Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - TÀI LIỆU LỊCH SỬ  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra
TÀI LIỆU LỊCH SỬ (Read 8981 times)
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #30 - 15. Nov 2017 , 00:22
 
Những Nữ Anh Thư trong Sử Việt
Cuộc Khởi Nghĩa Của Hai Bà Trưng
(bài của GS Nguyễn Lý-Tưởng)
Người Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa đã có truyền thống tôn sùng các bậc anh hùng đánh đuổi xâm lăng, giải phóng dân tộc. Trong các anh hùng của dân tộc Việt Nam, thì Hai Bà Trưng và Trần Hưng Đạo đã được xem như các bậc thần thánh và được người dân lập đền thờ, có Hội Đền Đức Thánh Trần, Hội Đền Hai Bà Trưng. Sự sùng bái của nhân dân đối với các Ngài đã đi quá giới hạn bình thường, với niềm tin và sinh hoạt đặc biệt chẳng khác gì các tôn giáo. Tuy nhiên, với tư cách một người nghiên cứu sử học, chúng tôi có nhiệm vụ đi tìm sự thật lịch sử khách quan, gạt ra ngoài những tình cảm và sự sùng kính đặc biệt như đã có từ lâu đời trong dân tộc chúng ta. Nhân ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng, chúng tôi xin cống hiến quý vị độc giả những tài liệu lịch sử vốn rất quen thuộc với những nhà nghiên cứu lịch sử xưa nay, nhưng cũng có thể là mới mẻ đối với một số người vì không thuộc lãnh vực chuyên môn của họ.
1. Nước Lạc Việt
Trong các sách cổ của Trung Hoa có nói đến một dân tộc gọi là Lạc Việt. Hậu Hán Thư, quyển 54, phần nói về Mã Viện, danh tướng của nhà Hán, có chép rằng: “Viện hảo kỵ, thiện biệt danh Mã, chinh Giao Chỉ, đắc Lạc Việt đồng cổ, nải chú vi mã thức” (Viện cưỡi ngựa giỏi, nên có biệt danh là Mã, khi sang đánh Giao Chỉ, ông đã lấy được trống đồng của người Lạc Việt, đem đúc thành con ngựa). Thế kỷ thứ 6, có một người tên Lệ Đào Nguyên, đã từng đến đất Lạc Việt xưa (vùng Mê Linh) và đã ghi lại những điều nghe thấy qua sách Thủy Kinh Chú như chuyện Trưng Trắc, Trưng Nhị, v.v...Lệ Đào Nguyên cũng có nhắc đến một sách cổ tên là “Giao Châu ngoại vực ký”. Sách nầy được sử gia Pháp là Aurousseau cho rằng có thể do Cố Vi vào đời nhà Tấn (205- 420), trong đó có một đoạn nói đến đời sống của dân Lạc Việt như sau:“ Giao Chỉ tích hữu quận, huyện chi thời, thổ địa hữu Lạc Điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân. Thiết Lạc vương, Lạc hầu, chủ chư quận huyện. Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ” (Lệ Đào Nguyên, Thủy Kinh Chú, quyển 7, tờ 4b), dịch nghĩa: “Ngày xưa khi đất Giao Chỉ chưa trở thành quận, huyện của nhà Hán, ở đó có ruộng gọi là ruộng Lạc. Ruộng đó tùy theo nước thủy triều lên xuống (ruộng ngập nước), dân khai khẩn ruộng đó nên gọi là ruộng Lạc. Họ lập ra các chức Lạc vương, Lạc hầu để làm chủ các huyện. Có nhiều Lạc tướng có ấn đồng lụa xanh”. Tư Mã Trinh khi chú giải Sử Ký của Tư Mã Thiên có nhắc đến một sách khác của họ Đào là “Quảng Châu Ký” trong đó có nói đến đời sống của dân Lạc. Lê Tắc, trong An Nam Chí Lược (viết vào khoảng năm 1333) trang 24 cũng có nhắc đến đời sống của dân Lạc...Thế kỷ 15, Ngô Sĩ Liên, trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng nhắc đến Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng...Thế kỷ 17, Cao Hùng Trưng, trong “An Nam Chí Nguyên” và thế kỷ 19, sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” cũng nhắc lại chi tiết đó...Nhiều học giả cho rằng các sách nầy đều lấy lại tài liệu của “Giao Châu ngoại vực ký” nói trên vì tất cả các tác giả đều lặp lại những chi tiết mà sách Giao Châu Ngoại Vực Ký đã nói đến. Qua đoạn văn trên chúng ta biết được dân lạc Việt đã có đời sống nông nghiệp, biết khai thác ruộng ngập nước (ruộng Lạc), họ có vua gọi là Lạc vương và dưới vua có Lạc hầu, Lạc tướng...Vua cấp cho các tướng con dấu bằng đồng, có giải lụa xanh,v.v... hoặc là các tướng tự đúc ra con dấu bằng đồng, có giải lụa xanh. Như vậy thời đó họ đã dệt được lụa hoặc mua lụa của người Trung Hoa (nhà Tần nổi tiếng về tơ lụa). Xã hội thời đó đã có tổ chức, kinh tế phát triển và họ cũng có luật pháp riêng. Theo Phạm Việp, tác giả Hậu Hán Thư, thì: “Luật của người Lạc Việt và luật của nhà Hán khác nhau đến mười điều vì thế Mã Viện phải giải thích luật pháp cũ cho họ và bắt họ từ này về sau phải tuân giữ” (Hậu Hán Thư, quyển 54, trang 747, cột 2: “Điều tấu Việt luật dữ Hán luật bác giả thập dư sự. Dữ Việt nhân minh cựu chế dĩ ước thúc chi, tự hậu Lạc Việt cử hành Mã tướng quân cổ sự”).
Những chi tiết trên đây là hình ảnh của dân Lạc Việt trước khi bị người Trung Hoa xâm chiếm, thế kỷ thứ I trước Công nguyên. Sử liệu có sớm nhất cũng xuất hiện vào thế kỷ thứ IV, nghĩa là sau các biến cố nói trên mấy trăm năm và do người Trung Hoa ghi chép. Sử gia Việt Nam khi nói về thời kỳ nầy cũng dựa vào sử sách của Trung Hoa là chính. Khi viết về người Lạc Việt người Trung Hoa dùng Hán tự để phiên âm những tên người, tên đất hoặc diễn tả ý nghĩa của sự việc. Do đó những từ “Lạc vương”, “Lạc hầu”, “Lạc tướng” là ngôn ngữ của Trung Hoa chỉ các chức vụ của người Trung Hoa tương đương với chức vụ của người Lạc Việt.
Nói tóm lại, người Lạc Việt đã có một xã hội, có tổ chức, có người lãnh đạo, có luật pháp, có văn hóa nghệ thuật, kinh tế phát triển so với các dân tộc khác cùng thời. (Ở đây, chúng tôi xin lưu ý một điều: Người Mường và người Việt ở miền Trung từ Nghệ An vào đến Quảng Trị là vùng đất cổ của tổ tiên chúng ta trước thế kỷ thứ 10, thường phát âm chữ “Nước” thành chữ “Nác” (nước uống). Chữ nầy rất gần với “Ruộng Nước”, “Ruộng Nác”, chúng tôi nghĩ rằng người Trung Hoa đã phiên âm chữ “Nác” thành chữ Lạc có nghĩa là một dân tộc chuyên làm ruộng nước, cấy lúa trên ruộng ngập nước chứ không gieo hạt lúa trên nương rẫy. Đó là điểm đặc biệt của người phương Nam khác với người phương Bắc (Bắc kinh).
2. Chính Sách Thực Dân Của Nhà Tần
(221-206 trước Công Nguyên): Triệu Đà Và Nước Nam Việt
(Danh từ “thực dân” được hiểu là đem dân từ nơi nầy đến lập nghiệp nơi khác và không cho họ trở về quê cũ, nơi sinh quán nữa. “Thực” ở đây theo Hán tự có nghĩa là “Trồng” như trồng cây). Sau khi Lữ Chính diệt được 6 nước nhỏ (lục quốc), thống nhất thành một nước lớn và lên ngôi tức Tần Thủy Hoàng (221-206 trước Công Nguyên). Nhà Tần có một chính sách thực dân rất quy mô. Sử gia Tư Mã Thiên (thế kỷ thứ I trước Công Nguyên) đã cho chúng ta biết một số chi tiết về chính sách đó như sau:“Năm thứ 33 đời Tần Thủy Hoàng (tức năm 214 trước Công Nguyên), vua bắt tất cả những kẻ lang thang vô thừa nhận, bọn ăn dưng ở nể và bọn con buôn đi chiếm đất Lục Lương. Ông lập ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận, và đày những người có tội đến ở để giữ” (Sử Ký, quyển 6, tr. 25, cột 2). Đạo quân thực dân thời Triệu Đà từ phương Bắc đến trong đó có cả lính tráng và dân thường lên đến nửa triệu người. Để thực hiện chính sách đó, nhà Tần cho đào sông, bắc cầu, xẻ núi, mở đường, sai Sử Lộc chế ra lâu thuyền để vận tải hàng hóa, binh khí...Bọn người nầy vượt Ngũ Lĩnh đi về phương Nam, chiếm đất mới và lập nghiệp ở đó, không trở về. Khi chiếm được đất rồi, họ cho những người nầy đến ở lẫn lộn với người Lạc Việt. Sách Sử Ký đã dùng chữ “tạp xư”(ở lẫn lộn) cho thấy chính sách đồng hóa thâm độc của nhà Tần. Nhưng người Lạc Việt chống lại chính sách đó bằng cách trốn vào rừng, bất hợp tác. Trong sách “Nhân Gian Huân”, quyển 18, tờ 18, Lưu Ẩn cho biết thêm một chi tiết sau đây:“Tất cả người Lạc Việt rút vào rừng rậm, sống chung với cầm thú chứ không chịu làm tôi nhà Tần” Việt nhân nhập tùng bạc trung dữ cầm thú xử, mạc khẳng vi Tần lỗ). Sử Ký của Tư Mã Thiên, quyển 118 trang 260 còn ghi lại một chi tiết như sau:“Triệu Đà đã sai sứ mang thư về cho vua Tần xin gởi đến cho ông ba vạn đàn bà góa chồng hoặc con gái ế chồng để cho lính của ông cưới làm vợ” (Sử nhân thượng thư cầu nữ vô giá giả tam vạn nhân dĩ vi sĩ tốt y bố). Điều đó chứng minh rằng không những người Lạc Việt tìm cách xa lánh người Tàu, mà chính người Tàu cũng không muốn làm bà con với người Lạc Việt. Cũng có thể vì trình độ văn hóa, văn minh của hai giống người đó quá chênh lệnh, khó hòa đồng được. Sự hiện diện của ba vạn đàn bà, con gái góa, hoặc ế chồng vào thời đó đã thành lập được ba vạn gia đình và họ sinh con đẻ cháu từ thế hệ nầy qua thế hệ khác đã tạo nên con số đông đảo người phương Bắc tại vùng đất của người Lạc Việt. Trong số những tướng của nhà Tần sai đi thực hiện cuộc Nam tiến có quan Đồ Thư, Nhâm Ngao và Triệu Đà...là những người được sử sách nhắc đến nhiều nhất. Đồ Thư đem quân đến đánh nước Âu Lạc, buộc Thục Phan phải khuất phục nhà Tần. Nhưng sau đó, nhà Tần suy yếu, dân Âu Lạc nổi dậy giết Đồ Thư, giành lại độc lập. Quan nhà Tần ở quận Nam Hải là Nhâm Ngao muốn đem quân lấy lại đất Âu Lạc, nhưng việc chưa thành thì bị bệnh mất. Trước khi chết, ông trao quyền lại cho Triệu Đà. Lúc bấy giờ Triệu Đà đang trấn giữ đất Long Xuyên được kiêm chức Lệnh Úy Nam Hải. Năm 208 trước Công nguyên, Triệu Đà đem quân đánh nước Âu Lạc củaAn Dương Vương (Thục Phán) lập ra nước Nam Việt. Sử Ký của Tư Mã Thiên có một chương nói về Triệu Đà rất lý thú. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, nhà Tần suy yếu, xã hội loạn lạc...Lưu Bang diệt được nhà Tần, thắng được Hạng Vũ, thống nhất thiên hạ, lập ra nhà Hán, xưng là Hán Cao Tổ. Trong thời gian đó, Triệu Đà lấy được nước Âu Lạc của Thục Phán, hợp nhất Âu Lạc và Nam Hải thành một nước độc lập gọi là nước Nam Việt, tự xưng làm vua, lập ra nhà Triệu, tức là Triệu Vũ Vương (207-137 trước Công nguyên), đóng đô ở Phiên Ngung (nay thuộc Quảng Châu bên Trung Quốc). Năm 196 trước Công nguyên, Hán Cao Tổ sai sứ là Lục Giả sang Nam Việt kêu gọi Triệu Đà về thần phục nhà Hán. Lúc bấy giờ Triệu Đà làm vua Nam Việt đã được 12 năm rồi và Lưu Bang mới lên ngôi được 11 năm. Triệu Đà tự xem mình là anh hùng trong thiên hạ, sánh ngang với Hán Cao Tổ Lưu Bang, nên khi tiếp sứ nhà Hán ông đã có thái độ ngang nhiên tự đắc. Nhưng Lục Giả cũng đã thuyết phục được Triệu Đà về thần phục nhà Hán vì Triệu Đà vốn là người Tàu, quan của nhà Tần. Về sau, nhân khi Hán Cao Tổ mất, Lữ Hậu chuyên quyền, có sự xích mích biên giới với Triệu Đà nên Triệu Đà tự lập làm Hoàng đế và đem quân đánh chiếm đất của nhà Hán. Từ đó thanh thế của Triệu Đà lừng lẫy và ông đã dùng mọi nghi vệ như vua nhà Hán. Sau khi Lữ Hậu qua đời, Hán Văn Đế lên nối ngôi, lại viết thư qua kêu gọi Triệu Đà thần phục nhà Hán, từ đó Triệu Đà mới chịu từ bỏ đế hiệu. Triệu Đà làm vua nước Nam Việt được 70 năm, thọ 121 tuổi, truyền ngôi cho cháu nội (con của Trọng Thủy) tên là Triệu Hồ, tức Triệu Văn Vương. Văn Vương là người tầm thường, không nối được chí của ông nội là Triệu Đà, nên bị nhà Hán chèn ép. Văn Vương làm vua được 12 năm thì mất (137-125 trước Công nguyên). Con là Anh Tề nối ngôi tức Triệu Minh Vương, được 12 năm (125-113 trước Công nguyên), lấy vợ người Hán là Cù Thị, lập làm Hoàng hậu. Minh Vương chết, con là Hưng nối ngôi tức Triệu Ai Vương (113) được 01 năm thì mất nước. Mẹ là Cù Thị lấy sứ nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý và đem nước Nam Việt của Triệu Đà dâng cho nhà Hán. Lữ Gia là tướng của nhà Triệu (nước Nam Việt) giết Cù Thị, Thiếu Quý và Ai Vương, lập Thái tử Kiến Đức con của Minh Vương, mẹ là người Nam Việt, lên làm vua tức Triệu Dương Vương. Được một năm thì vua Hán sai tướng Lộ Bác Đức đem quân đánh lấy Nam Việt, vua và quan của Nam Việt bị giết. Năm 11 trước Công nguyên, nước Nam Việt bị đổi tên là Giao Chỉ bộ, chia làm 9 quận do các quan của nhà Hán cai trị. Từ năm 111 trước Tây lịch cho đến năm 939, Ngô Quyền giành được độc lập, sử gọi là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất.
3. Anh Hùng Lạc Việt:
Cuộc Khởi Nghĩa Của Trưng Trắc, Trưng Nhị Năm 40
Nước Nam Việt của Triệu Đà bao gồm lãnh thổ của Triệu Đà và lãnh thổ của An Dương Vương Thục Phán trong đó có hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt gọi chung là người Việt như đã nói ở phần trên. Sau khi nhà Triệu mất ngôi, nước Nam Việt được đổi thành Giao Chỉ bộ và được chia thành quận huyện đặt dưới quyền cai trị của quan lại nhà Hán. Người Lạc Việt phải chịu nhiều sự áp bức, bất công, nhất là dưới thời Thái thú nhà Hán là Tô Định. Do đó, hai vị nữ anh hùng của Lạc Việt là Trưng Trắc và em là Trưng Nhị đã nổi lên chống lại nhà Hán, diệt Tô Định, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc. Khi đề cập đến biến cố nầy, sử gia Trung Quốc không xem thường những anh hùng của Lạc Việt.
