Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI MỚI RA ĐỜI  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra
TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI MỚI RA ĐỜI (Read 7687 times)
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI MỚI RA ĐỜI
19. Jul 2006 , 05:06
 
Thân mời quý bạn tham gia vào mục : CHỬ NGHIÃ BỀ BỀ
Hy vọng rằng các bạn sẻ thú vị khi xem xong bài viết nầy


           TIẾNG VIỆT - TIẾNG MỸ RẮC RỐI...

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi
Me hiền ru những câu xa vời
À à ơi ! Tiếng ru muôn đời
Tiếng nước tôi ! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi
Phạm Duy (Tình ca, 1953)

Tôi tình cờ quen một anh bạn Mỹ, người Mỹ chính cống, mắt xanh mũi lõ, tên Johnson William, quê ở bang Ohio của xứ Cờ Hoa nhưng Johnson đã hơn 16 năm sinh sống ở Việt Nam, nghiên cứu về dân tộc học Ðông Nam Á, nói tiếng Việt thông thạo, phát âm theo giọng Hà Nội khá rõ, hắn học tiếng ở Ðại học Ngoại ngữ Hà Nội rồi làm Master of Art về văn hóa xã hội Việt Nam ở học Khoa học Tự nhiên Sài gòn, rành lịch sử Việt Nam, thuộc nhiều câu thơ lục bát trong truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của cụ Ðồ Chiểu. Johnson ăn mặc xuyền xoàng, cái đầu rối bù, chân mang một đôi giày bata cũ mèm, lưng quảy một ba lô lếch thếch, sẵn sàng ăn uống nhồm nhoàng ngoài vỉa hè. Johnson có thể quanh năm suốt tháng ăn cơm với chuối thay cho bánh mì và phomát, xịt nước tương vào chén rồi cứ thế mà khua đũa lùa cơm vào miệng. Ðối với Johnson, thịt rùa, rắn, ếch, nhái, chuột đồng, ... hắn xơi ngon lành. Bún riêu là món khoái khẩu của Johnson, hắn còn biết thèm hột vịt lộn ăn với rau răm chấm muối tiêu chanh. Ai có mời đi chén thịt cầy với mắm tôm, Johnson chẳng ngần ngại mà còn biết vỗ đùi đánh cái phét khen rượu đế mà nhắm với thịt chó ngon "thần sầu quỉ khốc" !!! Chẳng biết Johnson khéo tán tỉnh thế nào (hoặc bị tán) mà vớ được một cô bé Hà thành tóc "đờ-mi gác-xông", sinh viên ngành văn chương hẳn hoi. Ngày cưới, Johnson vận áo dài khăn đóng, dâng trầu cau và quì lạy bàn thờ tổ tiên nhà gái thành thạo làm đám thanh niên, thiếu nữ, cả lũ con nít và mấy ông cụ ông, cụ bà trong làng suýt xoa, kinh ngạc, xúm đen xúm đỏ coi muốn sập nhà.

Chúng tôi gặp nhau trên chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Huế. Tôi về thăm quê, còn Johnson thì sau mấy tháng nghiên cứu phong tục Tây nguyên xuống Nha Trang rồi tiếp đi dự Festival Huế. Ðường dài, tàu chạy dằn xóc, chung quanh ồn ào, lao nhao chẳng ai ngủ được. Johnson rủ tôi xuống toa ăn uống, kêu mỗi người một ly cà phê đen, một bình trà nóng rồi trao đổi đủ thứ chuyện trên đời. Tôi cũng khá thán phục sự hiểu biết và thành thạo văn hóa Việt Nam của Johnson khi nghe hắn thỉnh thoảng chêm vô câu chuyện mấy câu ca dao, thành ngữ tiếng Việt. Thật thú vị khi nói chuyện với một người Mỹ bằng tiếng Việt về đề tài ngôn ngữ Việt Nam (dễ chịu hơn nhiều khi khi nó chuyện với một người Mỹ bằng... tiếng Anh). Vậy mà Johnson vẫn lắc đầu than:

- Tiếng Việt của mấy ông rắc rối quá! Tôi học đã lâu mà vẫn còn lúng túng, nhiều lúc viết sai, nói sai lung tung cả lên. Này nhé, từ xưng hô, ăn uống, giao tiếp... thật lắm từ khác nhau chẳng đơn giản như tiếng Mỹ của tớ, chỉ một từ you là để nói với tất cả người đối thoại, tiếng Việt thì phân biệt ông, bà, anh, chị, em, con, cháu, ngài, mày, thầy, thằng, ... rành mạch. Tiếng Mỹ thì dùng một chữ black để chỉ tất cả những vật gì, con gì có màu đen trong khi đó tiếng Việt thì khác, ngựa đen thì gọi là ngựa ô, chó đen thì kêu là chó mực, mèo đen thì gọi là mèo mun, gà đen thì là gà quạ, bò đen là bò hóng, mực đen là mực tàu, tóc đen thì hóa thành tóc nhung hoặc tóc huyền. Ðã là màu đen rồi mà người Việt còn nhấn mạnh thêm mức độ đen như đen thủi, đen thui, rồi đen tuyền, đen thắm, tím đen, đen ngắt, đen bóng, đen sì, đen đủi, đen thẳm, đen óng, đen thùi lùi, đen kịt, đen dòn... Còn để chỉ màu ít đen hơn thì người Việt dung chữ đen hai lần: đen đen.

Tôi cười cười:

- Thì tiếng Mỹ của ông nhiều lúc cũng rắc rối kia mà. Này nhé, người Việt nói: "Hôm qua, tôi đi tiệm" thì người Mỹ lại nói "Yesterday, I went to the shop". Tiếng Anh, đi là go, nhưng đã đi (quá khứ) thì phải viết là went. Bản thân chữ hôm qua (yesterday) đã là quá khứ rồi thì ai cũng biết mà gì cần phải đổi go thành went chi cho rối mấy người học Anh văn? Nội chuyện học thuộc lòng 154 động từ bất qui tắt của mấy ông cũng đủ làm nhiều người trên thế giới phải thi rớt lên rớt xuống. Người Việt nói hai con chó mà chẳng cần thêm s hoặc es thành hai con chó "sờ" (two dogs) như tiếng Mỹ. Một đứa con nít thì nói là one child là được rồi, vậy mà thêm một đứa nữa thì bắt đầu rối, chẳng phải là two childs mà thành two children. Một con ngỗng là one goose, hai con ngỗng thì thành two geese. Vậy mà viết một con cừu là one sheep nhưng hai con cừu thì cũng là two sheep, chẳng chịu đổi gì cả ?!.

Johnson vẫn không chịu thua:

- Văn phạm của xứ ông cũng rắc rối bỏ xừ! Xem nè, thắng và thua là hai chữ phản nghĩa chứ gì? Thua và bại là hai chữ đồng nghĩa, đúng hông? Vậy mà, hai câu nói: "Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán" đồng nghĩa với câu "Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán"? Không thể viết là "Ngô Quyền đánh thua quân Nam Hán"!!! Phải không nào? Rồi còn, "áo ấm" tương đương với "áo lạnh", "nín thinh" giống như "làm thinh" trong khi ấm và lạnh phản nghĩa nhau, nín và làm cũng là những động từ đối nhau. Rồi ba hồi mấy ông dùng tiếng Hán như Quốc gia rồi đổi thành tiếng Nôm ra Nhà nước, Trực thăng (có thể không cần chữ máy bay phía trước) thành Máy bay Lên thẳng (phải có chữ máy bay phía trước), Thủy quân lục chiến thì đổi là Lính thủy đánh bộ, sao không gọi luôn là lính nước đánh đất??? Lễ động thổ thì không thể sửa lại là Lễ động đất mặc dầu là thổ là đất?

Tôi tiếp tục "ăn miếng trả miếng":

- Tiếng Mỹ cũng đâu có tránh khỏi. See và look cũng đều là động từ để cùng chỉ hành động xem, nhìn, ngắm, dòm nhưng oversee (quan sát, trông nom) lại ngược nghĩa overlook (bỏ sót, không nhìn thấy). Wise man là người thông thái, uyên bác, vậy mà thay chữ man (đàn ông) thành woman (đàn bà) thì chữ wise woman thành bà phù thủy, bà đỡ bà lang, bà thầy bói, bà đồng bóng!!! Rồi chữ man và guy (anh chàng, gã) gần gần như nhau thì chữ wise guy thành một kẻ hợm hĩnh, khoác lác. Sao lại "park on driveways" (đậu xe trên đường nội bộ) nhưng "drive on parkways" (lái xe trên xa lộ)?

Johnson ôm bụng cười:

- Tên món ăn Việt Nam cũng lạ, miền Nam có bánh da lợn, tưởng làm bằng thịt lợn nhưng thực chất là bằng bột, có lẽ giống như các lớp da lợn, nhưng sao không gọi là bánh da heo theo từ miền Nam mà gọi theo chữ lợn miền Bắc? Bánh bò cũng chắng có miếng thịt bò nào. Bánh tiêu thì không rắc tiêu mà lại rắc mè. Gọi rau má mà chẳng liên quan đến má hay mẹ gì cả. Bánh tét mà gói thật chặt, chẳng thể nào tét được. Bánh dày thì lại mỏng hơn bánh chưng. Bánh chưng thì phải nấu thật lâu mới chín chứ không phải dùng cách chưng hơi hay chưng hấp. Nước lèo trong nồi hủ tiếu thì chẳng phải theo kiểu nước Lào (hay Lèo). Trái sầu riêng thì ăn vô chẳng thấy sầu riêng hay sầu chung chi cả. Bưởi Năm roi rất tuyệt nhưng sao đúng là năm roi? Trái vú sữa, Cây dái ngựa thì thật là tượng hình. Hi hi... Ngôn từ bây giờ cũng thế, cò đất, cò nhà... thì chẳng dính dáng gì đến "con cò, cò bay lả, lả bay la..." cả.

Tôi cũng chẳng vừa:

- Thế cái món hot dog của mấy ông có liên quan gì đến con chó không? Món bánh mì kẹp thịt bò băm Hamburger của Mc Donald thì đâu có thịt heo (ham). Trái thơm, trái khóm "pineapple" thì chẳng có gì liên quan đến pine (cây thông) và apple (trái táo) cả? Vào phòng thí nghiệm sinh học, ông Giáo sư bảo bắt một con "Guinea pig", nghe qua tưởng đâu là con heo xứ Guinea (ở Tây Phi Châu, giáp với Senegal, Mali, Liberia, Sierra Leone và biển Bắc Ðại Tây dương) nhưng ngờ đâu là một giống chuột tên là Guinea (ở Guinea không có giống chuột này!). Ðáng lý chữ football (bóng đá) thì phải viết là legball chứ, bởi vì người ta đá banh bằng cả cái chân (leg) chứ đâu chỉ cái ống chân foot từ dưới đầu gối đến trên bàn chân? Mới đây, khi dân Pháp không chịu ủng hộ Mỹ trong vụ chiến tranh Iraq thế là mấy dân biểu Mỹ giận đòi đổi tên món khoai tây chiên French fries bằng chữ American fries thì mấy ông Tây lại ôm bụng cười chế riễu rằng món French fries không phải xuất xứ từ Pháp mà từ ... Mỹ và là món ăn của dân Mỹ. Có lẽ mấy ông Mỹ tiền bối xưa, khi làm món này đặt tên là khoai tây Pháp cho nó có vẻ ... ngoại cho sang, giống như bây giờ một số quán ăn Việt Nam có thực đơn Lẫu Thái, Bún Singapore, Bánh bao Mã lai, Cá chiên viên Singapore, Hủ tiếu Nam Vang, ... mặc dầu nguyên liệu và cách nấu gần như 100% của Việt Nam???

Johnson gật gù:

- Ừ, cũng đúng. Nhưng lúc đầu học tiếng Việt, tôi thấy khó quá, đã lấy 24 chữ cái A, B, C của vần La tinh rồi mà bày ra thêm a, â, ă, u, ư, ơ, d, đ, ... nữa. Lại thêm kèm 5 dấu sắc ('), huyền (`), hỏi (?), ngã (~), nặng (.) và không dấu ( ) nữa. Như le, lé, lè, lẹ, lẻ, lẽ, mỗi chữ mang một nghĩa khác nhau. Rồi phải học cách bỏ dấu ở đâu trong từ cho chính xác nữa chứ. Hòa hay là hoà. Li hay là ly? Có câu thơ về dấu này cũng hay:

Chị Huyền mang nặng ngã đau,
Sao không sắc thuốc, hỏi sao cho lành ?!

Trong ngôn ngữ Việt Nam, tôi thấy nhiều chữ ghép với chữ ăn mặc dầu nó chẳng ăn nhập đến chuyện bỏ thực phẩm vào miệng, nhai và nuốt xuống gì cả. Nói ăn nhậu, ăn tiệc, ăn mùng, ăn cưới, ăn giỗ, ... thì có lý nhưng sao lại ăn nằm, ăn hút, ăn tiền, ăn lương, ăn cắp, ăn mày, ăn chặn, ăn quỵt, ăn diện, ăn đòn, ăn công, ăn năn, ăn hiếp, ăn khách, ăn ảnh, ...

Tôi bật cười chận ngang khi Johnson tiếp tục ghép chữ với từ ăn:

- Thì như tiếng Mỹ của ông vậy thôi. Chữ to get khó dịch gì ra hồn cả. Tôi cũng có nghĩ là khi mình chưa tìm ra động từ nào thích hợp thì dùng tạm luôn chữ to get! Khi quân đội Mỹ bắt sống được Saddam Hussen ở Iraq thì tuyên bố "We got him!", sao không dùng động từ to catch, to caught, to force, to find, to capture, to pick up, ...cho rõ nghĩa? Rồi động từ to get đi kèm các giới từ in, into, on, out, up, at-able... thành một loạt động từ mới. Các động từ to take, to put, to be... cũng vậy.

Johnson chuyển qua phần khác:

- Chuyện mạo từ tiếng Việt cũng làm rắc rối người nước ngoài. Người Việt nói cái bàn, cái nhà, cái gường, cái nón... nhưng không thể nói cái chó, cái mèo mà phải là con chó, con mèo, con người.... Ðồ vật là cái, động vật là con. Bây giờ nhiều cô cậu thanh niên Hà Nội thay vì nói cái xe Honda Dream thì lại dùng từ con Ðờ-rim, rồi tiếp là con Su (Suzuki), con a còng (@), con Tô (Toyota), con Mẹc (Mercedes)...

Vợ chồng tôi có chuyện vui thế này: Tôi quen vợ tôi, một phần vì yêu các cô gái Việt Nam, một phần cũng để trau dồi thêm tiếng Việt. Hôm hôm chúng tôi ra Hồ Gươm dạo chơi, tôi khen: "Con hồ này đẹp quá!". Vợ tôi "chỉnh" liền: "Không, anh phải nói là cái hồ này đẹp quá!". Vậy mà đi ngang sông Tô Lịch thấy nước đen ngòm, tôi nói: "Cái sông này bẩn quá!" thì vợ tôi "sửa" ngay: "Ậy, anh phải nói là con sông này bẩn quá chứ không nói là cái sông!". Tôi la lên: "Ồ, sao lại thế, khi là cái, khi là con, làm sao phân biệt?". Vợ tôi ôn tồn giải thích: "Cái gì động dậy, nhúc nhích thì gọi là con, như con sông có nước chảy, còn cái gì nằm im như cái hồ nuớc tĩnh mịch thì phải là cái hồ. Con chó, con mèo nó chạy được nên phải là con. Cái nhà, cái bàn, cái cột đèn đâu có di chuyển được nên phải là cái. Rõ chửa?". Lúc đó, tôi phá lên cười vì phát hiện một điều vô cùng thú vị: "À, anh hiểu rồi! Tiếng Việt thật hay. Hèn gì cái... cái của anh nó nhúc nhích lên xuống nên phải gọi là con ..., còn của... em, nó nằm im một chỗ nên phải gọi là cái, cái... Ha ha...". Hôm ấy, tôi bị mấy cái nhéo đau điếng, nhưng bù lại, có được một đêm hạnh phúc.

Tôi thấy tức cười vô cùng với anh bạn Mỹ này:

- Tôi cũng có chuyện hiểu lầm trong phát âm tiếng Mỹ như thế này.

Trong một bữa tiệc với các sinh viên quốc tế, tôi nhận phần phục vụ nước uống. Gặp bà giáo người Mỹ đã đứng tuổi, tôi đến chào lịch sự và nói theo kiểu cách theo kiểu của người Việt: "Good evening, Madam. May I have a honour to serve you? Do you like my Coke?" (Chào bà, Tôi có thể hân hạnh phục vụ quí bà. Bà có muốn món Coke (Coca Cola)?). Bà này trợn mắt nhìn tôi, ra vẻ ngạc nhiên, rồi lắc đầu bỏ đi. Tôi băn khoăn chẳng hiểu chuyện gì? Hôm sau, tôi đánh bạo đến hỏi bà: "I am sorry, yesterday I have found your strange look when hearing my invitation. Was there a wrong?" (Xin lỗi, hôm qua tôi thấy bà nhìn tôi kỳ lạ khi nghe lời mời của tôi. Có điều gì không ổn vậy?). Bà giáo mỉm cười độ lượng: "Yes, I had misunderstood yours. Today, I just find out that your pronunciation is not correct. You said "Coke" not sound like "Coke" but "thingy". thingy is a male chicken but it also has a dirty meaning else. You should be careful when saying this word to a lady". (Vâng, tôi đã hiểu lầm anh. Hôm nay, tôi mới hiểu ra là anh phát âm không đúng. Anh nói chữ "Coke" mà không giống "Coke" mà thành "thingy". thingy là con gà trống nhưng nó cũng có một nghĩa khác xấu. Anh phải cẩn thận khi nói từ này với một phụ nữ).

Johnson "gỡ gạt":

- Hi hi... Anh bạn người Việt dẫn tôi đến thăm nhà, đến trước ngôi nhà của mình anh nói: "Ðây là nhà tôi, mời ông vào chơi", gặp vợ anh ta ra đón trước cửa, anh ta lại giới thiệu: "Ðây là nhà tôi, mời ông vào chơi". Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi và bước vào nhà, nhà anh ta thật đẹp (vợ anh ta cũng vậy!). Tôi ra lịch sự nên khen chủ nhà và nói: "Nhà anh và nhà anh thật đẹp". Hai vợ chồng nhìn nhau cười. Vì đi lâu ngoài đường, lại không có WC công cộng, nên tôi hỏi anh chủ nhà "Xin ông cho tôi vào cái chỗ đi toilet của nhà ông được không?" Hi hi... lúc đó tôi không nghĩ đến cái sự buồn cười của câu này, hôm sau nghĩ lại tôi mới thấy.

Tôi cười to kể tiếp:

- Lần đầu tiên sang Châu Âu cách đây 10 năm, tôi quen một cô sinh viên Hà Lan. Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Cô rủ tôi ra bãi biển nằm phơi nắng và nói chuyện. Hôm đó, tôi chẳng đem theo cái gì để trải xuống bãi cát để nằm cả. Nói với cô này, thì cô mỉm cười: "Oh, never mind. You can lie down at my top" (Ồ, không sao. Anh có thể nằm trên cái top của tôi). Tiếng Anh của tôi cũng chẳng giỏi gì nên chẳng hiểu là nằm trên top là nằm ở đâu? Tôi chỉ biết top có nghĩa là đỉnh, là ở trên. Vậy nằm ở trên là nằm đâu? Nằm trên đầu thì chắc là không đúng rồi, ai lại nằm trên đầu mà nói chuyện với phụ nữ. Chẳng lẽ nằm trên... mình cô này? Hồi lúc trước đi Tây, tôi nghe nhiều thằng bạn kháo nhau rằng, phụ nữ Tây nó... Tây lắm, thích thì sẵn sàng... chiều! "Tình cho không biếu không" mà. Vậy là... lẽ nào  Tới nơi, tôi mới bật cười và thấy mắc cỡ trong lòng khi thấy cô này cởi áo khoác ra, trải dưới bãi cát và chỉ tôi nằm trên đó. Tối đó, về đến nhà, tôi lặng lẽ lật từ điển Anh - Việt ra xem, mới biết thêm là top còn có nghĩa là cái áo khoác ngoài của phụ nữ. Trời ơi!

Johnson vỗ vai tôi:

- Chút xíu nữa bạn là... hố to rồi. Ha ha... Năm ngoái, tôi có đến thăm miệt vườn Nam bộ, tôi có nghe một câu thế này mà lúc đó chẳng thế nào hiểu được: "Hôm qua, qua nói qua qua mà qua hổng qua. Hôm nay, qua hổng nói qua mà qua lại qua".................

Câu chuyện của chúng tôi còn dài. Chia tay với Johnson ở ga Huế. Lững thửng dọc theo con đường về chợ Ðông Ba, trong đầu còn vương vấn câu chuyện rắc rối tiếng Việt với Johnson, ông già chạy xích lô lẽo đẽo theo sau:

- "Ôn đi về mô khôn hè?"

Tôi gật đầu, bước lên chiếc xe cũ rích, buộc miệng:

- Có tiệm sách nào gần đây nhất, Bác? Tôi muốn mua một quyển Tự điển Tiếng Việt.

Tôi bất chợt nhớ ra rằng, trong tủ sách gia đình của tôi, có đủ loại tự điển các nước, nhưng chưa hề có một quyển Tự điển Tiếng Việt nào.

Lê Anh Tuấn

(Sưu tầm từ Diendantinhoc.org)

???
Back to top
« Last Edit: 19. Jul 2006 , 05:13 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Tôi Yêu tiếng Nước tôi Từ khi mới ra Đời
Reply #1 - 19. Jul 2006 , 05:17
 
                    Ngôn đạo
 
 
Tuệ Chương
 
.......
.................
 
Người ta cũng dùng tiếng nói để mà chửi khi giận dữ ai. Tiếng chửi thường thì to, nhiều người cùng nghe được. Muốn chửi để đối tượng hay nhiều khác cùng nghe thì người ta phải nói to, âm thanh lớn, làm cho gân cổ nổi lên nên có thành ngữ “Gân cổ lên chửi”. Ít khi có tiếng chửi thanh tao mà thường là tiếng chưởi tục, đ. mẹ hay đ. cha, có khi kêu cả ông bà ông vải ra chửi. Có người cho rằng biết chửi cũng là một nghệ thuật, nó khác với loại “chửi thẳng vào mặt” mà lại tránh né, lắc léo làm cho người bị chửi khó phản ứng lại được. Đó là loại chửi khéo, chửi mé, xách mé, v.v… Vì chửi là một nghệ thuật nên phải có tài mới sử dụng được nghệ thuật đó. Tôi chưa từng nghe người Nam chửi “hay” như người Trung, người Bắc. Câu chửi của họ có âm điệu trầm bỗng lên xuống, có câu kéo đàng hoàng như một loại “khuôn mẫu” và để cho tiện người ta cứ học thuộc và cứ theo “khuôn mẫu” đó đem ra áp dụng mỗi khi chửi nhau. Câu nầy người ta nghe thường nhất: “Cha ông cha bà cha vạn họ, họ nội, họ ngoại họ ngái họ gần mầy ăn cắp gà nhà bà”.  
    Người đàng hoàng đứng đắn thì hầu như không chửi bao giờ. Họ chỉ dùng lời nói để phân bua, lấy cái đúng sai về ai để phân biệt hơn thua, phải trái. Nhiều khi người ta cũng không cần hơn thua mà chỉ cần phải trái mà thôi. Đó là những người tử tế, lịch thiệp trong xã hội.  
 
Nhiều người không cần lẽ phải mà chỉ cần những cách nói lắt léo để ăn người ta, cố nói lấy được. Những người nầy thường bị mắng là lẹo lưỡi. Trong hòa đàm Paris 1973, khi báo chí hỏi lãnh thổ của chính phủ Mặt trận Giải phóng Miền Nam VN ở đâu thì bà Nguyễn Thị Bình trả lời rằng nơi nào quân đội Cộng Hòa bắn phá đến thì nơi đó là lãnh thổ của chính phủ bà. Có người cho rằng trả lời như thế là hay nhưng cũng có người dẫn chứng rằng đó là cách nói “lẹo lưỡi”.  
 Hay nhứt là nên “Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” như tổ tiên chúng ta đã dạy. Lời nói hay, tốt đẹp thì người ta nhớ lâu, thích thú và thậm chí cả kính trọng người nói. Lời nói dở, xấu, thiếu lịch sự, thậm chí thiếu giáo dục thì người ta chê, ghét, bỏ đi.
Xin đưa một ví dụ như: Tây có câu tục ngữ như tôi vừa nói trên “Mắt trả mắt, răng trả răng”. Thế la sòng phẳng. Ai tốt với mình, mình tốt lại; ai khen mình, mình khen lại; ai chê mình, mình chê lại; ai chửi mình, mình chửi lại. Đó là thế gian thường tình. Nhưng có lẽ từ câu tục ngữ đó mà ông Thánh Gandhi bên Ấn Độ mới nói câu sau đây: “Mắt trả mắt thì cuối cùng sẽ làm cho cả thế giới mù lòa”. Câu ông Gandhi nói mới thật là hay, mới thấm thía. Có lẽ đó là một nét đặc sắc của văn hóa Ấn Độ. Những người theo Phật có lẽ biết câu Phật dạy: “Lấy oán trả oán, oán chồng chất; lấy ân trả oán, oán tiêu tan”.
 
Hồi tôi còn học lớp đệ lục (lớp 7 bây giờ), ông thầy dạy Việt văn của tôi có biểu chúng tôi cứ mỗi tuần, một toán ( khoảng 10 học sinh) tìm cho ông một câu thuộc loại “Lời hay ý đẹp”. Toán nào tìm được nhiều câu, câu càng hay, thì chúng tôi càng được điểm tốt. Tôi không rõ ông thầy tôi muốn làm một bộ sưu tập hay ông muốn dạy khéo chúng tôi vì khi đi tìm tức là có học hỏi. Vào thư viện, tôi thấy ở Mỹ bây giờ có rất nhiều loại sách sưu tập những lời hay ý đẹp như thế. Theo kinh nghiệm của tôi, nên khuyến khích giới trẻ đọc sách nầy. Người ta kể môt câu chuyện ngày trước nhà văn Pháp Anatole France tranh luận với một ông đại tá về một vấn đề gì đó. Ông đại tá dùng những lời nặng nề, thô bỉ để mạt sát nhà văn nên A. France không trả lời những gì ông đại tá viết nữa. Thấy nhà văn không nói gì nữa, ông đại tá giận quá, một hôm đến tận nhà của nhà văn hỏi một câu: “Này thằng nhà văn chó chết kia! Tại sao màu không trả lời tao?” A. France chậm rãi trả lời: “Thưa đại tá! Vì mồm đại tá thối quá!”
 
Về việc không nói, người Tây phương cũng nói một câu khá hay: “Người ta chỉ cần một năm để tập nói nhưng phải tập ba năm để ngậm miệng lại”.
Về mặt tôn giáo thì đó là một cách tu cái miệng của mình: tịnh khẩu. Nói, nhất là nói bậy thì theo Phật là tạo cho mình một cái nghiệp, tạo một “Khẩu Nghiệp”. Nói bậy, nói điều ác, điều xấu là tạo cho mình một khẩu nghiệp xấu. Vì vậy tịnh khẩu là tránh cho mình một cái nghiệp.
Ông “Bác Vật Lang” hồi xưa ở Sa Đéc, du học bên Tây và đậu kỹ sư sinh vật, khi về nước, ông chẳng làm việc gì, ngày ngày “ngao du sơn thủy”. Một lần ông lên thăm Thạch Động ở Hà Tiên. Nơi nầy có một con đường đi xuống một cái hang mà người ta gọi là đường xuống âm phủ. Ông ta thấy cái gì ở đó mà người ta bảo rằng Phật thánh cấm ông nói cho nên từ đó về sau, cho đến khi qua đời, ông tịnh khẩu.
Về tôn giáo, vua Trần Nhân Tôn có một bài thơ khá hay nói về việc không nói. Bài thơ như sau:
Oanh hót dề dà liễu tả tơi
Thềm hoa mây phủ bóng hiên dài
Khách đến chẳng thăm niềm tâm sự
Tựa bức lan can chỉ ngắm trời
(Hoàng Vũ dịch)
Hiểu theo văn chương thông thường thì đây là một bài thơ hay, một bài thơ đẹp. Buổi chiều (hay buổi trưa, buổi sáng) có nắng chiếu làm bóng mây che phủ thềm nhà (hay chùa), có những cành liễu buông dài, tiếng chim oanh hót trên cành cây. Vậy mà khách đến thăm, chẳng nói một lời tâm sự. Khách đứng tựa bức lan can ngắm trời. Ngắm trời để làm gì? Để nhìm một cảnh đẹp hay để suy tưởng. Điều suy tưởng đó chắc có chiều rộng lẫn chiều sâu làm cho khách đắm chìm trong vòng suy tưởng đó mà chẳng nói một lời. Dĩ nhiên đây là một bài thơ thiền nên xin để cho các nhà thiền học giải thích mới hay.
Bài thơ sau đây cũng là một bài thơ “Không nói” nhưng không phải là một bài thơ thiền, mà chính là một tâm sự về con người, về cuộc đời, về đảo điên thế sự.  
 
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Nguyễn Chánh Thi đảo chánh lật đổ ông Ngô Đình Diệm. Cuộc đảo chánh thất bại, một số nhà hoạt động chính trị bị bắt vì có dính líu đến cuộc đảo chánh đó. Một trong số những người nầy có nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam (Tức nhà văn Nhất Linh).
Năm 1963, vì vụ Phật giáo đồ đứng lên biểu tình chống đối nhà Ngô, để dằn mặt, Ngô Triều mở một phiên tòa xử tội những người trước đó chống đối chế độ. Nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam có tên trong số những người bị đưa ra tòa lần nầy. Trước hôm ra tòa một ngày, đúng ngày 7 tháng 7 năm 1963, thường gọi là ngày Song Thất, mỗi năm đều có lễ kỷ niệm “Ngô tổng thống chấp chánh”, Nhất Linh dùng độc dược tự tử. Việc làm của ông làm chấn động dư luận trong cũng như ngoài nước.
Thời gian trước khi vụ án xảy ra, nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam thường đến thăm bạn bè, trong đó có nhà thơ Bùi Khánh Đản. Một lần đến thăm bạn, Nhất Linh chỉ nói vài câu chào hỏi thường lệ, rồi ngồi trầm ngâm chẳng nói lời nào. Xong rồi, nhà văn chào bạn ra về, không nói thêm môt lời nào khác. Điều không nói của Nhất Linh đã gây một ấn tượng sâu sắc cho nhà thơ. Sau khi Nhất Linh ra về, nhà thơ Bùi Khánh Đản làm bài thơ sau đây:
Thiếu Một Lời
Chiều nào hiu quạnh đến thăm tôi
Anh đã quên không nói một lời
Tám hướng dần buông vào tịch mịch
Hai lòng vẫn ngã chốn xa xôi
Mắt theo dĩ vãng mơ hồ hiện
Tai lắng thời gian thánh thót rơi
Tất cả chìm sâu sâu xuống mãi
Vì anh chỉ thiếu một lời thôi
(Bùi Khánh Đản)
 
Thành ra, thưa quí vị, cái không nói lại quí hơn cái nói hàng vạn lần.
 
Nói là một ân huệ đặc biệt tạo hóa chỉ cho con người mới có. Tất cả các loài vật khác không thể có được. Nếu biết đó là một ân huệ đặc biệt, tại sao chúng ta không cố gắng gìn giữ nó, dùng nó một cách trong sáng đẹp đẽ, đem lại cho nhau những điều hay đẹp tươi vui. Gia tỉ có một số loài vật nào đó cũng không ngoan như người nhưng chúng không được cái đặc ân của Tạo hóa cho chúng có tiếng nói như người thì chúng sẽ suy nghĩ như thế nào khi chúng thấy loài người dùng tiếng nói để chưởi rủa nhau?! Chúng sẽ chê cười chúng ta đấy, cho rằng chúng ta không biết cái giá trị đặc biệt của tiếng nói mà dùng cho đúng cách.  
 
Người Nhật cũng uống trà như các dân tộc khác như người Tàu, người Việt, nhưng họ biến cải cách dùng trà như một nghệ thuật, biến nó thành một cái đạo mà họ gọi là trà đạo. Cũng với một ý hướng muốn bắt chước người Nhật, tôi nghĩ rằng tại sao chúng ta lại không gìn giữ, trân trọng tiếng nói, cách nói, v.v… như thế nào để biến nó thành một… ngôn đạo. Đó cũng là cái ý chính khi tôi đặt tên cho bài viết nầy.
 
 

Back to top
« Last Edit: 28. Feb 2007 , 21:03 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Tôi Yêu tiếng Nước tôi Từ khi mới ra Đời
Reply #2 - 19. Aug 2006 , 19:18
 
Sài-gòn Cô Nương : Ngôn ngữ
Đọc lá thư của bạn kể kỳ rồi về Saigon, đi đâu cũng nghe người ta nói 'không dám đâu', 'biết chết liền'...thật buồn cười.
Những chuyện chữ nghĩa như thế rất nhiều. Bạn ở xa về lạ tai nhưng người trong nước nghe hoài mỗi ngày, câu cửa miệng nói hoài hằng ngày nên chẳng bao giờ để ý ngẫm nghĩ ý nghĩa và âm thanh để thấy buồn cười hay không. Trên trang viết, điều ấy cũng hiển hiện khá rõ. Một ông chủ bút có nhận xét đọc truyện từ Saigon gửi đi biết ngay người viết được đào tạo sau 75, lớn lên sau 75 trong khi một ông chủ bút khác lại nhận xét tác giả hẳn là một ông Bắc-kỳ thời tiền chiến chứ không phải một cô nương được sinh ra nơi xứ miền Nam thừa thãi gió và nắng vàng.
Chắc chắn sống ở Saigon ba mươi năm nay, ít nhiều gì dân Saigon và dân tứ xứ nhập cư cũng phải chịu ảnh hưởng, nói chính xác hơn, bị áp đặt phải dùng loại ngôn từ của nhà nước để giao tiếp với nhau vì các phương tiện thông tin đại chúng: báo chí, truyền thanh, truyền hình, loa phóng thanh, internet...đều chỉ dùng một cách nói như vậy. Thí dụ như để 'quay' bài trong phòng thi, thí sinh dùng tài liệu giấu giếm ngày xưa gọi là 'bùa', nhưng bây giờ là 'phao'. Mới đầu nghe 'phao' không quen, thật chướng tai. Nhưng rồi bắt buộc ai cũng phải dùng bởi nói 'bùa' thì nhiều người trẻ không hiểu. Từ ngữ và cách diễn đạt rập khuôn ra rả và đầy dẫy khắp nơi bất cứ lúc nào nên khi chuyện trò với nhau, người ta lập lại như cái máy không thể khác đi.
Cứ nói năng không suy nghĩ theo một kiểu để một hôm nào đó ngồi chơi nghĩ lại bỗng bật cười không hiểu sao ngôn ngữ của mình trở nên kỳ cục vậy. Những cuộc chuyện trò thường có vẻ cứng ngắc vì hay bị xen vào bởi: 'em xin có ý kiến'ø kiểu áo này đẹp hơn, và sau đó: 'xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ được giao là'...đi chợ, bồng em; 'nhất trí' hẹn hò chiều nay, 'kiểm điểm rút kinh nghiệm' sau hai lần tới trễ... Trong bữa ăn, không phải nhận xét mà là 'phê bình, góp ý' các món ăn xem món nướng nào 'đạt chỉ tiêu chất lượng' và món kho nào 'cần phấn đấu'... để lạt bớt!!!
Có điều, một số ít từ ngữ không còn mang đúng ý nghĩa ban đầu. Trong câu chuyện đùa cợt, 'Thưa cán bộ' là câu nói mở đầu đầy hài hước, 'đồng chí' là đồng đảng khi rủ rê nhau họp mặt nhậu nhẹt hoặc lẻn cúp giờ...mang đầy ý giễu cợt. Chỉ những người già rút lui vào nhà, không có nhiều mối quan hệ ngoài xã hội mới giữ được hoàn toàn cách diễn đạt với những ngôn từ cũ.
Có điều rất khó để giữ như vậy. Tiếng Việt như mọi ngôn ngữ khác đang được cả một dân tộc hiện dùng. Ngôn ngữ mang sự sống trong lòng, chính bản thân ngôn ngữ là sự sống nên luôn luôn thay đổi. Nhiều chữ ít dùng dần dần bị mất đi và nhiều chữ mới được thêm vào tùy theo thời gian, hoàn cảnh lịch sử, xã hội thay đổi...Miền Nam nói chung, thành phố Saigon nói riêng đã rẽ một bước ngoặt lớn, bị đào xới, bật gốc. Vô số chữ từ miền Bắc du nhập vào miền Nam và từ trong lòng Saigon, ngôn ngữ tự nó cũng có nhiều thay đổi.
Tuy nhiên dù hoài cổ cách mấy, một số chữ mang ý nghĩa mới bắt buộc phải dùng vì không có chữ cũ tương đương. Ví dụ vô số chữ dùng trong lĩnh vực máy tính dĩ nhiên trước 75 không có. Marketing cũng là một từ mới như vậy, dịch sang tiếng Việt là tiếp thị, không đồng nghĩa với quảng cáo vì nó không hẳn chỉ là quảng cáo, hay như chữ slogan, poster trong quảng cáo...chẳng hạn, trước kia chưa từng xuất hiện những ý niệm này và báo chí Saigon hiện nay thường giữ nguyên khi nhắc tới. Không phải chữ nào cũng tìm cách để dịch sang chữ Việt được vì như vậy đôi khi trở nên rườm rà, nôm na và không diễn đạt hết ý. Vì thế rất ít chữ vẫn giữ nguyên gốc là chữ ngoại quốc nhưng hầu hết đều tìm được chữ mang nghĩa tiếng Việt tương đương. Dù bằng cách nào thì điều đó cũng làm giàu thêm cho ngôn ngữ Việt. Nếu không có sự thay đổi như vậy hẳn đó phải là một tử ngữ. Những ngôn ngữ chừng nào con người còn xử dụng trong đời sống hằng ngày thì vẫn phập phồng hơi thở của cuộc sống, như giòng nước vận động, chảy trôi mạnh mẽ. Cốt lõi giữ nguyên nhưng dĩ nhiên không thể có sự bất biến trong ngôn ngữ đó. Ngôn ngữ cũng phản ảnh không gian và thời gian hết sức rõ ràng nơi nó tồn tại.
Người miền Bắc không nói 'sức mấy' và người miền Nam không nói 'bức xúc'. Việt kiều không nói 'không dám đâu' và dân Saigon không nói OK... Tuy nhiên chắc chắn là vô tình trong một số bài viết, ngay cả của các vị lớn tuổi gần đây, độc giả vẫn có thể đọc thấy rải rác đây đó 'bức xúc, 'tư duý, 'tranh thủ'...không nằm trong ngoặc kép. Bởi vì đó là những chữ quá quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người trong nước. Thậm chí 'chữ' dùng nãy giờ cũng có sự khác biệt trước và sau này. HOA là một từ, H là một chữ. Nhưng trước kia HOA là một chữ còn H là một chữ cái... Đúng là trên trang viết, có thể đoán được nơi chốn và thời kỳ tác giả đã trải qua.
Lần đầu tiên cầm một tờ báo VN hải ngoại rồi vài số báo khác sau đó nữa gửi về, tôi rất ngạc nhiên. Thật khó diễn tả được cảm xúc lúc bấy giờ. Giống như sau nhiều dâu biển, phía bên kia của xa cách thăm thẳm là người quen. Gọi là gì nhỉ, góc chân dung của một quãng lịch sử, một quãng đời, mảnh tin bất ngờ từ nơi đâu một chốn bao la gửi về. Thời gian của lúc thơ ấu, của thuở mới lớn bao giờ cũng gắn chặt, nhớ sâu trong lòng hơn những giai đoạn cuộc đời về sau, nên cảm xúc đó như là bồi hồi, hoài nhớ...
Những hình ảnh, kỷ niệm của quãng thời gian đó hiển hiện trong tờ báo với hình thức và cách diễn đạt, lối hành văn và nội dung giống y trước kia, hoặc không giống y thì cũng khiến tôi dễ dàng liên tưởng vì nó rất giống các báo cũ và hoàn toàn khác báo VN bây giờ. Như người miền Bắc năm nào khi rời quê di cư đã mang theo Đêm Giã Từ Hà Nội, Nhớ Về Năm Cửa Ô Xưa... Những người VN di tản cũng gói ghém trong máu thịt cả một đất nước miền Nam để nơi vùng đất mới, dường như không tái hiện, không đứt đoạn, không phải vẽ nên diện mạo cũ bằng một nét vẽ mới mà chính là miền Nam ngày ấy, giờ đây như đuôi một nét vẽ được kéo dài rạ Dẫu rớt rơi trên biển cả, trên dặm trường bôn ba có mảnh đi, nhạt hơn, có pha vào sự đổi thay... vẫn chỉ là nét vẽ duy nhất đó, kéo dài rạ.. vô cùng quen thuộc, dùng một câu có vẻ hơi 'cải lương' nhưng rất đúng, rất 'tới' là quen thuộc đến rưng rưng!
Vấn đề chính nơi những sự việc này có lẽ do thói quen và định kiến bởi vì các văn nghệ sĩ di cư năm 54 đã góp phần thay đổi nền văn học miền Nam bấy giờ, tạo nên một giai đoạn văn hóa phát triển rất rực rỡ tiêu biểu cho một chính thể, một quốc gia độc lập, đến bây giờ vẫn là niềm tự hào, hãnh diện của miền Nam. Thế nhưng điều này đã không xảy ra sau 75. Rất đơn giản bởi vì văn hóa nói chung, văn học nói riêng của CS quá đỗi thấp kém, ọp ẹp nên chỉ có thể mượn tay cường quyền để dẫm xé, chứ không chinh phục, khuynh loát nổi miền Nam, tức không thể chinh phục được tinh thần miền Nam. Cho đến bây giờ vẫn không thể xóa nhòa trong ký ức mọi người, và về sau này trong lịch sử, hành động của đám thanh niên rầm rộ đi đến từng nhà để tịch thu sách vở. Suốt ba mươi năm nay văn hóa VN bị kéo lui trì trệ do bị cầm đầu, chỉ huy bởi một thế lực độc tài, thiển cận... Thua một thế lực dường kém cỏi hơn mình, điều ấy khiến người miền Nam uất ức trong chiến bại, mang trong lòng tâm trạng kiêu hãnh của kẻ đành ngã ngựa bởi những lý do ngoài ý muốn...
Cho nên ngoài việc thu nhập, bị ảnh hưởng một cách thụ động thì người thua vẫn 'nhìn xuống', vẫn 'dị ứng' với những từ ngữ mới. Những chữ mới xuất hiện này thường khiến người Việt ở xa, một cộng đồng bị đẩy vào cảnh ly hương, không nằm trong vòng kiềm tỏa dĩ nhiên nghe rất chỏi và họ có toàn quyền để không chấp nhận. Người miền Nam khó chịu khi nghe đến phấn đấu, triển khai, xử lý... còn nữa những tăng năng suất, vượt chỉ tiêu, rút kinh nghiệm, xử lý nội bộ... mà khi dùng đến, chỉ hàm ý chế giễu, mỉa mai. Và Việt kiều cũng cùng cảm giác ấy khi nghe người trong nước nói, dù từ miền nào.
Sở dĩ dài dòng như vậy chỉ để đưa tới, nhắc lại một kết luận cũ kỹ rằng đó là kết quả của chính sách kỳ thị đã phân hóa một cách sâu sắc dân tộc VN, là điều mà ngay bản thân chính sách đó đến nay đã nhận lấy hậu quả kéo dài trên nhiều phương diện. Cuối cùng chỉ thấy thương xứ mình đến xót xạ.. Nhiều người đành than thở thôi thì do lỗi tổ tiên, ngày xưa Lạc Long Quân và Âu Cơ sao chẳng tìm cách cho đại gia đình xum họp một nhà. Trăm trứng vừa nở ra đã chia lìa năm mươi con lên núi, năm muơi con xuống biển cho nên không lạ khi chuyện thiên di, ly tán đã vận vào định mệnh của dân tộc này suốt mấy ngàn năm. Một vài ý nghĩ trao đổi cho vui. Những lạm bàn về ngôn ngữ và văn học trong thư không nhằm mổ xẻ về lãnh vực to lớn này mà chỉ minh họa thêm cho những ý nghĩ, tình cảm tản mạn... Do vậy, hẳn có nhiều sai sót.
Mong nhận được thư của bạn.

Back to top
« Last Edit: 28. Feb 2007 , 21:04 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
mien_thuy
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 1272
Re:  TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI M
Reply #3 - 19. Aug 2006 , 19:55
 
Quote:
Thân mời quý bạn tham gia vào mục : CHỬ NGHIÃ BỀ BỀ 
Hy vọng rằng các bạn sẻ thú vị khi xem xong bài viết nầy


  TIẾNG VIỆT - TIẾNG MỸ RẮC RỐI... 
bài viết -Lê Anh Tuấn


Hôm nay vào đọc đề mục này của anh Lam Sơn rất thú vị, để thấy rằng tiếng Việt quả là phong phú bao nhiêu thì so với tiếng Mỹ bên cạnh cũng có những điều rắc rối lạ kỳ, như bài viết của Lê Anh Tuấn

Mới đọc một bài thôi dài thậm thượt đấy anh LS, nhưng phải cảm ơn anh đã bỏ công sưu tập bài vở hay . . Sẽ vào tuần tự xem tiếp anh Sơn ơi
Chúc anh một chủ nhật vui

MT

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Tôi Yêu tiếng Nước tôi Từ khi mới ra Đời
Reply #4 - 19. Aug 2006 , 20:23
 
 Chị Miên Thuỵ ơi,
Mình đả mất công sưu tập , các bài viết trên net, là vì có ý muốn bảo trọng Việt Ngữ, vốn là tiếng Mẹ Đẻ, nhớ lại câu nói Tiếng Việt còn , thời Nước Việt còn, khi viết các bài có tính cách nhận xét về cách dùng Việt ngữ,một cách bưà bải cẩu thả, mình nghỉ rằng tác giả đã có nhiều ư tư phiền muộn , Xin Cãm ơn chị , mình sẻ cố gáng tìm thêm bài vở dành cho mục biên khảo, hy vọng rằng các chị em cuả Trường Lê văn Duyệt sẻ hưởng ứng, để ngỏ hầu thêu hoa dệt gắm vào nền văn học nước nhà, như Khoa tử vi có nói GẨM THƯỢNG THÊU HỌA, đại ý nới đã đẹp lại càng thêm đẹp ,

                Trân trọng chào chị

Back to top
« Last Edit: 28. Feb 2007 , 21:05 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
mien_thuy
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 1272
Re:  TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI MỚ
Reply #5 - 20. Aug 2006 , 12:00
 
mien_thuy
Thành Viên 250

Anh Lam Sơn ơi, hỏng biết anh có cần đeo kính không anh . . Miên Thuỵ chứ hỏng phải chị Miên Du đâu anh , bị vì hai người đều Miên cả  Smiley Smiley
Back to top
 
 
IP Logged
 
da huong
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4726
Gender: female
Re:  TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI MỚ
Reply #6 - 20. Aug 2006 , 12:38
 


H hhi.... phen này anh Lam Sơn phải nhìn nhận tiếng Việt rắc rối wa' rồi , sao nhiều Miên wa' ha. Grin Grin


Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Tôi Yêu tiếng Nước tôi Từ khi mới ra Đời
Reply #7 - 20. Aug 2006 , 20:53
 
 Troi ôi,
 Chị Miên Du cho mình xin lổi nghe, chẳng qua là mình sơ xuất một chút , chẳng có để ý, chỉ thấy chử Miên,
Back to top
« Last Edit: 28. Feb 2007 , 21:07 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Tôi Yêu tiếng Nước tôi Từ khi mới ra Đời
Reply #8 - 08. Nov 2006 , 20:56
 
http://www.viet.no/images/stories/liv/daudailoan.jpgTuệ Chương

      NGHỀ THẦY TỚ
“Thầy” nói ở đây là “thầy tớ”. Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi không gọi là “đầy tớ”. Có lẽ vì chữ đầy tớ nghe có vẻ nặng nề chăng? Thật tình tôi không có ý mai mỉa gì trong việc gọi như trên. Có lẽ vì trong trí óc của tôi, khi còn thơ ấu, chuyện mấy chị làm thầy tớ trong nhà tôi để lại cho tôi những ấn tượng buồn bã.

Sau nầy, khi tôi lớn, người trong nhà gọi họ là chị ở. Trong Nam gọi là ở đợ.

Nhà tôi không khá giả gì nhưng vì mẹ tôi là chủ nhà hộ sinh nên cần người giúp đỡ. Việc nấu ăn đi chợ hằng ngày trong nhà có bà chị cả tôi lo, việc gánh nước thì chị ở lo. Việc ấy nặng nhọc.

Một chị ở tôi còn nhớ là chị người làng Gia Đẵng. Gia Đẵng là một làng biển sát biển Đông, gần phá Tam Giang. Gia Đẵng được coi là làng nghèo nhứt Quảng Trị, - tỉnh nghèo nhứt Việt Nam? - nằm trên bờ biển cát trắng, không có ruộng nương gì nhiều, lại còn bị cát trắng xâm thực. Toàn bộ dân làng làm nghề biển, tức là đánh cá biển. Vào mùa hè, mùa cá, đi biển được thì đỡ đôi chút. Tới mùa biển động là dân làng thiếu ăn, đói lắm, bèn tìm kiếm nhà giàu hay lên thành phố xin ở đợ, vừa có cơm ăn, vừa có tiền giúp đỡ gia đình, tuy chẳng bao nhiêu vì giá ở đợ ngày đó thấp lắm. Họ đi ở đợ theo mùa, người thuê theo mùa. Khi tới mùa cá, - với những làng nghề nông thì theo mùa làm ruộng - họ về làm mùa.

Ông đại tướng Đoàn Khuê của Việt Cộng cũng người làng Gia Đẵng nhưng nhà ông giàu vì cha mẹ ông là chủ ghe đánh cá, cho thuê dụng cụ làm cá và nghề “xanh xít đít đui”: Nghề cho vay. Vay 5 (cinq - xanh) trả trả thành 6 (Sĩ – xít); vay 10 (Dĩ – đít) trả thành 12 (douze – đui). Trước 1945 anh em ông được đi học ở trường Tiểu Học Quảng Trị (Ecole Primảie De Quangtri); lên trung học thì vô Huế, ở xóm Chợ Xép - (“Xóm Của Tui” vì khi đi học tôi ở đây 3 năm. Những người lớn tuổi trong xóm còn có người nhắc đến tên ông ta).

Sau chiến trận 1972, Thủy quân Lục Chiến VNCH trấn giữ làng nầy, coi như địa đầu tiền tuyến cho tới 1975 thì “tan hàng”.

Chị ở nói trên rất quê mùa. Khi máy bay Mỹ tới bắn phá quân Nhựt, trong khi ai cũng lo xuống hầm thì chị đi đóng các cửa lại vì “Sợ đạn vô nhà”. Chỉ mấy năm sau thôi, khi chiến tranh Pháp Việt bùng nổ, tôi nghĩ chị ở nhà tôi có rất nhiều kinh nghiệm chiến tranh và biết đâu chị cũng là một … du kích.

Một hôm chị trốn mẹ tôi đi chơi, tới khuya mới về. Mẹ tôi lại nghe nói người ta gặp chi đi với mấy ông… Bắc Kỳ. Thời Nhật, gặp nạn đói năm Ất Dậu, người Bắc, hầu hết là đàn ông lần mò vào Nam kiếm ăn. Bấy giờ cầu ga Quảng Trị - Cầu chung xe lửa và xe hơi - bị máy bay Mỹ đánh sập. Nhật đang cần nhân công giúp họ sửa cầu. Những người Bắc nầy ở lại thành phố tôi vì kiếm được việc sửa cầu. Với cái thành phố nhỏ như thành phố quê tôi hồi đó, nguời Bắc cũng là… người lạ nên mẹ tôi rầy và đánh chị, không cho đi chơi đêm nữa. Hồi đó người ta có đánh người ở cũng là việc thường vì cái thân phận người ở nó như thế. Có lẽ người chủ cũng có trách nhiệm với người ở, la rầy đánh đập, trong vài trường hợp, cũng chỉ là một cách giáo dục như cha mẹ dạy con cái vậy. Vả lại, mẹ tôi cũng có kinh nghiệm với chị Nuôi, người ở trước đó.

Chị Nuôi người huyện Gio Linh, do một người em gái của mẹ tôi làm dâu ở làng An-Mỹ, huyện ấy giới thiệu, dẫn vào trao cho mẹ tôi.

Chị Nuôi đẹp. Tôi không nhớ đẹp như thế nào, chỉ biết là đẹp. Thầy trợ (Tôi xin dấu tên) là bạn đồng nghiệp với cha tôi cặp bồ với chị. Cứ thứ bảy hay chủ nhật gì đó, trường học đóng cửa thì hai người hẹn nhau trong lớp của thầy trợ. Hai người ghép hai cái băng học trò, nằm với nhau. Ông anh cả tôi, hồi ấy khoảng trên 10 tuổi, rắn mắt, có khi chờ hai người chia tay nhau thì vào lớp. “Hai cái băng còn nóng hổi.” Anh tôi kể với chị tôi vậy. Anh không dám nói với mẹ hay cha tôi, sợ bị rầy. Bác Hiển, cai trường không dám có ý kiến vì nể tình thầy. Mẹ tôi không dám cấm chị Nuôi đi gặp thầy cũng vì nể tình như vậy. Cuối cùng chị ấy mang bầu.

Hồi ấy, một người con gái, dù là đi ở đợ, không chồng mà có bầu là một biến cố lớn lắm, xấu hổ lắm. Cho tới khi tôi khôn lớn, tôi vẫn còn thấy vài nơi còn giữ tục dị đoan. Không cho người chửa hoang ở lại trong nhà. “Bốn mắt dòm nhà! Xui lắm!” Có thể chị Nuôi sợ mẹ tôi đuổi đi khi biết chị mang bầu. Còn mang cái bầu chửa hoang về làng thì còn cái xấu hổ nào bằng, chưa kể làng còn bắt vạ. Ông thầy trợ giáo thì đã có vợ. Vả lại, không lý thầy giáo lại lấy “con ở” nhà bạn làm vợ. Thế rồi một hôm mẹ tôi phát hiện chị bất tỉnh nằm ở nhà bếp, mình mẩy tím ngắt. Mẹ tôi kêu xe tay chở qua “nhà thương” gần đó thì không còn kịp. Nửa đêm hôm ấy, chị Nuôi qua đời. Bấy giờ chị cả tôi mới tiết lộ là chị Nuôi chờ khi trời hơi tối, ra cây sầu đông trước nhà, cạy vỏ cây đem về sắc uống. Chị ấy muốn phá thai. Kết quả là chị ấy bỏ mạng. Mẹ tôi khóc, than thở rằng ăn nói làm sao với em gái! Chị cả tôi khóc vì thương chị Nuôi lắm. Tôi cũng khóc. Tôi khóc vì ơn nghĩa riêng của chị với tôi. Lúc ấy tôi khoảng năm, sáu tuổi. Đêm nằm ngủ, tôi mơ thấy tôi đi tới một cái gốc cây và đái một trận thật đã. Được một lúc, tôi tỉnh giấc vì ướt quần. Gần sáng, chờ chị Nuôi thức dậy nấu cháo trắng cho anh em chúng tôi ăn đi học thì dậy nhờ chị kiếm cái quần khác thay. Lần đầu, chị hỏi to: “Răng! Đái mế phải khôông?” Vậy là cha tôi nghe, thức dậy, tôi bị rầy và bị đánh đòn vì cái tội đái dầm. Những lần sau, khi thấy tôi dậy đi tìm chị, chị lặng lẽ đi lấy quần cho tôi thay. Cha tôi không hay biết gì cả. Tôi khỏi bị rầy, bị đánh. Tôi không cảm ơn chị làm sao được và sao tôi lại không khóc khi nghe tin chị chết!?

Thế rồi lớn lên, tôi cũng quen với cái nghề ở đợ. Đó là hiện tượng bình thường của một xã hội nghèo đói, bất công. Ngay khi tôi đã đi dạy, có vợ con, trong nhà tôi vẫn thường có hai ba con ở. Đứa lớn nấu ăn, đứa nhỏ giữ em. Trong những năm chiến tranh, ở miền quê hai phe đánh nhau dữ dội, người ta cho con lên ở đợ thành phố, vừa có cái ăn, không đói kém như ở thôn quê, lại tránh được súng đạn.

Vả lại, mấy năm tôi học cấp ba, đi làm précepteur cho chủ, tuy rằng ngày làm học trò, đêm làm thầy giáo, ăn cơm chủ mà lo dạy cho con chủ thì có khác thi thân phận người làm, người ở.

Lại thêm “giải phóng”!

Theo anh Dương Tiến Đông kể lại, chị ở nhà anh là một chị Quảng Nam - Anh ta cũng gốc Quảng Nam – Khi bộ đội vào Saigon thì chị ở nhà anh ngày ngày ăn cơm xong đi họp hành “cách mạng”. Nghe họp “cách mạng” thì mẹ anh làm thinh! Vợ anh sợ, không dám nói. Bấy giờ mẹ và vợ anh lo nấu cơm cho chị ở đi họp “cách mạng”, chẳng dám có một lời than!

Đông kể: “Về tới nhà, đôi khi chị gọi điện thoại cho các “đồng chí”. Một tay cầm điện thoại, tay kia đưa ngón tay thọc vào cái lỗ tròn số điện thoại - loại cũ, số nằm vòng tròn - chị ta ấn ngọn tay xuống, quay một cái thật mạnh, làm như nặng nhọc lắm, mặt mày hết sức quan trọng! Rồi chị chổng đít, chồm vào điện thoại, cố nói to cho trong nhà nghe. Nghe rồi ai cũng sợ vì biết chị đang “Công tác cách mạng”.

Đồng thời trên TV, trên đài phát thanh, khi các vị cách mạng nói với nhau thì trước hết phải đúng giai cấp, đúng lập trường. Để biết cái “đúng” đó thì người “công tác cách mạng” hỏi nhau bằng câu nói của “Chị Út Tịch”: “Có đi ở đợ không?” “Ở đợ” trở thành một biểu tượng, một cái “mốt”, một tiêu chuẩn hàng đầu của giai cấp thống trị thời đại mới!

Thế rồi tôi “Đóng tiền đi ở tù” như người ta mai mỉa. Khi về thì giai cấp ở đợ không còn. Cũng may, khi ấy các con tôi cũng đã lớn. Chúng tự lo cho chúng được, không cần người làm nữa. Vả lại, có cần cũng không nuôi được người làm. Đổi đời rồi. Có thể tôi đi ở đợ cho người ở đợ của tôi ngày trước!

Mấy bữa nay, quân Do Thái đánh vào Libăng. Qua các đài phát thanh, nhứt là BBC, tôi biết có khoảng 200 người Việt Nam đang ở đợ bên nước đó. Cũng nhờ đài BBC, tôi nghe nhiều người Việt Nam than vãn, nhiều người khóc vì mắc kẹt bên đó. Chính quyền Cộng Sản xuất khẩu họ theo một chương trình nghe hay lắm: “HợpTác Lao Động”. Hợp tác lao động có nghĩa là hai hay nhiều người cùng lao động chung với nhau, không ai là người làm, không ai là chủ, chỉ có thủ trưởng. Ở Libăng cũng như ở I-Rắc trước đây và nhiều nơi khác nữa trên thế giới, có nhiều người Việt Nam đi “Hợp Tác Lao Động”. “Hợp Tác Lao Động” bây giờ nghe cũng lạ tai vì một bên là chủ, một bên là “Người giúp việc”, “là người ở”, là “người làm”, nói trắng ra một bên là chủ, một bên là ở đợ. Dĩ nhiên, người Việt Nam chúng ta còn lâu lắm mới làm chủ, còn bây giờ là ở đợ. Hai trăm người ở Libăng hiện nay, có lẽ hầu hết làm nghề ở đợ.

Súng đạn tới, người ta sợ, muốn về. Có người chưa muốn về vì chủ chưa trả tiền công, có người bị chủ giữ hết toàn bộ giấy tờ tùy thân. Phần đông họ là đàn bà con gái.

Con cháu hai bà Trưng, “hai” bà Triệu sao bây giờ khổ thế? Có người bị bán qua Đài Loan, Đại Hàn, Phnom Pênh để vào ở lầu xanh. Bên Việt Nam chỉ có nhà tranh vách đất! Có nhiều người qua các nước khác để “phát huy truyền thống ở đợ cách mạng”. Xin hỏi mấy ông ngồi ở “Phủ Chủ tịch” tại Hà Nọi một điều: Người đi ở đợ nhiều như thế, có phải đó là sự thành công của “Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa” hay không?

tuệ chương
Back to top
« Last Edit: 28. Feb 2007 , 21:11 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI MỚ
Reply #9 - 08. Nov 2006 , 21:33
 
Sài-gòn Cô Nương

Đọc lá thư của bạn kể kỳ rồi về Saigon, đi đâu cũng nghe người ta nói 'không dám đâu', 'biết chết liền'...thật buồn cười.
Những chuyện chữ nghĩa như thế rất nhiều. Bạn ở xa về lạ tai nhưng người trong nước nghe hoài mỗi ngày, câu cửa miệng nói hoài hằng ngày nên chẳng bao giờ để ý ngẫm nghĩ ý nghĩa và âm thanh để thấy buồn cười hay không. Trên trang viết, điều ấy cũng hiển hiện khá rõ. Một ông chủ bút có nhận xét đọc truyện từ Saigon gửi đi biết ngay người viết được đào tạo sau 75, lớn lên sau 75 trong khi một ông chủ bút khác lại nhận xét tác giả hẳn là một ông Bắc-kỳ thời tiền chiến chứ không phải một cô nương được sinh ra nơi xứ miền Nam thừa thãi gió và nắng vàng.
Chắc chắn sống ở Saigon ba mươi năm nay, ít nhiều gì dân Saigon và dân tứ xứ nhập cư cũng phải chịu ảnh hưởng, nói chính xác hơn, bị áp đặt phải dùng loại ngôn từ của nhà nước để giao tiếp với nhau vì các phương tiện thông tin đại chúng: báo chí, truyền thanh, truyền hình, loa phóng thanh, internet...đều chỉ dùng một cách nói như vậy. Thí dụ như để 'quay' bài trong phòng thi, thí sinh dùng tài liệu giấu giếm ngày xưa gọi là 'bùa', nhưng bây giờ là 'phao'. Mới đầu nghe 'phao' không quen, thật chướng tai. Nhưng rồi bắt buộc ai cũng phải dùng bởi nói 'bùa' thì nhiều người trẻ không hiểu. Từ ngữ và cách diễn đạt rập khuôn ra rả và đầy dẫy khắp nơi bất cứ lúc nào nên khi chuyện trò với nhau, người ta lập lại như cái máy không thể khác đi.
Cứ nói năng không suy nghĩ theo một kiểu để một hôm nào đó ngồi chơi nghĩ lại bỗng bật cười không hiểu sao ngôn ngữ của mình trở nên kỳ cục vậy. Những cuộc chuyện trò thường có vẻ cứng ngắc vì hay bị xen vào bởi: 'em xin có ý kiến'ø kiểu áo này đẹp hơn, và sau đó: 'xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ được giao là'...đi chợ, bồng em; 'nhất trí' hẹn hò chiều nay, 'kiểm điểm rút kinh nghiệm' sau hai lần tới trễ... Trong bữa ăn, không phải nhận xét mà là 'phê bình, góp ý' các món ăn xem món nướng nào 'đạt chỉ tiêu chất lượng' và món kho nào 'cần phấn đấu'... để lạt bớt!!!
Có điều, một số ít từ ngữ không còn mang đúng ý nghĩa ban đầu. Trong câu chuyện đùa cợt, 'Thưa cán bộ' là câu nói mở đầu đầy hài hước, 'đồng chí' là đồng đảng khi rủ rê nhau họp mặt nhậu nhẹt hoặc lẻn cúp giờ...mang đầy ý giễu cợt. Chỉ những người già rút lui vào nhà, không có nhiều mối quan hệ ngoài xã hội mới giữ được hoàn toàn cách diễn đạt với những ngôn từ cũ.
Có điều rất khó để giữ như vậy. Tiếng Việt như mọi ngôn ngữ khác đang được cả một dân tộc hiện dùng. Ngôn ngữ mang sự sống trong lòng, chính bản thân ngôn ngữ là sự sống nên luôn luôn thay đổi. Nhiều chữ ít dùng dần dần bị mất đi và nhiều chữ mới được thêm vào tùy theo thời gian, hoàn cảnh lịch sử, xã hội thay đổi...Miền Nam nói chung, thành phố Saigon nói riêng đã rẽ một bước ngoặt lớn, bị đào xới, bật gốc. Vô số chữ từ miền Bắc du nhập vào miền Nam và từ trong lòng Saigon, ngôn ngữ tự nó cũng có nhiều thay đổi.
Tuy nhiên dù hoài cổ cách mấy, một số chữ mang ý nghĩa mới bắt buộc phải dùng vì không có chữ cũ tương đương. Ví dụ vô số chữ dùng trong lĩnh vực máy tính dĩ nhiên trước 75 không có. Marketing cũng là một từ mới như vậy, dịch sang tiếng Việt là tiếp thị, không đồng nghĩa với quảng cáo vì nó không hẳn chỉ là quảng cáo, hay như chữ slogan, poster trong quảng cáo...chẳng hạn, trước kia chưa từng xuất hiện những ý niệm này và báo chí Saigon hiện nay thường giữ nguyên khi nhắc tới. Không phải chữ nào cũng tìm cách để dịch sang chữ Việt được vì như vậy đôi khi trở nên rườm rà, nôm na và không diễn đạt hết ý. Vì thế rất ít chữ vẫn giữ nguyên gốc là chữ ngoại quốc nhưng hầu hết đều tìm được chữ mang nghĩa tiếng Việt tương đương. Dù bằng cách nào thì điều đó cũng làm giàu thêm cho ngôn ngữ Việt. Nếu không có sự thay đổi như vậy hẳn đó phải là một tử ngữ. Những ngôn ngữ chừng nào con người còn xử dụng trong đời sống hằng ngày thì vẫn phập phồng hơi thở của cuộc sống, như giòng nước vận động, chảy trôi mạnh mẽ. Cốt lõi giữ nguyên nhưng dĩ nhiên không thể có sự bất biến trong ngôn ngữ đó. Ngôn ngữ cũng phản ảnh không gian và thời gian hết sức rõ ràng nơi nó tồn tại.
Người miền Bắc không nói 'sức mấy' và người miền Nam không nói 'bức xúc'. Việt kiều không nói 'không dám đâu' và dân Saigon không nói OK... Tuy nhiên chắc chắn là vô tình trong một số bài viết, ngay cả của các vị lớn tuổi gần đây, độc giả vẫn có thể đọc thấy rải rác đây đó 'bức xúc, 'tư duý, 'tranh thủ'...không nằm trong ngoặc kép. Bởi vì đó là những chữ quá quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người trong nước. Thậm chí 'chữ' dùng nãy giờ cũng có sự khác biệt trước và sau này. HOA là một từ, H là một chữ. Nhưng trước kia HOA là một chữ còn H là một chữ cái... Đúng là trên trang viết, có thể đoán được nơi chốn và thời kỳ tác giả đã trải qua.
Lần đầu tiên cầm một tờ báo VN hải ngoại rồi vài số báo khác sau đó nữa gửi về, tôi rất ngạc nhiên. Thật khó diễn tả được cảm xúc lúc bấy giờ. Giống như sau nhiều dâu biển, phía bên kia của xa cách thăm thẳm là người quen. Gọi là gì nhỉ, góc chân dung của một quãng lịch sử, một quãng đời, mảnh tin bất ngờ từ nơi đâu một chốn bao la gửi về. Thời gian của lúc thơ ấu, của thuở mới lớn bao giờ cũng gắn chặt, nhớ sâu trong lòng hơn những giai đoạn cuộc đời về sau, nên cảm xúc đó như là bồi hồi, hoài nhớ...
Những hình ảnh, kỷ niệm của quãng thời gian đó hiển hiện trong tờ báo với hình thức và cách diễn đạt, lối hành văn và nội dung giống y trước kia, hoặc không giống y thì cũng khiến tôi dễ dàng liên tưởng vì nó rất giống các báo cũ và hoàn toàn khác báo VN bây giờ. Như người miền Bắc năm nào khi rời quê di cư đã mang theo Đêm Giã Từ Hà Nội, Nhớ Về Năm Cửa Ô Xưa... Những người VN di tản cũng gói ghém trong máu thịt cả một đất nước miền Nam để nơi vùng đất mới, dường như không tái hiện, không đứt đoạn, không phải vẽ nên diện mạo cũ bằng một nét vẽ mới mà chính là miền Nam ngày ấy, giờ đây như đuôi một nét vẽ được kéo dài rạ Dẫu rớt rơi trên biển cả, trên dặm trường bôn ba có mảnh đi, nhạt hơn, có pha vào sự đổi thay... vẫn chỉ là nét vẽ duy nhất đó, kéo dài rạ.. vô cùng quen thuộc, dùng một câu có vẻ hơi 'cải lương' nhưng rất đúng, rất 'tới' là quen thuộc đến rưng rưng!
Vấn đề chính nơi những sự việc này có lẽ do thói quen và định kiến bởi vì các văn nghệ sĩ di cư năm 54 đã góp phần thay đổi nền văn học miền Nam bấy giờ, tạo nên một giai đoạn văn hóa phát triển rất rực rỡ tiêu biểu cho một chính thể, một quốc gia độc lập, đến bây giờ vẫn là niềm tự hào, hãnh diện của miền Nam. Thế nhưng điều này đã không xảy ra sau 75. Rất đơn giản bởi vì văn hóa nói chung, văn học nói riêng của CS quá đỗi thấp kém, ọp ẹp nên chỉ có thể mượn tay cường quyền để dẫm xé, chứ không chinh phục, khuynh loát nổi miền Nam, tức không thể chinh phục được tinh thần miền Nam. Cho đến bây giờ vẫn không thể xóa nhòa trong ký ức mọi người, và về sau này trong lịch sử, hành động của đám thanh niên rầm rộ đi đến từng nhà để tịch thu sách vở. Suốt ba mươi năm nay văn hóa VN bị kéo lui trì trệ do bị cầm đầu, chỉ huy bởi một thế lực độc tài, thiển cận... Thua một thế lực dường kém cỏi hơn mình, điều ấy khiến người miền Nam uất ức trong chiến bại, mang trong lòng tâm trạng kiêu hãnh của kẻ đành ngã ngựa bởi những lý do ngoài ý muốn...
Cho nên ngoài việc thu nhập, bị ảnh hưởng một cách thụ động thì người thua vẫn 'nhìn xuống', vẫn 'dị ứng' với những từ ngữ mới. Những chữ mới xuất hiện này thường khiến người Việt ở xa, một cộng đồng bị đẩy vào cảnh ly hương, không nằm trong vòng kiềm tỏa dĩ nhiên nghe rất chỏi và họ có toàn quyền để không chấp nhận. Người miền Nam khó chịu khi nghe đến phấn đấu, triển khai, xử lý... còn nữa những tăng năng suất, vượt chỉ tiêu, rút kinh nghiệm, xử lý nội bộ... mà khi dùng đến, chỉ hàm ý chế giễu, mỉa mai. Và Việt kiều cũng cùng cảm giác ấy khi nghe người trong nước nói, dù từ miền nào.
Sở dĩ dài dòng như vậy chỉ để đưa tới, nhắc lại một kết luận cũ kỹ rằng đó là kết quả của chính sách kỳ thị đã phân hóa một cách sâu sắc dân tộc VN, là điều mà ngay bản thân chính sách đó đến nay đã nhận lấy hậu quả kéo dài trên nhiều phương diện. Cuối cùng chỉ thấy thương xứ mình đến xót xạ.. Nhiều người đành than thở thôi thì do lỗi tổ tiên, ngày xưa Lạc Long Quân và Âu Cơ sao chẳng tìm cách cho đại gia đình xum họp một nhà. Trăm trứng vừa nở ra đã chia lìa năm mươi con lên núi, năm muơi con xuống biển cho nên không lạ khi chuyện thiên di, ly tán đã vận vào định mệnh của dân tộc này suốt mấy ngàn năm. Một vài ý nghĩ trao đổi cho vui. Những lạm bàn về ngôn ngữ và văn học trong thư không nhằm mổ xẻ về lãnh vực to lớn này mà chỉ minh họa thêm cho những ý nghĩ, tình cảm tản mạn... Do vậy, hẳn có nhiều sai sót.
Mong nhận được thư của bạn.

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Tôi Yêu tiếng Nước tôi Từ khi mới ra Đời
Reply #10 - 08. Nov 2006 , 21:55
 
mien_thuy wrote on 19. Aug 2006 , 19:55:
Hôm nay vào đọc đề mục này của anh Lam Sơn rất thú vị, để thấy rằng tiếng Việt quả là phong phú bao nhiêu thì so với tiếng Mỹ bên cạnh cũng có những điều rắc rối lạ kỳ, như bài viết của Lê Anh Tuấn

Mới đọc một bài thôi dài thậm thượt đấy anh LS, nhưng phải cảm ơn anh đã bỏ công sưu tập bài vở hay . . Sẽ vào tuần tự xem tiếp anh Sơn ơi
Chúc anh một chủ nhật vui

MT

Chị Miên Thuỵ , Thân mến,
Hôm nay mới ít giòng gửi đến chị, đáng lẻ ra phải có đáp từ, về Ký sự Paris Hội Ngộ, nhưng đầu óc có lúc củng lú la lú lẩn, trước hết cho mình gửi lời thăm hỏi sức khoẻ cuả chị, kế đến , hành trình vưà qua, khi đến viếng thăm thủ đô Paris, thời gian quá ngắn, để có thể thù tiếp khác phương xa, thật ra Hoà Lan và Paris chỉ cách nhau có chừng 5 tiếng lái xe hơi, có lẻ chị hơi mệt phải không? Tôi có xem được bài viết cuả chị, quả nhiên lời xưa nói không sai,
  XEM VĂN PHONG BIẾT NHÂN CẢCH,thực ra mình củng ngại chuyện viết bài đưa lên diễn đàn, vì văn dốt vỏ nát,vả lại trình làng , thì không thể viết nhửng bài ấm a ấm ớ được,
tuy nhiên củng cố gắng viết một ít, nếu không thì củng sao chép trên net, và đem về để cho bà con thưởng thức,
MUA VUI CỦNG ĐẶNG ĐƯỢC VÀI TRÓNG CANH, củng xin cảm ơn chút quà cuả các chị Diển Đàn Lê Văn Duyệt ( theo lời cuả anh Sơn , mà không biết có phải như vậy hay là anh Sơn lại bày vẻ và khéo nói) cảm ơn bài viết và hình ảnh chụp tại VĂN NGHÊ QUÁN SÀI GÒN
Xin thân chào, và hẹn có ngày tái hội
 

Back to top
« Last Edit: 28. Feb 2007 , 21:08 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re:  TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI MỢ size=
Reply #11 - 09. Nov 2006 , 16:43
 
Quote:
củng xin cảm ơn chút quà cuả các chị Diển Đàn Lê Văn Duyệt ( theo lời cuả anh Sơn , mà không biết có phải như vậy hay là anh Sơn lại bày vẻ và khéo nói)  



Anh Lam Sơn ơi ,

Cho My xen vào đây để thành thật khai báo với anh là chai ice wine là của anh Sơn tặng anh Thọ đó, không phải của D/D LVD đâu.  Anh Sơn và My ở xa tuốt 2 đầu đông và  tây của Canada, cách chi mà gửi gắm quà cáp cho được.  Shocked 
Sự thật thì phải khai, nhưng My cũng vẫn cám ơn hảo ý của anh Sơn nhiều lắm.  Wink
Back to top
« Last Edit: 09. Nov 2006 , 16:47 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI MỚ
Reply #12 - 03. Jan 2007 , 20:56
 
Tiếng Việt  Tôi Yêu


Tác giả Trịnh Thanh Thủy của bài viết "Cái chết của một ngôn ngữ: tiếng Việt Sài Gòn cũ" trong nhiều websites mà tôi có dịp đọc trước đây, đã ghi nhận sự đổi thay về cách xử dụng ngôn ngữ trong xã hội. Bà nhập đề bài viết bằng đọan văn :

"Vấn đề ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không riêng gì của người Việt. Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của tiếng Việt mà đã đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách nghiêm túc. Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ. Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển, không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó cũng âm thầm chết theo. Nhìn tiếng Việt Sài Gòn cũ từ từ biến mất, lòng tôi bỗng gợn một nỗi cảm hoài. Điều tôi thấy, có lẽ nhiều người cũng thấy, thấy để mà thấy, không làm gì được. Sự ra đi của nó âm thầm giống như những dấu tích của nền văn hoá đệ nhất, đệ nhị cộng hoà VN vậy. Người ta không thể tìm ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Cổ Thành Quảng Trị, nghĩa trang Quận Đội, trường võ bị Thủ Đức, v.v... Tất cả đã thay đổi, bị phá huỷ hoặc biến đi như một sắp xếp của định mệnh hay một định luật của tạo hoá."

Sau ngày 30-04-75 định mệnh, người dân thuộc phía miền Nam bên dưới vĩ tuyến 17 chúng ta đã đau đớn  nghe và đọc những từ ngữ lạ hoắc đến độ buồn nôn mà chúng ta đã nghe trong khó chịu như : đề xuất, đột xuất, phát hiện, bồi dưỡng, kiểm thảo, xử lý, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng, phản ảnh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, liên hệ, đăng ký, phục viên, liệt sỹ, quyết sách, đạo cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực công, nền công nghiệp âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng, đáp án, phồn thực, sinh thực khí, từ vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân,v.v...

Trong bài viết "Sống trong tiếng Việt" của nhà văn Đặng Tiến ghi nhận như sau :

« Tương quan giữa chính trị và ngôn ngữ, nhất định là có thật, nhưng không đơn giản. Trong đề tài này, mà phản ứng theo bản năng, tình cảm thì lời nói làm cho người nói xa nhau, trong khi nhiệm vụ của ngôn ngữ là làm cho con người gần nhau.

Trong một cuộc gặp gỡ với nhân viên báo Nhân Dân do báo này thuật lại, ngày 11.3.1961, Hồ Chí Minh có nói : "ta phải nói kí lô, vì nếu nói cân thì không đúng nghĩa 1000 gơ-ram". Ông chống lại thói lạm dụng chữ Hán, nên khuyên không nên dùng từ  phụ đạo  chỉ để nói là kèm trẻ em học thêm. Kết quả : người phía Nam không được ông giáo huấn, thì nói kí lô và kèm trẻ ; người phía Bắc, lập trường kiên định, lại dùng từ cân và phụ đạo.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cũng đặc biệt quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (1963) nhận xét : khi nói trao đổi  thì phải nói trao đổi cái gì, ý kiến, hàng hoá… chứ nói  trao đổi không khống, là vô nghĩa. Khi kết hôn, thì nói kết hôn, thành hôn, xây dựng gia đình, không nên nói "xây dựng" không khống, theo kiểu : "ngày mai tôi đến trao đổi với anh"hoado "cô ấy đã xây dựng năm ngoái"...

Người phương Nam mù mù tăm tăm, không dùng từ "trao đổi", "xây dựng" như người phương Bắc được "quản lý" nghiêm túc. Chung quanh hôn nhân, người phương Bắc còn có lối nói : "báo cáo, tuyên bố, đăng ký, tổ chức (dã chiến hay theo lối cũ, v.v…)" - ông thủ tướng nghe cũng phát ớn!

Nhân ngày giỗ Nguyễn Đình Chiểu, năm 1963, Phạm Văn Đồng có viết bài ca ngợi nhà thơ, mở đầu bằng hình tượng bay bướm : trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Một câu văn đẹp, và ông giáo sư Lê Trí Viễn đã cóp, làm tiêu đề cho một cuốn sách: Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao càng nhìn càng sáng (1982); Ý ông muốn thu câu văn cho gọn, thành sai cú pháp !

Để viết bài này, tôi phải đọc lại sách của Hoàng Tuệ : "Vấn đề chuẩn ngôn ngữ qua lịch sử ngữ học" (1993), và được biết trên báo Pravda ngày 20.6.1950, Stalin đã có bài bác bỏ lý thuyết của Marr (1864-1934) cho rằng ngôn ngữ là một hiện tượng giai cấp.

Theo Stalin "ngôn ngữ là của toàn dân tộc; ngôn ngữ không phải là một hiện tượng giai cấp (…) Vì lẽ : ngôn ngữ là một dụng cụ giao tiếp xã hội, nó không phục vụ riêng một giai cấp nào, nó phục vụ tất cả các giai cấp, nó là của toàn thể dân tộc, của những kẻ bóc lột cũng như những người bị bóc lột, của chế độ cũ hấp hối cũng như của chế độ mới đang lên (tr. 141).

Ngôn ngữ và văn hoá là hai cái khác nhau (…) văn hoá có thể là tư sản hay xã hội chủ nghĩa (theo Lê-nin), còn ngôn ngữ, công cụ giao tiếp giữa người với người thì luôn luôn là của chung cho cả dân tộc (tr. 143)."

Tôi ngờ ngợ, chả lẽ Stalin lại viết một câu bình thường, phản động, phi giai cấp, phi mác xít lê-nin-nít như vậy ? Hay là cụ Hoàng Tuệ "hư cấu" ? Tôi rà lại thì quả là cụ Stalin có viết như thế thật, và tôi đã nghi oan Hoàng Tuệ.

Tôi không tiếc công, vì đã học được một bài học lớn. Ở đời ai cũng có chính kiến, thành kiến; đến khi lý luận thì phải dè dặt, phải đề phòng thành kiến của chính mình. Về mặt trí thức, bản thân mình là đối phương của chính mình, một đối phương cực kỳ nguy hiểm vì trường kỳ mai phục. Vượt qua thành kiến để thấy : ông Stalin cũng có thể nói đúng, ông thủ tướng có thể viết câu văn hay, ông giáo sư, nhà giáo nhân dân, có thể sử dụng sai cú pháp. Bản thân mình có thể sai, vì dốt, vì vội, vì giận hay vì thiên kiến.

Bà Trịnh Thanh Thuỷ là người chân thật. Bà hỏi thật : "mình có nên thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi…". Là người đồng hội đồng thuyền, tôi đồng cảm với bà. Câu trả lời của tôi là : một mặt phải thường xuyên thay đổi lối viết, mặt khác dùng những từ nào mà mình thấy là hay, là đúng, là hợp với câu văn. Nếu ông Phạm Quang Tuấn có hỏi dựa vào đâu mà bảo rằng từ này hay hơn từ kia, thì trả lời cũng dễ thôi về mặt thực hành. Về lý thuyết ta có thể nói : một từ hay, khi có sự hài hoà giữa hình thức (cái biểu hiện, signifiant) với nội dung (cái được biểu hiện, signifié), giữa ngữ thái và ngữ nghĩa. Và tránh tạp âm vì những từ đồng âm hay cận âm, tránh từ Hán Việt khệnh khạng, chuộng những ngữ âm thanh tao hay gợi cảm."
Chúng ta đều biết kẻ ăn cướp như CSVN thường tỏ thái độ siêu đẳng hơn người, thường khoe khoang, khoác lác, có thể xuất phát từ tâm lý mặc cảm tự ti và rồi chính họ mâu thuẩn ngay trong lời nói của họ, ví dụ Hồ Chí Minh luôn luôn đả phá việc dùng chữ Hán. Tên "Ái Quốc" mà âm hưởng vốn đã mang nguồn gốc Hán văn. Sao không đặt thẳng toạc móng heo ra là "Nguyễn Yêu Nước" thì ông trung thành tuyệt đối với Việt ngữ ? Trong báo "Lính Kách Mệnh" được xem là tiền thân của tờ Quân Đội Nhân Dân, người ta xem những bài văn của Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông ta đã vi phạm sự đả phá việc dùng từ ngữ xuất phát từ gốc Hán văn như : quốc tế vô sản, xuất khẩu, hữu nghị, tham quan, tranh thủ, khẩn trương, chỉ đạo,...

Trong bài trả lời về chủ đề "Văn Chương Không Biên Giới" trên website Da Màu, vị   thức giả Nguyễn Quốc Chánh đã đề cập về sự tham lam độc đoán của bọn CS sau khi "hiếp dâm" miền Nam sau biến cố 30 tháng Tư, 1975 qua nhận xét chua xót về ngôn ngữ tiếng Việt :

"Tiếng Việt có tới 3 lần mất trinh. Một lần với Tàu, một lần với Tây và hiện nay với CS. Cái vĩ đại của CS là vơ tất cả về mình, từ sông núi, lịch sử, và dĩ nhiên, ngôn ngữ rồi làm cho nó tồi tệ đi. Cái gì họ kiểm soát được, cái đó còn trinh, cái gì không là đồi trụy hoặc lai căng. Tiếng Việt ở miền Bắc XHCN là trinh, tiếng Việt ở miền Nam trước 1975 là đồi trụy, và tiếng Việt ở trong nước hiện nay là thuần, còn tiếng Việt ở hải ngoại là lai căng… "

Kẻ chiến thắng đã xấc xược giương oai thị uy với toàn dân trên toàn lãnh thổ đất nước bằng những Quyết nghị hành chánh để tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ của họ và buộc người dân trong xứ phải dùng. Đoạn văn ghi nhận sự kiện này là :

"Song song với việc thống nhất đất nước, chính quyền Việt Nam đã thống nhất hoá tiếng Việt và gọi đó là "tiếng Việt toàn dân". Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Bộ Giáo dục cũng thông qua một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục. Ngày 01/7/1983, Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục."

Trong đời sống khi mà những áp bức về thể xác chúng ta cố nhịn nhục, cố đè nén, nhưng những áp bức về tinh thần như Nghị quyết 36 về sự trói buộc tôn giáo về quyền tự do tâm linh hay như cái  Nghị quyết ngày 01/07/1983 để "tiếng Việt toàn dân" ra đời, khiến tâm tư chúng ta đau đớn khi nghe hoặc đọc những điều không vừa ý bị bó buộc phổ thông hóa trong nước, hoặc giả như khi tôi tình cờ nghe một số người lớn bình dân hay những người trẻ mới sang Mỹ dùng những từ ngữ của thuở ban sơ sau ngày nghiệt ngã 30-04-75 như : "Sau ngày giải phóng...." hay "Khi cách mạng vô...". Chúng ta không trách họ vì trình độ dân trí hoặc sự ý thức về chính trị yếu kém hay sự phân biệt về ngôn ngữ của họ rất thô sơ, bởi vì chính họ là nạn nhân của chính sách ngu dân mà bọn CSVN gieo rắc trên quê hương. Và trong những phút riêng tư khi mình đối đầu với ý nghĩ của chính mình là những u uất, những xót xa, hoặc những ngậm ngùi của những tiếng Việt đẹp đẽ, của những tiếng Việt đáng yêu và trong sáng mà mình muốn nghe, muốn đọc, để thèm được nghe, và thèm được thấy đã mai một, đã biến mất trên quê hương yêu dấu...

Hay tôi ưu tư phải chăng vì Tiếng Việt Tôi Yêu của Việt Nam Cộng Hòa đã bị ép xác mất dần đi trên quê hương tôi ? Buồn lắm thay.

Trần Việt Hải

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Việt kiều"
Reply #13 - 08. Jan 2007 , 20:22
 
Việt kiều"
Dũng Vũ
 
Không biết hai tiếng "Việt kiều" đã ra đời bao giờ và ai là tác giả. Người ta chỉ biết nó đã được đẻ ra để chỉ người Việt sống ở hải ngoại. Lâu nay nó đã được dùng khắp xã hội như một cái tên gọi bình thường.

Thực ra, "Việt kiều" là một sản phẩm ngôn ngữ khác thường. Khác thường từ cú pháp (syntax) cho tới dụng ngôn (pragmatic), từ ngữ nghĩa (semantic) cho tới văn hóa.

Chữ "Việt" thì ai cũng biết, còn "kiều" có nghĩa là gì ?

Kiều là một từ gốc Hán. Theo Từ điển Hán-Việt của Thiều Chửu [1] và Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh [2] , từ đồng âm này có nhiều nghĩa, ví dụ, cái cầu 橋, cái lông dài ở đuôi chim 翘, v.v… Nhưng dùng cho từ ghép "Việt kiều", thì "kiều" 僑 có nghĩa là ở đậu, ở nhờ một làng, một nước nào đó.

Như vậy, "Việt kiều" có nghĩa là người Việt ở đậu, ở nhờ.

Về mặt cú pháp, tác giả của từ ghép "Việt kiều" đã rập khuôn từ ghép "Hoa kiều" 華僑 của tiếng Hoa.

Người Hoa giải thích, "kiều" trong "Hoa kiều" được hiểu là "kiều bào" 僑胞. Đúng ra là "Trung Hoa kiều bào" hay "Trung Quốc kiều bào", nhưng vì nói tắt, mới thành ra "Hoa kiều". Cú pháp của nó không giống như cú pháp của một từ ghép Hán bình thường.

Sự giải thích ấy có lý, bởi lẽ "kiều" không thể đứng một mình trong tư thế một vị từ (tức động từ, tính từ). Nó phải bổ nghĩa cho một từ khác, ví dụ, bổ nghĩa cho "bào" thành "kiều bào" 僑胞, bổ nghĩa cho "dân" thành "kiều dân" 僑民, bổ nghĩa cho "cư" thành "kiều cư" 僑居, v.v… Đây là cách bổ nghĩa của tiếng Hán, "phụ trước, chính sau", ngược với nguyên tắc "chính trước, phụ sau" của tiếng Việt [3] .

Về mặt dụng ngôn, tác giả của từ "Việt kiều" cũng hiểu theo tinh thần ngữ nghĩa của từ "Hoa kiều", cho nên cũng khác thường.

Không cần kiến thức ngôn ngữ học, hẳn mỗi người đều biết một điều căn bản, ngữ nghĩa một từ của ngôn ngữ này có thể giống ngữ nghĩa một từ của ngôn ngữ kia, nhưng cách dụng ngôn có thể khác nhau tùy tình huống. Chữ "nóng" của tiếng Việt đồng nghĩa với "hot", "heiß" của tiếng Anh, tiếng Đức, nhưng không phải bao giờ cũng được sử dụng giống nhau. Gặp phụ nữ Tây phương mà dùng các tiếng ấy, e khó tránh khỏi phiền toái.

Nói theo khoa học, ngữ nghĩa không đơn thuần là ngữ nghĩa. Nó còn có sắc thái. Đặc điểm này trong ngôn ngữ học gọi là cực tính (polarity). Có cực tính tốt (positive polarity), có cực tính xấu (negative polarity), có cực tính trung hòa (neutral polarity), phải biết tùy tình huống, quan niệm văn hóa mà sử dụng.

Đối với người Hoa, chữ "kiều" không mang cực tính xấu cho dù hàm nghĩa "ở nhờ". Người Hoa là một giống dân di trú nổi tiếng xưa nay. Có lẽ do đã quen ở nhờ nước khác, họ không cảm thấy điều đó là tiêu cực, miễn ăn ở đàng hoàng. Người Hoa ở Chợ Lớn vẫn tự nhận mình là Hoa kiều.

Cực tính của chữ "kiều" đối với người Hoa là vậy nhưng đối với người Việt thì khác. Trước 75 ở miền Nam, người Việt ít khi gọi người Hoa bằng Hoa kiều. Thỉnh thoảng mới nghe có người dùng cụm từ "bọn Hoa kiều" với tinh thần tiêu cực. Ngược lại, thỉnh thoảng giới báo chí lại dùng nó với tính trung hòa.

Tuy vậy, người hiểu biết vẫn hiểu rằng từ "Hoa kiều" hàm chứa ý "ăn nhờ, ở đậu" chứ không phải "di trú". Nếu cần phân biệt tính cách cư trú, tiếng Việt có nhiều từ. Dân di trú được gọi là "di dân". Dân cư ngụ ở địa phương được gọi là "cư dân". Dân ở nhờ thì được gọi là "kiều dân". Ba chữ "di", "cư", "kiều" khác hẳn nhau về ý nghĩa.

Người Sài Gòn thường gọi người Hoa sinh sống trong Chợ Lớn là người Hoa Chợ Lớn, hoặc người Tàu Chợ Lớn; hoặc ngắn gọn nữa là người Hoa, người Tàu để tránh một ngữ nghĩa mang tính phân biệt có thể làm buồn lòng người khác. Trước 75, người miền Nam trong nước cũng không gọi người Việt sống ở nước ngoài là Việt kiều. Họ thường gọi là "kiều bào" hoặc "đồng bào hải ngoại". Tuy "kiều bào" vẫn hàm chứa nghĩa gốc là ở nhờ nơi khác, nhưng nghe vẫn nhẹ hơn "Việt kiều" nhờ chữ "bào", có nghĩa đen là cái bọc, nghĩa bóng là anh em, gần gũi với từ "đồng bào".

"Đồng bào hải ngoại" là từ hay nhất, dẫu hơi dài. Thế nhưng dài, ngắn không quan trọng, miễn hay. Cái hay thứ nhất là nó được người Việt nghĩ ra. Cái hay thứ hai là văn chương. Cái hay thứ ba là đúng cú pháp "chính trước, phụ sau" của tiếng Việt. Cái hay thứ tư và quan trọng nhất là nó không làm cho người nghe cảm thấy bị phân biệt, bị tổn thương. Đó là văn hóa.

"Hoa kiều" không phải là một từ thông dụng ở miền Nam trước 75. Sau 75, nó cũng không thông dụng hơn trong khi cái tên gọi "Việt kiều" thì tràn lan khắp xã hội từ Nam chí Bắc. Nhiều người dùng từ "Việt kiều" do quen miệng. Ít ai biết hoặc quan tâm đến nguồn gốc của nó. Rất nhiều người Việt trong nước ngày nay mắc phải một quán tính là trên nói gì, dưới lặp y vậy, không cần suy ngẫm tốt, xấu, đúng, sai. Có biết bao sản phẩm ngôn ngữ vụng về, biến chất mà ngày nay từ giới có học cho tới giới bình dân lẫn giới truyền thông trong nước vẫn sử dụng và lạm dụng một cách tự nhiên, như "vi tính", "phần cứng", "phần mềm", "chí ít", "game thủ", "bèo", "di động", "điều hòa", "vô tư", "siêu rẻ", "siêu nạc", "thấp điểm", "Hợp chủng quốc", "thánh Allah", "người Thiên Chúa", v.v. và v.v. Thực trạng cho thấy trình độ Việt ngữ học của tác giả và người sử dụng thấp kém đến độ nào. Với trình độ ấy, chẳng lạ gì, mỗi khi có một từ ngữ mới xuất hiện trong nước là người hiểu biết không khỏi lấy làm lo lắng và hoài nghi về phẩm chất của nó.

Nhưng, điều đó vẫn chưa đáng kể bằng cái sản phẩm được đẻ ra có thể làm tổn thương người khác. "Việt kiều" là hai tiếng mà đa số người Việt hải ngoại không ưa thích. Nó giống như mấy từ "ngụy", "tư sản mại bản", "văn hóa Mỹ-Ngụy",... mà người ta đã áp đặt lên dân mình trong quá khứ. Hai tiếng "Việt kiều" khiến người Việt hải ngoại có cảm tưởng như mình bị tách rời khỏi cộng đồng dân tộc. Nhiều người Việt đã về nước sinh sống vẫn bị gọi là "Việt kiều". Nhà nước Việt Nam cũng nhận thức được tâm lý này, cho nên có cơ quan ngôn luận đã chuyển sang dùng các từ ngữ như "kiều bào", "người Việt ở hải ngoại", "người Việt ở nước ngoài" thay cho "Việt kiều". Tuy vậy, hai tiếng "Việt kiều" vẫn được dùng phổ biến, và vẫn tiếp tục là từ ngữ gây tự ái, chia rẽ.

Giới văn hóa thông tin ở Việt Nam có tiếng xưa nay là tác giả của những từ ngữ khác thường. Không ai biết "Việt kiều" có phải là sản phẩm của họ không, nhưng biết chắc họ hay dùng. Là người làm văn hóa, họ luôn nhắc nhở người dân giữ gìn "bản sắc dân tộc" trong khi chính họ lại quên mất một điều ông bà thường dặn: "Lời nói không mất tiền mua. Chọn lời mà nói cho vừa lòng nhau".


Dũng Vũ
Stuttgart, Giáng Sinh 2006
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Tôi Yêu tiếng Nước tôi Từ khi mới ra Đời
Reply #14 - 07. Feb 2007 , 03:58
 
Nỗi Buồn Tiếng Việt Của Người Dân Trong Nước

Chu Đậu
Ở trong nước, hiện tượng dùng chữ nghĩa kỳ cục do CS Bắc Việt du nhập vào miền Nam, lai căng với nhiều từ ngữ mới chế rất ngô nghê và xa lạ đối với phần đông dân chúng. Với chủ trương nôm na hóa ngôn ngữ Việt, tập đoàn CS nắm quyền đã lạm dụng từ thuần Việt quá mức trở thành thô tục (như: "xưởng đẻ" dùng cho "nhà bảo sanh", "nhà ỉa" dùng cho "nhà vệ sinh", hay "lính thủy đánh bộ" dùng cho "thủy quân lục chiến" v. v... , và đặt ra nhiều từ sai hẳn với nguyên nghĩa.
Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian, theo sinh hoạt xã hội. Mỗi ngày, từ những đổi mới của đời sống, từ những ảnh hưởng của văn minh ngoại quốc mà ngôn ngữ dần dần chuyển biến. Những chữ mới được tạo ra, những chữ gắn liền với hoàn cảnh sinh hoạt xưa cũ đã quá thời, dần dần biến mất. Cứ đọc lại những áng văn thơ cách đây chừng năm mươi năm trở lại, ta thấy nhiều cách nói, nhiều chữ khá xa lạ, vì không còn được dùng hàng ngày. Những thay đổi này thường làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động hơn, giàu có hơn, tuy nhiên, trong tiếng Việt khoảng mấy chục năm gần đây đã có những thay đổi rất kém cỏi. Ban đầu những thay đổi này chi giới hạn trong phạm vi Bắc vĩ tuyến 17, nhưng từ sau ngày cộng sản toàn chiếm Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975, nó đã xâm nhập vào ngôn ngữ miền Nam. Rồi, đau đớn thay, lại tiếp tục xâm nhập vào tiếng Việt của người Việt ở hải ngoại. Người ta thuận theo các thay đổi xấu ấy một cách lặng lẽ, không suy nghĩ, rồi từ đó nó trở thành một phần của tiếng Việt hôm nay. Nếu những thay đổi ấy hay và tốt thì là điều đáng mừng; Nhưng than ôi, hầu hết những thay đổi ấy là những thay đổi xấu, đã không làm giầu cho ngôn ngữ dân tộc mà còn làm tiếng nước ta trở nên tối tăm.
Thế nhưng dựa vào đâu mà nói đó là những thay đổi xấu? Nếu sự thay đổi đưa lại một chữ Hán Việt để thay thế một chữ Hán Việt đã quen dùng, thì đây là một thay đổi xấu, nếu dùng một chữ Hán Việt để thay một chữ Việt thì lại càng xấu hơn. Bởi vì nó sẽ làm cho câu nói tối đi. Người Việt vẫn dễ nhận hiểu tiếng Việt hơn là tiếng Hán Việt. Nhất là những tiếng Hán Việt này được mang vào tiếng Việt chỉ vì người Tầu ở Trung Hoa bây giờ đang dùng chữ ấy. Nếu sự thay đổi để đưa vào tiếng Việt một chữ dùng sai nghĩa, thì đây là một sự thay đổi xấu vô cùng.
Từ ngữ sai với nguyên nghĩa, nghe thô tục, kỳ lạ
Sau đây, chúng tôi xin ghi lại một số từ ngữ (được tạm xếp theo vần abc) mà chế độ CSVN ép dân chúng dùng, đọc lên, nói lên sai với nguyên nghĩa, nghe thô tục, kỳ lạ và ảnh hưởng Tây phương rất nặng, khó có thể chấp nhận:
1. "Buổi đêm". ‘Buổi đêm tôi có gặp đồng chí ấy’. Từ xưa đến nay người Việt không bao giờ nói "buổi đêm" cả, chỉ nói "ban đêm", "ban ngày". "Ban" được hiểu như là một thời gian khoảng 12 giờ, ban đêm 12 giờ cộng với ban ngày 12 giờ là 24 giờ. Còn "buổi" thì chúng ta có "buổi sáng", "buổi trưa", "buổi chiều", "buổi tối". Ban ngày có 12 giờ và tạm coi như có 4 buổi, như vậy mỗi buổi có 3 giờ đồng hồ. Night time, day time khác với morning; noon; afternoon; evening. Chúng ta thường nói: ‘Chờ ông ấy mất cả buổi’. Buổi ở đây là khoảng ba giờ. Câu nói khác: ‘Thế là mất một buổi cày’. Buổi ở đây lại có nghĩa mất cả một ngày công. Chế ra từ buổi đêm là làm hỏng tiếng Việt.
2. "Cải tạo" = transform, improve; re-education. Họ không phân biệt "cải tạo vật chất" với "cải tạo tư tưởng", quan niệm chính trị. Nói : ‘Phải dùng cát để cải tạo đất’, khác với ‘Trung úy miền Nam bị đi tù cải tạo’. Nếu muốn chữa cho đất có màu mỡ hơn nên dùng "cải tiến", "cải thiện"... Khoảng 50 năm nay từ "cải tạo" cả nước đã hiểu là ở tù rồi!
3. "Cảm giác". ‘Xin anh cho biết cảm giác ra sao về hiện tượng đó’ những gì cảm thấy được được bằng giác quan. Có ngũ giác: xúc giác: sờ chạm, thị giác: mắt thấy, thính giác: tai nghe; vị giác: lưỡi nếm, khứu giác: mũi ngửi. Ðó là các sense organs, còn cảm giác và cảm tưởng; cảm tính (feeling, khác với lý tính) dễ lầm lẫn vì đó là sensation, impression. Dùng đúng chữ phải là: ‘Xin anh cho biết cảm nghĩ, cảm tưởng, về hiện tượng đó’ chính xác hơn là "cảm giác". (Ngoài ra impression còn có nghĩa là ấn tượng, dấu ấn). Chúng ta có thể nói : có cảm giác ghê sợ, nhờm tởm, lạt lẽo, ấm cúng.. một giác xuất phát từ não bộ, tuy cũng do từ năm giác quan vừa kể gửi tín hiệu lên óc.
4. "Cầu lông" = Badmington = Một môn thể thao nhẹ nhàng gần giống quần vợt, có giăng lưới cao, dùng vợt nhẹ và quả cầu có gắn lông vũ, đánh qua lại trên lưới. Trên thực tế quả cầu badmington làm giả bằng nhựa không chế bằng lông gà lông vịt nữa. Cách gọi này thô tục quá! Tại sao không gọi là cầu lông vũ hoặc bát-minh-tơn? Người viết còn nhớ có lần đã bị bà vợ một đại tá sửa lưng, khi lở miệng nói: lông quả đào. Bà kể lại, tôi bị bà Trg. Tg. Khg. một người miền Bắc chữa khéo: ‘Chị nên gọi là tuyết của quả đào thì lịch sự, thanh tao hơn’. Sau đây là cách dùng sai lạc, nhằm chủ đích tuyên truyền hoặc làm giảm đi hoặc tăng mức quan trọng của sự việc.
5. "Chất lượng": Ðây là chữ đang được dùng để chỉ tính chất của một sản phẩm, một dịch vụ. Người ta dùng chữ này để dịch chữ quality của tiếng Anh. Nhưng than ôi! Lượng không phải là phẩm tính, không phải là quality. Lượng là số nhiều ít, là quantity. Theo Hán Việt Tự Ðiển của Thiều Chửu, thì lượng là: đồ đong, các cái như cái đấu, cái hộc dùng để đong đều gọi là lượng cả. Vậy tại sao người ta lại cứ nhắm mắt nhắm mũi dùng một chữ sai và dở như thế. Không có gì bực mình hơn khi mở một tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại rồi phải đọc thấy chữ dùng sai này trong các bài viết, trong các quảng cáo thương mãi. Muốn nói về tính tốt xấu của món đồ, phải dùng chữ phẩm. Bởi vì phẩm tính mới là quality. Mình đã có sẵn chữ "phẩm chất" rồi tại sao lại bỏ quên mà dùng chữ "chất lượng". Tại sao lại phải bắt chước mấy anh cán ngố, cho thêm buồn tiếng nước ta.
6. "Cuộc gặp" = meet, run into = hội kiến, gặp mặt, gặp gỡ, buổi họp. Nghe "Cuộc gặp" thấy cụt ngủn, chưa trọn nghĩa. Ý họ muốn tả một cuộc hội kiến tay đôi, một lần gặp gỡ, chưa hẳn là một hội nghị (conference) . Nên dùng như thí dụ này: "Bộ trưởng Thái đã hội kiến gặp bộ trưởng Lào"...
7. "Cưới". Nhà văn Lê Minh Hà đi từ miền bắc, công tác ở Ðông Ðức, rồi xin tỵ nạn ở Ðức, viết trong tập truyện ngắn "Trăng Góa": ‘Bọn này chưa cưới.’, ‘chúng tôi cưới’ Ðó là thói quen từ vùng cộng sản. Ðây không phải là lối hành văn mới lạ, kiểu cách chỉ là thói quen dùng sai từ. To marry, get married, nhưng người Việt phải nói là: ‘Chúng tôi chưa làm đám cưới; bọn này cưới nhau’. Câu này lại do một vai nữ tự thuật, lại càng sai nặng nữa. Chúng ta chỉ nói "cưới vợ", không bao giờ nói "cưới chồng" cả. Chỉ có hai trường hợp dùng được hai chữ "cưới chồng". Một là cô gái có lỗi lầm nào đó, nhà gái phải bỏ tiền, chịu mọi chi phí đám cưới để lấy cho được một tấm chồng. Hai là những đồng bào thiểu số, sắc dân nào còn theo chế độ mẫu hệ, cô gái cưới chồng, vì chàng rể sẽ thuộc về nhà gái. Nhà gái phải trả cho nhà trai trâu, lợn, gà, chiêng đồng, v.v. để mua rể.
8. "Ðại trà" = on a large scale = cỡ lớn, quy mô lớn. Thí dụ: "đồng bào trồng cây cà phê đại trà". Tại sao không dùng như trước là "quy mô lớn"? Ngoài ra dùng "đại trà" là bắt chước Trung Quốc. Có thể gây hiểu lầm là "cây trà lớn"!!
9. "Ðăng ký" = register = ghi tên, ghi danh. Nghĩa rất đơn giản, nhưng bắt chước Trung Quốc, cố dùng Hán-Việt. Câu nói sau đây nghe kỳ lạ: ‘Tôi đã đăng ký mua khoai mì ở Phường...’. Tại sao không dùng "ghi danh", "ghi tên"?
"Ðăng ký" là một chữ mà người Cộng Sản miền Bắc dùng vì tinh thần nô lệ người Tầu của họ. Ðến khi toàn chiếm lãnh thổ, họ đã làm cho chữ này trở nên phổ thông ở khắp nước, Trước đây, ta đã có chữ "ghi tên" (và "ghi danh") để chỉ cùng một nghĩa. Người Tầu dùng chữ "đăng ký" để dịch chữ ‘register’ từ tiếng Anh. Ta hãy dùng chữ "ghi tên" hay "ghi danh" cho câu nói trở nên sáng sủa, rõ nghĩa. Dùng làm chi cái chữ Hán Việt kia để cho có ý nô lệ người Tầu?!
10. "Ðầu ra, đầu vào" = output, input = cái đưa ra, cái đưa vào, dòng điện cho vào máy; dữ kiện đưa vào máy vi tính. Họ còn dùng có nghĩa là vốn, hoặc thì giờ, công sức bỏ vào và kết quả của cuộc đầu tư đó. Nhưng dùng "đầu ra, đầu vào" nghe thô tục (giống như từ bộ phận = một phần việc, một nhóm, tổ, đã bị nhà văn nữ Kathy Trần đốp chát, hỏi: "Bộ phận gì?" bộ phận của đàn ông, đàn bà ả). Có thể dùng "vốn đầu tư" và "kết quả sản lượng".
Back to top
« Last Edit: 28. Feb 2007 , 21:12 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra