Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - TÀI LIỆU LỊCH SỬ  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra
TÀI LIỆU LỊCH SỬ (Read 8975 times)
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
TÀI LIỆU LỊCH SỬ
14. Jun 2006 , 23:08
 
   Thể theo lời dề nghị của chị Mỹ, tôi sẻ gửi dến Diển Dàn các bài vở mà tôi dã sưu tập dược, có liên quan VAN HỌC SỮ VN, TRONG HUYỀN SỮ , CỔ SỮ VÀ LỊCH SỮ CẬN
DAI, dể các bạn có thể cùng tham khảo và trao dổi cho qua ngày doạn tháng,
                         
                   LE DUC THO HNC 60
Back to top
« Last Edit: 14. Jul 2006 , 16:49 by admin »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
THIỀN TÔNG VÀ KINH DỊCH
Reply #1 - 16. Jun 2006 , 05:23
 
  XIN GƯI CÁC BẠN  BÀI VIẾT CỦA THẦY TUỆ SỸ VỀ CÔNG ÁNG
THIỀN TÔNG :


              Tánh không luận là gì ?

    Tuệ Sỹ



(I)
(martin HEIDEGGER, Aus der Erfahrung des Denkens)
Có thể vay mượn những lời như vậy để khởi đầu cho sự chờ đợi tiếng vọng đáp ứng của những gì đó đang ẩn mình trong bóng tối. Những lời được vay mượn ấy không nhất thiết phải là đồng thanh với những cái sắp đáp ứng. Sự tựu thành của những cái đáp ứng này sẽ không xuất hiện trong những tiếng động náo nhiệt. Đây là sự tựu thành của một cơn mưa như thác lũ, khi con bướm mùa hè đã chịu khép lại đôi cánh mỏng để lắng nghe trong thầm lặng hơi thở của cỏ nội. Chờ đợi; kiên trì và dừng lại trong sụ bế tắc của một thời chỉ có ánh sáng vĩnh cửu của mặt trời. Kiên trì và dừng lại để chờ đợi trong sự bế tắc là liều lĩnh thác mình cho một cuộc chơi ngoạn mục của thiên diễn, là liều lĩnh đứng lại giữa lòng thác đổ của vạn hữu. Đó là một thái độ bướng bĩnh, không chịu tiệm tiến từng bước vững chắc như những đợt nhảy của con chim hồng: nhảy bên bờ nước, nhảy đến tảng đá, nhảy trên đất cạn, nhảy lên cành cây, nhảy lên gò cao và cuối cùng bay trong thương khung để lông cánh làm đẹp cho bậu trời.(1) Chờ đợi trong sự bế tắc là những bước thụt lùi của con chim hồng, từ trên cành cây rơi trở xuống đất cạn(2). Từ trên cành cây rơi trở xuống đất cạn để chập chững như cưu mang một cái gì đó có vẻ ngược ngạo; đó là sự tiến tới bằng những bước thụt lùi, bởi vì thuận theo sự bế tắc. (3)  
Mượn một kinh nghiệm tư tưởng để nói về một kinh nghiệm tư tưởng, đó là một sự vay mượn nghịch lý ngang ngược; vay mượn đã là một điều bất khả, mà nói về lại cũng là điều bất khả. Bất khả cho nên bế tắc. Bế tắc cho nên không tìm thấy một lối trung chính để vào tư tưởng(4).  
Như thế là đã khởi đầu bằng một sự bất chính. Đằng sau sự bất chính này không có che dấu một ẩn nghĩa nào hết để biện minh cho nó. Nhưng, Tánh Không luận là gì? "Khi con bướm mùa hè dừng lại trên đóa hoa, khép lại đôi cánh, và đong đưa theo cơn gió của cỏ nội hoa ngàn…"  
 
 
(II)  
Im Denken Wird jeglich Ding einsam und langsam. (M. HEIDEGGER)
Từ khi Nagàrjuna (Long Thọ) xuất hiện ở miền Nam Aᮍ độ, đến nay đã 18 thế kỷ qua, và suốt một vòng cung ba phần tư của toàn bộ Á châu, Tánh Không luận (Sùnyavàda) đã trở thành một thứ khí giới vô cùng sắc bén được trang bị cho một nền triết lý chuyên môn phá hoại. Với những kẻ chống đối nó, phá hoại là phá hoại. Nhưng những kẻ tán thưởng nó thì nói phá hoại tức là thiết lập. Với cả蠨ai, phá hoại là điều đáng sợ và nên tránh. Chính thực, Nagàrjuna đã cố ý binh vực cho một chân lý nào bằng khí giới Tánh Không luận? Người ta đã từng nghĩ, chính Tánh Không (Sùnyatà) là chân ly đó. Bởi vì鬠người ta có thể tìm thấy, với bằng chứng vô cùng xác thực của văn nghĩa, rằng chính Nagàrjuna đã coi phương tiện và cứu cánh là một. Nói cách khác, chính chân lý của Tánh Không tự bảo vệ lấy nó, tự binh vực cho chính nó, không một cái gì khác.
Những học giả hiện đại chuyên môn về Tánh Không luận với những đại biểu có thẩm quyền như T. R. V. MURTI, Ed. CONZE, J. MAY, và có thể kể thêm những vị ở ngoài lãnh vực chuyên môn này nhưng cũng được coi như là có thẩm quyền như STCHERBATSKY, J.TAKAKUSU, vân vân, đều đồng thanh công nhận Tánh Không luận như là Biện chứng pháp (dialectique). Những người đi sau, bám chặc vào danh từ này – Biện chứng pháp – để hiểu Tánh Không luận. Đó quả là một sự vay mượn vô cùng thận trọng. Người ta đã tìm được cho Tánh Không luận một sự đồng thanh tương ứng. Như vậy là "Nghìn tầm gởi bóng tùng quân,(5) tuyết sương che chở cho thân cát đằng".  
Ed. Conze nói đến sự táo bạo của những hiền triết Đông phương là tư tưởng bằng mâu thuẫn. Bởi vì, chính luật mâu thuẫn cho phép người ta nói: phương tiện là cứu cánh, cứu cánh là phương tiện. Phá hủy trong phương tiện, nhưng lại là thiết lập trong cứu cánh. Phá hủy và thiết lập là mộ. Như thế hình như mâu thuẫn đối chọi với đồng nhất. Đây là lý lẽ mà ngươi ta hay dựa vào đó để phân biệt tính cách dị biệt của tư tưởng Đông phương và tư tưởng Tây phương. Người ta thường lý luận theo một tiêu thức điển hình nhất như sau: với Tây phương, ce qui est est, ce qui n'est pas n'est pas (của Parménid), đó là tư tưởng trên nguyên tắc đồng nhất; với Đông phương thì, Đạo khả đạo phi thường Đạo, danh khả danh phi thường danh (của Lão Tử), đó là tư tưởng trên nguyên tắc mâu thuẫn. Bởi vì, nguyên tắc mâu thuẫn như thế là dung nạp tất cả mọi tương phản, tất cả mọi cái không phải là nó, cho nên người ta nghĩ nếu công nhận rằng Đông phương luôn luôn tư t7ởng trên nguyên tắc này thì tư tưởng Đông phương lúc nào cũng có thể dung nạp được tư tưởng Tây phương với tất cả nhũng dị biệt của chính nó. Và ngược lại; vì nguyên tắc đồng nhất không dung nạp những tương phản. Nguyên tắc đồng nhất đưa đến chỗ đòi hỏi sự nghiêm xác của khái niệm. MerleauPonty: "Có cái gì đó không thể thay thế trong tư tưởng Tây phương: (…) sự nghiêm xác của khái niệm,…"(6)  
Hình như chúng ta vừa đưa ra một tràng, ngắn, những lý luận có vẻ rất mạch lạc. Nếu nói cho chí lý, thì kiểu lý luận này là điều tối kỵ của các nhà Tánh Không luận, kể từ Aryadeva, xuống Buddhapalita, qua Bhavaviveka cho đến Candrakìrti (những truyền nhân của Nagàrjuna). Nhưng nói vậy cũng không được. Vì đó cũng chỉ một cách nói áp dụng luật mâu thuẫn một cách mạch lạc. Như vậy, chính mâu thuẫn đã phối trí thành một trật tự mạch lạc để cho mâu thuẫn là mâu thuẫn. Tức là, mâu thuẫn chỉ được thừa nhận như là mâu thuẫn thực sự khi người ta có thể tìm được mạch lạc của nó trong một trật tự nào đó. Bởi vì, nếu không có sự mạhc lạc giữa hững mâu thuẫn và không mâu thuẫn, làm thế nào ta nhận biết đó là mâu thuẫn?  
Vậy thì, Tánh Không luận là gì? "trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô liêu và lững thững."  
 
 
(III)
Những vay mượn đã không thể tránh và những thành kiến nặng như chì cũng chưa thể từ bỏ được. "Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới nhỏ này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ nơi đây."(7) Người học về Tánh Không cũng như kẻ học bắt rắn bằng hai tay không.  
Nagàrjuna là ai?  
Những thiên tài lớn đều xuất hiện trong cơn thịnh nộ. Héraclite trong bình minh của Hy lạp với cơn thịnh nộ như những ngọn lửa tàn bạo; ông đã muốn tống cổ Homère ra khỏi những cuộc chơi chung bởi vì lời cầu nguyện của Homère muốn cho mối bất hòa giữa các thần linh và loài người hãy chấm dứt. Zarathoustra xuống núi,cùng với sự xuất hiện của Siêu nhân, sau khi đã nổi cơn thịnh nộ với mặt trời. Những con sâu con ngủ suốt cả một nùa đông để chờ đợi hững tiếng sấm đầu tiên của tiết kinh trập thánh hai. Nhưng, "Một khi sinh ra, họ muốn sống để rồi chịu đựng sự chết, hay để rồi đi tìm sự yên nghỉ. Và họ để lại những con cháu cùng chia xẻ số phận như vậy." (Héraclite) Những con sâu con chỉ trở mình trong giấc ngủ triền miên, còn phải đợi bao giờ cỏ cây nứt vỏ sau tiếng sấm của kinh trập rồi mới trổi dậy: giải chi thời đại hỉ tai! "Thiên địa giải nhi lôi vũ tác. Lôi vũ tác nhi bách quả thảo mộc giai giáp tích. Giải chi thời đại hỉ tai!" (quẻ Lôi Thủy Giải, Kinh Dịch).  
Nagàrjuna xuất hiện như một con voi dữ trong truyền thống Phật học và tư tưởng triết học Aᮠđộ. Đương thời, đối với các nhà hiền triết Aᮬ Nagàrjuna được xếp vào hàng những tư tưởng gia Phật học lỗi lạc bậc nhất. Nhưng ngay trong hàng ngũ này. Nagàrjuna lại được kính trọng như một tên phá hoại đáng sợ. Người sợ đầu tiên có lẽ chính cao đệ của ông là Aryadeva. Ngay trong tên gọi đã có sự trái ngược. Cái tên Nagàrjuna ám chỉ cho một thứ rắn dữ. Bởi vì Nagà có nghĩa là rắn dữ. Nhưng Aryadeva lại hàm ý là một thiên thần thánh thiện. Hai thầy trò này, một con khủng long và một vị thiên thần, phải chăng là hai nếp gấp tư tưởng: Huyền chi hựu huyền.  
Nhiều huyền thoại đã được dựng lên chứng tỏ rằng đã có nhiều phép lạ hiện ra để hạ bớt thái độ ngông cuồng của Nagàrjuna, khi ông quyết định bỏ cả núi cao, cả rừng rậm và cả đất liền để xuống biển cư ngụ cùng loại rắn dữ(8) . Như vậy người ta mới có đủ lý do để xác nhận rằng ông quả là một tư tưởng gia Phật học khi ông chịu nghe theo lời khuyến cáo của vua rắn mà trở lại đất liền. O⮧ quả thực là một tư tưởng gia Phật học chính thống. – bởi vì chính thống cũng hảm ý là ngoan ngoãn mặc dù lối xử sự của ông đôi khi có vẻ ngược ngạo.  
Từ lúc mà Nagàrjuna trở lại đất liền, nhiều vấn đề trong truyền thống Phật học và nền minh triết AᮠĐộ được đặt lại: Tánh Không luận là gì?  
Dường như có một sự lửng lơ và bất khả nào đó; lửng lơ như chính đời sống và bất khả như chính tư tưởng, Nagàrjuna từ sương mù của bình minh và nắng quái.  
Yathà màyà tathà svapno gandharva-nagaram yathà tathospàda tathà sthànam tathà bhanga udàhritah.  
Như quáng nắng, như giấc mộng, như thành phố giữa sa mạc: tất cả sự hiện khởi, tồn tục và biến mất đều như vậy.(9)  
(IV)
Trong Đại tạng kinh Trung hoa, được ấn hành dưới sự điều khiển của J. TAKAKUSU, một học giả Phật học người Nhật, có một tác phẩm dứt đoạn mang tựa đề là Lão tử hóa Hồ kinh, được xếp vào loại những tác phẩm ở bên ngoài Phật học (Ngoại giáo bộ, DTK. 2139; tập 54; tr. 1266 và tiếp). Tác phẩm đứt đoạn này nói Lão tử cưỡi trâu bỏ xứ Trung hoa đi về phía Tây bắc và giao hóa cho những giống dân man di ở phương này. Môn đệ lớn nhất của ông là Thích ca. Đó là một sự lửng lơ của huyền sử và cũng là một điều bất khả của tư tưởng. Nhưng, mười thế kỷ sau, một người vì kính trọng Nagàrjuna mà phải từ bỏ quê hương của mình để sang cư ngụ và chết ở Trung hoa. Đó là Kumarajiva. Cái tên này lại ám chỉ cho sự trường thọ của trẻ thơ.(10) Có lẽ Nagàrjuna hóa thân làm Lão Tử tại đất Tàu để nói cho một phân nữa Á châu nghe lại cái diệu chỉ "huyền chi hựu huyền" trong câu hỏi "Tánh Không Luận là gì?"  
Và như thế, trước câu hỏi "Tánh Không luận là gì?", nhưng vay mượn đã không dễ gì tránh khỏi và những thành kiến cũng chưa dễ gì từ bỏ được:  
"Cũng ví như một người đánh cá lành nghề hay người học đánh cá vung lưới trên mặt hồ nước nhỏ này với một tấm lưới có mắc lưới sít sao. Người ấy nghĩ: Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ nơi đây."  
Đó là những lời kết luận của kinhBrahmajàla-sutta. Và kinh chấm dứt như thế này:  
Imasmim ca pana veyyàkaranasmim bhannamane sahasi loka-dhàtu akampitthàti. "Trong khi kinh này được truyền thuyết, một ngàn thế giới đều rung động,"  
 
 
Chú thích
1) Thứ tự của sáu hào trong quẻ Phong Sơn Tiệm của Kinh Dịch: sơ lục, hồng tiệm vu can; lục nhị, hồng tiệm vu bàn; cửu tam, hồng tiệm vu lục; lục tứ, hồng tiệm vu mộc; cửu ngũ, hồng tiệm vu lăng; thượng cửu, hồng tiệm vu quì.  
2 ) Hào cửu tam và hào lục tứ của quẻ Phong Sơn Tiệm đảo ngược thành hào lục tam và cửu tứ của Thiên Địa Bĩ. 3 ) Quẻ Thiên Địa Bĩ: lục tam, bao tu; cửu tứ, hữu mệnh.  
4 ) Quẻ Thiên Địa Bĩ: Bĩ chi phỉ nhân (…) Thiên địa bất giao nhi vạn bất thông dã.  
5 ) Và đây cũng là một đồng thanh tương ứng: "Đời vốn như thế. Ban đầu vào cuộc sống, chúng ta giàu, giàu nhiều, giàu nữa; trong bao năm, chúng ta trồng cây tỉa hột, nhưng gnày tháng trôi, năm sầu lại: thời gian phá vỡ mất công trình; cây rừng bị chặt; bạn hữu từng người rơi rụng xuống. Bóng tùng quân nghìn tầm xiêu đổ, cái con người trơ trụi sẽ còn nghe rõ trong hoang liêu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất." (Saint-Exupéry, Cõi Người Ta, Bùi Giáng dịch).  
6 ) "II y a quelque chose irremplacable dans la pensée occidentale: (…), la rigueur du concept,…" (MP. Signes, Gallimard, p. 174)  
7 ) Trường bộ kinh, kinh phạm võng (Brahmajàle. Sutt); T.T. Minh Châu dịch.  
8 ) Viết phỏng theo "Long Thọ Bồ Tát truyện" của Kumarajiva D.T.K. 2047; tập 50, tr. 184 và tiếp.  
9 ) Nagàrjuna, Madhyamika – Kàrikà, VII, 34.  
10 ) Đồng Thọ, cũng mường t7ợng như chữ Lão Tử.
Back to top
« Last Edit: 13. Jul 2006 , 08:59 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
SÀI GÒN MUÔN THUỞ
Reply #2 - 19. Jun 2006 , 06:06
 
http://nguyentl.free.fr/autrefois/sud/saigon1/saigon_theatre2.jpg


Hôm nay xin được mượn ý cuả bài viết SÀI GÒN MUÔN THUỞ , để gởi đến tặng các bạn , cho tất cả những ai lưu hương viển xứ, lưu lạc, sau bao nhiều năm xa cách quê nhà,  

                  LÊ ĐỨC THỌ HNC 60



Sài Gòn Muôn Thuở
Tuy không phải là người sinh trưởng ở Sài Gòn nhưng tôi đã cư ngụ lâu năm tại thành phố này. Không bao lâu sau khi di chuyển vào Sài Gòn, tôi đã thích nghi được với cuộc sống rộn rã nơi đây và đã biết hòa hợp với những người xung quanh. Về sau, mến cảnh mến người, tôi không còn nghĩ đến chuyện dời đi đâu nữa, ngay đến chuyện về quê dưỡng già khi đến tuổi hưu trí cũng không còn tơ tưởng đến. Tôi tự cho mình là dân Sài Gòn, vui buồn với vui buồn của người Sài Gòn và cùng nhau chia sẻ những ưu tư hay hy vo.ng. Khi Sài Gòn mất tên và bị buộc phải mang tên của một kẻ chưa từng có liên hệ hoặc công lao gì với thành phố này thì, cũng như những người khác từng yêu mến Sài Gòn, tôi không khỏi cảm thấy phẫn uất và xót xa về sự tước đoạt này. Thật ra, danh xưng Sài Gòn tuy bị khai tử nhưng Sài Gòn vẫn sống trong tâm khảm của mọi người; hai chữ "Sài Gòn" vẫn thường được nhắc đến môt cách tự nhiên và công khai lúc chuyện trò, được kẻ trên các bảng hiệu và đề cập đến trong thư từ trao đổi giữa bạn bè và nhữngSài Gòn mà chúng ta thường nhớ đến là nơi mà dân chúng được sống tự do, hạnh phúc trong quang cảnh náo nhiệt của một thị thành vừa là một chốn phồn hoa đô hội vừa là một giang cảng rộn rịp tàu bè tứ xứ. Chứ không phải là cái Sài Gòn tiêu điều, xơ xác nơi đó người dân luôn luôn phấp phỏng lo sợ cho an ninh bản thân và gia đình mình suốt hơn mười năm sau ngày "giải phóng". Cũng không phải là Sài Gòn sau "Đổi Mới" khi mà người dân đươc "tự do làm ăn" nhưng không có "tự do làm người" như giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã viết trong cuốn Hẹn Thắp Lên (1). người thân thuộc, còn tên mới chỉ được sử dụng để  
           Một chút lịch sử.
Trước khi gợi lại một vài nét đặc thù, dễ mến trong cuộc sống của người dân Sài Gòn thời đó, tưởng cũng nên nhắc lại tí chút về nguồn gốc và ý nghĩa của hai chữ Sài Gòn. Đã có nhiều học giả Việt cũng như ngoại quốc nghiên cứu về vấn đề này: chẳng hạn, Việt có các ông Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, Lê Văn Phát, Vương Hồng Sển … Pháp thì có các ông Louis Malleret, Etienne Aymonier, Maurice Verdeille… mỗi vị đưa ra một giả thuyết. Tóm lại, có ba thuyết chính:
1. Thuyết của các ông Trương Vĩnh Ký: Sài Gòn do tiếng Khmer Prei Kor mà ra và có nghĩa là củi gòn      
2. Thuyết của ông Louis Malleret: Sài Gòn do tiếng Tây Ngòn, tức là Tây Cống phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tức là: cống phẩm của các vua Cao miên dâng lên vua Việt ,theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tức là: cống phẩm của các vua Cao miên dâng lên vua Việt Nam);  

3. Thuyết của ông Vương Hồng Sển: Sài Gòn do tiếng Thầy Nguồn tức là Đề Ngạn phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao trên có đê ngăn nước (đây là cái bờ gạch cao xây dọc theo kinh Tàu Hủ ở Chợ Lớn)
      Theo cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thì tuy ba thuyết trên đây cái nào nghe cũng có cái lý của nó, nhưng không có cái nào có thể làm cho chúng ta thật thỏa mãn. Theo ông, có lẽ các tác giả của những giả thuyết trên đây không để ý đến cách đặt địa danh tại Nam Kỳ của người Việt bình dân đời xưa; đó là hoặc phiên âm một địa danh Khmer rồi "bỏ dấu" cho thành tiếng Việt, hoặc dịch nghĩa một địa danh Khmer sẵn có. Khi triều đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh thì tiếng Hán Việt được sử dụng để đặt địa danh hoặc dịch môt tên nôm đã có của người bình dân. Mặt khác, các cụ ngày xưa không bao giờ ghép một tiếng Hán Việt như chữ Sài (củi) với một tiếng nôm là Gòn. Bằng vào một số sử liệu, giáo sư Huy đã sử dụng ý kiến của ông Lê Văn Phát theo đó người Thái gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cái Ngon tức là Rừng Chổi Cây Gòn để cho rằng tên Sài Gòn là do ông bà ta phiên âm từ tiếng Thài Cai Ngon và "bỏ dấu" theo giọng Việt như thông lệ. Tuy nhiên, giải đáp của giáo sư Huy lại vấp phải nghi vấn là vùng đất đó nguyên là đất Chân Lạp vậy mọi địa danh phải dùng tiếng Khmer mới phải, cớ sao lại có chữ Thái lọt vào đây. Thành thử, lai lịch của hai chữ Sài Gòn vẫn chưa được xác định rõ ràng. Tuy vậy, có một điều có thể xác định được là vùng đất xưa có tên Sài Gòn chính là vùng Chợ Lớn ngày nay và Sài Gòn bây giờ lại là Bến Nghé (Ngưu Chữ) ngày xưa. Theo lịch sử của cuộc Nam Tiến, vào năm 1620, nhân chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là công chúa Ngọc Vạn cho vua Cao Miên Chey Chetta II thì đến năm 1623 vua Cao Miên nhượng lại cho Việt Nam thêm một dinh điền ở Mô Xoài gần Bà Rịa ngày nay và thuận để chúa Nguyễn đặt những cơ sở thu thuế tại vùng Sài Gòn, Chợ Lớn ngày nay; lúc đó vùng này dân cư thưa thớt và chưa có mua bán gì nhiều. Người Việt chỉ di cư nhiều vào Nam Kỳ kể từ năm 1680 khi có lực lượng của ông Trần Thượng Xuyên đóng thường trực ở đó để bảo vệ cho họ. Nhưng mãi tới năm 1788 vùng này mới trở thành một nơi buôn bán sầm uất với khối người Hoa kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố (Biên Hòa) bị quân Tây Sơn phá hủy. Vào hậu bán thế kỷ 19, Sài Gòn bắt đầu thực hiện công cuộc thành-thi.-hóa (urbaniser) và đến thế kỷ 20 đã trở thành một đô thị lớn nhất nhì ở Đông Nam A, nổi danh là "Hòn Ngọc Viễn Đông".
Một văn hóa bình dân.
Theo lời một nhà khảo cứu về thành phố Sài Gòn thì hầu hết dân Sài Gòn đều thích sinh hoạt ở đường phố, nhất là trên lề đường, ngày cũng như đêm, trong lúc giữa đường xe cộ đủ loại, nào xe đạp, xe mô-tô, xe xích-lô, nào xe ngựa, xe hơi đủ kiểu qua lại không ngừng, ào ào như thác đổ. Đôi lúc, đèn xanh đèn đỏ ở các ngã ba, ngã tư bị mất điện, người đi băng qua đường vào những lúc đó thường gây trở ngại không ít cho sự lưu thông, nhất là khi người đó cứ xăm xăm đi tới, xe chạy mặc xe, nên thỉnh thoảng cũng có lúc xe húc phải người gây ít nhiều thương tích hoặc những vụ đấu khẩu kịch liệt giữa đôi bên. Để đề phòng tai nạn, tòa đô sảnh Sài Gòn đã thiết lập một cầu chui (overpass) dành cho người đi bộ ở phía trước chợ Bến Thành nhưng rất ít người bộ hành chịu đi qua cầu, hoặc vì vội vàng hoặc vì không muốn mất công hay thì giờ qua cầu, thành ra tiện ích này trở nên vô dụng. Rút cục cầu đã được tháo gỡ và có lẽ được mang đi bán đổ bán tháo cho những người buôn sắt vụn ở Chợ Lớn.
Sự ẩm thực của người Sài Gòn.
Khác với Hà Nội hay Huế, Sài Gòn có rất ít người bán hàng rong dọc đường. Người bán hàng phần đông đã có nơi làm ăn riêng mà họ đã chọn và được phép sử dụng; tiền thuế phải trả sẽ rất phải chăng nếu người bán hàng tỏ ra "biết điều" đối với nhân viên thu thuế; họ bày hàng trên một cái bàn nhỏ hoặc một miếng ván kê trên hai ngựa gỗ hoặc xếp trong những rổ, rá đặt trên tấm bạt hay vải nhựa trải ngay trên lề đường.  

Với bản chất giản dị và cởi mở, nóng tính nhưng rộng rãi, người Sài Gòn rất thích ăn những món ăn bình dân được bày ê hề ở góc phố hoặc ngay trên lề đường. Họ không còn nhớ đến những câu châm ngôn cổ truyền khuyên chúng ta nên ăn uống như thế nào để có thể bảo vệ sức khỏe của mình. Chẳng hạn, có những câu bình dân như
Cơm với cá như mạ với con (mạ=mẹ)
hoặc văn vẻ, bóng bẩy hơn
Bệnh tòng khẩu nhập
Ắn uống (không điều độ) dễ sinh bệnh tật
Ghi chú : Châm ngôn này có hai về; vế thứ hai `Họa tòng khẩu xuất' đại ý nói về sự việc được gọi là "vạ miệng"]
hoặc là một bài thơ ngắn, dễ nhớ
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh nhất trản trà
Mỗi nhật cứ như thử
Lương y bất đáo gia


Nửa khuya ba chén rươu
Sáng sớm một tách trà
Mỗi ngày cứ như thế
Thầy thuốc không lại nhà)

Đối với họ, những gì giúp làm cho ta vui sống là quan trọng hơn hết, thế cho nên những thức ăn hợp khẩu vị cần cho họ hơn là món ăn bổ dưỡng. Chữ "nhậu" (có lẽ do hai chữ "ẩm tửu", phát âm theo tiếng Quảng Đông là "dâ.m/nhậm chẩu", rút gọn lại) trở thành khẩu hiệu ẩm thực của những người thích nhắm rượu với thức ăn khoái khẩu, đến độ quên luôn cả buổi ăn thường nhật.  
Cụ Nguyễn Khuyến ngày xưa uống rượu phải có bạn tri âm đối ẩm, không có bạn không thiết gì đến rượu:
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Dân "nhậu" ngày nay cũng cần có "bạn rượu" nhưng không nhất thiết phải là bạn tri âm. Mỗi khi nghe hàng quán nào có rượu ngon, đồ nhắm tốt là rủ nhau dăm ba người tìm đến để chén chú chén anh và trò chuyện cho thỏa thích. Người Sài Gòn, giống như những người Nam khác, vốn không thích tù túng; họ thường ngồi ngoài trời mà đánh chén, trên mình vỏn vẹn chiếc áo may-ô và cái quần cụt (quần đùi) nếu gặp thời tiết nóng nực. Ngồi trên chiếc ghế đẩu trong tư thế thoải mái, họ bắt đầu nhập tiệc; không khí quanh bàn rượu mỗi lúc mỗi náo nhiệt hơn với những câu chuyện hài hước hay giật gân mà mọi người tranh nhau kể, xen lẫn với những tiếng "dô"và "uống đi" vô cùng hào hứng. Khi mỗi người đã "dô" chừng nửa tá bia BGI hay gần cả tá bia 33 là đã đến giai đoạn in vino veritas (tửu nhập ngôn xuất): một trong các tửu đồ, đột nhiên có ý nghĩ mình không thua kém gì các tài tử cải lương, bèn cất cao giọng hát mấy câu vọng cổ, tay chân múa may xem chiều rối loạn. Trước cảnh đó, điều cần thiết là phải có một bạn nhậu, ít say hơn, tình nguyện dìu anh tửu đồ quá chén đưa về nhà an toàn, đồng thời tránh con mắt tò mò của những người hàng xóm lắm chuyện..
Để được thưởng thức những món ngon vật lạ thường được nghe nhiều người tán dương, họ không tiếc công tìm tòi khắp các chợ, các quán xa gần. Như vậy, thế nào các vị đệ tử Lưu Linh cũng sẽ "mò" đến Ngã Tư Quốc Tế, gần đường Bùi Viện cũ, để có cơ hội nhắm nhí những món lạ như môi cá tràu (cá lóc, cá quả), má cá trê, gan cá bống. Họ cũng sẽ qua miệt Nhà Bè, vào các nhà hàng nổi ở ngã ba sông Sài Gòn và sông Đồng Nai, để nhắm rượu với món đuông; con đuông thường sống ở cổ hũ (cổ, chỗ bạnh ra chứa mầm non của buồng trái) cây dừa nước hay cây chà là; trước khi chiên xào, phải ngâm đuông trong nước mắm mới đúng điệu. Hoặc họ đến phía sau chợ Tân Định nếm gỏi cá, một đặc sản miền Bắc đã được du nhập vào Nam theo bước chân của những người Bắc di cư sau ngày ký kết Hiệp Định Genève 1954. Khi nào muốn nhậu đồ biển tươi, họ sẽ tìm đến Cột Cờ Thủ Ngữ (ngày trước, người Pháp gọi là Pointe des Blagueurs) hay đến Tân Thuận (Pointe des Flâneurs); ở đó, họ sẽ được ăn những con sò, con hào tươi rói, những con cua và tôm càng mới lấy trong bồn nước ra đem nuớng than củi. Đối với những người ít tiền, họ không vì thế mà nhịn uống rượu. Lúc hứng, họ vẫn có thể say sưa với một đĩa thịt bò khô, mấy khô mực nướng, một ít tôm khô củ kiệu hay cùng lắm, một đĩa đậu phụng (lạc)  
   Những bà, những cô đi xe hơi có tài xế lái, ví như muốn ăn những món quà ngon có tiếng của bà Ba Bủng thì phải xuống xe "lội bộ" như những người khác vào bên trong chợ Bến Thành để thưởng thức tô (bát) bún riêu nóng hổi, nêm nấu vừa miệng, kèm rau ăn ghém và thỉnh thoảng, nếu cần, gọi thêm chút chanh ớt hay tí nước dùng (nước lèo); và nếu cảm thấy bụng vẫn còn lỏng lẻo thì gọi thêm món bún thịt nướng thơm lừng ăn không biết chán. Sau những bữa điểm tâm kiêm ăn trưa (brunch) như vậy, hai bên đều hài lòng và hẹn nhau tái ngộ.  


Trẻ con ít thích ăn những món ăn của người lớn, chúng thường xin tiền cha mẹ mua bánh kẹo nhưng đôi lúc, chúng cũng mua những quà chúng ưa thích như ốc gạo, ốc hương. Tụi nhỏ thường chụm năm chụm ba ở một góc đường hay một gốc cây, hí hoáy dùng gai bưởi moi mấy con ốc - ốc sông hay biển tùy mùa - ăn một cách ngon lành; đây là những con ốc đã được luộc chín với lá tía tô nhằm đề phòng chứng mề đay do các động vật nhuyễn thể (ốc, sò, mực) gây ra.Ngoài những thức ăn cần phải nấu nướng, còn có vô số trái cây đủ loại để ăn ngoài bữa ăn, ăn tráng miệng, nấu chè, làm mứt và thức uống. Sài Gòn là thủ phủ của một vùng đất được thiên nhiên ưu dãi, đất đai màu mỡ, cây ăn trái sai quả, rau đậu tươi tốt sum suê. Ta chỉ cần đến Chợ Cầu Ông Lãnh là có thể ý niệm được số lượng rau quả mà Lục Tỉnh cung cấp cho Sài Gòn: dưa hấu, dừa, mít, sầu riêng (tùy mùa), cam, quít, vải, bưởi bòng, măng cụt, vú sữa, chôm chôm… chất lên như núi hoặc xếp trong hàng trăm cần xé. Đó là chưa kể số lượng khổng lồ rau đậu, thịt heo thịt bò, cá, tôm, gà vịt… cần thiết cho các cửa hàng ăn, các quán ăn và những nơi bán thức ăn bình dân. Mà Chợ Cầu Ong Lãnh chỉ là một trong bao nhiêu chợ cỡ lớn, cỡ nhỏ rải rác khắp vùng Sài Gòn-Chợ Lớn.phải chỉ có đàn ông mới thích món ăn bình dân. Các bà, các cô cũng thường đến viếng những chỗ bán món ăn đó và không ngần ngại ngồi vào chiếc ghế đẩu hay, đôi khi, ngồi xổm ngay trên lề đường bên cạnh người bán hàng để thưởng thức những món ăn họ ưa thích. Việc ăn uống ở đường phố biểu lộ tính cách bình đẳng trong việc đối xử giữa khách hàng với nhau và cung cách tiếp khách của người bán hàng: khách ngồi, đứng cạnh nhau, không phân biệt sang hèn, già trẻ và đều được người bán hàng phục vụ tận tình như nhau. Những bà, những cô đi xe hơi có tài xế lái, ví như muốn ăn những món quà ngon có tiếng của bà Ba Bủng thì phải xuống xe "lội bộ" như những người khác vào bên trong chợ Bến Thành để thưởng thức tô (bát) bún riêu nóng hổi, nêm nấu vừa miệng, kèm rau ăn ghém và thỉnh thoảng, nếu cần, gọi thêm chút chanh ớt hay tí nước dùng (nước lèo); và nếu cảm thấy bụng vẫn còn lỏng lẻo thì gọi thêm món bún thịt nướng thơm lừng ăn không biết chán. Sau những bữa điểm tâm kiêm ăn trưa (brunch) như vậy, hai bên đều hài lòng và hẹn nhau tái ngộ. Trẻ con ít thích ăn những món ăn của người lớn, chúng thường xin tiền cha mẹ mua bánh kẹo nhưng đôi lúc, chúng cũng mua những quà chúng ưa thích như ốc gạo, ốc hương. Tụi nhỏ thường chụm năm chụm ba ở một góc đường hay một gốc cây, hí hoáy dùng gai bưởi moi mấy con ốc - ốc sông hay biển tùy mùa - ăn một cách ngon lành; đây là những con ốc đã được luộc chín với lá tía tô nhằm đề phòng chứng mề đay do các động vật nhuyễn thể (ốc, sò, mực) gây ra.
Ngoài những thức ăn cần phải nấu nướng, còn có vô số trái cây đủ loại để ăn ngoài bữa ăn, ăn tráng miệng, nấu chè, làm mứt và thức uống. Sài Gòn là thủ phủ của một vùng đất được thiên nhiên ưu dãi, đất đai màu mỡ, cây ăn trái sai quả, rau đậu tươi tốt sum suê. Ta chỉ cần đến Chợ Cầu Ông Lãnh là có thể ý niệm được số lượng rau quả mà Lục Tỉnh cung cấp cho Sài Gòn: dưa hấu, dừa, mít, sầu riêng (tùy mùa), cam, quít, vải, bưởi bòng, măng cụt, vú sữa, chôm chôm… chất lên như núi hoặc xếp trong hàng trăm cần xé. Đó là chưa kể số lượng khổng lồ rau đậu, thịt heo thịt bò, cá, tôm, gà vịt… cần thiết cho các cửa hàng ăn, các quán ăn và những nơi bán thức ăn bình dân. Mà Chợ Cầu Ong Lãnh chỉ là một trong bao nhiêu chợ cỡ lớn, cỡ nhỏ rải rác khắp vùng Sài Gòn-Chợ Lớn. Cuộc sống tự do, vô tư lự của người Sài Gòn ưa tìm vui thích trong việc phục vụ thần khẩu cứ thế diễn ra trên khắp các phố phưòng, trong các đường nhỏ, từ sáng đến khuya với hai cao điểm là buổi chiều vào lúc tan sở và sáng sớm tinh sương vào lúc đa số dân thành phố bắt đầu thức giấc.
Buổi chiều vào lúc các công, tư sở, các xí nghiệp, nhà máy, công trường… hết giờ làm việc, hàng nghìn thầy thợ đổ xô nhau đến các quán, các quầy rượu đề "làm" một vài cốc bia khai vị trước khi trở về nhà ăn cơm tối. Đôi khi, vui anh vui em, giờ khai vị trở thành một tiệc vui thực sự, với sự tham dự của nhiều bằng hữu và nếu "khổ chủ" không đủ tiền thanh toán thì chỉ đến "biên bông" cuối tháng trả là cùng! Khổ nỗi, phiếu tính tiền của chủ quán thường khi lại vượt quá dự liệu chi tiêu trong gia đình. Nhưng không hề chi! Với tính dễ dãi và hào phóng của người Sài Gòn, thế nào rồi cũng có một Mạnh Thường Quân trong số các thân hữu giúp  
  ( Còn tiếp )


Back to top
« Last Edit: 13. Jul 2006 , 09:00 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
SÀI GÒN MUÔN THUỞ
Reply #3 - 19. Jun 2006 , 06:14
 
đỡ gỡ rối cho. Vào sáng sớm tinh sương, dân đi làm lục đục thức dậy. Vào thời còn Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, giờ đó cũng là giờ các sòng bạc đóng cửa để nghỉ ngơi; hàng nghìn con bạc, vừa mệt vừa đói, túa ra đường tìm cái ăn cho đỡ đói và hồi phục sức khoẻ hầu thử thời vận phen nữa trong canh bạc đêm tới. Sau khi Đại Thế Giới bị cấm hoạt động, trong số người ăn điểm tâm ngoài đường vào sáng sớm tuy không còn những con bạc ở Chợ Lớn nhưng trên toàn vùng Sài Gòn-Chợ Lớn thì lại có thêm số người Bắc di cư; họ phần lớn là những người lao động phải đến sở làm đúng giờ nên cần ăn vội ăn vàng, nhưng phải ăn cái gì thật bổ dưỡng cho có đủ sức để còn phải lo làm việc suốt một ngày dài. Phần đông hoặc ăn hủ tiếu hoặc phở, một số nhỏ chọn mì nước. Hủ tiếu (nguồn gốc danh từ này là "quả điều" phát âm theo tiếng Quảng Đông là "cổ thiều") nguyên là món ăn của người Hoa được "Miên hóa" thành hủ tiếu Nam Vang và "Việt hóa" thành hủ tiếu Mỹ Tho. Phở trước gọi là "Phở Bắc" vì du nhập từ miền Bắc vào, sau được gọi ngắn là phở; từ khi có hơn một triệu người Bắc di cư vào Nam, phở đã chiếm địa vị của hủ tiếu như là món ăn được nhiều người thích ăn hơn. Phở không những là món ăn sáng mà còn được chuộng như món ăn trưa hay ăn khuya sau giờ xem hát cải lương hay chiếu bóng. Phở được bán ở ngoài đường và tại các tiệm phở. Trong các tiệm phở nổi tiếng phải kể đến Phở Hòa, Phở Lý Thái Tổ, Phở Bảy Chín, Phở Tàu Bay Trương Minh Giảng, Phở Gà Hiền Vương….Phở bán ngoài đường cũng chỉ kém phở tiệm đôi chút; được như vậy là vì người bán có một cái xe đẩy trang bị đầy đủ dụng cụ, chén bát, bánh phở, thịt, rau, đồ gia vị v.v... và đặc biệt, một cái nồi súpde để hâm nóng nước dùng. Những người bán hủ tiếu, mì nước…cũng cần có cái xe như vậy. Khách cần ăn trưa hay ăn tối ở ngoài đường mà không muốn ăn phở, hủ tiếu, mì nước thì có thể dùng bò lụi, chạo tôm, nem nướng… bày bán khắp nơi; có những phố chỉ chuyên bày bán những thức đó, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt. Giữa những buổi ăn chính, khách đi đường có thể ghé lại các xe bán chè, bán cháo, nước giải khát để thưởng thức chè sâm-bồ-lường, chi-mã-phù, chè đậu, chè trôi nước…, cháo gà, cháo vịt, cháo lòng…; nước giải khát thì có nước ngọt, nước dừa tươi, nước mía, nước rau má, nước trái cây, v.v… Sài Gòn là một thành phố có nhiều bóng mát nhất vùng nhờ số cây trồng dọc đường và ở những nơi công cộng. Những người bán hàng thường chọn những cây to rợp bóng để làm "đất chiếm hưởng", vừa tiện cho mình vừa tiện cho khách hàng. Ngày trước, vào những thời kỳ kinh tế phồn thịnh, công ăn việc làm không khó tìm, đồng tiền dễ kiếm, người ta cũng thường thấy những người đạp xích-lô gác xe dưới bóng cây để nghỉ trưa, chờ đến lúc mát trời mới lại bắt đầu đạp xe đi kiếm khách. Việc mua bán đồ ăn bình dân dọc đường phố, ngõ hẻm... là những hoạt động kinh tế biên tế (marginal) nhưng rất quan trọng đối với dân Sài Gòn vốn ưa sinh hoạt tự do ngoài trời, giữa những đám đông trong đó không thiếu gì bạn bè hay người quen để cùng nhau trò chuyện hay đối ẩm.
Nhà khảo cứu nói trên, trong một bài viết bằng Pháp ngữ, cho rằng lối sinh hoạt của người dân Sài Gòn biểu hiệu "une culture de rue"hoado "rue" có nghĩa là đường phố; "rue" cũng biểu trưng cho giới bình dân (2). Vậy, thay vì lý giải "une culture de rue" thật sát nghĩa, ta có thể tạm hiểu rằng tác giả muốn nói đến một văn hóa đậm nét bình dân. Sắc thái bình dân cũng thể hiện trong sinh hoạt tâm linh, trong các thú tiêu khiển và cách chữa bệnh của người Sài Gòn. Việc cúng bái, cách giải trí của dân Sà Tại cửa Nam vườn Tao Đàn (xưa gọi là vườn Pờ Rô) có một miếu thờ mà đông đảo các bà, các cô thường đến cúng bái với tất cả lòng thành; trên bàn thờ đặt năm thứ trái cây (ngũ quả) là: "mãng cầu, sung, dừa, đu đủ và xoài"hoado gọi gon lại là: "cầu, sung, dừa, đủ, xoài"hoado đọc trại đôi chút thì thành ra: "cầu xin vừa đủ xài". Vốn tính bình dị và thực tiễn, người Sài Gòn tin có sự cảm thông giữa giới vô hình và người trần thế; họ hi vọng là nếu có lòng thành thần thánh sẽ vui lòng giúp cho miễn là ước mong hay nguyện vọng của họ không quá đáng (ví dụ: "cầu xin vừa đủ xài"). Cũng với cung cách này, họ đến trước bàn thờ tổ tiên thắp hương và thành khẩn khấn vái cầu xin ông bà độ trì cho con cháu mỗi khi họ gặp khó khăn không khắc phục được.
Dân chúng Sài Gòn nói riêng và dân chúng miền Nam nói chung là một bộ phận của nhân dân Việt Nam thành hình trong cuộc Nam Tiến, trong thời gian khoảng bốn thế kỷ qua, và như thế được coi là tương đối mới so với nhân dân miền Bắc và miền Trung. Thành phần trước tiên gồm có số dân, phần đông sống ở lãnh địa các chúa Nguyễn, đã di cư từ miền Trung vào những vùng đất của Chiêm Thành và Chân Lạp bị ta chiếm đóng hoặc được nhượng lại; họ là những người có chí mạo hiểm, không sợ gian khổ và lam sơn chướng khí. Họ đã khai hoang, lập ấp và biến những vùng hoang vu, bùn lầy hay khô cằn thành vùng đất đai màu mỡ. Con cháu của những người khai phá này đã thừa huởng những đức tính của tổ tiên như tính quả cảm, cần cù và khả năng thích ứng với môi trường mới. Trong thời gian định cư ở đất mới, họ đã đồng hóa hoặc chung sống hòa bình với các sắc dân Sai Gòn – Phép trị bệnh cổ truyền địa phương gồm dân Chàm, Miên v.v... và với người Hoa, người Ấn… và nhờ đó đã tạo thành một tập hợp dân chúng đa dạng, năng động và đầy sinh lực trong đó dân Việt dĩ nhiên là thành phần tiền phong và tháo vát hơn hết. Trong sự tiếp xúc giữa nhiều sắc dân có văn hóa khác nhau, mỗi sắc dân có lối tế tự riêng của mình, kết quả là có rất nhiều am miếu, đền đài với lễ nghi cúng bái khác nhau. Dọc theo vài con đường phụ, hiện còn những cái am nhỏ thờ những vị thần vô danh hay đã bị quên lãng, giống như trường hợp những bình vôi đặt ở gốc những cây đa cổ thụ trong các làng miền Bắc; đó là vết tích của những nơi thờ phụng xưa mà những người tế tự nay không còn hoặc đã thiên cư tới nơi khác.
Hai tôn giáo lớn được thành lập vào tiền bán thế kỷ 20 ở Miền Nam là Cao Đài giáo và Phật giáo Hòa Hảo. Tín đồ phần đông là người Nam, phần nhiều là người bình dân ở các tỉnh mà người trí thức ở thành thị cũng không ít.
Cao Đài giáo - cũng gọi là Đại đạo Tam kỳ phổ độ - là một tôn giáo ra đời ở Việt Nam từ năm 1926 do một nhóm trí thức ở Sài Gòn nhân thường cầu cơ nên được tiếp xúc nhiều với các Tiên Thánh mà lập ra nên không có Giáo chủ. Đạo có tính chất Đại đồng, lấy Tam Giáo quy nguyên (3 tôn giáo lớn ở Á Đông là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo đồng quy về nguồn gốc là cái Lý duy nhất bổn sơ) và Ngũ chi phục nhất (Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo đều trở về cái Lý duy nhật bổn sơ) làm tiêu ngữ. Đạo thờ đấng Chí tôn là Huyền khung Cao Thượng đế Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn (tức Trời), lấy "CON MẮT" tiêu biểu sự sáng suốt của đấng Chí tôn và dùng Cơ bút để lãnh ý đấng Chí tôn cùng các Tiên Thánh trong việc hành đa.o. Đạo chia nhiều phái và có chi phái khắp Việt Nam; hai phái lớn nhất có thánh thất ở Tây Ninh và Bến Tre (theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức).
Vị giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo danh xưng là Huỳnh Phú Sổ; sinh tại làng Hòa Hảo, tổng An Lạc, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Theo sách của Đạo, từ nhỏ Ngài là một người bệnh hoạn, luôn luôn đau yếu nên không theo đuổi việc học quá ban tiểu học; nhưng một hôm có một đạo từ quang chiếu vào mình Ngài, làm cho Ngài bất tỉnh, khi tỉnh ra thì hoàn toàn biến đổi từ thể xác đến tinh thần. Đứng ra làm thầy trị bệnh với nước lã, giấy báo, dây chuối, dây bố v.v... mà bệnh nào cũng lành; thêm có óc thông minh khác thường, quán thông vạn vật. Được tôn xưng là Phật Sống, Ngài bắt đầu truyền đạo ngày 18 tháng 5 năm kỷ mão (1939) thu hút rất nhiều tín đồ ở Hậu Giang và mất vào cuối năm Ất Dậu (1945). Khác với đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo không chuộng lễ lạc huy hoàng và phức tạp; trái lại, chủ trương trở về với bản chất đơn thuần và tinh khiết của Phật giáo nguyên thủy bằng việc tụng niệm, tham thiền và chay ti.nh. Đạo không xây cất chùa chiền, tăng chúng không phân định đẳng cấp.
Các tín đồ Cao Đài, Hòa Hảo sống hiền hòa, chỉ lo cúng bái, cầu nguyện cho quốc thái dân an, cầu xin phước trạch cho gia đình, cho xóm giềng. Những bài kinh cầu nguyện của họ nghe như bài vè, bình dị và chất phác. Các địa phận Cao Đài, Hòa Hảo là những nơi yên ổn, người dân chăm lo làm ăn, cuộc sống thật an bình.
Trong số những người bình dân, cũng có những người theo đạo Phật hay Thiên Chúa giáo; những người này vẫn đến chùa và nhà thờ vào những ngày lễ của tôn giáo mình như những phật tử và con chiên thuộc các giới khác.
Song song vời sự sinh hoạt tâm linh ấy, có rất nhiều trò vui, nhiều trò giải tri diễn ra thường xuyên ở những địa điểm khác nhau, khi thì bên vệ đường, khi tại một công viên. Các trò vui hay trò giải trí đem lại những trận cười, những giờ phút thoải mái sau những ngày làm việc mệt nhọc; các trò chơi khác phần nhiều có ăn thua bằng tiền; nhưng cái đó không hề chi; nếu có thua thì cũng có ăn; ngoài ra, thỉnh thoảng cũng cần có chút ít cảm xúc mạnh như hồi hộp khi chờ đợi, phấn chấn khi được, thất vọng khi thua, đó là những điều làm cho cuộc đời bớt tẻ nha.t. Vả lại, muốn ăn thua to thì phải vào các sòng bạc (casino) hoặc đến tư gia hay dinh thự của các ông lớn, bà lớn; còn bài bạc ngoài đường chỉ có ăn thua nhỏ mà thôi. Những trò chơi có đánh cuộc như trò chọi cá thia thia hay chọi (đá) gà chẳng hạn, được khá đông người tham dự người lớn có, trẻ con có; địa điểm được chọn thường là một con đường nhỏ trong một khu dân cư xá trung tâm thành phố hoặc một chỗ thoáng, dưới bóng cây, với sự chấp thuận mặc nhiên của cảnh sát. Một trò chơi khác, diễn ra ở lề đường, là trò bầu cua cá cọp; trẻ con rất thích; đặc biệt, các học sinh sau khi tan trường thường ghé lại đánh chơi. Cách chơi dụng xảo thì có bài ba con (ba lá); đây là lối cờ bạc do một người cái cầm ba lá bài cào, tráo qua tráo lại một vài lần rồi úp xuống cho người chơi đặt tiền; người chơi ít khi nào ăn mà phần lớn là thua sạch túi vì người cái dùng xảo thuật gạt người chơi với sự tiếp tay của người a tòng. Nói cho đúng, cũng có bài bạc thật sự ngoài các sòng bạc và môn cờ bạc được nhiều người biết đến là chơi đề. Cách chơi là dùng trí đoán con bài mà nhà cái sẽ xổ ra để đặt tiền. Có loại đề 12 con, đề 36 con và đề 40 con. Đây là môn cờ bạc do người Hoa bày ra và hầu như người Sài Gòn nào cũng thích chơi vì tiền chung lớn gấp bội tiền đặt; ví dụ như với đề 36 con, người trúng đề sẽ được chung một số tiền Ngoài những trò chơi trên, có một trò chơi khác kín đáo hơn, không dùng đến lá bài, và người chơi phần lớn là các bà. Đó là chơi hụi: mươi, mười hai người họp nhau đóng hằng kỳ (thường thường là mỗi tháng) một số tiền cho người chịu trách nhiệm (người cái) để người này trao lại cho người đã bắt thăm trúng hoặc đã bỏ thăm tình nguyện chịu lời cao hơn hết. Nhìn từ một góc độ khác, chơi hụi không phải là đánh bạc có ăn thua mà thường thường chỉ là một cách để có được một số tiền lớn hầu dùng vào việc cần như làm vốn buôn bán chẳng hạn. Tại các làng ngoài Bắc, nhóm người chơi họ để gây vốn được gọi là hội tư cấp.
Mỗi khi Tết đến lại có hội hè và nhiều trò giải trí khác, như múa lân, đốt pháo, v.v… Các tiệm ăn, quán nhậu không ngớt thực khách ra vào; các rạp chiếu bóng, rạp hát đông nghẹt người xem. Những ngày trước Tết là thời gian rất nhộn nhịp; chợ búa đầy ứ thịt thà, gà vịt, trái cây đủ loại, người mua tha hồ mà chọn lựa, phố xá náo nhiệt hẳn lên do sự hiện diện đông đảo của những người đi sắm Tết. Khu chợ hoa dọc đại lộ Nguyễn Huệ là cả một rừng hoa, nổi bật nhất là hoa mai (3), hay hoàng mai, cánh vàng rực rỡ; đó là chưa kể hàng trăm cây quất, cây cảnh, cây bonsai, những hòn non bộ. Người đến ngắm hoa chen chúc với người mua hoa. Mua gì thì mua nhưng cũng phải có một đôi cành mai trưng bày ở phòng khách nhà mới có không khí Tết và nếu có thêm một vài giò thủy tiên thì lại càng tốt. lớn bằng 30 lần tiền đặt
Ngoài những trò chơi trên, có một trò chơi khác kín đáo hơn, không dùng đến lá bài, và người chơi phần lớn là các bà. Đó là chơi hụi: mươi, mười hai người họp nhau đóng hằng kỳ (thường thường là mỗi tháng) một số tiền cho người chịu trách nhiệm (người cái) để người này trao lại cho người đã bắt thăm trúng hoặc đã bỏ thăm tình nguyện chịu lời cao hơn hết. Nhìn từ một góc độ khác, chơi hụi không phải là đánh bạc có ăn thua mà thường thường chỉ là một cách để có được một số tiền lớn hầu dùng vào việc cần như làm vốn buôn bán chẳng hạn. Tại các làng ngoài Bắc, nhóm người chơi họ để gây vốn được gọi là hội tư cấp.
Mỗi khi Tết đến lại có hội hè và nhiều trò giải trí khác, như múa lân, đốt pháo, v.v… Các tiệm ăn, quán nhậu không ngớt thực khách ra vào; các rạp chiếu bóng, rạp hát đông nghẹt người xem. Những ngày trước Tết là thời gian rất nhộn nhịp; chợ búa đầy ứ thịt thà, gà vịt, trái cây đủ loại, người mua tha hồ mà chọn lựa, phố xá náo nhiệt hẳn lên do sự hiện diện đông đảo của những người đi sắm Tết. Khu chợ hoa dọc đại lộ Nguyễn Huệ là cả một rừng hoa, nổi bật nhất là hoa mai (3), hay hoàng mai, cánh vàng rực rỡ; đó là chưa kể hàng trăm cây quất, cây cảnh, cây bonsai, những hòn non bộ. Người đến ngắm hoa chen chúc với người mua hoa. Mua gì thì mua nhưng cũng phải có một đôi cành mai trưng bày ở phòng khách nhà mới có không khí Tết và nếu có thêm một vài giò thủ Một địa điểm được nhiều người thường đến thăm viếng là Lăng Ông, nơi để mộ và cất điện thờ Tả Quân Lê Văn Duyê.t. Đây là nơi tập trung của các thầy lang chuyên trị liệu bằng phương pháp cổ truyền như bầu giác, chích lể, cạo gió, đấm bóp. Nơi đây còn có những bà thầy bói bài, xem chỉ tay, những ông thầy đoán số tử vi, xem tướng tay, chiết
tự, bói sách…lại cũng có những thầy mà tài năng cao siêu đến độ bảo với người xem bói, chắc nịch như đinh dong
Số cô không giàu thì nghèo,
Sinh con đầu lòng không gái thì trai"inh đóng cột, những câu đại khái như:y tiên thì lại càng tốt.
Trong khi đó trong điện thờ, các bà các cô đến trước bàn thờ đức Tả Quân thắp hương khấn vái rất thành khẩn trước khi xin xăm gia đạo, số mệnh hay thời vận.
Đến đây, sau nhiều cố gắng nhằm gợi lại hình ảnh của Sài Gòn ngày trước, tôi vẫn do dự, không muốn nói dứt khoát "Sài Gòn của chúng ta là thế đó". Bởi vì tôi thấy vẫn chưa nói được lý do tại sao Sài Gòn lại chiếm một vị trí đặc biệt trong tâm hồn của chúng ta. Phải chăng vì ở đó chúng ta đã có một cuộc sống thoải mái, dư dật? Chắc là không phải vì, ngoại trừ một thiểu số, chúng ta phần đông đều "lương ba cọc ba đồng", phải "thắt lưng buộc bụng" mới khỏi nợ nần; đó là chưa kể một số quân nhân trong chúng ta phải chiến đấu ở mặt trận, trải qua bao nhiêu gian khổ nhưng không bao giờ phàn nàn vì ý thức được chúng ta có bổn phận bảo vệ mảnh đất tự do còn lại của đất nước. Hay, phải chăng chúng ta được tự do ăn nói, đi lại, tự do cư trú, v.v…? Thì tại nơi nào ở Miền Nam, chúng ta đều có những quyền đó chứ không riêng gì ở Sài Gòn. Hay là vì khí hậu ở Sài Gòn ôn hòa hơn các nơi khác, ban ngày dù nóng nực đến bao nhiêu ban đêm vẫn mát mẻ, dễ chịu? Hoặc là vì Sài Gòn có thể cung cấp đầy đủ những gì đáp ứng được nhu cầu vật chất và tinh thần của chúng ta? Hay là vì ở Sài Gòn chúng ta có nhiều bạn bè, người thân luôn luôn gần gũi chúng ta để chia sẻ vui buồn cùng chúng ta, an ủi chúng ta khi sa cơ lỡ vận, khuyên can khi chúng ta ngã lòng và có ý định buông xuôi? Quả có thế thật. Thế thì hãy thêm vào đó thái độ hiếu khách, thân thiện, dễ dãi của người dân Sài Gòn đối với những người từ miền Bắc hay miền Trung. đến định cư tại Sài Gòn. Ngoại trừ chuyện người Sài Gòn gọi đùa người Bắc là "dân rau muống" và người Bắc "trả đũa" bằng cách gọi dân Sài Gòn là "dân giá sống", nhưng vì cả hai bên đều không có ác ý, không kỳ thị nên tuyệt nhiên không có sự chia rẽ Nam Bắc và hàng trăm nghìn người Bắc, người Trung đã thích ứng dễ dàng với cuộc sống ở nơi mà họ coi là quê hương thứ hai của họ. Có thể là tất cả các yếu tố đó hợp lại đã làm cho chúng ta coi Sài Gòn như một người thân, khi gặp mặt thì tay bắt mặt mừng khi xa cách thì mong ngóng nhớ nhung. Ngoài ra, nếu có yếu tố vô hình sắc hay tế nhị nào khác nữa thì đó là một điều ngoài cảm nhận của tôi.

                Sài Gòn sau "Giải Phóng" và "Đổi Mới"
Sài Gòn sau ngày "giải phóng"
Hầu hết chúng ta, ngoại trừ những bạn có may mắn ra đi vào ngày 30.4.75 hoặc trước hay ngay sau ngày đó, đã lưu lại Việt Nam một thời gian và chứng kiến
những gì xảy ra cho dân chúng và thành phố Sài Gòn, thế nên chúng ta không cần phải nói dài dòng về những chuyện đau lòng đó. Điểm thứ nhất cần nhớ lại là ngay sau ngày 30.4.75 chế độ quân quản đã được áp dụng cho toàn miền Nam; ai cũng biết là chế độ quân quản là chế độ áp dụng cho một nước thù địch bị chiến bại; nói khác đi, Hà Nội coi miền Nam như kẻ thù, nhưng đã trắng trợn tuyên bố là miền Nam đã được giải phóng. Thật là khôi hài! Để giữ tính cách khách quan, hãy nghe một người cộng sản đã phản tỉnh là Bùi Tín viết về trò hề này: "30 năm trước, miền Nam được giải phóng ư? Đó chỉ là hiện tượng hời hợt bên ngoài; thật ra, sau khi đảng CS áp dụng các chính sách cải tạo sĩ quan, viên chức, các đảng phái chính trị miền Nam, thật ra là bỏ tù họ không xét xử, rồi cải tạo thương nghiệp, bắt đi kinh tế mới, phân biệt đối xử đối với gia đình 'ngụy quân, ngụy quyền', tạo nên hàng triệu `thuyền nhân', đày đọa đồng bào nửa nước trong cảnh lầm than cơ cực, thì phải nói thật ra đó là sự chiếm đóng tàn ác nhất! Danh từ giải phóng trở nên mỉa mai, trâng tráo, vô liêm sỉ. Những người Việt Nam lương thiện, biết tự trọng, trung thực với chính mình - kể cả những người CS có lương tâm trong sáng - không thể không nhận ra sự thực ấỵ"
Chắc hẳn chúng ta hãy còn nhớ nỗi kinh hoàng của dân chúng Sài Gòn, không khí ảm đạm bao trùm cả thành phố trong những ngày tàn của miền Nam tự do. Những tin dồn dập về các thắng lợi "bất chiến tự nhiên thành" của quân đội miền Bắc, về cuộc tiến quân nhanh chóng của họ mỗi ngày mỗi gần thủ đô làm cho dân Sài Gòn hốt hoảng, kẻ thì đưa vợ con về quê lánh nạn, người thì cùng gia đình tìm cách rời khỏi nước mà không biết sẽ đi về đâu, tương lai ra sao, "rủi may âu cũng sự Trời"! Không bao lâu sau là những đợt hàng trăm nghìn người bị buộc tội "mang nợ máu với nhân dân" phải đi "học tập cải tạo"hoado tưởng là đi một vài ba tháng, ai ngờ đi "mút mùa"hoado kẻ thì 2,3 năm, kẻ 5,7, 10, 12 năm, có kẻ không bao giờ trở về. Vợ và đàn con nheo nhóc không biết trông cậy vào ai, sinh sống như thế nào vì trước nay vẫn nhờ vào đồng lương ít ỏi của chồng; các bà vợ phải rút dần rút mòn chút tiền để dành (nếu có) hoặc bán dần đồ đạc, áo quần trong nhà để ăn và vẫn can đảm chịu đựng, vẫn thu vén được chút ít thực phẩm, thuốc men để thỉnh thoảng lặn lội đi thăm nuôi chồng. Con cái có nhiều em phải thôi học để giúp mẹ kiếm thêm chút ít tiền gia dụng hoặc vì bị chúng bạn châm chọc, kỳ thị là con "ngụy". Rồi đến những đợt đánh tư sản, đẩy hàng nghìn người lên vùng kinh tế mới, những đợt đổi tiền - đổi 500 đồng miền Nam lấy 1 đồng tiền Hồ Chí Minh -với mục tiêu giảm khả năng kinh tế trong dân chúng. Trong lúc đó người dân Sài Gòn vẫn tiếp tục "vượt biên" tìm tự do, mãi cho đến đầu thập niên 80 thì các nước tây phương bị nhiễm hội chứng "compassion fatigue" bèn lấy cớ những người đi sau là tỵ nạn kinh tế để từ chối không tiếp nhận thêm người tỵ nạn nữa. Vài năm sau ngày "giải phóng" một số người "học tập cải tạo" được ra tù; vì không tìm được việc làm để nuôi thân và gia đình, họ đành phải làm những công việc lao động chân tay, như đạp xe xích-lô chẳng hạn, mặc dù sức khỏe đã giảm sút đi nhiều. Con cái nhiều đứa đã đến tuổi phải làm nghĩa vụ quân sự: chúng là mục tiêu được chọn, gọi là đi chiến đấu ở biên giới Viê.t-Miên nhưng thật ra là để làm bia đỡ đạn (cannon-fođer); chẳng bao lâu gia đình nhận được tin là con em họ đã "anh dũng hi sinh" tại chiến trường. Cũng trong thời gian đó, những gia đình đi vùng kinh tế mới, để khỏi chết đói, đã trở về thành phố sống lúc nhúc ở vỉa hè hay tại các bãi tha ma mà chính quyền "cách mạng" đành phải thúc thủ không biết xử trí làm thế nào để giải quyết giải quyết cho xong
cho xong.,Dân miền Nam nói chung và dân Sài gòn nói riêng, nhưng cũng là hậu quả của chính sách kinh tế của đảng CS trong thời gian này. Trong giai đoạn đầu (1975-79) những biện pháp như cải tạo công thương nghiệp, trước ở Sài Gòn sau tại cả miền Nam, nhằm đánh tư sản, việc đổi tiền (làm song song với việc đánh tư sản), việc hợp tác hóa nông nghiệp và đưa nông dân tham gia các hợp tác xã nông nghiệp là những biện pháp thất nhân tâm; riêng các biện pháp về nông nhiệp đã bị nông dân chống đối kịch liệt. Kết quả là chính sách kinh tế được thực hiện trong giai đoạn này đã đưa đến một sự suy thoái trầm trọng trong nền kinh tế tại miền Nam. Về nông nghiệp, sản lượng cũng như năng xuất lúa tụt hẳn xuống, nhất là vào những năm 1978-1979, những năm trọng điểm của chính sách tập thể hóa. Về công nghiệp, các sản phẩm tiêu dùng hầu hết tại miền Nam cũng theo nông nghiệp mà đi xuống. Trước tình trạng suy thoái trông thấy của nền kinh tế, và nhất là sau vụ mất mùa năm 1979 khiến cả miền Nam lẫn miền Bắc lâm vào nạn đói, đảng và nhà nước CS bắt buộc phải thực hiện một buớc lùi chiến thuật. Kinh tế suy thoái, thêm với những biến động chính trị bên ngoài (chiến tranh với Cao Miên, xung đột biên giới phía Bắc với Trung Quốc trong những năm 1978 -1979), đã buộc lãnh đạo CSVN phải ngưng các chính sách trói buộc trong nước. Tháng 9 năm 1979, hội nghị trung ương đảng CS đưa ra Nghị Quyết sửa sai gồm có việc công nhận 5 thành phần kinh tế và cho khoán sản phẩm. Đối với nông nghiệp, sự thay đổi quan trọng nhất là việc tạm ngưng tập thể hóa nông nghiệp và cho áp dụng chế độ "khoán hộ".xí nghiệp hợp doanh giữa Hoa Kiều tại Sài Gòn và nhà nước CS, nhờ sự liên hệ giữa Hoa Kiều ở VN với người Hoa ở Hong Kong và Singapore, đã góp phần giải quyết phần nào sự thiếu hụt ngoại tệ. Việc sửa sai đã đem lại kết quả là sản xuất các mặt gia tăng tương đối trong các năm 1979 và 1980; mặt khác, một số xí nghiệp hợp doanh giữa Hoa Kiều tại Sài Gòn và nhà nước CS, nhờ sự liên hệ giữa Hoa Kiều ở VN với người hoaHoa ở Hong Kong và Singapore, đã góp phần giải quyết phần nào sự thiếu hụt ngoại tệ.Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách cởi mở kinh tế trong các năm 1979-1982 chỉ có tính cách giai đoa.n. Mục tiêu chính vẫn là tiếp tục tiến lên xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hóa. Tháng 1 năm 1982, đảng CS ra nghị quyết về việc cải tạo công thương nghiệp tại thành phố Sài Gòn. Chính sách này được thực hiện bằng cách tịch thu hàng loạt các cơ sở nhập cảng của người Hoa kiều; các cơ sở tiểu thủ công nghiệp được "khuyến khích" trở thành hợp tác xã hoặc tổ hợp sản xuất. Hậu quả của chính sách này là một cuộc khủng hoảng kinh tế khác. Đồng thời, CSVN bắt đầu gặp một số khó khăn trong việc xin viện trợ của Liên Xô. Năm 1985, ông Gorbachev lên nắm chức tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô, đưa ra chính sách Glasnost (cởi mở) và Perestroika (tái phối trí). Trong các vấn đề được ông Gorbachev xét lại có cả vấn đề viện trợ cho Việt Nam. Bước vào năm 1986, tình hình kinh tế chính trị tại Việt Nam trở nên nguy ngập: Việt Nam bị dồn vào thế cùng (4).. Sài Gòn sau "Đổi Mới"
"Cùng tắc biến" (5) như trong Kinh Dịch, đó là lối thoát; nhưng "biến tắc thông" thì đến nay vẫn chưa thành hiện thực; giả đò là cách "biến". Tại đại hội 6 của đảng CS vào tháng 12 năm 1986, Nguyễn văn Linh đưa ra chủ trương "đổi mới" và "cải tổ cơ cấu" làm chủ đề cho chính sách kinh tế chính trị; nhưng "đổi mới" không có nghĩa là từ bỏ xã hội chủ nghĩa, từ bỏ chế độ toàn trị. Do đó, khẩu hiệu "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" được dùng làm kim chỉ nam cho chính sách kinh tế mới. Nhóm chữ "định hướng xã hội chủ nghĩa" khiến dư luận hoang mang, có nhiều người tưởng là chính quyền sẽ có chính sách thích ứng về sự phân bố lợi tức hoặc những sản phẩm xã hội không thể điều chỉnh bằng giá, nhưng thật ra chính quyền chỉ có mục đích duy trì khâu xí nghiệp quốc doanh bất chấp nó có hiệu năng kinh tế hay không (6). Vì vậy, cho tới nay những cải cách kinh tế chỉ có tính cách nửa vời và trên thực tế, đã phát sinh ra một nền kinh tế thị trường "hoang dại" trong đó người ta thấy xuất hiện ngày càng đông những kẻ mới phất (nouveaux riches) làm giàu bằng những thủ đoạn phi pháp như tham nhũng, ăn cắp tài sản công, hối lộ, trốn thuế, buôn lậu, v.v… Một cán bộ cộng sản cao cấp đã phải thừa nhân rằng "những thủ đoạn phi kinh tế…làm cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại môi sinh, làm rối loạn xã hội và xâm phạm đạo đức, nhân phẩm con người" (7). Đại đa số những kẻ mới phất nói trên là đảng viên có chức, có quyền; một giai cấp mới, giai cấp tài phiệt đỏ, đã được hình thành. Trong cái nền kinh tế ấy, những vấn đề liên hệ như bảo vệ môi trường, giáo dục, xã hội, v.v…đều bị coi nhẹ; hậu quả là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng, những tệ nạn xã hội như ăn cắp, đĩ điếm, xì ke ma túy… không thể giải trừ được, bệnh AID, HIV lan tràn mà thuốc men, bệnh viện, y sĩ và y tá không đủ để chữa trị. Vì "biến" không "thông" nên hiện nay nước Việt Nam của chúng ta là một trong những nước có thu nhập bình quân thấp nhất châu Á, nạn tham nhũng được thế giới nhận dạng là loại "siêu", được tổ chức Transparency International (Minh bạch Quốc tế) cho là một nước tù mù, dối trá, bất khả tín.
Sài Gòn hiện nay cũng bị nhiễm những thứ "bệnh" như trên, có khi còn nặng hơn các nơi khác. Vì ở đó có nhiều xí nghiệp quốc doanh hơn nên có nhiều nhà tư bản đỏ hơn. Vì Sài Gòn và vùng phụ cận có nhiều nhà máy nên ô nhiễm nặng hơn. Dân đông hơn, mật độ cao hơn nên tệ nạn xã hội trầm trọng hơn. Mà thôi, kể nữa làm gì cho thêm buồn lòng. Có người sẽ bảo: "Tôi vừa đi Sài Gòn về. Đời sống bây giờ thoải mái hơn trước nhiều. Nhà lầu, cao ốc, khách sạn bốn năm sao mọc lên như nấm. Đường sá, phố xá đông nghịt người. Tiệm ăn, quán nhậu chật ních khách ăn. Hội hè quanh năm chẳng phải là dịp để cho dân vui chơi đó sao? Báo chí bên này cứ chỉ trích, chê bai hoài; phải chăng là chúng ta thiếu tinh thần khách quan?" Xin trả lời: "Cuộc sống thoải mái ư? Thoải mái là đối với người có tiền, kể cả những người đem đô la, euro về tiêu xài, còn những người kiếm sống chật vật vẫn là đa số. Tiệm ăn đông khách ư? Ăn nhậu bây giờ là một thú vui hiếm hoi dành cho những người dân may mắn có chút ít tiền dư mà không biết tiêu vào việc gì khác; vả lại chúng ta nên nhớ rằng các nhà độc tài, bắt đầu từ những vị hoàng đế La Mã, đều biết cách ru ngủ quần chúng bằng cách khuyến khích cho họ ăn chơi thỏa thích đặng quên đi những đòi hỏi khác như quyền tự do ăn nói, tự do tín ngưỡng, v.v… Còn nhà lầu, khách sạn sang trọng? Đó là dinh thự của những nhà tư bản đỏ, dân chúng mấy ai có nhiều tiền để xây nhà lầu, biệt thự! Khách sạn năm bảy tầng toàn là dành cho du khách. Hội hè linh đình tất cả đều nhằm mục đích câu khách, người thường dân, nếu được nghĩ đến, cũng chỉ là mục tiêu thứ yếu"
Muốn tìm một lời phê bình khách quan, xin đọc đoạn viết về chợ hoa xuân (chợ triển lãm hoa mùa xuân – xuân Ât Dậu) dưới đây của một người dân Sài Gòn:
"… bây giờ thì dù đi chợ hoa xuân nào cũng chỉ gặpnhững người lạ hoắc, không còn cho được cái cảm giác nào của thời thơ ấu và những phiên chợ Tết ngày xưa được nữa. Nhất là con đường Nguyễn Huệ hôm nay thì xa lạ hẳn đi. Những hàng đèn chạy dài, những dây dợ tua tủa, những bồn hoa được xếp đặt cầu kỳ và có phần máy móc. Phải công nhận là nó đẹp thật, và đẹp nhất là về đêm, nhưng tôi vẫn cứ thấy nó không có hồn. Nó chỉ là một cái áo choàng của thời đại điện tử và người ta cần màu xanh màu đỏ nhấp nháy, quảng bá cho du lịch, quảng bá cho thành phố `rực rỡ hoa đèn' đúng nghĩa chứ nó không có cái hồn của mùa xuân Việt Nam. Những chiếc xích lô chở đầy hoa, những chiếc thuyền nằm im lìm dưới một hàng cây chưa đủ thổi vào đó một tâm hồn đất Việt mà nó chỉ giống như một bức tranh thêu bắt mắt. Dù sao nó cũng được du khách `chiếu cố' như một cái gì lạ mắt và hình như người nào cũng muốn chụp hình với nó để có một chút kỷ niê.m. Làm được như thế cũng là một điểm đáng ghi nhận cho du lịch Việt Nam rồi. Tôi chỉ tiếc là chợ hoa xuân Nguyễn Huệ không còn nữa, cái hồn Tết của Sài Gòn xa xưa cứ ngày một mất đi dần. Có lẽ cái tinh thần `tồn cổ' còn đọng lại quá nhiều trong những con người như tôi chăng?" (8)
Ừ phải! Cái hồn Tết của Sài Gòn mất đi dần. Linh hồn của Sài Gòn mất đi dần. Chỉ còn thể xác, một thể xác điểm trang không hợp khuôn mặt, y phục không xứng khổ người. Muốn cho Sài Gòn sống lại, cần phải phục hồi nếp sống cũ của Sài Gòn, phải trả lại Sài Gòn lại cho dân Sài Gòn, phải trả lại tên Sài Gòn cho Sài Gòn. "Phải trả lại tên Sài Gòn cho Sài Gòn" đó là mục tiêu của cuộc vận động do Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, Quản nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo phận Auckland, Tân Tây Lan khởi xướng (9); cuộc vận động này được rất nhiều đồng bào trong cũng như ngoài nước hưởng ứng và càng lúc càng lan rộng.
Có điều là mọi người đều biết rằng lãnh đạo CSVN vốn rất ngoan cố, đã có những vụ tai tiếng (scandal) rất lớn có thể làm đổ một chính phủ hay cả một chế độ, nhưng họ vẫn ù lì, làm như không hay không biết, chờ cho đến khi gió im sóng lă.ng. Họ không chịu sửa đổi, trừ phi bị dồn vào thế bí. Tuy nhiên, nếu cuộc vận động của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ có hiệu quả của một áp lực đối với CSVN, đó không phải là cái áp lực duy nhất mà họ đang gặp phải; hiện họ còn phải đương đầu với nhiều áp lực, nhiều khó khăn khác và giống như trong thành ngữ "góp gió thành bão", toàn bộ các áp lực đối với đảng CSVN và những khó khăn hiện hữu của họ có thể hợp thành một cơn sóng gió đe dọa chế độ CS với khả năng đẩy chế độ tới hồi kết thúc. Sau đây là những áp lực và khó khăn chính yếu:
Trước nhất, áp lực quốc tế ngày càng mạnh đòi hỏi cải tổ sâu rộng từ căn bản: để được gia nhập WTO, hệ thống luật lệ phải hoàn thiện; các công ty quốc doanh phải giải thể, độc quyền của nhà nước CS trong một số lĩnh vực kinh tế phải được bãi bỏ; đòi hỏi của quốc tề về các vấn đề tự do, dân chủ phải được tôn trọng. Thứ đến, tình trạng chia rẽ nội bộ đã tới mức trầm trọng: các vụ TC2, T4 là thí dụ. Sự chia rẽ, đấu đá nhau trở thành công khai; những tố cáo trong các bài viết, hồi ký… của một số đảng viên cao cấp đã và đang làm cho đầu não đảng CS lung laỵ
Thứ ba, xã hội dân sự (10) đã trưởng thành và đang gây áp lư.c. Rất nhiều nhóm và cá nhân nêu ra những đòi hỏi về dân sinh, dân quyền đòi đảng phải giải quyết. Các vấn đề chiếm đoạt đất đai, hối mại quyền thế, tham nhũng, dâng hiến đất cho ngoại bang…được nêu công khai và đang dồn đảng vào thế bị động. Cả nghìn việc khác, từ việc phải có ngưồn nước sạch để uống, vấn đề môi sinh, buôn bán gái vị thành niên cho tới việc công ty ngoại quốc đánh đập công nhân Việt làm cho đảng lúng túng, tìm cách bào chữa. Tất cả các đòi hỏi từ mọi phía làm cho đảng CS không còn các nào khac, Sau hết nhưng không kém quan trọng, giai cấp trung lưu đã xuất hiện với tiếng nói có trọng lực. Các thành viên của giai cấp đó thoát thai từ đảng CS; họ dựa vào gốc đảng để bảo vể quyền lợi và tài sản của họ. Chính họ lại quay ra chống lại đảng.Với thời gian, giai cấp trung lưu sẽ có bề thế hơn, có học thức và ý thức về khả năng đóng góp của họ, có đầu óc cởi mở để tiếp thu những tư tưởng tự do dân chủ để tự động khai triển và biến những tư tưởng ấy thành hành động, hoặc sẵn sàng hậu thuẫn cho các cuộc vận động dân chủ do các giới khác trong và ngoài nước chủ xướng. Giai cấp trung lưu đã từng giữ vai trò then chốt trong các biến cố lịch sử; chẳng hạn, chính giai cấp trung lưu đã khởi xướng và chỉ đạo cuộc "cách mạng nhung" tại Tiệp Khắc vào cuối năm 1989 và cách mạng ôn hòa tại Đức vào đầu năm 1990. ác là phải tìm c Những áp lực, khó khăn và sự việc bất lợi cho CSVN mói ở trên đây đều là sự thật, không thêm bớt, không thổi phồng. Diễn biến nói trên cũng chẳng phải là không tưởng, nó sẽ xảy ra không sớm thì muộn. Ý thức được lẽ tất nhiên ấy, các tổ chức người Mỹ, Pháp, Úc…gốc Việt đã và đang cố gắng cung cấp đầy đủ tài liệu để các chính khách và chính phủ bản quốc có đủ dữ kiện về những vụ vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, giam giữ người trái phép v.v... hầu làm áp lực mạnh mẽ hơn đối với đảng và nhà nước CSVN buộc họ phải có những cải tổ nhằm dân chủ hóa đất nước. Các tổ chức này còn tích cực giúp đỡ các cá nhân, các nhóm ở quốc nội đang vận động đòi tự do dân chủ cho VN để họ có thể tranh đấu hữu hiệu hơn. Thêm vào đó, với sự phát triển của mạng internet, sự liên lạc và thông tin hai chiều giữa hải ngoại và quốc nội ngày càng nhanh chóng và hữu hiệu hơn, mặc dù nhà nước CSVN đã tìm mọi cách để ngăn cản, đặc biệt là những thông tin nhằm vạch trần mặt thật của CSVN; theo nhà báo Pháp kỳ cựu là Jean Lacouture, CSVN đã thực hiện một chế độ thực dân đối với dân mình và ông đã đặt ra chữ "autocolonisation" để nói về cái chế độ kỳ quặc này. Với những áp lực quốc tế và quốc nội, với những khó khăn ngày càng nhiều, với tình hình người dân ngày càng mạnh dạn hơn trong việc đòi hỏi những cải cách cần thiết, chế độ CSVN tất bị dồn vào thế thụ động đến mức sẽ phải tự giải thể hoặc sẽ bị bắt buộc phải giải thể. Để chứng tỏ rằng sự suy luận này không phải là "lấy mộng làm thực" (wishful thinking), xin trích dẫn lời phát biểu sau đây của anh Phương Nam Đỗ Nam Hải - một thanh niên tranh đấu cho tự do dân chủ tại VN - trong cuộc phỏng vấn của Mạng Lưới Lên Đường (Úc Châu) vào ngày 17/11/2005: "…chúng ta hoàn toàn tin tưởng rẳng trong xã hội Việt Nam hôm nay đang có một sự thay đổi lớn về nhận thức. Sự thay đổi này là rất sâu sắc à một khi xã hội đã có sự thay đổi trong nhận thức thì ắt sẽ có sự thay đổi trong hành động. Đó là quy luật tất yếu. Tiến trình "Diễn Biến Hòa Bình" mà những người bảo thủ trong đảng cộng sản Việt nam đã và đang lo ngày lo đêm, đã diễn ra thành công ở các nước Đông Ấu, Liên Xô, Indonesia… thì nhất định nó cũng diễn ra thành công ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba, Bắc Hàn trong thời gian tới. Sở dĩ hôm nay chưa có nhiều người dám công khai lên tiếng đòi tự do, dân chủ ở các nước này là bởi vì họ đang sống dưới bộ máy tuyên truyền và đàn áp quá đồ sộ khi thì lộ liễu, lúc lại rất tinh vi. Nhưng theo tôi, ở cả 4 nước trên, nỗi sợ hãi với bộ máy ấy đã dần mất đi. Và khi mà đa số nhân dân không còn sợ nữa, thì đó chính là dấu hiệu của một cuộc cách mạng dân chủ sắp diễn ra. Tình hình của các nước Đông Âu, Liên Xô, Indonesia…cũng đều là như vậỵ" Với sự sụp đổ của CSVN, cũng giống như trường hợp thành phố St Petersburg đã được trả lại tên khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ, tên Sài Gòn sẽ phải trả lại cho Sài Gòn. Chừng đó, chúng ta sẽ được gặp lại thành phố Sài Gòn thân yêu trong niềm hân hoan của dân tộc. Sài gòn sẽ mau chóng phục hồi phong độ để trở lại với nhiệm vụ lịch sử của mình đặng mãi mãi tồn tại cùng với non sông đất nước và mãi mãi vẫn là Sài Gòn của chúng ta - một Sài Gòn Muôn Thuở.
Nguyễn Phúc
2) Thái Văn Kiểm, Saigon De Toujours: Une Culture De Rue, tài liệu đánh máy
(3) Về hoa mai: Bên Trung Hoa, có một loại hoa gọi là "mei" theo phát âm tiếng quan thoại; phát âm theo chữ Hán-Việt là "mai"hoado thật ra, đó là hoa mơ (plum). Cây có hoa bày bán ở các chợ Tết mới là cây mai, cây bản địa. Các nhà khoa học gọi hoa mai hay hoàng mai là Ochna Harmandii, theo tên của nhà bác học Harmand (1845-1921), người đầu tiên đã nhận dạng hoa mai tại cao nguyên Bolovens ở Ai Laọ
4) Lê Mạnh Hùng, Chính sách kinh tế của Cộng Sản Việt Nam từ 1975 dến1992, Đặc San Kinh Tế, Hội Chuyên Gia Việt Nam, San Jose, tháng 1/1933, tr 11-33.
(5) "Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" (Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu), Kinh Dịch.
(6) Nam Dao, `Việt Nam, con người từ những bóng má, Văn Học số 225 tháng 5&6 – 2005
(7) Đỗ Nguyên Phương, Tạp Chí Cộng Sản, Hà Nội, số 5, 1944, tr 33.
(8) Văn Quang, Trẩy Hội Hoa Xuân Sài Gòn, VNN, tháng 1/2005.
(9) Lm Nguyễn Hữu Lễ, Hãy Trả Lại Tên Sài Gòn Cho Sài Gòn, P.O. Box
17516,GreenLane,Auckland,NewZealand,website www.saigonforsaigon.org.
(10) xã hội công dân (civil society) là một tập hợp gồm nhiều định chế phi-chính-phủ (non-governmental institutions) khác nhau, đủ mạnh để làm đối lực (counterbalance) đối với nhà nước và, trong khi không cản trở nhà nước thi hành nhiệm vụ của họ trong việc gìn giữ hòa bình và phân xử những vụ tranh chấp lợi quyền quan trọng, vẫn có thể ngăn cản không cho nhà nước chi phối và phân hóa cùng cực phần còn lại của xã hội (xem Ernest Gellner, Conditions of Liberty – Civil Society and it
s Rivals, Penguin Books, London).
Back to top
« Last Edit: 13. Jul 2006 , 09:02 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  SÀI GÒN MUÔN THUỞ
Reply #4 - 19. Jun 2006 , 06:19
 
...
Back to top
« Last Edit: 19. Jun 2006 , 06:19 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: BƯU DIỆN CHÍNH  SÀI GÒN
Reply #5 - 19. Jun 2006 , 23:48
 
...
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TÒA NHÀ QUỐC HỘI VỀ DÊM
Reply #6 - 19. Jun 2006 , 23:52
 
...
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:   SÀI GÒN MUÔN THUỞ
Reply #7 - 19. Jun 2006 , 23:58
 
...
Back to top
« Last Edit: 19. Jun 2006 , 23:59 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: LỒI TÂM SỰ CỦA NGUYỄN TẤN LỘC
Reply #8 - 20. Jun 2006 , 00:05
 
Tôi rời Việt-Nam đã 20 năm nay, bỏ lại sau lưng một khung trời kỷ niệm. Gói hành trang của cuộc ra đi chỉ là những hình ảnh của một nước Việt Nam đau thương khốn khổ đầy hận thù pha lẫn với những hình ảnh thân yêu dịu dàng của một người mẹ hiền chịu nhiều hy sinh, của một người cha kham nhiều vất vả. Trong suốt cuộc hành trình dài nơi đất người, tôi vẫn giữ mãi những hình ảnh thân yêu nầy như vẫn hy vọng có ngày nào đó sẽ có dịp tiếp nối một cuộc vui đã tạm gián đoạn.

Năm vừa rồi tôi quyết định trở về thăm nơi chôn nhau cắt rún, như quyết định tìm lại dấu vết của cuộc sống êm đềm xưa mà người khác đã cướp đoạt. Ðối với tôi đó chỉ là chuyện "trở về mái nhà xưa", nơi mà tôi đã sinh ra và lớn lên, chuyện đó tôi nghĩ là quá dễ dàng vì tôi vẫn còn giữ kín những hình ảnh năm xưa trong tận đáy lòng.

Nhưng khi về tới nơi thì tôi không còn nhận ra nơi chôn nhau cắt rún nữa, mới ngỡ ra rằng tôi chỉ là một du khách trong chính cái thành phố mà tôi đã lớn lên !Tôi cố gắng đi tìm lại những hình ảnh xưa, con đường cũ...nhưng chỉ hoài công, thay vào đó là tôi khám phá ra một thành phố mới nhưng mang tên cũ, với một cái xã hội mới và những con người mới. Tôi đâm ra tiếc, tiếc những hình ảnh xưa tích cũ, tiếc những cái kỷ niệm đẹp đã chết đi một phần trong tôi., tôi muốn được chia sẻ với các bạn những hình ảnh xưa-nay của một nơi mà tôi đã để lại, một cách vĩnh viễn, trái tim của mình.


(c) 2000 -  NGUYEN Tan Loc

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ MỞ NƯỚC
Reply #9 - 01. Jul 2006 , 09:02
 
CÔNG CHÚA NGỌC VẠN
Huỳnh Văn Lang

Lời Tòa Soạn: Nguyên văn bài này là „Nguyễn Phúc Ngọc Vạn Công Chúa“, trích trong quyển „Công Chúa Sứ Giả“ của ông Huỳnh Văn Lang, do chính tác giả xuất bản tại California, năm 2004. Tòa soạn xin hết sức cám ơn tác giả Huỳnh Văn Lang đã cho phép Đồng Nai Cửu Long trích đăng phần lớn của bài này, từ trang 215 đến trang 266.
Trong lời nói đầu của tập sách nầy, người viết có than phiền về sự bất công của lịch sử đối với Ngọc vạn Công chúa: "Về Huyền Trân Công chúa thì bao nhiêu là thi thơ, dân ca, kịch...đang khi đó thì hoàn toàn không là không có gì cho Ngọc Vạn Công chúa, cả Đại nam Liệt truyện của nhà Nguyễn cũng chỉ dành cho Ngọc Vạn Công chúa có 3 hàng chữ ngắn". Thật ra là không đúng, vì khi tìm đọc lại thì không phải là ba hàng, mà chỉ có một hàng thôi! Hoàng nữ Ngọc Vạn. "Là em cùng mẹ với hoàng trưởng tử Kỳ. Không có truyện" (Sic), trang 67, tập I, sách Đại nam Liệt truyện, quan sử của nhà Nguyễn.
Tuy nhiên sách nầy cũng giúp cho người viết biết thêm: Hi tông Hoàng đế, tức là chúa Sãi (cũng có tên là Chúa Phật) Nguyễn phúc Nguyên ( 1613-1635), con trai thứ 6 của chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1600-1613),  chúa Sãi có 4 cô con gái: Hoàng nữ Ngọc Liên, Hoàng nữ Ngọc Vạn, Hoàng nữ Ngọc Khoa và Hoàng nữ Ngọc Đỉnh. Như thế Ngọc Vạn Công chúa là con gái thứ hai của  chúa Sãi. Sách nầy còn cho biết cô là em cùng mẹ với Hoàng trưởng tử Nguyễn phúc Kỳ. Mẹ cô là ai? Liệt truyện chỉ ghi là "Hoàng hậu Nguyễn thị", theo học giả họ Thái thì còn biết bà Hoàng hậu nầy vốn tên là Mạc thị Giai con gái của Khiêm vương Mạc kính Điển, sau được  chúa cho đổi ra họ Nguyễn.
Còn Hoàng trưởng tử Nguyễn phúc Kỳ là ai? Đây là một khám phá mà người viết cho là có thể lý giải tại sao triều Nguyễn lại "Không có truyện", nghĩa là không có viết nhiều về Ngọc Vạn Công chúa và thành tích sự nghiệp của cô. Nguyễn phúc Kỳ là con cả, năm Giáp Dần (1614) phải vào thay cha Trấn thủ Quảng Nam, "Kỳ đến trấn, chăm làm ân huệ, vỗ về thương yêu quân và dân, trong cõi được yên ổn" (id). Rất tiếc là mùa Hạ năm Tân mùi (1631) Kỳ mất, để lại 4 trai là Nhuận, Xuân, Tài và Trí. Nhưng qua năm 1635, Sãi vương băng hà, đáng lý ra phải nhường ngôi cho con cả, con cả chết thì nhường ngôi cho cháu nội đích tôn theo truyền thống các triều V.N cũng như Trung Hoa, nhưng Sãi vương Nguyễn phúc Nguyên lại để ngôi lại cho người con thứ hai (có thể không phải cùng mẹ với Ngọc Vạn Công chúa) là Nguyễn phúc Lan, gọi là chúa Thượng, tức là ngôi chúa về tay dòng thứ.
Mầm móng đố kỵ, nếu không nói là loạn lạc phát sanh ra từ đó. Thật vậy, Hoàng tử Anh đã kéo quân làm loạn, may mà chúa Thượng có tướng tài giúp sức, nhứt là chúa có lòng khoan hậu và khôn ngoan nên không có đổ vỡ "nồi da xáo thịt" lớn. Cho nên công khai và chánh thức, công nghiệp và danh vọng dòng chánh Nguyễn phúc Kỳ không thể nào được ghi nhớ hay tuyên dương bằng con cháu của dòng thứ bây giờ đã trở thành chính thống rồi. Đây là một chi tiết quá nhiều ý nghĩa, mà có thể lý giải được tại sao mà triều Nguyễn lại bỏ qua sự nghiệp của Ngọc Vạn Công  chúa (Không có truyện). Cho nên sự nghiệp thành tích của Ngọc Vạn Công chúa không được văn học nhứt là quan sử đề cao tán tụng cho xứng đáng. Như thế thì chẳng qua là khuyến khích những cây viết hay bất bình như của người viết chẳng hạn.
Ngọc Vạn Công chúa sinh ở đâu và ngày nào, không sách sử nào nói. Nhưng người viết tìm lại những năm tháng liên hệ thì có thể cũng biết được phần nào. Ví như Công chúa đi lấy chồng là năm 1620, thì có thể nói là lúc bấy giờ Công chúa vào khoảng 16, 17, vì đó là thường tình theo phong tục triều đình nhà Nguyễn cũng như nhà Lê, nhà Trần.
Công chúa sanh ra ở đâu? Chắc chắn Công chúa sanh ra ở Quảng Nam, vì  chúa Tiên Nguyễn Hoàng, như sử ghi đã sai con là Nguyễn phúc Nguyên vào trấn thủ Quảng Nam năm Lê Hoằng Định thứ 3, tức là năm 1602, cũng là năm sứ Chiêm Thành sang giao hiếu với chúa Nguyễn. Cho nên có thể nói Ngọc Vạn Công chúa sanh ra ở Quảng Nam trong những ba bốn năm đầu thế kỷ 17 (1602-1605). Những năm tháng nói trên có 100% chính xác không? Chắc chắn là không, chỉ tương đối thôi, nhứt là nhiều khi lẫn lộn lịch Tây lịch Tàu1.  
a)      Muốn tìm về Ngọc vạn Công chúa và sự nghiệp của cô thì phải đặt để câu chuyện của cô vào trong cái bối cảnh chánh trị của V.N. và nhứt là của Kampuchea của một thời như là một sự kiện cần thiết cho tiến trình lịch sử của hai dân tộc Việt/Miên, rất tốt cho Việt Nam mà cũng không phải là xấu cho Kampuchea, có nghĩa là Việt nam nhờ đó mà bành trướng uy lực ở Đông nam Á châu và nhứt là đất đai trên Bán đảo Đông dương, đang khi Kampuchea nhờ đó mà còn giữ được lai lịch của mình hơn là bị mai một hoàn toàn do sự thôn tính của Xiêm la .
b)      Riêng đối với V.N., sư kiện Ngọc Vạn Công chúa đi lấy chồng viễn xứ phải nhìn nhận như là một chương lịch sử Nam tiến sau hết của dân tộc Lạc Việt, mà ông cha mình đã bắt đầu viết không phải mới đây mà là đúng 2000 năm trước, tức là từ lúc vua Hùng dựng nước (707 tcn), không trông về phương Bắc mà lại ngó về phương Nam. Cho nên khi viết về Ngọc Vạn Cồng chúa, người viết phải nhắc lại gần cả một cuốn sử Nam tiến của dân tộc mình. Lẽ đương nhiên là sơ lược thôi, để người đọc có được một cái nhìn tổng quát về cuộc Nam tiến, như là một công trình vĩ đại, ngàn lần vĩ đại hơn Đế thiên Đế thích (Angkor Wat, Angkor Thom), hơn những Kim tự Tháp của Ai cập, hơn cả Vạn lý Trường thành của Trung Hoa. Người viết có cường điệu không? Hẳn là không. Thử xem thời gian đã bao lâu? Thử xem công sức và xương máu phải tính bao nhiêu? Nhưng hậu quả hoàn toàn khác hẳn nếu không nói là trái ngược lại, những công trình nói trên đã phung phí và tiêu ma hằng triệu nhân lực và tài nguyên, đang khi công trình "Nam tiến" là một sự đầu tư một lấy về bằng ngàn bằng vạn lần và hơn nữa.
              
Vốn sau khi về lại Chân Lạp lên ngôi vua, Chey Chetta II, với những hiểu biết chánh trị và thời thế đã thu thập lúc còn làm con tin ở triều Ayuthia Xiêm La, vua Chân Lạp nhận thấy muốn chế ngự phiêu lưu xăm lăng của Xiêm La thì phải mưu đồ hòa thân với láng giềng hay ngoại quốc, mà láng giềng thì đều là thân Xiêm La như Lào, Mã-lai. Cho nên triều nhà chúa Nguyễn là con đường duy nhất phải đi, nhứt là tương lai của triều nhà chúa Nguyễn thì phải nhìn nhận là quá nhiều hứa hẹn. Chính các Giáo sĩ Bồ, Y-pha nho và nhất là thương nhân các nước, người Hoa, người Nhật, người Mã lai...đã thông tin cho vua và quần thần Chân lạp biết như thế.
Cho nên ngày một ngày hai vua Chân lạp đã sai sứ đem nhiều của lễ qua Thuận hóa, tỏ ý muốn giao hiếu và nói ngay là muốn cưới một cô gái nhà chúa cho thân lại càng thân. Cũng may là lúc bấy giờ vua Chân Lạp đã bắt gặp một nhân vật phi thường, có tằm mắt, có viễn kiến qua khỏi dãy Trường sơn, đến tận vịnh Thái lan, xuống tới Malacca. Đó là chúa Sãi Nguyễn phúc Nguyên. (1613-1635)
Chúa Sãi Nguyễn phúc Nguyên chấp nhận lời yêu cầu của Chey Chetta ngay. Cái phi thường của chúa Nguyễn là thấy được cái thời thế lịch sử và nắm lấy ngay. Cho nên ngày một ngày hai, Chúa cho lệnh phải sắm sửa của hồi môn, dư bị binh thuyền hộ tống, tuyển chọn sứ giả đưa dâu và đoàn tùy tùng hộ gíá, vì Công chúa sẽ là Hoàng hậu Chân lạp. Nhưng cô nào bây giờ?
Back to top
« Last Edit: 13. Jul 2006 , 09:01 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:   LỜI DỀ NGHỊ
Reply #10 - 01. Jul 2006 , 09:05
 
(TIẾP THEO)
Chắc chắn là không có vấn đề chọn lựa, vì không ai khác hơn là con gái của mình, vì đây không phải là một cuộc gả bán tầm thường mà là một cuộc hòa thân, có một sứ mạng chánh trị quan trọng vô cùng. Tất nhiên là phải chọn con gái chánh cung, mà cô chị Ngọc Liên thì đã có nơi, tất nhiên là còn có cô em Ngọc Vạn đã đến tuổi lấy chồng, hai cô em Ngọc Khoa và Ngọc Đỉnh thì còn nhỏ. Người viết có một thắc mắc: ngoài lý do nêu trên, còn có lý do gì khác nữa không?  chúa Sãi có nhiều con gái khác với các thứ phi khác không? Theo sử sách thì chúa Sãi chỉ có 4 cô con gái đó với chánh cung Hoàng phi thôi. Nhưng biết được là chúa Sãi cũng có nhiều thứ phi, vì các Hoàng tử khác đều có ghi mẹ đẻ mà không phải là mẹ đẻ của Ngọc Liên, Ngọc Vạn...Đến đây thì người viết không muốn đi xa hơn nữa về vấn đề lưa chọn của  chúa Sãi, có muốn thì cũng không làm sao làm được vì như đã nói trước văn học đã bỏ quên Ngọc Vạn Công  chúa gần như hoàn toàn.
Tuy nhiên người viết có thể phiêu lưu ghi nhận là  chúa Sãi cưng kiêu Công  chúa, vì không có nhiều con gái và khi nhứt định chọn Công chúa gả cho vua Châp Lạp, chắc cũng đã kỳ vọng nơi Công chúa nhiều, như thế cũng có nghĩa là Công chúa ít ra không phải là người tầm thường, sách sử chỉ viết là cô rất đẹp thôi. Biết đâu Ngọc vạn Công chúa lại là một cô gái bất thường, nếu không nói là phi thường.
Trong những điều kiện xã hội lúc bấy giờ, người viết cũng có thể phiêu lưu nhận xét chuyện chúa Sãi gả Công chúa đi lấy chồng viễn xứ phải là một biến cố trọng đại cho quần thần cũng như nhân dân Thuận hoá, nếu không nói là cả nhân dân Nam hà. Cho nên phải có những dự bị xôm tụ và sang trọng, phải có những lễ nhạc lênh đềnh đưa đón. Người viết có thể tưởng tượng là ngày chúa Sãi đưa con xuống thuyền hoa đi về Ouđong, một con đường nghìn dậm trên biển Nam hải, để rồi ngược dòng sông Cữu long cũng dài nghìn dậm...là ngày có nhiều nước mắt hơn là tiếng cười, nước mắt của bà mẹ (bà Hoàng phi Nguyễn thị Giai nầy lúc đó còn sống và chỉ mất ngày 12 tháng 12 năm 1650), biết đâu lại không có nước mắt của người cha Nguyễn phúc Nguyên. Điều chắc chắn là Công chúa phải bịn rịn mẹ con và chị em lắm! Không biết có những tiếng pháo đì đùng hay không? Nhưng có thể có nhiều tiếng đại bác khi thuyền nhổ neo, bỏ bến Ái Tử (?) hay bến nào?
Và đoàn chiến thuyền đưa cô dâu được mấy chiếc? Người viết có thể nói là ít ra phải 5, 6 chiếc và phải là thuyền phi thuyền phượng (thuyền lớn, không có nghiã là tên riêng của chiến thuyền của vua Gia-long). Tại sao phải 6 ? Phải 6 vì là một đơn vị chiến đấu của thuỷ quân từ thời Lý thời Trần là 3. Mà người viết nghĩ là ít ra là 2 đơn vị chiến đấu. Nhưng tại sao phải dùng chiến thuyền? Lúc bấy giờ ở biển Nam hải, nhứt là ở Vịnh Thái lan giặc cướp Tàu Ô, giặc cướp Mã Lai, giặc cướp Xiêm La, giặc cướp Chà Và tha hồ tung hoành ngang dọc trên mặt nước. Mà chắc chắn chúa Sãi phải nghĩ đến an ninh của con gái mình, vì đó là ưu tư số một của người cha khi gả con gái mình đi lấy chồng viễn xứ.
Như thế đoàn hộ tống ít ra cũng được 2 vệ là 1,000 thủy quân. Lúc đó chiến thuyền cũng đã được trang bị súng đại bác, không rõ mỗi chiến thuyền bao nhiêu súng và súng lòng cỡ nào. Rất tiếc! Nhưng chắc chắn là có nhiều súng hỏa mai súng điểu thương.
Đoàn tuỳ tùng thì chắc phải có tối thiểu mươi cô tỳ nữ, nhũ mẫu cũng phải đi theo. Ai làm sứ giả đưa dâu, chắc phải là một thượng quan văn hay võ, hay hơn là một tôn thất nhà Nguyễn và một đoàn tuỳ tùng sứ đoàn quan lớn quan nhỏ muơi, mười lăm người nữa.
Của hồi môn Công chúa phải mang theo thì ngoài đồ trang sức, quần áo, chắc cũng phải có một số tiền vàng. Nhưng cái gì phải mang theo như là quà biếu cho chú rể, cha mẹ và đình thần chú rể. Thật là cả một vấn đề. Tuy nhiên nếu biết phong tục cũng như tổ chức chánh quyền người Chân Lạp thì cũng không phải là khó hiểu. Theo tổ chức chánh quyền Chân Lạp lúc bấy giờ, ngoài vua còn có Quốc trưởng và Quốc mẫu đó là ba nhân vật quyền hành cao nhứt trong chánh quyền nhà nước Chân Lạp. Quốc trưởng là người cầm đầu cũng là đại diện cho quốc dân mà trong đó sư sãi là thành phần chánh. Còn Quốc mẫu là đai diện cho gia đình, cho gia tộc. Cho nên tuỳ theo đó mà chọn lựa quà cáp.
Chắc chắn trong những quà cáp cho chú rể phải có những cây súng hoả mai và điểu thương, là những món mà vua Chân Lạp cần nhứt và thích nhứt.
Cuộc hành trình từ Thuận hóa đến Oudong, chắc chắn chúa Sãi phải chọn ngày tháng. Theo người viết thì có thể khởi hành vào khoảng tháng 10, tháng 11, không nên sớm quá mà cũng nên trễ quá. Vì từ tháng 10 là khởi sự có gió chướng, gió Đông bắc, tức là xuôi gió thì đoàn thuyền hoa sẽ tới Oudong trong vòng 1 tháng là tối đa. Nếu để qua mùa gió nồm (Tây nam) là phải mất ít ra là 2 tháng, vì ngược gió. Cho nên có thể ra đi vào tháng 10, ở lại Chân Lạp đến tháng 5, tháng 6 là theo gió nồm trở về. Đó là con đường trên biển cả, còn trong sông Mékong thì nên chọn lúc giao mùa, giữa gió chướng và gió nồm. Nhưng trong sông thì vấn đề hướng gió không quan trọng bằng vấn đề nước lớn nước ròng theo mặt trăng và mùa nước đổ là tháng 9, tháng 10 âm lịch.
Đó là luận đoán của người viết, nhưng theo những tài liệu là những thư, những phúc trình của các giáo sĩ Thiên chúa giáo thì  chúa Sãi cho đưa dâu là năm 1621, như thế thì có thể là đưa dâu đầu năm khi gió chướng còn mạnh trên biển, để rồi vào sông Hậu khi nước chưa đổ ra biển quá mạnh là từ tháng 9, tháng 10 âm lịch.
Khi đến Oudong thì không cần phải nói là sẽ có đón rước linh đình và chắc chắn là sang trọng hơn triều đình Thuận hóa nhiều, khó mà hình dung được.
Về việc đưa dâu nầy, không có một tài liệu nào vừa rõ ràng vừa đáng tin nhứt, hơn là cuốn hồi ký "Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus", của cha Christoforo Borri, xuất bản ở Roma năm 1631. Ông cha nầy đã giảng đạo ở Nước Mặn, Qui nhơn từ năm 1618 đến năm 1622, trong hồi ký cha tỉ mỉ nói về sứ bộ của chúa Nguyễn đi Cao miên năm 1621 như sau" Sứ thần là người sinh trưởng tại Nước Mặn, một nhân vật quan trọng đứng sau quan tổng trấn. Trước khi lên đường, ông đã để nhiều ngày giờ bàn bạc và nhận chỉ thị của chúa. Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ; chuyên chở trên nhữnbg chiếc thuyền lớn có trang bị võ khí và bài trí lộng lẫy. Khi sứ bộ tới kinh Oudong, thì quần chúng Khơme, thương nhân Bồ đào Nha, Nhật bản và Trung hoa đã tụ hội đông đảo để đón tiếp và hoan nghênh. Vì sứ thần đây là người quen thuộc, đã tới lui nhiều lần, từng làm đại diện thường trú từ lâu, chớ không phải sứ gỉả mới tới lần đâu." ( Trích dẫn của "Địa chí Văn hóa Thành phố HCM, tr. 148").
Đó là việc ra đi của Công chúa. Đến Ouđong thì ngày một ngày hai là có lễ rất trọng thể tấn phong Công chúa làm Hoàng hậu Chân lạp tước hiệu là Somdach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey, lịch sử Chân lâp có ghi "bà nầy rất đẹp chẳng bao lâu ảnh hưởng rất mạnh trên nhà vua". Nhưng lịch sử Chân lạp lại không ghi thêm là chẳng bao lâu sau như cha Christofo Borri có viết:" chúa Nguyễn phải luôn tập lính và gửi những đạo quân đi giúp vua Cao-miên, tức chàng rể chồng con gái của chúa.  chúa viện trợ cho vua cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống lại vua Xiêm" (id)
Đó là chưa nói đến việc Công chúa xin cha gửi thợ đóng chiến thuyền và du thuyền cho vua Chân Lạp mà di tích còn để lại là một xưởng đóng tàu bên kia sông Mékong, ngay trước mặt thành Phnom-penh. Ngoài ra khi đưa dâu đến Oudong chúa Sãi còn để lại cho Công chúa một đại đội 100 vệ binh, gọi là gìn giữ an ninh cho vợ chồng Công chúa. Đội vệ binh nầy còn có trách nhiệm luân phiên huấn luyện võ thuật kiếm thuật, biết sử dụng súng thần công, súng điểu thương cho quân binh Chân Lạp.
Nhờ trợ giúp trực tiếp bằng súng ống đạn dược thuyền bè, mà Chey Chetta II đã đánh bại quân Xiêm xăm lăng trong 2 năm 1621 và 1623. Đó là lần đầu tiên trong 100 năm qua người Chân Lạp chiến thắng quân Xiêm và từ đây Chân lạp kể như là đã cổi bỏ được ách đô hộ của người Xiêm, không còn cống phẩm, không còn phải gửi con tin nữa. Cho đến bao giờ đó là một câu hỏi?
Đối với Đại việt, từ rày người Việt được tự do qua lại hay ở lại khai khẩn đất hoang, lập làng lập xã trên đất Chân Lạp, trước kia không người ở như xứ Đồng nai là Biên hoà Bà rịa bây giờ. Đó là một vùng đất gần như không nhà không cửa, nói chi là cơ quan hành chánh cai trị. Hoặc giả có một vài xóm người bản địa Mạ hay Stiêng đóng trên các sườn núi phía Bắc và Tây Bắc. Thật sự thì không phải đợi đến năm 1620 hay 21 người Việt mới vào khai hoang lập ấp ở vùng Mỗi-xuy Bà ria. Họ đã tự động đi vòng bờ biển Chiêm Thành vào đó khai hoang lập ấp có thể trước đó hằng ba bốn thập niên. Như thế cũng có nghĩa là dân số xóm làng ngưòi Việt phải đông đúc thế nào mà  chúa Nguyễn qua năm 1623 mới qua ngã hòa thân viết thư xin con rể và đình thần Chân Lạp cho phép chúa lập hai trạm thuế Biệt nạp, một trạm ở Tàigòn (Chợ lớn) và một trạm ở Bà-ria/Mỗi xuy.
Sự cho phép gần như hoàn toàn không tính toán không mặc cả, ngoài ra chứng minh sự kiện người Việt đã đông đúc rồi mới lâp trạm thu thuế, tức là xác nhận người Việt đã đến khai hoang lập ấp trên đất Chân Lạp nhiều năm trước khi Công chúa đi lấy chồng, nó còn chứng minh được vai trò sứ giả của Ngọc Vạn Công chúa, dù ý thức hay không ý thức cũng đã đem lại những kết quả phi thường, tức là đã lập xong được một địa đầu vững chắc cho những bước tiến tiếp theo sau2.
Đến đây cũng có thể nói được các Chúa nhà Nguyễn đã bước thêm một bước Nam tiến về phương diện nhân dân và kinh tế mà tất cả đều nhờ chánh sách hòa thân cuả các Chúa. Còn về phương diện chánh trị và địa lý thì phải đợi một thời gian nữa, cũng không lâu lắm.
Sự hiện diện của Công  chúa cũng như sự trợ giúp trực tiếp bằng súng ống đạn dược và gián tiếp bằng những huấn luyện viên chiến thuật quân sự đã gây ra nhiều hiểu lầm nghi ngờ Công chúa chen lấn vào việc triều chánh Chân Lạp, người viết cho là hoàn toàn xuyên tạc, vì có viết có nói mà không cho biết tên tuổi người nào thì phải kể là hư cấu vì ghen ghét hay ghen tương mà thôi.
Công chúa luôn luôn ưu tư cho sứ mạng của mình, cho nên khi dời kinh đô về Pnom-pênh Công chúa kêu gọi người Việt từ Ngũ Quảng và sắp xếp cho học đến Phnom pênh vừa buôn bán vừa mở tiểu công nghệ và chẳng bao lâu đã có hai làng buôn bán và tiểu công nghệ, trong thành và ngoài thành Phnom penh, mỗi làng được một hai trăm gia đình, phần lớn là người từ Quảng Nam/ Quảng Ngãi, cũng có mấy gia đình Thiên chúa giáo từ Bình Đinh/Qui Nhơn.
Như thế thì nông nghiệp, thương nghìệp và công nghệ đã bắt đầu phát triển trông thấy, đem lợi về cho cả hai dân tộc, không riêng về cho một ai. Phải chăng đó là sứ mạng hóa thân của Ngọc Vạn Công  chúa, Hoàng hậu Chân lạp?.
Chỉ trong vòng 5 năm từ ngày Công chúa đi lấy chồng viễn xứ, người Việt đã có làng xóm từ Biên hòa/Bà-rịa, Tài-gòn/Bến nghé, lên đến Châu đốc/Takeo, đến tận Oudong/Phnom penh và bên kia sông Mékong, có thể qua tận Kampot, bên kia Mủi Né (Hà-tiên). Đó là những địa điểm địa danh mà sử sách còn ghi lại, nhưng không nhìn nhận rõ ràng như là sự nghiệp của Ngọc Vạn Công chúa. Nhưng nếu không phải của Ngọc Vạn Công chúa thì là của ai, thử hỏi? Tuy nhiên trong trường hợp nầy, hỏi tức là trả lời rồi.
Đang khi Công chúa phấn chấn và say sưa hành sử vai trò sứ giả của mình thì đầu năm 1627, một ngày nọ Cai đội Vệ binh người Việt báo tin cho Công chúa là Thuận hóa cho lệnh phải rút quân về càng sớm càng tốt, vì  chúa Trịnh Tráng/vua Lê đích thân cầm 10 vạn quân toan vượt sông Gianh, chiếm lấy Bố chánh ngày một ngày hai. Thật là một vố nặng nề cho một cô gái chưa đầy 25 tuổi, dù bây giờ đã là Hoàng hậu được vua yêu chiều, dù bây giờ cô đã hội nhập văn hoá Chân lạp sâu xa rồi, cô ăn vận theo người Chân Lạp, cô nói và viết chữ Châp Lạp rất trôi chạy. Đã đành Vệ quân người Việt ra về, thì đã có Vệ quân người Chân Lạp thay thế, đông đảo hơn, nghiêm chỉnh lễ độ hơn, nhưng không biết cô lo âu xao xuyến cái gì. Còn có mấy trăm gia đình người Việt nội thành ngoại thành Phnom pênh nữa. Hay là linh tính báo cho cô biết sẽ có cái gì ghê gớm sẽ xảy đến cho thân phận của một người con gái gánh nặng trách nhiệm sứ giả hòa thân cho hai nước Việt/Miên.
Nhưng cũng trong năm nầy, cha cô đã gửi đến cho cô một tin vui và bao nhiêu là quà biếu cho con rể, cũng là những súng điểu thương và hỏa mai cùng bao nhiêu là đạn dược thuốc súng. Âu cũng là một tin mừng không nhỏ. Vốn quân binh vua Lê chúa Trịnh vừa đến lại vừa rút về để lại cả ngàn tử thương.3 
Từ đâu năm nầy Công chúa vẫn bồn chồn ăn ngủ không yên, luôn luôn lo sợ, xao xuyến bồn chồn như tại nạn gì sắp xảy đến. Và tai nạn đó đã đến một cách đột ngột. Năm 1628 Vua Chey Chetta băng hà đang tuổi thanh xuân, chưa đầy 40.4
Thật là một thảm hoạ cho Công chúa cũng như cho đình thần và nhân dân Chân lạp. Như thế ngày một ngày hai, Công chúa trở thành một nhân vật số 3 uy quyền nhứt của Chân lạp. Em của Quôc vương là Prea Outey tức nhiên là Quốc trưởng, nhân vật số 2 của chánh quyền Chân lạp. Vậy thì nhân vật số 1 phải là một người con được Chey Chetta II để ngôi lại. Chey Chetta có nhiều con với thứ phi người Chân lạp. Nhưng là ai, thử hỏi?
Người viết muốn nhớ lại một Vương Chiêu quân, Hoàng hậu Hung nô hơn 2,000 về trước, để tìm về Ngọc Vạn Công chúa Hoàng hậu Chân Lạp trong trường hợp con vợ trước con vợ sau, còn có vấn đề con lai.
Ngọc Vạn Công chúa ăn ở với Chey Chetta đã 17, 18 năm rồi, Công chúa có con với Chey Chetta không? Không thấy sử Chân Lạp, sử ta nói là Công  chúa có con với Chey Chetta II. Người viết luôn luôn thắc mắc tìm hiểu về vấn đề đó và thật là may mắn khi bắt gặp bài viết của Hương giang Thái văn Kiểm. Dựa theo sách " L'Indochine du Sud", của Cl. Madrolle, xuất bản năm 1926 tác giả đã viết như sau:
"Sau khi Chey Chetta mất, liền xảy ra việc tranh quyền giữa chú và cháu. Chú là Prea Outey, em ruột của Chei Chetta II, giữ chức Giám quốc (abjoréach) và cháu là Chau Ponhéa To, con của Chetta II và bà Công chúa Việt nam.
"Cháu Ponhéa To là một vị hoàng tử Miên-Việt rất thông minh và đã được giáo huấn rất chu đáo. Vua Chei Chetta khi còn sống định cưới cho hoàng tử nường Công chúa Ang Vodey. Nhưng chẳng may, khi ngài vừa mất thí Préa Outey, tức là chú ruột của hoàng tử, lại cưới nường công chúa Ang Vodey trong khi hoàng tử còn phải trường trai trong tu viện.
"Sau khi rời tu viện, Chau Ponhéa To lên ngôi Chân Lạp và trong một buổi tiếp tân trông thấy Ang Vodey liền đem lòng cảm mến và sau đó hai người cũng thương trộm nhớ thầm một cách tha thiết. Công chúa bèn trốn chồng bỏ nhà ra đi theo vua vào rừng săn bắn. Ông chú là Préa Outey biết được liền rượt theo và giết chết cả hai người".Thật là họa vô đơn chí! Chồng chết, rồi con bị giết, thì người vợ người mẹ phải thế nào? Không biết Ngọc Vạn Công chúa phải đau khổ biết bao và còn cảm thấy bơ vơ ở xứ người. Đã đành bấy giờ cô có bao nhiêu là bà con ruột thịt ở rải rác khắp nơi trong nước Chân Lạp. Nhưng cung điện nhà vua đã vắng bóng Chey Chetta, một con người vương giả đã yêu cô thật tình và đã giúp cô làm tròn vai trò sứ giả hoà thân của mình một cách quá tốt đẹp. Và vắng bóng con, người mà Công chúa đặt tất cả kỳ vọng khi nhìn về tương lai, vì còn bao nhiêu là chương trình văn hóa xã hội kinh tế cho dân Chân Lạp, cho đồng bào Việt nam. Bấy giờ Công chúa quá nhiều ưu tư, không phải cho thân phận của cô, nhưng mà ưu tư cho sứ mạng hoà thân của cô. Đây rồi nó sẽ đi về đâu? Đã đành còn có chúa cha và anh em bên Thuận hóa. Nhưng lúc nầy là lúc chiến tranh với chúa Trịnh càng ngày càng trở nên quyết liệt!
Từ ngày chồng chết, con bị giết, người viết muốn tìm về các nẽo đường của Công chúa thì không phải là một viẽc dễ. Sử Chân Lạp thì người ta muốn quên Công chúa đi, dù sự nghiệp của Công chúa đối với Chân Lạp không phải là nhỏ, như là chận đứng được bước tiến xâm lăng của Xiêm La, như là phát triển kinh tế kỹ nghệ trong nước cũng như phát triển giao dịch với Thuận hóa, phát huy lực lượng quân sự v.v...Thế mà sử Chân Lạp không một chữ ghi nhớ, nói chi là một câu ân nghĩa, ân tình. Âu thật là một bội bạc của con người, một bất công của lịch sử!
Lịch sử Chân Lạp đã thế, lịch sử nhà Nguyễn cũng chả hơn gì. Còn các giáo sĩ Thiên chúa giáo người Bồ, người Y, người Ý, người Pháp...thì họ quan tâm đến các vua chúa Chân Lạp và V.N. là những người có quyền thế trên việc truyền bá đạo giáo của họ, ai đâu mà ưu tư cho một con mụ goá chồng, tuy nhan sắc còn quá quyến rũ, tuy tài ba không phải là mất hết, tuy còn lắm người thương hại nếu không nói là thương mến, tuy còn nhiều ràng buộc với triều đình Thuận hoá.
Có thể Công chúa vào chùa tu, sống với kinh kệ, hương khói, tiếng chuông tiếng mõ? Hay là Công chúa trở về với cha em? Hoặc đâu đó với người đồng hương bà con ruột thịt? Có ai cho người viết một câu trả lời không?
Dù sao đi nữa thì cái bối cảnh chánh trị của thời đó vẫn tiếp diễn theo đà tiến hoá của lịch sử, cũng như là một tấn kịch mà vai chánh (vedette) không phảùi là Công chúa nữa, Công chúa chỉ còn giữ một vai phụ rất nhỏ bé tối tăm nào đó thôi và đó là đối tượng cho sự tìm về Công chúa trong những năm còn lại của một đời người, có một thời tươi đẹp của một Công chúa xứ Thuận hoá và một thời huy hoàng rực rỡ Hoàng hậu Chân Lạp.
Như trên đã viết Chey Chetta II chết để ngôi lại cho Ponhea To hay Ang Saur . Ang Saur chết, để ngôi lại cho em là Ponhéa Nou. Nou cai trị, có chú ruột là Prea Outey, trước kia đã là phó vương cho Chey Chetta II làm phụ chánh. Đến năm 1640, Nou bị giết, Outey phải đưa con mình lên ngôi, tức là Ang Non I. Hai năm sau, người con thứ 3 của Chey Chetta II (mẹ người Lào) là Chant nổi lên, với sự hổ trợ của người Chiêm và nhứt là người Mã Lai giết phụ chánh Prea Outey và Ang Non I, cướp ngôi vua, lấy tên là Nặc Ong Chân, lập Hoàng hậu một Công  chúa người Mã Lai theo đạo Hồi (Islam) và cai trị trong 17 năm (1642-1759).
Thời trị vì của Nặc Ong Chân mà nhân dân Chân Lạp gọi là "vuà tà đạo" (Préa Réam Chilsas) là một thời kỳ đen tối nhứt của Chân Lạp. Thương gia Bồ và Hà-lan tranh giành đặc quyền đặc lợi đi đến chỗ phải đóng cửa "tiệm" gây khủng hoảng thương trường, tiểu thương người Việt phải rút đi về Tài-gòn/Bến nghé, đang khi đó thì người Việt khắp nơi thương nhân cũng như tiểu công nghệ và nhiều nông dân phải chùng lại, có người về Thuận hoá, Tài gòn/Bến nghé, Biên hòa/Bà rịa, có người di cư tận Abuthia, Xiêm La và Trung Lào. Nhưng cái họa to lớn nhứt cho Chân Lạp là việc Nặc Ong Chân nghe lời vợ đem Hồi giáo làm Quốc giáo thay thế Phật giáo Tiểu thừa, tức nhiên một sớm một chiều đảo lộn tất cả kiến trúc xã hội, chánh trị cả kinh tế của Chân lạp. Vì dụ điển hình là xưa nay hệ thống Sư Sãi Phật giáo độc quyền Giáo dục và các công tác xã hội, như nhà thương, nhà dưỡng lão, tất cả đều tập trung dưới bóng chùa Phật, tức nhiên là với sự trợ cấp đại qui mô của nhà nước. Nhưng với Hồi giáo thì ngược lại tất cả những trách nhiệm nói trên thì phải vào tay các giáo chức Hồi giáo. Các chùa chiền phải đóng cửa, các thầy sãi phải cổi áo đi ra tự làm ăn lấy. Các tượng Phật vàng và Bạc phải đem chôn đem giấu. Đến thực phẩm phải đổi lại, người Chân Lạp ăn thịt heo và nuôi heo loạn đả, bầy giờ heo là loại dơ, không nên ăn, nếu ăn là lỗi luật Coran, không lên thiên đàng được...
Chánh sách cực đoan của vợ chồng Nặc Ong Chân trước sau gì rồi cũng gây loạn đó là luật tự nhiên và loạn đó đã đến. Anh em Pon Héa So và Ang Tan, hai người con thứ của Giám quốc Prea Outey, vì thù nhà và nhứt là nợ nước đã nổi lên năm 1658 kéo quân đánh với Năc Ong Chân. Nhưng đã thất bại vì Nặc Ong Chân có sự trợ lực hùng hậu của quân Lào bên bà mẹ và quân Mã-lai bên bà vợ.
Đến đây, thật là vạn hạnh cho người viết, càng vạn hạnh hơn cho Chân Lạp! Người Công chúa Sứ giả Thuận hóa bây giờ đã là một bà lão gần 60 tuổi, vẫn còn minh mẫn và nhiều nghị lực lại xuất hiện trên kịch trường chánh trị của Chân Lạp, luôn luôn với vai trò sứ giả hòa thân giữa hai nước Miên/Việt.
Vốn sau khi thất bại võ trang, hai anh em Pon Héa So và Ang Tan cùng một số sư sãi đi gặp lại Hoàng hậu Somdach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey, tức là Ngọc Vạn Công chúa của họ để tìm một con đường "cứu rỗi" cho họ và cho dân tộc của họ. Lúc bấy giờ Ngọc Vạn Công chúa ở đâu, không sách nào viết nhưng phần chắc là ở ẩn đâu đó, trong ngôi chùa Phật nào đó, hay trong một gia đình người Việt nào đó trong địa phận Phnom pênh hay Chân Lạp.
Tuy nhiên có một điều chắc chắn là Ngọc Vạn Công chúa thấy ngay là đã đến lúc mình phải trở lại đóng vai trò sứ giả hòa thân của mình, tức là vì quyền lợi của cả hai bên mà hành động, biết đâu lại là một lần cuối!
Thế là Công chúa đã lấy quyết định ngay: Pon Héa So và Ang Tan cùng sư sãi, với sự khẩn cầu thiết tha của Công chúa đã gửi sứ giả mang thơ chánh thức xin triều đình Thuận hóa giúp quân đánh lại với Nặc Ong Chân, để giành lại ngôi báu cho dòng họ Prea Outey, cũng là giành lại Phật giáo trong 16 năm qua đã vào tay Hồi giáo của hai vợ chồng Nặc Ong Chân.
Lúc bấy giờ ở ngôi chúa là Nguyễn Phúc Tần, gọi là chúa Hiền (1648-1687), cũng là cháu của Công chúa. Lời yêu cầu của Công chúa còn có giá bao nhiêu, cân nặng được bao nhiêu? Người viết cho rằng còn nặng giá lắm. Cho nên chúa Hiền chấp thuận ngay. Thật là một quyết định rất khó khăn, vì ở phía bắc quân chúa Nguyễn và chúa Trịnh đang giằng co quyết liệt (1658-1660) ở mặt trận Lam giang, Tuần lễ (Hương sơn) và Nghi xuân. ( V.N. sử lược TT Kim, tr. 301).
Dù vậy chúa Hiền cũng theo lời yêu cầu của Công  chúa Sứ giả Ngọc Vạn, đã sai Trấn thủ dinh Phú yên/Khánh hòa là Nguyễn Phúc Yến, với Cai đội Xuân Thắng và tham mưu Minh Lộc, ngày một ngày hai đem 3,000 quân tinh nhuệ tiến công quân binh Nặc Ong Chân và Nặc Ong Chân cũng đã vội đem thuỷ bộ quân binh chận đánh quân của Nguyễn phúc Yến tại Ba-riạ/Mỗi-xuy.
Và tại đây Nặc Ong Chân đã thua trận một cách thảm hại, quân binh vừa chết trận vừa bị bắt làm tù binh cả ngàn người và chính Nặc Ong Chân cũng bị bắt hay bị giết tại trận.
Sau chiến thắng Bà-rịa/Mỗi suy,  chúa Nguyễn dàn xếp cho Pon Héa So lên ngôi vua, lấy hiệu là Batom Reachea, cai trị từ năm 1660 đến 1672.6
Nặc Ong Chân chết sống, còn trở về Phnom pênh cai trị lại hay không, không còn là vấn đề nũa, chỉ cần biết rằng, sau chiến thắng của Nguyễn Phúc Yến ở Mỗi xuy/Bà rịa, Chân Lạp phải chánh thức nhìn nhận quyền tự do khai hoang lập ấp lập nghiệp của người Việt trên cả vùng Biên hoà/ Bà rịa đến tận Tàigon/Bến nghé.
Đến đây phải nói rằng các chúa nhà Nguyễn đã đưa công trình Nam tiến thêm một bước vĩ đại nữa, mà trong đó phần công nghiệp của Ngọc vạn Công  chúa Sứ giả hòa thân không phải là tầm thường vậy.
Thật vậy, sứ mạng của Ngọc vạn Công chúa đã được đeo đuổi và thực hành thật xứng đáng, đem về cho Đại việt cả một phần đất rất phong phú và nhiều hứa hẹn, tức là xứ Đồng nai. Từ đây cuộc Nam tiến không còn là vấn đề bất khả thi nữa, vì sau đó sẽ có những sự kiện lịch sử xảy đến để hoàn thành cuộc Nam tiến đến tận vịnh Thái lan, đến hết mũi Cà mau, tận Thất sơn, núi Sam, núi Bà Đen để có một biên thùy thiên nhiên Non và Nước.
Những sự kiện nào? Đầu tiên là sự kiện người nhà Minh chạy giặc Thanh Mãn châu trong những năm 1679. Được phép của  chúa Nguyễn tướng Trần thượng Xuyên nhà Minh và đồng bọn cả một hai ngàn vào Đồng nai khai hoang lập ấp lập chợ, phát triển Đồng nai. Tướng Dương ngạn Địch và đồng bọn cũng cả một hai ngàn người thì lo phát triển Trấn Đinh/Mỹ tho. Còn từ Hà-tiên, đất của Chân Lạp đã cấp cho Mạc Cữu, cũng là tướng nhà Minh cùng đồng bọn mở mang miền Hậu giang, từ vịnh Thái lan đến sông Hậu, lập 7 xã: Phú quốc, Vũng Thơm, Trũng Kè, Cần vọt, Rạch giá, Cà mau và Hà tiên. Nhưng phát triển rồi Mặc cữu lại dâng cho chúa Nguyễn (1708). Còn phần đất Tầm phong long dân Chân lạp đông đúc, đất phong phú...đang nằm giữa hai miền Đông và Hậu giang thì cũng được vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng về các chúa Nguyễn năm 1759 để trả ơn đưa mình trở lại lên ngôi vua.
Như thế là hoàn thành Nam kỳ Lục tỉnh của Việt nam, trong đó ai dám bảo rằng không có phần đóng gốp rất quan trọng, nếu không nói là công nghiệp phi thường, xây dựng từ căn bản của Ngọc Vạn Công  chúa, một sứ giả hòa thân giữa hai nước Miên/Việt?
Nhưng từ khi thành công giải quyết sự tranh chấp một mất một còn giữa Phật giáo và Hồi giáo năm 1659-60, đem lại biết bao nhiêu là quyền, biết bao nhiêu là lợi cho hai dân tộc Miên/Việt, thân phận của một con người đã xiêu bạt về đâu? Người viết muốn tìm về các nẽo đường Ngọc Vạn Công chúa đã đi trong những năm tháng còn lại thì chỉ gặp được một vài chuyện kể dân gian không chắc gì xác thực lắm!
Có chuyện kể rằng người ta đã gặp Công chúa về ở gần Tài-gòn (Chợ-lớn), trong thành Cây Mai của Đê nhị Quốc vương Chân Lạp Nặc Nộn. Đó là chuyện kể dân gian, còn nếu đọc lại lịch sử Chân Lạp và Việt nam thì có những sự kiện sau đây có thể nào giúp ta tìm về Ngọc Vạn Công chúa trong những năm tháng còn lại được không, đó là một câu hòi?
Sử sách có ghi lại những sự kiên đó như sau. Sau sự can thiệp võ trang của người cháu của Công chúa là chúa Hiền Nguyễn phúc Tần, Pon Héa So lên ngôi vua lấy hiệu là Batom Reachea, cai trị từ năm 1660 đến năm 1672 thì bị người cháu vừa là con rể giết cướp ngôi, lên ngôi vua lấy hiệu là Chey Chetta III. Nhưng rồi vua nầy cũng lại bị vợ và con cả cuả Batom Reacgea mưu sự giết lại. Con cả lên ngôi vua lấy hiệu là Ang Chei, mà sử ta gọi là Năc Ong Đài (1673-74).
Trớ trêu! Năm 1674 Nặc Ong Đài lại ra quân gây sự với  chúa Nguyễn, xây đấp công sự kiên cố ở Mỗi-xuy, làm xiềng sắt giăng ngang sông Mékong, dự bị phòng thủ lâu dài. Không dè đúng lúc chúa Nguyễn vừa rãnh tay ở phía Bắc với chúa Trịnh rồi, cho nên ngày một ngày hai  chúa Hiền Nguyễn phúc Tần cho lệnh Trấn thủ dinh Thái khương (Khánh hòa) là Cai cơ Nguyễn dương Lâm, có Thủ hợp Nguyễn diên Phái làm tham mưu, có Văn Sùng làm Thị chiến kéo quân binh ồ ạt tiến công Nặc Ong Đài, phá đồn lũy Mỗi xuy, trong tháng 3, tháng 4 đánh lấy đồn Gò-bích Nam-vang, phá vòng đai sắt giăng ngang sông, thuỷ quân bộ binh vây hãm Phnom pênh. Năc Ong Đài bỏ thành chạy vào rừng, để rồi bị thuộc hạ đâm chết.
Còn lại Ang Tan và Ang Non, hai con của Batom Preachea. Ang Tan chết bệnh, Ang Ton là Năc Nộn lên ngôi vua, đó là vào tháng 7 năm 1674. Nhưng chỉ 5 tháng sau, tức là cuối năm 1674, em của Nặc Ong Đài là Ang Saur, (sách ta gọi là Năc Thu) kéo quân đánh lại Nặc Nộn. Năc Nộn chạy về Tàigon, kêu cứu với  chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn giải quyết vấn đề "nồi da xáo thịt" nầy bằng cách nhìn nhận cho Năc Thu làm Chánh vương vì là thuộc dòng nhà bác, tức hiệu là Chey Chetta IV, đóng đô ở Phnom pênh, xác nhận Nặc Nộn làm Obareach, tức là Đệ nhị vương, đóng đô ở thành Cây Mai (gần Tài gòn hay Chợ lớn ngày nay về hướng Đông.) Năc Nộn cai trị hay đúng hơn là ngồi vì ở đây từ cuối năm 1674 hay đầu năm 1675 đến năm 1690. Cũng là năm con ông lên làm Chánh vương ở Phnom pênh, rước ông về Chân Lạp và chết ở Srei Santhor năm sau là năm 1691.7
Đến đây thì người viết có thể suy đoán như sau. Nếu chuyện kể trên là xác thực thì Ngọc Vạn Công chúa có về sống với cháu chồng mình là Năc Nộn ở thành Cây Mai thì là trong khoảng thời gian 1675-90. Nếu bà được ơn trời cho đại thọ thì có thể bà mất cũng trong khoảng thời gian 15 năm đó, khi bà đã là một bà cụ già thật già, như 85,88,89 tuổi gì đó, nhưng chắc chắn bà còn giữ được phong độ của một cô Công chúa thật đẹp, nếu không nói là sắc nước hương trời, đã một thời gần 20 năm thật là huy hoàng hơn cả một Hoàng hậu Chân Lạp, vì đã được hai văn hoá hun đúc ra một bản lãnh sứ giả khác thường. Có thể chỉ là một suy đoán thôi! Tuy nhiên người viết dám mạo muội tự cho phép mình tin tưởng như vây!
Ngoài ra, nếu Công chúa còn thọ hơn 90, 95 thì chắn chắn Công chúa sẽ thấy biết bao là vật đổi sao dời chung quanh Công chúa, mà cái gì cũng tốt đẹp cả, tốt đẹp cho quê hương của cô, cho đồng bào người Việt của cô, vì ở Bến nghé cũng như ở Tài gòn đâu đâu cũng nhộn nhịp tưng bừng kẻ ăn người làm người buôn kẻ bán như ngày hội, trong đó phần lớn là bà con ruột thịt cuả Công  chúa, từ Quảng nam/Quảng ngải, nhứt là từ Thuận hóa, cũng có rất nhiều người Minh hương cũng như nhiều người ngoại quốc khác nữa. Và nhứt là nhiều trẻ con trai gái vui đùa, bắt buộc Công chúa phải nhìn về tương lai của một dân tộc. Hơn nữa chắc chắn Công chúa đã thấy đâu là phần thưởng của Công  chúa, đâu là sứ mạng hoà thân của Công chúa, đâu là sự nghiệp đáng ghi trong sử sách của Công chúa.
Nếu sử sách không ghi cho thì cũng không sao, vì sẽ có người nào đó có tâm tư bất bình sẽ làm công việc thiếu sót đó.
Vì vậy mà người viết dám nghĩ rằng: lúc hình hài của Công chúa vào hỏa thiêu theo văn hóa nhà Phật, thì gương mặt của Công chúa làm gì cũng còn gửi lại một nụ cười hạnh phúc trước khi ra đi!
Thật là Vạn hạnh! Vạn hạnh!
Ngọc Vạn Công  chúa!
(Còn có một truyền thuyết dân gian hư cấu, người viết muốn ghi lại đây để nhắc đến nhà văn Hứa Hoành, một người bạn văn học miền Nam rất thân yêu, vì chính anh đã có viết trong tác phẩm "Nam kỳ Lục tỉnh" của anh. Nhiều người Nam nói rằng địa danh Cochin-china là tên riêng "Cô Chín Xinh" của Ngọc Vạn Công chúa, Hoàng hậu Chân Lạp. Nhưng Xinh đẹp thì rõ ràng rồi, còn thứ Chín thì từ đâu đến, hoàn toàn không thấy, Ngọc Vạn là con thứ hai hay thứ ba của  chúa Sãi. Thật sự danh xưng Cochin-china là do thương nhân người Bồ-đào-nha đặt cho vùng đất Chân-Lạp, khi họ đi vào sông Mékong tìm thị trường từ giữa thế kỷ 16 (1553). Vốn nhà thám hiểm Wasco da Gama (1460-1524) đi vòng Cape Hope, Phi châu đổ bộ (năm 1499) trên đất Indo (Ấn-độ) tại thành Cochin, họ gọi là Cochin-Indo và lập thuộc địa Goa ở đó. Đến Chân Lạp họ gọi là Cochin-china đối với Cochin-Indo. Danh xưng Indo-China cũng do thương nhân người Bồ đặt cho bán đảo ở giữa hai nước Indo và China. Nhớ anh Hứa Hoành và tác phẩm của anh.)

1      Nói về tuối tác thì theo văn hóa Ắn độ hay Chân lạp, Chiêm thành thì lại còn tảo hôn hơn nữa, nghĩa là con gái 12,13 vừa có kinh kỳ là cha mẹ mau mau phải lo gả để tránh lôi thôi. Hiện giờ ở thế kỷ 21 nầy, ở các nước có văn hóa Ấn độ hay Hồi hồi con gái đi lấy chống 11, 12 là thường. Năm 1978, người viết có đi dự một đám cưới của một gia đình Hồi giáo người Mali (Trung Phi), chàng rể 37 tuổi, cô dâu chưa tới 12 tuối, thấy thật mà thương, còn nhỏ quá. Hơn nữa, họ có truyền thống là "nhốt" cô dâu chú rể từ 7, đến 10 ngày trong phòng tân hôn, đó là tuần trăng mật của họ, nhiều khi chàng rể là những người đàn ông to lớn 4, 5 chục tuổi, đang khi cô dâu chỉ là một đứa con gái 10,11 tuổi thôi!
2      Theo Henri Russier, sử gia người Pháp thì Ngọc Vạn Công chúa phải nằn nì, Chey Chetta mới cho phép. ( La Reine insista auprès de son mari pour que la demande de ses compatriotes fut bien accueillie et le roi Chey Chetta finit par céder.) Histoire sommaire du Royaume de Cambodge), người viết cho là xuyên tạc, vì không lẽ Chey Chetta và đình thần không ý thức là phải nhờ sự hổ trợ của Chúa Nguyễn quân binh Chân lạp mới thắng quân Xiêm La trong hai trận 1621 và 1623. Nhưng cũng có thể sự hiện diện của Công chuá mà vua Chey Chatta II đang yêu thương giúp vua quyết định dễ dàng.
3      Vì từ Thăng long bắn tin là sắp có loạn cung đình, Trịnh Gia và Trịnh Nhạc mưu toan lật đổ chuá Trịnh Tráng, nên phải lo rút quân về cho gắp (tướng chúa Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật mua người đi phao tin, nhưng thật ra là tin vịt). Như thế thì cũng kể được là trong trận chiến lần thứ nhứt giữa Trịnh/Nguyễn chúa Nguyễn đã thắng với một kế cỏn con của Chưởng cơ Nguyễn hữu Dật.
4      Theo Ô. Thái văn Kiểm thì Chey Chetta chết năm 1626, sử Chân lạp do người Pháp viết và Phan Khoang viết thì Chey Chetta chết năm 1628. Người viết cho năm 1628 đúng hơn.
5      Người viết chấp nhận câu chuyện trên đây với mọi sự dè dặt, vì theo sách sử khác thì người con thay thế Chey Chetta là Ang Saur, nhưng không khi nào nói là con của bà Công chúa V.N. Có thể có sự lẫn lộn giữa Ang Saur và Chau Ponhea To, hay là hai người là một. Người viết có tìm hỏi một người Cao-miên, nhưng anh nầy cũng mù mờ lịch sử Chân Lạp, và người Chân Lạp không bao giờ có cảm tình mấy với Hoàng hậu người Việt.
6      Thuyết trên đây xác thực hơn là thuyết của Trần trọng Kim trong VN Sử lược là Năc Ông Chân bị bắt đem về giam giữ ở Quảng bình, sau cho về Chân Lạp cai trị lại. Thuyết nầy sai, vì theo sử Chân Lạp thì đã có một ông vua tên là Batom Reachea cai trị từ năm 1660 đến 1672. Có thể Năc Ong Chân đã chết trận năm 1659 hay chết trong ngục cùng năm 1659 là đúng hơn.
7      Ông cũng nhiều lần chiêu quân mãi mã đánh lại với Nặc Thu để giành lại ngôi báu, nhưng đều thất bại vì Năc Thu có Xiêm là hổ trợ, đang khi đối với Nặc Nộn các chúa nhà Nguyễn đã chán ngấy chuyện "nồi gia xáo thịt" của Chân Lạp, các chuá chỉ lo củng cố quyền lợi của V.N. trên phần đất Đồng nai và lợi dụng uy quyền Nặc Nộn đế lấn xuống Mỹ tho hay Định tường, cũng gọi là Trường đồn Trấn Đinh.
--------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------

Xin trích đoạn ngắn sau đây của Lm. Trần Cao Tường về bà Ngọc Khoa, em của bà Ngọc Vạn:
„Khi chúa Nguyễn giao hảo với Chân Lạp thì vua Po Rome của Chiêm Thành ở Đồ Bàn (Bình Định) cũng móc nối để xin cưới công nương Ngọc Khoa. Lần này Đào Duy Từ không phải nói nhiều vì Ngọc Khoa đã thấy gương chị. Thế là một đám cưới trọng thể nữa lại diễn ra tại phủ chúa Nguyễn rước công nương Ngọc Khoa về làm hoàng hậu xứ Chàm như công chúa Huyền Trân xưa.
Ngọc Khoa ở đất Chàm được 20 năm đã giúp cho tình thân hữu hai nước khăng khít, và nhất là đưa được nhiều dân Việt được vào khai khẩn lập nghiệp. Nhưng năm 1651 xẩy ra một cuộc nội loạn chia phe phái giết hại lẫn nhau, vua và hoàng hậu đều bị sát hại. Hiền Vương phải đưa quân vào cứu, dẹp tan loạn rồi đặt người Việt giữ đất trị an. Từ đó Chiêm Thành sát nhập vào lãnh thổ Việt thành những tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phan Rang, Phan Thiết.“




Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
MOI CAC BAN XEM QUA SU TICH
Reply #11 - 13. Jul 2006 , 08:03
 
LĂNG ÔNG BÀ CHIỂU
tức
LĂNG ĐỨC THƯỢNG CÔNG LÊ VĂN DUYỆT

                                   Người dân Đồng Nai Cửu Long

Người dân Miền Nam trong bản chất chất phác cố hữu của họ, họ luôn luôn nhớ ơn những anh hùng, những quan viên, khi sinh tiền đã thương yêu lo lắng bảo vệ cho họ, làm cho đời sống của họ được bình yên no ấm, và khi quy tiên trở nên linh hiển tiếp tục giúp đỡ phù hộ cho họ vượt qua những cơn ngặt nghèo hay gặp được ít nhiều may mắn trong công việc làm ăn của họ. Những vị anh hùng, hay những quan viên đó luôn được họ yêu thương sùng bái lúc sống cũng như khi đã khuất. Họ kính trọng tôn sùng những vị đó hơn cả nhà vua, hơn cả những vị anh hùng dân tộc được người xưa thờ phụng vì những vị này gần gũi với họ hơn. Nơi an nghỉ của những vị này thường được gọi là LĂNG, được người dân đem công sức và tiền của ra tu bổ, làm đền thờ để tháng năm thăm viếng thờ phụng. Nhiều nhà giàu có tiếng tăm khi chết đi cũng được con cháu dùng chữ lăng để gọi miếu mộ họ.
Trong quyển Sài Gòn Năm Xưa, ông Vương Hồng Sển có ghi một số các Lăng Mộ ở vùng Sài Gòn-Gia Định. Đó là Lăng Thượng Công Lê Văn Duyệt ở tại chợ Bà Chiểu, Lăng Phò Mã Hậu Quân Võ Tánh nằm trong vùng đất quân sự, Lăng Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu ở trên đường Trương Tấn Bửu, Lăng Bình Giang Bá Võ Di Nguy ở Phú Nhuận, Lăng Bá Đa Lộc thường gọi là Lăng Cha Cả ở Tân Sơn Nhứt, Lăng Nguyễn Văn Học được người Pháp gọi là „tombeau du Marechal Nguyễn Văn Học“, Lăng Ông Nhiêu Lộc trong sân bay Tân Sơn Nhứt. Ở các tỉnh có Lăng Nguyễn Huỳnh Đức, Lăng Trương Công Định, vv...
Trong số các Lăng ở Miền Nam, Lăng Ông Ở chợ Bà Chiểu là quan trọng nhất, được nhiều người biết đến nhất. Người dân Miền Nam biết Lăng Ông là Mộ phần của Đức Thượng Công hay Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt. Người dân Miền Nam tin rằng Đức Thượng Công rất linh hiển, luôn luôn phò hộ cho người dân trong vùng Ngài làm Tổng Trấn, giúp dân chúng vượt nhiều cảnh khó khăn khốn cùng khi họ đến cầu xin Ngài. Hằng năm không biết bao nhiêu người đã đến đây xin xăm, hái lộc, van vái cầu xin sự bình an hạnh phúc cho gia đình mình.   
                                       LĂNG ÔNG: BIỂU TƯỢNG CỦA MIỀN NAM

Cách đây không lâu, một số cộng đồng người Việt tị nạn tại San Jose đã họp nhau lại dự định cùng chung sức xây dựng một công viên đặc biệt Việt Nam gọi là Công Viên Văn Hóa. Theo dự tính thì trong công viên sẽ có ba di tích lịch sử tượng trưng cho ba miền Nam, Trung, Bắc của dân tộc Việt. Uûy ban đặc trách Công Viên Văn Hóa ở San Jose đã lựa chọn Chùa Một Cột làm biểu tượng cho nhánh văn hóa Miền Bắc, Chùa Thiên Mụ biểu tượng cho nhánh văn hóa Miền Trungï, và Lăng Ông Bà Chiểu tức Lăng Đức Thượng Công Lê Văn Duyệt làm biểu tượng cho nhánh văn hóa Miền Nam. Đây là một lựa chọn rất có lý và rất có ý nghĩa.
Lăng Ông Bà Chiểu được xem là biểu tượng của Miền Nam vì nhiều lý do:
Nằm ngay tại Sài Gòn-Gia Định, Thủ Đô của Miền Nam từ lúc Miền này được thành hình, Lăng Ông Bà Chiểu là một di tích lịch sử quan trọng của nền văn hóa Việt Nam. Cơ sở khang trang nằm trên long mạch rất tốt về phương diện phong thủy, lại được dân chúng bồi đắp tu bổ săn sóc luôn nên càng ngày càng uy nghiêm hùng tráng. Đông đảo dân chúng, người Việt cũng như người Hoa vùng Sài Gòn-Gia Định và các tỉnh lân cận rất sùng bái Đức Thượng Công (mà người Hoa xưng tụng là Phò Mả Da Da), thường tới Lăng Ông xin xăm, cầu nguyện, lễ bái. Sự linh hiển của Đức Thượng Công cũng như sự linh thiêng của Lăng Ông luôn được dân chúng Miền Nam nhắc nhỡ. Một hội tế tự cũng đã được thành hình từ nhiều năm nay dưới danh xưng „Hội Thượng Công Quý Tế“ để lo việc bảo tồn di tích lịch sử cũng như truyền thống tế tự đặc biệt tại Lăng Đức Thượng Công.
Nhưng lý do quan trọng nhất để người dân Miền Nam chọn lựa Lăng Ông làm biểu tượng của Miền này là NHÂN CÁCH, ĐỨC ĐỘ, CÔNG ƠN của Đức Thượng Công cũng như TẤM LÒNG của Ngài đối với người dân và vùng GIA ĐỊNH xưa tức là cả vùng ĐỒNG NAI-CỬU LONG hay trọn vùng NAM KỲ LỤC TĨNH sau này.
                                           NHÂN CÁCH, ĐỨC ĐỘ CỦA ĐỨC THƯỢNG CÔNG
    Tuy sinh trưởng trong gia đình nông dân ít học và không mấy khá giả, không có cơ hội học hành để có vốn học thức cao thâm, nhưng Đức Thượng Công có tính thông minh Trời cho cùng với cách suy tư và hành động của người quân tử. Không học nhiều nhưng Ngài biết nhiều về truyện Tàu, nhất là có những nhận xét rất sâu sắc về nhân cách và hành vi của những nhân vật đặc biệt trong đó. Ngài học hỏi cách xử sự anh hùng, trung dũng, ngay thẳng của nhân vật này để áp dụng trong cuộc đời làm quan phò vua, giúp nước, trị dân của Ngài. Ngài hết lòng phò vua Gia Long, đánh Nam dẹp Bắc, giúp Gia Long thống nhất giang san lập nên Nhà Nguyễn. Ngài là một trong những „ĐỆ NHẤT CÔNG THẦN“ của Nguyễn triều. Ngài luôn giữ dạ trung thành đối với Nhà Nguyễn dù sau này Ngài không ưa thích kính phục vua Minh Mạng. Ngài giàu lòng từ thiện nhân ái đốivớnhữnkẻ yếu đuối cô thế, lúc nào Ngài cũng sẵn sàng đem hết tài sức mình ra giúp đỡ bảo vệ họ, chống lại sự chèn ép, hà hiếp, áp bức của những kẻ mạnh, ỷ quyền, cậy thế. Ngài vốn hết sức thanh liêm, đi tới đâu là thẳng tay trừng trị bọn quan lại tham tàn bốc lột, bức hiếp dân lành tới đó. Ngài rất sáng suốt trong chánh sách trị loạn. Ngài biết rõ sở dĩ dân lành phải nổi loạn vì họ không còn sống nổi dưới ách cai trị áp bức tàn nhẫn của bọn quan lại tham lam ích kỷ cho nên muốn bình định cho hữu hiệu thì phải quét sạch hết đám quan lại tham nhũng. Ngài đến đâu là đem lại sự an bình thịnh vượng cho người dân đến đó. Ngài có cái uy dũng mà người, (nhất là những kẻ bất lương) và vật đều khiếp sợ. Những con voi, cọp dữ dằn đều khuất phục dưới cái uy nghi của Ngài. Người Xiêm (Thái Lan), người Chân Lạp (Khờ Me), người Lào đều sợ oai Đức Thượng Công. Người Âu Tây sang buôn bán có dịp yết kiến Ngài đều rất kính nể Ngài.      
    
CÔNG ƠN CỦA ĐỨC THƯỢNG CÔNG
Từ năm 22 tuổi là năm Ngài bắt đầu theo phò vua Gia Long trên đường phục quốc, cho đến năm 69 tuổi là năm Ngài trút hơi thở cuối cùng, Ngài đã trải thân phụng sự cho triều đình, cho quốc gia dân tộc, trong suốt hơn 45 năm. Đối với triều Nguyễn Ngài là đệ nhất công thần được miễn lạy khi vào chầu vua, và được đặc quyền „tiền trảm hậu tấu“ ở ngoài triều nội. Công lao của Ngài đối với triều Nguyễn và tổ quốc Việt Nam thật hết sức lớn lao nhưng công lao đó không phải là công ơn để cho dân Miền Nam ghi nhớ và tôn thờ Ngài từ hơn thế kỷ nay. Công lao lớn nhất của Ngài mà người dân Đồng Nai Củu Long đời đời mang ơn tôn kính là công khai phá, mở mang, phát triển vùng đất Gia Định xưa chạy dài từ Bình Thuận đến Cà Mau nơi Ngài đã từng hai lần làm Tổng Trấn. Xin nhắc lại là khi vừa thành hình trong thập niên 1770 và bắt đầu phát triển chưa được bao lâu thì Miền Nam bị quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ trên đường rượt đuổi Nguyễn Ánh, tàn phá cướp bốc tan tành. Dân chúng vô cùng khốn khổ với những cuộc nội chiến tàn phá này. Sơn Nam trong quyển „Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam“ ghi lại như sau, căn cứ trên Gia Định Thông Chí:
„Trước năm 1776, thương cảng lớn nhứt của Miền Nam là cù lao Phố.
Năm 1776 và 1777 quân Tây Sơn tràn vào Gia Định, đánh cù lao Phố „chiếm dỡ lấy phòng ốc, gạch đá, tài vật chở về Qui Nhơn.“
Nông Nại Đại Phố tức là thương cảng cù lao Phố suy sụp luôn, thương gia Hoa Kiều bèn kéo nhau xuống vùng Chợ Lớn ngày nay để lập chợ Sài Gòn, sát với chợ Tân Kiểng thành hình từ trước 1770.
Thương cảng Sài Gòn (nên hiểu là Chợ Lớn ngày nay) thành hình và phát triển nhanh từ năm 1778... Nhưng 4 năm sau, năm 1782, Nguyễn Nhạc tới 18 thôn Vườn Trầu, bị phục kích thua thảm hại, hộ giá Ngạn của Tây Sơn tử trận. Nhạc nhận ra bọn phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Tàu theo giúp Nguyễn Ánh. “Nhạc bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10.000 người. Từ Bến Nghé đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy, qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 tiền, còn loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở“.
Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn có dụng tâm tiêu diệt đầu não kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.“ (tr. 41-43).
Ở trấn Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì dân chúng „đều chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật gì.“ „Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chạm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm Mậu Thân (1788) trở lại đây, người ta lần trở về, tuy nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nữa.“Chánh sách của Tây Sơn ở miền Nam là phá căn cứ địa, chận các đường thủy từ Sài Gòn, Cần Giờ đến vùng vàm sông Củu Long, chận các vị trí chiến lược nối liền Tiền Giang qua Hậu Giang.“ (tr. 45-46) Cuộc nội chiến đã gây bao nhiêu tàn phá đổ vở cho Miền Nam trên đường phát triển, gây trở ngại lớn lao cho dân chúng Miền Nam trên đường gầy dựng sự nghiệp. Đâu đâu dân chúng cũng mong đợi cảnh hòa bình, cuộc trị an, cơ hội thuận lợi để làm ăn xây dựng lại cuộc đời, xây dựng lại nền an ninh thịnh vượng cho xứ sở. Những mong ước chính đáng đó của người dân Đồng Nai Cửu Long đã được đáp ứng đúng sau khi Gia Long thống nhất đất nước và nhất là khi Đức Thượng Công Lê Văn Duyệt hai lần vào làm Tổng Trấn Gia Định.Ngài đã làm cho người Xiêm La nể sợ không dám dòm ngó phá phách Việt Nam. Ngài làm cho Cao Miên hết sức cám ơn thần phục, luôn trông cậy vào sự bảo vệ của Ngài. Ngài cho đào kinh, mở đường để sự giao thông được nhiều phần tiện lợi trong vùng Đồng Nai Cửu Long, cũng như giữa Cao Miên và Miền Nam nước Việt để cho việc vận chuyển quân binh cũng như hàng hóa được dễ dàng thuận lợi. Ngài kiểm soát chặt chẽ các quan viên lớn nhỏ trong vùng cai trị của Ngài để không có nạn tham nhũng, chèn ép áp bức dân lành xảy ra, để cho người dân được yên lòng làm ăn. Trong khi triều đình chủ trương bế môn tỏa cảng, xem thường thương mãi (theo đúng thứ tự Sĩ, Nông, Công, Thương của nho gia), không giao tiếp với các nước ngoài (ngoại trừ Trung Hoa), triệt để cấm đạo Thiên Chúa, thì ở Gia Định sự giao thương được mở rộng, việc giảng đạo không bị bắt bớ, người dân lương thiện có cơ hội làm ăn, gầy dựng, phát triển sự nghiệp của mình trong không khí an bình thuận lợi. Nhờ chính sách cai trị sáng suốt và nhân đạo đó mà sau bao năm bị tàn phá cướp bốc, Miền Nam lại sống dậy, phát đạt và phồn thịnh chưa từng thấy trong toàn cõi Việt Nam (xin xem thêm bài „Khâm Sai Gia Định Thành Tổng Trấn Chưởng Tả Quân Quận Công Lê Văn Duyệt“ trong đặc san này). Công ơn lớn lao đó của Ngài Tổng Trấn không bao giờ người dân Đồng Nai Cửu Long có thể lãng quên. Họ đời đời ghi nhớ.
                                                        TẤM LÒNG CỦA ĐỨC THƯỢNG CÔNG
Tấm lòng của Ngài đối với vùng đất Gia Định và người dân Đồng Nai Củu Long thật như trời biển. Ngài đúng là bậc cha mẹ dân luôn luôn thương dân như con đẻ. Có thể nói là đối với Ngài „dân vi quí, xã tắc thứ chi“ vậy. Chính vì vậy mà người dân Gia Định mang ơn Ngài, tôn sùng Ngài hơn cả vua chúa, hơn cả những vị anh hùng dân tộc thường được lịch sử ca tụng từ trước đến giờ. Trong quyển tiểu thuyết lịch sử „Lê Văn Duyệt, Từ Nấm Mồ Oan Khuất Đến Lăng Ông“ của Hoàng Lại Giang có một đoạn văn nói lên tâm trạng buồn lo và tấm lòng của Ngài đối với quê hương xứ sở như sau:„Lâu nay ta vẫn coi chết sống là lẽ thường. Ta chẳng đã từng bao lần đứng trước cái chết, vậy mà ta không chết. Vậy thì chết đâu phải dễ... Dẫu sao ta vẫn là ta, là Lê Văn Duyệt. Mong ước của ta là trừ khử được lũ cường bạo, giúp những người dân lành vô tội, sống đói rách mà quanh năm vẫn phải quần quật...Ta muốn trở về quê ta, trở về Gia Định. Dân Gia Định là dân cùng đường chạy về đây. Chính đám dân này đã khai sáng đất Gia Định này. Họ sống hào hiệp nghĩa khí lắm.  Đời ta nghĩ lại, có gì đâu. Không vợ, nhà vua cho cung phi làm vợ. Không con, lấy cháu làm con. Ta không ham hố điều gì. Ta coi thường mọi công danh.  Phải, ta sẽ trở về với dân Gia Định thuở hàn vi. Chút tình quê hương, chút nghĩa đồng bào một thuở... , tranh thủ mà ơn đền nghĩa trả. Công lớn lắm. Nghĩa nặng lắm. Dân không bao giờ đòi ta. Bao giờ nhắc tới dân Gia Định ta cũng thấy mình mang nợ.“ (tr. 93)  Trên đây là một đoạn văn tiểu thuyết nhưng người viết tiểu thuyết đã phần lớn thấy đúng tâm trạng của Đức Thượng Công. Ngài thương dân Gia Định, Ngài thương đất Gia Định vô cùng. Ngài đã đem tất cả tài sức giúp dân, giúp quê hương xứ sở. Tấm lòng của Ngài đối với dân Đồng Nai Cửu Long và mảnh đất thân yêu này thật là vô bờ bến.   Sống đã vậy mà khi mất đi rồi vẫn tiếp tục bảo bọc phù hộ con dân của mình. Thác rồi Ngài trở thành một vị thần hiển linh mà người dân Gia Định hết lòng tín ngưỡng phụng thờ. Lăng Ông Bà Chiểu nổi tiếng từ bấy lâu nay là vậy. Lăng Ông Bà Chiểu rất xứng đáng làm biểu tượng cho cả Miền Nam.    
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
LỊCH SỮ MIỀN NAM THÀNH HÌNH
Reply #12 - 13. Jul 2006 , 08:54
 
KHÂM SAI GIA ĐỊNH THÀNH TỔNG TRẤN
CHƯỞNG TẢ QUÂN QUẬN CÔNG LÊ VĂN DUYỆT
(1764 - 1832)

                                   Nguyễn Thanh Liêm


     [Dưới thời Gia Long- Minh Mệnh, Gia Định bao gồm tất cả các tĩnh Miền Nam từ Phan Thiết đến Cà Mau, tức là Nam Kỳ Lục Tỉnh sau nầy. Gia Đnh thời đó là cả vùng Dồng Nai Cửu Long ngày nay. Làm Tổng Trấn Gia Định thời đó cũng chẳng khác nào làm Thống Đốc Nam Kỳ thời Pháp thuộc hay Thủ Hiến Nam Việt thời Quốc Trưởng Bảo Đại. Năm 1832 sau khi Dức Tả Quân Lê Văn Duyệt từ trần, chế độ Tổng Trấn Gia Định mới bị bãi bỏ. Minh Mạng chia trấn Gia Định thành nhiều tĩnh.]

Khâm sai ChưởngTả Quân Lê Văn Duyệt sinh năm Giáp Thân (1764) tại Cù Lao Hổ, cạnh Vàm Trà Lọt nay thuộc làng Hòa Khánh, tĩnh Định Tường. Nội tổ là Lê Văn Hiếu từ Quảng Nghĩa thiên cư vào Nam. Thân phụ là Lê Văn Toại và thân mẫu là Phúc Thị Hào, sau này rời Vàm Trà Lọt đến cư trú bên Rạch Ông Hổ (vùng Rạch Gầm) nay thuộc làng Long Hưng Tây tỉnh Định Tường.
Ngài sinh ra đã mang tật kín (ái nam) nên tính khí cũng khác người thường. Thuở nhỏ thường không chịu đi học mà chỉ thích làm bẩy, làm giỏ, bắt chim, đánh cá, nhất là đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe tập trận đánh giặc. Rất khỏe mạnh, rất thông minh, giỏi võ thuật, tuy không có đi học nhiều, nhưng biết rất nhiều về truyện Tàu cùng các anh hùng hảo hán cũng như tư cách, tài năng và cách xử sự của họ ở trong đời. Ngài có chí lớn, mới 15 tuổi đã có câu nói „sinh ở đời loạn, không hay dựng cờ trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là trượng phu.“
Năm 17 tuổi Ngài đã có dịp cứu Chúa Nguyễn Ánh cùng vài người tùy tùng khỏi tử thần. Đêm hôm đó Nguyễn Ánh bị quân Nguyễn Lữ đuổi gắp. Nhờ mưa to gió lớn thuyền của quân Nguyễn Lữ không đuổi theo được thuyền Nguyễn Ánh. Nhưng khi đến Vàm Trà Lọt thì thuyền chở Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng bị sóng lớn làm cho suýt bị chìm. Ngài xuất hiện kịp lúc, đỡ thuyền Nguyễn Ánh đưa vào bờ, giúp Nguyễn Ánh thoát nạn. Biết Nguyễn Ánh là dòng dõi chúa Nguyễn, cụ Lê Văn Toại hết sức cung kính, lo lắng cho Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng cho họ tạm trú ở đây mấy hôm. Sau đó Nguyễn Ánh lại phải tiếp tục tìm đường lẩn trốn đoàn quân Nguyễn Lữ đang lục soát các nơi lùng bắt. Lúc chia tay Nguyễn Ánh cám ơn ông bà Lê Văn Toại với lời hứa là sau này sẽ trở lại đem Lê Văn Duyệt theo.
Giữ đúng lời hứa, năm 1786 sau khi lên ngôi Chúa ở Gia Định, Nguyễn Ánh trở lại Vàm Trà Lọt cám ơn vợ chồng ông Lê Văn Toại đã giúp ông trong cơn hoạn nạn, và tuyển dụng Lê Văn Duyệt làm thái giám. Từ đó Ngài xả thân phò Chúa Nguyễn Ánh, cùng với Nguyễn Văn Thành đánh Nam dẹp Bắc, lập nhiều công trận lớn lao, được phong đến tước Quận Công. Khi vua Gia Long thống nhất giang san, lên ngôi Hoàng Đế, Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt được liệt vào hàng Đệ Nhất Khai Quốc Công Thần, với đặc ân được vào chầu vua không phải lạy và được đặc quyền „tiền trảm hậu tấu“ nơi biên thùy. Gia Long thăng hà, Ngài tiếp tục phò vua Minh Mạng cho đến hết cuộc đời mặc dù Ngài không kính phục thương mến ông vua này chút nào cả. Minh Mạng cũng không ưa gì Ngài nhưng phải dùng đến Ngài cho đến hết cuộc đời. Tuy vậy năm 1823 Ngài cũng được Minh Mạng ân thưởng ngọc đái với lời dụ: „Từ xưa hoàng tử, chư công chưa ai được ân tứ ngọc đái, nay khanh đã nhiều vãng tích, lại kiến tân lao nên đặc biệt ân tứ vậy.“
Năm 1831 người bạn thân nhất của Ngài là Lê Chất, Tổng Trấn Bắc thành lìa đời khiến Ngài vô cùng thương xót. Sau cái chết của Lê Chất, Minh Mạng bãi bỏ chế độ tổng trấn ở Bắc Việt, đổi làm tỉnh, cử những chức vụ mới như Tổng Đốc, Tuần Phủ,.. Năm sau Đức Tả Quân xin từ chức Tổng Trấn Gia Định nhưng nhà vua không cho, bắt buộc Ngài phải ở lại. Nhưng chỉ mấy tháng sau thôi thì Ngài lâm trọng bệnh và mất ngày 30 tháng 7 năm Mậu Thìn (nhằm ngày 15 tháng 8 năm 1832) hưởng thọ 69 tuổi. Miếu mộ của Ngài được xây cất tại Bình Hòa Xả (Gia Định), nơi người dân Đồng Nai kính cẩn gọi là „Lăng Ông,“ „Lăng Ông Thượng,“ hay đền thờ Đức Thượng Công, và các thiện nam tín nữ Trung Hoa tôn xưng là „Phò Mã Da Da Miếu.“

NHỮNG ĐỨC TÍNH CAO QUÝ CỦA ĐỨC THƯỢNG CÔNG

Thanh liêm, ngay thẳng, trong sạch
Ngài là một vị quan rất mực thanh liêm, trong sạch. Dù có quyền hành thật lớn trong tay, Ngài không hề hiếp đáp kẻ dưới, không hề lấy của ai bất cứ tiền bạc hay của cải gì. Nhiều khi Ngài còn bỏ tiền túi ra để làm việc hữu ích cho dân. Ngài đi tới đâu là làm sạch sẽ tới đó. Tất cả những quan viên lớn nhỏ dưới quyền kiểm soát của Ngài cũng đều phải trong sạch, thanh liêm như Ngài. Quân lính của Ngài rất có kỷ luật, không hề phá phách, cướp bốc của dân. Ngài cai trị đến đâu là những kẻ nhũng lạm, hại dân đều phải rơi đầu đến đó, bất kỳ người đó là ai.
Khi được triều đình cử đi dẹp loạn ở nơi nào, Ngài cũng cho điều tra kỹ để biết rõ nguyên nhân tại sao dân nổi loạn. Khi biết chắc nguyên nhân của cuộc nổi loạn là do nơi đám quan lại sở tại tham nhũng, bức hiếp dân chúng, làm cho dân chúng quá khổ sở, không thể nào sống được nên phải nổi loạn, thì Ngài thẳng tay trừng trị bọn quan lại tham nhũng trước rồi kêu gọi những kẻ làm loạn trở về đầu thú với triều đình, sống lại cuộc đời lương thiện. Nhờ chính sách sáng suốt và rộng rãi đó mà Ngài đã dẹp loạn ở nhiều nơi một cách nhanh chóng, hữu hiệu, mà không tốn kém tiền bạc và nhân mạng. Chính sách này đã được Ngài cho áp dụng trong chiến dịch chiêu hồi Mọi Vách Đá vào những năm 1807 và 1808. Trong chiến dịch này Ngài đã cho xử trảm Chưởng Cơ Lê Quốc Huy, một tên đại tham nhũng, để đem bình yên an cư lạc nghiệp lại cho dân chúng. Năm 1819 Ngài được cử đi kinh lược hai trấn Thanh, Nghệ. Ở đây Ngài cũng áp dụng chính sách nói trên, thẳng tay trừng trị bọn quan lại tham ô rồi chiêu dụ những kẻ làm loạn trở về với triều đình. Đặc biệt là Ngài cho lập ra ba đội lính „Hồi Lương“ (An Thuận, Thanh Thuận, và Bắc Thuận) gồm những thành phần nổi loạn đã trở về với triều đình.
Việc làm nổi tiếng nhất của Ngài là xử tử Huỳnh Công Lý, Phó Tổng Trấn Gia Định. Huỳng Công Lý là cha của một bà thứ phi rất được vua Minh Mạng sủng ái. Ỷ thế cha vợ vua, Huỳng Công Lý vơ vét tiền của của dân chúng, hà hiếp kẻ yếu, hối lộ ngang nhiên trắng trợn. Tiếng kêu ca thấu đến tai Ngài Tổng Trấn, Ngài cho điều tra tận gốc. Có đủ bằng chứng Ngài dâng sớ lên triều đình hài rõ tội trạng của Huỳnh Công Lý. Sợ triều đình vị nể cha vợ của vua, không dám thẳng tay trừng trị, Ngài bèn ra lệnh xử trảm Huỳnh Công Lý trước khi có lệnh giải tội phạm về kinh của vua Minh Mạng. Từ thời Gia Long, Ngài đã được triều đình ban cho cái quyền „tiền trảm hậu tấu“ (xử trảm trước rồi sẽ tâu lại với triều đình sau) để sử dụng ở biên cương hầu kịp thời đáp ứng với tình thế.
Về đức tính thanh liêm trong sạch của bậc cha mẹ dân, Ngài là một tấm gương vô cùng sáng chói cho người làm quan cũng như nhiều công chức ở Miền Nam sau này.
Dũng cảm, quả quyết, trọng nhân ái
Đức thanh liêm của Ngài gắn liền với lòng dũng cảm. Ngài có cái dũng của đấng nam nhi, của bậc trượng phu, anh hùng. Ngài không rụt rè, e ngại hay sợ sệt khi phải hành động đúng lẽ phải và công lý. Hoàn cảnh có khó khăn nguy hiểm đến đâu Ngài cũng mạnh dạn dấn thân vì lòng trung quân ái quốc, vì dân vì nước. Vì sự thanh liêm trong sạch, vì lẽ phải Ngài không bao giờ hèn yếu khuất phục trước bất cứ kẻ quyền thế nào dù người đó là nhà vua đi nữa. Trường hợp Huỳnh Công Lý trên kia là một thí dụ điển hình. Ngoài ra khi vua Minh Mạng, vì tư thù và vì sợ bị mất ngôi, đem xử tội Tống Thị Quyên, vợ của Hoàng Tử Cảnh, một cách oan uổng, thì chỉ một mình Ngài can đảm dâng sớ lên vua xin tha tội cho người này. Việc làm của Ngài không khỏi làm cho Minh Mạng bực tức, giận ghét Ngài thêm, nhưng vì lẽ phải Ngài vẫn cứ làm. Hai lần Minh Mạng cử người vào Nam giữ chức vụ quan trọng đều bị Ngài gởi trả lại triều đình vì những người này chỉ là những kẻ tham tàn, hại dân hại nước mà thôi. Một trong những người đó là Bạch Xuân Nguyên mà sau này sẽ là đầu mối của cuộc nổi loạn ở trong Nam do Lê Văn Khôi chủ xướng. Minh Mạng không ưa thái độ xem như ương ngạnh của Ngài nhưng vẫn rất nể sợ tài năng, đức độ của Ngài nên không dám làm gì trong lúc Ngài còn sống, mà lại ôm ấp lòng giận ghét để sau này tìm cơ hội báo thù. Quan trọng nhất là việc Ngài không chịu thi hành lệnh cấm đạo hết sức gắt gao của Minh Mạng. Ngài cho rằng việc cấm đạo, bắt bớ giết chóc các nhà truyền giáo và các giáo dân, bế môn tỏa cảng không cho người Tây phương vào giao dịch, buôn bán, là một chính sách hết sức sai lầm. Trong Gia Định trấn (từ Phan Thiết đến Cà Mau), dưới sự cai trị của Ngài, không có sự cấm đạo và cũng không có sự bế môn tỏa cảng. Ngài không phản bội nhà Nguyễn, luôn luôn bảo vệ nhà Nguyễn, rất mực trung thành với nhà Nuuyễn, nhưng Ngài luôn luôn can đảm làm trái lệnh nhà vua nếu việc làm của Ngài có lợi cho quốc gia, cho triều đình, và cho người dân Nam Việt.
Trung quân, ái quốc
Ngài luôn luôn trung thành với các vua nhà Nguyễn. Thuở thiếu thời Ngài đã theo phò vua Gia Long, vào sinh ra tử với nhà vua. Khi Gia Long mất, Ngài tiếp tục phò vua Minh Mạng, mặc dù Ngài không có thiện cảm với vị vua này. Ngài kính nể thương yêu hoàng tử Đán, con trai của hoàng tử Cảnh hơn. Cho nên khi Gia Long hỏi ý Ngài và Nguyễn Văn Thành về việc chọn người nối ngôi, thì Ngài và Nguyễn Văn Thành đều nói nên chọn hoàng tử Đán vì hoàng tử Đán là con trai lớn của hoàng tử Cảnh, là cháu đích tôn của nhà vua, và hơn nữa, theo Ngài thì hoàng tử Đán rất khôn ngoan nhân từ, những đức tính không tìm thấy ở nơi hoàng tử Đảm. Vua Gia Long chỉ hỏi cho có hỏi vậy thôi, chớ thật sự nhà vua đã có quyết định rồi. Nhà vua đã chọn thái tử Đảm làm người nối ngôi, vì theo nhà vua thì hoàng tử Đán còn quá trẻ (mới 12 tuổi) lại có tính khí hiền hòa giống như hoàng tử Cảnh, và như vậy sợ không gánh vác nổi việc lớn của triều đình. Thái tử Đảm, theo ý Ngài, là người không có lòng đại lượng vị tha, ngược lại, ông ta là kẻ có trái tim vị kỷ, nhỏ nhen, tàn bạo, ông ta rất thông minh nhưng cũng vô cùng nham hiểm. Biết vậy nhưng Ngài vẫn giữ một dạ trung quân ái quốc cho đến hơi thở cuối cùng.
Uy Nghiêm, cứng rắn, nhưng rộng rãi, anh hùng
Ngài rất nghiêm nghị, rất uy nghi, ít có người dám nhìn thẳng vào mặt Ngài, kể cả những huân cựu đại thần ở trong triều. Chính vua Gia Long cũng công nhận rằng Ngài là bậc khai quốc công thần tính nghiêm mà thẳng, trị quân theo quân pháp, không nể nang bất kỳ ai. Nhất là đối với vua quan Xiêm và Chân Lạp. Họ rất nể sợ Ngài. Nhưng với dân chúng thì Ngài rất mực thương yêu, nhất là đối với những người biết hối cải thì Ngài lại rất bao dung rộng lượng. Nhiều kẻ nổi loạn, chống lại triều đình, đáng tội chết, vậy mà khi họ biết hối cải, trở về với triều đình thì Ngài lại dung tha và còn cấp ruộng đất cho họ để họ làm ăn sinh sống. Ngài chủ trương rằng khi mình đã dùng chính sách chiêu dụ họ về hàng, thì khi họ về với mình mình phải giữ đúng lời hứa, nếu không mình không phải là kẻ trượng phu, không còn xứng đáng với lòng tin của kẻ khác. Mất lòng tin thì những kẻ phiến loạn sẽ không cải tà quy chánh nữa, và loạn lạc sẽ kéo dài không biết đến bao giời mới hết.
Rất sáng suốt, thấy xa, hiểu rộng, có chính sách cai trị vô cùng khôn ngoan
Ngài là một người thấy xa, hiểu rộng, và rất sáng suốt trong việc cai trị. Ở địa vị Tổng Trấn Gia Định (xem như như một Phó Vương cai quản cả Miền Nam nước Việt), với tất cả quyền hành trong tay, Ngài đã đem lại cho người dân Miền Nam một nền hòa bình thịnh vượng chưa từng có trong lịch sử nước nhà. Đối ngoại Ngài đã thần phục Cao Miên và làm cho Xiêm La nể sợ không còn dám dòm ngó phá phách Việt Nam. Ngài chấp nhận giao thương với các nước Tây phương cũng như Trung Hoa, Miến điện chớ không nhắm mắt theo lệnh triều đình đóng cửa rút cầu không cho người ngoại quốc vào nước mình buôn bán. Ngài không thi hành lệnh cấm đạo của Minh Mạng, làm ngơ để cho các giáo sĩ được tự do truyền giáo ở trong Nam. Ngài chủ trương tôn giáo nào cũng tốt, cũng có nền đạo đức luân lý giúp con người sống lành mạnh tốt đẹp. Ngài bảo: „Đạo Thiên Chúa nước nào không có. Người ta đâu có ngăn cấm, sao nước mình lại đặt ra cái chỉ dụ kỳ cục vậy. Gây cảnh nồi da xáo thịt lại mang tội với đời sau“. Thay vì bế môn tỏa cảng theo lệnh của triều đình thì Ngài lại sẵn sàng đón nhận các phái bộ ngoại quốc đến xin tiếp xúc giao thương. Thay vì xem nhẹ việc buôn bán thì Ngài lại khuyến khích thương mại để đem nhiều quyền lợi về cho quốc gia dân tộc. Đối nội Ngài làm cho dân chúng được yên ổn làm ăn, lại tạo ra cơ hội để người dân góp phần phát triển kinh tế trong vùng. Ngài cho đào kinh, làm đường sá để cho sự giao thông trong nước cũng như giữa Việt Nam và Cao Miên được dễ dàng. Ngài khuyến khích người dân khẩn hoang lập ấp, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Ngài tạo điều kiện tốt cho các giống dân (Trung Hoa, Miên, và người ngoại quốc khác) sống ở đây hội nhập vào xã hội Việt Nam mới này để cùng chung sức làm cho đất nước được phồn thịnh. Về xã hội, nghĩ đến những người đã hy sinh vì nước để vợ con bơ vơ thiếu thốn, Ngài cho thiết lập hai cơ quan từ thiện là „Anh hài“ và „Giáo dưỡng“ để lo cho vợ con các chiến sĩ vị quốc vong thân. Tuy xuất thân là một võ quan, Ngài vẫn chú trọng đến việc phát triển văn hóa. Ngài dùng tiền do triều đình ban thưởng cho cá nhân Ngài để xây Văn Thánh Miếu khích lệ việc học của các sĩ tử.
Công lao to tát đối với dân Đồng Nai Cửu Long
Công lao của Ngài đối với người dân vùng Đồng Nai Cửu Long thật vô cùng to tát. Đó là công phát triển Miền Nam, làm cho vùng này trở nên vô cùng trù phú với một nền an ninh hết sức vững chắc (bởi chiến lược bảo vệ và phòng thủ phía Nam và phía Tây rất hữu hiệu của Ngài), làm cho dân Miền Nam được an hưởng hòa bình thịnh vượng, trong một xã hội trật tự nhưng cởi mở, tiến bộ. Trong lần hội kiến với Ngài tại Gia Định thành, Phan Thanh Giản đã hết sức kính phục thố lộ:
„Gia Định này thật có phúc mới gặp được một Tổng Trấn như đại quan. Tôi ở Kinh Thành, ở Bắc Thành vào Gia Định thấy như đi qua một nước khác. Ở dọc sông thì trên bến, dưới thuyền, ghe thuyền san sát, lúa gạo nghìn nghịt. Vải vóc, đồ thau, đồ đồng, đồ sứ, đồ gốm, thảo mộc quý, quế, trầm, hồi thật là không thiếu thứ gì. Trên đất liền, nhà cửa phố xá san sát, khang trang. Đường đi lại lát gạch, lát đá sạch sẽ mát mắt.
Cảnh dân theo đạo Thiên Chúa trốn chui, trốn nhủi như ở ngoài Bắc Thành, Kinh Thành, ngoài Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, vào đây không thấy. Cha truyền giáo vẫn đi lại bình thường trên đường phố. Tôi thật mừng. Mình làm quan thấy dân vui là mình vui. Làm quan chỉ biết vui phần mình thật đáng trách.“
Năm 1822 một phái đoàn Anh do ông Crawfurd dẫn đầu có đến yết kiến Ngài Tổng Trấn. Trong dịp này Crawfurd thú nhận: „Đây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng.“ Sau đó ông còn ghi lại trong quyển nhật ký của ông về những sinh hoạt của thành phố Sài Gòn lúc đó và tiếng tăm của Ngài Tổng trấn như sau:
„Thành phố Saigun không xa biển, có lẽ cách độ 50 dặm; thành phố Pingeh (Bến Nghé) gần đó cách thành phố Saigun độ 3 dặm. Dinh Tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được Tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ Tổng trấn biết được cũng bị phạt rất nặng.
Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp. Từ các nơi, dân đi thuyền theo các kênh rạch lên bán cho chúng tôi. Nhìn dân chúng hân hoan vui vẻ, chúng tôi biết dân no đủ. Nhiều người rất kính trọng vị Tổng trấn của họ.
Con người này ít học. Nhưng lạ lùng thay là có được cái nhìn cởi mở hơn nhiều những đại thần và cả nhà vua học rộng, làu kinh sử của Khổng giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định này trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng biển Đông.“
Ngài vô cùng linh hiển đối với người dân Đồng Nai Cửu Long
Tương truyền rằng tướng tinh của Ngài là con cọp bạch. Người ta thấy lúc Ngài ngủ ban đêm con cọp bạch thường hiện ra chập chờn bên cạnh Ngài. Lúc chưa theo phò Nguyễn Ánh, Ngài thường dùng thần lực oai nghiêm của mình làm cho những con cọp hay về bên Rạch Ông Hổ phải khiếp sợ bỏ đi. Người ta cũng truyền tụng rằng những con hổ mà Ngài cho nuôi để giao đấu rất sợ Ngài, luôn luôn nghe lệnh chỉ bảo của Ngài. Con voi (đặt tên Ba Sao) của Tổng Trấn Bắc Thành Lê Chất tặng Ngài là con voi rất dữ dằn không ai trị nổi. Mỗi khi nổi cơn giận lên là nó phá phách, dày xéo một cách khủng khiếp, không ai có thể làm gì được nó. Chỉ một mình Ngài đến trước con vật khổng lồ, gọi tên nó, là Ngài làm cho nó dịu lại và tuân theo lệnh Ngài ngay.
Rồi một hôm nghe đồn ở Tây Ninh có một cô gái tên là Lý Thị Thiên Hương rất là linh hiển, Ngài bèn đến tận nơi để biết thực hư. Lúc Ngài đến thì cô Lý Thị Thiên Hương nhập vào xác một cô gái đến nói với Ngài như sau: „Tôi xin mách bảo trước cho Thượng Quan được biết là hồn của Thượng Quan sau này sẽ được phong thần và sẽ rất là linh hiển, nhưng xác của Thượng Quan thì sẽ bị hành hạ, mả bị xiềng xích, tên tuổi bị đục khoét trong 12 năm, sau đó Thượng Quan sẽ được minh oan và sẽ được phục hồi danh vị cũ.“
Sau khi Ngài mất rồi thì Minh Mạng bãi bỏ tổng trấn Gia Định, chia ra thành tỉnh, cử Bạch Xuân Nguyên làm Bố chánh sứ tại thành Phiên An (tức là Sài Gòn). Bạch Xuân Nguyên là kẻ tham tàn gian ác, trước đây đã được Minh Mạng đưa vào làm Phó Tổng Trấn Gia Định và đã bị Đức Tả Quân gởi trả lại triều đình. Vào làm bố chánh lần này, Bạch Xuân Nguyên quyết định trả mối thù xưa. Biết Minh Mạng không ưa Đức Tả Quân, Bạch Xuân Nguyên muốn lập công với nhà vua nên kiếm chuyện điều tra, bới móc, hạch hỏi những tay chân bộ hạ của Đức Tả Quân với thái độ hách dịch với lời lẽ xúc phạm đến Ngài Tổng Trấn mặc dù Ngài đã là người thiên cổ. Con nuôi của Đức Tả Quân là Lê Văn Khôi không chịu được thái độ trịch thượng và hành động lưu manh thù vặt của Bạch Xuân Nguyên nên tỏ ra bất bình chống đối. Bạch Xuân Nguyên đem nhối Lê Văn Khôi và nhiều người trong đạo lính Hồi Lương của Đức Tả Quân. Nhờ có người giúp Lê Văn Khôi và 27 người khác trong số người Hồi Lương thoát khỏi ngục bèn nổi lên giết chết Bạch Xuân Nguyên rồi tổ chức làm loạn chống lại triều đình. Việc làm của Bạch Xuân Nguyên gây sự công phẫn lớn lao trong đám quân nhân cũng như dân chúng Miền Nam vì ở đây ai ai cũng mến thương kính nể Đức Tả Quân xem Ngài như vị thần bảo hộ cho người dân vùng này. Cho nên chỉ trong vòng một tháng tất cả 6 tỉnh Miền Nam đều theo Lê Văn Khôi. Thanh thế của Lê Văn Khôi rất lớn làm cho Minh Mạng hết sức lo sợ phải cử một đoàn binh hùng tướng mạnh vào Nam dẹp loạn. Cuối năm này (1833) Lê Văn Khôi bị bệnh chết nhưng đám người theo ông vẫn cố thủ trong thành. Quân triều đình bao vây bên ngoài nhưng không làm gì được. Mãi đến năm 1835 lương thực cạn khô thành Phiên An mới bị hạ. Có 6 tội phạm bị đóng cũi gởi về Kinh, còn tất cả binh sĩ và nam phụ lão ấu trong thành (cả thảy 1831 người) đều bị chém hết và chôn chung trong một hầm gọi là „Mã Ngụy“. Đối với Đức Tả Quân, Minh Mạng cố dằn cơn giận, dụ rằng: „Lê Văn Duyệt tội nhiều đếm không xuể, càng nói càng đau lòng, bổ quan tài mà chém xác cũng không quá đáng. Nhưng nghĩ rằng nó chết đã lâu, còn cái xương khô trong mã cũng chẳng cần gia hình. Nay sai Tổng Đốc Gia Định đến chỗ mã Duyệt cào bằng, đánh 100 trượng, khắc to 8 chữ „Quyền Yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ.“ Từ đó trên ngôi mộ bị cào bằng của Ngài có một sợi xiềng sắt và một bia đá có khắc 8 chữ nói trên.
Người ta kể lại rằng ít lâu sau trong một giấc mơ Minh Mạng gặp Đức Tả Quân. Minh Mạng hỏi Duyệt đi đâu đó? Đức Tả Quân, mắt đỏ như hai hòn than, trả lời: „Không còn nhà, đi lang thang chơi, không ngờ lại bước vào Tử Cấm Thành.“ Nói xong Ngài biến mất. Minh Mạng sợ quá cho dẹp bia đá và sợi xích và để cho con cháu Đức Tả Quân sau này tự sửa đắp mả lại. Dân trong vùng Gia Định xưa đã đến dựng lên ngôi đền thờ bề thế gọi là „Lăng Ông.“ Lăng Ông linh thiêng vô cùng đối với người dân Gia Định cũng như cả dân chúng Miền Nam nói chung. Sau này vua Tự Đức nghĩ đến công lao của Dức Tả Quân mới truy phục nguyên hàm cho Ngài là: „VỌNG CÁC CÔNG THẦN CHƯỞNG TẢ QUÂN BÌNH TÂY TƯỚNG QUÂN QUẬN CÔNG.“
(Đây là một vụ án hết sức phi lý và phi nhân cho thấy tất cả cái thù hận nhỏ nhen, cũng như cái tàn bạo nham hiểm của vua Minh Mạng cùng những tay chân bộ hạ của nhà vua. Không cần biết nguyên do của sự nổi loạn, không hề nghĩ tới nguyện vọng và sự an sinh của dân chúng Miền Nam, nhà vua chỉ thấy có tự ái của nhà vua, chỉ biết mạnh tay sát phạt để thỏa mãn lòng tự ái của mình. Người ta thường cho Minh Mạng là người học rộng biết nhiều, thấm nhuần đạo lý Nho giáo. Nhưng trong vụ án này, người ta không thấy lòng nhân, chữ nghĩa, cũng như chữ trí của nhà vua. Người ta thấy ông là một kẻ tiểu nhân hơn là người quân tử. Đem 1831 người, kể cả đàn bà và trẻ con, ra chém và chôn chung trong một cái hầm lớn rồi gọi là „Mã Ngụy“ thì thật là một hành động hết sức phi nhân. Đức Tả Quân là ân nhân của Nguyễn Ánh và gia đình Chúa Nguyễn, là đệ nhất khai quốc công thần của Nhà Nguyễn, là một vị Tổng Trấn giỏi nhất. được dân chúng thương yêu nhất, đáng lẽ Minh Mạng phải xem Đức Tả Quân như một người cha, phải hãnh diện có được một người bề tôi giỏi giắn trung thành, phải kính nể một công thần quá cố, đằng này Minh Mạng lại dùng lời lẽ khiếm nhả, kém nhân từ, hài tội và trừng phạt Đức Tả Quân một cách nhỏ nhen hèn mọn.)
Cũng từ đó những người dân từ mọi nơi của Gia Định xưa (từ Phan Thiết đến Cà Mau) đã đến nơi đây dâng hoa, đốt hương cho Đức Thượng Công. Không ngày nào hương khói ở đây không nghi ngút. Rồi khi đêm xuống không khí ở đây âm u rùng rợn, người ta nghe thấy tiếng ma khóc, tiếng người ngựa rầm rộ đi. Dân cư ở quanh vùng ban đêm không ai dám đến gần, người đi qua đường phải lánh xa chỗ ấy. Người ta đồn Ngài rất linh hiển. Một lần nọ có một đoàn rước sắc thần đi ngang qua lăng miếu Đức Thượng Công, chiêng trống ầm ĩ mà không cử người vào bái yết Đức Ông, thế là cả người lẫn kiệu của đám rước tự nhiên bị quật ngã giữa đường. Sau đó có người chợt nhớ ra vội hướng vào lăng Ông khấn vái tạ lỗi rồi thì đoàn rước mới được đi qua bình an. Những người làm việc cho chính quyền, có đầu óc vô thần, tỏ vẻ xấc láo với thần linh trước miếu thờ Đức Thượng Công đều bị Ngài trừng phạt nặng nề. Ngày nay trong dân gian ai cũng nghe nói đến sự hiển linh của Ngài. Ngài luôn luôn trừng phạt những kẻ gian, kẻ trộm cướp, kẻ xấc láo vô lễ, kẻ thề thốt man trá trước lăng miếu của Ngài. Người ta hay nói đến những trường hợp bị „Ông vật“, „Ông bẻ cổ“ hay „Ông bắt hộc máu,“ để chỉ những trừng phạt đó. Trước đây các cơ quan hay hãng sở có vụ án bí ẩn không tìm ra manh mối thì người ta thường đưa các đương sự đến „Lăng Ông“ cho thề trước đền thờ Ngài. Ngược lại nhiều người thường dân làm ăn lương thiện hay đến cầu xin Ngài giúp cho họ sự bình yên, thành công trong việc làm, thi cử đổ đạt, thành tựu trong việc cưới xin, bệnh hoạn chống khỏi, vv hầu hết đều được Ngài chứng tri giúp đỡ. Tiếng đồn về việc Đức Thượng Công hiển linh thường hay thi ân, giáng họa được truyền tụng mỗi lúc một lan xa trong dân chúng từ xưa đến giờ và mãi mãi về sau này.

LỜI KẾT
     
Nếu người dân Đồng Nai Cửu Long xưa kia may mắn có được một nhà cai trị khôn ngoan, nhân đức, sáng suốt, biết thương dân thương nước như Đức Thượng Công khi Ngài còn tại thế và làm Tổng Trấn Gia Định thành, thì ngày nay dân chúng Miền Nam cũng vô cùng hãnh diện và may mắn có một vị thần bảo hộ hết sức hiển linh như Đức Tả Quân. Tiếc rằng dân Việt Nam nói chung không được cái may mắn đó vì triều đình Minh Mạng cũng như đa số các đại thần của triều đình này không có được cái khôn ngoan nhân đức và lòng thương nước thương dân của Ngài „Chưởng Tả Quân Bình Tây Tướng Quân Quận Công“. Nếu như triều đình và các đại thần của triều đình này cũng khôn ngoan, thấy xa, hết lòng vì dân vì nước, áp dụng chính sách cai trị khôn khéo, cởi mở của Đức Thượng Công đã áp dụng trong Miền Nam thì cả nước Việt Nam đã sớm trở thành một nước tiến bộ hùng cường như Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ XX rồi, và người dân Việt Nam đã được ấm no hạnh phúc như những người dân trong các xã hội tiến bộ khác từ lâu. Người đời sau nếu thật lòng thương dân thương nước, nếu thật lòng muốn cho xã hội tiến bộ, dân chúng ấm no hạnh phúc, thì nên học hỏi chính sách cai trị khôn ngoan sáng suốt cởi mở của Đức Thượng Công. Ngài thật vô cùng xứng đáng làm tấm gương cho người làm chính trị sau này, xứng đáng được sự nhớ ơn đời đời cũng như sự tin tưởng phụng thờ và sùng bái ngàn năm của người dân Nam Việt vậy.

Back to top
« Last Edit: 13. Jul 2006 , 08:58 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #13 - 14. Jul 2006 , 21:41
 
My cám ơn Anh Thọ đã sưu tầm mang về  những tài liệu lich sử  rất hữu ích Smiley
Back to top
« Last Edit: 15. Jul 2006 , 06:23 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỬ MỞ NƯỚC
Reply #14 - 19. Jul 2006 , 04:58
 
Những Phụ Nữ Mở Nước
Sử Gia Trần Gia Phụng
________________________________________

Người phụ nữ Việt Nam mở nước đầu tiên không ai khác hơn là Hai Bà Trưng. Tiểu sử cũng như sự nghiệp của Hai Bà đã được nói đến nhiều. Có lẽ chỉ cần thêm một ý kiến về Hai Bà hầu như ít được nêu ra. Đó là trong lịch sử thế giới, Hai Bà khởi nghĩa chống ngoại xâm năm 40 sau Công nguyên, là những bậc nữ lưu đầu tiên đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất nước, trước nữ anh hùng Jeanne d'Arc (1412-1431) của Pháp gần 14 thế kỷ. 
Sau Hai Bà Trưng, trong số những phụ nữ mở nước, phải kể đến các công chúa Huyền Trân, Ngọc Vạn và Ngọc Khoa. 
1.- CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN 
Vào cuối thế kỷ 13, sau khi cùng liên kết đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ, mối giao hảo giữa Đại Việt và Chiêm Thành (Champa) khá tốt đẹp. Tháng 2 năm tân sửu (1301), nước Chiêm Thành gởi sứ giả và phẩm vật sang thăm viếng ngoại giao. Khi đoàn sứ giả Chiêm Thành về nước, thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đi theo. Lúc đó thượng hoàng đã xuất gia đi tu, gặp khi rảnh rỗi, ông qua thăm Chiêm Thành, vừa để trả lễ, vừa để du ngoạn, từ tháng 3 đến tháng 11 âm lịch cùng năm. 
Vua Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman IV, trị vì 1287-1307), nguyên là thái tử Bổ Đích (Harijit), con đầu của vua Jaya Simhavarman III hay Indravarman XI (trị vì 1257-1287). Thời kháng Nguyên, vua Jaya Simhavarman III đã già, Bổ Đích nắm trọng trách điều khiển việc nước, và đã chỉ huy quân Chiêm đẩy lui lực lượng của Toa Đô (Sogatu). 
Trong cuộc gặp gỡ với vua Chế Mân, Trần Nhân Tông hứa gả con gái mình là công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Có thể lúc đó Trần Nhân Tông muốn làm cho nền bang giao giữa hai nước Việt Chiêm bền vững qua cuộc hôn nhân nầy. Lời hứa của thượng hoàng Trần Nhân Tông gặp nhiều phản bác về phía triều đình nước ta. Thời đó, quan niệm khắc khe về phân biệt chủng tộc đã khiến cho các quan và cả Trần Anh Tông, vị vua đương triều, ngăn trở cuộc hôn nhân nầy. 
Mãi đến khi Chế Mân quyết định tặng hai châu Ô và Rí (Lý) ở phía bắc Chiêm Thành làm sính lễ, Trần Anh Tông mới nhận lời, và lễ cưới diễn ra năm 1306 (bính ngọ). Năm 1307 (đinh mùi), Trần Anh Tông đổi châu Ô thành Thuận Châu [Thuận = theo, theo lẽ phải], châu Lý thành Hóa Châu [Hóa = thay đổi, dạy dỗ]. So với ngày nay, Thuận Châu từ phía nam tỉnh Quảng Trị và phía bắc tỉnh Thừa Thiên ngày nay; Hóa Châu gồm phần còn lại của tỉnh Thừa Thiên và phía bắc tỉnh Quảng Nam ngày nay; diện tích tổng cộng vùng đất nầy khoảng 10.000 km2. 
Huyền Trân được vua Chế Mân phong tước hoàng hậu Paramecvari. Đám cưới được hơn một năm, Chế Mân từ trần (1307). Vua Trần Anh Tông thương em, sợ Huyền Trân bị đưa lên giàn hỏa thiêu chết theo chồng trong tục lệ Chiêm Thành,(1) nên nhà vua cho tướng Trần Khắc Chung (tức Đỗ Khắc Chung) sang Chiêm lấy cớ viếng tang, rồi lập mưu đưa Huyền Trân và con là Đa Da trở về Đại Việt.(2) Theo Đại Nam nhất thống chí, quyển 16 viết về tỉnh Nam Định, sau khi trở về nước, Huyền Trân công chúa đã đến tu ở chùa Nộn Sơn, xã Hổ Sơn, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Sách nầy không cho biết chính xác thời điểm công chúa đi tu, nghĩa là công chúa đã đi tu ngay khi về nước hay sau khi đã về già?(3) Số phận hoàng tử Đa Da không được sử sách nhắc đến. 
Cuộc hôn nhân Huyền Trân và Chế Mân tượng trưng cho sự phát triển một cách hòa thuận về phương nam theo truyền thống sống cùng và để người khác cùng sống của người Việt. Sự hy sinh của công chúa Huyền Trân đã được một tác giả vô danh đề cao trong một bài ca Huế theo điệu nam bình rất được truyền tụng cho đến ngày nay: 
Nước non ngàn dặm ra đi, mối tình chi, 
Mượn màu son phấn, đền nợ Ô Ly, 
Đắng cay vì, đương độ xuân thì, 
Số lao đao hay nợ duyên gì? 
Má hồng da tuyết, quyết liều như hoa tàn trăng khuyết, 
Vàng lộn với chì, 
Khúc ly ca cớ sao mà mường tượng Nghê thường! 
Thấy chim hồng nhạn bay đi, tình tha thiết. 
Bóng dương hoa quỳ 
Nhắn một lời Mân quân, nay chuyện mà như nguyện, 
Đặng vài phân, vì lợi cho dân, 
Tình đem lại mà cân, 
Đắng cay trăm phần...(4)
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra