên bờ suối ...Và cái khó giải quyết nhất là một ngày Thu Ba thông báo cho Cang biết là nàng đã có bầu ...Một đứa con mà cả hai đều không muốn có trong giai đoạn này , Cang xúi Thu Ba đi phá , nhưng biết tìm ai giúp , nàng đã cố tình lăn xả vào công tác cố ý vác những vật nặng quá sức chỉ mong rằng sẽ hư thai , nhưng cái đứa trẻ oan nghiệt kia hình như ông trời đã bảo vệ , nó cứ trơ trơ và mỗi ngày mỗi lớn ...
Rồi chuyện gì đến đã đến , trong lán xầm xì chuyện Thu Ba đang có chửa ...Với  ai !
Không để cho chuyện đó kéo dài lâu , Tám Nhang cho gọi Cang lên khung
- Đồng chí biết tại sao tôi cho gọi đồng chí lên làm việc hay không ?
Nghe Tám Nhang gọi mình bằng đồng chí thay vì chữ chú xưng anh thân mật như thường xẩy ra , Cang bắt đầu lo
- Thưa anh Tám không
Sắc mặt Tám Nhang thêm lạnh lùng
- Người ta đang đồn rằng Thu Ba đã có chửa và người gây nên cái bầu oan nghiệt kia là Đồng Chí , điều đó có đúng không ?
Cang mặt mày tái mét năn nỉ
- Thưa anh tám em và Thu Ba yêu nhau thật lòng ...Chúng em muốn lấy nhau và em nhận hết trách nhiệm do mình gây ra
- Đồng chí nói thì dễ nhưng mặt trận đang cần những thanh niên thanh nữ , để cùng phấn đấu đánh đuổi Mỹ Ngụy bây giờ hai người chỉ biết ích kỷ , thương yêu nhau , lo cho nhau rồi người khác cũng vậy thì hỏi còn ai lo cho non sông cho dân tộc ...Hơn nữa hai đồng chí chưa được phép quan hệ tình dục mà bây giờ Thu Ba đã có bầu , việc này không phải nhỏ , hai đồng chí mang tội gì biết không ? Hủ hoá , tồi bại
Cang chỉ còn biết ngồi lặng thinh đưa đôi mắt lạc thần mà nhìn Tám Nhang kết tội
- Thôi được rồi tôi cho đồng chí biết thế và để cán bộ khung trao đổi với nhau xong sẽ áp dụng , và cho đồng chí biết sau , à mà nhớ đừng nghĩ đến những chuyện liều lĩnh như phản đảng nghe chưa , tôi cho chú biết không thoát được đâu , chi bằng ở lại chịu hạ tầng công tác tôi sẽ cố gắng làm việc với các cán bộ trên khung can thiệp cho đồng chí càng nhẹ tội càng tốt , vì bao nhiêu công tác đồng chí đã hoàn thành rất tốt đẹp ...Thôi Đồng chí về đi và tiếp tục công tác như chưa có buổi làm việc hôm nay , khi nào khung ra lệnh thì mới thi hành
Cang đứng dậy chào Tám Nhang  bước ra , lòng đầy ngao ngán thôi thì cứ kệ :
“ cũng liều nhắm mắt đưa chân
Thử xem con tạo xoay vần về đâu”.
Rừng chiều , đang mưa , giờ này Thu Ba đang đứng lớp , Cang cũng chán nản không muốn ghé , Cang về lán chui đầu vào móp nằm bẹp như một xác chết
Hai tuần lễ sau Tám Nhang lại cho gọi Cang lên làm việc
-nhờ vào thành tích công tác tốt , luôn nêu cao tinh thần phấn đấu để tránh nạn mù chữ cho các anh em kháng chiến quân ...Nhờ vào đức độ cách mạng luôn phục vụ tốt , không hề đòi hỏi thăm nhà đã dứt khoát ly khai gia đình   ...Với những ưu điểm đó tất cả cán bộ trên khung trao đổi với nhau và quyết định , chỉ hạ tầng công tác đồng chí ...
Từ nay lớp văn hóa của đồng chí được Thu Ba đảm nhận , cô ta không có tội gì , tất cả là do Đồng chí gây nên , Thu Ba chỉ là nạn nhân của sự thiếu nhân phẩm thiếu đạo đức mà đồng chí đã tạo cho nàng phải mang bầu ... Thu Ba sẽ sinh con và con đó sẽ trả lại cho xã hội ...Đó là món nợ ân tình mà đồng chí còn thiếu tất cả anh em và nhân dân ...Công tác mới của đồng chí là gia nhập pháo đội do đồng chí Thôn làm thủ trưởng , vậy sau đây đồng chí phải khẩn trương đến nhận lãnh công tác mới ...Đồng chí còn có điều gì không bằng lòng với việc hạ tầng công tác này , cứ nêu lên chúng ta cùng nhau giải quyết
- Thưa không , cám ơn anh Tám cùng cán bộ trên khung đã nhẹ tay và nhất là không có hình phạt đến với Thu Ba , điều đó là chính đáng em gây ra thì chỉ mình em chịu trách nhiệm
Tám Nhang cho xử vụ việc rất công bằng , phạt nặng Cang nhưng nâng cấp Thu Ba ...Không phải vì Thu Ba không có lỗi , nhưng vì thiếu cán bộ văn hóa , nếu hạ tầng luôn cả Thu Ba thì lấy ai đứng lớp ..Còn có một điều thầm kín nữa mà chỉ riêng Tám Nhang biết , đó là từ khi để ý Thu Ba xem nàng có thật mang bầu không ! thì tự nhiên Tám Nhang thấy Thu Ba có những điểm khêu gợi , mà từ lâu rồi Tám Nhang không để ý
Nhất là khá lâu rồi Tám Nhang không dám về thăm nha , từ cái đêm bị bắn hụt ...
Đêm ấy Tám Nhang về thăm vợ , trời mới tối hai người vào giường , Tám Nhang để nguyên đèn sáng , chị Tám cứ ngỡ chồng thèm khát vội vã nên cũng chả nên tiếng phàn nàn
Giữa lúc hai người đang hùng hục ... thì bọn lính trên đồn kéo đến bao vây nhà của Tám Nhang , , bọn chúng nhìn qua kẽ lá thấy rõ mồn một qua lớp vải màn trắng Tám Nhang đang làm tình với vợ   ...Nên ngây người đứng ngắm
Có tiếng đạp cửa bước vào , thấy động Tám Nhang tay quơ cây đèn dầu tắt ngủm , rồi tay ôm quần áo phóng ra ngoài , nhờ ánh đèn bị tắt bất ngờ làm cho bọn chúng bị chóa mắt không kịp phản ứng Tám Nhang cắm đầu chạy miết trên đường ruộng không dám ngừng vì có những loạt đạn còn bắn theo ...Cả nửa tiếng đồng hồ sau Tám Nhang chậm lại nghe ngóng và chắc chắn không còn ai đuổi theo , Tám Nhang mới dừng chân bên một lùm cây để mặc quần áo ...
Từ đó đến nay cũng đã gần cả năm với số tuổi 40 đang sung mãn , Tám Nhang nhìn thấy Thu Ba tự dưng khó cầm lòng , nhất là bây giờ Thu Ba đang mang bầu thì có gì chăng nữa cũng chả thay đổi Tám Nhang mỉm cười nham hiểm " chỉ là thêm tay thêm chân thôi " ai biết mà lo , cái thằng gây ra tội thì đã bị đẩy đi rồi ...
Phần Thu Ba cũng sẵn sàng chịu tội nếu mà Tám Nhang cho gọi lên làm việc nhưng không , Thu Ba đã không bị Hạ tầng công tác mà lại còn cho đảm nhận luôn chức vụ Cán Bộ Văn hoá thay thế cho Cang , ơn này do Tám Nhang cứ nhắc đi nhắc lại với Thu Ba , nhờ anh can thiệp mới được như vậy , ...Có ơn thì phải trả mà trả bằng cách nào , chỉ còn biết chiều chuộng Tám Nhang khi hắn đòi hỏi mà thôi, không vốn mà có mất mát gì đâu , khi giao du với Cang Thu Ba cũng chỉ là muốn thoả mãn bản thân , cũng như trả ơn cho Tư Cang đã giúp đỡ chứ nàng đâu có tình yêu với Cang ..Trước kia khi ân ái với Cang thì còn nhiều lo sợ , chứ bây giờ đối với Tám Nhang thì khác hẳn , còn ai dám bắt tội Nhang , mà lấy gì làm bằng chứng để bắt tội Tám Nhang , cái bầu này là do Cang gây ra và Cang đã lãnh nhận ...
Nói về Cang , khi đã biết rõ mình bị hạ tầng công tác , cho ra toán Pháo đội , Cang về lán gom chút quần áo , không quên lấy luôn cây dao găm , hai trái lựu đạn và lọ thuốc rắn của Chiến mà Minh đã giao cho từ ngày mới vào bưng , Tất cả bỏ vào cái túi sách tay mà Cang đã mang từ ngoài vao đây , chào bạn bè rôi đi qua lán bên cạnh tìm gặp Thôn , để nhận công tác.
Thôn có bí danh là Thôn Lèo , có dáng người cũ kỹ da mốc thếch đen đủi giống nông dân hơn là anh cán binh kháng chiến cách mạng , Thôn đang ngồi hút thuốc lào .
Cang bước tới trước mặt Thôn giơ tay chào miệng nói
- Dạ chào anh Thôn , tôi là Cang , sáng nay được  anh Tám Nhang nói qua đây nhận công tác với pháo đội , , không biết anh Thôn có nghe anh Tám hay ai nói tới điều đó chưa
Thôn nghếch hàm nhả khói rồi gục gặc cái đầu miệng nói
- Có tôi có nghe nói và cũng có ý đang chờ chú đây ...Hút thuốc không ngồi xuống đây làm một điếu rồi anh em mình nói chuyện
Cang kéo ống quần cho cao lên rồi ngồi xuống đất bên cạnh Thôn đưa tay móc bọc thuốc rê ra mời lại Thôn
- Dạ tui không hút được thuốc lào , tui có thứ này anh Thôn vê một điếu nhé
Thôn mừng rỡ
- được được cám ơn chú , chú đang công tác bên văn hóa trước đây đúng không , sao anh Tám lại đưa chú qua cho tôi nhỉ ?
Cang đưa tay vò đầu
- chuyện dài dòng lắm anh Thôn à , từ từ rồi anh cũng biết , hoặc bữa nào rảnh tui sẽ kể anh nghe
Thôn châm lửa điếu thuốc rê phực cháy rồi phun khói trắng bay đầy trong không khí ẩm khói không bay cao được
- Ừa , chú có biết bên pháo đội mình đang  làm gì không ?
- Da cũng chỉ nghe nói chứ chưa quán triệt thưa anh Thôn !
- Dạo này trong chiến dịch khuấy phá thành thị để giải vây nông thôn , ở trên họ muốn chúng ta mỗi đêm phải mang súng đi bắn vào thành , không nhiều mỗi đêm chừng từ năm tới mười trái ...Đội ta có tất cả là năm anh em , nay thêm chú là sáu , chúng ta có một 61 , một 82 ba súng trường bá đỏ , , mọi khi tôi cũng phải phụ mang đạn , nay có chú thì tôi khỏi , một người mang nòng phóng , một người mang chân và một người mang đạn , cứ thay phiên nhau chú ạ , tôi  sẽ chia cắt rất công bằng ,...Chú theo tôi tới đây
Cang đi theo Thôn tới một căn hầm khác ở đó có cửa khóa cẩn thận ... Thôn mở cửa , bên trong lộ ra những cây súng lạnh như thép nằm im đấy chờ đợi ..., đây là kho vũ khí và đạn dược của ta , mỗi chiều các chú đến đây nhận lãnh súng đạn rồi tôi đưa đi đào hầm bố trí ...Sau khi bắn xong , chúng ta quay trở về nếu không có gì trở ngại thì súng đạn lại được bỏ vào đây , không ai được mang súng về lán ...Chú đã biết bắn súng trường chưa
Cang lắc đầu , Thôn tiếp
- Bữa nào rảnh tôi sẽ hướng dẫn chú cách bắn súng và cách lau chùi , súng đạn phải cần được lau chui thật sạch thì mạng mình mới an toàn chú ạ , công tác của chúng ta không khó , cũng không quá nguy hiểm nhưng đôi khi cũng đụng đầu chúng hay bị lộ lưng chạy thục mạng chứ không phải là tối vác súng đi bắn chơi , khuya vác súng về , rồi cả ngày nằm ngủ , mà được nuôi ăn ...Đi vài ba tối chú sẽ hiểu thêm lời tôi nói , chú thử nhấc cái nòng phóng này xem nặng nhẹ thế nào , , Cang cúi xuống dùng cả hai tay ôm nhấc bổng lên
-Ừa cũng không nặng lắm
- tôi đâu nói với chú là nó nặng , nhưng đường đi trên ruộng ban đêm lại đi xa , rồi nó sẽ nặng dần , chú sẽ nhận thấy ...Thôi chúng ta ghé qua Lán tôi giới thiệu chú với 4 tên kia trong đội để làm quen , cũng như cho chú tìm được chỗ ngủ sáng mai ....


Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 13:35 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3583
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #147 - 26. Aug 2013 , 18:39
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU 

CHƯƠNG V

Gọi là lán chứ thực ra đó chỉ là một khúc quanh của căn hầm , vừa tối vừa hôi mùi ẩm thấp ...Gặp 4 người kia đang ngồi nhai khoai mì , đó là Hương , Tâm , Sanh ,và Nhiều , sau khi Thôn giới thiệu Cang , chào hỏi xong xuôi , Cang cũng được mời ngồi xuống cùng nhai khoai mì với họ Thôn nói :
- Đội chúng ta không theo nhà bếp của D , mà cũng không có anh nuôi , vì chúng ta đi về thất thường , khi họ đang ăn thì mình cần phải đi , khi họ đã ăn xong mình mới về tới , bởi vậy đội ta được lãnh khẩu phần  tươi mang về tự nấu lấy ...Vấn đế nấu nướng cũng chia phiên , không được tị nạnh , còn hôm nào kiếm được thêm những món ăn cải thiện thêm cho bữa ăn thì khác có thể cùng nhau nấu nếu phiên người đó không biết nấu món đó như thế nào ....Nếu anh em không tiếp tay để hắn tự biên tự diễn rồi làm hư món ăn thì uổng phí  vì ăn không được , ấy nhưng khi nhờ người khác phụ mình nấu ăn thì khi tới phiên của họ mình cũng phải lo trả công ...Thôi từ từ thì sẽ hiểu ...
- Ăn xong tụi bay dẫn Cang tìm chỗ ngủ nha , hướng dẫn thêm cho Cang những gì Cang chưa biết , đang từ cán bộ văn hóa nay xuống nhập đội mình chắc sẽ có nhiều bỡ ngỡ lạ lùng lắm đấy , từ nay 6 anh em mình coi nhau như chân như tay , vì  rồi sống chết có nhau đó
Hương người có vẻ chững chạc và cũng là người lớn tuổi nhất trong đội thì phải, lên tiếng :
- Anh Thôn khỏi lo , tụi tôi biết điều gì cần làm mà , nhất là anh Cang lại là Cán Bộ Văn Hóa mà chúng tôi cũng có dịp ngưỡng mộ trước đây thì nay gặp dịp cũng phải đối xử cho tử tế mới phải phép chứ ..
Cang xoa hai bàn tay vào nhau :
_ Dạ được các anh cho gia nhập đội và được sự tiếp đón của các anh như thế này tôi rất lấy làm hãnh diện và vui được công tác chung với các anh
Không đợi Cang nói hết Sanh vội nói :
- bữa nào rảnh chúng ta được anh Cang đọc cho nghe thơ Nguyễn Bính thì hết xẩy Nha anh cang nhớ nha
Cả năm người cùng rộ lên cười vui vẻ
Kể từ đó Cang trở thành anh Cán binh , du kích  thực sự , có những buổi chiều anh em còn đang ngồi tán dóc , trời mới nhá nhem tối Thôn xuất hiện thúc hối ,
- Đi chúng ta cần đi sớm , nay lên mạn hướng bắc , đường đi khó lại xa , cần tranh thủ tới đó sớm làm ăn xong về sớm , còn ngủ , không thôi là hết đêm ... Thế là cả bọn lục đục người vác súng trường người vác đạn cối người vác chân kẻ vác nòng ra đi
Những đêm bắn phá như vậy , chỉ chừng hai trái đạn đầu được phóng đi là trong thành đèn điện bật sáng và còi hụ vang lên inh ỏi , rồi trên trời xuất hiện chiếc máy bay đầm già dễ ghét cứ bay tuốt trên trời cao mà nhòm xuống , nó bay qua chừng hai vòng là đạn 105 trong thành sẽ đáp lễ ...Bữa thì rớt xa lắc , có bữa rớt ngay cạnh hầm , , khi mà đạn trong thành phản pháo thì chiếc đầm già cũng tránh xa nên không còn quan sát được , những lúc đó nếu đạn cửa địch còn rớt xa thì tranh thủ bắn thêm đợt hai đợt ba , rồi lo dọn dẹp chém dè ...
Bởi vậy phải thay đổi địa điểm luôn tránh đi trở lại điểm cũ vì máy bay đầm già sẽ quan sát chấm được toạ độ , chúng bắn ra là vỡ đầu bỏ mạng
Mỗi đêm bắn chừng ba đợt , mỗi đợt ba trái , mục đích là khuấy rối làm cho người dân luôn lo sợ nhìn thấy mối bất an trong thành phố mà trở lại nông thôn ..
Từ khi lão điên khùng nghiện ngập Ngô Đình Nhu , cho thành lập chương trình Ấp Chiến lược , nói là dùng nông thôn để giải vây thành thị , phá tan kế hoạch của cách mạng là lấy nông thôn bao vây thành thị
Những người dân ở rải rác trên ruộng đồng của họ , không thể kiểm soát " Ngày Quốc Gia , đêm Việt Cộng " bởi thế chính quyền Ngụy khuyến khích tất cả trở vào lập ấp , trong ấp chỉ có nhà ở và mảnh vườn trồng rau , còn ruộng đồng thì vẫn giữ nguyên , sáng lính quốc gia giữ an ninh cho họ trở ra canh tác như cày bừa , gặt hái ..Chung quanh ấp được cấp phát các cọc sắt và giây kẽm gai để rào rất kiên cố , ngoài ra còn cho lập hệ thống báo động , nếu phát giác đêm có người lạ vào ấp , vì thế bên Cách mạng mất hết nơi nương tựa , mất nguồn lương thực , mất tiền thu thuế ...Bởi thế Cách Mạng cho đi bắn phá thành thị để xua đuổi người dân trở về cố hương ...Ngoài ra Cách mạng còn một đội du kích , chuyên lo đào đường đắp mô và gài mìn , trên các tuyến đường dẫn về thủ đô Sài Gòn của Ngụy quyền
Và ngay ở Sài Gòn hay những thành phố lớn cũng bị đạn pháo của Cách mạng bắn vào , rồi những toán đặc công , gài mìn , cho nổ  " plastics " , gài chất nổ TNT ở những nơi có đông người quy tụ như rạp hát , vũ trường ...
Một sáng kia , hôm đó Cang có nhiệm vụ làm anh nuôi cho đội nên phải sang khu nhà bếp để lãnh thực phẩm tươi ... Tình cờ Cang gặp Trường , người bạn học chung lớp khá thân khi xưa , hai người gặp lại nhau rất mừng rỡ
Trường mới vào bưng tối hôm qua , thế mà họ đã xa nhau gần mười năm , biết bao nhiêu thay đổi trong thành được Trường kể lại
Từ ngày Cang nghỉ học nói là về quê , phụng dưỡng mẹ già đang lâm bệnh ..Tuy nhiên sau đó họ biết là Cang đã Vào bưng theo Cách mạng , từ ông Hiệu trưởng , Thày Viễn va một số bạn bè của Cang đều bị bọn cảnh sát và an ninh mời đi làm việc nhiều lần ...Đâu đã yên , đêm về những người này lại lơm lớp lo sợ , không biết mình có làm gì xích mích với Cang hay không , mỗi lần đang đêm nghe chó sủa là mỗi lần mất ngủ lo sợ biết đâu Cang cho người đến gõ cửa dẫn đi ...Trường nói :
- Tụi tao bị tình trạng " quan tha ma bắt " bởi vậy năm đó tao thi rớt , ...Thế nên tao hận mấy thằng cảnh sát trong thành, ừa mà mày còn nhớ thày Viễn không ?
Cang hối hả
- Nhớ sao quên được thày
- Thày mới chết cách đây chừng hai tháng
- Sao thày chết ?
- đêm đó nhà ổng trúng đạn pháo , cả nhà chết hết luôn
Nghe thế Cang quay mặt đi nơi khác dấu tiếng thở dài thầm nói
- Chiến tranh là tàn ác , không thể tránh được những hy sinh bởi sự lầm lẫn
Hai người còn nhiều chuyện nữa để nói nhưng Trường tới giờ phải làm việc ... Và đấy cũng là lần chót Cang gặp lại Trường vì ngay ngày hôm đó Trường trong nhóm đi R , và ba tháng sau Cang nghe tin Trường chết vì bom B52 ...

Chiến tranh mỗi ngày mỗi leo thang , Thôn cũng đã chết vì bị đạn phản pháo trong thành ra ...Trái đạn rơi ngay kế hố đào của Thôn , đúng là " Trời kêu ai nấy dạ " ...Từ đó Cang phải tạm thời thay thế chỗ Thôn , để đêm đêm thi hành nhiệm vụ , và mới đây ở trên còn chỉ thị cho Cang công tác thêm với đội du kích , ngoài những đêm vẫn pháo bừa bãi vào thành , thì đêm nào đội du kích cần đội pháo đi theo để bắn tiếp hơi cho du kích quân tấn công vào đồn , pháo đội cũng phải đi cùng , bây giờ du kích không còn ẩn mặt chỉ gài mìn bắn sẻ như trước đây nữa , du kích đã dấn thân , đi điều nghiên , sau khi đã điều nghiên rõ ràng từng đường đi nước bước , rồi lập sa bàn thực tập tấn công cho nhuần nhuyễn , sau đó là thực hành , họ đi bắn phá rồi xung phong cướp đồn , những đồn này đa số là những đồn do lính " nghĩa quân " đóng giữ
Một hôm Cang được tư Phong , thủ trưởng của đội du kích cho biết đêm đó sẽ đi làm ăn ...Mục tiêu của đêm đó là ấp Thạnh Trị ...
Nhìn trên sa bàn Cang nhận ra đây chính là làng của Cang nơi có mẹ già đang sống , có Hội Đồng Sang và nhất là có Út lành , và không biết con của Út lành và Cang là trai hay gái , chắc giờ cũng đã lớn bộn , mười ba mười bốn tuổi rồi còn gì !
Cang bồi hồi , ngồi trao đổi với Phong , bí danh Xung Phong , về vị trí đặt pháo cũng như các mũi tấn công của đội du kích ...Ngay chiều đó cả hai đội sau khi đã thực tập trên sa bàn , cả hai đội được nhà bếp anh nuôi cho bồi dưỡng một bữa cơm gà có cả rượu để liên hoan ăn mừng chiến thắng (?)
Sau tiệc liên hoan về , Cang đốt đèn dầu chúi mũi vào địa đồ , điều nghiên  thật kỹ những chấm đỏ , rồi làm những bài toán ..Đạn đạo thật kỹ như lời thơ của Quang Dũng :

"Này anh lính chiến
Người bạn pháo binh ,
anh rót cho khéo nhé
Kẻo lầm nhà tôi
Nhà tôi ở dưới chân đồi
Có giàn thiên lý có người tôi thương "

Và đêm hôm đó họ kéo quân về làng lúc mặt trời vừa khuất bóng , họ đã chọn ngày , trăng hạ tuần ...Nên giờ họ ra đi trời tối đen như mực và đã tính toán thật kỹ chỉ khi đã cướp được đồn lúc đó mới là giờ trăng lên ...Họ rất tin tưởng sẽ thành công nên mới dự liệu như vậy , không sợ đường rút nếu trong trường hợp thất bại , sẽ có trăng sáng khiến địch dễ truy lùng ...Tất cả các bộ phận phải đến điểm hẹn an toàn lúc 11:00 đêm , 11hoahong.gif05 pháo đội sẽ khai hỏa một trái điều chỉnh , đã có ba hoa tiêu chiếm giữ các vị trí cao như những ngọn cây dễ quan sát để điều chỉnh cho pháo bắn chính xác , sau trái điều chỉnh , là ba trái bắn thử , sau đó nếu đạt được chỉ tiêu thi bắn phủ đầu bằng tất cả số đạn mang theo chỉ trừ lại khoảng 10 trái bắn đoạn hậu cho cánh quân rút an toàn , hôm đó Cang cho mang theo 100 trái 61 và 50 trái 82 ...
Sau khi bắn phủ đầu đội du kích sẽ đồng loạt tấn công vào lúc 0:00 giờ ...Thu nhặt chiến lợi phẩm . trong vòng 30 phút ,khi trăng vừa nhô khỏi ngọn cây là chém dè ..Và pháo đội bắn thêm mười trái đạn chót vào đồn như lời tiễn biệt và cũng để chắc chắn không còn ai có thể ngóc đầu bắn theo đoàn quân rút lui ...

Đêm hôm đó , tất cả đều diễn ra rất tốt , chỉ ngoại trừ một trở ngại nhỏ , khi cánh quân bên trái tiến sát hàng rào , hai chiến binh tiền phong tiến lên dùng kéo cắt kẽm gai thì bất thình lình lựu đạn nổ ...Không hiểu tại sao còn xót lại trái lựu đạn đó ...Trong khi chập tối bên đặc công đã được thông báo là tất cả lựu đạn đã được tháo gỡ ...
Trái lựu đạn nổ làm hai chiến binh chết tại chỗ và vì lo lấy xác , làm chậm mất mấy phút
Lực lượng trong đồn , danh sách chính thức là 87 người ...Nhưng con số này không bao giờ đầy đủ , đêm hôm đó con số chính sác chỉ có 65 người tất cả đều bị giết , bởi loạt đạn pháo đã làm chúng chết và bị thương hơn một nửa , , khi quân cách mạng tấn công , thì chỉ còn chừng 20 tay súng bắn hoảng loạn , và chúng cũng đều bị giết sau đó ...
Cang đi theo Phong vào đồn để quan sát thành tích , Trong hơn sáu mươi xác chết nằm kia , Cang cố tìm xem có nhận được ai không , nhưng đa số chúng là thanh niên mới lớn mà Cang xa cách làng cũ đã hơn mười năm nên không thể nhận mặt , chỉ có một xác nằm ngay cửa hầm có đặt máy truyền tin thì Cang ngờ ngợ là chú Sáu Siêng ở gần nhà Cang , Cang lấy chân hất cho xác đó nằm ngửa hẳn lên để nhìn mặt rồi cúi người xuống nhặt cây súng nằm cạnh xác chết  ...Có tiếng còi rút quân Cang và Phong vội vả rời đồn .
Đoàn quân chiến thắng về tới căn cứ địa vào lúc 7:00 sáng trong tiếng hoan hô reo mừng
Cang cho pháo đội mang súng vào kho cất xong thì giải tán để họ về ngủ ...Riêng Cang cứ mãi bồi hồi ,đêm ấy Cang hy vọng sẽ bắt sống được tù binh để Cang hỏi thăm về tình trạng mẹ cũng như Út lành , nhưng không may tất cả đã chết hết ...
Khoảng 5:00 chiều là cuộc họp tất cả các bộ phận , để bình bầu và tự phê ...May mắn Cang gặp được Hùng là cán bộ điều nghiên ...Nhờ khi Hùng tự giới thiệu và nhận xét về cuộc tấn công , chiến thắng , chỉ lên án toán đặc công làm việc xơ ý để cho hai chiến binh bị chết oan , ngoài ra mọi việc đều đạt thành tích tốt
Cang tìm gặp Hùng , để hỏi về gia đình ông Hội Đồng Sang , thì Hùng kể tường tận như sau :
Khi biết Út lành chửa hoang , ông Hội Đồng Sang giận lắm chửi và đánh Út lành một trận thừa chết thiếu sống , sau đó đuổi út Lành ra sống ở cái chòi nuôi vịt ngoài ruộng ...Nhưng đến khi Út Lành sanh con , ông Bà hội Đồng có ghé lại thăm , tự nhiên tình cha con ông cháu thiêng liêng sao đó , vì quá thương thằng nhỏ nên ông Hội Đồng cho Út trở về nhà , năm năm sau khi có chương trình " Người Cày có ruộng " của chính phủ Thiệu , ông Hội đồng thấy ở quê không được an toàn , nhất là cả hai người con trai của ông đã đi sĩ quan ngụy , nên ông đã bán hầu hết số ruộng của ông cho ngụy quyền để họ chia cho những tá điền của ông , rồi đưa gia đình về tỉnh ...Sau đó không biết rõ sống ở đâu ...Mẹ Cang thì đã chết ...
Nhiêu đó thông tin đã an tâm và từ đó vốn đã không  quan tâm đến gia đình đến Út lành , sau này Cang còn lạnh lùng hơn khi biết gia đình ông Hội Đồng Sang cùng Út lành về thành ...Và hai người anh của Út Lành đã trở thành sĩ quan cho ngụy .. Mẹ lại chết rồi , nên Cang không còn lý do gì để vương vấn cái quá khứ mà Cang đã bỏ chạy xa lánh cách đây hơn mười năm
Cuộc chiến tranh tàn sát vẫn diễn ra , đêm đêm Cang vẫn dẫn pháo đội về thành bắn phá ... Ngược lại căn cứ địa cũng có lần bị chúng phát giác , cho máy bay thả bom , rồi xe tăng tiến vào càn quét xóa sách các hầm hố ...Các cán binh của Cách mạng trong vụ ấy chết hơn một trăm người ...Riêng pháo đội của Cang chết ba người và thiệt hại nhất là cây pháo 82 vì nặng quá không kịp mang theo , Kể từ đó tất cả các bộ phận được tụ tập vào sâu thêm trong rừng ...phân tán mỏng mỗi bộ phận một lán nhỏ nằm cách xa nhau , chỉ khi nào cần thiết các thủ trường mới được gọi về làm việc rồi lại trở ra lán ...Giai đoạn này pháo đội tuy bị khiển trách vì làm mất cây pháo 82 nhưng không phải công tác bắn phá hằng đêm như trước ...

Hôm mà căn cứ địa bị tấn công , may mắn cả hai mẹ con Thu Ba đều chạy thoát ...Nhưng dĩ nhiên lớp học chữ bổ túc không còn , nên Thu Ba cũng " thất nghiệp "
Với cái tuổi gần 40 , sống trong điều kiện dinh dưỡng kém , lao động nhiều , nên Thu Ba đã tắt đường kinh hơi sớm , mà khi người phụ nữ tắt đường kinh rồi thì vấn đề ân ái chỉ như là nhiệm vụ chứ không còn mang lại đam mê thích thú , bởi thế để thoát cái cảnh như một cô " Hộ lý " cho Tám Nhang , phản đối thì sợ Tám Nhang trù ẻo ,nên Thu Ba đành xin gia nhập đại đội du kích ..Được mang súng tìm giặc để đánh , lập những chiến công như cướp được đồn địch là niềm vui hãnh diện ...Cho người du kích quân ,
Đêm đó đại đội du kích có nhiệm vụ tấn công một đồn nghĩa quân nhỏ của địch , nằm chận ngay giữa đường giao liên của phe cách mạnh ...Thu Ba được giao nhiệm vụ quan sát để điều chỉnh cho pháo đội
Vì lầm lẫn định sai các vị trí gốc cây bên đường ...Pháo đội đã bắn lệch mục tiêu , thay vì bắn vào đồn , trái đạn quái ác lại rơi ngay vị trí Thu Ba đang ản núp , làm  Thu Ba chết ngay tại chỗ ...Nhưng đêm hôm ấy khi họp để tự phê , thì tất cả đều quy tội cho súng pháo của địch trên thành bắn yểm trợ gây nên cái chết của Thu Ba ...Bởi vậy vì thương mẹ lòng thù hận trào dâng lên lòng  đứa trai trẻ mới mười lăm tuổi ...Thằng Hoá xung phong ngay vào đại đội du kích mong sẽ đi trả thù cho Mẹ , nó sung sướng và thích thú khi được giữ cây súng trường bá đỏ , mặc dù khi đeo súng trên vai , nòng súng muốn chạm đất vì có vẻ như súng dài hơn người
Rồi một buổi chiều kia khi giao liên cho biết địch đang mở cuộc hành quân bố ráp , Đại đội được lệnh sơ tán , tránh đụng độ thì một mình Hoá ở lại , nó leo  lên ngọn dừa ở ngay bìa rừng nằm đó chờ đợi , chiều đó khi cánh quân của ngụy về ngang , súng nó đã được cột cứng vào tàu dừa , nó chỉ việc nhắm và bóp cò ..." cắc bùm " một tiếng nổ khô khan vang ra phe ngụy một thân người ngã xuống , nhanh chóng phe địch đã tìm được chỗ ẩn núp , và họ cho súng nổ xối xả lên ngọn dừa chỗ Hóa đang ẩn núp , sau loạt súng đầu , may mắn Hóa không trúng đạn , nó quá hoảng sợ đã lột áo thung trắng cột lên đầu súng giơ cao lên làm cờ hàng ...Ngụy quân bảo nó ném súng xuống trước , rồi từ từ leo xuống ... họ bắt Hóa và trói hai cánh tay của nó ra đằng sau ...Sau một hồi tra hỏi , Hóa trả lời không biết , trời cũng đã tối nên họ dẫn Hóa theo ...Đi được một khoảng đường , nhìn thấy trời đêm Hóa nghĩ thầm nếu mình phóng chạy may ra thoát được ...vì Hoá đã quen với rừng sâu bóng tối , trong khi đó địch không thích nghi với nơi này , nghĩ vậy và chờ cơ hội Hóa phóng chân chạy thật , nhưng không may loạt đạn đầu tiên Hóa đã trúng đạn và nó chết tức khắc khi hai cánh tay còn đang bị trói , có người chụp được tấm hình này , gởi về R sau đó họ mang ra ngoại quốc tuyên truyền là lính ngụy tàn ác sát hại trẻ em , và sát hại ngay cả tù binh khi tù binh đó đã đầu hàng ....Chuyện này tạo ra một sì căng đan làm cho người sĩ quan Ngụy chỉ huy cánh quân kia bị mất chức đưa ra toà án quân sự sau đó được đưa về làm đồn trưởng nghĩa quân tại ấp Thạnh Trị , Chàng Thiếu úy đồn trưởng này lại chính là Cương con trai của Út lành ... 

Lại nói về Út Lành , sau ngày Tư Cang trốn vào bưng , cả làng đồn ầm rằng Út Lành đã có bầu với Tư Cang , và cái bụng của Út Lành càng ngày càng bự " giấy không thể gói được lửa , hơn nữa Út Lành cũng buồn rầu chán nản vì bị tình phụ nên , một liều năm bảy cũng liều , khi tiếng đến tai ông Hội Đồng Sang Ông cho gọi Út Lành ra mà hỏi
-Mày có bầu với ai ...Thằng nào cho tao biết ?
Út Lành tỉnh bơ trả lời
-Dạ anh tư Cang đó ba , nhưng anh Tư vào bưng rồi !
Ông Hội Đồng mặt đỏ bừng bừng đập bàn hét
-nó vào bưng rồi , sao mày biết , rồi cái bầu đó bay tính sao đây
Út lành lại từ tốn trả lời
- Bác Ba bên nhà cho con biết anh Tư đã vào bưng theo Cách Mạng , còn có bầu thì đẻ chớ sao ba ...
Ông Hội Đồng nghe thế thì càng tức giận ông nói
-A con này mày nói giỏi đó nha , được rồi tao không có đứa con hư đốn như bay , kể từ giờ phút này ra khỏi nhà tao nghe chưa - Bà Hội Đồng thương con gái năn nỉ ,- Ông nói vậy sao được đứa nào thì cũng do mình sinh ra , chúng nó là con mình , bây giờ lỡ dĩ rồi ông từ nó , ông đuổi nó đi , một thân một mình , bụng mang dạ chửa biết ăn đâu ở đâu ...
- Thây kệ nó , ai kêu nó ngu nó dại thì để nó đi chết cho rồi , tôi đâu còn mặt mũi nhìn bà con lối xóm
-Bà Hội Đồng lại xuống nước năn nỉ thêm
-Ông có đuổi nó đi hay giết chết nó thì ông cũng đâu gột rửa được cái tiếng này ,mà coi chừng còn mang thêm tiếng ác với con nữa , thôi tôi xin ông " Con dại cái mang " ông có nóng có giận thì mắng chửi tôi vì tôi không biết dậy con gái , Út mau lại đập đầu xin lỗi để ba tha cho
Nghe má nói vậy Út Lành liền chạy lại trước mặt ông Hội Đồng Sang vừa lạy vừa nói
- Thưa ba con xin lỗi ba đã làm cho ba chịu tiếng xấu ...Xin ba tha lỗi cho con
Ông Hội Đồng Sang không biết nói gì hơn , đành dịu giọng nói
- được rồi , tao lỡ sinh ra đứa hư đốn như bay , thôi thì tao chia gia tài này cho bay ra sống riêng , tao không còn trách nhiệm hay muốn nhìn mặt bay nữa nghe không , Tao cho bay mảnh ruộng bên chòi vịt đó , mảnh ruộng đó cũng gần mười mẫu , nếu biết làm ăn một đời cũng không hết , ừa cho bay luôn bày vịt , thôi thì bay dọn ra đấy trông coi bày vịt thế thằng Tám Bò ăn ở luôn ngoài đó ...
Bà Hội  Đồng và Út Lành như bằng lòng với sự đặt để đó của ông Hội Đồng , từ đó Út Lành dọn ra chòi vịt sống , cũng là để trông coi vịt thế Tám Bò ,nó về giúp việc cho ông Hội Đồng ...Tuy gọi là chòi chứ thực ra nó là một căn nhà sàn nhỏ ...Một mình sống ở đó rất mát mẻ ... hơn nữa tuy ở riêng chứ thật ra Út Lành cũng đâu phải lăn vào bếp mà lo cái ăn thức uống ...Vì bà Hội Đồng thương con nên mỗi ngày đều lén ông Hội Đồng mà cho con Hai Nhẫn đưa cơm ra cho cô Út ...Việc này ông Hội Đồng biết nhưng cũng vờ đi ...
Đến sau ngày Út Lành nằm cữ sinh được thằng con trai thật bụ bẫm , bà hội Đồng ra thăm con và ở luôn ngoài đó cả tuần lễ , sau đó về nhà khoe với ông Hội Đồng , vì là đứa cháu ngoại đầu tiên nên ông cũng bồi hồi , muốn nhìn mặt nó xem nó giống ai .Chiều đó ông chống gậy ra chòi vịt , vào thăm cháu ngoại , ông cảm thấy một niềm vui dào dạt , một tình thương chan chứa dâng lên , ông thấy cảnh đơn thân của Út Lành thì la con Hai Nhẫn
-Sao bay để bầy hầy thế kia , sao không quét dọn cho sạch sẽ cho cô út , hay thôi út à dọn về nhà đi để má bay dễ bề chăm sóc cho bay chứ sinh để thế kia lỡ đêm hôm bịnh hoạn đâu ai săn sóc được , nhất là thằng nhỏ còn trong tháng dễ sài bẹn lắm , ngoài này vách trống gió máy thế này tao thấy không đặng rôi , dọn về nhà đi ...
Thế là Út Lành ôm con dọn về nhà ..Và dĩ nhiên hai ông bà Hội đồng cưng cháu ngoại hết biết ...
Thằng nhỏ được ông ngoại đặt tên là Lê mạnh Cương , vì không có cha nên mang họ mẹ , trời thương nó mạnh kỏe mau lớn , càng lớn càng thông minh và ngoan , điều này làm ông Hội Đồng càng cưng cháu ...
Sống ở thôn được ít năm nữa , vì tình trạng an ninh , vì thương cháu phải đi xa tới trường , ông Hội Đồng sang quyết định bán hết ruộng đất cho chính phủ , nhân dịp chiến dịch " Người Cày Có Ruộng " được khỏi xướng , rồi họ đưa nhau về tỉnh sống ...
Cương học giỏi , ngoan nên được ông bà ngoại cùng mẹ thương yêu hết mức , Năm đó chiến tranh đã dữ dội , Miền Nam bắt đầu thiếu lính nên  động viên ...Cương thi đậu tú tài I  chàng xung phong tình nguyện đi lính  , và  vào trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức , sau chín tháng huấn luyện , Cương Tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy , ngày ra trường Cương chọn về Sư Đoàn 7 ... Để có cơ hội phục vụ , góp tay súng để bảo vệ xóm làng ...
Một năm sau Cương được thăng chức Thiếu úy và nắm Trung đội trưởng ... Hôm đó hành quân bố ráp cố ý lùa bọn du kích ra xa xóm thôn , lính của Cương vô ý bị bắn sẻ ...Cương giận lắm khi bắt được tên du kích ,Cương chỉ muốn nổ một phát súng vào đầu nó để trả thù cho người anh em vừa bị nó sát hại , hơn nữa nếu bắt nó theo làm tù binh , mai kia đi lên đi xuống với an ninh cũng mệt ,  nhưng khi nhìn thấy mặt thằng du kích còn non choẹt thì sự tội nghiệp  nó lấn hết cả sự giận hờn ...Chẳng may tối đó trên đường dẫn tù binh về  Hậu cứ , trên đường đi nó bỏ chạy buộc lòng Lính của Cương phải bắn theo , hắn trúng đạn và chết ...

Kahat
(còn tiếp)
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 16:44 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3583
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #148 - 26. Aug 2013 , 18:41
 
TA GIẢI PHÓNG NHAU 

CHƯƠNG VI


Không biết trong trung đội của Cương có ai làm nội tuyến chụp được cái xác chết nằm co quắp của tên du kích với vẻ mặt quá trẻ , để đưa lên báo ngoại quốc ,với lời tuyên truyền , lính miền Nam bắn giết trẻ em vị thành niên để cưỡng bách tong quân , nhằm phong trào Phản chiến tại Mỹ đang dâng cao nên họ triệt để khai thác ...
Ra toà Cương bị oan nhưng cũng làm Cương vui vẻ thi hành nhiệm vụ mới là về ngay ấp Thạnh Trị làm đồn trưởng , đấy là nơi chôn nhau cắt rốn là quê hương mà Cương yêu quí quyết một lòng bảo vệ , cái chòi vịt và mảnh ruộng Út Lành đã sống trước những ngày sinh ra Cương , ông Hội Đồng Sang vì yêu cháu vẫn còn giữ ...

Những người thân với Út Lành , đã tó mò muốn tìm hiểu nhưng từ ngày Cang ra đi Út Lành không hề hở môi nhắc lại chuyện tình đó , Không biết rằng Út Lành còn yêu hay hận mà ngay đến Cương đứa con yêu quí Út Lành coi như đó là cuộc đời của nàng thế mà có đôi lúc Cương hỏi
- Má Ba của con là ai , Ba đi đâu mà con không bao giờ thấy ?
Út Lành cũng chỉ thở dài mắt nhìn xa xôi không trả lời ,
Lại có những chàng trai buông lời tán tỉnh hay nhờ người giới thiệu làm quen , đều bị Út Lành từ chối
Cuộc tình của Cang với Út Lành trở nên huyền bí không ai biết được trái tim Út Lành đang hướng về đâu ...

Riêng về Cang ở trong bưng " sống lâu nên lão làng "Nhang đã chết , không những Nhang chết mà có cả thêm ba người thay thế nối tiếp Nhang cũng đều đã chết , bởi vậy Cang lên thay thế chức thủ trưởng căn cứ địa , là nơi tập trung tuyển chiến sĩ cho cách mạng , là nơi xuất phát những trận tấn công đồn bót , bao gồm cả vùng Châu Thổ Sông Cửu Long...Là nơi cung cấp những cán bộ giao liên , khi có những lực lượng Chính Quy hành quân mượn đường đi ngang , hay tạm thời dưỡng quân nơi căn cứ
Khoảng vào cuối tháng ba năm 1975 , căn cứ địa của Cang trở nên tấp nập và các công việc bận rộn tăng lên gấp năm mười lần ...
Từ cấp tiểu đoàn đi ngang đến cấp trung đoàn rồi xư đoàn dừng chân đóng trại chờ ngày đi xuống Cần Thơ tấn công vào bộ tư lệnh vùng IV ( bốn ) ,lại có cả các bộ phận đại pháo , xe tăng ...Làm cho  các chiến sĩ quanh căn cứ tuy bận bịu nhưng rất hồ hởi vì  biết rằng sẽ có một cuộc tổng tấn công nữa như Tết Mậu Thân ( 1968 ) nhưng chắc lần này sẽ thành công vì quân đội nhân dân mang qua quá nhiều từ nhân sự đến vũ khí , nhiều tới độ hầu như không cần sự tiếp tay của các lực lượng nhân dân vũ trang nơi đây , họ chỉ nhận trợ giúp qua các cán bộ Giao Liên ...
Và quả thật như lời đồn đoán , ngày 30 tháng Tư năm 1975 , quân đội nhân dân , cũng như Mặt trận giải Phóng Miền Nam không tốn xương máu , hay súng đạn thêm nữa mà đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố lời đầu hàng của Tổng Thống chính quyền Ngụy ...Phe ta chỉ còn chờ giờ vào tiếp thu
Cũng có vài nơi , gặp những sự chống đối của bọn ngụy ngoan cường , làm một số bộ đội chết oan trong "giờ thứ 25 "
10 ngày sau ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất , và hầu như trên toàn cõi nước ta đã im tiếng súng ...Cang trở về thôn cũ , tìm lại di tích ngày xưa , nhưng quả thật ,
" người xưa không còn , cảnh củ đã đổi " và tất cả sự phồn thịnh ấm no của  dân chúng đã làm cho Cang choáng ngộp , và Cang bẽ bàng tự hỏi , mình giải phóng cho ai đây ...
La cà nơi đây để tìm hiểu xem giờ này Út lành và gia đình ông Hội Đồng Sang ở đâu , mãi cả tháng sau , Cang mới biết tên sĩ quan Ngụy thủ trưởng đồn này tên là Lê Mạnh Cương chính là con trai của Út Lành ...
Hướng về trại tập trung rồi theo dõi hầu hết các danh sách sĩ quan Ngụy trình diện học tập cải tạo ... Cang đã tìm được nơi Cương đang ở , một buổi chiều Cang tìm đến thăm Cương ...
Cương nhất định khước từ không bằng lòng ra gặp mặt vì Cương không muốn các chiến hữu bạn bè hiểu lầm là gia đình Cương có liên hệ với mặt trận ... Mãi tới lần thư tư cán bộ trại phải hù dọa Cương mới ra gặp mặt Cang , quả thật Cương chưa hề biết , dù chỉ là nghe nói ...đến nhân vật Cang người mà đang đứng trước mặt Cương là quan hệ thế nào
Cang kể rành mạch về đời sống của Út Lành của gia đình ông hội Đồng Sang của 20 năm về trước ...rồi cang muốn biết điạ chỉ của Út Lành đang sống để chàng tìm đến chào hỏi ...
Cương ,cương quyết từ chối tiết lộ những chi tiết ấy về Mẹ cũng như của bà ngoại , Ông Ngoại lúc này đã chết , vì Cương cho rằng biết đâu chỉ là những mối thù cá nhân , những ân oán ngày xưa của một tá điền đối với ông điền chủ
Cuối cùng Cang phải lên khung xem lý lịch của Cương ...
xem xong Cang trở lại gặp Cương và lần này thì Cang trở nên cứng rắn đầy hiểm ác
- Anh Cương không thành thật khai báo ...
Cương hơi tái mặt nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh
- Tôi không hiểu cán bộ nói gì ?
Cang cười một tiếng rất khô rồi nhẹ nhàng nói
- Anh cương không ghi những ngày ở bên Xư Đoàn 7 , và đã phạm lỗi gì để bị phạt đưa về Tiểu khu , anh tính dấu nhẹm điều đó sao ?
- Cương quả thật trở nên bối rối không ngờ tên cáo già này đã biết hết về quá khứ của Cương , nhưng cũng cố chống chế
-Việc đó đã qua quá lâu rồi , nên tôi cũng quên nay nhờ cán bộ nhắc tôi mới nhớ , thành thật xin lỗi cán bộ , tôi sẽ xin điều chỉnh hồ sơ của tôi
Cang đưa tay ngăn Cương lại rồi chậm rãi nói :
- nếu việc đó tiết lộ ra anh Cương biết chuyện gì sẽ xẩy đến với bản thân , tôi nghĩ là một sĩ qun Ngụy anh Cương có đủ chất xám để hiểu được điều đó , bây giờ chúng  ta quan hệ trao đổi nếu anh Cương cho tôi biết địa chỉ của bà út Lành , thì trái lại tôi sẽ giữ kín chuyện năm xưa cho anh Cương , chuyện đó tới đây coi như đã xoá và hồ sơ lý lịch của anh Cương coi như đã thành khẩn khai báo ...Anh cương nghĩ sao ? trao đổi như thế được không ?
Cương hỏi lại
- Làm sao tôi có thể tin được cán bộ là sẽ không tiết lộ
- Chuyện đó Anh Cương không có con đường chọn lựa , một là vui vẻ với nhau cố gắng tin tưởng nhau , hai là Cuộc đời của anh Cương sẽ chấm dứt ở trong này ...Mà rồi với khả năng của tôi anh Cương tin đi, tôi sẽ tìm được chỗ ở của Út Lành

Nghe Cang nói với giọng điệu thật tự tin , Cương suy nghĩ nhanh , có lẽ Cang nói đúng , Cương đâu còn con đường chọn lựa , " cá đã nằm trên thớt " , nếu Cang bá cáo với cán bộ trên khung , thì hẳn là một sự trả thù sẽ được diễn ra , như họ vẫn thường nói
- các anh có nợ máu với nhân dân với các chiến sĩ cách mạng
Chuyện thằng bé 15 tuổi kia bắn chết người lính của Cương thì không cần kể tới , nhưng lính của Cương bắn chết thằng bé mười  lăm tuổi là chuyện có thật và đã là sì căng đan một thời ...Bây giờ nếu cương quyết giữ bí mật chỗ ở của mẹ thì chắc chắn Cang sẽ nổi giận và bá cáo , rồi với cái địa chỉ giả kia Cương đã khai báo trong hồ sơ lý lịch Cang vẫn có thể mò ra chỗ ở của bà ngoại và mẹ ...Có thể cũng chẳng sao vì ông ngoại đã chết ...
Nghĩ thế Cương xin Cang một mẩu giấy , mượn cây viết , rồi ghi địa chỉ của Mẹ đưa cho Cang
Cang đưa tay nhận , địa chỉ và dặn Cương , anh có muốn viết thư cho bà Út Lành không , muốn viết thư thì viết đi tôi sẽ trao cho bà Út Lành dùm cho ...
Không cần suy nghĩ Cương đưa tay nhận tờ giấy Cang trao
Cang dặn thêm
-Viết ngắn gọn những điều cần thiết thôi , không nên kể về đời sống nơi đây bằng sự than oán ... hãy chứng tỏ là thành khẩn học tập tiến bộ mong Đảng và nhân dân tha thứ thì sẽ sớm được khoan hồng , biết không
Cang gật đầu rồi ngồi xuống húy hoáy viết mấy dòng , chỉ là lời thăm hỏi , và thông báo cho mẹ an tâm con nơi đây nhờ ơn Cách mạng khoan hồng , cuộc sống thật thoải mái ...Có Cán bộ Cang làm chứng có  gì mẹ hỏi thêm cán bộ ..
Cang cầm thư gấp bỏ vào túi xong quay gót thật nhanh ..
Cương nhìn theo bóng Cang tràn dâng một chút tình cảm khó diễn tả ...
Ra khỏi trại Cang kêu xe chạy thẳng về tỉnh và vào thăm Út Lành ...Thực ra Cang chẳng còn tí tình yêu nào dành cho Út Lành , nhưng đó lại là mối tình đầu nên đôi khi xao xuyến khi nhắc đến hơn nữa Cang cũng muốn biết Cương có phải là con của Cang hay không ...
Chào hỏi nhau như một người khách lạ ,Cang rút trong túi ra lá thư Cương mới viết trao cho Út Lành
- đây là thư của cậu Cương mới trao cho tồi sáng nay nhờ tôi trao lại cho bà
Nghe nói có thơ của Cương Út Lành mừng rỡ , dù sao mẹ con cũng đã chia cách gần ba tháng rồi , bặt vô âm tín , trong khi cán bộ phường nói chỉ đi học tập có 10 ngày ...Không nói ra chứ tất cả những người có con , có chồng ra trình diện đều lo lắng sợ một điều không may cho người thân
Út Lành đọc vội lá thư ngắn xong quay qua hỏi Cang
- thưa cán bộ nó ở trỏng có khỏe không , chắc giờ này ốm lắm , quần áo có đủ mặc không hôm đi nó chỉ mang theo có hai bộ đồ ....Bao giờ thì nó được về hay tôi có thể đến thăm nó , trời ơi đất nước đã thanh bình thống nhất rồi hai bên hết đánh nhau , quên thù nghịch sao còn giam giữ nó lâu quá vậy , hơn nữa cha nó cũng là người vào bưng theo cách mạnh đó chớ , nó là con em của cách mạng mà không được sớm khoan hồng à !!!
Cang nghe Út Lành hỏi một giây dài , mà chỉ chú ý được câu duy nhất và đối với Cang cũng là quan trọng nhất
"Cha nó cũng vô bưng theo cách mạng "
Như thế đã rõ Cương chính là con của Cang ...quan sát cảnh sống của Út Lành ...Một đời sống phồn vinh mà Cang không thể tưởng tượng được , đành rằng Út Lành là con của đại điền chủ nhưng thời đó trải qua đã lâu , hơn nữa  hầu như tất cả những người dân ở tỉnh đều có cuộc sống sung túc ấm no dư giả so với những gì mà Cang nghe kể trong mấy năm gần đây ...Cang đâm ngại ngùng không dám tự giới thiệu và nhận lại Út Lành ...Cang chỉ nói là một cán bộ trong trại đi phép về ngang nên trao thư dùm Cương ...Vì trời đã tối , nên Cang nấn ná ở lại với lý do bây giờ không biết đường để tìm thân nhân ...vì đã xa cách lâu rồi không gặp , Út Lành liền mời Cang
- Vậy Cán Bộ cứ ở lại đây qua đêm , mai  trời sáng Cán Bộ muốn đi đâu , tôi sẽ hướng dẫn ,chứ bây giờ đã tối đi đêm trong thời buổi này không mấy an toàn ...
- Được lời mời Cang bằng lòng ngay , và Cang cũng được Út Lành mời ăn cơm tối cùng gia đình , chỉ là cơm tối thường ngày mà Cang có cảm tưởng như Út Lành đã chuẩn bị tiệc để chào đón Cang thật thịnh xoạn
- Khi ngồi ăn cơm Cang mới nhẩn nha hỏi chuyện gia đình , lúc này Cang mới biết từ ngày đó tới giờ Út Lành vẫn ở vậy nuôi con ...Cang cảm động quá nên mới nói
-Út Lành , bộ bà không nhận ra tôi thật sao , Tôi là Cang nè ...
Út Lành nói như hét lên
- Trời anh Cang thiệt hả , hèn chi tui cứ thấy nụ cười quen quen
Sau khi hai người nhận lại nhau , có những giọt nước mắt của mừng , của đau khổ họ tâm sự với nhau tới sáng , như thuở nào hai người lúc mới quen nhau ,ở chân đụn rơm họ cũng đã ngồi bên nhau mặc sương lạnh để chờ bình minh ...
Mối tình sau hai mươi lăm năm xa cách bây giờ mới nối lại , chìm ngập  trong hạnh phúc ...
Họ sống với nhau hơn một tuần còn hạnh phúc yêu thương tưởng hơn cả tuần trăng mật của đôi uyên ương mới cưới , nhưng rồi chiều hôm đó Cang chợt nhớ có hẹn với Gái , một nữ cán bô xinh trẻ đẹp dễ thương hơn út lành từ bắc vào , mà Cang đã quen , trong những ngày bộ phận của Gái dưỡng quân tại căn cứ địa của Cang , hai người đã hẹn nhau vào ngày hôm sau sẽ đón chuyến xe lửa Thống Nhất trở về bắc , và ở đó theo Gái sẽ cho Cang ra mắt cha mẹ và xin làm đám cưới với Cang ...
Cuộc chia tay có đầy nước mắt , Út Lành đã dúi vào túi áo cho Cang mấy trăm đồng , tiền mới , lại thấy Cang thích nghe radio ( cái đài ) nên đã trao luôn cái radio ba băng cho Cang , thêm cái đồng hồ đeo tay của ông Hội Đồng nhà giữ lại làm kỷ niệm khi ông chết , Út Lành cũng trao luôn cho Cang
Cang vui vẻ nhận hết rôi ra đi nói dối là phải trở về F vì đã hết phép ...Hứa hẹn sẽ thu dọn và có thể sẽ được cấp phát nhà sẽ đưa Út Lành đến đó cùng chung sống bù đắp cho những ngày xa cách ...
Thế là Cang vừa có tiền vừa có quà , theo chân cô cán bộ xinh đẹp về Bắc làm lễ ra mắt gia đình ...
Nhưng Cang đâu biết tình cảnh người dân đất Bắc , lúc này tuy đảng cộng sản đã chiến thắng , đã thống nhất được đất nước , chấm dứt cuộc chiến tranh tương tàn ... Nhưng sức dân đã cạn kiệt với hơn hai mươi năm thắt lưng buộc bụng , tất cả tuôn vào Chiến trường miền Nam , thanh niên thanh nữ đi B trên quê hương vốn nghèo sẵn nay chỉ còn lại ông già bào lão ngày ngày trông ngóng còn cháu bình yên trở về , nên càng sác sơ đói khổ ...Bởi thế vì nghe tuyên truyền là miền Nam bị Mỹ Ngụy bóc lột người dân trong Nam sống cùng sống cực , và người dân trong Nam sống những nơi ấp , nơi Khu ... Tất cả đều nguy hiểm hung hãn , cứ thấy bộ đội ta xuất hiện là bắn giết xua đuổi , chẳng bao giờ nuôi nấng cho ăn như các bà mẹ miền bắc
Bởi thế khi thấy Cang là người miền Nam ...Gia đình của cô Băc kỳ hoàn toàn phản đối ...Thêm vào đấy Cô Cán Bộ sau những ngày chinh chiến trở về trong chiến thắng vinh quang thì được làng trên xóm dưới tiếp đón vui vẻ trong khi anh chàng du kích miền Nam thì bị kinh rẻ như một loại người phản bội ...và nguy hiểm đối với người dân ngoài Bắc
Cô gái cán bộ đâu còn thì giờ nghĩ tới Cang , để dưa Cang đi thăm phố phường như những ngày bên nhau trong Nam mơ mộng
Vi thế Cang cảm nhận được sự chán chường niềm tủi hổ ...Của một người dâng trọn đời trai vì  lý tưởng vào bưng làm cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị độc tài , thoát đời sống nô nệ của đế quốc Mỹ .. thế mà giờ đây bị đối xử không công bằng
Nhất là những ngày sau đó khi trở về miền Nam thì không phải chỉ mình cang là đau đớn cảm nhận sự bất công ê chề như thế , mà tất cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , từ trên xuống dưới hầu như bị quên lãng ...Từ từ tan hàng trong tủi hổ uất hận
Bởi những người này sau khi về sum họp với gia đình , thì thấy bị xa cách , bởi hai cuộc sống hoàn toàn trái ngược , và tư tưởng thì còn nguy hiểm hơn nữa bởi người dân sống phóng khoáng tự do đã quen ...Nay phải sống với những người từ rừng sâu trở về thành phố ,lạc hậu đến mấy chục năm ...Chỉ còn tình thân máu mủ ruột thịt mới chấp nhận họ chứ xóm giềng đều khinh rẻ ngăn cách
Sau khi Cang đi ...Út Lành biết mình bị lừa thêm một lần nữa ...Tuy nhiên Út Lành vẫn sẵn sàng tha thứ nếu Cang biết sửa đổi mà trở về với tình yêu chân chính với con tim nóng bỏng như thuở nào dưới chân đụn rơm của quê hương ngày xưa thanh bình
Nhưng Cang cảm thấy tủi hổ và chắn chường của một con người bị xã hội ngược đãi ... Nên Cang đâm ra rượu chè be bét để giải sầu tìm quên , mà say sưa như thế thì được bao lâu , nay anh mai tôi , đến lúc cũng cạn kiệt ,Bởi thế Cang sống cuộc sống rất đau khổ như kẻ không nhà ...Nay say ngủ chân cầu mai say ngủ cuối chợ
Thế mới biết những kẻ bị lừa gạt cuộc đời những kẻ bị lầm lạc lý tưởng đã đau khổ đến chừng nào ...
Ba năm sau , khi Cương được thả ra từ Trại tù cải tạo , Cương trở về tỉnh , sống chung với Mẹ , trái với Cang Cương còn được bà con xóm giềng thương xót ,là một kẻ thua trận ...Tuy thế Cương cảm thấy không thể sống với những con mắt của công an , của chính quyền địa phương lúc nào cũng rình rập coi Cương như kẻ thù địch ...Cương cũng không dám nhận lòng thuơng xót của láng giềng ...
Bởi vậy Cương gom góp tất cả gia tài của Mẹ ...Tổ chức một chuyến vượt biên ...
Những lần Út Lành đi thăm nuôi con trong tù , Út lành đã tâm sự và cho Cương biết Cang chính là Cha ruột của Cương , nghe tin này Cương bàng hoàng , đau xót , buồn thay cho  một quê hương chiến tranh tương tàn , đưa đến cha con bắn giét lẫn nhau , làm thế nào mà để đến độ cha con đứng ỡ hai đầu chiến tuyến …Khi ra tù Cương có vài lần tìm gặp Cang , khuyên Cang bỏ cuộc sống bê tha như hiện tại mà quay về làm lại cuộc đời với Mẹ và Con nhưng Cang  hình như đã bị loài sâu rượu khống chế , hoàn toàn không còn khả năng tự vệ chỉ còn chạy theo phục vụ cho rượu như ngày xưa đã lầm lỡ , bỏ Út Lành trốn vào bưng , tưởng là phục vụ lý tưởng , có ai ngờ đó chỉ là cái cứu cánh để an ủi những kẻ trốn chạy …Như bây giờ tưởng lấy rượu giải sầu , thì ngược lại càng sầu thêm và tự hủy họai cuộc đời
Không thuyết phục được Cang , Cương đành bí mật dẫn mẹ xuống thuyền vượt biên ra nước ngoài
Với con thuyền mong manh , vượt biển thoát được  cơn nguy hiểm đúng là trời phù hộ , Hai Mẹ co Út lành đến đệ tam quốc gia tạm cư , những ngày đầu làm quen với xã hội mới , với bao nhiêu vất vả và nhọc nhằn ...Út Lành lao đầu đi làm việc ở những tiệm ăn , lãnh thêm hàng về nhà may vào buổi tối , để lấy tiền cho Cương trở lại trường học ...
Trong những ngày này Cương vẫn biết Mẹ hay nhận được thơ của Cang , có lần Cương mở ra coi thử , từ đầu tới cuối , trong thư chỉ là tả oán cảnh nghèo túng thiếu rồi xin giúp đỡ...
Và Út Lành cũng lén con đi gửi tiền dành dụm được về để giúp Cang , Cương biết nhưng không phản đối Mẹ , vì nghĩ rằng Mẹ giúp Ba cũng là điều nên làm , mặc dù ngày xưa Ba đã đối xử với Mẹ quá tệ
Rồi hôm nghe tin Cang mất Út Lành cũng tức tốc mua vé máy bay về lo đám táng cho Cang " Nghĩa tử là nghĩa tận "
Sau sáu năm miệt mài với trường lớp  , trời thương Cương cũng đã tốt nghiệp và có công việc làm tốt , lúc này Út Lành mới bớt công việc , để có thể hưởng nhàn
Ngồi nghĩ lại quãng đời đã qua , quả thật quá nhiều gian truân vất vả , cuộc chiến phi lý đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng ...Chết bằng cách này hay chết bằng cách khác họ đã giải phóng cuộc đời cho nhau , đã lấy mất sự sống để không còn biết khổ đau ...và với bao nhiêu năm Thống nhất đất nước họ đã làm cho miền Nam từ phồn vinh giả tạo , trở thành nghèo đói tụt hậu như Miền bắc , ai giải phóng ai đây

                           HẾT
Kahat
Back to top
« Last Edit: 28. Aug 2013 , 17:11 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Vu Ngoc Mai
Gold Member
*****
Offline


Giáo Sư Cố Vấn

Posts: 3463
Re: Truyện ngắn
Reply #149 - 27. Aug 2013 , 16:55
 
Lethikinhhoang wrote on 26. Aug 2013 , 18:41:
TA GIẢI PHÓNG NHAU (tiép theo )

CHƯƠNG VI

của Cương có ai làm nội tuyến chụp được cái xác chết nằm co quắp của tên du kích với vẻ mặt quá trẻ , để đưa lên báo ngoại quốc ,với lời tuyên truyền , lính miền Nam bắn giết trẻ em vị thành niên để cữơng bách tong quân , nhằm phong trào Phản chiến tại Mỹ đang dâng cao nên họ triệt để khai thác ...
Ra toà Cương bị oan nhưng cũng làm Cương vui vẻ thi hành nhiệm vụ mới là về ngay ấp Thạnh Trị làm đồn trưởng , đấy là nơi chôn nhau cắt rốn là quê hương mà Cương yêu quí quyết một lòng bảo vệ , cái chòi vịt và mảnh ruộng Út lành đã sống trước những ngày sinh ra Cương , ông Hội Đồng Sang vì yêu cháu vẫn còn giữ ...

Những người thân với Út lành , đã tó mò muốn tìm hiểu nhưng từ ngày Cang ra đi Út Lành không hề hở môi nhắc lại chuyện tình đó , Không biết rằng Út Lành còn yêu hay hận mà ngay đến Cương đứa con yêu quí Út Lành coi như đó là cuộc đời của nàng thế mà có đôi lúc Cương hỏi
- Má Ba của con là ai , Ba đi đâu mà con không bao giờ thấy ?
Út Lành cũng chỉ thở dài mắt nhìn xa xôi không trả lời ,
Lại có những chàng trai buông lời tán tỉnh hay nhờ người giới thiệu làm quen , đều bị Út Lành từ chối
Cuộc tình của Cang với Út Lành trở nên huyền bí khôngai biết được trái tim Út Lành đang hướng về đâu ...

Riêng về Cang ở trong bưng " sống lâu nên lão làng "Nhang đã chết , không những Nhang chết mà có cả thêm ba người thay thế nối tiếp Nhang cũng đều đã chết , bởi vậy Cang lên thay thế chức thủ trưởng căn cứ địa , là nơi tập trung tuyển chiến sĩ cho cách mạng , là nơi xuất phát những trận tấn công đồn bót , bao gồm cả vùng Châu Thổ Sông Cửu Long...Là nơi cung cấp những cán bộ giao liên , khi có những lực lượng Chính Quy hành quân mượn đường đi ngang , hay tạm thời dưỡng quân nơi căn cứ
Khoảng vào cuối tháng ba năm 1975 , căn cứ địa của Cang trở nên tấp nập và các công việc bận rộn tăng lên gấp năm mười lần ...
Từ cấp tiểu đoàn đi ngang đến cấp trung đoàn và xư đoàn dừng chân đóng trại chờ ngày đi xuống Cần Thơ tấn công vào bộ tư lệnh vùng IV ( bốn ) ,lại có cả các bộ phận đại pháo , xe tăng ...Làm cho  các chiến sĩ quanh căn cứ tuy bận bịu nhưng rất hồ hởi vì  biết rằng sẽ có một cuộc tổng tấn công nữa như Tết Mậu Thân ( 1968 ) nhưng chắc lần này sẽ thành công vì quân đội nhân dân mang qua quá nhiều từ nhân sự đến vũ khí , nhiều tới độ hầu như không cần sự tiếp tay của các lực lượng nhân dân vũ trang nơi đây , họ chỉ nhận trợ giúp qua các cán bộ Giao Liên ...
Và quả thật như lời đồn đoán , ngày 30 tháng Tư năm 1975 , quân đội nhân dân , cũng như Mặt trận giải Phóng Miền Nam không tốn xương máu , hay súng đạn thêm nữa mà đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố lời đầu hàng của Tổng Thống chính quyền Ngụy ...Phe ta chỉ còn chờ giờ vào tiếp thu
Cũng có vài nơi , gặp những sự chống đối của bọn ngụy ngoan cường , làm một số bộ đội chết oan trong "giờ thứ 25 "
10 ngày sau ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất , và hầu như trên toàn cõi nước ta đã im tiếng súng ...Cang trở về thôn cũ , tìm lại di tích ngày xưa , nhưng quả thật ,
" người xưa không còn , cảnh củ đã đổi " và tất cả sự phồn thịnh ấm no của  dân chúng đã làm cho Cang choáng ngộp , và Cang bẽ bàng tự hỏi , mình giải phóng cho ai đây ...
La cà nơi đây để tìm hiểu xem giờ này Út lành và gia đình ông Hội Đồng Sang ở đâu , mãi cả tháng sau , Cang mới biết tên sĩ quan Ngụy thủ trưởng đồn này tên là Lê Mạnh Cương chính là con trai của Út lành ...
Hướng về trại tập trung rồi theo dõi hầu hết các danh sách sĩ quan Ngụy trình diện học tập cải tạo ... Cang đã tìm được nơi Cương đang ở , một buổi chiều Cang tìm đến thăm Cương ...
Cương nhất định khước từ không bằng lòng ra gặp mặt vì Cương không muốn các chiến hữu bạn bè hiểu lầm là gia đình Cương có liên hệ với mặt trận ... Mãi tới lần thư tư cán bộ trại phải hù dọa Cương mới ra gặp mặt Cang , quả thật Cương chưa hề biết , dù chỉ là nghe nói ...đến nhân vật Cang người mà đang đứng trước măt Cương là quan hệ thế nào
Cang kể rành mạch về đời sống của Út Lành của gia đình ông hội Đồng Sang của 20 năm về trước ...rồi cang muốn biết điạ chỉ của Út Lành đang sống để chàng tìm đến chào hỏi ...
Cương ,cương quyết từ chối tiết lộ những chi tiết ấy về Mẹ cũng như của bà ngoại , Ông Ngoại lúc này đã chết , vì Cương cho rằng biết đâu chỉ là những mối thù cá nhân , những ân oán ngày xưa của một tá điền đối với ông điền chủ
Cuối cùng Cang phải lên khung xem lý lịch của Cương ...
xem xong Cang trở lại gặp Cương và lần này thì Cang trở nên cứng rắn đầy hiểm ác
- Anh Cương không thành thật khai bào ...
Cương hơi tái mặt nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh
- Tôi không hiểu cán bộ nói gì ?
Cang cười một tiếng rất khô rồi nhẹ nhàng nói
- Anh cương không ghi những ngày ở bên Xư Đoàn 7 , và đã phạm lỗi gì để bị phạt đưa về Tiểu khu , anh tính dấu nhẹm điều đó sao ?
- Cương quả thật trở nên bối rối không ngờ tên cáo già này đã biết hết về quá khứ của Cương , nhưng cũng cố chống chế
-Việc đó đã qua quá lâu rồi , nên tôi cũng quên nay nhờ cán bộ nhắc tôi mới nhớ , thành thật xin lỗi cán bộ , tôi sẽ xin điều chỉnh hồ sơ của tôi
Cang đưa tay ngăn Cương lại rồi chậm rãi nói :
- nếu việc đó tiết lộ ra anh Cương biết chuyện gì sẽ xẩy đến với bản thân , tôi nghĩ là một sĩ qun Ngụy anh Cương có đủ chất xám để hiểu được điều đó , bây giờ chúng  ta quan hệ trao đổi nếu anh Cương cho tôi biết địa chỉ của bà út Lành , thì trái lại tôi sẽ giữ kín chuyện năm xưa cho anh Cương , chuyện đó tới đây coi như đã xoá và hồ sơ lý lịch của anh Cương coi như đã thành khẩn khai báo ...Anh cương nghĩ sao ? trao đổi như thế được không ?
Cương hỏi lại
- Làm sao tôi có thể tin được cán bộ là sẽ không tiết lộ
- Chuyện đó Anh Cương không có con đường chọn lựa , một là vui vẻ với nhau cố gắng tin tưởng nhau , hai là Cuộc đời của anh Cương sẽ chấm dứt ở trong này ...Mà rồi với khả năng của tôi anh Cương tin đi, tôi sẽ tìm được chỗ ở của Út lành

Nghe Cang nói với giọng điệu thật tự tin , Cương suy nghĩ nhanh , có lẽ Cang nói đúng , Cương đâu còn con đường chọn lựa , " cá đã nằm trên thớt " , nếu Cang bá cáo với cán bộ trên khung , thì hẳn là một sự trả thù sẽ được diễn ra , như họ vẫn thường nói
- các anh có nợ máu với nhân dân với các chiến sĩ cách mạng
Chuyện thằng bé 15 tuổi kia bắn chết người lính của Cương thì không cần kể tới , nhưng lính của Cương bắn chết thằng bé mười  lăm tuổi là chuyện có thật và đã là sì căng đan một thời ...Bây giờ nếu cương quyết giữ bí mật chỗ ở của mẹ thì chắc chắn Cang sẽ nổi giận và bá cáo , rồi với cái địa chỉ giả kia Cương đã khai báo trong hồ sơ lý lịch Cang vẫn có thể mò ra chỗ ở của bà ngoại và mẹ ...Có thể cũng chẳng sao vì ông ngoại đã chết ...
Nghĩ thế Cương xin Cang một mẩu giấy , mượn cây viết , rồi ghi địa chỉ của Mẹ đưa cho Cang
Cang đưa tay nhận , địa chỉ và dặn Cương , anh có muốn viết thư cho bà Út Lành không , muốn viết thư thì viết đi tôi sẽ trao cho bà Út Lành dùm cho ...
Không cần suy nghĩ Cương đưa tay nhận tờ giấy Cang trao
Cang dặn thêm
-Viết ngắn gọn những điều cần thiết thôi , không nên kể về đời sống nơi đây bằng sự than oán ... hãy chứng tỏ là thành khẩn học tập tiến bộ mong Đảng và nhân dân tha thứ thì sẽ sớm được khoan hồng , biết không
Cang gật đầu rồi ngồi xuống húy hoáy viết mấy dòng , chỉ là lời thăm hỏi , và thông báo cho mẹ an tâm con nơi đây nhờ ơn Cách mạng khoan hồng , cuộc sống thật thoải mái ...Có Cán bộ Cang làm chứng có  gì mẹ hỏi thêm cán bộ ..
Cang cầm thư gấp bỏ vào túi xong quay gót thật nhanh ..
Cương nhìn theo bóng Cang tràn dâng một chút tình cảm khó diễn tả ...
Ra khỏi trại Cang kêu xe chạy thẳng về tỉnh và vào thăm Út Lành ...Thực ra Cang chẳng còn tí tình yêu nào dành cho Út Lành , nhưng đó lại là mối tình đầu nên đôi khi xao xuyến khi nhắc đến hơn nữa Cang cũng muốn biết Cương có phải là con của Cang hay không ...
Chào hỏi nhau như một người khách lạ Cang rút trong túi ra lá thư Cương mới viết trao cho Út Lành
- đây là thư của cậu Cương mới trao cho tồi sáng nay nhờ tôi trao lại cho bà
Nghe nói có thơ của Cương Út Lành mừng rỡ , dù sao mẹ con cũng đã chia cách gần ba tháng rồi , bặt vô âm tín , trong khi cán bộ phường nói chỉ đi học tập có 10 ngày ...Không nói ra chứ tất cả những người có con , có chồng ra trình diện đều lo lắng sợ một điều không may cho người thân
Út Lành đọc vội lá thư ngắn xong quay qua hỏi Cang
- thưa cán bộ nó ở trỏng có khỏe không , chắc giờ này ốm lắm , quần áo có đủ mặc không hôm đi nó chỉ mang theo có hai bộ đồ ....Bao giờ thì nó được về hay tôi có thể đến thăm nó , trời ơi đất nước đã thành bình thống nhất rồi hai bên hết đánh nhau , quên thù nghịch sao còn giam giữ nó lâu quá vậy , hơn nữa cha nó cũng là người vào bưng theo cách mạnh đó chớ , nó là con em của cách mạng mà không được sớm khoan hồng à !!!
Cang nghe Út Lành hỏi một giây dài , mà chỉ chú ý được câu duy nhất và đối với Cang cũng là quan trọng nhất
"Cha nó cũng vô bưng theo cách mạng "
Như thế đã rõ Cương chính là con của Cang ...quan sát cảnh sống của Út Lành ...Một đời sống phồn vinh mà Cang không thể tưởng tượng được , đành rằng Út Lành là con của đại điền chủ nhưng thời đó trải qua đã lâu , hơn nữa  hầu như tất cả những người dân ở tỉnh đều có cuộc sống sung túc ấm no dư giả so với những gì mà Cang nghe kể trong mấy năm gần đây ...Cang đâm ngại ngùng không dám tự giới thiệu và nhận lại Út Lành ...Cang chỉ nói là một cán bộ trong trại đi phép về ngang nên trao thư dùm Cương ...Vì trời đã tối , nên Cang nấn ná ở lại với lý do bây giờ không biết đường để tìm thân nhân ...vì đã xa cách lâu rồi không gặp , Út lành liền mời Cang
- Vậy Cán Bộ cứ ở lại đây qua đêm , mai  trời sáng Cán Bộ muốn đi đâu , tôi sẽ hướng dẫn ,chứ bây giờ đã tối đi đêm trong thời buổi này không mấy an toàn ...
- Được lời mời Cang bằng lòng ngay , và Cang cũng được Út Lành mời ăn cơm tối cùng gia đình , chỉ là cơm tối thường ngày mà Cang có cảm tưởng như Út Lành đã chuẩn bị tiệc để chào đón Cang thật thịnh xoạn
- Khi ngồi ăn cơm Cang mới nhẩn nha hỏi chuyện gia đình , lúc này Cang mới biết từ ngày đó tới giờ Út Lành vẫn ở vậy nuôi con ...Cang cảm động quá nên mới nói
-Út Lành , bộ bà không nhận ra tôi thật sao , Tôi là Cang nè ...
Út Lành nói như hét lên
- Trời anh Cang thiệt hả , hèn chi tui cứ thấy nụ cười quen quen
Sau khi hai người nhận lại nhau , có những giọt nước mắt của mừng , của đau khổ họ tâm sự với nhau tới sáng , như thuở nào hai người lúc mới quen nhau ,ở chân đụn rơm họ cũng đã ngồi bên nhau mặc sương lạnh để chờ bình minh ...
Mối tình sau hai mươi lăm năm xa cách bây giờ mới nối lại , chìm ngập  trong hạnh phúc ...
Họ sống với nhau hơn một tuần còn hạnh phúc yêu thương tưởng hơn cả tuần trăng mật của đôi uyên ương mới cưới , nhưng rồi chiều hôm đó Cang chợt nhớ có hẹn với Gái , một nữ cán bô xinh trẻ đẹp dễ thương hơn út lành từ bắc vào , mà Cang đã quen , trong những ngày bộ phận của Gái dưỡng quân tại căn cứ địa của Cang , hai người đã hẹn nhau vào ngày hôm sau sẽ đón chuyến xe lửa Thống Nhất trở về bắc , và ở đó theo Gái sẽ cho Cang ra mắt cha mẹ và xin làm đám cưới với Cang ...
Cuộc chia tay có đầy nước mắt , Út Lành đã dúi vào túi áo cho Cang mấy trăm đồng , tiền mới , lại thấy Cang thích nghe radio ( cái đài ) nên đã trao luôn cái radio ba băng cho Cang , thêm cái đồng hồ đeo tay của ông Hội Đồng nhà giữ lại làm kỷ niệm khi ông chết , Út Lành cũng trao luôn cho Cang
Cang vui vẻ nhận hết rôi ra đi nói dối là phải trở về F vì đã hết phép ...Hứa hẹn sẽ thu dọn và có thể sẽ được cấp phát nhà sẽ đưa Út Lành đến đó cùng chung sống bù đắp cho những ngày xa cách ...
Thế là Cang vừa có tiền vừa có quà , theo chân cô cán bộ xinh đẹp về Bắc làm lễ ra mắt gia đình ...
Nhưng Cang đâu biết tình cảnh người dân đất Bắc , lúc này tuy đảng cộng sản đã chiến thắng , đã thống nhất được đất nước , chấm dứt cuộc chiến tranh tương tàn ... Nhưng sức dân đã cạn kiệt với hơn hai mươi năm thắt lưng buộc bụng , tất cả tuôn vào Chiến trường miền Nam , thanh niên thanh nữ đi B trên quê hương vốn nghèo sẵn nay chỉ còn lại ông già bào lão ngày ngày trông ngóng còn cháu bình yên trở về , nên càng sác sơ đói khổ ...Bởi thế vì nghe tuyên truyền là miền Nam bị Mỹ Ngụy bóc lột người dân trong Nam sống cùng sống cực , và người dân trong Nam sống những nơi ấp , nơi Khu ... Tất cả đều nguy hiểm hung hãn , cứ thấy bộ đội ta xuất hiện là bắn giết xua đuổi , chẳng bao giờ nuôi nấng cho ăn như các bà mẹ miền bắc
Bởi thế khi thấy Cang là người miền Nam ...Gia đình của cô Băc kỳ hoàn toàn phản đối ...Thêm vào đấy Cô Cán Bộ sau những ngày chinh chiến trở về trong chiến thắng vinh quang thì được làng trên xóm dưới tiếp đón vui vẻ trong khi anh chàng du kích miền Nam thì bị kinh rẻ như một loại người phản bội ...và nguy hiểm đối với người dân ngoài Bắc
Cô gái cán bộ đâu còn thì giờ nghĩ tới Cang , để dưa Cang đi thăm phố phường như những ngày bên nhau trong Nam mơ mộng
Vi thế Cang cảm nhận được sự chán chường niềm tủi hổ ...Của một người dâng trọn đời trai vì  lý tưởng vào bưng làm cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị độc tài , thoát đời sống nô nệ của đế quốc Mỹ .. thế mà giờ đây bị đối xử không công bằng
Nhất là những ngày sau đó khi trở về miền Nam thì không phải chỉ mình cang là đau đớn cảm nhận sự bất công ê chề như thế , mà tất cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , từ trên xuống dưới hầu như bị quên lãng ...Từ từ tan hàng trong tủi hổ uất hận
Bởi những người này sau khi về sum họp với gia đình , thì thấy bị xa cách , bởi hai cuộc sống hoàn toàn trái ngược , và tư tưởng thì còn nguy hiểm hơn nữa bởi người dân sống phóng khoáng tự do đã quen ...Nay phải sống với những người từ rừng sâu trở về thành phố ,lạc hậu đến mấy chục năm ...Chỉ còn tình thân máu mủ ruột thịt mới chấp nhận họ chứ xóm giềng đều khinh rẻ ngăn cách
Sau khi Cang đi ...Út Lành biết mình bị lừa thêm một lần nữa ...Tuy nhiên Út Lành vẫn sẵn sàng tha thứ nếu Cang biết sửa đổi mà trở về với tình yêu chân chính với con tim nóng bỏng như thuở nào dưới chân đụn rơm của quê hương ngày xưa thanh bình
Nhưng Cang cảm thấy tủi hổ và chắn chường của một con người bị xã hội ngược đãi ... Nên Cang đâm ra rượu chè be bét để giải sầu tìm quên , mà say sưa như thế thì được bao lâu , nay anh mai tôi , đến lúc cũng cạn kiệt ,Bởi thế Cang sống cuộc sống rất đau khổ như kẻ không nhà ...Nay say ngủ chân cầu mai say ngủ cuối chợ
Thế mới biết những kẻ bị lừa gạt cuộc đời những kẻ bị lầm lạc lý tưởng đã đau khổ đến chừng nào ...
Ba năm sau , khi Cương được thả ra từ Trại tù cải tạo , Cương trở về tỉnh , sống chung với Mẹ , trái với Cang Cương còn được bà con xóm giềng thương xót ,là một kẻ thua trận ...Tuy thế Cương cảm thấy không thể sống với những con mắt của công an , của chính quyền địa phương lúc nào cũng rình rập coi Cương như kẻ thù địch ...Cương cũng không dám nhận lòng thuơng xót của láng giềng ...
Bởi vậy Cương gom góp tất cả gia tài của Mẹ ...Tổ chức một chuyến vượt biên ...
Những lần Út Lành đi thăm nuôi con trong tù , Út lành đã tâm sự và cho Cương biết Cang chính là Cha ruột của Cương , nghe tin này Cương bàng hoàng , đau xót , buồn thay cho  một quê hương chiến tranh tương tàn , đưa đến cha con bắn giét lẫn nhau , làm thế nào mà để đến độ cha con đứng ỡ hai đầu chiến tuyến …Khi ra tù Cương có vài lần tìm gặp Cang , khuyên Cang bỏ cuộc sống bê tha như hiện tại mà quay về làm lại cuộc đời với Mẹ và Con nhưng Cang  hình như đã bị loài sâu rượu khống chế , hoàn toàn không còn khả năng tự vệ chỉ còn chạy theo phục vụ cho rượu như ngày xưa đã lầm lỡ , bỏ Út lành trốn vào bưng , tưởng là phục vụ lý tưởng , có ai ngờ đó chỉ là cái cứu cánh để an ủi những kẻ trốn chạy …Như bây giờ tưởng lấy rượu giải sầu , thì ngược lại càng sầu thêm và tự hủy họai cuộc đời
Không thuyết phục được Cang , Cương đành bí mật dẫn mẹ xuống thuyền vượt biên ra nước ngoài
Với con thuyền mong manh , vượt biển thoát được  cơn nguy hiểm đúng là trời phù hộ , Hai Mẹ co Út lành đến đệ tam quốc gia tạm cư , những ngày đầu làm quen với xã hội mới , với bao nhiêu vất vả và nhọc nhằn ...Út Lành lao đầu đi làm việc ở những tiệm ăn , lãnh thêm hàng về nhà may vào buổi tối , để lấy tiền cho Cương trở lại trường học ...
Trong những ngày này Cương vẫn biết Mẹ hay nhận được thơ của Cang , có lần Cương mở ra coi thử , từ đầu tới cuối , trong thư chỉ là tả oán cảnh nghèo túng thiếu rồi xin giúp đỡ...
Và Út Lành cũng lén con đi gửi tiền dành dụm được về để giúp Cang , Cương biết nhưng không phản đối Mẹ , vì nghĩ rằng Mẹ giúp Ba cũng là điều nên làm , mặc dù ngày xưa Ba đã đối xử với Mẹ quá tệ
Rồi hôm nghe tin Cang mất Út Lành cũng tức tốc mua vé máy bay về lo đám táng cho Cang " Nghĩa tử là nghĩa tận "
Sau sáu năm miệt mài với trường lớp  , trời thương Cang cũng đã tốt nghiệp và có công việc làm tốt , lúc này Út Lành mới bớt công việc , để có thể hưởng nhàn
Ngồi nghĩ lại quãng đời đã qua , quả thật quá nhiều gian truân vất vả , cuộc chiến phi lý đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng ...Chết bằng cách này hay chết bằng cách khác họ đã giải phóng cuộc đời cho nhau , đã lấy mất sự sống để không còn biết khổ đau ...và với bao nhiêu năm Thống nhất đất nước họ đã làm cho miền Nam từ phồn vinh giả tạo , trở thành nghèo đói tụt hậu như Miền bắc , ai giải phóng ai đây

                           HẾT
Kahat


Kahat thân,
Cô đã say sưa đọc bài của em sáng sớm khi vừa thức dậy.  Truyện ngắn mà dài và hấp dẫn quá.
À em coi lại đoạn cuối, hình như viết lộn Cương thành Cang, vì Cương đi học và tốt nghiệp, còn Cang thì đã chết rồi.
Cô chờ xem những truyện kế tiếp của em.
Cô Ngọc Mai
Back to top
 
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3583
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #150 - 27. Aug 2013 , 17:39
 
Vu Ngoc Mai wrote on 27. Aug 2013 , 16:55:
Kahat thân,
Cô đã say sưa đọc bài của em sáng sớm khi vừa thức dậy.  Truyện ngắn mà dài và hấp dẫn quá.
À em coi lại đoạn cuối, hình như viết lộn Cương thành Cang, vì Cương đi học và tốt nghiệp, còn Cang thì đã chết rồi.
Cô chờ xem những truyện kế tiếp của em.
Cô Ngọc Mai


Rất cám ơn Cô em đã sửa rồi
Kính
Kahat
Back to top
 
 
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11589
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #151 - 21. Sep 2015 , 16:34
 


Về-đi-đi-về


...


Trước đây, trong một bài viết trên Talawas, tôi đã từng bàn về chuyện “về” của một người chưa có dịp về. “Về” như một khái niệm. Lần này, tôi nói chuyện “về”. Như một câu chuyện. Vì về thật. Trước đây, tôi mang cái tâm tưởng về. Lần này, tôi mang thân xác tôi về. Về, trong một cảm giác bồn chồn ray rứt, đi. Đi Việt Nam. Trên chuyến bay dài hai mươi mấy tiếng đồng hồ, tôi lửng lơ trong tâm trạng của một chuyến đi vào vùng đất lạ, hiểm trở và chông gai.


...


Sài Gòn đây rồi! Đông và chật. Không thấy đường, chỉ thấy người. Và khẩu hiệu. Và bảng quảng cáo. Và tiếng xe nổ. Và nắng. Và xa lạ. Tôi nhìn Sài Gòn qua một màn sương mờ đục của ngày tháng cũ. Những thân quen chồng lên những lạ lẫm. Những cũ pha đầy những mới. Muốn hình dung tên mới của một con đường, phải hỏi cho ra tên cũ. Tôi trôi dạt giữa một Sài Gòn khác. Khác với Sài Gòn của tôi.
 
Sài Gòn Sài Gòn cơn biển động
Đàn cá lao nhanh mọi tuyến đường
Sài Gòn hối hả trời sắp sập
Cuống cuồng như thể mới bị thương
Sài Gòn lái xe rất tài năng
lách, lạn, vọt, vượt, rú, chen, băng
Sài Gòn đêm ngày dồn dập nổ
Quành, quẹo, tuôn, lao, chạy khẩn trương
Sài Gòn bây giờ không tóc tai
Không đùi không tay không mặt người
Tất tả tới lùi rất đồng dạng
Bơi giữa Sài Gòn, tôi lạc tôi
Sài Gòn Sài Gòn lạ lẫm nhau
Sài Gòn Sài Gòn bất chấp nhau
Sài Gòn inh tai còi thúc hối
Giành nhau những khoảng hẹp tan mau
Sài Gòn ban ngày không trời xanh
Sài Gòn đêm về mất ánh trăng
Sài Gòn chật ních. Không khe hở
Khoảng trống nào tôi tới để dìu em!
Em bên kia đường hồi hộp đợi
Tôi lội qua giòng xe nghênh ngang
Nhảy phóc lên lề hồn thất tán
Bần thần quên mất cả tên em
(TDN)

...


Rời Sài Gòn ra Huế. Chuyến bay đáp xuống phi trường Phú Bài buổi tối. Đến Huế cũng đã khuya. Lấy phòng, tắm rửa xong là vội vàng gọi tắc xi về thăm nhà. Nửa đêm. Gõ cửa như gõ vào một dĩ vãng. Nghe kẻ đi xa về, mọi người thức dậy. Nhà bà con quanh quanh cũng dậy. Nào o, nào chị, nào cháu. Cháu đâu thật nhiều: cháu lớn, cháu nhỏ, cháu bên anh, cháu bên chị, cháu bên dì, cháu bên o, cháu bên chú và có cả con của cháu. Một thế hệ mới ra đời, hồn nhiên lớn lên, nghe thưa nghe chào chóng cả mặt, chẳng biết rõ đưa nào ra đứa nào. Trong cái ồn ào cháu chắc, ngậm ngùi thắp nhang, nhìn ảnh ba người đã ra đi: mẹ và hai người chú. Vĩnh viễn đi. Những cũ âm thầm mất. Những mới lao xao đến.

Về nhà!

Chạm vào đâu cũng thấy mình ngày cũ. Sờ vào cây khế già trước sân, một bầy keo sà xuống, kêu inh ỏi. Gõ vào cột nhà, thấy đèn khuya, bút mực và những đêm học bài. Gõ vào cửa sổ, thấy mẹ ngồi đăm chiêu đắm đuối nỗi nhọc nhằn nuôi nấng. Ra vườn, nghe tiếng vạt sành, tiếng dế, sợ hãi những con ễnh ương hót vào cổ. Đêm về, nhớ những con ma: ma rà, ma le, ma trơi, ma trứng lộn, ma Mậu Thân.

Thành phố rộng và đông. Mọi đường đã thành phố. Người và xe và cửa hàng và sạp bán. Tất cả mọi con đường hầu như đặc kín các cửa hàng lớn nhỏ, tiệm ăn, quán cà phê. Các tên tiệm nghe khá vui, nhất là tiệm cà phê. Thông thường thì “Vườn cau”, “Sông xanh”, “Sầu đông”, nghiêm túc thì “Cát đằng”, “Thủy tinh”. Văn vẻ thì “Khoảnh khắc”, “Góc hẹp”, “Cũng đành”, “Vườn tình”, “Thưởng nguyệt”. Văn vẻ hơn: “Đời nghiêng”, “Giọt đắng”, “Góc trời”, “Chốn này”, “Giọt buồn” và …“Chợt nhớ”. Có đến mấy “Chợt nhớ”: “Chợt nhớ 1”, “Chợt nhớ 2”, “Chợt nhớ 3”. Ngộ nghĩnh: “Cây si”, “Nhứt Huế”, “Lang bạt”, “Rất Huế”, “Cơm nguội” và…”Lu” (với cái lu để trước quán). Hấp dẫn thì “Nhất dạ đế vương”, một tiệm ăn.

Sáng, cà phê. Chiều chưa về, đã nhậu. Chiều về, càng nhậu. Dường như cả thành phố ăn nhậu. Chạy xe đường Trịnh Công Sơn dọc theo bờ sông Hương, phải thắng gấp nhiều lần vì được mấy chủ nhân sai đàn em ra chận ngang giữa đường mời vào quán nhậu. Nghiệm ra rằng cái thế giới trịnh công sơn ngày nào đã hoàn toàn biến mất. Mưa e chẳng còn “bay bay”, mùa thu e chẳng còn biết “đi”; “lá thu mưa” e chẳng thèm “rơi mòn gót nhỏ”…Đâu rồi cái êm ả, lặng lẽ, âm thầm, kín đáo, e ấp. Huế ơi!

tôi trở về một chỗ
được gọi là quê hương
tôi lạc tôi đâu đó
như một gã đi hoang
từ đường khoe mái mới
chạnh bước lối mòn xưa
cây khế già lẩm cẩm
rụng mấy chiếc vu vơ
nửa đêm choàng thức giấc
đứng ngó ra vườn trăng
ai níu tàu lá chuối
thoáng động bóng ma quen
tới viếng thăm thằng đính
móm mém vết đời đau
tạt ngang nhà nguyệt hạ
nắng úa đẫm hàng cau
bụi tre vườn thằng lợi
lên một cửa hàng ăn
ghé góc lều thằng thụ
ôm vai lão bạn buồn
dăm đứa ngồi cụng chén
ấm lạnh cuộc hơn thua
mềm môi nhìn ngoái lại
bên song tiếng gió lùa
quê hương là vết cắn
bầm tím lớp da đời
quê hương là dấu hỏi
ném vào mỗi cuộc chơi
quê hương là ẩn ngữ
đánh đố nỗi hoài mong
về! đất trời xao xác
lạ lẫm như chưa từng
chiều lên nghe gió chướng
thổi buốt trái tim câm
nội thành tôi, ai gọi
hơi hụt giữa trời không
(TDN)


Về. Rồi lại đi.

Sau hàng chục tiếng trên máy bay, khi đáp xuống phi trường Houston, tôi cảm thấy mình vừa về nhà. Và  yên tâm. Ô hay! Sao lại về? Sao lại nhà?  Tôi đã chẳng vừa về thăm nhà ở Việt Nam sao!
đi
về
về
Rốt cuộc, tôi treo tôi giữa hai sợi đi/về.
Lơ lửng.


Back to top
 

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
Pages: 1 
Send Topic In ra