a. Lý Lịch Trưng Trắc Phạm Việp, tác giả Hậu Hán Thư (sử nhà Hán) đã viết về Trưng Trắc, Trưng Nhị với lời lẽ rất cảm phục:“Hựu Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc, cập nữ muội Trưng Nhị phản công đầu kỳ quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, man di giai ứng chi, khấu lược Lĩnh Ngoại lục thập dư thành. Trắc tự lập vi vương” (Hậu hán Thư, quyển 54, trang 747 trong Nhị Thập Ngũ Sử). Dịch:“Ở quận Giao Chỉ, có người đàn bà tên Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị nổi lên làm loạn, đánh phá trong quận. Dân man di ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, cướp phá hơn 60 thành ở vùng Lĩnh Ngoại.Trắc tự xưng làm vua”Theo đoạn văn trên đayHai Bà Trưng nổi lên ở quận Giao Chỉ, phong trào lan rộng ra các nơi và dân man di (chỉ dân Lạc Việt lúc đó) hưởng ứng và cùng nổi lên đánh phá quân Tàu (Hán), chiếm được 60 thành. Không một lãnh tụ nào của các nhóm mà sử Tàu gọi là man di dám xưng vương, ngoại trừ Trưng Trắc. Như vậy, Trưng Trắc là người kiệt hiệt nhất trong số đó. Con số hơn 60 thành trì nói đây, so với hoàn cảnh 1lúc đó, chúng ta có thể hiểu rằng đây không phài là thành trì to lớn như ở Việt nam hay ở Trung Hoa mà chúng ta thấy trước đây. Có thể đây chỉ là những công sự chiến đấu do người phương Bắc (người Hán) xây dựng lên để tự vệ trước sức tấn công của người bản xứ (Lạc Việt). Số người Hán nầy đã di dân đến đất Lạc Việt thời Triệu Đà, theo chính sách thực dân của nhà Tần. Cho đến thời nhà Hán, số người đó càng ngày gia tăng và họ lập được hơn 60 căn cứ gọi là “thành”. b. Chồng Trưng Trắc là Thi Hay Thi Sách? Theo sách Thủy Kinh Chú của Lệ Đào Nguyên, khoảng thế kỷ thứ 6, tác giả đã từng đến vùng Mê Linh, đã ghi lại được những điều nghe thấy như sau:“Châu Diên Lạc tướng tử, danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ, danh Trưng Trắc, vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc. Mã Viện tương binh thảo. Trắc, Thi tẩu nhập Cấm Khê” (quyển 37, tờ 6 a). Chúng ta để ý trong Hán văn xưa, không có chấm, phẩy...Tùy theo mạch văn mà ngừng lại cho trọn nghĩa của câu. Trong đoạn văn trên nếu ngừng ở chữ Sách thì câu văn sẽ như sau:“Châu Diên Lạc tướng tử danh Thi Sách”, nghĩa là:“Con trai Lạc tướng huyện Châu Diên tên là Thi Sách”, và câu sau: “Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê”, nghĩa laø:“Con gái Lạc tướng huyện Mê Linh tên là Trưng Trắc là vợ”. Nhưng Thái tử Hiền, con vua Cao Tông nhà Đường, khi bị bà Võ Tắc Thiên đày ra vùng quan ngoại, vào thế kỷ thứ 8, ông đã ngồi đọc lại sách sử và chú thích như sau:“Cứu Triêu Nhất Thanh viết Sách thê do ngôn thú thê” (tra cứu theo Triêu Nhất Thanh thì chữ Sách Thê là cưới vợ). Do đó câu văn trên phải ngừng ở chữ Thi:“Châu Diên Lạc tướng tử danh Thi” (con trai Lạc tướng huyện Châu Diên tên là Thi) và: “Sách Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê” (đi hỏi con gái Lạc tướng huyện Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ). Đọc tiếp đoạn Hán văn trên, chúng ta thấy: “Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc. Mã Viện tương binh thảo, Trắc, Thi tẩu nhập Cấm Khê”.(Trắc là người có can đảm và dũng lược, cùng với Thi nổi lên làm giặc. Mã Viện đem quân đánh đuổi. Trắc, Thi chạy vào Cấm Khê). Do chỗ sai lầm đó mà về sau các sách sử viết tên chồng của Trưng Trắc là Thi Sách. Sự lầm lẫn nầy khởi từ sử gia Trung Quốc là Phạm Việp trong sách Hậu Hán Thư, quyển 54 trang 747, cột 3, ông viết: “Trưng Trắc giả, Mê Linh Lạc tướng chi nữ giả, giá vi Châu Diên nhân Thi sách thê, thậm hùng dũng”. (Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh được gả làm vợ cho một người huyện Châu Diên là Thi Sách, bà rất hùng dũng). Dựa vào đó, các sử gia Việt Nam như Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư hoặc Lý Tế Xuyên trong Việt Điện U Linh Tập (một chuyện hoang đường) cũng gọi chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, họ đều trích dẫn từ sách hậu hán Thư của Phạm Việp, nhưng họ không để ý đến phần chú thích của Thái tử Hiền ở phần cuối sách. Từ đó mới xuất hiện tên Thi Sách trong lịch sử. Cho đến nay, không ai có thể đính chính được ngoại trừ nah nước ra lệnh sửa lại điều sai lầm đó trong sách vở. c.Nguyên Nhân Cuộc Khởi Nghĩa:
Vì Thù Chồng Hay Vì Lý Do Chính Trị?
Theo sử Việt Nam mà chúng ta học từ nhỏ thì Trưng Trắc nổi lên đánh đuổi quân Tàu vì chồng bà là Thi sách bị Thái thú nhà Hán là Tô Định giết. Điều đó có đúng hay không? Lý do đó có thể vận động dân chúng căm hờn cùng đứng lên đánh đuổi xâm lăng được hay không?
Vào thế kỷ thứ 8, khi chú thích hậu Hán Thư của Phạm Việp, Thái tử Hiền có nói đến một chi tiết khác, chúng tôi cho đó là một yếu tố rất quan trọng, là nguyên nhân đưa đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Ông viết: “Giao Chỉ Thái thú Tô Định, dĩ pháp thằng chi, Trắc oán nộ, cố phản”. (Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy luật pháp mà ràng buộc, nên Trắc tức giận, chống lại) (Chữ “thằng” là sợi giây, cũng có nghĩa là cột buộc).
Qua chi tiết trên đây, chúng ta thấy rằng Trưng Trắc là người Lạc Việt, một giống người bản xứ, có phong tục tập quán riêng. Khi Tô Định đến cai trị dân nầy, ông đã đem luật pháp của người Hán (Tàu) bắt dân Lạc Việt phải thi hành. Việc đó có thể đụng chạm đến cả tín ngưỡng của họ nữa. Đó là điều rất dễ gây căm phẫn trong nhân dân. Đó là chưa kể chính sách bóc lột về mặt kinh tế đối với họ. Cả Hậu Hán Thư và Thủy Kinh Chú đều nói rằng: Trắc cùng với Thi nổi lên làm giặc và khi bị Mã Viện đánh đuổi thì cả hai người chạy vào Cấm Khê. Vậy khi Trưng Trắc khởi nghĩa thì chồng bà là Thi vẫn còn sống và cùng chiến đấu bên cạnh bà. Lý do khởi nghĩa là vì quyền lợi dân tộc và được cả dân tộc làm hậu thuẫn chứ không phải vì báo thù chồng. Có thể về sau người chồng bị chết dưới tay quân thù, nhưng giai đoạn đầu chồng vẫn còn sống. Lý do vì chống lại chế độ, chống lại luật pháp hà khắc nên Trưng Trắc khởi nghĩa đã được chứng minh bằng sự thay đổi chính sách cai trị của nhà Hán sau khi Mã Viện thắng được Trưng Trắc. Việc cử Mã Viện là một tướng già, bách chiến bách thắng và được gọi là “phục ba tướng quân” (vị tướng làm cho sóng gió phải yên lặng) qua đánh Trưng Trắc chứng tỏ tầm mức quan trọng của cuộc chiến. Mã Viện không những là một tướng có tài về quân sự mà còn là một tướng có tài về chính trị. Ông cùng Phó tướng là Lưu Long, Lâu thuyền tướng quân Đoàn Chí với một lực lượng hai vạn quân. Đến Hợp Phố, Đoàn Chí bị bệnh chết nên ông phải gánh vác trách nhiệm nặng nề hơn. Ngoài ra, ông còn tuyển thêm 12.000 quân tại Giao Chỉ nữa và phải mở đường, xẻ núi, phá rừng mà đi. Lúc bấy giờ phong trào chống đối người Tàu lan rộng rất nhanh. Chỉ trong một thời gian ngắn mà cả một vùng rộng lớn gồm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều nổi dậy. Không cần tổ chức lãnh đạo, dân các nơi đều hưởng ứng, chứng tỏ cuộc khởi nghĩa hợp lòng dân. Hậu Hán Thư, quyển 54 trang 747 (trong Nhị Thập Ngũ Sử) chép:“Thập bát niên, Xuân, quân chí Lãng Bạc, dữ tặc chiến, phá chi, trảm thù sổ thiên, cập hàng giả vạn dư nhân. Viện truy Trưng Trắc đẳng, chí Cấm Khê, sổ bại chi, giặc toại tán tẩu” ( Năm thứ 18 -hiệu Kiến Vũ nhà Hán- tức năm 42, mùa Xuân, quân đi đến vùng Lãng Bạc, cùng giặc đánh nhau, phá được chúng, chém đầu cả ngàn tên, bọn ra hàng có đến cả vạn. Viện đuổi theo bọn Trưng Trắc đến Cấm Khê, giặc bị thua liền mấy trận, bỏ chạy tán loạn). Mã Viện còn đuổi theo dư đảng của Trưng Trắc đến tận Cửu Chân, giết được hơn 5.000 người nữa. Vừa đánh, vừa cũng cố, đến huyện nào Viện cũng xây thành đắp lũy, tổ chức lại đơn vị hành chánh, dạy cho dân biết canh tác làm ăn. Sau đó mới giải thích cho dân hiểu luật pháp, dân mới dần dần nghe theo lời ông. Những quan của nhà hán cử sang cai trị dân Lạc Việt sau vụ Trưng Trắc đều ra sức giáo hóa dân, dạy cho dân biết cày cấy, biết lễ nghĩa. Trước thời Tô Định cũng đã có hai quan Thái thú có tiếng tốt đối với dân, đó là Tích Quang ở quận Giao Chỉ và Nhâm Diên ở quận Cửu Chân. Phần nói về Nhâm Diên trong sách Hậu Hán Thư cho biết dân Giao Chỉ thích săn bắn chứ không biết dùng bò để cày. Dân Cửu Chân thì đốt cỏ rồi gieo giống làm ruộng. Nhâm Diên truyền đúc các thứ điền khí (lưỡi cày, lưỡi cuốc,v.v...) dạy cho dân cày bừa, khẩn ruộng để trồng chọt. Dân lạc Việt thời đó không biết cưới hỏi như người Hán. Họ không quen sống chung với nhau, nên không biết đạo cha con, đạo vợ chồng. Nhâm Diên phải gởi thư đi các huyện thuộc quyền ông truyền cho đàn ông từ 20 tuổi đến 50 tuổi, đàn bà từ 15 đến 40 tuổi phải tùy tuổi tác mà cưới hỏi nhau..cùng một lúc có đến 2.000 người tổ chức cưới hỏi...năm đó trời cho mưa thuận gió hòa, lúa má được mùa, dân đẻ con ra biết họ biết dòng...có người lấy tên Nhâm đạt cho con để tỏ lòng biết ơn...Những việc này xảy ra vào năm 29 đời Kiến Vũ nhà Hán, trước khi Tô Định đến cai trị Giao Chỉ. Vì Tô Định không chịu cai trị dân theo chính sách của các vị tiền nhiệm mà lại quá hà khắc nên dân nổi loạn. Sử Tàu nói rõ lý do của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là vì chế độ hà khắc, nhưng sử gia Việt Nam lại gom cả hai làm một: vừa thù chồng, vừa chống chính sách. Đọc đoạn văn sau đây của Ngô Sĩ Liên, chúng ta thấy rõ điều đó:“Canh Tý nguyên niên, Hán Kiến Vũ thập lục niên, Xuân, nhị nguyệt, vương khổ Thái thú Tô Định thằng dĩ chính, cập thù Định sát kỳ phu, nải dữ kỳ muội Nhị, cử binh công hãm châu trị” (Năm Canh Tý (40) năm đầu, năm thứ 16 hiệu Kiến Vũ nhà Hán, mùa Xuân, tháng Hai. Vương đau lòng vì Tô Định lấy chính pháp ràng buộc, lại căm thù vì Định đã giết mất chồng, bèn cùng em gái là Nhị cử binh đánh phá châu trị). Theo ý của câu trên thì chồng phải bị giết trước khi khởi nghĩa, vừa thù chồng, vừa nợ nước! Trong phần nói về Mã Viện (Mã Viện liệt truyện), sử gia Tàu đã nói đến Trưng Trắc vì có liên quan đến công trạng của Mã Viện. Nhờ chỗ có liên quan đó mà dời sau mới biết đến Trưng Trắc. Nếu sử Tàu khôgn nói đến thì sử gia Việt Nam như Ngô Sĩ Liên khó mà có tài liệu để viết lại thời quá khứ. Sử Tàu nói rõ Trưng Trắc cùng chồng nổi lên đánh đuổi Tô Định. Vậy không phải vì thù chồng mà Trưng Trắc nổi dậy. Đưa yếu tố thù chồng vào sử sách đã làm lu mờ chính nghĩa vì dân tộc của cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc đi.
d. Cái Chết Của Trưng Trắc
Sử Việt mà chúng ta học từ bậc tiểu học nói rằng Trưng Trắc, Trưng Nhị nhảy xuống sông Hát (Hát giang) tự tử. Và chúng ta có bài “dòng sông Hát...” ca tụng cái chết bất khuất của hai Bà. Nhưng Hậu Hán Thư lại nói một câu rất vắn gọn:“Minh niên, chính nguyệt, trảm Trưng Trắc, Trưng Nhị, truyền thủ Lạc Dương”. (Năm sau (42) tháng Giêng, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, gửi đầu về Lạc Dương). Lạc Dương là kinh đô nhà Hán lúc đó. Tuy vắn gọm nhưng gồm đủ mấy chi tiết ngày, tháng, lý do chết và gởi đầu về để làm chứng cho vua Hán biết. Về chi tiết nầy, ông Ngô Thời Sĩ trong sách Việt Sử Tiêu Án trang 40 viết rằng: “Trong đền thờ Hai bà Trưng, những đồ thờ tự, tất cả đều sơn đen, tuyệt không có sơn đỏ, dân địa phương không dám mặc áo đỏ, những khi đến yết cáo, có ai mặc áo đỏ đều cởi bỏ đi, không ai dám xúc phạm đến cấm lệ. Tục truyền rằng Trưng Vương chết vì việc binh đao, nên kiêng sắc đỏ vì giống như máu”. Điều đó phù hợp với lời thuật của Hậu Hán Thư. Trong hai sử liệu thì Hậu hán Thư có trước Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cả ngàn năm. Chắc chắn Toàn Thư đã lấy từ Hậu Hán Thư các dữ kiện nầy. Có sách nói rằng người nhảy xuống sông tự tử là bà Mang Thiện, mẹ của Trưng Trắc. Sau khi Trần Hưng Đạo thắng quân Mông Cổ ở trận Bạch Đằng, Lê Tắc chạy theo giặc lưu vong qua Trung Hoa. Thời gian sống ở đây, ông có nghiên cứu nhiều sách vở và có viết một cuốn sách nhan đề “An Nam chí lược”. Ông là người Việt Nam đồng ý rằng Trưng Trắc bị Mã Viện chém đầu. Sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” do Quốc Sử Quán triều Nguyễn cũng nói:“Trưng Vương và em gái chống với quân Hán bị binh lính bỏ trốn, lại thế cô, cả hai thất trận chết”. Chết trận, có nghĩa là bị chém, không phải tự tử. Xin lưu ý một điều, vào thế kỷ 19, thời nhà Nguyễn, sự tiến bộ về khoa nghiên cứu sử học (phương pháp sử học) ở Trung Quốc đã hơn hẳn thời xưa vì lúc đó trí thức bên Tàu đã có nhiều tiếp xúc với Tây phương và họ đã đặt lại vấn đề, xem xét lại các điều ghi chép thời xưa có hợp lý và đáng tin hay không. Do đó, sử gia nhà Nguyễn cũng đã học được từ nhà Thanh nhiều tiến bộ trong phương pháp nghiên cứu sử học. Sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” do Quốc Sử Quán nhà Nguyễn biên soạn thời Tự Đức đã được đánh giá cao hơn so với các sử sách của nước ta ra đời trước đó.
Kết Luận
Người Việt Nam đã xem Hai Bà Trưng thực sự là anh hùng của dân tộc mình. Từ Lý, Trần trở về sau, sử sách đã hết lời ca tụng Hai Bà. Hình ảnh Hai Bà đã đi vào lòng người Việt Nam như là những thần thánh, khắp nơi nhân dân lập đền thờ Hai Bà. Ý thức độc lập đã có từ lâu đời với dân Lạc Việt thời Hai bà Trưng cũng như với những người di dân từ phương Bắc tới, tranh đấu để tự mình làm chủ giang sơn của mình. Từ Lý Cầm, Lý Tiến thời nhà Hán đến Triệu Thị Trinh, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng cho đến Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền...Từ thế kỷ thứ mười trở đi, tổ tiên chúng ta đã vĩnh viễn giành được độc lập, đánh đuổi xâm lăng, tạo nên truyền thống tự chủ, tự cường của dân tộc Việt Nam chúng ta, giống dân làm chủ vùng đất phương Nam như Lý Thường Kiệt đã khẳng định: “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư...” (Nước Việt Nam của người Việt Nam).
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #31 - 17. Nov 2017 , 17:49
 
Đặng-Mỹ wrote on 14. Jul 2006 , 21:41:
My cám ơn Anh Thọ đã sưu tầm mang về  những tài liệu lich sử  rất hữu ích Smiley

Chị Mỹ thân
Xin chị vui lòng xem lại có một vài bài viết bên trên do mình sơ ý từ ngày trước , những bài viết với tứ trước , với tựa đề : Sài Gòn Muôn Thuở , xin chị dời hộ về mục SÀI GÒN CỦA TÔI, như vậy sẽ thích hợp hơn ở mục Tài Liệu Lịch Sử.  Cảm ơn Chị , 
Lam Sơn




Back to top
 
 
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11591
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #32 - 21. Nov 2017 , 17:26
 
Anh Lam Sơn mến,
Anh không cần chờ  admin làm dùm đâu anh, anh có thể copy các bài anh muốn dời và paste vào chổ mới , sau đó trở lại delete những posts cũ. Thế là xong. Chúc anh thành công nhé.  Smiley
Back to top
 

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #33 - 23. Nov 2017 , 04:25
 
Chị Đậu Đỏ ơi , chi xem lại nơi đó không delete được
còn việc nữa là khi có hình ảnh minh hoạ thêm cho bài viết ( ví dụ như bài Sài Gòn ) thì chị hướng dẫn giúp , lâu quá quên rồi chị ơi
Back to top
 
 
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11591
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #34 - 23. Nov 2017 , 07:59
 
LAM_SON wrote on 23. Nov 2017 , 04:25:
Chị Đậu Đỏ ơi , chi xem lại nơi đó không delete được
còn việc nữa là khi có hình ảnh minh hoạ thêm cho bài viết ( ví dụ như bài Sài Gòn ) thì chị hướng dẫn giúp , lâu quá quên rồi chị ơi

Thì ra mấy bài này lúc trước anh dùng nick name khác để đăng,  do đó nên bây giờ không xóa bài được  Tongue
Đậu Đỏ đề nghị anh copy và post vào mục Sài Gòn...như vậy bài post được mang tên anh để anh dễ dàng xử dụng. Còn những bài cũ thì Đ Đ sẽ xóa cho anh nhé. (Sau khi anh đã đăng qua chổ khác )

Cách đăng hình: anh dùng những link hình có tận cùng là.jpg nhé. Khi mang vào d/đ thì kẹp link giữa 2 cái tags [img][ /img](không có space giữa [/) hoặc bấm vào cái icon thứ 3 của hàng đầu, từ trái qua phải. Khi anh rà mouse vào từng icon nó sẽ hiện ra chữ , icon thứ 3 sẽ hiện ra chữ insert image
Back to top
« Last Edit: 23. Nov 2017 , 08:00 by Dau Do »  

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #35 - 23. Nov 2017 , 09:17
 
Cảm ơn chị Đậu Đỏ cứu bồ , mình sẽ cố gắng thử tập xem sao , lâu quá không làm nên quên hết rồi , chỉ nhớ sơ sơ thôi. (TÀI LIỆU LỊCH SỬ) thì mình đã đưa qua mục Sài Gòn của tôi , xong rồi , bài củ chị cứ xoá đi , để đó sợ không hợp với chủ đề. Chị giúp dùm nhe , merci Chị
Back to top
« Last Edit: 23. Nov 2017 , 09:17 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #36 - 26. Nov 2017 , 00:55
 
Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa
                    sau 1.000 năm Bắc thuộc?


Tác giả: Nguyễn Hải Hoành
Tiếng ta còn thì nước ta còn!
Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1- Đồng hóa tự nhiên, tức quá trình dân tộc A trong giao tiếp với dân tộc B, do chịu ảnh hưởng lâu dài của B mà A tự nhiên dần dần mất bản sắc của mình, cuối cùng bị B đồng hóa; đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2- Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc nhỏ yếu hơn chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của một dân tộc lớn mạnh hơn; đây là một tội ác.
Đồng hóa dân tộc chủ yếu diễn ra dưới hình thức đồng hóa văn hóa, trong đó chủ thể đồng hóa thường là một nền văn hóa mạnh và tiên tiến (như đông dân hơn, kinh tế phát triển hơn, đã có chữ viết, có các hệ tư tưởng), đối tượng đồng hóa thường là nền văn hóa yếu và lạc hậu hơn. Đồng hóa ngôn ngữ là công cụ đồng hóa văn hóa thông dụng nhất, quan trọng nhất, hiệu quả nhất. Một dân tộc bị mất tiếng nói mẹ đẻ của mình và phải nói tiếng của một dân tộc khác thì không còn giữ được bản sắc dân tộc nữa.
Trong lịch sử, các nền văn hóa yếu thường bị nền văn hóa mạnh đồng hóa. Thời cổ, Trung Quốc là quốc gia đông người nhất và có nền văn minh tiên tiến nhất châu Á. Nền văn hóa Hán ngữ của họ có sức đồng hóa rất mạnh. Dân tộc Hồi ở phía Tây nước này, ngày xưa dùng chữ A Rập, sau nhiều năm giao lưu với người Hán cũng toàn bộ dùng chữ Hán và nói tiếng Hán. Ngay cả các dân tộc nhỏ nhưng mạnh về quân sự, sau khi thôn tính và thống trị Trung Quốc được ít lâu cũng bị nền văn hóa Hán ngữ đồng hóa.
Thí dụ dân tộc Mãn sau khi chiếm Trung Quốc và lập triều đại nhà Thanh đã lập tức tiến hành đồng hóa dân tộc Hán: cưỡng bức đàn ông Hán phải cạo nửa đầu và để đuôi sam, phải bỏ chữ Hán mà chỉ dùng chữ Mãn làm chữ viết chính thức trên cả nước. Nhưng đến giữa đời Thanh, tức sau khoảng 100 năm thì tiếng Mãn cùng chữ Mãn đều biến mất, từ đó trở đi người Mãn chỉ dùng tiếng Hán và chữ Hán, nghĩa là họ lại bị đồng hóa ngược bởi chính nền văn hóa của dân tộc bị họ cai trị lâu tới 267 năm!
Các nước đế quốc thực dân sau khi chiếm thuộc địa đều cưỡng chế đồng hóa ngôn ngữ dân bản xứ, quá trình này diễn ra khá nhanh, nhìn chung sau 5-6 thế hệ (mỗi thế hệ 25 năm), tiếng nói của người bản xứ đã bị thay bằng ngôn ngữ của nước cai trị. Đầu thế kỷ XV, Brazil bị Bồ Đào Nha chiếm, chẳng bao lâu tiếng Bồ trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất của người Brazil. Nhiều thuộc địa Pháp ở châu Phi như Bénin, Togo, Sénegan… dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính duy nhất. Năm 1918 nước ta bắt đầu dạy tiếng Pháp ở lớp cuối tiểu học, 10-20 năm sau toàn bộ học sinh trung học cơ sở trở lên đến trường đã chỉ nói tiếng Pháp, giáo viên chỉ giảng dạy bằng tiếng Pháp. Nếu cứ thế dăm chục năm nữa thì có lẽ Việt Nam đã trở thành nước nói tiếng Pháp.
Thế nhưng sau hơn 1.000 năm bị bọn phong kiến người Hán thống trị và cưỡng bức đồng hóa, dân tộc Việt Nam vẫn không bị Hán hóa, vẫn giữ nguyên được nòi giống, tiếng nói và phong tục tập quán.
Đây quả là một điều kỳ diệu có lẽ chưa dân tộc nào khác làm được. Đáng tiếc là chưa thấy nhiều người quan tâm nghiên cứu vấn đề này, một thành tựu vĩ đại đáng tự hào nhất của dân tộc ta (nói cho đúng là của tổ tiên ta thôi, còn chúng ta bây giờ thua xa các cụ).
Vì sao tổ tiên ta có thể làm được kỳ tích ấy ? Có người nói đó là do dân ta giàu tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, xã hội có cơ chế làng xã bền chặt, v.v… Nói như vậy có lẽ còn chung chung, nếu đi sâu phân tích tìm ra được nguyên nhân cụ thể thì sẽ giúp ích hơn cho việc phát huy các truyền thống quý báu của dân tộc ta. Thực tế cho thấy tổ tiên ta giành được thắng lợi chống đồng hóa không phải bằng đấu tranh vũ trang mà chủ yếu bằng tài trí.
Xin nói thêm rằng chính người Trung Quốc cũng rất quan tâm vấn đề này. Chúng tôi đã thử nêu lên mạng Bách Độ (Baidu) của họ câu hỏi “Vì sao Trung Quốc thống trị Việt Nam hơn 1.000 năm mà Việt Nam không bị đồng hóa?”
Từ hàng triệu kết quả, có thể thấy đa số dân mạng Trung Quốc đều có chung một thắc mắc lớn: Vì sao bị Trung Quốc thống trị lâu thế mà người Việt Nam vẫn không nói tiếng Trung Quốc? Nói cách khác, họ coi đồng hóa ngôn ngữ là tiêu chuẩn đồng hóa quan trọng nhất và đều thừa nhận Trung Quốc đã không đồng hóa nổi Việt Nam. Họ tỏ ra tiếc nuối về sự kiện Việt Nam sau hơn 10 thế kỷ từng là quận huyện của Trung Quốc, từng dùng chữ Hán hàng nghìn năm mà rốt cuộc lại trở thành một quốc gia độc lập, dùng chữ Latin hóa, ngày nay là nước chống lại mạnh nhất chính sách xâm lấn Biển Đông của Bắc Kinh.
Do hiểu biết Việt Nam rất ít, thậm chí hiểu sai, hầu hết dân mạng Trung Quốc không tìm được lời giải thắc mắc trên, kể cả người tỏ ra am hiểu lịch sử nước ta. Họ nêu các lý do:
– Văn hóa Việt Nam có trình độ Hán hóa cao(?), người Việt rất hiểu và không phục Trung Quốc;
– Việt Nam ở quá xa Trung nguyên, khí hậu nóng, quan lại người Hán ngại sang Việt Nam làm việc, đã sang thì chỉ lo làm giàu, không lo đồng hóa dân bản xứ;
– Các nhân vật tinh hoa Trung Quốc như Lưu Hy, Hứa Tĩnh, Hứa Từ, Viên Huy (劉熙、許靖、許慈、袁徽) chạy loạn sang Việt Nam đã giúp nước này có nền văn hóa không kém Trung Quốc;
– Người Hán di cư đến Việt Nam đều bị người bản xứ đồng hóa v.v…
Nói chung họ đều chưa thấy, hay cố ý lờ đi nguyên nhân chính là ở tài trí của người Việt.
Nhưng họ nói người Việt Nam hiểu Trung Quốc là đúng. Do sớm hiểu rõ ý đồ thâm hiểm của phong kiến người Hán muốn đồng hóa dân tộc ta nên tổ tiên ta đã kịp thời đề ra đối sách. Cụ thể là đã tìm ra cách giữ gìn được tiếng nói của dân tộc mình trong quá trình bị bọn thống trị người Hán cưỡng bức học chữ Hán.
Mấy nghìn năm sau, một học giả lớn của dân tộc ta tóm tắt bài học lịch sử này trong một câu nói rất chí lý: “Tiếng ta còn thì nước ta còn!”
Sau khi chiếm nước ta (203 tr. CN), Triệu Đà đã ép buộc dân ta học Hán ngữ, nhằm đồng hóa họ bằng ngôn ngữ. Có lẽ đây là thời điểm muộn nhất chữ Hán vào nước ta.[1] Sách “Việt giám Thông khảo Tổng luận” do Lê Tung viết năm 1514 có chép việc họ Triệu mở trường dạy người Việt học chữ Hán.[2] Về sau, tất cả các triều đại người Hán cai trị Việt Nam đều thi hành chính sách đồng hóa. Triều nhà Minh còn tìm cách tiêu diệt nền văn hóa của ta, như tiêu hủy toàn bộ các thư tịch do người Việt viết, bắt nhân tài, thợ giỏi người Việt sang Trung Hoa phục dịch.
Như vậy, dân tộc ta buộc phải chấp nhận học chữ Hán từ rất sớm (trước Triều Tiên, Nhật Bản nhiều thế kỷ). Do hiểu biết người Hán nên tầng lớp tinh hoa người Việt đã nhanh chóng nhận ra nếu cứ học như thế thì cuối cùng tiếng Việt sẽ bị thay bằng tiếng Hán, dân ta sẽ trở thành một bộ phận của Trung Quốc.
Vậy cha ông ta đã dùng cách nào để giữ được tiếng nói của dân tộc trong hơn 1.000 năm bị cưỡng bức học và dùng chữ Hán cũng như phải tiếp thu nhiều yếu tố của nền văn minh Trung Hoa?
Vấn đề này rất cần được làm sáng tỏ để từ đó hiểu được truyền thống quý báu của dân tộc ta. Dưới đây chúng tôi xin mạo muội góp vài ý kiến nông cạn, nếu có sai sót mong quý vị chỉ bảo.
Đọc chữ Hán bằng tiếng Việt: Một sáng tạo xuất sắc của tổ tiên ta
Chữ viết hình vuông là một phát minh lớn của nền văn minh Trung Hoa, được người Hán chính thức sử dụng từ đời nhà Thương (thế kỷ 16 đến 11 tr. CN), ngày nay phổ biến được gọi là chữ Hán.
Thực ra trong hơn 2.000 năm kể từ ngày ra đời, thứ chữ viết ấy chỉ được người Hán gọi là chữ 字 (tự) hoặc văn tự 文字. Đến đời Đường (thế kỷ VII) cái tên 漢字 (Hán tự, tức chữ Hán) mới xuất hiện lần đầu trong sách Bắc Sử 北史 do Lý Diên Thọ biên soạn.[3] Sau đó người Nhật và người Triều Tiên cũng gọi thứ chữ này là Hán tự: tiếng Nhật đọc Kanji, tiếng Triều Tiên đọc Hantzu. Cho tới nay Bộ Giáo dục Đài Loan vẫn chỉ gọi là Quốc tự 國字.
Vì thứ chữ ấy khi vào Việt Nam còn chưa có tên nên tổ tiên ta bèn đặt cho nó cái tên là chữ Nho, với ý nghĩa là chữ của người có học, bởi lẽ Nho 儒 là từ dùng để gọi những người có học. Dân ta gọi người dạy chữ là thầy đồ Nho, bút và mực họ dùng để viết chữ là bút Nho và mực Nho.[4]
Đây quả là một điều độc đáo, bởi lẽ Hán ngữ xưa nay chưa hề có khái niệm chữ Nho; tất cả từ điển Hán ngữ cổ hoặc hiện đại và các từ điển Hán-Việt đều không có mục từ Nho tự 儒字 với ý nghĩa là tên gọi của chữ Hán.
Có thể suy ra: Việt Nam thời xưa không có chữ viết (hoặc đã có chữ Việt cổ nhưng chưa hoàn thiện, chưa diễn tả được các khái niệm trừu tượng), vì thế khi tiếp xúc với chữ Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã nhận thấy đây là một phương tiện cực kỳ hữu ích dùng để truyền thông tin được xa và lâu, không bị hạn chế về khoảng cách và thời gian như cách truyền thông tin bằng tiếng nói, do đó họ đã sớm nghĩ tới việc mượn thứ chữ này làm chữ viết của dân tộc ta.
Muốn vậy dân ta phải biết chữ Hán, một thứ ngoại ngữ. Làm cho dân chúng học và dùng được một ngoại ngữ là việc hoàn toàn bất khả thi ở thời ấy. Hơn nữa chữ Hán cổ khó đọc (vì không biểu âm), khó viết (vì có nhiều nét và cấu tạo phức tạp), khó nhớ (vì có quá nhiều chữ), thuộc loại chữ khó học nhất trên thế giới.
Nói chung, mỗi chữ viết đều có một âm đọc; không ai có thể xem một văn bản chữ mà không vừa xem vừa đọc âm của mỗi chữ (đọc thầm hoặc đọc thành tiếng). Mỗi chữ Hán đều có một âm tiếng Hán; muốn học chữ Hán tất phải đọc được âm của nó. Viết chữ Hán khó, tuy thế tập nhiều lần sẽ viết được, nhưng do khác biệt về hệ thống ngữ âm, người Việt nói chung khó có thể đọc được các âm tiếng Hán.
Ngoài ra Trung Quốc là một nước rộng lớn, đông dân; cho tới trước nửa cuối thế kỷ 20 cả nước vẫn chưa thống nhất được âm đọc của chữ. Loại chữ này chỉ thể hiện ý nghĩa, không thể hiện âm đọc, cho nên nhìn chữ mà không biết cách đọc. Người dân các vùng xa nhau thường đọc chữ Hán theo âm khác nhau, thậm chí khác xa nhau, vì thế thường không hiểu nhau nói gì. Các thứ tiếng địa phương ấy ta gọi là phương ngữ, người Hán gọi là phương ngôn (方言); Hán ngữ hiện có 7 phương ngữ lớn, nhiều phương ngữ nhỏ (次方言).
Không thống nhất được âm đọc chữ Hán là một tai họa đối với người Hán. Với người nước ngoài học chữ Hán cũng vậy: khi mỗi ông thầy Tàu đọc chữ Hán theo một âm khác nhau thì học trò khó có thể học được thứ chữ này.
Để có thể học được chữ Hán mà không cần đọc âm tiếng Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã sáng tạo ra một giải pháp xuất phát từ ý tưởng: nếu người Hán khác vùng có thể tự đọc chữ Hán theo âm riêng của vùng, thì ta cũng có thể đọc chữ Hán theo âm riêng của người Việt.
Muốn vậy, mỗi chữ Hán được tổ tiên ta quy ước đọc bằng một (hoặc vài, tùy chữ Hán gốc) âm tiếng Việt xác định có gốc là âm chữ Hán — ngày nay gọi là âm Hán-Việt, nghĩa là mỗi chữ Hán đều được đặt cho một (hoặc vài) cái tên tiếng Việt xác định, gọi là từ Hán-Việt.
Thí dụ chữ 水 được đặt tên là chữ Thủy, âm đọc thủy khác với âm đọc shuẩy của người Hán. Chữ 色, tiếng Hán đọc sưa, ta đọc sắc. Thủy và Sắc là từ Hán-Việt, cũng là âm Hán-Việt của 水và色.
Âm/từ Hán-Việt được chọn theo nguyên tắc cố gắng bám sát âm Hán ngữ mà tổ tiên ta từng biết.[5] Như chữ 終, âm Hán và âm Hán-Việt đều đọc chung, tức hệt như nhau; chữ 孩, Hán ngữ đọc hái, ta đọc Hài, gần như nhau. Nhưng hầu hết chữ đều có âm Hán-Việt khác âm Hán. Như 集 âm Hán là chí, ta đọc Tập ; 儒 giú, ta đọc Nho. Có chữ âm Hán như nhau mà âm Hán-Việt có thể như nhau hoặc khác nhau, như 同 và 童, âm Hán đều là thúng, từ Hán-Việt đều là Đồng ; nhưng 系 và 細, âm Hán đều là xi, lại có hai từ Hán-Việt khác nhau là Hệ và Tế. Chữ Hán có hai hoặc nhiều âm thì có thể có một, hai hoặc nhiều âm/từ Hán-Việt, như 都 có hai âm Hán là tâu và tu, lại chỉ có một âm/từ Hán-Việt là Đô ; 少 có hai âm Hán shảo và shao, cũng có hai âm/từ Hán-Việt là Thiểu (trong thiểu số) và Thiếu (trong thiếu niên).
Thứ chữ Hán đọc bằng âm Hán-Việt này được dân ta gọi là chữ Nho. Vì đọc chữ bằng tiếng mẹ đẻ nên chữ Nho trở nên dễ học đối với người Việt: chỉ cần học mặt chữ, nghĩa chữ và cách viết văn chữ Hán mà không cần học phát âm cũng như học nghe/nói tiếng Hán. Vì thế thời xưa ở nông thôn nước ta không hiếm người 6-7 tuổi đã biết chữ Nho.[6] Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) 12 tuổi đỗ Cử nhân, 16 tuổi đỗ Hoàng giáp (Tiến sĩ). Người không biết chữ cũng có thể học truyền miệng các tác phẩm ngắn có vần điệu, như Tam Thiên Tự.[7]
Người biết chữ Nho có thể xem hiểu các thư tịch chữ Hán, viết văn chữ Hán; tuy không nói/nghe được tiếng Hán nhưng vẫn có thể dùng bút đàm để giao tiếp bình thường với người Hán. Chỉ bằng bút đàm chữ Nho, Phan Bội Châu giao tiếp được với các nhà cải cách Trung Quốc và Nhật Bản, đưa được mấy trăm thanh niên Việt Nam sang Nhật học quân sự chính trị, chuẩn bị về nước đánh đuổi thực dân Pháp.
Cần nhấn mạnh: vì âm/từ Hán-Việt không thể ghi âm hầu hết từ ngữ tiếng Việt cho nên cách đọc chữ Hán theo âm Việt hoàn toàn không thể biến tiếng Việt thành một phương ngữ của Hán ngữ,[8] và dân ta vẫn hoàn toàn nói và nghe bằng tiếng mẹ đẻ.
Chữ Nho chỉ dùng để viết mà thôi, và chỉ được giới tinh hoa (trí thức và quan lại người Việt) dùng trong giao dịch hành chính, ngoại giao, lễ tiết, chép sử, giáo dục, thi cử, sáng tác văn thơ. Còn ở Trung Quốc, những người nói một trong các phương ngữ tiếng Hán đều có thể dùng chữ Hán để ghi âm được toàn bộ tiếng nói của phương ngữ ấy, nghĩa là họ có thể dùng chữ Hán để ghi âm tiếng mẹ đẻ.
Dĩ nhiên cách đọc tiếng Việt chỉ có thể làm với chữ Hán, là loại chữ biểu ý (ghi ý), chứ không thể làm với chữ biểu âm (ghi âm). Ngày nay âm/từ Hán-Việt của mỗi chữ Hán có thể dễ dàng viết ra bằng chữ Quốc ngữ (một loại chữ ghi âm), nhưng ngày xưa, khi chưa có bất kỳ loại ký hiệu nào ghi âm tiếng nói, tổ tiên ta chỉ có thể truyền khẩu. Thế mà lạ thay, việc dạy chữ Nho đã được mở rộng, ở thời Nguyễn là đến tận làng, có thể suy ra tỷ lệ người biết chữ Hán của dân ta cao hơn Trung Quốc!
Chỉ bằng cách truyền miệng mà người Việt thời xưa đã tạo ra được một bộ từ Hán-Việt tương ứng với bộ chữ Hán khổng lồ — bộ chữ này trong Tự điển Khang Hy (1716) có hơn 47 nghìn chữ; Tiêu chuẩn Nhà nước Trung Quốc GB18030 (2005) có 70.217 chữ; Trung Hoa Tự hải có 85.568 chữ Hán.
Quá trình tiến hành Việt Nam hóa phần ngữ âm của chữ Hán kéo dài trong hàng nghìn năm, là một thành tựu văn hóa vĩ đại. Có thể phỏng đoán đó là một quá trình mở, do nhiều thế hệ người Việt thực hiện, thể hiện sức sáng tạo bất tận của tổ tiên ta.
Nhật và Triều Tiên cũng mượn dùng chữ Hán, nhưng họ tự đến Trung Hoa nghiên cứu đem chữ Hán về dùng chứ không bị ép dùng từ sớm như ta. Họ cũng đọc chữ Hán theo âm bản ngữ của dân tộc mình — giải pháp do người Việt nghĩ ra và thực hiện trước họ nhiều thế kỷ.
Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Nguyễn Tài Cẩn nói: “Cách đọc Hán Việt là một tài sản của riêng dân tộc ta. Có dùng nó khi đọc Đạo đức kinh, Kinh Thi, Sở từ… thì mới phù hợp với thói quen dân tộc, tiện lợi cho dân tộc. Theo ý chúng tôi, dùng cách đọc Hán Việt ở những trường hợp này là một điều hết sức phù hợp với khoa học. Đọc theo lối Hán Việt thì dễ hiểu hơn, bởi lẽ ngay trong tiếng Việt đã có khá nhiều tiếng Hán Việt quen thuộc, chỉ đọc lên, nghe được, là hiểu được; đọc theo lối Hán Việt thì cũng thuận tai hơn… ”.[9]
Đúng thế. Thí dụ từ 社會, người Anh biết Hán ngữ đọc shưa huây, người Anh không biết Hán ngữ khi nghe âm đọc ấy sẽ chẳng hiểu gì; còn người Việt biết Hán ngữ đọc “xã hội”, người Việt không biết Hán ngữ nghe đọc sẽ hiểu ngay nghĩa của từ; âm “xã hội” thuận tai, dễ đọc dễ nhớ hơn âm shưa huây. Rõ ràng cách đọc Hán-Việt thật tiện lợi cho người Việt. Trong bài sau, chúng tôi sẽ nói thêm về vấn đề này.
Ngày nay mỗi chữ Hán trong tất cả các từ điển Hán-Việt đều phải ghi kèm từ Hán-Việt tương ứng. Hán-Việt Tự điển của Thiều Chửu có kèm Bảng tra chữ theo âm Hán-Việt, dùng tra chữ Hán rất tiện và nhanh hơn tra theo bộ thủ. Người có sáng kiến làm Bảng này là bà Nguyễn Thị Quy (1915-1992), em ruột Thiều Chửu, khi bà lần đầu xuất bản Tự điển nói trên tại Sài Gòn năm 1966.[10]
Như vậy, bằng cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt, tổ tiên ta đã thành công trong việc mượn chữ Hán để dùng làm chữ viết chính thức của dân tộc mình và gọi nó là chữ Nho. Sự vay mượn này chẳng những không làm cho tiếng Việt bị biến mất mà còn làm cho nó phong phú hơn rất nhiều, trở thành một ngôn ngữ cực kỳ linh hoạt, có thể tiếp nhận và Việt hóa hầu như toàn bộ từ ngữ mới xuất hiện trong tiến trình phát triển của loài người toàn cầu.
Chữ Nho khác chữ Hán ở phần ngữ âm: nó là chữ Hán được đọc bằng âm tiếng Việt chứ không đọc bằng âm tiếng Hán như chữ người Hán dùng. Nói cách khác, chữ Nho là chữ Hán đã được Việt Nam hóa phần ngữ âm; còn về tự dạng và nghĩa chữ thì cơ bản như chữ Hán của người Hán. Vì thế có người gọi chữ Nho là chữ Hán-Việt.
Rõ ràng nó là chữ của người Việt Nam, đã Việt Nam hóa phần ngữ âm, không thể coi là chữ của người Hán. Chữ Nho là chữ viết chính thức của dân tộc ta trong hơn 2.000 năm, kể từ thời điểm muộn nhất là bắt đầu thời Bắc thuộc cho tới khi được thay thế bằng chữ Quốc ngữ cực kỳ ưu việt, được chính các nhà Nho tiên tiến tán thưởng và đi tiên phong ủng hộ sự phổ cập Quốc ngữ.
Cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt đã đáp ứng nhu cầu giao tiếp bằng bút đàm giữa quan lại cấp thấp người Việt với quan lại cấp cao người Hán, khiến cho bọn thống trị người Hán vẫn thực thi được quyền lực cai trị dân bản xứ. Hơn nữa, cách đó làm cho việc phổ cập chữ Hán trong người Việt trở nên dễ dàng, tức đáp ứng yêu cầu dạy chữ Hán của các vương triều người Hán. Vì vậy chúng không còn lý do cưỡng chế dân ta phải học nghe/nói tiếng Trung Quốc.
Cách đọc chữ Hán như trên đã có tác dụng không ngờ là làm cho người Hán dù có cai trị Việt Nam bao lâu thì cũng không thể tiêu diệt nổi tiếng Việt và Hán hóa được dân tộc ta. Có thể là khi bắt đầu sáng tạo cách đọc ấy, tổ tiên ta chưa nghĩ tới điều đó, nhưng rốt cuộc sáng tạo xuất sắc này đã giúp dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Hán đồng hóa. Đây là một thành công vĩ đại!
Đáng tiếc là hiện không thấy có thư tịch nào ghi chép ai nghĩ ra và thời điểm nào xuất hiện cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt. Có thể cho rằng sáng kiến đó ra đời khi chữ Hán bắt đầu vào nước ta, tức muộn nhất là khoảng thế kỷ 2 – 1 tr.CN.
Có ý kiến cho rằng cách đọc Hán-Việt bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Đường, cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng hai thế kỷ 8, 9.
Nếu hiểu ý kiến này theo nghĩa đến đời Đường mới xuất hiện cách đọc Hán-Việt thì e rằng khó có thể giải đáp câu hỏi: vậy thì trong thời gian khoảng ngót 1000 năm trước đó người Việt đọc chữ Hán bằng cách nào? Đến đời Đường, người Hán đã thống trị Việt Nam được hơn 9 thế kỷ, quá thừa thời gian để họ hoàn toàn đồng hóa người Việt bằng văn hóa, ngôn ngữ, khi ấy tiếng Việt đã bị biến mất, sao còn có thể xuất hiện cách đọc Hán-Việt?
Phải chăng nên hiểu ý kiến trên theo nghĩa: đến thời Đường, cách đọc Hán-Việt được hoàn thiện nhờ học tập Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ 8 – 9.
***
Có thể kết luận: dân tộc Việt Nam tồn tại được và không bị đồng hóa sau hơn 1.000 năm chịu sự thống trị của một quốc gia liền kề có nền văn hóa lớn mạnh là nhờ đã phát huy bản lĩnh trí tuệ của mình, thể hiện ở chỗ sáng tạo được biện pháp đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, qua đó đã vô hiệu hóa chủ trương đồng hóa ngôn ngữ của các triều đại phong kiến Trung Hoa.
Có những người Hán đã nhận ra bản lĩnh trí tuệ ấy của người Việt.
Năm 987, nhà Tống cử Lý Giác李覺 đi sứ sang Hoa Lư, Việt Nam, được hai vị Quốc sư Khuông Việt và Pháp Thuận đón tiếp, đàm phán các vấn đề quốc gia đại sự và họa thơ. Khi về nước, Lý Giác tặng vua Lê Đại Hành một bài thơ, trong có câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu 天外有天應遠照”, nghĩa là: “Ngoài trời này còn có trời khác, nên nhìn thấy”. Nói cách khác, thế giới này đâu phải chỉ có một mặt trời Trung Hoa mà còn có mặt trời Việt Nam!
Câu thơ cho thấy Lý Giác đã bước đầu nhận ra bản lĩnh trí tuệ của người Việt. Đúng thế, tổ tiên ta thật vô cùng tài giỏi, nếu không thì còn đâu giang sơn tươi đẹp này!
Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
—————————
[1] Nói là “muộn nhất” vì còn có các quan điểm như: chữ Hán vào VN qua con đường giao thương hoặc truyền bá tôn giáo từ lâu trước khi nước ta bị Triệu Đà chiếm; VN đã có chữ viết từ đời Hùng Vương (Hoàng Hải Vân: Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động).
[2]宋代中越文学交流述论 có câu 黎嵩 “越鑑通考總論” viết : 趙佗 “建立學校,導之經義。由此已降,四百余年,頗有似類” .
[3] Bài 汉字名称的来由 (http://blog.sina.com.cn) và một số bài khác có viết: Từ  Hán tự  漢字xuất hiện sớm trong Bắc sử, quyển 9 [biên soạn xong năm 659]. 汉字一词早出自《北史》卷九本纪第九, “章宗一”:“十八年,封金源郡王.始习本朝语言小字, 及汉字经书,以进士完颜匡、司经徐孝美等侍读”. Từ Hán tự xuất hiện nhiều trong sách Kim sử 金史 (năm 1345) đời Nguyên. Ở đời nhà Thanh (1644-1911), thời kỳ đầu do chữ viết chính thức của chính quyền không phải là chữ Hán mà là chữ Mãn (满文) nên phải dùng tên gọi chữ Hán 漢字 để chỉ loại văn tự truyền thống của người Hán, nhằm phân biệt với chữ Mãn.
[4] Có ý kiến nói do thời bấy giờ thứ chữ đó được dùng để dạy dân ta học Nho giáo 儒教 nên dân ta gọi nó là chữ Nho. Nhưng Nho 儒với nghĩa “người có học” xuất hiện trước rất lâu, sau đó mới dùng chữ ấy vào từ Nho giáo để gọi học thuyết của Khổng Tử. Cùng lý do ấy, chữ Khổng có trước khi Khổng Tử ra đời.
[5] Khó có thể biết đó là âm tiếng địa phương nào ở TQ. Trong đó có những âm tiếng Quảng Đông, như nhất, nhì, shập, học chập khi đọc các chữ  一,二,十,學習 (âm Hán-Việt đọc nhất, nhị, thập, học tập).
[6] Thí dụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) 8 tuổi học chữ Nho, 13 tuổi văn hay chữ tốt, 24 tuổi đậu Giải Nguyên, 28 tuổi đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ. Phan Bội Châu (1867-1940) 6 tuổi học ba ngày đã thuộc lòng 1440 chữ Nho trong Tam Tự Kinh. Trần Gia Minh tác giả sách Huyền thoại Kim thiếp Vũ Môn 5-6 tuổi đã học chữ Nho truyền khẩu từ người ông mù lòa.
[7] Do nhà Nho Đoàn Trung Còn sáng tác, là một bài vè dài, mỗi câu hai âm, đọc lên có vần điệu dễ nhớ.
[8] Năm 1867, G. Aubaret trong cuốn Grammaire annamite từng sai lầm nhận định: “Tiếng bình dân nói trong vương quốc An Nam là một phương ngữ của tiếng Trung Quốc” (trích dẫn theo Phạm Thị Kiều Ly trong “Ghi âm tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ”, sách “Tiếng Việt 6”, Nxb Tri Thức, 2015).
[9] Nguyễn Tài Cẩn : Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt.
[10] Dẫn theo Lê Quốc Trinh, con trai bà Quy và là người trực tiếp tham gia làm Bảng tra này.

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #37 - 26. Nov 2017 , 00:57
 
Vũ Thị Thục Nương: Nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc Việt Nam

Tác giả: Vũ Ngọc Phương
Trong thời Bắc thuộc lần nhất tính từ năm 177 Tr.CN khi Triệu Đà xâm lược nước Âu Lạc sát nhập vào Nam Việt, sau đến năm 111 Tr.CN nhà Tây Hán diệt họ Triệu đưa Việt Nam vào thuộc Hán cho tới năm 39 sau Công Nguyên của thời kỳ này có ghi nhận các cuộc nổi dậy của người Việt. Sử sách Trung Quốc có ghi lại các cuộc nổi dậy trong một số năm của người Việt đã khiến nhà Hán phải điều động quân đội từ vùng Kinh Sở  xuống đàn áp. Các cuộc nổi dậy nhỏ lẻ này không đủ mạnh và rộng khắp để đánh thắng được sự thống trị của Nhà Tây Hán. Sau khi Lưu Tú dẹp loạn Vương Mãng và lập nhà Đông Hán, chính sách Hán hóa của Quang Vũ Đế Lưu Tú đối với người Việt càng hà khắc.
Phần nhiều quan lại từ Nhà Tây Hán, Đông Hán đều khắc nghiệt, tham lam, vơ vét các của quý ở Giao Châu như vàng, ngọc trai, long trả, tê, voi, đồi mồi, hương sạ, gỗ quý,… rồi xin đổi đi làm quan nơi khác. Đã thế sưu thuế nặng nề nên người Việt thường xuyên nổi dậy làm loạn. Đến năm Giáp Ngọ ( năm 34 sau CN – năm Kiến Võ thứ 10), vua Đông Hán Quang Vũ đế sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định bản tính rất bạo ngược nên chính lệnh càng thêm hà khắc. Tô Định lại thêm tham bạo, cướp giết nhiều người Việt. Trước cuộc Đại khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm Kỷ Hợi (39 sau CN), tại Giao chỉ đã có nhiều cuộc nổi dậy trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng, lớn nhất và tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tiên La, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình của Bà Vũ thị Thục Nương.
Sự nghiệp
Bà Vũ thị Thục Nương là Nữ Tướng văn võ song toàn, chí khí rất lớn. Bà đã dấy binh khởi nghĩa trước Hai Bà Trưng. Sau này khi Hai Bà Trưng truyền hịch khởi nghĩa có cho sứ giả về mời Bà Vũ thị Thục Nương. Bà nhận tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng và được Hai Bà Trưng giao cho quyền đứng đầu, thống lĩnh các Nữ Tướng của Hai Bà Trưng. Ngày 17/3 năm Quý Mão ( năm 43 sau Công Nguyên) trong trận chiến cuối cùng chống Mã Viện thống lĩnh hàng chục vạn quân Đông Hán, Bà và các nữ binh đã quyết chiến đến cùng không để giặc bắt và tử tiết khi mới 26 tuổi.
Thần phả, nhiều đạo sắc phong và truyền kỳ dân gian đều thống nhất ghi rằng: Bà Vũ thị Thục Nương sinh vào giờ Dần ngày Rằm tháng Tám năm Bính Sửu (Năm 17 sau CN) tại Phượng Lâu, nay là Phường Phượng Lâu – Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ (Nguyên xưa là đất Phong Châu, Hùng Vương đóng kinh đô Văn Lang ở đấy. Thời Tần đặt làm Tượng Quận, Đời Hán thuộc quận Giao chỉ) .Trước Công Nguyên, nơi đây là cố đô nước Văn Lang độc lập. Gần 2.000 năm qua, tại Phượng Lâu, Việt Trì, Phú Thọ và các đền thờ Bà ở vùng đồng bằng Bắc bộ đều có Lễ lớn kỷ niệm ngày sinh Thánh Mẫu Vũ thị Thục Nương. Trong tất cả các phong tục thờ Thánh và Thần linh ở Việt Nam, đây là một hiện tượng rất đặc biệt – Lễ sinh nhật duy nhất được nhân dân làm hàng năm chỉ có riêng với Bà Vũ thị Thục Nương.
Bà là con gái Nhà giáo Vũ Công Chất, ông còn là thầy thuốc, ngày nay ở Phú Thọ có đền thờ ông là một trong những thầy giáo Việt dậy chữ Khoa Đẩu là chữ Việt cổ thời bấy giờ. Chi họ Vũ Công vốn định cư ở tả ngạn sông Lô mà dấu tích, thư tịch cổ còn ghi Thủy Tổ họ Vũ gốc Việt Thường là các Cụ Vũ Công Bách – Cao Minh Đại Vương và Vũ Công Điền – Cao Sơn Đại Vương ( Hai cụ được thờ ở khắp nước Việt Nam, hai Cụ là bậc Thượng đẳng Phúc Thánh, tượng thờ ngồi hai bên tả, hữu của Đức Tản Viên Sơn Thánh). Sau Chi Họ Vũ Công dời sang cư trú ở hữu ngạn sông Lô đối diện quê cũ. Tại đây, các đời tiếp theo có Nhà giáo thầy thuốc Vũ Công Chất. Mẹ bà Thục Nương là Bà Hoàng thị Mầu, cả hai vợ chồng thân sinh ra Bà Thục Nương đều là người gốc Việt Thường. Sinh thời Bà Vũ thị Thục Nương là một người phụ nữ có nhan sắc tuyệt vời, đoan trang, trung hậu, đảm đang, văn hay võ giỏi nên hiệu là Ngọc Hoa Công chúa. Từ nhỏ, Bà vừa học nghề thuốc, luyện võ và đi chữa bệnh trong dân gian do hai Cụ Thân sinh truyền dậy. Khi 16 tuổi, Bà còn dạy dân phát triển nghề nông, sáng tác những bài hát dân ca và truyền dậy hát đối, hát xoan, hát đúm vẫn còn truyền lại đến nay ở vùng Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Bà cùng với hai cụ thân sinh còn chỉ bảo dân thời ấy quần tụ lại để xây dựng, phát triển Xã – Thôn Việt trong vùng Phong Châu từ những năm đầu thế kỷ I sau Công Nguyên.
Thời ấy, bên kia sông Bạch Hạc ở xã Nam Chân có chàng trai rất có tài đức là Phạm Danh Hương, vào cuối mùa thu năm Quý Tỵ ( năm 33 sau Công Nguyên), đã đặt lễ Nạp Thái (Lễ Chạm ngõ) được hai Thân sinh và Bà nhận lời, theo Lễ là 6 tháng nên chờ đến đầu mùa Thu năm Giáp Ngọ ( năm 34 sau CN) thì làm lễ Thân Nghinh ( Lễ rước dâu). Năm ấy, Bà vừa 17 tuổi.
Không may, liền bên Châu Bạch Hạc có một Quan lang giầu sang quyền thế nhất vùng đã nhiều lần mang lễ vật lớn xin cưới Bà đều bị từ chối, khi biết ông bà Vũ Công Chất và Hoàng thị Mầu cùng Bà Thục Nương đã nhận lễ với Phạm Danh Hương, Quan lang Bạch Hạc vô cùng tức giận liền súc siểm, bầy mưu xui Tô Định vừa nhận chức Thái Thú để chiếm đoạt Bà. Tô Định được mưu, bèn giả làm khách buôn đến tận nơi chiêm ngưỡng dung nhan Bà thấy như Tiên Nữ giáng trần, khi trở về quân doanh liền sai tướng đem quân bắt Cha Bà – ông Vũ Công Chất và chồng chưa cưới là Phạm Danh Hương tới trị sở Giao Châu bắt phải từ hôn và dâng Bà cho Tô Định. Dụ dỗ hàng tháng trời không được, Tô Định đã dùng cực hình ép buộc cũng không được nên đã giết cả hai người. Tô Định thân cầm quân tới vây bắt Bà. Được tai mắt dân ở Châu Bạch Hạc báo tin, đang đêm cả hai mẹ con trốn chạy rồi thất lạc. Bà cầm kiếm phá vây, chạy thoát ra bờ sông Bạch Hạc, nhẩy xuống được thuyền độc mộc, tay chèo, tay kiếm xuôi dòng sông Nhị Hà ( sông Hồng) mà về đến vùng đất ven biển lúc đó ( nay là huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) thì men theo nhánh sông nhỏ (nay là sông Luộc) mà vào. Thời kỳ này nước biển đã rút nhưng vùng đất của tỉnh Thái Bình vẫn còn là vùng đất nước lợ với những cánh rừng lớn bạt ngàn và ven biển là rừng sú, vẹt rất hiểm trở nên chưa bị quân Đông Hán chiếm đóng. Bà chèo thuyền theo nhánh sông Luộc vào sâu đến đất Tiên La thì dừng lại lên bờ vào ẩn náu làm tiểu đồng trong chùa Tiên La. Ngày ngày quét dọn sân chùa, đêm đêm luyện võ. Khi đã quen với lương dân vùng Tiên La, Bà vừa dậy học, vừa dùng thuốc Nam chữa bệnh cho dân. Được dân mến mộ, Bà dậy dân trồng trọt, chăn nuôi,… như thế đến năm Bính Thân ( năm 36 sau CN) thì cho người tin cẩn tìm đón được mẹ Bà về Tiên La phụng dưỡng.
Sau mấy năm, Tiên La trở thành vùng trù phú, dân Việt khắp nơi về cư ngụ, khai khẩn đất hoang dẫn nước ngọt về trồng lúa. Thấy dân đã đông, lòng người đã thuận.  Mùa Xuân, tháng Giêng năm Đinh Dậu (năm 37 sau CN) Bà dựng cờ khởi nghĩa trên gò Kim Quy. Nghe lời hiệu triệu của Bà, người Việt khắp nơi đã nô nức kéo về theo Bà. Sau hơn một trăm năm Bắc thuộc, chính sách Hán hóa đã làm cho số dân là nam giới trong người Việt sụt giảm, vì thế binh sỹ của Bà tuyển chọn cũng toàn là con gái, vừa luyện tập binh pháp, vừa trồng trọt chăn nuôi để có lương cho quân trở nên đội quân rất tinh nhuệ. Mẹ Bà là Hoàng thị Mầu cũng ở trong quân lo việc phân phát binh lương và chữa bệnh, chữa thương cho tướng sỹ. Vừa chiêu binh mãi mã, vừa dậy dân khai khẩn đất hoang,…. chỉ mấy năm Tiên La trở thành một vùng trù phú, binh lực ngày một mạnh. Bà cầm quân tiến đánh quân Đông Hán, mở rộng vùng tự trị của người Việt ngày một rộng lớn sang đến huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, các huyện Ninh Giang, Thanh Miện tỉnh Hải Dương, Tiên Lữ, Phủ Cừ tỉnh Hưng Yên ngày nay.
Nhiều lần quân Đông Hán kéo quân sang đánh đều bị đội quân Nữ binh tinh nhuệ do Bà thống lĩnh đánh cho thua trận rút chạy khỏi các vùng đất của người Việt.
Tô Định ngày càng bạo ngược, chính trị tàn ác, dân Việt đã oán giận chồng chất. Năm Kỷ Hợi ( năm 39 sau CN, Nhà Đông Hán, vua Quang Vũ Lưu Tú, năm Kiến Vũ thứ 15) Tô Định lại giết Thi Sách Quận Châu Diên, Phủ Vĩnh Tường ( nay là Vĩnh Yên) . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc ( quê ở làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên)  là con gái Lạc Tướng Mê Linh cùng với em là Trưng Nhị cất quân khởi nghĩa. Hai Bà Trưng cho sứ giả sang mời Bà hội quân cùng đánh Tô Định.
Bà Vũ thị Thục Nương cùng đội Nữ binh hưởng ứng, cùng các Nữ tướng của Hai Bà Trưng đánh bại quan quân Đông Hán. Tô Định chạy thoát về Quảng Châu. Bà Vũ thị Thục Nương đã cùng các Nữ Tướng khác trong đội quân của Hai Bà Trưng giải phóng cả một vùng duyên hải của Giao chỉ Bộ ( gồm miền Bắc Việt Nam, vùng Lưỡng Quảng và quận Hải Nam bây giờ) . Chỉ trong năm Kỷ Hợi ( 39 sau CN) đến mùa xuân năm Canh Tý ( 40 sau CN), Tất cả dân Việt cùng đại quân của Hai Bà Trưng hạ được 65 thành trì, quan quân Đông Hán phải bỏ chạy qua sông Trường Giang về phương Bắc.
Sau khi đã giành lại bờ cõi, Hai Bà Trưng lên ngôi xưng là Trưng Nữ Vương lấy quốc hiệu là Đại Việt. Trưng Nữ Vương xác lập quyền tự chủ của người Việt, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Trưng Nữ Vương xét công trạng có phong cho Bà Vũ thị Thục Nương làm Uy Viễn Đông Nhung Đại Tướng quân – xếp hạng công đầu. Nhưng Bà xin trả lại quan ấn cùng với đội Nữ Binh trở về Tiên La, Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vừa rèn quân lại vừa làm ruộng và chăn nuôi. Tại Tiên La, Bà tiếp tục  chữa bệnh cho dân bằng thuốc Nam ( Thời Hùng Vương là Bộ Lục Hải, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc Giao Chỉ).
Năm Tân Sửu ( năm 41 sau CN)  vua Quang Vũ nhà Đông Hán lại sai Mã Viện là danh tướng lúc bấy giờ làm Phục Ba Tướng quân, Phó tướng là Phù Lạc hầu Lưu Long, cùng với Lâu thuyền Tướng quân là Đoàn Chí kéo mấy chục vạn quân tinh nhuệ chia làm hai đường thủy, bộ sang đánh nước Đại Việt của Trưng Nữ Vương. Ngay khi cánh quân bộ của Đông Hán do Phó Tướng Lưu Long vượt sông Trường Giang tiến về phía Nam đã bị đội Tiền quân Việt do Nữ Tướng Phật Nguyệt đón đánh dữ dội. Phật Nguyệt Công chúa được Trưng Vương phong giữ chức Thao Giang Thượng Tả Tướng thuỷ quân, Chinh Bắc Đại tướng quân, Tổng trấn Động đình và Trường Sa.
Một Nữ tướng có tên là Hoàng Thiều Hoa – Tả tướng Chinh Bắc Tướng quân lĩnh đạo Trung quân trấn giữ Nam Hải. Tướng Đào Hiển Hiệu chỉ huy tiền quân Việt từ Trường Sa rút về Nam đã đóng lại ở Thiên Đài, bắc Ngũ Lĩnh. Khi thấy đại quân Lưu Long tiến vào, quân Việt không chịu lui quân, tất cả đã ở lại tử chiến, khiến quân Hán chết mấy vạn quân mới đi qua được ải Thiên Đài. Ngày nay trên Thiên Đài, núi Đại Minh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, ở bên ngoài miếu thờ Đào Hiển Hiệu – tướng của Hai Bà Trưng cùng một nghìn quân sỹ đã quyết tử tại cửa ải độc đạo hiểm yếu tại Bắc núi Nam Lĩnh để ghìm chân đại quân Đông Hán do Lưu Long làm Phó tướng, vẫn còn đôi câu đối khắc trên đá: “Nhất kiếm Nam hồ kinh Vũ-đế/Thiên đao Bắc lĩnh trấn Lưu Long”. Nghĩa là : “Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh sợ vua Vũ đế (Ý nhắc đến sự kiện nữ tướng Phật Nguyệt của Hai Bà Trưng đón đánh Mã Viện ở phía Nam hồ Động-đình. Vũ đế là Hán Quang Vũ nhà Đông Hán)/ Một nghìn tay đao Bắc Lĩnh giữ Lưu Long”.
Bà Vũ Thị Thục Nương lúc đó là Đốc lĩnh toàn quân trấn giữ Giao Chỉ ( Vùng miền Bắc đến miền Trung Việt Nam ngày nay) đã cùng các nữ  tướng của Hai Bà Trưng chia quân đón đánh quân Đông Hán. Nhưng thế quân Đông Hán quá lớn, sau nhiều tháng giao tranh, các cánh quân Hai Bà Trưng lần lượt tan vỡ. Hai Bà Trưng chạy về đến xã Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây thì thế bức quá, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận, bấy giờ nhằm ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão (năm 43 sau CN). Tướng Đô Dương chỉ huy một đội quân thua chạy về đến huyện Cư Phong ( nay thuộc vùng Thanh Hóa) thì ra hàng quân Đông Hán.
Trên cả đất Giao chỉ, còn lại vùng duyên hải là quân Đông Hán chưa chiếm được (nay là duyên hải miền Bắc Việt Nam). Tại đây,  đội Nữ binh tinh nhuệ của Bà Vũ thị Thục Nương cố thủ tiếp tục cầm cự ở vùng Lục Hải ( Thái Bình ngày nay)  khi đó là vùng sình lầy và rừng ngập mặn. Thấy vậy, Mã Viện cho đại quân Đông Hán tất cả kéo đến vây kín mấy vòng cả trên bộ lẫn dưới sông biển. Sau 39 ngày bị vây hãm, quân của Bà hết lương, tướng sỹ cầm binh khí ngắn đánh giáp công quyết tử không còn một người nào. Quân Đông Hán cũng bị chết rất nhiều.
Ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão ( năm 43 sau CN), Bà Vũ thị Thục Nương tay cầm mộc, tay cầm kiếm, một mình một ngựa xông vào tả xung hữu đột chém giết quân Đông Hán như vào chỗ không người, sau gần một ngày quyết chiến, đến chiều tối Bà một mình một người một ngựa phá được vòng vây, giặc đuổi theo không kịp. Khi Bà chạy về đến Gò Kim Quy (bây giờ chính là nơi dựng đền Tiên La, nay là thôn Tiên La nơi có địa giới giáp danh hai xã Đoan Hùng và Tân Tiến, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), người và ngựa đều kiệt sức. Mình đầy thương tích nặng, Bà xuống ngựa rồi tự vẫn không để giặc bắt. Dân quá xót thương chôn giấu thi hài của Bà cùng ngựa chiến tại gò Kim quy rồi xóa hết dấu tích không cho giặc biết. Giặc lùng tìm gắt gao nhiều tháng nhưng không thấy phải rút hết. Dân đã dựng một đền thờ bằng tranh tre trên mộ Bà, nhiều đời sau mới thay bằng gỗ và đá. Gương tiên liệt trung trinh của Bà được loan truyền khắp trong dân Việt lúc bấy giờ, bởi vậy gần hết các Nữ Tướng còn lại của Hai Bà Trưng cũng đều noi gương ấy mà tự vẫn khi đang lẩn trốn không để cho giặc Đông Hán bắt.
Bà Vũ thị Thục Nương là một trong những Nữ Anh Hùng chống ngoại xâm đầu tiên của Dân tộc Việt Nam
Công đức của Bà sâu dầy, uy linh hiển hách đến mức Bà được dân Việt tôn thờ là Thượng Đẳng Phúc Thánh, Tối linh, Tối cao. Tương truyền trong tâm linh người Việt Nam là Bà hiển linh kiêm cả ba ngôi vị Thánh Mẫu Thượng Thiên, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Thánh Mẫu Thoải Phủ trong trong Đạo Thánh Mẫu Việt Nam. Những nơi đặt đền thờ Bà, dân chúng đều được yên bình. Vì thế mà lịch sử của Bà rõ và chi tiết. Sau khi Bà Vũ thị Thục Nương tử tiết hiển linh, nhân dân nhớ thương Bà đã lập đền thờ chính của Bà tại xã Tiên La, Huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đến nay đã trải qua gần 2,000 năm khói hương không bao giờ dứt.
Ngày nay, ngay trong hậu cung đền Tiên La vẫn còn mộ Bà và con ngựa chiến đã cùng Bà xông pha chiến trận. Sau đền Tiên La, Thái Bình, suốt một giải các tỉnh duyên hải Bắc Bộ cũng đều có đền thờ Bà có tên là Tiên La Hải Phòng, Tiên La Nam Định,…Trải gần hai nghìn năm qua, năm nào cũng đều có tế lễ, nhân dân nói rằng hàng năm vào ban đêm của ngày chính kỵ, trên nóc hậu cung rực sáng một vầng hào quang. Khắp các nơi trên đất nước Việt Nam đều có thờ Thánh Mẫu là ngôi vị tối linh sau khi Bà hóa, lớn nhất là ở Phủ Dầy, tỉnh Nam Định. Tuy nhiên, tại Đền Tiên La Thái Bình là nơi có mộ của Bà (Kim thân)vẫn được coi là nơi linh thiêng bậc nhất.
Lịch sử Việt Nam ghi rõ tháng 2 năm Đinh Hợi ( 1287) khi 30 vạn quân Nguyên Mông  lại sang xâm lược nước ta: ” Ô Mã Nhi đuổi theo (vua Trần) không kịp, đem quân trở về qua Long Hưng ( Phủ Tiên Hưng – Huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay) biết ở đấy có Chiêu Lăng, là lăng tổ nhà Trần, bèn sai quân phá nát cả đi”. Trong khi lăng, mộ vua Nhà Trần cách đấy có hơn 1 Km đường chim bay là Đền Tiên La, Hưng Hà rộng lớn uy nghi, nhưng quân Nguyên Mông không hề đụng đến Đền, đến mộ của Bà. Sang thế kỷ XIII, quân Nhà Minh sang chiếm đóng nước ta 20 năm, phá tất cả đền, chùa, bia, sách, bắt giết thanh niên, trẻ con là con giai,… cũng không dám đụng vào Đền và mộ của Bà tại Tiên La – Thái Bình. Dân gian truyền tụng là do Uy Linh Bà vô lượng nên không thế lực nào dù độc ác hung tàn đến đâu ở cõi trần gian không thể xâm phạm được.
Đạo Thánh Mẫu Việt có ba ngôi thể hiện cho ba sức mạnh siêu nhiên là Thượng Thiên Thánh Mẫu quản về Lửa, Thượng Ngàn Thánh Mẫu quản về núi rừng trên đất và đất, Thượng Thoải Thánh Mẫu quản về Nước cùng tất cả các hiện tượng mưa, bão, lũ lụt, sông, biển. Đó là ba hiện tượng kỳ vĩ là Lửa – Đất – Nước thể hiện sự sinh và diệt của của vũ trụ và trái đất.
Qua nhiều tài liệu về Thần phả, Thần tích, Sắc phong của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam và các Dã Sử đều có viết Bà Vũ thị Thục Nương sau khi hóa hiển linh là Thánh Mẫu kiêm quản Tam Tòa trong Đạo Thánh Mẫu. Các sắc phong đều ghi Bà có Thánh hiệu: Ứng Võ Anh Uy Dũng Bảo quốc, Trung chính, Thượng đẳng Phúc Thánh, Tối linh, Tối Uy. Thánh Mẫu hiệu Ngọc Hoa công chúa Vũ thị Thục Nương kiêm quản 3 Ngôi cao nhất tại Tam Tòa của Đạo Thánh Mẫu.
Trong Dân gian còn truyền tụng Bà có hàng chục bài chầu văn lưu truyền trong dân gian ca ngợi Thánh tích, công đức của Bà khi cử hành Thánh Lễ Đạo Mẫu Việt Nam. Trong đó có bài văn chầu giống như trường ca dân gian đã kể lại khá đầy đủ Thánh tích của Bà với những tư liệu lịch sử xác đáng. Bản trường ca sử thi này được cho là đã do các Danh Nho Bắc Hà  trong các cuộc khởi nghĩa Văn Thân Việt Nam chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX viết nên, đã được truyền khẩu trong dân gian Việt như sau:
VĂN CHẦU THÁNH MẪU BÁT NÀN TƯỚNG QUÂN
Hàng năm Mười bẩy tháng Ba,
Ai về đến huyện Hưng Hà
Tới thăm Lễ Hội tên Bà Thục Nương
Chuyện xưa kể vào đầu thế kỷ,
Sau Công Nguyên ở xứ Giao Châu,
Cố đô Việt mấy nghìn năm trước,
Nước Việt Thường lại đến Văn Lang,
Vua Hùng cùng với Thục Vương Tây Âu Lạc
Dẫn đầu quân Đại tướng Tuần Tranh,
Cùng danh tướng Vũ Công Bách, Vũ Công Điền
Chống nhà Tần năm chục vạn quân
Diệt Đồ Thư giữ yên nước Việt
Xây Cổ Loa nơi cũ Việt Thường
Triệu Đà dùng kế hiểm sâu
Xui con Trọng Thủy làm chồng Mị Châu
Nỏ thần mất lẫy bị quân cướp thành,
Nước Âu Lạc mất,
Lại thuộc quyền Nam Vương
Đến khi Tây Hán tìm đường tiến sang,
Dân nước Việt chịu bao tầng áp bức,
Lặn biển sâu mò ngọc tìm trai,
Vào sâu rừng tìm bắt tê ngưu
Vàng bạc, gỗ thơm, hương liệu quý, …
Phải tìm cho bằng thấy mới xong,
Rồi gom hết lại cho phường xâm lăng

Người dân Việt không còn tuấn kiệt
Khấn Trời xin được Thánh giáng lâm
Năm mười bẩy ngày Rằm tháng Tám,
Đúng canh Dần, Tiên Chúa giáng sinh,
Một Nàng Công chúa xuống trần
Sinh vào họ Vũ ở miền Phượng Lâu
Ở vùng đất cổ Phong Châu
Cha là Công Chất từ lâu đức dày
Mẹ họ Hoàng tên tự Thị Mầu
Đặt tên con gái là nàng Thục Nương
Mười sáu tuổi sắc soi gương nước,
Vẻ xinh tươi mặt ngọc ánh đào
Thướt tha sắc diện nhường nào,
Tây Thi còn thẹn, sánh sao cho bằng
Phận gái đẹp nhưng tài văn võ
Lại đoan trang bao  việc đảm đang,
Khi đến tuổi trăng Rằm có lẻ,
Đã bao người dạm hỏi,
Biết sao trả lời.
Còn có kẻ giầu sang cậy thế,
Ép cha nàng để cưới Thục Nương
Vừa hay sính lễ đến nhà,
Có chàng tuấn kiệt Phạm Hương hỏi nàng.
Lời ước hẹn sang xuân Loan Phượng
Ai cũng mừng tuyệt thế giai nhân
Ngờ đâu sự biến bất thần
Quan tham Tô Định kéo quân tức thì,
Bắt cha cùng với bắt chàng,
Thoái hôn để cướp lấy Nàng Thục Nương
Thà một chết quyết không hàng giặc,
Đã quyết không cho giặc cướp nàng
Than ôi, cơ sự nhỡ nhàng
Chưa xong lời nói lưỡi gươm cắt rồi.
Thương thay số phận của người trung lương
Giặc kia cường bạo không thường
Quân vây quanh khắp một vùng Phượng Lâu
Truy cho bằng được bắt nàng Thục Nương
Giặc đâu ngờ nàng cao võ nghệ
Tuốt gươm nàng phá vòng vây
Đang đêm thoát hiểm sông này,
Thuyền chèo một mái đến miền Tiên La
Dựng cờ nghĩa Anh tài Vũ dũng
Dân khắp nơi nô nức theo về
Tập binh, mở rộng cõi bờ,
Giáo gươm sáng đất, ánh cờ đỏ mây
Một vùng thoát khỏi đời nô lệ,
Dân ấm no quyết chống bạo tàn
Mấy lần quân giặc kéo sang,
Phải thua rút chạy vì Nàng Tướng Quân
Thói tham ác việc không dừng
Năm ba mươi chín lại gây thêm thù
Tô Định giết chết chàng Thi Sách
Để răn đe dân Việt lầm than
Vợ Thi Sách là nàng Trưng Trắc
Cùng với em Trưng Nhị xuất quân
Cho người về Tiên La trưng tập
Mời Tướng quân Thục nữ trinh Nương
Cùng chung việc nước, thù nhà
Hai vai gánh vác sơn hà,
Quyết một trận quét đời nô lệ,
Đem máu xương phá bẻ xiềng gông
Xuất quân đánh trận thành công,
Sáu lăm thành cũ, cõi bờ về tay.
Xét công trạng trong hàng Nữ tướng,
Nàng Thục Nương xếp hạng công đầu
Ban phong hiệu Ngọc Hoa Công chúa,
Đông nhung Đại Tướng toàn quân Hai Bà
Nàng bái tạ xin về chốn cũ,
Cởi giáp binh để lại thường dân
Tiên La bái tạ Phật đình,
Lại lo canh cửi, phận mình Nữ nhi.
Trưng Nữ Vương hiển vinh công trạng
Kinh đô này thành cũ Mê Linh
Giao châu độc lập từ đây
Danh xưng Đại Việt lần này có yên?
Vua Quang Vũ dẹp xong Vương Mãng
Lại giao quan tập hợp quân lương
Chọn tất cả hùng binh tinh nhuệ
Lệnh thêm cho Lưỡng Quảng nam chinh,
Thống quân tướng Phục Ba Mã Viện
Phù lạc hầu phó tướng Lưu Long
Chia đường thủy bộ ầm ầm kéo sang
Hai Bà Trưng chia quân đón đánh
Nàng giáp y dẫn đội tiền quân
Dọc ngang chiến trận khói đen chiến bào,
Quân Đông Hán bạt ngàn đồi núi,
Sức quân đông mạnh mấy quân mình,
Trong vòng trận thế đao binh
Đến khi sức kiệt gieo mình xuống sông
Hai Bà đã vào trong đất Mẹ,
Trôi về đến bến Đồng Nhân,
Nhân dân thương vớt lập thờ tại đây.
Tướng Đô Dương cũng đã theo hàng giặc kia,
Toàn quân còn có mình nàng lĩnh binh,
Rút quân về giữ Thái Bình.
Sau khi triệt phá binh dân Việt
Mã Viện đưa quân vượt sông Hồng
Đông Nhung Đại Tướng Bát Nàn,
Còn trăm quân sỹ trong vòng giặc vây
Nàng đâu tiếc tấm thân đài các
Vốn là  dòng Nữ phiệt Trâm Anh
Một phen nợ Nước, thù Nhà
Ba chín ngày quyết xông pha,
Lương binh đã hết đoản đao giết thù,
Nữ binh giữ tiết trinh tuẫn tiết,
Trong hàng quân đã chết hết rồi.
Oai phong hùng khí còn nàng,
Tả xung hữu đột một mình xông pha,
Giữa rừng gươm giáo sáng lòa
Vung gươm giặc đổ đất hòa máu tươi.

Chuyện xưa kể xiết bao đau xót,
Vũ thị Thục Nương Đại Tướng Đông Nhung
Chiến bào thắm máu hồng liệt nữ,
Ánh chiều xuân sáng đỏ một vùng,
Tiên La, ngày ấy oai hùng,
Ánh chiều bảng lảng sáng bừng bóng gươm
Giặc kinh hãi rẽ ra trốn chạy
Một mình nàng cưỡi ngựa truy phong,
Phút giây đã vượt muôn trùng giặc vây
Ngựa phi đến cây tùng cổ thụ,
Nơi này xưa Đại tướng qua chơi
Giờ đây trở lại máu tươi đẫm mình,
Nàng vẫn quyết không cho giặc bắt,
Tuốt gươm kề tuẫn tiết cho xong
Một dòng máu đỏ lên trời,
Hỡi ôi, thân xác hóa người nghìn thu.
Nàng thầm gọi:
Mẹ ơi có biết, lúc này con đã thác về Trời.
Đông Nhung Liệt nữ ở đời
Chết thiêng chiến trận tuổi đời thanh xuân!
Uy linh nàng hóa về Trời,
Thành ngôi Thánh Mẫu để đời nhớ thương!
Dân gian dựng đền thờ nơi cũ,
Hai nghìn năm nghi ngút khói hương
Tôn Bà Vũ thị Thục Nương,
Đông nhung Đại tướng lên hàng Thượng Thiên,
Những người đã hóa về Trời,
Trong hàng bất tử để đời tôn vinh,
Bà hiển linh về nơi trần thế, thăm chúng sinh, cứu khổ dân mình
Những người được đức ân tình
Vẫn thường thấy rõ Bà trong tháng ngày
Trung trinh, Thanh thoát, Thánh linh,
Bà đi dạo khắp non xanh, sóng ngàn,
Bóng Bà muôn dặm trời cao,
Giảm bao cảnh khổ nỗi đau cõi đời
Bà đưa Xuân đến muôn nơi,
Như Bà mãi trẻ, Xuân tươi chẳng già!
Đến lại nơi xưa Bà tuẫn tiết,
Hai nghìn năm mộ phủ hoa tươi,
Khói hương không dứt mây trời,
Nhớ Tiên giáng thế,
Nhớ Người cứu dân,
Nhớ buổi ấy nước nhà độc lập
Nhớ công lao, ơn đức của Bà,
Nhớ ngày mười bẩy tháng ba
Là ngày kỵ giỗ giờ Bà hóa thân,
Ngày Mười Ba tháng Giêng Âm lịch,
Trời mưa phùn tịch mịch vào Xuân
Mịt mù khói tỏa màn sương,
Mái đền thấp thoáng còn vương ánh chiều
Tiếng chuông đồng vọng đâu đây,
Tiếng ngân thánh thót như dây tơ vàng.
Chúng con xin được vào cung lễ Bà,
Bà ngồi tĩnh lặng như trong Phật đài
Lâm râm khấn xin Bà phù hộ,
Trong phút giây tưởng thấy Bà cười,
Nhẹ nhàng Bà bảo:
Con ơi,
Sửa lòng thanh sạch,
Thì đời con nhẹ bước trần gian
Tổ ban cho phép tu thân,
Để con không bị trầm luân kiếp này
Nghe lời Bà dậy sâu xa,
Xin thưa, con hiểu, từ rày cố hơn.
Xin Bà một chút chứng tâm,…!
—————-

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #38 - 12. Dec 2017 , 21:56
 
ĐỒNG NAI TRÊN ĐƯỜNG NAM TIẾN
Về vấn đề lưu dân người Việt đến định cư khai phá vùng đất Đồng Nai - Bến Nghé - Cửu Long, mà ngày nay ta thường gọi bằng tên chung là Nam Bộ, các nhà nghiên cứu cũng đã từng bàn thảo khá nhiều, nhưng vì thư tịch cổ còn lưu giữ đến hôm nay quá ít ỏi và thường diễn đạt chung chung, thiếu phần cụ thể. Tuy nhiên, căn cứ vào nguồn Sử liệu có được, cộng với những sách của nước ngoài viết về vùng Đông Nam Á, chúng ta cũng có thể xác định được thời điểm người Việt có mặt sớm nhất ở đây.
Riêng Bến Tre cho đến đầu thế kỷ 17 về cơ bản vẫn còn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá, khắp nơi là rừng rậm, đầm lầy. Mãi đến những thập niên cuối thế kỷ 18, Lê Quý Đôn còn nhận xét rằng "ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào, toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm" và đa phần người Khmer sống rải rác trên các giồng đất cao như Sóc Sãi, giồng Ông Giang, giồng Nâu, ở cù lao Bảo, giồng Văn, giồng Võ, Đa Phước, An Thạnh, Ba Vát ở Cù Lao Minh...
Những vùng đất thấp khác hầu như đều là rừng rậm hoang vu, như tác giả "Gia Định Thành Thông Chí" đã mô tả: “Phía Nam trấn (Định Tường) một dặm, trước kia là rừng hoang làm hang cho hùm beo ở". Nhưng cũng như nhiều nơi khác ở Nam Kỳ nói chung, kể từ thế kỷ 17 trở đi, bộ mặt vùng đất Bến Tre bắt đầu biến đổi mạnh khi có sự xuất hiện một lớp dân cư mới: lưu dân người Việt và lưu dân người Hoa.
Vùng đất Bến Tre được xác nhập vào lãnh thổ Việt Nam từ giữa thế kỷ 18, nhưng lưu dân người Việt đã đến đây ở từ trước đó khá lâu. Có thể coi đó là một đặc điểm chung ở nhiều vùng đất khác ở Nam bộ, Jules Sien đã nhận xét rất đúng rằng: “Trước khi Nam Kỳ trở thành một bộ phận của Việt Nam, người Việt đã lập ở đó những tổ chức. Những nhóm người di cư đã xây dựng làng xóm, hay tới ở chung với người Cao Miên".
Những lưu dân người Việt đến vùng Bến Tre trong những năm cuối thế kỷ 17 hầu hết là những người từ các tỉnh miền Trung (Ngũ Quảng). Họ gồm nhiều thành phần khác nhau, nhưng đông đảo nhất vẫn là những nông dân nghèo khổ lại phải gánh chịu nạn can qua "Trịnh - Nguyễn phân tranh", họ buộc phải rời bỏ quê hương đi tìm đất sống. Thành phần đông đảo thứ hai là những người trốn lính, những tù nhân bị lưu đày viễn xứ. Ngoài những thành phần đông đảo kể trên, còn có một số người có tiềm lực kinh tế, có kinh nghiệm sản xuất, những người có óc phiêu lưu mạo hiểm ở miền Thuận Quảng – những người mà Lê Quý Đôn gọi là "Dân có vật lực" – theo lời kêu gọi của chúa Nguyễn, họ muốn thử thời vận, làm giàu, vào đây để mở rộng việc kinh doanh tạo nên sản nghiệp mới.
Sử ghi chung chung về vùng đất Nam bộ (bao gồm Bến Tre):
Theo một số học giả Pháp, thì vào năm 1620, vua Chân Lạp là Chey Chettha II đã cưới một Công nương, con của chúa Nguyễn. Năm 1623, theo yêu cầu của chúa Nguyễn, triều đình Chân Lạp đã chấp thuận việc người Việt đến làm ăn ở Prey Nokor (vùng Sài Gòn ngày nay), Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Nghé...
Sách Gia Định thành thông chí viết: "Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1686) sai tướng vào khai thác phong cương ở nơi bằng phẳng, rộng rãi, đặt dinh Tân Thuận, cất nha thự cho các quan giám quân, cai bộ và ký lục ở. Ngoài ra, còn cho dân trưng chiếm, chia làng, lập xóm, chợ phố".
Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần lại cho phép 3.000 người Hoa "phản Thanh phục Minh" theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch đến cư trú chính trị và định cư ở vùng Biên Hòa và Mỹ Tho.
Đợt chuyển cư đáng chú ý nhất vào đầu thế kỷ 18 diễn ra sau sự kiện Nguyễn Hữu Cảnh tuân lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào kinh dinh đất Gia Định (1698). Có lẽ đây là đợt chuyển cư có tổ chức do chính quyền phong kiến hướng dẫn lớn nhất so với trước đó. Lúc này, dân số đã lên đến 4 vạn hộ, nghĩa là tương đương với khoảng 200.000 dân, một điều kiện quan trọng để chúa Nguyễn cho lập huyện Phước Long và Tân Bình với hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn lúc bấy giờ.
Sang đầu thế kỷ XVIII, vào năm Ất Dậu (1705), Nguyễn Cửu Vân, một tướng của chúa Nguyễn, sau khi giúp Nặc Ông Yêm đánh bại quân can thiệp Xiêm, kéo quân vào đóng ở Vũng Gù (vùng thị xã Tân An ngày nay) cho quân khai phá vùng đất chung quanh và đào thông hai ngọn rạch Mỹ Tho – Vũng Cù, vừa để làm đường vận chuyển, vừa làm hào phòng thủ.
Năm 1756, khi Nguyễn Cư Trinh tiếp thu phủ Lôi Lạp (Soài Rạp), thì dân số vùng này đã tương đối đông. Trong tờ sớ gửi lên Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Cư Trinh viết: "Từ xứ Sài Gòn đến phủ Tầm Đôn... đất đai mênh mông, ruộng nương rất nhiều, dân số lên đến vạn người" . Cũng từ đây, số lưu dân kéo vào ngày càng đông, nhất là sau vụ chạy loạn của dân miền Trung vào Nam, khi quân Trịnh lợi dụng cơ hội chúa Nguyễn đang lúng túng trước phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, vượt sông Gianh, đánh chiếm Thuận Hóa, Quảng Nam (1774).
Vào thập niên 70 của thế kỷ 18, hai tổng Phước Lộc và Thuận An đã có hơn 350 thôn với 15.000 dân đinh, tương đương với khoảng 75.000 dân . Như vậy, chỉ trong vòng có mấy thập kỷ mà số dân đã tăng vọt khá nhanh.
Trong khi đó, cuộc chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh kéo dài một phần tư thế kỷ (1777 – 1802) cũng đã gây nên những xáo trộn nhất định về dân cư ở khu vực thành Gia Định và các vùng phụ cận, trong đó có Bến Tre (lúc bấy giờ là vùng đất gồm một phần huyện Kiến Hòa tức cù lao An Hóa và hai huyện Bảo An, Tân Minh thuộc dinh Long Hồ).
Trong sự nỗ lực giành lại chiếc ngai vàng của dòng họ, Nguyễn Ánh cũng đã ra sức phát triển kinh tế, nhằm ổn định trật tự xã hội, đồng thời tích trữ lương thực cho cuộc chiến tranh chống Tây Sơn. Từ sau năm 1790, Nguyễn Ánh cũng ra lệnh cho quân đội vỡ ruộng, cử nhiều viên quan có tài làm điền nông sứ để vận động nhân dân ra sức phát triển nông nghiệp, đặt các sở đồn điền để sản xuất lương thực. Sau này, khi đã lên ngôi vua (1802), Gia Long vẫn tiếp tục duy trì và phát triển các hình thức đồn điền để mở rộng việc khai hoang. Hai cù lao Bảo và Minh cũng có một số đồn điền theo dạng này.
Đến thời Minh Mạng, Châu bản triều Nguyễn có ghi sự kiện: “Trương Minh Giảng đưa hơn 1.200 phạm nhân giao cho thành Gia Định phân phối họ đến các đồn điền”.
Chung chung các đợt chuyển cư từ miền ngoài, chủ yếu là dân vùng Ngũ Quảng vào đất Đồng Nai – Gia Định trong thế kỷ 18 và nửa đầu thế kỷ 19, diễn ra không ào ạt, nhưng tương đối đều đặn và liên tục. Số lưu dân đến định cư ở đây gồm có hai luồng chính: luồng đi thuyền vào Đồng Nai, Bến Nghé, Tân Bình rồi sau đó mới tỏa về các địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long. Về tốc độ cũng như về số lượng của luồng này phát triển chậm chạp và có nhiều hạn chế. Luồng thứ hai cũng đi đường biển bằng ghe bầu theo gió mùa hàng năm, thẳng vào các cửa sông như cửa Tiểu, cửa Đại rồi ngược dòng các sông lớn, tiến sâu vào nội địa, tỏa ra định cư ở các giồng, gò, vùng đất cao ráo có nước ngọt ở hai bên bờ sông, hoặc theo dọc các con rạch.
Đầu thế kỷ 19, khi con đường thiên lý từ Huế vào Gia Định được khai thông, có một số lưu dân chuyển cư theo đường bộ, nhưng rất hạn chế vì đường sá hiểm trở, nạn trộm cướp dọc đường thường xảy ra, cho nên không an toàn.
Với Bến Tre, lưu dân đi theo đường biển chiếm số lượng lớn nhất. Trong khi đó, số từ các địa phương lân cận di chuyển đến, tuy có nhưng không nhiều. Thường thường cuộc di chuyển được tổ chức thành nhóm, thành đoàn giữa những người bà con, dòng họ với nhau, những người cùng xóm giềng, làng xã quen biết nhau, những người cùng một tôn giáo, như đạo Chúa ...do cá nhân, làng xã đứng ra tổ chức, hoặc do “những người dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn mộ vào Nam khai phá..." như Lê Quý Đôn miêu tả trong Phủ Biên Tạp Lục.
Tổng hợp lại tất cả các nguồn tài liệu qua những chuyến điều tra khảo sát điền dã nhiều vùng khác nhau trong tỉnh, có thể xác định được rằng nguồn gốc cộng đồng dân cư Bến Tre đa số ở miền Trung, đặc biệt từ phía nam đèo Hải Vân trở vào.
Có thể nói rằng đến cuối thế kỷ 18 Cộng đồng dân cư Bến Tre về cơ bản đã định hình trên cơ sở một nền sản xuất vật chất chủ yếu nông nghiệp và ngư nghiệp. Cùng với việc mở rộng diện tích khai hoang, sản xuất phát triển, lương thực dồi dào, các thôn xã hình thành ngày một nhiều. Việc quản lý xã hội đi dần vào nề nếp ổn định, chặt chẽ hơn...Từ năm 1802, chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh kết thúc. Trong bối cảnh hòa bình, toàn vùng Đồng Nai – Gia Định & Bến Tre thêm ổn định do được khuyến khích việc khai hoang như miễn giảm thuế một số năm cho ruộng mới vỡ, phong thưởng cho những thành tích mộ dân, khẩn đất, lập làng, ấp... đã có tác dụng kích thích mạnh đến sản xuất nông nghiệp, làm tăng nhanh dân số. Qua bản thống kê số dân ở Nam Bộ vào giữa thế kỷ 18, tỉnh Vĩnh Long (trong đó có Bến Tre) có 41.336 dân đinh, nghĩa là vào khoảng 206.000 dân. Ở thời điểm này, nền kinh tế của Bến Tre - chủ yếu là nông nghiệp – cũng đã phát triển khá. Nguồn lợi chủ yếu là gạo và dừa khô, thứ đến là trái cây. Bến Tre cũng bán ra ngoài mặt hàng lụa và cau khô, hải sản...
Sự tăng trưởng về kinh tế đã tạo điều kiện cho văn hóa, giáo dục phát triển. Trước khi người Pháp đặt chân đến Bến Tre , nơi đây đã có 70 trường dạy chữ Hán. Trong số đó một trường nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu ( Tác phẩm Lục Vân Tiên).
NNS
Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra