Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 
Send Topic In ra
PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC (Read 8470 times)
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
10. Feb 2007 , 09:53
 
KHÁI NIỆM VỀ SỐ TRONG KINH DỊCH
Tuệ sỹ

Giới hạn trong phạm vi lý luận, chúng ta tóm tắt nét đặc trưng của kinh Dịch: giản dị hóa bằng TƯỢNG và cụ thể hóa bằng SỐ. Tức là qui chiếu vạn hữu về trên một căn bản đồng nhất mà kinh Dịch gọi là thiên hạ chi động, trình phù nhất, hay đồng qui nhi thù đồ, nhất tri nhi bách lự - từ nhiều hướng nhưng cùng về một chỗ; cùng một mục đích những có trăm nghìn mối nghĩ. Vì động, cho nên có thiên sai vạn biệt; nhưng tất cả chúng khởi đi từ cái một và trở về trong một cái. Nếu vậy, khi đã qui chiếu được vạn hữu vào căn bản đồng nhất, người ta có thể phân phối cái động thiên sai vạn biệt trong thiên hạ thành trật tự có qui củ. Ý tưởng then chốt ở đây là : tại thiên thành tượng, tại địa thành hình. Tượng, có thể được hiểu như là những nguyên tắc tiên thiên. Khi những nguyên tắc này được ứng dụng vào các lãnh vực cụ thể, chúng sẽ là những sự thực hữu hình trong một trật tự cân xứng. Trong toán học, đó là trật tự tỉ đối. Chúng ta khởi đầu từ khái niệm với một trật tự cân xứng này để đi đến sự ứng dụng về Số của kinh Dịch trong lãnh vực lý luận.
Một trật tự cân xứng là một thế giới trong đó các sự vật được phân phối đồng đều ở các vị trí tương đối. Sau đây là những nguyên tắc chỉ đạo cho sự ứng dụng Dịch vào các lãnh vực lý luận và thực tế: THỜI, VỊ, TRUNG, CHÍNH. Nói về những trường hợp ứng dụng có kết quả, kinh Dịch thường diễn tả: đắc thời, đắc vị, đắc trung"hoado "lục vị thời thành" "các chính tính mệnh, bảo hợp thái hòa"hoado vân vân. Đây là do bản tính tồn tại của sự thực hữu hình, không phải là những ứng dụng tùy tiện. Kinh nói: phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân. Sự cân xứng trong thế giới hữu hình được kể theo loại và nhóm. Như vậy, khi đối chiếu với các biểu tượng tiên nhiên, hay bát quái, thì mỗi biểu tượng trong thế giới hữu hình đều trấn giữ tại một phương hướng: khảm, chính Bắc, cấn, Đông Bắc, đoài, chính Tây; vân vân.
Khái niệm về một trật tự cân xứng như vậy có hiệu lực như thế nào khi được ứng dụng vào đường lối suy luận?
Ơû trình độ gần như tổng quát của mọi đường lối suy luận, ta có thể lấy thí dụ từ Thiên Thai Tông (một trong các tông phái của Đại thừa Phật giáo Trung Hoa). Cái đặc sắc là người ta căn cứ trên đường lối theo sự hướng dẫn của Dịch để thấu triệt những khái niệm rất trừu tượng và rất xa lạ đối với truyền thống tư tưởng Trung Hoa. Tông này lấy số Ba làm số trật tự cân xứng của luận lý, hay một tập hợp luận lý nói theo danh từ luận lý học Tây phương (combinaison logique), và họ gọi là TAM VIÊN DUNG. Đại cương, khi vận dụng, tông này sử dụng những cặp tương phản trong một tập hợp luận lý, gọi là cặp song phi và song chiếu. Một tập hợp luận lý của họ gồm có ba thành tố căn bản: KHÔNG, GIẢ, TRUNG. Mỗi thành tố sẽ được thiết lập bằng những biến thiên như hủy diệt và tồn tại, rồi khi vượt qua cả hai tuờng hợp đó, người ta có một sự thực bên trên tất cả khái niệm. Nghĩa là vượt qua tính cách đối đãi hay phản danh của một khái niệm bằng song phi và song chiếu: khái niệm trừu tượng được đưa vào thực tại cụ thể.
Lối suy luận trên đây, có thể coi như một đường lối căn bản mà ta có thể tìm thấy thường xuyên nơi Dịch.
Ngày nay, người Tây phương gọi con số ba của kinh Dịch, là một tập hợp luận lý, là con số thần bí của tính phân phối và tập hợp (permutation et combinaison). Chúng ta đừng nghĩ con số ba ở đây là con số của một quá trình biện chứng. Nơi kinh Dịch, ta biết mỗi một quẻ của Bát quái đều gồm có ba hào. Xưa kia, người ta thường giải thích vì có ba lãnh vực hay ba cấp bậc của trật tự: trật tự của thiên giới, trật tự của nhân giới và trật tự của vạn vật (không phải vạn hữu). Nghĩa là TAM TÀI. Vì vậy, một quẻ có ba hào. Chúng ta cũng có thể hiểu điều này theo một chiều hướng khác. Trước hết, có thể coi số ba như là biểu tượng của sự ổn định và cân xứng, nghĩa là hợp lý. Khi nói đến hợp lý của tương quan nhân quả, một tương quan đồng thời, cái này gá vào cái kia và ngược lại mỗi cái vừa nhân vừa quả; để diễn tả sự hợp lý này, người ta lấy thí dụ về hình ảnh kim tự tháp của những cây gậy tựa vào nhau. Vả lại, torng các nền luận lý học cổ điển, với tam đoạn luận của Aristole, hay với nhân minh học của Digna Aán độ, người ta thấy một lập luận vững chãi được phân phối theo con số ba, với ba mệnh đề. Một tập hợp luận lý, như vậy, tự căn bản là mộ ttập hợp của số ba. Theo đó mà nói, con số ba tượng trưng cho ý niệm về một sự hợp lý vững chắc của các tương quan nhân quả. Đây chỉ là những trường hợp gợi ý. Dù vậy, tất cả, có thể nói là tất cả, mọi trật tự cân xứng của hữu hình được phản chiếu trên con số ba. Hay nói chính xác hơn: con số ba là hình ảnh phản chiếu của trật tự hữu hình và cân xứng. Từ mộ tthành số tượng trưng cho trật tự toàn diện của thế giới là số mười, nếu ta qui chiếu về trên căn bản đồng nhất, tức số một, ta c hiện sự tiết giảm theo tính cách cân xứng và tương đối: năm – ba – một, cuối cùng sẽ có một hình tam giác, nếu mỗi một số được ghi thành một điểm.
Chúng ta đã nói, số ba không phải là một quá trình biện chứng, mà là con số của một tập hợp luận lý. Trong mỗi tập hợp này, người ta phân phối bằng tính cách có lặp lại (permutation avec répétition), hai thế lực tương phản âm và dương. Kết quả đạt được là có tám tập hợp, tức Bát Quái, chúng tương ứng với tâm phương vị của trời đất. Từ khái niệm trừu tượng mà đạt đến trật tự cân xứng của thế giới hữu hình, đó là sự thành tựu cao nhất của lý luận. Câu nói của kinh Dịch: Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình", có thể được hiểu theo chiều hướng vừa kể.
Khuynh hướng của Dịch là từ những phúc tạp mà tiến tới chỗ THUẦN NHẤT: Dịch giả, dị dã. Ba đặc tính của một nguyên tắc tiên thiên khiến cho nó khả dĩ ứng dụng được trong thế giới hữu hình, kinh Dịch gọi là Thuần, Túy, Tinh. Đây là một chiều hướng lý luận không bị giới hạn trong những nguyên tắc phân tích và tổng hợp. Nói cách khác, người ta không khảo sát giá trị của một mệnh đề luận lý qua phân tích hay tổng hợp. Trong chiều hướng của phân tích hay tổng hợp, người ta cần phải lưu ý các trường hợp đơn hay phức. Nhưng ở đây khỏi cần lưu ý như vậy. Thí dụ về luận lý tứ cú (logic of four alternatives hay tetralemma), ta có:
(A)   I. Có………………………..(khẳng định đơn)
II.Không………………..(phủ định đơn)
                    III.V ừ a có vừa không (khẳng định phức)
                    IV.Kh ông phải có không phải Không (phủ định phức)

Xét theo các trường hợp đơn cú, bốn mệnh đề trên rút lại chỉ co hai, vì III và IV là trường hợp phức số của I và II.
Cũng trong luận lý tứ cú, ta thử lấy một lối lập luận của Đỗ Thuận, người khai sáng Hoa Nghiêm Tông:
(B)    I. Phi dị biệt
II.Phi đồng nhất
                    III.P hi đồng nhất tức phi dị biệt
                     IV.P hi dị biệt tức phi đồng nhất.

Ơû đây, mỗi mệnh đề phải có một giá trị biệt lập, trong nhất tính độc hữu của nó; biệt lập nhưng chúng phản chiếu lẫn nhau như các đỉnh của một tứ giác. Yù nghĩa của mou cánh được thành tựu ở tâm điểm của những phản chiếu này.
Chúng ta ghi nhận một điểm khác nhau rất nhỏ giữa III và IV của (A) là "Vừa Có vừa Không"…và III và IV của (B): "Tức". Một đằng diễn tả thể cách của Có và Không, do đó, đáng gọi là khẳng định đơn cú. Trường hợp (B), ý niệm về tức ở đây là tương tức, chỉ cho thể tính vô phân biệt giữa các sự hữu; nó không hàm chứa một ý tưởng về thể cách tổng hợp.
Với lối lý luận bằng tứ cú trên đây, trường hợp (B), người ta rút ra một hình ảnh của thế giới như sau:
I. Một trong tất cả
II.Tất cả trong Một
III.Tất cả torng Tất cả
IV.Một trong Một

Nói tóm lại, hậu quả của một chiều hướng lý luận "TRINH PHÙ NHẤT" sẽ dẫn đến một thế giới quan như vừa kể.
Một trường hợp điển hình khác có thể xảy ra ở đây, để xác định lối luận TIRNH PHÙ NHẤT của kinh Dịch ấy.
Đây là trường hợp của Trí Nghiễm, tác giả của Hoa nghiêm nhất thừa thập huyền môn, vị tổ thứ hai của Hoa nghiêm tông. Oâng lý luận về sự tăng và giảm của một và mười, theo hai chiều hưng hạ, để giải thích thế giới quan vô tận; và con số mười được gọi là Thập vô tận.
Trước hết, ông chia hai trường hợp tương quan giữa một và mười: dị thể và đồng thể. Trong mỗi tương quan đều có tăng và giảm. Dĩ nhiên muốn tính sự tăng giảm này, người ta phải lấy số một và số mười làm chuẩn đích. Một chỉ cho sai biệt và mười chỉ cho toàn thể. Rồi ở dị thể và đồng thể, mỗi trường hợp lại được chia thành hai:
I. Một trong Nhiều, Nhiều trong Một
II.Một tức Nhiều, Nhiều tức Một.

Bằng đường lối quanh co và chậm chạp như vậy, ông đi từng bước một: từ một lên mười, rồi từ mười tiết giảm đến một, thực hiện cho đến kỳ cùng – ở đây xin phép không bàn rộng – người ta đạt đến điều này: thế giới như một màn lưới được kết dệt vô số hạt ngọc. Mỗi mắt lưới là một hạt ngọc, ch1ung phản chiếu lẫn nhau – phản chiếu giữa cái Một và Tất cả – thành một thế giới trùng trùng vô tận. Nếu trở lại từ đầu khái niệm về trật tự cân xứng, chúng ta cũng bắt gặp cái thế giới quan vừa kể.
Trật tự cân xứng là trật tự của những đối xứng tương quan và tương giao. Từ điểm này các nhà Hoa Nghiêm tông giải thích tương quan hiện hữu, hay lý Duyên Khởi, là lý thuyết căn bản của Phật giáo, thành tương do. Bằng tính cách tương do này, sự đôí xứng của hai sự thể được quan niệm rằng phải có một hữu lực và một vô lực, một thực thể và một vô thể. Cái vô lực thì tựa vào cái hữu lực; cái vô thể thì lẫn vào cái hữu thể. Như vậy, tương do chính là tương tức. Đó là lý luận căn bản của một thế giới quan vô tận.
Tất cả những thí dụ điển hình đã nêu lên ở trên tạm thời cho chúng ta một nhãn quan bao quát về đường lối vận dụng trong phạm vi luận lý, gợi hứng từ khái niệm về SỐ của kinh Dịch. Vì không thể đi sâu vào chi tiết như một thiên khảo cứu chuyên môn, chúng ta hãy dừng lại trong giới hạn vừa phải này.



KINH DỊCH VÀ PHẬT HỌC TRUNG HOA

Tuệ Sỹ

1. DỊCH

Hình như vạn hữu bắt đầu tự hư vô. Bởi vì hư vô là biên tế cùng cực vừa hữu lý vừa vô lý của lý niệm. Nó là biên tế hữu lý của lý niệm vì ba lý do:
(a)    Tác nhân của hiện hữu chỉ đồng tính mà không đồng cách với hiện hữu ấy. Đồng tính nhưng không đồng cách, vì là tương quan nhân quả.
(b)   Tác nhân của hiện hữu đồng tính nhưng không đồng thời với chính hiện hữu ấy, vì là sự vận chuyển của sinh thành và hủy diệt.
(c)    Hư vô và hiện hữu được truy nhận trong tương quan đối đãi.

Nhưng hư vô còn là biên tế vô lý của lý niệm. Nếu hư vô và hiện hữu được truy nhận bằng tương quan đối đãi thì cả hai chỉ là giả thiết tạm ước của một căn bản đồng nhất. Chúng lại chỉ đồng tính mà không đồng thời và 9dồng cách, như vậy chỉ sai biệt vì tương quan tiếp nối của vận chuyển. Theo lối suy luận nghịch đảo này thì hư vô không còn là biên tế hữu lý của lý niệm nữa. Cuối cùng phải thừa nhận một lập trường triệt để phủ định. Trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Trung Hoa, đây là một trong những lập trường luận thuyết đầu tiên về Phật học của xứ này, được mệnh danh là thuyết BẢN VÔ1. Trước khi kumàrajìva2 phiên dịch các tác phẩm Bát nhã và Trung quán, thuyết này là một điển hình về giải thích của tánh Không, vận dụng những khái niệm cố hữu của truyền thống tư tưởng Trung hoa. Nhờ những dịch phẩm của Kumàrajìva, Tăng Triệu3 đã thực hiện bước đầu, cố gắng thoát khỏi sự khống chế của hai thái cực phủ định và khẳng định. Trong ngôn ngữ Trung hoa, tất cả phủ định chỉ là mặt trái của khẳng định. Những phủ định từ như phi, bất hay vô có thể được dùng như những danh từ, tức là chúng vẫn có thể biểu thị các sự thể bất biến hay tư hữu. Như vậy, khi những phủ định từ này được đặt trước một mệnh đề, chúng không phương hại đến hiệu lực khẳng định của mệnh đề ấy. Trong ngôn ngữ Sanskrit, ngược lại, tất cả khẳng định chỉ là mặt trái của phủ định. Những biến thể của các danh từ tùy nhiệm vụ và hoàn cảnh những biến hóa của các động từ tùy tác dụng trong thời gian và thể cách; các qui tắc văn pháp tổng quát này ẩn dấu tính cách vô căn của mọi diễn tả hữu lý. Qua lối viết của văn tự Trung hoa, người ta khám phá ra rằng trật tự của thế giới chính là sự thành tựu toàn vẹn từ nội tại của mỗi cá thể. Nhưng qua lối viết Devanagari của ngôn ngữ Sanskrit thì thế giới hiện hữu quả tình là một thế giới hỗn độn; trật tự của toàn thể chỉ là một đường thẳng vạch đôi giới hạn của hiện hữu và hư vô. Người ta sẽ thấy các nhà Phật học Trung hoa sau này, rõ rệt nhất là từ các triều đại Tùy và Đường trở đi, ở Hoa nghiêm tông, tánh Không đã được lật ngược thành tánh Khởi; ở Thiên thai tông, tánh Không thành tánh Cụ; độc đáo nhất là ở Thiền tông, vô ngôn của tánh Không được diễnt ả bằng tác động rất hiện thực và rất sôi nổi là đánh và hét.
Giữa Hán tự và Sanskrit có một giới hạn nghiêm khốc, giống như giới hạn giữa hữu ngôn và vô ngôn. Lấy hai cái không đồng tính, không đồng cách và cũng không cùng một trật tự mà thay thế lẫn nhau, đấy tức là một sự lật ngược từ vô thành hữu. Trong một tình trạng như vậy, ngươì ta có thể trực nhận được tính cách phiêu đốt bất định của ngôn ngữ; vì ở đây, ngôn ngữ thực sự chỉ là một phương tiện cho mọi nghịch đảo, như sự nghịch đảo của đi và đến. Ý nghĩa của nghịch đảo này cũng là ý nghĩa của chũ dịch trong kinh Dịch. Dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch và giản dị1. Vì biến dịch, cho nên có sự sống; vì bất dịch, cho nên có trật tự của sự sống; và vì giản dị, nên loài người có thể qui tụ mọi biến động sai biệt vào một để tổ chức đời sống: Thiên hạ chi động, trinh phù nhất (Dịch hệ từ hạ truyện).
Theo truyền thuyết, Kinh Dịch đầu tiên của người Trung hoa được gọi là Liên Sơn Dịch2 lấy quẻ Thuần Cấn làm đầu3. Trong quẻ này, nội quái là cấn, tượng là núi, ngoại quái cũng là cấn. Như vậy, tượng của nó là hai hòn núi liên tiếp nhau, do đó gọi là Liên Sơn. Thuyết quái truyện của Chu Dịch có nói: Đế xuất hồ chấn, tề hồ tốn, tương kiến hồ ly, trí dịch hồ khôn, duyệt ngôn hồ đoài, chiến hồ càn, lao hồ khảm, thành ngôn hồ cấn. (Đấng chủ tế ra ở phương chấn (phương đông), muôn vật đều thanh khiết ở phương tốn (đông nam), cùng thấy nhau ở phương ly (nam), làm việc ở phương khôn (tây nam), vui nói ở phương đoài (tây), đánh nhau ở phương kiền (tây bắc), khó nhọc ở phương khảm (bắc), làm xong là nói ở phương cấn (đông bắc). Bản Việt văn của Nguyễn Duy Tinh, Chu Dịch Bản Nghĩa II, tr, 362). Đấy là Liên Sơn Dịch, theo ý kiến của Can Bửu4. Từ ba vạch âm của khôn, -- nếu đặt một vạch dương của càn tiềm phục ở dưới     , tức là chấn. Sự sống bắt đầu từ khi dương khởi sự lẫn vào âm vậy: vạn vật xuất hồ chấn. Nếu một hào dương của càn này đi lần lên, lẫn vào chính giữa không     , tức khảm. Cái mềm (âm), bao trùm cái cứng (dương), tượng trưng cho sự nghỉ ngơi sau những công việc nhọc nhằn. Vạch dương của càn đi lần lên nữa, thành quẻ cấn , tượng trưng cho sự thành tựu. Trong thân thể người ta, cấn tượng trưng cho phần lưng, lấy ý một vạch dương tựa trên hai vạch âm. Ngoài công việc nghỉ ngơi, lưng không có nhiệm vụ nào khác, như các bộ phận tay chân. Tuy nhiên, mọi hoạt động của các bộ phận trong thân thể người ta phải lấy lưng làm tựa. Như vậy, cấn tượng trưng cho thời gian mà mọi vật trong trời đất đã được phối trí thành trật tự xong rồi. Nhưng, với biểu tượng hai ngọn núi liên tiếp nhau của quẻ thuần cấn, lại là hình ảnh của sự bất động trong biến động. Loài người xuất hiện, đối đầu ngay với sự nghịch đảo giữa biến động và bất động ấy. Mọi biến động diễn ra trong trật tự của lý tính, như những khoảng lên và xuống của các đỉnh núi liên tiếp nhau. Ý thức được biến dịch trong bất dịch như vậy để tổ chức thành một xã hội có qui củ và trật tự, đấy là ý nghĩa của Dịch lý. Lời tượng của quẻ Hỏa Sơn Lữ trong Chu Dịch cũng đã nói: ơn thượng hữu hỏa, quân tử dĩ minh, thận, dụng hình luật nhi bất lưu ngục. (Trên núi có lửa tượng trưng cho sự đi xa quê nhà, người quân tử coi đó lấy điều sáng suốt cẩn thận để áp dụng vào hình luật mà chẳng cấm giữ1 lại việc ngục tụng. Ng. Duy Tinh, SĐD. II, Tr. 191). Lửa bốc cháy trên đỉnh núi là biểu tượng của một cuộc hành trình phiêu lưu, như sự vận chuyển từ sống và chết, từ sinh thành đến hủy diệt. Khi thấy lửa bốc cháy trên đỉnh núi, là trực nhận rằng mọi biến động đều diễn ra trong trật tự bất biến; căn cứ theo đó thiết lập qui củ cho trật tự của xã hội. Cổ nhân Trung Hoa nói: Không học Kinh Dịch thì không thể làm Tể tướng. Bởi vì người thiết lập và duy trì trật tự của xã hội phải thấu triệt những ý nghĩa: biến dịch, bất dịch và giản dị hóa của DỊCH. Thấu triệt được biến dịch và bất dịch, mới thấu triệt được vận hành của trời đất; biết giản dị hóa mới có thể giáo dục nhân quần để thiết lập và duy trì một trật tự phù hợp với vận hành ấy: dịch dữ thiên địa chuẩn; cố năng di luân thiện địa chi đạo. (Đạo dịch cùng làm chuẩn đích với trời đất, cho nên hay sửa sang được cái đạo của trời đất. Nguyễn Duy Tinh, SĐD. II, tr 271).
Nhưng, DỊCH là gì? Kinh Dịch (hệ từ thượng truyện) nói:Dịch giả, tượng dã. DỊCH tức là TƯỢNG. Lại nữa, TƯỢNG là gì? Chu Dịch lượ clệ của Vương Bật2 viết: "Phù tượng giả xuất ý giả dã; ngôn giả dã, minh tượng giả dã. Tận ý mạc nhược tượng, tận tượng mạc nhược ngôn…. Cố ngôn giả sở dĩ minh tượng, đắc tượng nhi vong ngôn. Tượng giả sở dĩ tồn ý, đắc ý nhi vong tượng. Do…….thuyên giả sở dĩ tại ngư, đắc ngư nhi vong thuyên. TƯỢNG là để tỏ bày Ý; LỜI là để tỏ bày TƯỢNG. Mô tả hết Ý không gì bằng TƯƠNG; mô tả hết TƯỢNG không gì bằng LỜI… cho nên, sở dĩ có LỜI là vì để tỏ bày TƯỢNG; đã nắm được TƯỢNG thì hãy quên LỜI. TƯỢNG là để giữ Ý, nắm được Ý thì hãy quên TƯỢNG. Cũng như…..cái rọ là để bắt cá; bắt được cá thì bỏ cái rọ đi.) Giải thích theo cung cách này là điều rất thường thấy trong các tác phẩm Phật học. Thí dụ, kinh Kim Cang: Phật pháp chỉ như một chiếc thuyền để qua sông. Qua được bên kia sông rồi thì hãy bỏ thuyền mà lên bờ.
Nói tổng quát, DỊCH là lý tính
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #1 - 10. Feb 2007 , 09:55
 
Theo Viên Quang đại sư thì việc chuẩn bị khi xem Dịch KHÔNG THỂ đơn giản hoá. Sử dụng nhiều thao tác ban đầu là rất quan trọng, điều này giúp cho các trường năng lượng “nhạy cảm và bí ẩn” có mang theo hình ảnh, diễn biến của quá khứ và vị lai có cơ hội xâm nhập và biểu hiện trên quẻ Dịch.
Các bậc tiền nhân đã xác nhận rằng: “Chỉ cần vẽ một quẻ Dịch đơn giản có đủ 6 hào trên một tờ giấy là đã bắc được cầu nối quan hệ giữa Người và Các Cõi Tương Ứng, và đã có lời kêu gọi đến Sức Mạnh Tiềm Ẩn trong quẻ.
Việc không chú ý đến các Cõi Vô Hình bao quanh, xen kẽ là CỰC KỲ nguy hại.Vậy nên để đảm bảo an toàn chỉ nên tiến hành bói Dịch khi đã tạo lập được sự thanh khiết nhờ xông hương (thắp hương) và hàng rào bảo vệ nhờ các ấn quyết.
Trong một bài viết trên diễn đàn TVLS tôi có nhắc đến các ấn quyết này nhưng gặp rất nhiều ý kiến phản bác. Nhiều người coi bói Dịch là một cách tính theo khoa học. Điều này đúng nhưng không hoàn toàn có thể giải thích chỉ theo một chiều như vậy. Khổng tử trước lúc nhắm mắt còn than rằng: “Giá như ta có thể sống thêm vài năm nữa may ra có thể hiểu được thêm được lẽ huyền vi của Dịch chăng”.
Thánh nhân còn vậy, tính chi đến lũ hậu học dốt nát như chúng ta! Chính vì thế người dốt cần phải Trung thành với những nguyên tắc mà người đi trước đã truyền lại.
Ngày xưa, việc xông hương được coi là một trong những diều bắt buộc phải có khi coi Dịch. Người ta rắc lên than củi đang cháy các loại bột nhựa thơm, gỗ thơm như Trầm, Nhũ hương, An tức hương, Phong tử hương và gỗ Lô hội. Ngày nay có thể dùng hương thắp loại tốt. Tránh dùng các loại hương tổng hợp từ các chất hoá học.
Đạo sư Viên quang đã phổ biến một số Ấn quyết tuy đơn giản nhưng rất có hiệu lực.Việc thực hành Ấn quyết cần phải làm khi BẮT ĐẦU và KẾT THÚC việc bói.
Theo truyền dạy lại thì việc thực hiên các Ấn quyết là một trong các nghi thức bí truyền của Đạo giáo. Ấn quyết thường đi kèm cùng các Chân ngôn hay Thần chú. nhưng cũng có khi không cần bởi các Ấn quyết thường đã có “Giá Trị Tự Thân”. Có khi dùng một, có khi dùng hai bàn tay. Sau mỗi Ấn quyết phải xoè bàn tay cho phẳng, đặt bàn tay nọ lên bàn tay kia và hướng lòng bàn tay lên trời. Người bắt ấn phải ĐỨNG, mặt quay về phía Ban thờ Tổ, sau khi thành tâm dâng hương.

1-Bắt đầu bằng Ấn đuổi tà: bắt Ấn bằng tay trái, người bắt khua tay trước mặt mình sang phải rồi sang trái.
Ấn tượng trưng cho “ Luồng sét thanh lọc”

2-Tiếp tục bằng Ấn “Đẩy lui các Hồn bảo vệ Trung giới”, Ấn có tác dụng tạo khoảng trống Không - Thời gian để các trường năng lượng mang thông tin Quá khứ, Vị lai có thể tiếp cận và xâm nhập vào quẻ bói. Đưa từ phải sang trái trước mặt.

3-Tiếp tục bằng Ấn “Thanh lọc Thân - Khẩu - Ý”, Ấn này giúp người sử
dụng xoá bỏ tạp niệm, dục vọng, hoà nhập bản thể với năng lượng Dịch. Ấn này còn có tên gọi là “Nụ hoa Sen”

4-Bắt Ấn “Đánh thức” mục đích kêu gọi sức mạnh của Dịch thức tỉnh. Đưa Ấn từ bên trái qua bên phải.

5-Bắt Ấn “Bảo vệ”. Ấn sẽ tạo ra một ngọn lửa thiêng, tạo trường bảo vệ cho người bói Dịch. Kết Ấn rồi quay từ từ cả thân mình từ trái qua phải đủ một vòng.

Sau khi bắt đủ 5 Ấn thì lấy tiền hoặc cỏ Thi ra, hơ trên khói hương (hoặc đốt hương để lên đĩa dùng gieo tiền) và khấn. Có nhiều mẫu bài khấn nhưng xin chỉ đưa mẫu bài khấn phổ biến và dễ nhớ nhất:

Giả nhĩ thái phệ hưu thường. Giả nhĩ thái phệ hưu thường. Nam mô tam khấu linh quy. Hoàng Thiên vô tư. Linh quái hữu cảm. Nghinh thỉnh đức Phục hy, Văn vương, Chu công, Khổng tử,Thất thập nhị hiền,Bát bộ thần tiên, Viên thư Thành tiên sinh, Quỷ cốc tiên sinh, Tôn Tẫn, Kính Phòng, Lưu bá Ôn, Dã Hạc, Thiệu khang Tiết tiên sinh đồng lai chứng chiếu.
Nay là Năm....Tháng....Ngày....Giờ....
Tín chủ là......tuổi.....ngụ tại......
Mưu vọng cầu.......
Kính xin chư vị Tiên Thánh, Tiên Hiền giáng lâm quẻ bói, chỉ bảo cho đệ tử biết điều hay dở, diễn biến và kết quả dữ lành.
Xin đội ơn quý vị.
Kính thỉnh.

Sau đó lấy hương cắm vào chỗ khác rồi gieo quẻ.

Lưu ý là khi khấn phải thành tâm thành ý hoàn toàn.
Bài khấn này không dùng để khấn xin gieo quẻ hộ người khác.

Khi đã coi xong, không nên đột ngột cắt đứt giao cảm với các nguồn “Năng lượng Linh thiêng” đã giúp mình. Muốn thoát ra phải bắt thêm hai ấn nữa.

6-Bắt Ấn “Xoá bỏ”: Mục đích làm dịu đi và xoá bỏ trường bảo vệ do Ấn số 5 tạo ra. Giữ Ấn trước ngực và xoay người từ phải qua trái.

7-Bắt Ấn “Phụng tống” để tiễn các sức mạnh đã được kêu gọi hội tụ đến lúc tiến hành bói.

Bấy giờ mới hoàn thành thủ tục cho một lần bói Dịch.

.....
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #2 - 10. Feb 2007 , 09:56
 
Người xem mà Tâm không Thành thì chẳng Ứng, người đoán nói ẩu thì chẳng Linh. Người đời khi gặp việc thì hay bói nhưng một chữ Thành cũng chẳng hiểu, có kẻ rượu chè be bét, có kẻ tà dâm không thanh khiết, đến lúc cần cảm ứng với Thần minh thì sao cảm được!
Lại có kẻ cậy giàu có, quyền thế xem nhẹ chuyện bói nhờ bạn bè, nô bộc đi xem mà người xem hộ lại chẳng thực lòng nên bói chẳng ứng, chiêm nghiệm không linh liền dài mồm chê thầy mà không biết do lòng mình chẳng thành.
Lại cũng có loại thầy ham lợi, dùng việc bói để lừa người, như có người đến coi việc bệnh, bói thấy bệnh không nặng nhưng do câu kết với lang y, thuật sĩ mà định lễ vật kêu cầu, cúng tế rất phiền toái. Rồi khi bệnh lành thì nói thầy hay, lễ đủ, bệnh nhân ngủ cùng giun thì đổ tại lễ bạc chẳng thành tâm!
Người xưa có câu:
-Không có việc không xem quẻ,
-Không bị ảnh hưởng không xem quẻ.
-Không động không xem quẻ.
-Không khác thường không xem quẻ.
Có việc gì vương vấn hãy hỏi ngay, đừng để nhiều việc chất chồng mà Tâm rôí loạn.
Hỏi tập trung vào một việc thì Dịch giải đáp cũng tập trung, còn có ứng thêm việc khác hay không là tuỳ quẻ. Muốn hỏi nhiều hơn một việc phải thành khẩn lắm mới được.

Những việc coi không nghiệm:
-Việc gian đạo, coi không nghiệm.
-Việc tà dâm coi không nghiệm.
-Việc nhân tiện coi thêm cũng không nghiệm.
-Việc đã chỉ một lần cứ muốn bói thêm cũng chẳng nghiệm(Trừ một số trường hợp đặc biệt sẽ giải thích sau )
Có một số trường hợp mà khi xem Dịch các bạn không để ý nên cứ nghĩ rằng sai nhưng không phải thế. Đó là:
-Trường hợp khi chiêm xa lại ứng gần:
Lý sinh lúc động, có cơ thì mới có động. Phàm khi bói việc trước mắt lúc gieo quẻ tinh thần tụ lại nên lành dữ thấy ngay. Còn xem việc ở xa, hậu vận, hoặc không thật cần thiết thì rõ ràng Tâm đã không định chắc, quẻ cũng ứng lờ mờ khó hiểu, hoặc lấy việc xa mà nói gần, hoặc lấy việc gần mà nói xa.
-Trường hợp chiêm việc này lại ứng việc khác:
Thần hay bỏ việc nhỏ mà mách việc lớn, hay bỏ tiểu cát mà mách đại hung, khi bỏ việc này mà mách việc kia, khi chiêm người lại ứng mình...
Để quẻ được linh nghiệm thì ĐỪNG BÓI HỘ. Việc của ai người đó xem. Vì ta có một niệm tưởng, họ có một niệm tưởng, vậy là có hai niệm tưởng làm loạn trường tâm linh.

Giờ mới nói về việc coi nhiều quẻ cho một việc.
Nếu gặp quẻ bất định khó đoán rõ tốt nhất là sáng sớm ngày hôm sau phải thành kính mà bói lại. Có thể làm ba lần như thế sẽ linh ứng.
Trong trường hợp khẩn cấp có thể dâng hương rồi coi hai, ba lần nhưng chỉ tập trung vào một việc, không hỏi việc khác.
Xin hãy nhớ cho rằng khi trong quẻ đã chỉ rõ cho vấn đề cần hỏi thì đừng ham tìm thêm, không bao giờ được đâu!
Có người đã hỏi rằng:
- Tại sao bói đến hai, ba lần đã nhàm rồi, cớ sao còn bói tới hai, ba ngày?
Dã Hạc lão nhân ngày trước đã có câu trả lời rằng:
-Ấy cũng vì câu đó mà làm cho mọi người đều nhầm cả. Cái lẽ nằm ở chỗ nếu một việc hỏi ba ông thầy thì nghe lời hai ông. Một việc xem đến ba nơi còn được, bói lại hai lần có hại chi đâu! Cầu công danh được Tử tôn trì Thế chưa vừa lòng, cứ muốn được Quan quỷ trì Thế thì mới là nhàm!
Người bói nhàm thì có chứ Quỷ Thần không ứng thì chưa thấy bao giờ! Nhưng cũng có khi hỏi mãi làm Quỷ Thần phát chán. Giả như cầu Tài mà quẻ đã ứng rõ là có Tài rồi, lòng cũng biết rồi, thế mà còn hỏi lại thì Thần nào còn bảo nữa!?
Tuy nhiên cũng có khiThần không báo việc ta hỏi mà nói việc ta không biết. Ví như: Cầu Tài đã biết ngày Thìn đắc Tài, hôm sau xem nữa quẻ lại ứng Thân Kim hào Huynh động vậy là sao?
Nghiệm đến ngày Thìn quả đắc Tài nhưng đến ngày Thân vì việc khác lại phá Tài.
Thế nên cũng cần biết rằng hỏi đến hai, ba lần Thần cũng chẳng trách, có khi còn mách thêm việc khác.
Nếu là một việc liên quan đến nhiều người thì mỗi người bói một quẻ. Chỉ cần có một quẻ tốt là có thể nương theo được rồi, ví như:
Xuất hành giữa đường gặp nạn, mọi người đều bói, chỉ cần một người gặp quẻ Tử tôn trì Thế thì mọi người đều vô sự. Xem bệnh mà bệnh nhân không thấy quẻ Lục xung thì cả nhà cùng hỏi, chỉ cần một người được quẻ Lục xung thì căn cứ theo đó, bệnh mới hay cũ, lành hay dữ đã rõ ràng...
Nếu Dụng thần bị Suy, Tuyệt, Không, Phá, hoặc không hiện (nếu phục cũng không dùng) thời hãy chiêm thêm quẻ nữa rồi hợp cả hai quẻ lại mà đoán....

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Danh nhân văn hoá thế giơí Nguyễn Trãi v
Reply #3 - 18. Oct 2007 , 08:21
 
Danh nhân văn hoá thế giơí Nguyễn Trãi với Kinh dịch
                                                                         Hoa thám 
                                                                                ( Phần I)
Nguyễn Trãi là khai quốc công thần dưới triều Lê sơ. Người đã thảo “ Bình ngô đại cáo”, một thiên cổ hùng văn bất hủ của dân tộc ta. Là một danh nhân văn hoá thế giới, năm 1980 thế giới đã tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông.
Trong “ Nhị Khê Nguyễn tộc thế phả” viết: Tổ tiên Nguyễn Trãi ở xã Chi Ngạn, huyện Phượng Sơn (tức Phượng Nhãn, thuộc trấn Kinh Bắc) nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Vào thế kỷ XIV, triều vua
Trần Phế Đế (Hiện), gia đình ông dời đến cư trú ở làng Nhị Khê, tổng Cổ Hiền, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam thượng, (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, sinh năm Canh Thân (1380), cha là Nguyễn Ứng Long (tức Phi Khanh). Mẹ là Trần Thị Thái, con gái quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (cháu bốn đời của Thái sư Trần Quang Khải).
Ngày 28 tháng 2 năm Canh thìn (1400), Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần Thiếu Đế (Án), nhà Minh lấy cớ đó đưa quân sang xâm lược nước ta. Tướng quân Minh là Trương Phụ bắt cha con Hồ Quý Ly giải về Trung Quốc, chúng bắt theo cả Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Phi Hùng đến ải Nam Quan để tiễn biệt cha. Cha khuyên ông nên trở về  “báo quốc, trả thù nhà!”. Theo lời cha, trên đường trở về thì ông bị quân Minh bắt giam lỏng ở thành Đông Quan (Hà Nội), tướng giặc Minh là Hoàng Phúc nhiều lần mua chuộc, dụ dỗ ông ra làm quan phục vụ mưu đồ đô hộ của giặc ngoại xâm. Với lòng yêu nước, thương dân thiết tha ông không phản bội lại tổ quốc, thà chịu cảnh sống nghèo khổ bằng nghề dạy học để chờ thời cơ:
                         “ Góc thành Nam lều một gian,
                           No nước uống, thiếu cơm ăn.
                           Con đòi trốn, dường ai quyến,
                           Bầy ngựa gầy, thiếu kẻ chăn
                          Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,
                           Nhà quen xú xứa, ngại nuôi vằn.
                          Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải.
                          Góc thành Nam, lều một gian”.
                     ( Nguyễn Trãi toàn tập, Quốc am thi tập, Thủ vĩ ngâm)
Sau Nguyễn Trãi đã cùng Trần Nguyên Hãn trốn thoát khỏi thành Đông Quan vào theo nghĩa quân Lam Sơn. Ông đem Bình ngô sách dâng lên cho Lê Lợi. Nội dung của Bình Ngô sách không bàn đến cách đánh thành mà chỉ chú ý vào việc thu phục lòng người. Lê Lợi coi Bình ngô sách là kim chỉ nam trong việc hoạch định sách lược, chiến lược chỉ đạo nghĩa quân Lam Sơn chống giặc Minh. Ngày 2 tháng giêng năm Mậu Tuất (ngày 7 tháng 2 năm 1418). Lê Lợi xưng là Bình Định Vương phất cờ khởi nghĩa, mở đầu cuộc kháng chiến chống quân Minh kéo dài suốt 10 năm gian khổ, nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, quân sư Nguyễn Trãi luôn ở bên cạnh Lê Lợi bàn mưu định kế đánh quân Minh xâm lược. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ đó, nghĩa quân dùng lối đánh du kích tiêu hao sinh lực địch, “Vây thành diệt viện” đã làm cho quân Minh khốn đốn ở thành Đông Quan phải cầu thêm quân cứu viện. Nhà Minh sai tướng An Viễn Hầu Liễu Thăng dẫn 10 vạn quân và Kiềm Quốc Công Mộc Thạch dẫn 5 vạn quân theo hai đường sang cứu viện. Trước thế giặc to lớn Nguyễn Trãi bàn với Lê Lợi cử Đại Tư Đồ Trần Nguyên Hãn hạ thành Xương Giang trước khi viện binh của Liễu Thăng đến. Sau đó, đưa quân mai phục ở Chi Lăng. Ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427), nghĩa quân đã chém đầu Liễu Thăng ở núi Mã Yên, làm nên chiến thắng Chi Lăng đánh bại 10 vạn viện binh của nhà Minh, đạo quân của Mộc Thạnh nghe tin 10 vạn quân bộ bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại, Liễu Thăng bị chém mất đầu nên quân của Mộc Thạch không đánh tự tan. Vương Thông bị bao vây trong thành Đông Quang, cùng kế phải xin hoà.
Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Lê Lợi lên làm vua lấy niên hiệu Thuận Thiên, Quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Đông Kinh - Thăng Long ( Hà Nội). Nguyễn trãi được Vua Lê Thái Tổ uỷ thác đã thảo chiếu “Bình ngô đại cáo” (đây là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của Việt Nam trong lịch sử chống giặc ngoại xâm).
10 năm cùng vua Lê Thái Tổ lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh, ngoài việc vạch sách lược, chiến lược, Nguyễn Trãi còn là một nhà ngoại giao tài tình, giao thiệp với quan quân nhà Minh xâm lược. Nội dung các thư tịch của Nguyễn Trãi còn lưu lại cho ta thấy nhiều lần ông vận dụng học thuyết Chu Dịch, âm dương ngũ hành để thực hiện kế sách đối ngoại giành thắng lợi trên mặt trận ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn trước một kẻ thù lớn mạnh rất mưu mô và xảo quyệt. Trong bài “Đầu mục nước An Nam kính gửi các tù tướng của thiên triều” (triều Minh), Nguyễn Trãi viết: “ Kinh Dịch có câu rằng: “Quân đi phải có kỉ luật, nếu không có kỷ luật thì dẫu phải cũng gặp sự không hay”. Ý là Nguyễn Trãi nhắc đến quẻ Sư là một trong 64 quẻ Kinh Dịch do hạ Khảm  thượng Khôn   hợp thành, hình quẻ là          , tên là quẻ Sư, tượng trưng cho “binh chúng” (quân đội). ý nghĩa của quẻ Sư là ở chỗ nêu ra quy luật “dụng binh”. Lời quẻ nhấn mạnh hai nguyên tắc:
Một là: Tiền đề của việc dụng binh là “chính” (Chính nghĩa), tức là cho rằng “nhân nghĩa chi sư” (quân đội nghân nghĩa) “năng dĩ chúng chính” (có khả nắngử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ chính nghĩa) thì có thể “độc thiên hạ nhi dân tòng chi” (dù khiến thiên hạ phải khổ mà dân vẫn theo) (lời Thoán truyện).
Hai là: Ra quân thắng hay bại mấu chốt là ở chỗ chọn tướng có xứng đáng hay không. Cho nên ắt phải dùng bậc “trượng nhân” hiền minh thì mới có thể được cát lợi. Sáu hào trong quẻ lần lượt nêu ra các yếu lĩnh về các mặt trong việc dụng binh. Hào Sơ lục nói về sự cần thiết về kỷ luật quân đội phải rất nghiêm minh. Hào Cửu nhị vạch rõ điều kiện để chủ soái thành công. Hào Lục tam trình bầy về bài học thất bại. Hào Lục tứ chỉ rõ tình trạng triệt quân rút lui. Hào Lục ngũ nói về tiêu chuẩn chọn tướng của “quân chủ”. Hào Thượng lục thể hiện pháp tắc xét công ban thưởng. Từ yếu lĩnh dụng binh mà quẻ Sư  vạch ra, quẻ Sư thật đáng gọi là một bộ cương lĩnh chung về binh pháp cổ đại. Nếu từ nguyên tắc dụng binh là phải có tính chính nghĩa mà xét, thì lại có thể coi đó đều tóm tắt quan trọng nhất trong tư tưởng chiến tranh của Chu Dịch. Tuân Tử - Nghị binh nói: “Việc binh ấy là để ngăn bạo trừ hại. Chứ chẳng phải là tranh đoạt”. Trong Hào Sư lục quẻ Sư, là hào âm ở ngôi đầu tiên dưới quẻ, lời hào nói: “Sư xuất dĩ luật, phủ tang, hung”. Có nghĩa là: Ra quân phải dùng pháp luật hiệu lệnh để ước thúc, kỷ luật quân đội không tốt ắt có sự hung hiểm (nguy hiểm chẳng lành). “Phủ tang” nghĩa như “bất thiện”, có nghĩa là không tốt. “Phủ” đây nghĩa như “bất” (chẳng). “Tang” như “thiện”, có nghĩa là tốt. Đây là thuyết minh về hào Sơ lục ở chỗ bắt đầu của quẻ Sư, tượng trưng cho quân đội mới bắt đầu xuất phát, nên nhắc nhở là phải nghiêm minh quân pháp. Nếu không ắt sẽ “hung” (chẳng lành). Sư là quẻ bàn về cách dùng binh. Đánh trận không phải trò đùa vui, mạnh ai nấy làm, mà phải có quân kỷ. ( Còn nữa )

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #4 - 18. Oct 2007 , 09:01
 
THÂN DẬU NIÊN LAI KIẾN THÁI BÌNH
Xuân Đấu     8/17/2006
"Thân Dậu niên lai kiến thái bình". Câu sấm nổi tiếng của cụ Trạng Trình gây niềm hy vọng lớn lao trong lòng người Việt mỗi độ xuân về. Con Khỉ đã chuyền cành đi mất, nhường chỗ cho Gà lại. Một năm Thân vừa qua với cuộc chiến tranh do Mỹ chủ động nhằm lật đổ bạo quyền Sadam Husseine, tuy chưa giúp mang lại hòa bình cho Iraq, nhưng người dân xứ sa mạc đầy dầu hỏa này tương đối dễ thở hơn. Dù dưới áp lực nặng nề của phiến quân, Iraq vẫn kiên quyết tiến tới một cuộc bầu cử mang tính chất dân chủ hầu tạo dựng hòa bình cho xứ sở của họ. Cuộc chiến diệt trừ phiến quân vẫn còn tiếp tục. Những cảnh giết người man rợ qua hình thức chặt đầu con tin và bom tự sát (suicide bombers) của bọn phiến quân khủng bố vẫn còn tiếp diễn, nhờ vậy ứng thêm với câu sấm của ngài Trình Quốc công là Thân phải thêm Dậu nữa mới kiến thái bình, nếu câu sấm này có tính cách toàn cầu. Một năm Thân chưa đủ, phải thêm năm Dậu mới hoàn hảo, mới hy vọng hết đi nạn khủng bố. Cuối năm Thân mà Mỹ tiếp tục đổ thêm quân vào Iraq, cho thấy quyết tâm của họ trong việc dứt điểm phiến quân và xây đắp hòa bình cho Iraq. Afghanistan (Athanks.gifhú Hản) có vẽ đở hơn, cũng đang trên đường tiến tới Hòa Bình sau khi chính quyền Taliban của xứ này bị lật đổ. Arafat của Palestine qua đời, tân tổng thống Mahmoud Abbas thay thế, được thủ tướng Do Thái gọi điện thoại chúc mừng và hứa sẽ hội kiến với điều kiện Palestine chấm dứt khủng bố. Tình hình Trung Đông nhờ đó có thể lắng dịu phần nào. Việt Nam tuy vẫn còn bị đặt dưới sự cai trị độc tài của Cộng sản và vẫn bị Hoa Kỳ xem là một trong những quốc gia cần quan tâm đặc biệt vì sự đàn áp tôn giáo và chà đạp nhân quyền của đảng qua guồng máy cai trị hiện nay; nhưng có vài triệu chứng cho thấy bạo quyền này đang nới lỏng tay dần. Mặc dù mục đích của sự nới lỏng là nhằm thu hút việc đầu tư của một số quốc gia trên thế giới hầu giới chức lãnh đạo Cộng sản tiếp tục tham nhũng; nhưng nhờ vậy, người dân trong nước dể thở hơn. Hành động chen chân vào cho bằng được tổ chức ASEAN năm 1995 là một bằng chứng cụ thể. Nên biết khối ASEAN được thành lập là nhằm chống lại sự bành trướng của Cộng sản; thế mà Việt Cộng vẫn xin vào, đủ cho thấy sự biến thể của chế độ đã cận kề. Việc mua phản lực cơ của Hoa Kỳ và cho phép United Airline đáp xuống phi trường Tân sơn Nhất là những dấu hiệu cho thấy sự sụp đổ dần dần nền kinh tế hoạch định, khép kín của Cộng sản. Ngày tàn của chế độ có thể không phải là một cuộc lật đổ chính quyền mà là sự mất dần ảnh hưởng của chủ thuyết cộng sản lỗi thời, của xã hội chủ nghĩa cổ hủ để nhường bước cho nền kinh tế thị trường tự do mang đầy tinh thần dân chủ. Ngày xưa, trước 1975, tôi thường thăm viếng hội Hồng Môn và thường được quý tu sĩ ở đây nhắc câu sấm của Trạng Trình: "Bất chiến tự nhiên thành" như là điều tiên đoán của họ về tình trạng đất nước sau này. Biết đâu câu sấm đó đang ứng nghiệm. Sự trở lại thân thiện với Hoa Kỳ của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam cho phép tôi chủ quan thêm. Sau khi bị Mỹ cấm vận hơn hai thập niên và sau khi Cộng sản Nga tan rã, Cộng sản Việt Nam ý thức rằng nếu tiếp tục kế hoạch kinh tế nghèo đói của họ, thế nào dân cũng loạn, cho nên họ phải van xin Hoa Kỳ. Biết đã đến lúc chín mùi, Hoa Kỳ cho bải bỏ cấm vận và tái thiết lập bang giao để đưa hai thứ vũ khí: thị trường kinh tế tự do cùng tình thần dân chủ của họ vào lại Việt Nam. Một khi dân hai miền, kể cả cán bộ nghèo đói của Cộng sản, nếm được mùi vị béo bở thơm ngon của các sản phẩm Hoa Kỳ và của các nước tự do khác trên thế giới thì thế nào cũng dần dần quên lãng những lời hứa cuội của Mác Lê nin, hay nói đúng hơn, quên đi cái gọi là thiên đường cộng sản họ được hứa khả. "Chủ nghĩa cộng sản tiêu diệt tư bản như chuyện tất nhiên" theo giọng điệu Karl Marx ở đâu không thấy, chỉ thấy các quốc gia tư bản ngày càng giàu, còn quốc gia cộng sản gần nửa thế kỷ nay vẫn nghèo đói, không đủ ăn, đến độ phải ngửa tay nhận viện trợ nhân đạo từ các quốc gia kia. Nhìn vào sự tan rã của khối Cộng sản Nga, ít nhiều gì chúng ta cũng rút tỉa được một vài bài học. Sự đột biến không phải tự dưng mà có. Nó đã âm ỉ từ lâu, từ cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh của công nhân thợ thuyền Ba Lan (1955), từ cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hung Gia Lợi (1956), từ phong trào dân chủ của hiến chương Praha (1977), và phong trào Công Đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan vào đầu thập niên 80 (1981-1982). Dù các phong trào này bị đàn áp, nhưng ý thức dân chủ trong lòng người dân càng ngày càng bùng lên và lớn mạnh, để đến năm 1992, thì biến cố xảy ra với kết quả: liên bang Xô Viết hoàn toàn tan rã. Trung Hoa cũng vậy. Vụ Thiên An Môn với cuộc đàn áp dã man của chính quyền không làm nao núng tinh thần sinh viên và dân chúng. Ngược lại, ý thức tự do, dân chủ càng ngày càng lớn mạnh trong lòng người dân mà một cuộc nổi dậy lật đổ bạo quyền, hoặc một cuộc cải cách thay đổi ý thức hệ cùng guồng máy cai trị chỉ là kết quả tất nhiên trong tương quan nhân quả: "nước chảy đá mòn" mà thôi. Tây Tạng bị Trung Hoa thống trị trong mấy thập niên qua với mưu đồ tiêu diệt Phật giáo; nhưng chưa bao giờ người ta thấy Phật giáo Tây Tạng hưng thịnh trên thế giới như vậy. Đại Hàn, một nước bị hiểm họa Cộng sản và bị chia cắt như đất nước chúng ta trước 1975; nhưng với quyết tâm chống cộng và đấu tranh chống tập đoàn quân phiệt, Nam Hàn đã thành công trong việc dân chủ hóa đất nước. Nhà độc tài Suharto tháng 5 năm 1998 cũng đã bị dân chúng Indonesia lật đổ. Sadam Husseine, như đã nhắc đến ở trên, cũng bị Hoa Kỳ bắt tại Iraq và sắp ra tòa đền tội. Tình hình thế giới trong cái nhìn thoáng qua vừa rồi, đều mang một tính cách chung là: Cộng sản và độc tài, quân phiệt sớm muộn gì rồi cũng cáo chung. Ngược lại, tinh thần dân chủ, dù bị đàn áp, vẫn tiếp tục lớn mạnh. Tuy lớn chậm, nhưng chắc chắn. Đối với Việt Nam, sự thức tỉnh của một số cán bộ Cộng sản cùng sự tranh đấu của các nhà lãnh đạo Tôn giáo và các nhà trí thức trong việc bảo vệ nhân quyền, chống độc tài, độc đảng đã làm nẩy sinh tinh thần dân chủ trong lòng mọi người. Nền kinh tế của xã hội chủ nghĩa với các hình thức hợp tác xã lỗi thời, cùng sự kiện nhà nước quản lý doanh nghiệp đang dần dà chuyển mình sang kinh tế thị trường, cho thấy dấu hiệu của một sự thay đổi đang từ từ xảy ra. Cộng sản với thiên đường mù của thế giới đại đồng vì thế sẽ không còn tồn tại nữa. Làm sao tồn tại nỗi, khi mà nền kinh tế, cùng ý thức hệ của họ đang sáp lại gần với thế giới tự do và tư bản. Sự kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc mới đây của nhà cầm quyền Cộng sản, tuy nghịch lý và thiếu thành thật, nhưng cũng hé lộ dấu hiệu của ba chữ "kiến thái bình". Nghịch lý ở điểm thay vì họ là người phải hòa giải với chúng ta mới đúng; nhưng họ lại kêu gọi ngược lại, chúng ta phải hòa giải với họ, kèm theo mấy lời hăm he trừng phạt những Việt kiều phản động qua nghị quyết 36 vừa mới ban hành. Sự kêu gọi hòa hợp hòa giải này chỉ mang một chủ đích duy nhất là muốn chúng ta đừng chống họ nữa, để yên cho họ tiếp tục bóc lột và đày đọa dân lành còn kẹt lại trong nước. Rất tiếc, việc làm này, họ tưởng là khôn khéo, lại tạo nên dấu hiệu: "kiến thái bình". Tại sao như vậy? Cũng dể hiểu thôi! Mưu sâu thì họa thâm. Chính sự kêu gọi của họ, tuy không thực tâm, và chỉ muốn bày tỏ với thế giới thái độ yêu chuộng hòa bình giả tạo hầu thu hút đầu tư, vô tình tạo nên trong đầu óc dân chúng cùng cán bộ cộng sản một ước vọng sống chung hòa bình. Chính cái đòn hiểm độc này của họ trở lại hại họ một ngày không xa.

     Một năm Thân vừa qua mới manh nha lập thuyết: "bất chiến tự nhiên thành", phải chờ thêm năm Dậu nữa, để gà cất tiếng gáy ó o đánh thức toàn dân Việt Nam ở trong nước cũng như hải ngoại, thì ánh nắng hòa bình mới ló dạng. Kiến là thấy, nên thấy được những tia nắng hòa bình cũng đủ đảm bảo cho một ngày mai tươi sáng đích thực. Có lẽ phải thêm hai năm kế tiếp nữa là năm Tuất và Hợi đất nước mới hoàn toàn âu ca, thịnh vượng như hai câu sấm khác của Trạng Trình:

"Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày"

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
, SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #5 - 18. Oct 2007 , 09:01
 
     Cái khó khăn của sấm Trạng Trình hay các sấm ký, giáng bút khác mà tôi sắp trình bày là sự xác định thời gian. Ngài chỉ nói: "Thân, Dậu niên lai kiến thái bình", nhưng không nói rõ Thân Dậu nào. Nếu Ngài cộng thêm thiên Can vào, chẳng hạn như Thân, Dậu phải là Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Thân, Quý Dậu, hay Mậu Thân, Kỷ Dậu, v.v... thì dễ cho chúng ta xác định thời gian biết bao. Song làm như vậy ngoài việc lậu thiên cơ, còn dễ đánh tan niềm hy vọng của mọi người, vì nếu không ứng hợp cho cặp Thân, Dậu lần này, người ta làm sao còn tuổi sống để chờ tới 60 năm sau (Lục thập hoa giáp) chứ! Như năm nay là năm Ất Dậu, muốn có một năm Ất Dậu kế tiếp, chúng ta phải đợi tới 60 năm nữa, chứ 12 năm sau, Ất Dậu chỉ thành Đinh Dậu. Thiên Can thì có mười: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý; còn Địa chi có tới 12: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Cho nên thà không thêm thiên Can vào với địa chi vẫn hay hơn, vì nếu không ứng hợp với cặp Thân, Dậu kỳ này, chúng ta chỉ cần chờ 12 năm sau để suy nghiệm lại. Có lẽ vì biết cuộc sống ngắn ngủi rất hạn định của con người, cụ Trạng thường làm một lèo tới bảy năm như mấy câu sấm:

     "Long Hổ Xà đầu khởi chiến tranh
     Can qua tứ xứ khởi đao binh
     "Mã đề Dương cước anh hùng tận
     Thân Dậu niên lai kiến thái bình"

     hoặc 8 năm như bài sấm "Rồng nằm bể cạn" cũng của cụ:

     "Rồng nằm bể cạn dễ ai hay
     Rắn mới hai đầu khó chịu thay
     Ngựa đã gác yên không người cuỡi
     Dê không ăn lộc ngảnh về tây
     Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
     Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
     Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
     Ăn no ủn ỉn, lợn kêu ngày"

     Cụ làm vậy đặng chúng ta có hụt một chu kỳ thì chỉ bốn, năm năm sau là bắt đầu suy nghiệm trở lại, đặng hy vọng trở lại. Vì lý do khó xác định thời gian nên thường thường sự kiện xảy ra rồi, người ta mới nhận rõ. Cũng có khi câu sấm lại trùng với hai biến cố cách nhau 60 năm vì tính chất thường lập lại của chúng. Chẳng hạn như biến cố dùng máy bay giật sập hai tòa nhà chọc trời tại Nữu Ước ngày 11 tháng 9 năm 2001 xảy ra mới đây làm chấn động thế giới thì năm 1941, cách đây 60 năm, Mỹ cũng bị một trận tấn công khác bằng máy bay vào Trân Châu cảng do phi đội Thần Phong của Nhật thực hiện. Điểm giống nhau của hai biến cố này là:

     - Cuộc tấn công bằng máy bay
     - Các phi công đều quyết tử

     Một điều lạ lùng nữa là trận tấn công Trân châu cảng năm 1941 này có tên là Tora Tora và trận đánh cuối cùng coi như dữ dội nhất của Mỹ tại Afghanistan năm 2001 cũng có tên gần giống như vậy: Tora Bora, khác nhau chỉ có một chữ "B". Thiên tai, kinh tế cũng có khuynh hướng lập lại sau 60 năm. Chẳng hạn như nền kinh tế của Hoa Kỳ và các quốc gia trên thế giới trong tăm 1930 và 1990 có chung một đặc tính là suy thoái. Hoặc động đất lớn xảy ra tại Tân Cương năm 1906 thì năm 1966 lại xảy ra tại Hà Bắc. Tuy vậy, có khi biến cố lập lại, nhưng ý nghĩa hoặc đặc tính của biến cố lại khác nhau, chẳng hạn như Nga Sô, 60 năm trước, khi Cộng sản nắm chính quyền, sức mạnh của họ thật to lớn, đe dọa cả thế giới; nhưng 60 năm sau, Cộng sản Nga sô lại suy tàn. Hai biến cố này, nhìn vào đặc tính thì trái ngược nhau, nhưng nhìn vào tính chất biến đổi như sự biến đổi của Âm Dương trong kinh Dịch, thì giống nhau. Xem như vậy, lục thập hoa giáp (60 năm) mang một ý nghĩa thật đặc biệt trong sự lập lại của các biến cố. Từ đó suy ra mỗi 12 năm, hay một phần năm của lục thập hoa giáp cũng có nhiều biến đổi và trùng hợp hết sức quan trọng. Sự biến đổi và trùng hợp này thường ứng hợp với các câu sấm lưu truyền.

     Sấm ký thật linh thiêng, nhưng sở dĩ người ta chưa suy đoán kịp những diễn biến sắp xảy ra một cách chính xác, phần là vì chúng ta chưa có một cơ sở suy luận vững chắc nào được thiết lập, phần là vì ý nghĩa khá ẩn tàng, bí mật, đôi khi còn mang nhiều cách lý giải đối nghịch nhau. Chẳng hạn như câu: "Bát Kê thử ư tử địa" với hình cây kiếm chém đứt đầu tám con gà do cụ Trạng Trình ghi trên mộ bia dựng tại vùng Cổ Am gần từ đường họ Trần ở trang ấp vua phong cho Hưng Nhược Vương Trần Quốc Tảng. Nhân đi ngang vùng này và sau khi làm lễ trong nhà từ đường họ Trần, Trình quốc công đã dựng mộ bia và lưu lại câu sấm khó hiểu kia. "Bát Kê thử ư tử địa" có nghĩa là tám con gà chết tại chỗ này, cùng hình ảnh thanh kiếm chém đứt đầu tám con gà là một bí ẩn lớn cho mọi người trong làng. Không ai hiểu nỗi ý Ngài muốn nói gì. Mấy trăm năm sau, có một chuyện xảy ra, người ta mới suy nghiệm được ý của Ngài. Số là quan toàn quyền Pasquier, người Pháp, sang cai trị Đông dương, lúc ra về, máy bay chở ông bay ngang làng Cổ Am thì bị nạn. Dân làng chạy đến chỗ xảy ra tai nạn, lôi được quan toàn quyền Pasquier ra, đặt nằm trên ngôi mộ do ngài Trình Quốc Công dựng nên vì ngôi mộ ở sát ngay chỗ phi cơ rớt. Dân làng sở dĩ đặt quan toàn quyền trên ngôi mộ là vì chỉ nơi đó, đất khô ráo và bằng phẳng. Thoạt tiên, không ai biết người rớt máy bay là quan toàn quyền. Đến khi chính quyền địa phương tới nơi, cho biết, dân chúng mới vỡ lẽ, hiểu được cách chơi chữ của Trình Quốc công trong câu sấm của Ngài. Chữ Pasquier đọc âm theo tiếng Việt là Bát Kê. Dân Việt Nam thường gọi Pasquier là Bát Kê, nên câu sấm: "Bát Kê thử ư địa" không còn nghĩa: "tám con gà chết tại chỗ này" nữa, mà trở thành: "Bát Kê chết tại chỗ này", hay "Pasquier chết tại chỗ này". Thật là ảo diệu! Còn có hai câu sấm khác cũng của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, xác định thêm biến cố này. Đó là:

     "Giữa năm hai bảy mười ba
     Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây"

     Năm hai bảy mười ba là năm âm lịch nhuần hai tháng Bảy thành 13 tháng. Năm đó đúng là năm Pasquier bị chết. Còn câu thứ hai mô tả chính xác chuyện máy bay chở Pasquier, tức Bát-Kê, tức tám gà, bị bốc lửa lúc còn bay trên mây.

     Cái chết của Pasquier được Trình Quốc công tiên tri mấy trăm năm về trước đã là điều lạ lùng, mà nguyên nhân đưa đến cái chết của ông lại là điều khiến người ta vô cùng kinh dị. Trước khi bay về Pháp và bị tử nạn, toàn quyền Pasquier có ghé lại đền thờ Trấn Bắc đại tướng quân Hoài văn hầu Trần Quốc-Toản ở Cửa-ông, lấy trộm thanh gươm ở đó mang về. Thanh gươm này có tên là Dương-kiếm, cùng với Âm-kiếm thành một cặp tên là Âm-Dương song kiếm, do đức thánh Trần Hưng Đạo dùng quý kim đúc lúc chống giặc Mông-cổ. Tương truyền Âm-kiếm bị thượng tướng Trần Nguyên-Hãn đem trấn yểm long mạch của tổ tiên vua Lê, nên kiếm mất tích từ đó. Còn lại Dương-kiếm, Hưng Đạo Vương trao cho Hoài-văn hầu Trần Quốc-Toản và Hoài-văn hầu đã dùng kiếm đó giết chết thế tử Toa Đô trong trận Hàm-tử. Sau khi Hoài-văn hầu qui tiên, Dương-kiếm được đặt trên bàn thờ ngài tại Cửa-ông. Tương truyền Dương-kiếm rất linh thiêng, các danh tướng làm lễ mượn kiếm chống giặc đều thành công. Chẳng hạn như thượng tướng Trần Nguyên-Hãn đã mượn Dương-kiếm cắt đầu Liễu-Thăng trong trận Chi Lăng. Vua Quang Trung cũng dùng Dương-kiếm giết chết Sầm Nghi Đống và Hứa Thế-Hanh. Tướng Cờ đen Lưu-vĩnhthanks.gifhúc cũng mượn kiếm và nhờ đó lấy đầu đại úy Francis Garnier cùng đại tá Henri Rivière tại Cầu-giấy. Sau khi thành công, các danh tướng đều làm lễ trả kiếm lại đền thờ đàng hoàng nên không hề hấn gì. Quan toàn quyền, ỷ mình quyền thế nhất nước, đã ngang nhiên vào đền thờ chiếm đoạt thanh kiếm làm của riêng, khiến Hoài-văn Hầu hoặc quỷ thần bảo hộ kiếm giết chết. Dân Việt chúng ta, ở thời đó, ai cũng nghĩ vậy, nên càng kính sợ sự linh thiêng của Hoài văn-Hầu hơn. Từ đó người ta kéo về chiêm bái lễ lạy ngài rất đông. Theo Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ cho biết, sau khi toàn quyền Pasquier chết, kiếm báu vẫn được đưa về Pháp và lần lượt qua tay hơn chục người; nhưng người nào giữ kiếm cũng bị chết rất thảm khốc. Trần Đại Sỹ nghĩ rằng những người giử kiếm bị thảm tử như vậy có lẽ vì lời nguyền của Hoài văn-hầu Trần Quốc-Tuấn: "Kiếm này của giòng họ Đông-A, dùng để trấn quốc. Chỉ con cháu ta mới được giữ. Kẻ nào không phải con cháu ta, không dùng để tru diệt quốc tặc mà lưu giữ, thì sẽ tản hồn, hủy phách mà chết". Trần Đại Sỹ còn kể thêm một chuyện xảy ra dưới thời Đệ nhị Cộng hòa (1964-1973). Viên phi công Hoa-Kỳ bị bắn hạ sau khi oanh tạc Cửa-ông, gây hư hại đến 70%. Viên phi công này bị bắt vào tù và ở trong tù ông hóa điên, rồi chết. Sau 75, Cộng sản có đến phá khuấy đền, nhưng bị quỷ thần trừng phạt, đâm ra sợ, không dám đụng tới nữa. Sự linh thiêng của Dương-kiếm và đền thờ Cửa-ông cùng sự mầu nhiệm của câu sấm Trình Quốc-công để lại đã ghi chặt trong tâm tưởng những người con dân Việt yêu nước một niềm hãnh diện về tiền nhân, và một niềm tin vững chắc vào sự phò trợ của các ngài. Đất nước chúng ta tuy bị nhiểu nhương, khổ ách bởi thực dân Pháp và Cộng sản hơn hai thế kỷ nay vì ảnh hưởng của luật nhân quả trong việc cha ông chúng ta tiêu diệt Chiêm thành cùng Thủy Chân Lạp; song chúng ta vẫn tin chắc rằng một ngày rất gần đây, khi nhân quả đã trọn, đất nước sẽ hòa bình âu ca thực sự. Các sấm ký của Trình quốc công, của Nostradamus, và các bài giáng bút của Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ cùng công chúa Liễu Hạnh đều xác nhận điều này. Chỉ còn thời điểm là tùy thuộc vào sự suy luận thật sáng suốt của chúng ta vì dẫu sao thiên cơ cũng bất khả lậu và sấm ký chỉ nhằm trao cho người hữu duyên.

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #6 - 18. Oct 2007 , 09:03
 
Sấm ký có rất nhiều, không phải chỉ có từ thời Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) mà trước đó đã thấy xuất hiện. Chẳng hạn như trong tác phẩm Anh-hùng Tiêu Sơn, Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ có nhắc tới bài sấm-ký Cổ-pháp, dài mười câu, mỗi câu bốn chữ, được truyền tụng từ thời vua Lê Ngọa Triều (Lê Long Đỉnh) như sau:

     "Mộc căn diểu diểu,
     Mộc biểu thanh thanh.
     Hòa đao mộc lạc,
     Thập bát tử thành.
     Đông -a nhập địa,
     Dị mộc tái sinh.
     Chấn cung xuất nhật,
     Đoài cung ẩn tinh.
     Lục thất niên gian,
     Thiên hạ thái bình."

     Dịch nghĩa là:

     "Gốc cây kia đã cỗi
     Cành cây xanh xanh
     Cái đao bằng gỗ hòa rơi xuống
     Mười tám người thành công
     Đông-A vào đất
     Cây kỳ lạ sống lại
     Mặt Trời xuất từ phương Đông
     Phương Tây có ngôi sao ẩn
     Thời gian sáu bảy
     Toàn dân thái bình"

     Bài sấm-ký chỉ vỏn vẹn có bốn mươi chữ mà tiên đoán vận mệnh nước Việt Nam trong khoảng gần một ngàn năm. Tương truyền bài sấm-ký này được phát hiện trên một mảnh cây gạo ở châu Cổ-pháp khi cây này bị sét đánh nứt làm đôi. Bài sấm đã được các thiền sư Vạn Hạnh, Bố Đại, Sùng Phạm, và một thầy địa lý giải đoán rất chính xác về tình hình các triều đại Lê, Lý Trần. Các ngài chỉ kiến giải tới đó thôi, rồi dừng, cư sĩ Trần Đại Sỹ đã luận tiếp cho đến triều đại nhà Nguyễn mới hết bài sấm. Như vậy thời gian cả bài sấm là từ năm vua Lý Thái Tổ lên ngôi (1010)cho đến năm 1802, năm chúa Nguyễn Ánh tiêu diệt nhà Tây Sơn, lập quốc, lấy vương hiệu là Gia Long. Bài sấm được các thiền sư, thày địa lý và Trần Đại Sỹ luận đoán như vầy:

     - Câu 1: " Mộc căn diểu diểu" (Gốc cây kia đã cỗi)

     Lê là họ Lê mà cũng là cây Lê; nên cây ở đây ám chỉ cây Lê, tức họ Lê. Đã cỗi tức là đã già, sắp chết; nên câu này có nghĩa là nhà Lê sắp hết vận.

     - Câu 2: "Mộc biểu thanh thanh" (Cành cây xanh xanh)

     Gốc cây chỉ vua, nên cành cây chỉ bầy tôi. Cành cây xanh xanh có nghĩa là bầy tôi được vượng; nên khi nhà Lê hết vận, chiếc ngai vàng sẽ lọt vào bầy tôi.

     - Câu 3: "Hòa đao mộc lạc" (Cái đao bằng gỗ hòa rơi xuống)

     Câu này được giải nghĩa bằng cách chiết tự. Chữ "hòa", chữ "đao" và chữ "mộc" kết thành chữ "Lê"hoado nên nguyên câu ý nói nhà Lê đã đến hồi hết số.

     - Câu 4: "Thập bát tử thành" (Mười tám người thành công)

     Câu này cũng dùng chiết tự để hiểu. Chữ: "thập", chữ: "bát" và chữ: "tử" hợp lại thành chữ: "Lý ". Lý thành công có nghĩa là nhà Lê sụp thì nhà Lý lên thay. Rõ ràng theo lịch sử thì khi Lê Long Đỉnh băng hà, Lý Công-Uẩn, lúc đó đang giữ chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ (một bầy tôi của nhà Lê) lên thay.

     - Câu 5: " Đông -a nhập địa" (Đông-A vào đất, Đông-A đạt được nguyên vị)

     Vẫn theo cách chiết tự, chữ Đông và chữ A hợp lại thành chữ "Trần". Câu này có nghĩa là khi hết nhà Lý, nhà Trần sẽ lên thay.

     - Câu 6: "Dị mộc tái sinh" (Cây kỳ lạ sống lại)

     Như bình giải ở câu đầu, "cây" ám chỉ nhà Lê, nên cây kỳ lạ sống lại có nghĩa là nhà hậu Lê sẽ thay nhà Trần

     - Câu 7: "Chấn cung xuất nhật" (Mặt Trời xuất từ phương Đông)

     Theo Tiên thiên Bát quái do Phục Hy đề ra thì "Ly" ở phương Đông, nhưng ở Hậu thiên Bát quái do Văn Vương sắp lại thì "Chấn" nằm vào chính Đông. Do đó câu này có nghĩa là nhà Mạc sẽ lên thay nhà hậu Lê.

     - Câu 8: "Đoài cung ẩn tinh" (Phương Tây có ngôi sao ẩn)

     Cũng Theo Tiên thiên Bát quái thì "Khảm" ở phương Tây, nhưng ở Hậu thiên Bát quái thì "Đoài" nằm vào chính Tây. Ý nói nhà Tây-sơn lại lên.

     - Câu 9: "Lục thất niên gian" (Thời gian sáu bảy)

     Sáu cọng với Bảy thành mười ba. Tính theo thời gian Nguyễn Ánh xuất quân vào năm 1789 cho tới năm Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây-sơn, lên ngôi vua (1802) là đúng 13 năm. Câu này ý nói sau 13 năm chiến đấu gian khổ, Nguyễn Ánh đã giành được giang sơn.

     - Câu 10: "Thiên hạ thái bình" (Toàn dân thái bình)

     Nguyễn Ánh lên ngôi vua rồi thì thiên hạ thái bình.

     Như đã nói ở trên, ba vị thiền sư: Vạn Hạnh, Bố Đại, Sùng Phạm chỉ đoán tới lúc nhà Lê tàn, nhà Lý lên thay, và thay bởi bầy tôi, tức bốn câu đầu. Sau đó cuối đời nhà Lý có thêm một thầy địa lý đoán được nhà Lý suy vong và nhà Trần lấy thiên hạ, tức câu sấm thứ 5. Năm câu còn lại, có lẽ do chính Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ lý giải. Mặc dầu sự lý giải của cư sĩ Trần Đại Sỹ, người học rộng hiểu nhiều, rất nổi tiếng về phương diện này, rất hợp với các thời đại xảy ra trong lịch sử, song tôi cũng có một vài chỗ chưa rõ, muốn góp ý thêm hầu được sự chỉ dạy của các bậc cao nhân. Câu 6: "Dị mộc tái sinh" (Cây kỳ lạ sống lại) được cư sĩ dựa theo chữ: " Cây" ám chỉ nhà Lê và nghĩa của sự tái sinh mà đoán là nhà Trần suy vi, được thay thế bởi nhà hậu Lê. Theo lịch sử thì Hồ Quý Ly giết vua Thuận Tông rồi xưng vương năm 1400. Cuối năm, Hồ Quý Ly truyền ngôi lại cho con là Hồ Hán Thương rồi cả hai cha con chống giặc Minh cho đến năm 1407 thì bị bắt đưa về Tàu sống cuộc đời lưu đày khổ nhục bên đó. Nhà Minh đặt ách thống trị lên nước ta chưa được bao lâu thì bị hậu duệ nhà Trần khởi binh đánh lại. Vì thế yếu và thiếu tinh thần đoàn kết, công cuộc khởi nghĩa sau đó bị dẹp tan vào năm 1413. Nước ta bị Tàu tiếp tục đô hộ cho đến năm 1418, Lê Lợi, một thường dân, với sự trợ giúp của Nguyễn Trãi phất cờ khởi nghĩa và mãi đến 10 năm sau Lê Lợi mới đuổi được giặc Minh về Tàu, lên ngôi vua năm 1428, lấy vương hiệu là Bắc Bình Vương và đặt quốc hiệu là Đại Việt. Như vậy, theo sự giải đoán của Trần Đại Sỹ thì sấm ký bỏ qua giai đoạn nhà Trần bị Hồ Quý Ly tiếm ngôi và sự tan rả của nhà hậu Trần trong công cuộc khởi nghĩa chống quân Minh sau đó, để chỉ thẳng nhà hậu Lê. Điều này nghe cũng tương đối hợp lý vì sấm ký chỉ có bốn chữ, không thể mô tả hết được. Tuy nhiên với câu 7: "Chấn cung xuất nhật" (Mặt Trời xuất từ phương Đông) mà suy giải là nhà Mạc lên thay nhà Lê, thì tôi không dám nghi vấn, nhưng còn chưa rõ. "Chấn" là một quẻ trong tám quẻ (bát quái) mà theo Hậu thiên bát quái, trấn hưóng Đông. Chấn chủ động, có nghĩa là sấm sét, còn "nhật" là mặt trời, có thể tạm hiểu như Trời, như quẻ "Càn", mà sự kết hợp của "Càn" và "Chấn" theo kinh Dịch, tạo nên quẻ "Thiên Lôi Vô Vọng". Theo quẻ này, thì nội quái là Chấn, nghĩa là hành động, còn ngoại quái là Càn (trời), nghĩa là hành động mà hợp với lẽ Trời thì không càn bậy, và không càn bậy thì hanh thông, có lợi. Còn hành động mà không hợp với chính đạo thì có hại. Nếu xem Mạc Đăng Dung là người cướp ngôi nhà Lê, dâng đất cho địch, và cởi trần tự trói đầu hàng địch theo cách nhìn của sử gia Trần Trọng Kim, thì có thể coi như nghịch với chính đạo. Nếu nhân cách của Mạc Đăng Dung đúng như vậy thì rất hợp với quẻ "Thiên Lôi Vô Vọng"hoado song các nhà khảo cứu như Lê Văn Hòe, và sử gia hiện đại như Phạm Văn Sơn, tác giả Việt sử Toàn thư, đã chứng minh ngược lại, xem Mạc Đăng Dung như một vị anh hùng, không có hành động đê hèn như cụ Trần Trọng Kim mô tả trong bộ sử: "Việt Nam Sử lược" của cụ. Nếu thế thì nhà Mạc phải lẫy lừng chứ có lý đâu lại đầu hàng nhà Minh như vậy. Tóm lại, theo tôi, câu 7 với ý nghĩa: "Mặt trời xuất từ phương Đông" cũng vẫn chưa đủ yếu tố kết luận đó là nhà Mạc, dù sự kết luận này không sai với biến cố lịch sử đã qua. Câu 8: "Đoài cung ẩn tinh" (Phương Tây có ngôi sao ẩn) cũng vậy. Chỉ với ý nghĩa của quẻ "Đoài" trấn phương Tây, chủ tịnh, mà lý giải là nhà Tây sơn dấy lên, quả thật cũng chưa thuyết phục được tôi về ý nghĩa của câu sấm đó. Lý do tôi chưa hoàn toàn hiểu thấu cách lý giải của Trần Đại Sỹ trong hai câu 7 và 8 nêu trên là vì sự kiện này. Có một số nhà sưu tầm sấm ký liệt hai câu:

     "Chấn cung xuất Nhật
     Đoài cung vẫn tinh"

     Chứ không phải: "Đoài cung ẩn tinh" là của cụ Trạng Trình. "Vẫn" có nghĩa là sa xuống, còn "Ẩn" có nghĩa là dấu kín, không xuất hiện. Người ta luận giải hai câu này dựa theo ý nghĩa của cung Chấn trong kinh Dịch chỉ về người trên, để nói Nguyễn Nhạc, anh Nguyễn Huệ dấy nghiệp. Còn câu kế: "Đoài cung vẫn tinh" ám chỉ nhà Tây sơn xuất hiện như cách lý giải của Trần Đại Sỹ. Cách giải này nghe hợp lý hơn. Cả hai câu chỉ nhằm nói về nhà Tây Sơn, chứ không chen nhà Mạc trong đó. Ngoài ra, sấm Trạng Trình ở đoạn khác cũng có mấy câu như sau:

     "Bao giờ Trúc mọc qua sông
     Mặt Trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
     Đoài cung một sớm đổi thay
     Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn
     Đầu cha lộn xuống thân con
     Mười bốn năm tròn hết số thì thôi"

     Mấy câu này có nhắc tới Đoài cung, Chấn cung và Mặt Trời đỏ hồng non Tây, dược lý giải đại khái như vầy: Câu đầu ứng với việc Tôn sĩ Nghị khi đến Thăng Long đã cho quân sĩ lập một chiếc cầu nối bằng tre ngang sông Hồng. Câu 2 ứng với việc Tây Sơn Nguyễn Huệ lên làm vua sau khi dẹp được quân Thanh. Câu 3 ứng với việc vua Quang Trung mất sớm, sau hai năm làm vua. Câu 4 ứng với việc Nguyễn Nhạc thổ huyết mà thác\ Cung Đoài theo kinh Dịch chỉ kẻ dưới, nên ứng cho Nguyễn Huệ, vai em; còn cung Chấn chỉ kẻ trên, ứng cho Nguyễn nhạc, vai anh, thật hợp với Chấn cung và Đoài cung của hai câu sấm Cổ Pháp. Câu thứ 5 chỉ tên vua Quang Trung và Cảnh Thịnh. Chiết tự chữ "Quang" có chữ "Tiều" ở trên và chữ "Cảnh" có chữ Tiều" ở dưới, nên sấm mới nói: đầu cha lộn xuống chân con. Còn câu 6 ứng với cơ đồ nhà Tây Sơn chỉ kéo dài được 14 năm. Tóm lại, hai câu 7 và 8 của bài sấm Cổ Pháp, hoặc bài sấm của cụ Trạng Trình với chữ "vẫn" thay cho chữ "ẩn", ám chỉ Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, nghe hợp lý với tôi hơn là nhà Mạc và nhà Tây Sơn theo như cách lý giải của Trần Đại Sỹ.

     Còn câu 9: "Lục thất niên gian" (Thời gian sáu bảy), dùng cách cọng 6 với 7 lại thành 13 mà suy luận rằng Nguyễn Ánh sau 13 năm khởi binh đánh Tây sơn thành công và mang lại thái bình cho Việt Nam như ý nghĩa của câu 10: "Thiên hạ thái bình" (Toàn dân thái bình) cũng chưa rõ ràng lắm. Tuy Nguyễn Ánh cất quân đánh nhà Tây Sơn từ năm 1789 cho mãi đến năm 1802 mới hoàn toàn chiến thắng, vị chi là 13 năm; song nếu tính lúc Nguyễn Ánh từ Xiêm La về nước để khởi sự đánh Tây Sơn, thì thời gian lui lại một năm, tức năm 1788, nên con số 13 trở thành 14, không còn ứng với: "Lục thất niên gian" nữa. Theo lịch sử, quả đúng là sau nhà Lê, Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, đưa đến trình trạng Trịnh Nguyễn phân tranh, kéo theo sự xuất hiện của nhà Tây sơn và cuối cùng là Nguyễn Ánh sau 13, 14 năm chiến đấu diệt được Tây sơn để lấy lại thiên hạ. Cách lý giải của Trần Đại Sỹ về câu 9 dựa theo lịch sử có thể chấp nhận được, song còn việc "Thiên hạ thái bình" sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi và suốt thời kỳ trị vì của ông, e rằng không xác đáng. Nguyễn Ánh nhờ Pháp giúp, nhưng dân chúng lại bị khổ vì bọn thực dân này tới mấy trăm năm, tiếp theo là ma Cộng sản, chứ có thấy thái bình chi đâu. Cho nên, theo cách nghĩ thô thiễn của tôi, hai câu sấm này phải ứng vào một sự việc nào khác, hay nói chung 2 câu sấm, từ câu 9 tới câu 10 ám chỉ những biến cố nào đó mà chúng ta chưa lý giải được, nên chi ba vị thiền sư cùng nhà địa lý chỉ giải tới câu 5 mà thôi. Còn câu 7 và 8 đã có cụ Trạng Trình nhuận bút lại trong sấm truyền của cụ.

     Trở lại hai câu sấm Trạng Trình:

     "Mã đề Dương cước anh hùng tận
     Thân Dận niên lai kiến thái bình"

     Chúng ta thử diễn giải xem năm Dậu này có đúng là năm Ất Dậu (2005 Dương lịch) hay không? Chữ "niên lai", theo cách suy luận của tác giả Xuân Phượng trong bài viết dự thi: "Nước Mỹ và sấm Trạng Trình", còn có nghĩa là "thiên niên kỷ", cho nên năm Thân và năm Dậu trong câu sấm này được xác định là năm Giáp Thân (đã qua) và Ất Dậu (2005 Dương lịch) là hai năm của đầu niên kỷ. Để củng cố thêm cho sự suy đoán của mình, Xuân Phượng còn áp dụng lối chơi chử của cụ Trạng Trình trong chuyện quan toàn quyền Pasquier tử nạn máy bay vào câu "Mã đề Dương cước anh hùng tận" nữa. Theo tác giả, ngoài ý nghĩa bắt đầu năm Ngọ cho tới cuối năm Mùi, chữ "Anh hùng tận" còn đọc âm nghe như "Afghanistan". Còn chữ "niên lai" và "Mã đề" đọc nghe như "Millenium". Điều này cho phép tác giả kết luận các biến cố xảy ra ở hai câu sấm nói trên rơi vào thời điểm bắt đầu thiên niên kỷ, nên Thân Dậu nhất định là hai năm Giáp Thân (2004 Dương lịch) và Ất Dậu (2005 Dương lịch). Theo cái nhìn của cá nhân tôi qua sự nhận định về tình hình thế giới và Việt Nam như đã trình bày, hai năm Thân Dậu có thể đúng như sự xác nhận của tác giả. Thái bình ở đây vừa có thể là thái bình thế giới, mà cũng vừa ám chỉ hòa bình tại Việt Nam. Thái bình ở thế giới chỉ có thể ló dạng, khi nạn khủng bố và hiểm họa chiến tranh với khối Hồi giáo không còn nữa. Hòa bình Việt Nam chỉ có thể manh nha khi Cộng sản Việt Nam biến thể hoàn toàn. Muốn hoàn toàn thái bình có lẽ hết năm Dậu, chúng ta còn phải đợi thêm hai năm nữa là năm Bính Tuất (2006 Dương lịch) và Đinh Hợi (2007 Dương lịch) như hai câu sấm cũ cụ Trạng Trình đã dẫn ở trên:

     "Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
     Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày"

     Hai câu này đi sau hai câu:

     "Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
     Gà kia vỗ cánh chập chùng bay"

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #7 - 18. Oct 2007 , 09:09
 
mà một số các nhà giải đoán sấm cho là năm Mậu Thân (1968) và Kỷ Dậu (1969). Nếu đúng như vậy thì năm Canh Tuất (1970) phải có thánh chúa xuất hiện; nhưng nhìn lại lịch sử Việt Nam đã qua, nước ta chưa có thánh chúa nào trong năm này, hoặc có, nhưng chỉ mới chào đời. Vì sấm là thiên cơ (hay nói đúng hơn là nói về thiên cơ), không có một qui lệ nhất định, thành ý và từ cho một biến cố nào đó có thể lập lại như những bài học lịch sử.   Thành thử bốn câu:

     "Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
     Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
     Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
     Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày"

     của bài sấm "Rồng nằm bể cạn" biết đâu lại ám chỉ cho bốn năm Thân, Dậu, Tuất, Hợi của thiên niên kỷ này không chừng. Nếu đúng thế thì "Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu" có thể ứng hợp với chiến tranh Iraq và tai nạn sóng thần (Tsunami) vừa mới xảy ra vào ngày 26 tháng 12 năm 2004.

     Trước khi chấm dứt bài khảo luận này, tôi muốn nhắc tới bài "Giáng bút Kim Ô" của Bồ Tác Tuệ Trung vào năm 1944 vì có một số tiên tri liên quan đến thời điểm bây giờ. Bài giáng bút này như vầy:

     "Như thị ngã văn:
     Kim ô lạc địa
     Tinh đáo thanh thanh
     Xích xích kim tinh
     Đế hệ ngũ thế
     Nhị quỉ tranh phong
     Mộc mã thung dung
     Hoàng long dĩ trảm
     Hầu ngộ thanh dương
     Hắc hắc thiết vi
     Bách tính nam qui
     La sát nhập địa
     Lục trúc cao phi
     Thạc thử ký tận
     Chúng sinh đa nạn
     Nhị thập nhật minh
     Thố ngộ thanh long
     Kê Khuyển ngộ xà
     Địa Tạng tru ma
     Bách tính tôn phục
     Tứ phương qui gia

     Dịch:

     (Như ta nghe rằng
     Quạ vàng rơi xuống
     Sao đến xanh xanh
     Đỏ đỏ sao vàng
     Đế hệ năm đời
     Hai quỉ giành thắng
     Ngựa gỗ thong dong
     Rồng vàng bị chém
     Khỉ gặp dê xanh
     Đen đen sắt vây
     Trăm họ về nam
     La sát vô nước
     Trúc xanh bay cao
     Chuột lớn tạm hết
     Vạn vật nhiều nạn
     Ngày thứ hai mươi
     Thỏ gặp rồng xanh
     Gà chó gặp Rắn
     Địa Tạng diệt ma
     Trăm họ quí phục
     Bốn phương về nhà

     Theo sự diễn đoán của một số đông nhân sĩ, ý nghĩa và sự ứng hợp được ghi nhận như sau:

     - Quạ vàng rơi xuống: Ý nói quân Nhật bại trận và rút khỏi Việt Nam
     - Sao đến xanh xanh: Ý nói Mỹ đến với cờ sao màu xanh.
     - Đỏ đỏ sao vàng: Ý nói sự thắng thế của cờ đỏ sao vàng, tức Cộng sản
     - Đế hệ năm đời: Ý nói triều Nguyễn chấm dứt ở đời thứ năm là Bảo Đại, tức Vĩnh Thụy.
     - Hai quỉ giành thắng: Ý nói Cộng sản và Pháp tranh giành Việt Nam
     - Ngựa gỗ thong dong: Ý nói chỉ năm Giáp Ngọ: 1954
     - Rồng vàng bị chém: Ý nói nước Việt Nam bị chia đôi bởi hiệp định Geneva
     - Khỉ gặp dê xanh: Ý nói ngày 20 tháng 7 năm 1954: Hiệp định Geneva được ký.
     - Đen đen sắt vây: Ý nói Cộng sản cai trị bạo tàn
     - Trăm họ về nam: Ý nói Di cư vào Nam
     - La sát vô nước: Ý nói Liên sô vào miền Bắc
     - Trúc xanh bay cao: Ý nói ông Ngô Đình Diệm chấp chánh, vì Trúc là dấu hiệu của ông.
     - Chuột lớn tạm hết: Ý nói tham nhủng chấm dứt
     - Vạn vật nhiều nạn: Ý nói vạn vật lầm than
     - Ngày thứ hai mươi: Ý nói ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng ta mất nưóc
     - Thỏ gặp rồng xanh: Ý nói ngày 30 tháng 4 tức 20 tháng 3 Âm lịch năm Ất mão. Tháng 3 là rồng, còn năm Mão là Thỏ.
     - Gà chó gặp Rắn: Ý nói năm 2001, 2005, 2006
     - Địa Tạng diệt ma: Ý nói Địa Tạng Bồ Tát diệt ma cộng sản
     - Trăm họ quí phục: Ý nói bá tánh tuân phục
     - Bốn phương về nhà: Ý nói người Việt hồi hương

     Qua bài Giáng Bút này, tôi đặc biệt để ý đến bốn câu cuối cùng. Trong bốn câu này, thì câu thứ nhất xác định thời điểm của biến cố, câu thứ hai chỉ nhân vật chánh của biến cố, và hai câu cuối cùng nói lên kết quả của biến cố. Cũng như cụ Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm, thời điểm Bồ Tát Tuệ Trung nhắc tới cũng không có thiên can đi cùng. Thời điểm này theo tác giả Nam Thiên trong tác phẩm: "Sấm ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025", là năm 2001 (Tân Tỵ), 2005 (Ất Dậu), 2006 (Bính Tuất). Rồi ông dựa thêm vào ba câu cuối của bài sấm Non Đoài:

     "Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
     Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
     Tìm về quê cũ bắt ngựa tàu"

     trong đó năm Nhâm Ngọ (2002), đoán là năm việt kiều thong thả thoải mái trở về lại Việt Nam, để xác định năm 2001 (Tân Tỵ) là năm Địa Tạng tru ma. Khi đã xác định Rắn là năm Tân Tỵ, tác giả Nam Thiên liền dùng "Gà" và "Chó" trong câu sấm để suy diễn ra ngày tháng của năm Tân Tỵ. Nếu Kê chỉ tháng thì là tháng 8 âm lịch, còn Khuyển chỉ tháng thì là tháng 9 âm lịch. Trong tháng Kê ta có hai ngày Khuyển là ngày 11 và 23; còn trong tháng Khuyển, ta có hai ngày Kê là ngày 10 và 22. Nhìn lại biến cố đã qua trong năm 2001 và 2002, chúng ta thấy sau vụ hai tòa nhà chọc trời ở Nữu ước bị máy bay khủng bố làm sập ngày 11 tháng 9 năm 2001, Hoa Kỳ đã mở rộng chiến tranh chống khủng bố trên khắp thế giới mà quốc gia đầu tiên là Afghanistan. Việt Nam vào thời điểm đó chỉ có sự kiện nhà cầm quyền tiếp tục chính sách đàn áp tôn giáo và chà đạp nhân quyền, chứ chẳng có biến cố quan trọng nào khác, khả dĩ ứng nghiệm với câu sấm: "Địa Tạng tru ma". Nếu ma đây là bọn khủng bố, thì người tru diệt họ là Hoa Kỳ, là Tổng thống Bush, không phải là ngài Địa Tạng. Cho nên, câu: "Gà chó gặp Rắn", theo tôi, có thể có nghĩa là sau hai năm Gà (Dậu, 2005 Dương lịch), Chó (Tuất 2006 Dương lịch), Việt Nam sẽ hết nạn Cộng sản.    Công cuộc kiến thiết đất nước từ đó bắt đầu và kéo dài cho đến năm Rắn (Tỵ 2013 Dương lịch) thì hoàn mãn. Lúc đó Việt Nam vang danh bốn bể và nhân tài khắp nơi lủ lượt kéo về, ứng với hai câu:

     "Trăm họ quí phục
     Bốn phương về nhà"

     Cách suy diễn này của tôi có lẽ hợp với lối suy diễn khác của tác giả Nam Thiên trong bài Sấm Non Đoài của cụ Trạng Trình:

     "Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
     Có một đoàn xà đánh lộn nhau.
     Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng,
     Lợn kia làm quái phải sai đầu.
     Chuột nọ lăm le mong cắn tổ,
     Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu.
     Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
     Tìm về quê cũ bắt ngựa tàu"

     Theo lối giải đoán bài sấm này thì tác giả Nam Thiên cho rằng câu: "Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu" ứng hợp với năm 2002, và vào thời điểm này dân Việt tị nạn cộng sản sẽ thong thả thoải mái trở lại quê hương. Còn "Hùm" trong câu: "Hùm ở trên rừng gầm mới dậy", tác giả Nam Thiên suy đoán là năm Canh Dần 2010, còn "ngựa" trong câu: "Tìm về quê cũ bắt ngựa tàu" là năm Giáp Ngọ 2014. Chữ "tàu" ở trong câu: "Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu" là tàu ngựa, chuồng ngựa; còn "tàu" trong câu: " Tìm về quê cũ bắt ngựa tàu" là Trung cộng. Vào thời điểm đó, tức khoảng năm 2014, chẳng những Việt Nam vang danh bốn biển mà người Việt khắp nơi còn trở về định cư, và bắt Trung cộng phải trả lại những phần đất và lãnh hải Cộng sản Bắc việt đã khiếp nhược dâng cho chúng. Đó là ý nghĩa của câu "bắt ngựa tàu". Bọn Trung cộng tuy đã được nhà nước Cộng sản Việt Nam ký hiệp định: Vịnh Bắc Bộ dâng lãnh hải cho họ với chiêu bài hợp tác đánh cá để che mắt nhân dân, vẫn chưa vừa lòng tham và ác tâm. Ngày 8 tháng 1 năm 2005 vừa qua, tàu Trung cộng đã xả súng bắn chết 9 ngư dân, làm bị thương 7, và bắt giữ 8 người, khi các ngư dân đang đánh cá trong lãnh hải của mình. Đã thế Trung cộng còn coi thường quốc tế công pháp, lật lọng vu cáo các ngư dân Việt Nam là cướp biển nữa. Sự kiện nói trên đã hun đúc trong lòng người dân Việt Nam một mối hận to lớn, và khi có cơ hội, họ sẽ đoàn kết bắt ngựa Tàu. Biến cố này chắc chắn sẽ xảy ra trong năm 2014, nếu Ngựa đây ám chỉ đúng năm Giáp Ngọ, 2014 Dương lịch.

     Như vậy, theo cách suy diễn của tôi dựa theo bài Giáng bút Kim Ô của Tuệ Trung Thượng Sỹ thì năm Quý Tỵ 2013 Việt Nam sẽ vang danh bốn bể, còn theo lối suy diễn của tác giả Nam Thiên trong bài sấm Non Đoài của cụ Trạng Trình thì năm đó là năm Giáp Ngọ 2014, khác nhau một năm. Tuy nhiên, như chúng ta biết, ở các câu sấm và giáng bút, các Ngài thường cho hai năm đi chung với nhau, chẳng hạn như: "Mã đề, Dương cước anh hùng tận", "Thân Dậu niên lai kiến Thái bình", "Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa, ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày", v.v.. Như vậy, thời gian anh hùng tận phải kéo dài hai năm (Ngọ Mùi), thời gian kiến thái bình cũng kéo dài hai năm (Thân. Dậu), và thời gian hòa bình thịnh vượng cũng xảy ra trong hai năm (Tuất, Hợi). Cho nên thời gian Việt Nam hoàn tất công cuộc kiến tạo đất nước và vang danh bốn bể cũng sẽ xảy ra trong hai năm (Tỵ, Ngọ). Tuy nói kéo dài trong hai năm, nhưng biết đâu nó cũng mang ý nghĩa là biến cố sẽ xảy ra trong một hoặc hai năm. Thành thử 2013 hay 2014 đều đúng cả. Tùy duyên, thời điểm có thể thay đổi đôi chút, và điều này không sai với thuyết: Nghiệp quả (Karma) của đạo Phật. Mỗi chúng sinh đều mang nghiệp, nên một quốc gia, hay một thế giới đều có nghiệp riêng. Sấm là cái nhìn thấu đáo được nghiệp, và vì nghiệp thường chịu ảnh hưởng bởi duyên, nên thời gian hoặc chi tiết của sự việc có thể sai lệch đi một chút, là chuyện bình thường. Chỉ có điều tôi còn phâ n vân chưa đoán đích xác được tại sao Bồ Tát Tuệ Trung lại gọi đích danh Bồ Tát Địa Tạng làm cái công việc diệt trừ ma Cộng sản qua câu: "Địa Tạng tru ma". Hạnh nguyện của Bồ Tát Địa Tạng là vào tận địa ngục để cứu hết tất cả chúng sanh. Nếu còn một chúng sanh nào bị đau khổ trong địa ngục, Ngài nhất định sẽ không thành Phật. Như vậy bảo Ngài diệt ma thì thật không phù hợp với lòng từ bi rộng lớn của Ngài, ngoại trừ ma đây là ma chướng, là vô minh. Muốn hết khổ đau người ta phải chấm dứt vô minh, nên ý nghĩa "diệt ma" ở đây là chuyển hóa người Cộng sản, đưa họ ra khỏi địa ngục trần gian mà họ đang bơi trong đó, hơn là tiêu diệt ho. Tiêu diệt chủ thuyết họ đang tôn thờ thì đúng hơn. Các vị tu sĩ Phật giáo đang còn ở lại trong nước tranh đấu cho nhân quyền, cho tự do tôn giáo cũng giống như Địa Tạng vương Bồ Tát vào địa ngục cứu vớt chúng sanh. Việt Nam dưới ách thống trị của Cộng sản là một thứ địa ngục, nên việc ở lại Việt Nam để đấu tranh tức là vào địa ngục. Theo tôi nghĩ, đó là lý do tại sao Bồ Tát Tuệ Trung ví các ngài tu sĩ Phật giáo như Địa Tạng vương Bồ Tát. Nhìn vào công cuộc tranh đấu chống bạo quyền Cộng sản hiên nay của quý Tăng ni thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tiêu biểu là Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang, Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Quảng Độ, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Tuệ Sĩ, v.v..., chúng ta không thể nào phủ nhận câu: "Địa Tạng tru ma" ám chỉ các Ngài. Nếu đúng như thế, chủ nghĩa Cộng sản sẽ tàn rụi không lâu và năm Ất Dậu này sẽ chớm thêm dấu hiệu: "Thân Dậu niên lai kiến thái bình".

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #8 - 23. Dec 2009 , 07:23
 
Kính thưa qúy Thầy Cô , Qúy Anh Chị  , trên diễn đàn cuả trường Trung học Lê Văn Duyệt ,  , Sở dĩ từ bấy lâu nay loạt bài viết về đề tài Sấm ký, Phong thuỷ , Kinh Dịch và vận mệnh đạt nước Việt nam bị gián đoạn là vì người viết bị bận rộn đa đoan với việc nhà việc nước , chuyện sinh hoạt cùng với cộng đồng , nên tạm đành gát lại một thời gian ,  mà không có lời cáo lổi  , Nay thì công việc đã tương đối tạm ổn , bản thân có phần thảnh thơi , nên xin đước tiếp tục ; đưa bài viết lên diễn đàn , những câu sấm mà chúng ta đồn đải trong thời gian gần đây , như câu : chừng nào đá nổi lông chìm , đồn khô hồ cạn buá liềm ra tro , Có nhiều người đã diễn dịch bậy bạ cốt để cho vui , thực là việc không nên  làm , phần nhiều những lời luận giãi sấm ký không đúng , vì thiếu chính xác, Như Lý thuyết kinh dịch luôn luôn coi trong sự chính xác , vì ngày xưa , tiền nhân cuả chúng ta đã biết áp dụng lý thuyết kinh dịch vào việc trị quốc , Sấm ký củng thế, không thể nói chung chung , rồi đúng hay sai thì củng không sao , nói như thế quả là xem thường người khác , Có điều phần nhiều trong chúng ta đều thiếu kiến thức căn bản về lý thuyết Kinh Dịch , nên chúng ta không thể hiểu được Dịch , mà không hiểu được Dịch thì không thể hiểu được Sấm Ký ,  , nen chung ta khong hieu dich , Dịch ở đạy chính là lý thuyết Kinh Dịch , khi giải nghiả câu thơ trên , chúng ta thấy  , câu đầu : Chừng nào , có nghiả là chỉ về thời gian , giai đoạn  đá nổi , lông chìm ; đá là vật có tỷ trọng nặng hơn nước , vậy làm thế nào đá lại nổi , lông là vật nhẹ tại sao lại chìm ? chúng ta nên hiểu như thế nầy , khi nào nước sông cạn sẻ lòi ra sỏi đá ở đáy sông , ( dưới lòng sông thường có sẳn sỏi đá, )  khi mà gìong sông khô kiêt , thì sẻ lòi ra sỏi đá, , Lông chìm , thì củng nên hiểu như thế, , Gìong sông thương có nước , dù thuỷ triều lên xuống ,  , thi luc nao con song cung phai , vậy mà giòng sông kho cạn như con sông Hồng ở bắc phần Việt Nam , Sau khi trung hoa làm các thuỷ đập trên thượng nguồn sông Mékong ( Cưũ Long )  đương nhiên hạ nguồn sông sẻ bị thiếu nước ,  Sông Cưũ Long và hệ thốn sông ngòi ở Việt Nam bị ảnh hửong nặng nề , Sông Hồn có ảnh hường to lớn đói với Long mạch cuả thủ đô Hà Nội, Các long mạc như các đường động mạch dẩn máu lưu thông  trong cơ thể , hay đất nước , nay gìòng nước , nay gìong ước khô cạn , mạch máu không còn dẩn máu nưả , thì cơ thể khô kiệt , cái chết sẻ đến trong ngày giờ mà thôi , Cái chết đây chính là cái chết cuả thể chế chính trị  ,cộng sãn , Phần nầy xin dành cho quý vị bàn luận cho vui . 
Lam Sơn họ lê
Back to top
« Last Edit: 01. Sep 2010 , 07:32 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #9 - 13. Aug 2010 , 11:05
 
                                                         SẤM TRẠNG TRÌNH
. LỜI NÓI ĐẦU
-- -- -- ----

Vì sao có quyển sấm nầy ra đời ? - Không dám vọng ngữ , quyển sấm nầy cần phải ra đời vì nó quý báu bằng tất cả kho tàng của một nước Đại Việt và hơn nữa, đã đến giai đoạn cần thiết của thời cuộc hiện tại mà lời sấm đã ghi đúng đắn từng li từng tí mỗi một cuộc biến cố xảy ra trong nước.

Bắt đầu từ Cổ Am bị tàn phá cho đến ngày lịch sử cách mạng tháng 8, kế đến giai đoạn Hoàng Đế Bảo Đại về nước, mỗi mỗi đều nhốt tất cả trong 487 câu thơ mà Đức Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một bầu tâm sự đầy nhiệt huyết nhả ngọc phun châu cho vạn cổ anh hùng suy nghiệm.

Hởi các chí sĩ anh hùng trong thiên hạ ! Chớ nên quá ư căn cứ vào khoa học mà chê những truyện sấm giảng là hoang đường, vì có những sấm giảng và sấm giảng.Hoang đường là lời nói vu vơ, ảo mộng không biết bao giờ xuất hiện như lời đã nói. Còn quyển sấm nầy viết từ 400 năm nay mà mỗi mỗi đều ứng nghiệm ngoài đời thực tế cho đến những cái tên riêng của những người chủ trương trong mấy phong trào quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều ứng nghiệm ghi rõ .

Nó là môn khoa học huyền bí vì Trạng chuyên môn lý số nhờ ở bộ " Thái Ất Thần Kinh " mà ghi chép ra chứ nó đâu phải ngất ngưởng như bóng với đồng. Nếu không phải khoa học, sao cụ lại được tặng câu " Annam lý học hữu học Trình truyền " của Tàu là một nước bao giờ cũng tự hào rằng mình cao hơn hết về khoa lý số.

TỰU TRUNG :
Cũng vì lòng từ bi, bác ái mà đức Trạng có quyển sấm nầy ra cốt để cho các vị trượng phu anh hùng xem lấy mà tránh cái nạn cốt nhục tương tàn.

Cũng vì lòng yêu nước thiết tha mà Đức Trạng có quyển sấm nầy ra là cốt để cho trong tôn giáo, ngoài xã hội xem lấy biết nẻo tôn phò " lòng trung nghì ai nhớ cho tinh " và cũng vì lòng hiếu kỳ mà soạn giả khởi đọc quyển sấm nầy hồi 1930 sau cuộc biến động Cổ Am do Quốc Học Tùng San xuất bản. Soạn giả cũng không nệ hà tài hèn hiến cho bạn đọc những đoạn dịch chánh bản và phụ trương mong rằng thích đúng trong muôn một.

Viết ở Sài-Thành mùa đông năm Mậu Tí 1948.
Cư Sĩ MINH ĐIỀN

SẤM TRẠNG TRÌNH
Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ xây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
Một thời lại một nhiễu nhương nên lề

Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chấp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử rày quyền đã nổi lên
Ðông a âm vị nhi thuyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh

Chấn cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn

Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen
Sửa sang muôn việc cầm quyền
Ngồi không ai dể khẳng nhìn giúp cho

Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài

Áo vàng ấm áp đà hay
Khi sui đấp núi khi say xây thành
Lấy đạt điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở giếng mòn

Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người

Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cừu giận oán than
Dưới trên dốc chí lo toan
Những đua bán nước bán quan làm giàu

Thống rủ nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có chí an dân
Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non

Dư đồ chia xẻ càn khôn
Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi

Việc làm thất chính tơi bời
Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã giơ ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa

Cuồn phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu

Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình

Một góc thành làm tâm chứng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
Bốn phương rời rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần

Tiếc là những xuất dân làm bạo
Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình

Nội thành ong ỏng hư kinh
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giửa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng

Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời này sự lạ
Bổng khiến người giá họa cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công

Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời

Bấy giờ càng khốn than ôi
Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
Thương những kẻ ăn rau ăn giới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu

Báo thù ấy chẳng sai đâu
Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này

Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chử Rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
Rỏ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

Xem ý trời có lòng đãi thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
Chọn đầu thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường

Ðời này thánh kế vị vương
Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu

Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thành long
Thánh nhân cư có thụy cung
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rong
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông

Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một thí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng

Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay

Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy thần kinh
Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết ray tay miệng biếng nói không
Ngỏ hay gặp hội mây rồng
Công danh sáng chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình

Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường

So mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẽo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng
Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường

Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân
Ðoài phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn

Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù Thái Thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
Phá điền dầu khỉ cuối thu
Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm

Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương

Kẻ thì phải thủa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thủa hung tàn
Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình

Muông vương dựng ổ cắn tranh
Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày

Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
Nào ai đã dễ nhìn U
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn

Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hào bảo thân

Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình

Bốn bề núi đá riểu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
Tránh cho xa kẻo mắc đao binh

Bắc kinh mới thật đế kinh
Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh

Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
Vạn dân chịu thủa u sầu
Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẩm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để lấy dấu truyền
Gẩm xem bốn báu còn in đời đời
Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dài
Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
Có thầy nhân thập đi về
Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
Ra tay điều chỉnh hộ may
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ khí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tâm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

Vừa năm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời

Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình

Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng

Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân đoản mà đi
Số chưa gặp thì biết hoà chép ra

Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao

Trên trời kể chín tầng cao
Tay nghe bằng một ti hào biết hay
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời

Hợp đà thay thánh nghìn tài
Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần

Nói ra am chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
Chờ cho nhân đoản hết sau
Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn

Trời xui những kẻ ắt gian
Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay

Tiếc tài gẩm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
Muốn làm tướng súy lập công xưng đời

Khá xem nhiệm nhặt tội trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chảng còn ở thật người ta đâu là
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này

Ý ra lục thất gian nay
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng

Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay

Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chang
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời

Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai
Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời

Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến đời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này


Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn

Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
Con mùng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có du phần như ai
Bắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình

Canh niên tân phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị Ngũ dư bình
Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cản tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê củ bắt ngựa tàu

Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an

Bảo Giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân bảo bảo noản
Tứ hải lạc âu ca
Dục đức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương

Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
Thất thập cổ lai xuân
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ đổ thái bình

Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi bắc kinh
Kỷ mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
Trư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lương
Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại ngưu lang
Mại dử lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
Thiên dử thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
Nhân nghĩa thùy vi địch
Ðạo đức thực dữ đương
Tộ truyền nhị thập ngủ
Vận khải ngủ viên trường
Vận đáo dương hầu ách
Chấn đoài cương bất trường
Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch tánh hung hoang
Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tai vô lương
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành

Ðoài phương phước điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngủ vân
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm
Trần công nai thị phúc tâm
Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
Dục thức thánh nhân xứ
Đa xuất ứng Bảo giang
Dục thức thánh nhân hương
Thủy lam bảo trung tàng
Dục thức thánh nhân tính
Mộc hạ liên đinh khẩu
Dục thức thánh nhân diện
Tu tẩm trương cú kiến
Giang nam nhị thủy huyện
Tại sơn vô hổ lang
Thất thập nhị hiền tướng
Phụ tá thánh quân vương
Phá điền thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành.


Tư tâm dục thức thánh nhân diện
Lưởng biên bàn ngạt tùy nhất khối
Thủ túc chánh vương tam lương tự.

PHẦN THỨ HAI

Cuộc đời ai dễ biết đâu
Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên
Quan làng ỷ thế ỷ quyền
Dân khôn giả dại mới yên phận mình
Mặc ai chia rẽ thị khinh
Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn
Ta tin ta mới đặng an
Luận bàn bè bạn chỉ đàng cho nhau
Việc người thì mặc người âu
Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ
Muốn yên mồn lặng như tờ
Luận bàn việc nước thì khô xác hình
Bởi đời quốc thể bù nhìn
Quan làng tàn bạo sanh linh tơi bời
Lương dân than khổ đòi nơi
Quốc hồn mờ ám hởi ôi thế quyền
Nước nhà nghiêng ngửa ngửa nghiêng
Tham quan hại nước lợi riêng cho mình
Biết chi là ám với minh
Sớm ưa trưa ghét dân tình đời ni
Kim tiền quyền thế tương tri
Không quyền không thế người khi ngu đần
Chớ hà hiếp nhớ siêng cần
Đến nơi Tiên Phật Thánh Thần mới an
Nghèo nàn bổng chốc giàu sang
Đứa ngu đội bạc ra đường dại khôn
Bởi đời toàn lũ vô hồn
Khinh khi nhân nghĩa trọng tôn bạc tiền
Dốt ngu đội lốt Thánh Hiền
Mở miệng thì rặc đồ điên một dòng
Chừng nào cây sắt trổ bông
Đường đen như mực Lạc Hồng tai phi
Trung thần ái quốc dễ khi
Phản thần mãi quốc nên ghi để đời
Thức thời quốc sử bỏ rơi
Ngay không nhầm lúc dĩ hơi hại mình
Vô quân vô tướng vô binh
Trung không cùng chúa cúng kinh ích gì
Chừng nào lú mọc trên chì
Voi đi trên giấy đến kỳ Đông Chu
Trí thời giả điếc giả ngu
Khôn thời giả dại mà tu lấy mình
Cầm quyền toàn lủ yêu tinh
Quan nhiều Mảng Tháo cùng sinh hại đời
Mua quan bán tước lấy lời
Hại dân hại nước coi trời như không
Bì trung cốt nịnh rặc ròng
Kết phe kết đảng giết giòng phải nguy
Nồi da xáo thịt ngộ thay
Miễn mình béo bở mặc ai ốm gầy
Cáo kia mượn thế hại cầy
Mẹ cha ưa nịnh ghét bầy con ngu
Động tâm Thượng Đế dạy ru
Xuống nhiều tai họa xuân thu sửa lần
Gió sầu mưa thảm cõi trần
Thiên luân địa chấn quân thần nó xem
Canh tân sực nức mùi hèm
Mhâm quý bằng lặng ngoại binh đem vào
Giáp thời thấy rõ binh đao
Ất niên chiến họa xâm vào tràn lan
Thiên tai chiến sự đa đoan
Quốc gia nghiêng ngửa tham quan hại đời
Phản thần bán nước khi trời
Gọi rằng trung trực hởi ôi thế quyền
*
* *
Nhứt hữu liên sơn nhứt hữu bình
Tam giang khí địa nhụ giang kinh
Tu châu tai lạc thế châu khổ
Ngu lại hườn chung khổ hại mình

***
Xác dân xung tận cung đình
Thiên oai chấn nổ luật hình ban ra
Mười phần mất bảy còn ba
Mất hai còn một mới ra thái bình
Trục kia chọi với đồng minh
Hai sông khô cạn nhựt tinh tỏ ngời
Ra oai đánh dẹp mọi nơi
Năm châu bốn bể thây phơi chập chùng
Mùa xuân gió bấc lạnh lùng
Cua kình trở gọng về cùng lũ dê
Cuộc đời như thể trò hề
Nực cười lũ chó còn mê lợi quyền
Sình ương khó nướng xào chiên
Quốc gia nghiêng ngửa đảo điên bốn bề
Ra đi thì khó nỗi về
Xe kia hết bánh thả rề sông trôi
Chừng nào Chợ Lớn hết vôi
Bề Đông cá đặt cuộc đời lao đao
Lò rèn thiếu thép rèn dao
Hết đồng đúc đỉnh hết thau bán nồi
Chợ đen vốn một lời mười
Gạo châu củi quế lời người than van
Vải bô giá sánh bằng vàng
Kẻ đói người rách lan tràn chợ quê
...


Tiết trời đánh đổ bông huê
Nhân dân phải chịu thảm thê họa sầu
Theo Âu nên phải lo âu
Mấy ai hiểu nghĩa Bá Di-Thúc Tề
Khỉ đàn vừa gặp lũ dê
Bắc trung phải chịu thảm thê họa đầu
Đại bàng xung phá đài lầu
Ngạc ngư phóng toát thuyền cầu tan hoang
Rồi Nam cũng chịu lầm than
Phương đông ba tỉnh phải mang họa sầu
Trớ trêu cảnh sắp nhiệm mầu
Phồn hoa đô hội thảm sầu đớn đau
Cuộc đời gẫm thiệt cơ cầu
Trung thua quyền nịnh tiên hầu quỉ ma
Khỉ đàn gặp cặp mảng xà
Trăng tròn thiếu một thì ta xuống hầm
Yêu đương cũng phải lạc lầm
Sáu nơi khói lữa sấm gầm Sài môn
Nghèo nàn không có quách chôn
Gian tham quyền thế biết khôn lánh rồi
Nhưng mà họa có đâu thôi
Bồng con bế cái nổi trôi đầy đàng
Đến hồi quốc vận lâm nàn
Chi tiêu ăn mặc cường quan độc quyền
Càng ngày càng đảo càng điên
Dân ta như thể đàn chiên đánh vồn
Ô hô giống khéo giống khôn
Vay thời phải trả xác hồn lìa xa
Thịt rơi xương nát máu sa
Thầy tăng chẳng chịu ở nhà phù tang


Sưu cao thuế nặng ta mang
Đàng xa mới biết xa đàng nặng cân
Thân dậu lánh việc nương thân
Miên thành Sài trấn đến gần bỏ thây
Khỉ bầy bị một gà khi
Cuộc đời như vậy tham chi mà bòn
Gà mừng gặp lúa túc con
Miễn con no dạ mất còn kể chi
Cái năm chiến họa loạn ly
Mưa to gió họa hại gì tham quan
Nhơn dân khốn khổ đa đoan
Mọi điều khốn khổ lại càng bằng hai
Tu hành hiền hậu chết hoài
Sai ngoa gian trá sống dai chật đàng
Cơ trời định vậy chớ than
Tương vong yêu nghiệt hành tàng đấy ư !
Đầu xuân gà gáy hăm tư
Thầy tăng đến hạn họa trư tuyệt kỳ


Thiên cơ máy tạo huyền vi
Tuần hườn máy tạo ai thì có hay
Nực cười cho lủ vô tài
Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần
Xuân phân cho đến thu phân
Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi
Buồn buồn tủi tủi vui vui
Tiếng thì để tiếng muốn lui lắm lần
Rồi đây bày tỏ trung cang
Trời cho Tiên Phật xuống trần trị yêu
Văn minh cơ khí đủ điều
Cọp đồng gấu sắt phi phiêu thủy hành
Phong luân họa giáng lôi oanh
Kết phe lập đảng tranh giành thế ni
Năm châu nổi sóng một khi
Chuồn bay khói tỏa tử thi như bèo
Mưa dầu nắng lửa sấm reo
Hai loài xâu xé họa gieo dân lành
Đảng dân đại bại tan tành
Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiến cùng
Tu binh mãi mã chiêu hùng
Núp lưng đảng cộng trung hưng nước nhà
Rồi sau sanh sự bất hòa
Lại cùng đảng cộng can qua chiến trường
Non cao bể cả đôi đường
Phân ranh biên giới tỏ tường mới an

Vầng hồng rọi khắp bốn phang
Tây phang cuốn gió tìm đàng đào vong
Bập bồng Tần quốc bập bồng
Là nơi chiến địa huyết hồng tràn lan
Hải hồ rửa máu nghỉ an
Tiền Âu hậu Á Thiên Hoàng định thu
Thân gà dạ khỉ đấy chừ
Thì là ngọn lửa mới thu dịu lần
Kỳ phang thay đổi cuộc trần
Chó kia gặp chủ nó cần sủa tru
Quân minh dân sự ôn nhu
Heo kia thong thả ngao du đầy đàng
Chuột mừng gặp cảnh bình an
Trâu kia thong thà nghêng ngang đồn điền
Cọp rày làm chúa lâm điền


CHÓ kia GẶP CHỦ nó cần sủa tru
QUÂN MINH dân sự ôn nhu
HEO kia THONG THẢ ngao du đầy đàng
CHUỘT mừng gặp cảnh BÌNH AN
TRÂU kia THONG THẢ nghênh ngang đồn điền
CỌP rày LÀM CHÚA lâm điền
QUÂN THẦN CỘNG LẠC MIÊN MIÊN CỬU TRƯỜNG.

TRẦN CÔNG nãi thị phúc tâm
GIANG HỒ SỬ SĨ đào tiềm XUẤT DU
Tướng thần hệ xuất Y CHU
Thứ ky PHỤC KIẾN ĐƯỜNG NGU thi thành
Hiệu xưng THIÊN HẠ THÁI BÌNH
ĐÔNG TÂY VÔ SỰ NAM THÀNH QUỐC GIA.
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #10 - 13. Aug 2010 , 11:08
 
          SẤM TRẠNG TRÌNH VÀ VẬN MỆNH DÂN TỘC VIỆT NAM

Vấn đề luận giải các điều ẩn chứa trong  Trạng Trình Sấm ký , vốn đã được nhiều học giả diển dịch rất nhiều . Qua những giai đoạn thăng trầm nhiểu nhương trong lịch sữ cuả dân tộc Việt Nam , Thiết tưởng không cần phải lập lại ? nay bản thân người viết học đòi theo người đời xưa , xin tạm diển dịch một vài sự kiện có liên quan đến thời sự gần đây , Vào những năm tháng gần nhất , Bởi vì thời gian là 1 chuổi dài liên tục, xoay chuyển miên viển , Dân tộc Việt Nam đã gánh chịu quá nhiều nổi thống khổ vì thiên tai dịch họa , quốc nạn ngoại bang xâm lấn , Quốc phá gia vong , Gia đình ly tán . Lòng người dân Việt Nam dù có trôi nổi nơi chân trời góc bể , Vẩn hằng mong ngóng về quê cha đất tổ , Trông chờ đấng cứu tinh cuả dân tộc , cứu nước nhà qua khỏi cảnh suy vong , nhân dân qua được cảnh sống khốn cùng , để lảnh đạo toàn dân , tái lập lại trật tự , thái hoà và thịnh vượng , cho đât nước , cho dân tộc . Vời tấm lòng hướng về đất nước , hướng về dân tộc ; người viết xin mạn phép được diễn dịch vài trang sấm ký có liên quan đến thời sự chính trị trên đất nước Việt Nam .
Ta thường nghe nói tới cơ trời  , gọi là thiên cơ , tại sao gọi là thiên cơ ? Đó là sự vận hành cuả các tinh thể , luân chuyển chung quanh trái đất , hàng nghìn , hàng vạn năm , sự vận hành nầy luôn luôn điều hoà , hầu như không thay đổi , Thành thử Thiên cơ là ám chỉ sự vận chuyển cuả tinh tú ảnh hưởng và tác động đến đời sống  vạn vật trên trái đất ,
Sự vận hành cuả các tinh tú theo một quỷ đạo đặc biệt , gọi là quỹ đạo lạc thư , trên bảng cưũ cung lạc thư , ( gồm có 9 cung ) hay là 9 vị trí , trên mổi vị trí có ghi một con số , người Pháp gọi đây là carrée magique , nghiả là trên hình vuông có 9 con số, và 9 con số nầy lại di chuyển , Khởi điểm cuả sự vận hành bắt đầu từ trung tâm , gọi là trung cung  ( trung cung hay la trung ương , hay là vị trí trung tâm , ) sẻ gồm có hai hứong đi thuận và nghịch chiều , nếu đi thuận thì bắt đầu từ trung tâm đi về Tây Bắc , qua Tây , về Đông bắc ; từ đó di chuyển vể nam , và qua bắc , rồi về Tây Nam ; qua Đông và về đông nam rồi nhập vào trung cung , 9 con số đó , thực ra là 9 nhóm sao mang tên là Thái Ất , mổi cung chưá đựng một nhóm sao , ví vụ nhóm sao đóng tại phương bắc có 1  thì chì cỏ một ngôi sao , còn ví trí tây nam có hai ngôi , nên người trước ghi số Hai , Số 3 là 3 ngôi v ,v,,,,,
khoảng cách trên không gian giưả vị trí nầy sang vị trí khác là 10 năm ; đi giáp một vòng là 90 năm . còn được gọi là Bước Lường thiên xích . như lời sấm có nói đến trong câu Cửu Cưủ Càn Khôn Dĩ Định Tức là sự chuyễn động trên vũ trụ , củng như trên mặt đất , đều chịu ảnh hưởng tác động cuả các tinh tú, Ngoài ra muốn hiểu biết vể Sấm ký , chúng ta cần tham khão thêm nơi Lý Thuyết kinh dịch , Kinh Dịch thuyết giảng vể 64 quẻ Dịch , khởi đầu chỉ có 8 quẻ Căn Bản , gọi là Bát Quái , Thêm vào khiến thức nơi khoa Kỳ Môn Độn Giáp , ( vốn được các chuyên viên quân sự đời xưa áp dụng vào nghệ thuật điều khiển Quân Sự ) Quả nhiên đây là sự phối hợp đầy rắc rối phức tạp , mâu thuẩn , . Nhưng nếu chúng ta chịu khó học hõi nơi tiền nhân , Như Dịch đã dạy rằng : khi giải quyết một công việc , chúng ta chỉ nên bắt đầu từ sự dể làm nhất , đơn giản nhất .
Vậy thì , bây giờ chúng ta hảy đi vào Sấm ký Trạng Trình với những sự kiện lịch sữ gần nhất , từ ngày Pháp đổ bộ lên Vủng Tàu vào Năm  Giáp Tý 1864
, SỰ PHÂN CHIA TỜI GIAN CUẢ VẬN HÀNH CỮU TINH .


Cưủ cung phi tinh di chuyển trên bảng Lạc Thư , cộng thêm với yếu tố thời gian sẻ có giá trị, như một phương trình  toán học không gian ; Nhân tố thời gian được gọi mệnh danh là
   Tam nguyên Cưũ Vận, ( ba nguyên , chín vận ) Tương truyền hoàng đế Đại Sào , dùng Can chi đánh dấu  từng năm, Năm là đơn vị lớn hơn Tháng, củng như Tháng là đơn vị lớn hơn ngày , và giờ, theo lịch sử gọi là Nguyên Niên Hoàng Đế, Bắt đầu là năm Giáp Tý, lấy 60 năm , làm một vòng, vận hành, gọi là Một Hoa Giáp , Mổi một Hoa Giáp là một Nguyên, 3 Hoa Giáp là Tam Nguyên ,  Tam nguyên gồm : Thượng nguyên ( nguyên đầu tiên, ) trung nguyên , ( nguyên ở giưả , ) hạ nguyên ( nguyên cuối cùng ) Mội một chính nguyên , gồm có Tam Nguyên và Cưũ Vận , Mổi vận có 20 năm, tính theo sự vận hành cuả nhóm Cưũ tinh Thái Ất , mổi vận 20 năm X cho 9 vận thành  = 180 năm ; Từ thời kỳ Hoàng Đế Nguyên Niên
Tính cho đến năm Quý Hợi , 1984 có tất cả được 78 hoa giáp , mổi hoa giáp là 60 năm X cho 78  = 4680 năm ;
         Gọi là Đại vận tức Cữu tinh cứ 60 năm bay ngược được một bước ;  Kể tư năm Giáp Tý 1984 , Cửu tinh vận hành bước thứ 79 , Trong Đại vận nầy, Sao Tam Bích chủ tể vận khí trong 60 năm ;  Các vận cuả Tam Nguyên Cưũ Vận :
                            
                                     Vận 1    1864 ---  1883
    Thượng nguyên          Vận 2    1884 ---  1903
                                      Vận 3    1904 --- 1923
                                  
                                      Vận 4    1924 ---  1943
     Trung Nguyên             Vận 5    1944 --- 1963
                                      Vận 6    1964 --- 1983
                                  
                                      Vận 7   1984 ---  2003
      Hạ Nguyên                Vận 8    2004 --- 2023
                                      Vận 9   2024 ---  2043
Muốn  hiểu  rõ  Sấm  Truyền , chúng  ta  cần  phải  tham  khảo  các  tài  liệu  liên  quan  đến  các dữ  kiện  lịch  sử  cận  đại  cổ  kim  , hơn  thế  nữa  là  vì  một  phần  lớn  các  câu  Sấm  lại  được  viết theo  văn  hoá  Nôm  ( Hán Việt ) ,  và  một  điều  rất  quan  trọng  , đó   là  các  điều  trình  bày  được  thiết  lập  trên  nền  tảng  Thái  Ất  Thần  Kinh
Thái  ất  là tên  của  nhóm  sao  Bắc  đẩu  . Đó là  một  nhóm  sao  vận  hành  trên  bầu  trời  chung  quanh  quả  địa  cầu  của  chúng  ta  .   D ây  là  một  bộ  môn  < khoa  học  cổ > hay  còn  được  mệnh  danh  là  thiên  cơ . Ngày  nay  chúng  ta  có  thể  gọi  là Thiên  văn  cổ  học Tìm hiểu  khoa  này  , chúng ta cần  phải  có  sự hiểu  biết  căn  bản  , về  kinh  dịch  với  hình  vuông  và  5  con  số .  Từ  1  đến  9  .  Các  con  số  này  tượng  trưng cho  9  nhóm  sao  , gồm  có 7  sao  chính :  Kim  , Mộc , Thủy ,  Hỏa , Thổ , cộng  thêm Nhật  Nguyệt  gọi  là  Thất  Diệu  .  Các  sao trên có  số   ký  hiệu  và  tên  gọi  như   sau :
1-  Tham  Lang 
2 - Cự  Môn 
3-  Lộc Tồn
4-  Văn  Khúc
5-   Liêm  Trinh
6 -  Vũ  khúc   
7 -  Thất  xích hay  Phá  Quân
8-  Tả  Phù  ( hay là Tã Phụ )
9 -  Hữu  Bật
                      PHÁ  ĐIỀN  THIÊN  TỬ  XUẤT
                     BẤT  CHIẾN  TỰ NHIÊN  THÀNH

Số  1 :  Tham  lang  . Văn học . Thái  Âm  .  Bắc  Đẩu ;  Áng  về  Phương Bắc
      2 : Cự  Môn  . Tượng  bệnh  phù . Phương Quỷ  môn ; Áng về phương Tây nam
      3 : Lộc  Tồn .  Tượng  vận  động  sấm  sét ; Áng về Phương Đông
      4 : Văn  khúc  .  Tượng  gió   văn  học  nghệ  thuật ; Áng về phương Đông Nam
      5 : Liêm   trinh . Ngũ  hoàng đại  sát tinh .  Chủ  sát  phạt chém  giết dịch  tể  Áng tại Trung cung
      6 : Vũ  khúc  . Đao  kiếm  Pháp  luật ; Áng về phương Tây Bắc 
      7 :  Phá  Quân . Hàm  trì  sắc  đẹp  , Áng về phương  Tây
8      : Tả  Phù  .  Quý  nhân ; Áng về phương Đông Bắc
9      : Hữu  Bật :  Lửa Điện , Áng về phương Nam
                 SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH TIẾP THEO


Đúng theo sấm  ký  Âu  Châu  Nostradamus,  từ sau  thời  kỳ   Song   Ngư  2000  năm   .  Tiến  sang  thời  kỳ  Bão  Bình  ,  là   thời kỳ  tái  lập  trật  tự  ,  thời  kỳ  thái  bình . Muốn  có  hòa  bình  , nhân  loại  cần  nổ  lực  lớn  ,  nhiều  tranh  đấu  về  việc  từ  bỏ  tham  vọng  củng  cố  tự  ngả  ,  cá  nhân  .  Đối  đãi  với   nhau  qua  tình  người  ,  trên  căn  bản  dân  chủ,  hiểu  biết  và   tôn   trọng  lẫn  nhau  .    Cũng  như  Sấm  ký xưa  do  Gia  Cát  Võ  Hầu  thời  Hán  đã  viết  và  tiên  liệu  về  sau  này  ,  nước  Trung  Hoa  sẽ   không  còn  có  giai  cấp  cai  trị   độc  tài  .  Tiếp  theo  sau   đời  Minh ,  cố  vấn  Quân  Sự  Lưu  Bá  Ôn  đã  làm  ra   bài  Sấm  ký  có  tên <  Chiếc  bánh  nướng  >  rất  nổi  tiếng  .  Tiên  liệu  và  báo  trước  về  tình  trạng  đất  nước  Trung  Hoa  bị  chia  năm  xẻ  bảy ,  để  giải  thể  Đảng  Cộng  Sản  Trung  Quốc  ,  về  phần  nước  Việt  Nam  ,  chế  độ  Cộng  Sản  sẽ  bị  giải  thể  toàn  diện    qua Sấm  ký của  Trạng  Trình  Nguyễn  Bỉnh  Khiêm 
Phần  lớn  sấm ký  của  Đức  Trạng  Trình  được  lập  trên  nền  tảng  của  khoa Thiên  Văn  Thái  Ất  .  Khoa Thiên  văn  cổ  của  Á  Châu  vốn  phát  xuất  từ  các  nhà  bác  học  của  Dân  tộc  Bách  Việt  tìm  ra ,  cái  gọi  là  Tiên  Thiên  Hà  Đồ  chính  là  bản  đồ  trình  bày  các  định vị  của  các  thiên  thể  trong  hệ  thống  Ngân  Hà  (  Galaxi )  và  Lạc  Thư  .  Chính  là  tài  liệu  của dân  Lạc  Việt .  Hà  Đồ  trình  bày về  Âm  Dương  thuân  nghịch  .  Lạc  Thư  trình  diễn  về  Ngũ  Hành  sinh  khắc  và  sự  vận  hành của  thiên  thể  trong  Thái  Dương   Hệ  ,  vận  chuyển  theo  quỷ  đạo  Lạc  Thư  cửu cung  .  Do  âm  mưu của  Ngoại  bang  đã  tạo  ra   tình  trạng  phân  hóa  nhân  tâm  dân  Việt  , làm  tan  rã  sự  Doàn  Kết  dân  tộc .  Vì  thế  nên  hơn  1000 năm  quadân  tộc  Việt  đã  khốn  đốn  lâu  dài  .
Trở  lại  phần  sấm  vỉ  :  Sấm  là  lời  nói  bí  mật  vì  có  liên  quan  đến  cơ   trời  ( guồng máy  , đời xưa  xem sự  vận hành cuả thế giới tự nhiên  phát nguồn từ trời ; và Trời như một guồng máy khổng lồ , Người đời xưa xem sự vận hành đó mà đưa ra những dự  đoán  việc  lành  dữ   xảy ra trong đất nước , đôi khi xem hoạ phúc cuả cá nhân , .  Vỉ  là  lời  diễn  nghĩa  về  lời  Sấm :
                                              __________________________
                      BẢNG CƯŨ CUNG LẠC THƯ

     TÂY BẮC            BẮC                   ĐÔNG BẮC
     Càn  6             KHÃM  1                CẤN   8

      TÂY              TRUNG CUNG          ĐÔNG   
      ĐOÀI   7             5                      CHẤN   3

     TÂY NAM            NAM                 ĐÔNG NAM
      KHÔN   2          LY  9                  TỐN    4      


Tình  thế củaTuế Vận Giáp  Thân  2004 , án tại Trung  Cung  ,  và  8 cung còn lại  sẽ có sự trở  lại . Nguyên  vị  trí của 8 nhóm tinh thể  ( sao  Thái  Ất  )  .  Khi các  tinh  thể  lâm  vào tình trạng phục vị  (trở  về  nguyên  vị  trí  ban  đầu  ) ( còn  đựơc gọi  là  phục  ngân )  đó  là  tình  thế  u  - uất , thứ  đến  tiến  tới cân  bằng và  điều  hòa sự  vận  hành này .  Lão  Tử  đã  nói  đến : < Thiên  địa  vô  nhân  -  Thánh  Nhân  bất nhân  > nghiả là trời đất và bậc thánh trí hành động theo thiên lý ( lý lẻ tự nhiên )
Nếu  ta  vẽ  một  Đường  thẳng  ( tưởng  tượng  )  từ  Bắc  cực  xuống  Nam  cực  đó  là  đường  kinh  tuyến và  hợp  với  tình  thế  chính  trị  ( tượng  trưng  văn  minh  phương  tây  )  Tây  phương phối  hợp  với  văn  minh  phương Đông  như hiện  tình  Liên  Quân  Anh  Mỹ  chiếm  đóng Ba  Tư Batda  lật  đổ  chính  quyền Sadam .  Khi hai vật  thể  phối  với  nhau sẽ  tạo  ra biến  động   lớn  .   Ta sẽ  thấy  Liên  Quân  sẽ  rút  về  1  phần  lớn  .  Khi  đã  thành  hình  trên   Bảng  Cửu  Cung  Lạc  Thư 1  tọa  độ  được   tác  hợp giữa  kinh  tuyến và vĩ  tuyến  .  Bắc   Nam  ( Tý  Ngọ  -  Khảm  ly Thủy  Hỏa )  Đông  Tây  Mộc  Kim  . Ta sẽ  thấy  xuất  hiện  hình  thể  của  chữ  Vạn ; như bảng vẻ ở bên trên :

                                     





Back to top
« Last Edit: 04. Dec 2017 , 01:57 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #11 - 14. Aug 2010 , 08:15
 
                    SẤM  KÝ  TRẠNG  TRÌNH  (  TIẾP  THEO  ) 


                                           Long  vỉ   xà  đầu  khởi  chiến  tranh 
                                           Can  qua  xứ  xứ  khổ   đao  binh 
                                            Mã  đề  Dương  cước  anh  hùng  tận
                                            Thân  Dậu  niên  lai  kiến  thái  bình 
-      Nếu  muốn  giải  các  câu  Sấm  truyền :
-       Ta phải  xử  dụng đến các  phương  thức  của môn Toán học Không gian , gọi là Thiên  văn  Thái  Ất phối hợp các số ký hiệu tiêu biểu cho Nhóm sao Thái ất vận hành  trong  90 năm ,qua cửu cung của Lạc Thư < tài liệu nghiên cứu cổ  do các nhà bác học Bách Việt soạn ra >  .  Trước thời kỳ dân tộc và lãnh thổ Lạc Việt bị giặc phương Bắc xâm lấn và thống trị . Căn cứ nơi các câu thơ  cổ , ta cóThất xích hạ  Nguyên Đoài vị Tầm ( tìm Giáp Tý )
-      Có nghĩa là muốn tìm vị trí của Thái Tuế đóng tại nơi nào , ta phải tìm theo phương pháp của khoa thiên văn cổ . Ví dụ năm 2003 ứng với năm Quý Mùi (Âm lịch ) . Ta khơi Giáp Tý tại cung số 7  (Đoài  cung )  . Năm  Giáp Tý 1984 thuộc hạ Nguyên , an vị tại  Đoài số 7 . 1984  Giáp Tý tại Đoài .  Ất  Sửu  1985 tại Càn  6  Bính Dần  1986 Trung cung 5  .  Đinh Mão 1987  Tốn . Mậu Thìn 1988 chấn 3 . Kỷ Tỵ khôn 2  (1989) Canh Ngọ 1990 Khảm 1 . Tân Mùi 1991Ly 3 , Nhâm Thân 1992 Cấn 8 Quý Dậu Đoài 7 ( 1993 ) . Tiếp theo : năm Giáp Tuất 1994 Càn 6 Ất Hợi 1995 nhập Trung Cung 5 . Bính Tý 1996 cung Tốn  Đinh Sửu 1997 chấn 3 . Mậu Dần 1998Khôn 2. Kỷ Mẹo 1999Khảm 1 . Canh Thìn 2000  ly 9 . Tân Tỵ 2001  cấn 8  . Nhâm  Ngọ  2002  Đoài 7 . Quý Mùi  2003 càn  6

-      Tình hình thời sự thế giới chuyển biến ráo riết vào năm Canh Thìn 2000 Bắt đầu từ 2000 đã thấy tình hình rối rắm ở Trung Đông . Liên quan đến vấn đề không tặc và khủng bố . Thế giới tấn công vào các nước tư bản  .Tình hình nóng bỏng vào năm Tân Tỵ 2001. xày ra vào mùa  Thu ở Nữu Ước . Nước Mỹ tại cung Càn 6 Tây Bắc . Nếu đem vị trí nước Mỹ  đặt vào bảng  Lạc Thư Cửu Cung . Ta  thấy phương  Đông Bắc bị thảm nạn

-      Thái Tuế Tân Tỵ lưu niên Phi tinh tại cung Cấn . Số 8 nhập Trung cung

-      Sau khi 2 tòa cao ốc của Nữu  Ước bị tàn phá . Năm Nhâm Ngọ Thái Tuế  tọa  lạc  vào cung Đoài 7 . Thế lực chính trị ( cung đoài thuộc phương Tây tư bản ) . Quẻ Đoài tượng trưng cho khẩu thuyết , mồm mép , chỉa mũi dùi vào phương Đông . Ảnh hưởng và tác động của quẻ Đoài theo học thuyết quân sự : Tiên Dụng Lễ hậu Động Binh

-                                         Rồng nằm bể cạn dễ ai hay

-                                        Rồng là hình tượng quẻ Càn

-                                        Rồng nằm : tức là quẻ Càn Nội (ở bên dưới )

-                                        Hào sơ cứu quẻ Càn có tượng Tiềm Long

-                                        Nạp giáp cho quẻ Càn Nội : Thiên Can và địa chi Giáp Tý

-                                        Từ năm Giáp Tý đến Quý Dậu là một đại vận 10 năm

-      Trở lại toàn 8 câu Sấm

-      1- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay

-      2- Rắn mới hai đầu khó chiụ thay

-      3- Ngựa đã gác yên không người cỡi

-      4-Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây

-      5 Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu

-      6- Gà kia vỗ cánh chập chùng bay

-      7- Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa

-      8- Ăn no ủn ỉn Lợn kêu ngày


2-      Rắn mới hai đầu :Rắn là năm Tỵ . Mới là Tân .  Năm Tân Tỵ
3-      Ngựa đã gác yên không người cỡi : Ngựa là năm Ngọ , gác yên tức là Ngựa mặc giáp . tức là giáp mã không người cữi : tức là hưu chiến hoặc đình chiến
4-      Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây Cheesyê là năm Mùi  có nghĩa là Tây Dương tức là người Pháp rút khỏi Đông dương
Bây giờ muốn xác định rõ ràng thời điểm nào , chúng ta phải xử dụng Lạc Thư cửu cung và phối hợp Lưu Niên Thái Tuế của Lục Thập Hoa Giáp
Lục Thập Hoa Giáp : 60 năm gồm có 6 Can giáp . Mỗi tuần giáp có 10 Can .  6 tuần giáp có 60 năm . Mỗi một nguyên = 60 năm . Ba nguyên x60 năm = 180 năm
Mỗi một nguyên sẽ là một vận . Thời kỳ hiện tại thuộc Chính nguyên 12
Khởi từ vận 1 :  1864 – 1883 , kết thúc ở vận 9  : 2024 – 2043
Nói tóm lại muốn xác định Lưu Niên Thái Tuế , chúng ta phải xủ dụng bảng Lục Thập hoa giáp phối hợp Tam Nguyên cửu vận
Chúng ta lại cần có  thêm một yếu tố nữa , đó là phối trí Lục Thập Hoa Giáp vào các phương trình Độn giáp
Xin nhắc lại các nguyên lý dịch - gồm có hai phần : Tịnh và động . Như  Âm và Dương
-Con người và sự việc gồm có hai phần chính: Bản thể vốn tĩnh lặng . Công năng vốn động . Binh pháp thời xưa đã viết : Tịnh Vi Dân , Động Vi Binh –
Phần  Lưu Niên Thái Tuế cũng thế Theo như khoa tử vi sinh năm nào ta an Thái tuế theo địa chi  của năm sinh . An vào cungcó cùng tênvới chi của năm sinh . Thái Tuếlà một chuổi thiên thể  gồm  12 ngôi. Có  ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của từng sinh vật trên  quả địa cầu . Khi an trí Thái Tuế như thế,là về phần bản thể phần hoạt dụng ( mobile) Chúng ta có cách tính thứ nhì theo phương thức của khoa Thiên văn Thái Ất . Đó là sự phối hợp của Phi tinh theo quỹ đạo Lạc Thư qua Cửu Cung .  Đây là phần quan trọng và chính yếu  . Dịch viết : Không động , không bói , không bàn tốt xấu , lợi hại , hối tiếc và lầm lẫn
Trước hết ta thiết lập Bảng Lục Nghi, tam kỳ. Thứ đến thiết trí bảng Lạc Thư . Ví dụ : căn cú theo lời Sấm : Hạ Nguyên Giáp Tý Canh Dần
                                   Thanh bình nằm tại hương câu hưởng nhàn
-Sau đây là Bảng Lục Nghi , Tam kỳ của phương trình Độn Giáp . Giáp Tý Thượng  Nguyên vận
1-   Từ 1864  - 1883
2-   Từ 1884-   1903
3 -   Từ 1904 -  1923
TÍnh năm Gíap Tý của thời Trung Nguyên 
Từ vận 4 – 1924  -- 1943  . Từ Giáp Tý đến Quý Mùi
Từ vận 5  -  1944 –1963 -    Từ Giáp Thân đến Quý Mão
Từ vận 6  -  1964 – 1983     Từ  Giáp Thìn đếnQuý Hợi
60      năm 
      Năm Giáp Tý của thời Hạ Nguyên
       Từ vận 7   -   1984  -  2003        Giáp Tý     -__        Quý Mùi 
        Từ vận 8  -   2004  -  2023        Giáp Thân   __        Quý Mão
        Từ vận 9  -   2024  - 2043         Giáp Thìn    __        Quý Hợi
                 60  năm
       Tính từ Giáp Tý thời Trung Nguyên
       G Tý      Mậu         4                Giáp Ngọ   1             Ất            5
       G Tuất    Kỷ           3               Giáp Thìn   9             Bính        6
       G  Thân  Canh        2               Giáp Dần   8             Đinh        7

  Chúng ta áp dụng theo nguyên tắc : Giáp tý trung nguyên tứ lục khởi ; tức là đem năm Giáp Tý 1924 vào cung tốn số 4 ; từ đó tính ngược , Giáp tý 1924 tại cung tốn 4 , Ất Sửu 1925 cung chấn 3 , Bính Dần 1926 cung Khôn 2 , Đinh mảo 1926 cung khãm 1 , Mậu thin 1927 cung Ly 9 ; Kỹ tỵ 1928 Cung Cấn 8 ; Canh ngọ 1929 cung Đoài 7 , Tân Mùi 1930 cung Càn 6 ; Nhâm thân 1931 trung cung số 5 , Quý Dậu cung tốn 4 ;


                                 CÀN 6                KHÃM  1                     CẤN  8

                    Tân mùi    1931             Đinh Mảo 1927              Kỹ tỵ 1929
                                                
                                ĐOÀI               TRUNG CUNG              CHẤN 3

                          Canh ngọ   1930    Nhâm thân  1932            Ất Sữu 1925



                                 KHÔN                      LY                            TỐN

                         Bính dần 1926           Mậu thin  1928            Giáp Tý  1924
                                                                                                 Quý Dậu  1933

Muốn tính ra phương vị của Thái Tuế Lưu Niên thì ta phải xử dụng phương trình độn giáp
Theo câu Sấm Rồng nằm bể cạn . Rồng năm Thìn 1940
                        Rắn mới hai đầu     Tân Tỵ               1941
Theo Lưu Niên Phi Tinh năm Canh Thìn Thái đến an vị tại cung Càn mang số 6 . Ảnh hưởng của sao Vũ Khúc quẻ Càn . Tượng trưng cho Pháp luật .
     Rồng nằm bể cạn -  Căn cứ theo Thoán Từ và Hào Từ của quẻ thuần Càn : Sơ Hào là thời kỳ Tiềm Long ẩn Phục . Nên gọi là Rồng nằm Năm Canh Thìn sao Tuần Thủ Chấn 3 . Sao Lộc Tồn gặp năm Canh tại cung 2   Thương môn đến năm Thìn di chuyển đến cung Càn  Theo Bát Trạch và Phong Thủy gọi là Thiên lôi vô vọng
-Thế lực Phương Đông chế ngự phương Tây . Khối trục : Nhật - Đức - Ý tấn công vào phương Tây
thanks.gifhù hiệu của đảng Quốc Xã  mang hình chữ Vạn ngược Chữ Vạn  đặt thuận chiều thì tượng trưng cho Thái Bình Chữ Vạn dặt ngược chiều thành tượng binh đao . vì đi ngược Thiên lý
Từ năm Giáp Tý độn tại Kỷ 3 có sao Tuần Thủ Lộc Tồn . Tượng Chấn động ;
Bắt đầu Giáp tuất Sao Lộc Tồn ( cung chấn 3 có nghiả là Chấn động ) hay là sấm sét nổi lên ở phương đông , Tức nước Nhật , Ất hợi 1935 cung khôn ở Tây nam , Năm Bính tý 1936 cung Khảm ở Bắc , năm Đinh Sưủ 1937 ở Nam , Năm Mậu Dần 1938 ở cung Cấn đông bắc , Năm kỹ mảo 1939 ở Đoài , năm Canh thin 1940 ở Tây bắc , Năm tân tỵ 1941 ở trung cung , năm Nhâm ngọ 1942 ở cung tốn , năm quý Mùi 1943 ở cung Chấn ,
Lam Sơn họ Lê
-                                          

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #12 - 14. Aug 2010 , 08:17
 
                                          SÂM KÝ TIẾP THEO PHÂN I I I


Từ một dạo gần đây , Các câu sấm lại được loan truyền qua nhiều hình thức , được phổ biến trên báo chí Việt ngữ , Nhất là các câu :
         
           Phá Điền Thiên Tử Xuất ,
           Bất Chiến Tự Nhiên Thành .

                        *******

           Long Vỉ Xà Đầu Khởi Chiến Tranh ,
           Can Qua Xứ Xứ khổ Đau Binh .
           Mã Đề Dương Cước Anh Hùng Tận ,
           Thân Dậu Niên Lai Kiến Thái Bình .

Qua các câu trên chúng ta nên hiểu như thế nào , Nhất là nguyên văn lại được viết theo thể văn Hán Việt ( Hán Nôm ) Người Việt Nam thời xưa , thường viết theo văn Hán Nôm; nhưng cách viết lại không giống như người Trung hoa thường viết , đó là sự khác nhau giưả người Tàu và người Việt ,

Các từ Canh Tân , là các Thiên Can ( theo lý thuyết kinh Dịch ) dùng để chỉ tên cuả năm tháng , ngày , giờ. Ví dụ như năm 2010 mang tên Canh Dần , Danh từ chuyên môn gọi là tứ trụ . Tức là 4 yếu tố dùng  trong Âm Lịch ( nông lịch ) . Nhưng nói năm canh thì phải là năm Canh nào , vì trong một lục thập hoa giáp , gồm có 60 năm , mổi thập can ( 10 năm ) chỉ có một năm mang chử Canh , như Canh tý , Canh dần , Canh thìn , Canh ngọ , Canh thân , Canh Tuất . Nguyên tắc cuả Lý thuyết Kinh Dịch là sự chính xác , nhưng vấn đề ở đây , các câu Sấm được viết ra , hàu như là các đầu đề toán thật khó giải , như là các câu đố ,
Các năm Canh thường có những tai hoạ về chiến tranh , và do đó nhiều quốc gia sẻ lâm vào cảnh chiến tranh chết chóc .

Ta thử ráp chử Canh và chử Long ( long là con Rồng , ) trong 12 cung Tữ vi : cung thìn là cung thứ 5 trong 12 cung vị , như thế ta có Canh thìn , ráp chử Tân và chử Xà, ( xà nghiả là Tỵ , con rắn ) tức là năm Tân Tỵ , Các câu Sấm đều có sự liền lạc, từ chử Phá Điền Thiên Tữ Xuất , khi giải được chữ Phá Điền , ta sẻ biết đó là năm Canh Thìn nào . Tính theo niên đại từ ngày nước Việt Nam lập quốc đến nay , chúng ta đã có 11 chính nguyên , Mổi chính nguyên ta có 180 năm , chia làm Tam nguyên ( Ba nguyên ) và Cưũ vận ( 9 vận ) Lấy mốc từ năm Giáp Tý 1864 , Hải Quân Pháp tấn công vào cưả biển Vũng Tàu , đến năm 1954 Pháp thua trận Điện Biên Phũ , chính nguyên 11 khởi đầu từ năm giáp tý 1864 đến Năm Quý Hợi 2043 tất cả là 180 năm.

Hiện tại chúng ta đang đi vào chính nguyên 11 , thời Kỳ Hạ nguyên vận 8 , Thời kỳ trung nguyên từ vận 5 và vận 6 tức năm 1954 và 1964 chiến tranh gia tăng ở Việt Nam , khi Pháp thua trận Điện Biên Phũ , rút khỏi Đông Dương , Và Mỹ thay chân , khi Mỹ đến Đông Dương vào vận 6 ; từ năm giáp thin 1964 đến năm qúy hợi 1983 , Năm Canh Thìn 2000 Tân Tỵ 2001 xảy ra biến cố Nưũ Ước , năm quý mùi 2003 khi liên quân Anh Mỹ tấn công vào Iraq , hạ bệ Saddam Hussein , Như thế chién tranh trên thế giới bộc phát tuy ở mức độ nhỏ , nhưng lưả chiến tranh vẩn cháy , hằng ngày , vì mổi ngày đều có những vụ phá hoại bằng bom , cuả các tổ chức khủng bố quốc tế.

Phần 2: 
Các nước Cộng Sản : Tàu - Bắc Hàn - Việt Nam phải thay đổi ( tự bắt buộc ) giải thể   chế độ chính trị , độc tài , ác độc , tham tàn . Để thay thế với thể chế Dân chủ , xã hội , tự do . Đến đây chúng ta hiểu được 4 câu Canh niên Tân phá
           Thân Dậu niên lai
Niên lai nghĩa là từ sau năm Giáp Thân , Ất Dậu . Vậy thì chờ xem chẳng còn bao lâu nữa . Năm Đinh Hợi 1947 , Hoàng Đế Bảo Đại về nước . Nay Sau 60 năm lịch sử cũng tái diễn . Tuy không còn danh nghĩa Quân chủ như xưa , nay là Dân chủ . Tức là đảo ngược . Trở lại theo ( mệnh trời ) thiên lý . Chúng ta con Hồng cháu Lạc không cần một thứ chủ thuyết lai căng mất gốc , lại càng không cần thứ < Tự Do bánh vẽ > và Dân Chủ giả hiệu theo Tây âu . Phải làm một cuộc cách mệnh Dân tộc – Dân chủ - thực sự . Nếu muốn sống sót và Tồn tại . Chính nơi từ ngữ Cách mệnh ,mà chúng ta thường nghe nói đến và đôi khi dường như không hiểu ý nghĩa của từ này
Cách mệnh hay là Cách mạng có nghĩa là :
    Cách : thay cũ đổi mới , thay đổi cái xưa củ đã bị hư hỏng , bằng cái mới mẻ tốt đẹp hơn ,
    Mệnh : bản mệnh
Hiểu một cách đơn giản thì cách mệnh là tự mình thay đổi chính nơi mình . Bởi vì khi bản  thân tự thay đổi thì sẽ tác động và ảnh hưởng đến ngoại giới . (  xã hội chung quanh mình )
Bây giờ xin trở lại câu : Long vĩ Xà đầu
       Từ Long vĩ còn có một nghĩa thứ hai . Chữ Long có nghĩa là chòm sao 7 ngôi . mệnh danh là Thanh Long . Nhóm sao này xoay quanh địa cầu và gồm có 4 nhóm x 7 ngôi =28 vị sao gọi là  Nhị Thập Bát Tú .
7 ngôi:  Áng về phía Đông gọi là Thanh Long
7 ngôi : áng về phía Tây gọi là Bạch Hổ
7 ngôi áng về phía Nam  gọi làChu Tước
7 ngôi áng về phía  Bắc gọi là Huyền Vũ
Theo Bảng Lạc Thư 9 Cung . Chúng ta sẽ thấy rất rõ và hiểu tại sao Khoa Phong Thuỷ mệnh danh là Tiền Chu Tước - hậu Huyền vũ .

Phần 2 :   Nếu tính theo tháng , chúng ta sẽ có sự trùng hợp rất đáng chú ý
Tháng giêng âm lịch năm Giáp Thân 2004 chịu ảnh hưởng của sao Giác thuộc nhóm Thanh long
Tháng 2- Cang 3: Đê 4:Phòng 5 Tâm Vĩ 6 Cơ 7 : sao Thanh Long
Tháng 8 Đẩu 9  Ngưu10 Nữ 11 Hư12 Nguy Thất 2 ( Năm Ất Dậu ) Bích - Huyền Vũ
Tháng 3 Khuê -4Lâu 5 vị 6 Mão 7 Tất 8 Chủy 9 Sâm 10 Bạch Hổ
Tháng 10 Tĩnh -11Quỹ 12 Liểu – 1Tinh 2 Thương 3 Dực 4 Chản – Chu Tước
Sự việc sẽ diễn biến từ mùa thu tháng 6 sao Vĩ Tháng 7 sao Cơ . Từ mùa Thu năm Giáp Thân đến mùa thu năm  Ất Dậu
Viết đến đây chúng ta hiểu phần nào về điều mà người  xưa gọi là Thiên Cơ . Phần trùng hợp ở  câu Sấm khác :
                         1 Kê Minh Ngọc Thố Thiên khuynh Bắc
                         2 Ngưu xuất lam điền Nhựt chính Đông
                         3 Nhược Dã ưng  lai Sư tử Thượng
                         4 Tứ phương thiên hạ Thái Bình phong
Câu 3 có thể hiểu : Nếu như mà : Ưng lai: sao Chu Tước
           Sư Tử Thượng : Sao Bạch Hổ
+ Sự gối đầu giữa Bạch Hổ và Chu Tước : Điều đó cho thấy vào mùa thu năm Ất Dậu  1945 đến mùa thu  Ất Dậu 2005 , có gì trùng hợp . Sau 60 năm ??? và Sấm ký Bạch Vân Thi Tập có liên quan gì đến vận mệnh đất nước . Vậy thì câu Sấm Cửu cửu Càn khôn Dĩ định .
Cửu cửu tức là 9 lần 9 bước . Gọi là Bước lường thiên xích ( theo Khoa Huyền Không Thiên Văn  ) theo Quỹ Đạo Lạc Thư :mỗi một nhóm sao di chuyển , từ cung này đến cung khác là 10 năm . Giống như Đại vận của khoa tử vi . Nếu đi giáp vòng 9 cung x 10 năm =  90 Năm . Từ đó ta hiểu chiếm đóng bằng võ lực của nước Pháp tại Đông Dương , Từ 1864 đó là năm Giáp Tý , Chính Nguyên 11 .
Và có một điều trùng hợp về vị trí của  3  nước Việt , Miên Lào < Đông Dương > có liên quan gì đối với Trung Cung của Thiên Bàn Lạc Thư . Trên quả địa cầu , theo các nước có nguồn văn minh cổ nhất Ấn Độ Trung Hoa - Việt Nam - đều có  những nghiên cứu và có sự lãnh hội nơi kinh dịch . 3 quốc gia này là một  Tam Giác  Tuyến . Điều đó có ý nghĩa gì ? Tại sao các cường quốc khi dùng võ lực để chiếm đóng Đông Dương đều bị sa lầy . Cường quốc thứ nhất đó là  Mông Cổ . Kế đến là Mán Thanh . Sau nữa là Pháp . Rồi Nhật Bản . Sau là Mỹ và Nga Sô . và hiện tại là Cộng Sản VN
Cộng Sản VN là nước Việt ở phương Bắc đã chiếm đóng và tiêu diệt thể chế chính trị cuả Nước Việt ở phương Nam . Và chính vì thế mà họ đã sa lầy và sẽ rơi vào vùng sình mặt võng <Sable mouvant> ; nhân tài của nước Việt ở   phương Nam đã đi lánh nạn một phần lớn qua lời Thoán của Quẻ Bĩ Nơi Kinh Dịch dạy : ( sau ngày 30 – 4 – 75 )
            Thiên Địa Bế Tắc Hiền Nhân Ẩn
1-       Hiên tại vấn đề Đông Dương vẫn còn nhiều ẩn số . Tại sao hầu hết các cường quốc đều rước lấy mối nhục ngàn đời tại Đông Dương ???
2-      Tại sao người Mỹ chú ý gì ( thực sự ) về Đông Dương . Ngoài lý do họ đưa ra là : Ngăn sức bành trướng của đế quốc Trung Hoa Đỏ ! Đó chỉ là diện bề mặt !  Bên trong còn ẩn chứa điều gì ?
3-      Tại sao Cam Ranh lại trở thành điểm chiến lược ? Vấn đề đó là gì ? Ngoài các lý do mà Mỹ đưa ra ?
4-      Tại sao dân tộc Việt  Nam vốn yếu đuối , nhưng lại tồn tại qua bao nhiêu thế kỷ chinh chiến ? Phải chăng có một lý lẽ nào đó về Nguồn Văn Minh Tinh Thần ???
5-      Tại sao chúng ta có thể dùng 5 lóng của 3 ngón tay, trên bàn tay trái để áp dụng các quy tắc toán học không gian một cách đơn giản ???
6-      Tại sao tiền nhân của dân tộc Bách Việt biết xử dụng các yếu quyết trong <Lạc thư Toán pháp >và vận dụng vào chính trị - hành chánh . quân sự để chống xâm lược ???
7-      Hiện tại có bao nhiêu cường quốc đang chú ý , đang có bộ phận nghiên cứu , áp dụng xử dụng các lý thuyết , các quy tắc nơi Kinh Dịch . Họ áp dụng rộng rãi vào chính trị - kinh tế - quân sự - thương mại …….Họ đã thành công trên nhiều lãnh vực với tinh thần hiểu biết - cầu tiến – không có chấp - bảo thủ như cổ nhân
8-      Có phải chăng sau khi vấn đề Đông Dương trở thành vấn đề sau chót được giải quyết xong . Thì Thế giới trở nên hợp nhất trong chương trình <Liên Lục Địa > ???
Người viết bài này chỉ là thường dân ,   không có kiến thức của nhà Bác Học , không có tham vọng về chính trị , không thích dùng bạo lực để khống chế kẻ khác , không hề chú ý gì đến vinh hoa phú quý . Bằng cấp chỉ có bằng Tiểu học , va sở dĩ viết loạt bài này là vì nhớ đến câu : Một con Ngựa đau  , cả tầu không ăn cỏ
Và lại nhớ câu : <Quốc gia hưng vong Thất phu hữu trách >
Hơn thế nữa , bản thân người viết không có ý dạy bảo người khác , cho nên có thể có thiếu sót trong câu văn , hoặc có thể luộm thuộm qua cách trình bày
Nói tóm lại gần 30 năm đi sâu vào không gian <kinh dịch > người viết cũng học hỏi được đôi điều nơi cổ nhân qua kinh Chu dịch . Đôi khi cuộc sống cũng có phần cơ cực , do hoàn cảnh , nhưng thân tuy nghèo , mà tâm vẫn hạnh thông . Dù thắng không kiêu , bại không nản . Đến nay trải qua 29 năm , đối với đời người , quả là một quảng thời gian dài . Sau đây , thời gian vừa qua , do một sự thúc đẩy của siêu nhiên ( năng lực vô danh ) , nên viết các loạt bài có liên quan đến Sấm ký <Bạch Vân Thi Tập >
<  Khi thời chưa đến thì đó là Thiên Cơ Bất Khả Lậu >. Nay đã đến kỳ thì tạm lộ đôi điều . Nhưng dù sao nơi Sấm ký vẫn còn có nhiều điều ,mà dù có hiểu cũng không được phép tiết lộ . Mình chỉ trình bày những gì được phép . Đó là kỷ luật ,là luật của cõi âm . Nếu phạm phải thì sẽ chuốc lấy tai họa thảm khốc . Đó là do kinh nghiệm trực tiếp của kẻ hàn sĩ . Nếu trót phạm vào ngôi vị của Quý Nhân mà mình không có phúc phận , thì thật là đại họa . Dù có làm bất cứ điều gì ? Nói gì ? cũng không để thái quạ quá thời ) bất cập (thời chưa đến )
Loạt bài này còn dài . Nay tạm ngừng nơi đây
                                                    
                                                                        Phương Đoài tiết trong xuân Giáp Thân 2004
                                                                                          Lam  Sơn họ Lê
Back to top
« Last Edit: 14. Aug 2010 , 08:25 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #13 - 17. Aug 2010 , 11:00
 
                                  
                                 
       Tây bắc Càn       Bắc khãm       Đông bắc Cấn
              7                     2                      9

        Tây  Đoài          Trung cung      Đông Chấn      
             8                       6                     4

      Tây nam Khôn     Nam Ly         Đông Nam Tốn
            3                       1                      5 
                        
Có  một  điểm  trùng  hợp  khi  Liên  quân  Mỹ  ở  Tây  Bắc  ( 6 )  Anh (  7  )  thuộc  Âu  Châu  tấn  công  Irak  thì  Trung  Hoa  bùng  lên  khói  mây  dịch  bệnh 

Đây  không  phải  là  bệnh  dịch  bình  thường  .  Mà  chính  là   chiến  tranh  vi  trùng  . Sao  Liêm  Trinh  mầu  vàng  số  5  , chòm  sao  5  ngôi  ,  tượng  trưng  cho  dịch  tế  và   tai  họa  .  Sau  trận  dịch  tể  kinh  khiếp  này  nước  Tàu  đỏ  sẽ  tự  chia  năm  xẻ  bảy  .  Điều  đó  ta  sẽ  bàn  ở  các  chương sau .
  Điều  hợp  lý   là  nước  Việt  nam  Cộng  Sản  bị  tàu  khống  chế  từ  lâu  ,  nay  thì  đã  hết  vì  cơ  trời  vận   chuyển  . Dân chúng Việt Nam tự  đứng lên đập bỏ hình tượng độc tài là đảng và nhà nước cộng sản tại Việt Nam  
Sao  Ngũ  Hoàng  Liêm  Trinh mầu  vàng  thuộc  Thổ .  Tượng  trưng  Đại  sát  tinh  là  thiên  tai  ,  là  dịch  họa  .  Cho  nên  Trung  Quốc  Cộng  Sản  xảy  ra  một  loạt  bịnh  dịch  truyền  nhiễm  .  Số  tử  vong  lên  đến  hàng  ngàn  nhân  mạng  .  Sự  kiện  này  xảy  đến  vào  mùa  xuân  năm  Quý  Mùi  2003  Trùng  hợp  về  việc  liên  quân  Anh  Mỹ  tấn  công  IRAK .
Và  còn  hơn  thế  nữa  nếu  ta  xem  lại  bài  Sấm  ký  của  Quân  Sư  Lưu  Bá  Ôn  triều  đại  Minh  (  Trung  Quốc  )  về  bài  ca  Chiếc  Bánh  Nướng  rất  nổi  tiếng  .  Tiên  đoán  trước  nước  Cộng  Sản  Trung  Hoa  sẽ  đổi  thể  chế  chính  trị  ,  Và  đảng Cộng  Sản  Tàu   biến  mất  .  Cùng  lúc  với  sự  chia  năm  xẻ  bảy  của  Tàu  .  Khi  nước  Tàu   bị  chia  xẽ  bởi  chính  người  dân  , thì  sự  rã  tan  băng  hoại  của  Đảng  và  chính  quyền  Cộng  Sản  Việt  Nam  cũng  có  thể  xảy  đến  trong  ngày  giờ  . 
Chính  quyền  và  Đảng  Cộng  Sản  Việt  Nam  rất  gian  manh  và  tổ  sư  nói  dóc  ,  là  vua  ăn  cắp  ,  ký  cóp  ,  đạo  văn  .  Nhất  là  khi  bắt  chước  theo  câu  nói  nổi  tiếng  của   Quản  Trọng  , đáp  lại  câu  hỏi  của  vua  Tề  Hoàn  Công : khi  vua  Tề  hỏi  Quản  Trọng  về  sách  lược  cai  trị  trong  lúc  cấp  thiết  .  Quản  Trọng  thưa :  muốn  cho  dân  và  binh  lính  có  lương  thực  thì  trồng lúa ,  vì  lợi  ích  10 năm  ta  trồng  cây  ăn  trái  , vì  lợi  ích  trăm  năm  ta  cần  phải  đào  tạo  nhân  tài  ,  gọi  là  trồng  người ;  Hồ  Chí  Minh  chỉ  là  Tổ  sư Ăn  Cắp  .  Văn  tự  của  đời  xưa  ,  và  khi  làm  thì  tiêu  diệt  dần  mòn  nhân  tài  trí  thức  trong  các  nhà  tù  lao  động  khổ  sai  .  Chế  độ  độc  tài  tiêu  diệt  sĩ  phu  thì  chính là  tự  diệt  .  Khi  đảng  Cộng  Sản  Tàu  ăn  cắp  ,  ăn  cướp  công  khai  thì  Đảng  Cộng  Sản  Việt  Nam  rập  khuôn  , nhưng  văn  vẻ  hơn  .  Ăn  cắp  ,  ăn  cướp  có  bài  bản  , có  môn  bài  . 
Những  loại  chính  thể  nào  , chính  quyền  nào  cai  trị  dân  bằng  Bạo  lực ,  bằng  dối  trá  ban  hành  chính  sách  Ngu  Dân , Lừa  dối và  đàn  áp  dân  thì  nhất  định  sẽ  đi  vào  con  đường  Tự  Sát .  Họ  không  quên  rằng  không  có  thể  nào  che  dấu  những  điều  dối  trá  mãi  mãi  .  Và  nhất  là  Dân  Chúng  là  một  sức  mạnh  khủng  khiếp  .  Chính  họ  đã  từng  lếu  láo  khi  khẳng  định :  Nơi  nào  có  đàn  áp  thì  nơi  đó  có  đấu  tranh  .  Rõ  ràng  là  gậy  ông  đập  lưng  ông  .   Các  loạt  bài  sẽ  còn  nối  tiếp 
   Phương  Đoài   Tiết  Hạ  Chí  Paris  mùa  hạ 
                                                                                 LAM  SƠN  HỌ  LÊ 
  Ai có nhu cầu   trao  đổi  xin  liên  lạc 
  lamsonparis2016@gmail.com








Back to top
« Last Edit: 04. Dec 2017 , 02:11 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #14 - 15. Oct 2010 , 01:42
 
                    SẤM  KÝ  TRẠNG  TRÌNH  (  TIẾP  THEO  ) 


                                           Long  vỉ   xà  đầu  khởi  chiến  tranh 
                                           Can  qua  xứ  xứ  khổ   đao  binh 
                                            Mã  đề  Dương  cước  anh  hùng  tận
                                            Thân  Dậu  niên  lai  kiến  thái  bình 
-      Nếu  muốn  giải  các  câu  Sấm  truyền :
-       Ta phải  xử  dụng đến các  phương  thức  của môn Toán học Không gian , gọi là Thiên  văn  Thái  Ất phối hợp các số ký hiệu tiêu biểu cho Nhóm sao Thái ất vận hành  trong  90 năm ,qua cửu cung của Lạc Thư < tài liệu nghiên cứu cổ  do các nhà bác học Bách Việt soạn ra >  .  Trước thời kỳ dân tộc và lãnh thổ Lạc Việt bị giặc phương Bắc xâm lấn và thống trị . Căn cứ nơi các câu thơ  cổ , ta cóThất xích hạ  nguyên Đoài vị Tầm (đặt Giáp tý vào cung đoài số 7 )
-      Có nghĩa là muốn tìm vị trí của Thái Tuế đóng tại nơi nào , ta phải tìm theo phương pháp của khoa thiên văn cổ . Ví dụ năm 2003 ứng với năm Quý Mùi (Âm lịch ) . Ta khơi Giáp Tý tại cung số 7  (Đoài  cung )  . Năm  Giáp Tý 1984 thuộc hạ Nguyên , an vị tại  Đoài số 7 . 1984  Giáp Tý tại Đoài .  Ất  Sửu  1985 tại Càn  6  Bính Dần  1986 Trung cung 5  .  Đinh Mão 1987  Tốn . Mậu Thìn 1988 chấn 3 . Kỷ Tỵ khôn 2  (1989) Canh Ngọ 1990 Khảm 1 . Tân Mùi 1991 Ly 3 , Nhâm Thân 1992 Cấn 8 Quý Dậu Đoài 7 ( 1993 ) . Tiếp theo : năm Giáp Tuất 1994 Càn 6 Ất Hợi 1995 nhập Trung Cung 5 . Bính Tý 1996 cung Tốn  Đinh Sửu 1997 chấn 3 . Mậu Dần 1998 Khôn 2. Kỷ Mẹo 1999 Khảm 1 . Canh Thìn 2000  ly 9 . Tân Tỵ 2001  cấn 8  . Nhâm  Ngọ  2002  Đoài 7 . Quý Mùi  2003 càn  6

-      Tình hình thời sự thế giới chuyển biến dồn dập vào năm Canh Thìn 2000 Bắt đầu từ 2000 đã thấy tình hình rối rắm ở Trung Đông . Liên quan đến vấn đề không tặc và khủng bố quốc tế tấn công vào các nước tư bản  .Tình hình nóng bỏng vào năm Tân Tỵ 2001. xày ra vào mùa  Thu ở Nữu Ước . Khi hai toà cao ốc bị phi cơ đâm vào Nước Mỹ tại cung Càn 6 Tây Bắc . Nếu đem vị trí nước Mỹ  đặt vào bảng  Lạc Thư Cửu Cung . Ta  thấy phương  Đông Bắc bị thảm nạn

-      Thái Tuế Tân Tỵ lưu niên Phi tinh tại cung Cấn . Số 8 nhập Trung cung

-      Sau khi 2 tòa cao ốc của Nữu  Ước bị tàn phá . Năm Nhâm Ngọ Thái Tuế  tọa  lạc  vào cung Đoài 7 . Thế lực chính trị ( cung đoài thuộc phương Tây tư bản ) . Quẻ Đoài tượng trưng cho khẩu thuyết , mồm mép , chỉa mũi dùi vào phương Đông . Ảnh hưởng và tác động của quẻ Đoài theo học thuyết quân sự : Tiên Dụng Lễ hậu Động Binh

-                                         Rồng nằm bể cạn dễ ai hay

-                                        Rồng là hình tượng quẻ Càn

-                                        Rồng nằm : tức là quẻ Càn Nội (ở bên dưới )

-                                        Hào sơ cứu quẻ Càn có tượng Tiềm Long

-                                        Nạp giáp cho quẻ Càn Nội : Thiên Can và địa chi Giáp Tý

-                                        Từ năm Giáp Tý đến Quý Dậu là một đại vận 10 năm

-      Trở lại toàn 8 câu Sấm

-      1- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay

-      2- Rắn mới hai đầu khó chiụ thay

-      3- Ngựa đã gác yên không người cỡi

-      4-Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây

-      5 Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu

-      6- Gà kia vỗ cánh chập chùng bay

-      7- Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa

-      8- Ăn no ủn ỉn Lợn kêu ngày


2-      Rắn mới hai đầu :Rắn là năm Tỵ . Mới là Tân .  Năm Tân Tỵ
3-      Ngựa đã gác yên không người cỡi : Ngựa là năm Ngọ , gác yên tức là Ngựa mặc giáp . tức là giáp mã không người cữi : tức là hưu chiến hoặc đình chiến
4-      Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây Cheesyê là năm Mùi  có nghĩa là Tây Dương tức là người Pháp rút khỏi Đông dương
Bây giờ muốn xác định rõ ràng thời điểm nào , chúng ta phải xử dụng Lạc Thư cửu cung và phối hợp Lưu Niên Thái Tuế của Lục Thập Hoa Giáp
Lục Thập Hoa Giáp : 60 năm gồm có 6 Can giáp . Mỗi tuần giáp có 10 Can .  6 tuần giáp có 60 năm . Mỗi một nguyên = 60 năm . Ba nguyên x60 năm = 180 năm
Mỗi một nguyên sẽ là một vận . Thời kỳ hiện tại thuộc Chính nguyên 12
Khởi từ vận 1 :  1864 – 1883 , kết thúc ở vận 9  : 2024 – 2043
Nói tóm lại muốn xác định Lưu Niên Thái Tuế , chúng ta phải xử dụng bảng Lục Thập hoa giáp phối hợp Tam Nguyên cửu vận
Chúng ta lại cần có  thêm một yếu tố nữa , đó là phối trí Lục Thập Hoa Giáp vào các phương trình Độn giáp
Xin nhắc lại các nguyên lý dịch - gồm có hai phần : Tịnh và động . Như  Âm và Dương
-Con người và sự việc gồm có hai phần chính: Bản thể vốn tĩnh lặng . Công năng vốn động . Binh pháp thời xưa đã viết : Tịnh Vi Dân , Động Vi Binh –
Phần  Lưu Niên Thái Tuế cũng thế Theo như khoa tử vi sinh năm nào ta an Thái tuế theo địa chi  của năm sinh . An vào cungcó cùng tênvới chi của năm sinh . Thái Tuế là một chuổi thiên thể  gồm  12 ngôi. Có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của từng sinh vật trên  quả địa cầu . Khi an vị Thái Tuế như thế,là về phần bản thể phần hoạt động ( mouvement) Chúng ta có cách tính thứ nhì theo phương thức của khoa Thiên văn Thái Ất . Đó là sự phối hợp của Phi tinh theo quỹ đạo Lạc Thư qua Cửu Cung .  Đây là phần quan trọng và chính yếu  . Dịch viết : Không động , không bói , không bàn tốt xấu , lợi hại , hối tiếc và lầm lẫn
Trước hết ta thiết lập Bảng Lục Nghi, tam kỳ. Thứ đến thiết trí bảng Lạc Thư . Ví dụ : căn cứ theo lời Sấm :
     Hạ Nguyên Giáp Tý Canh đầu
     Thanh bình nằm tại hương câu hưởng nhàn
-Sau đây là Bảng Lục Nghi , Tam kỳ của phương trình Độn Giáp .
Giáp Tý Thượng  Nguyên vận
  vận           1-   Từ 1864  - 1883
                   2-   Từ 1884-   1903
                   3 -   Từ 1904 -  1923

TÍnh năm Gíap Tý của thời Trung Nguyên 
Từ vận 4 – 1924  -- 1943  .  Từ Giáp Tý      __    Quý  Mùi
Từ vận 5  - 1944  – 1963 -    Từ Giáp Thân  __   Quý  Mão
Từ vận 6  - 1964  – 1983     Từ  Giáp Thìn   __    Quý Hợi
60      năm 
   
     Năm Giáp Tý của thời Hạ Nguyên
      Từ vận 7   -   1984  -  2003         Giáp Tý      __   Quý Mùi 
      Từ vận 8  -   2004  -  2023          Giáp Thân   __   Quý Mão
      Từ vận 9  -   2024  - 2043           Giáp Thìn    __   Quý Hợi
                 60  năm
      
      Năm Giáp Tý thời Trung Nguyên
       G Tý      Mậu         4                Giáp Ngọ   1             Ất            5
       G Tuất    Kỷ           3               Giáp Thìn   9             Bính        6
       G  Thân  Canh        2               Giáp Dần   8             Đinh        7

  Chúng ta áp dụng theo nguyên tắc : Giáp tý trung nguyên tứ lục khởi ; tức là đem năm Giáp Tý 1924 vào cung tốn số 4 ; từ đó tính ngược , Giáp tý 1924 tại cung tốn 4 , Ất Sửu 1925 cung chấn 3 , Bính Dần 1926 cung Khôn 2 , Đinh mảo 1926 cung khãm 1 , Mậu thin 1927 cung Ly 9 ; Kỹ tỵ 1928 Cung Cấn 8 ; Canh ngọ 1929 cung Đoài 7 , Tân Mùi 1930 cung Càn 6 ; Nhâm thân 1931 trung cung số 5 , Quý Dậu cung tốn 4 ;


                                 CÀN 6                KHÃM  1                     CẤN  8

                    Tân mùi    1931             Đinh Mảo 1927              Kỹ tỵ 1929
                                                
                                ĐOÀI               TRUNG CUNG              CHẤN 3

                          Canh ngọ   1930    Nhâm thân  1932            Ất Sữu 1925



                                 KHÔN                      LY                            TỐN

                         Bính dần 1926           Mậu thin  1928            Giáp Tý  1924
                                                                                                 Quý Dậu  1933

Muốn tính ra phương vị của Thái Tuế Lưu Niên thì ta phải xử dụng phương trình độn giáp
Theo câu Sấm Rồng nằm bể cạn . Rồng năm Thìn 1940
                        Rắn mới hai đầu     Tân Tỵ               1941
Theo Lưu Niên Phi Tinh năm Canh Thìn Thái đến an vị tại cung Càn mang số 6 . Ảnh hưởng của sao Vũ Khúc quẻ Càn . Tượng trưng cho Pháp luật .
     Rồng nằm bể cạn -  Căn cứ theo Thoán Từ và Hào Từ của quẻ thuần Càn : Sơ Hào là thời kỳ Tiềm Long ẩn Phục . Nên gọi là Rồng nằm Năm Canh Thìn sao Tuần Thủ Chấn 3 . Sao Lộc Tồn gặp năm Canh tại cung 2   Thương môn đến năm Thìn di chuyển đến cung Càn  Theo Bát Trạch và Phong Thủy gọi là Thiên lôi vô vọng
-Thế lực Phương Đông chế ngự phương Tây . Khối trục : Nhật - Đức - Ý tấn công vào phương Tây
thanks.gifhù hiệu của đảng Quốc Xã  mang hình chữ Vạn ngược Chữ Vạn  đặt thuận chiều thì tượng trưng cho Thái Bình Chữ Vạn dặt ngược chiều thành tượng binh đao . vì đi ngược Thiên lý
Từ năm Giáp Tý độn tại Kỷ 3 có sao Tuần Thủ Lộc Tồn . Tượng Chấn động ;
Bắt đầu Giáp tuất Sao Lộc Tồn ( cung chấn 3 có nghiả là Chấn động ) hay là sấm sét nổi lên ở phương đông , Tức nước Nhật , Ất hợi 1935 cung khôn ở Tây nam , Năm Bính tý 1936 cung Khảm ở Bắc , năm Đinh Sưủ 1937 ở Nam , Năm Mậu Dần 1938 ở cung Cấn đông bắc , Năm kỹ mảo 1939 ở Đoài , năm Canh thin 1940 ở Tây bắc , Năm tân tỵ 1941 ở trung cung , năm Nhâm ngọ 1942 ở cung tốn , năm quý Mùi 1943 ở cung Chấn ,
-                                          
Loạt bài về Sấm Ký còn tiếp ,
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #15 - 15. Oct 2010 , 01:44
 
              SÂM KÝ TIẾP THEO PHÂN III


Từ một dạo gần đây , Các câu sấm lại được loan truyền qua nhiều hình thức , được phổ biến trên báo chí Việt ngữ , Nhất là các câu :
         
           Phá Điền Thiên Tử Xuất ,
           Bất Chiến Tự Nhiên Thành .

                        *******
       Long Vỉ Xà Đầu Khởi Chiến Tranh ,
       Can Qua Xứ Xứ khổ Đau Binh .
       Mã Đề Dương Cước Anh Hùng Tận ,
       Thân Dậu Niên Lai Kiến Thái Bình .

Qua các câu trên chúng ta nên hiểu như thế nào , Nhất là nguyên văn lại được viết theo thể văn Hán Việt ( Hán Nôm ) Người Việt Nam thời xưa , thường viết theo văn Hán Nôm; nhưng cách viết lại không giống như người Trung hoa thường viết , đó là sự khác nhau giữa người Tàu và người Việt ,

Các từ Canh Tân , là các Thiên Can ( theo lý thuyết kinh Dịch ) dùng để chỉ tên cuả năm tháng , ngày , giờ. Ví dụ như năm 2010 mang tên Canh Dần , Danh từ chuyên môn gọi là tứ trụ . Tức là 4 yếu tố dùng  trong Âm Lịch ( nông lịch ) . Nhưng nói năm canh thì phải là năm Canh nào , vì trong một lục thập hoa giáp , gồm có 60 năm , mổi thập can ( 10 năm ) chỉ có một năm mang chử Canh , như Canh tý , Canh dần , Canh thìn , Canh ngọ , Canh thân , Canh Tuất . Nguyên tắc cuả Lý thuyết Kinh Dịch là sự chính xác , nhưng vấn đề ở đây , các câu Sấm được viết ra , hàu như là các đầu đề toán thật khó giải , như là các câu đố ,
Các năm Canh thường có những tai hoạ về chiến tranh , và do đó nhiều quốc gia sẻ lâm vào cảnh chiến tranh chết chóc .

Ta thử ráp chử Canh và chử Long ( long là con Rồng , ) trong 12 cung Tữ vi : cung thìn là cung thứ 5 trong 12 cung vị , như thế ta có Canh thìn , ráp chử Tân và chử Xà, ( xà nghiả là Tỵ , con rắn ) tức là năm Tân Tỵ , Các câu Sấm đều có sự liền lạc, từ chử Phá Điền Thiên Tữ Xuất , khi giải được chữ Phá Điền , ta sẻ biết đó là năm Canh Thìn nào . Tính theo niên đại từ ngày nước Việt Nam lập quốc đến nay , chúng ta đã có 11 chính nguyên , Mổi chính nguyên ta có 180 năm , chia làm Tam nguyên ( Ba nguyên ) và Cưũ vận ( 9 vận ) Lấy mốc từ năm Giáp Tý 1864 , Hải Quân Pháp tấn công vào cưả biển Vũng Tàu , đến năm 1954 Pháp thua trận Điện Biên Phũ , chính nguyên 11 khởi đầu từ năm giáp tý 1864 đến Năm Quý Hợi 2043 tất cả là 180 năm.

Hiện tại chúng ta đang đi vào chính nguyên 11 , thời Kỳ Hạ nguyên vận 8 , Thời kỳ trung nguyên từ vận 5 và vận 6 tức năm 1954 và 1964 chiến tranh gia tăng ở Việt Nam , khi Pháp thua trận Điện Biên Phũ , rút khỏi Đông Dương , Và Mỹ thay chân , khi Mỹ đến Đông Dương vào vận 6 ; từ năm giáp thin 1964 đến năm qúy hợi 1983 , Năm Canh Thìn 2000 Tân Tỵ 2001 xảy ra biến cố Nưũ Ước , năm quý mùi 2003 khi liên quân Anh Mỹ tấn công vào Iraq , hạ bệ Saddam Hussein , Như thế chién tranh trên thế giới bộc phát tuy ở mức độ nhỏ , nhưng lưả chiến tranh vẩn cháy , hằng ngày , vì mổi ngày đều có những vụ phá hoại bằng bom , cuả các tổ chức khủng bố quốc tế.

Phần 2: 
Các nước Cộng Sản : Tàu - Bắc Hàn - Việt Nam phải thay đổi ( tự bắt buộc ) . thể   chế chính trị , độc tài , ác độc , tham tàn . Để thay thế với thể chế Dân chủ , xã hội , tự do . Đến đây chúng ta hiểu được 4 câu Canh niên Tân phá
                                         Thân Dậu niên lai
Niên lai nghĩa là từ sau năm Giáp Thân , Ất Dậu . Vậy thì chờ xem chẳng còn bao lâu nữa . Năm Đinh Hợi 1947 , Hoàng Đế Bảo Đại về nước . Nay Sau 60 năm lịch sử cũng tái diễn . Tuy không còn danh nghĩa Quân chủ như xưa , nay là Dân chủ . Tức là đảo ngược . Trở lại theo ( mệnh trời ) thiên lý . Chúng ta con Hồng cháu Lạc không cần một thứ chủ thuyết lai căng mất gốc , lại càng không cần thứ < Tự Do bánh vẽ > và Dân Chủ giả hiệu theo Tây âu . Phải làm một cuộc cách mệnh Dân tộc – Dân chủ - thực sự . Nếu muốn sống sót và Tồn tại . Chính nơi từ ngữ Cách mệnh ,mà chúng ta thường nghe nói đến và đôi khi dường như không hiểu ý nghĩa của từ này
Cách mệnh hay là Cách mạng có nghĩa là :
         Cách : thay cũ đổi mới
         Mệnh : bản mệnh
Hiểu một cách đơn giản thì cách mệnh là tự mình thay đổi chính nơi mình . Bởi vì khi bản  than tự thay đổi thì sẽ tác động và ảnh hưởng đến ngoại giới . (  xã hội chung quanh mình )
Bây giờ xin trở lại câu : Long vĩ Xà đầu
       Từ Long vĩ còn có một nghĩa thứ hai . Chữ Long có nghĩa là chòm sao 7 ngôi . mệnh danh là Thanh Long . Nhóm sao này xoay quanh địa cầu và gồm có 4 nhóm x 7 ngôi =28 vị sao gọi là  Nhị Thập Bát Tú .
7 ngôi:  Áng về phía Đông gọi là Thanh Long
7 ngôi : áng về phía Tây gọi là Bạch Hổ
7 ngôi áng về phía Nam  gọi làChu Tước
7 ngôi áng về phía  Bắc gọi là Huyền Vũ
Theo Bảng Lạc Thư 9 Cung . Chúng ta sẽ thấy rất rõ và hiểu tại sao Khoa Phong Thuỷ mệnh danh là Tiền Chu Tước - hậu Huyền vũ .

Phần 2 :   Nếu tính theo tháng , chúng ta sẽ có sự trùng hợp rất đáng chú ý
Tháng giêng âm lịch năm Giáp Thân 2004 chịu ảnh hưởng của sao Giác thuộc nhóm Thanh long
Tháng 2- Cang 3: Đê 4:Phòng 5 Tâm Vĩ 6 Cơ 7 : sao Thanh Long
Tháng 8 Đẩu 9  Ngưu10 Nữ 11 Hư12 Nguy Thất 2 ( Năm Ất Dậu ) Bích - Huyền Vũ
Tháng 3 Khuê -4Lâu 5 vị 6 Mão 7 Tất 8 Chủy 9 Sâm 10 Bạch Hổ
Tháng 10 Tĩnh -11Quỹ 12 Liểu – 1Tinh 2 Thương 3 Dực 4 Chản – Chu Tước
Sự việc sẽ diễn biến từ mùa thu tháng 6 sao Vĩ Tháng 7 sao Cơ . Từ mùa Thu năm Giáp Thân đến mùa thu năm  Ất Dậu
Viết đến đây chúng ta hiểu phần nào về điều mà người  xưa gọi là Thiên Cơ . Phần trùng hợp ở  câu Sấm khác :
                  Kê Minh Ngọc Thố Thiên khuynh Bắc
                  Ngưu xuất lam điền Nhựt chính Đông
                  Nhược giã ưng  lai Sư tử Thượng
                  Tứ phương thiên hạ Thái Bình phong
Câu 3 có thể hiểu : Nếu như mà : Ưng lai: sao Chu Tước 9 đến thay vào vị trí Đoài ( Tây )Thì Sư Tử 7 Thượng lên ngôi trung cung : Sao Bạch Hổ
+ Sự gối đầu giữa Bạch Hổ và Chu Tước : Điều đó cho thấy vào mùa thu năm Ất Dậu  1945 đến mùa thu  Ất Dậu 2005 , có gì trùng hợp . Sau 60 năm ??? và Sấm ký Bạch Vân Thi Tập có lien quan gì đến vận mệnh đất nước . Vậy thì câu Sấm:  Cửu cửu Càn khôn Dĩ định .
Cửu cửu tức là 9 lần 9 bước . Tính theo Quỹ Đạo Lạc Thư :mỗi một nhóm sao di chuyển , từ cung này đến cung khác là 10 năm . Giống như Đại vận của khoa tử vi . Nếu đi giáp vòng 9 cung x 10 năm =  90 Năm . Từ đó ta hiểu chiếm đóng bằng võ lực của nước Pháp tại Đông Dương , Từ 1864 đó là năm Giáp Tý , Chính Nguyên 12 .
Và có một điều trùng hợp về vị trí của  3  nước Việt , Miên Lào < Đông Dương > có liên quan gì đối với Trung Cung của Thiên Bàn Lạc Thư . Trên quả địa cầu , theo các nước có nguồn văn minh cổ nhất Ấn Độ Trung Hoa - Việt Nam - đều có  những nghiên cứu và có sự lãnh hội nơi kinh dịch . 3 quốc gia này là một  Tam Giác  Tuyến . Điều đó có ý nghĩa gì ? Tại sao các cường quốc khi dùng võ lực để chiếm đóng Đông Dương đều bị sa lầy . Cường quốc thứ nhất đó là  Mông Cổ . Kế đến là Mán Thanh . Sau nữa là Pháp . Rồi Nhật Bản . Sau là Mỹ và Nga Sô . và hiện tại là Cộng Sản VN
Cộng Sản VN là nước Việt ở phương Bắc đã chiếm đóng và tiêu diệt thể chế Nước Việt ở phương Nam . Và chính vì thế mà họ đã sa lầy và sẽ rơi vào vùng sình mặt võng <Sable mouvant> ; nhân tài của nước Việt ở   phương Nam đã đi lánh nạn một phần lớn qua lời Thoán của Quẻ Bĩ Nơi Kinh Dịch dạy : ( sau ngày 30 – 4 – 75 )
                                 Thiên Địa Bế Tắc Hiền Nhân Ẩn
1-       Hiên tại vấn đề Đông Dương vẫn còn nhiều ẩn số . Tại sao hầu hết các cường quốc đều rước lấy mối nhục ngàn đời tại Đông Dương ???
2._Tại sao người Mỹ chú ý gì ( thực sự ) về Đông Dương . Ngoài lý do họ đưa ra là : Ngăn sức bành trướng của đế quốc Trung Hoa Đỏ ! Đó chỉ là diện bề mặt !  Bên trong còn ẩn chứa điều gì ?
3_Tại sao Cam Ranh lại trở thành điểm chiến lược ? Vấn đề đó là gì ? Ngoài các lý do mà Mỹ đưa ra ?
4-Tại sao dân tộc Việt  Nam vốn yếu đuối , nhưng lại tồn tại qua bao nhiêu thế kỷ chinh chiến ? Phải chăng có một lý lẽ nào đó về Nguồn Văn Minh Tinh Thần ???
5-Tại sao chúng ta có thể dùng 9 lóng của 3 ngón tay, trên bàn tay trái để áp dụng các quy tắc toán học không gian một cách đơn giản ??? 9 lóng cuả bàn tay trái , lại có thể tương ứng với địa bàn Cưu Cung cuả Bảng Lạc Thư 
6-Tại sao tiền nhân của dân tộc Bách Việt biết xử dụng các yếu quyết trong <Lạc thư Toán pháp >và vận dụng vào chính trị - hành chánh . quân sự để chống xâm lược ???
7-Hiện tại có bao nhiêu cường quốc đang chú ý , đang có bộ phận nghiên cứu , áp dụng xử dụng các lý thuyết , các quy tắc nơi Kinh Dịch . Họ áp dụng rộng rãi vào chính trị - kinh tế - quân sự - thương mại …….Họ đã thành công trên nhiều lãnh vực với tinh thần hiểu biết - cầu tiến – không có chấp - bảo thủ như cổ nhân
8-      Có phải chăng sau khi vấn đề Đông Dương trở thành vấn đề sau chót được giải quyết xong . Thì Thế giới trở nên hợp nhất trong chương trình <Liên Lục Địa > ???
Người viết bài này chỉ là thường dân ,   không có kiến thức của nhà Bác Học , không có tham vọng về chính trị , không thích dùng bạo lực để khống chế kẻ khác , không hề chú ý gì đến vinh hoa phú quý . Bằng cấp chỉ có bằng Tiểu học , va sở dĩ viết loạt bài này là vì nhớ đến câu : Một con Ngựa đau  , cả tầu không ăn cỏ
Và lại nhớ câu : <Quốc gia hưng vong Thất phu hữu trách >
Hơn thế nữa , bản thân người viết không có ý dạy bảo người khác , cho nên có thể có thiếu sót trong câu văn , hoặc có thể luộm thuộm qua cách trình bày
Nói tóm lại gần 30 năm đi sâu vào không gian <kinh dịch > người viết cũng học hỏi được đôi điều nơi cổ nhân qua kinh Chu dịch . Đôi khi cuộc sống cũng có phần cơ cực , do hoàn cảnh , nhưng thân tuy nghèo , mà tâm vẫn hạnh thông . Dù thắng không kiêu , bại không nản . Đến nay trải qua 29 năm học hỏi, đối với đời người , quả là một quảng thời gian dài . Sau đây , thời gian vừa qua , do một sự thúc đẩy của siêu nhiên ( năng lực vô danh ) , nên viết các loạt bài có liên quan đến Sấm ký <Bạch Vân Thi Tập >
<  Khi thời chưa đến thì đó là Thiên Cơ Bất Khả Lậu >. Nay đã đến kỳ thì tạm lộ đôi điều . Nhưng dù sao nơi Sấm ký vẫn còn có nhiều điều ,mà dù có hiểu cũng không được phép tiết lộ . Mình chỉ trình bày những gì được phép . Đó là kỷ luật ,là luật của cõi âm . Nếu phạm phải thì sẽ chuốc lấy tai họa thảm khốc . Đó là do kinh nghiệm trực tiếp của kẻ hàn sĩ . Nếu trót phạm vào ngôi vị của Quý Nhân mà mình không có phúc phận , thì thật là đại họa . Dù có làm bất cứ điều gì ? Nói gì ? cũng không để thái quạ quá thời ) bất cập (thời chưa đến )
Loạt bài này còn dài . Nay tạm ngừng nơi đây
                                                    
 Paris Tiết trong xuân Giáp Thân 2004
                                                                        
 Lam Sơn họ Lê                                                                             
Quý vị độc giả có nhu cầu cần trao đổi
Xin liên lạc qua email: lamsonparis2016@gmail.com

Back to top
« Last Edit: 03. Dec 2017 , 23:15 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #16 - 20. Feb 2011 , 04:53
 
TÃN MẠN NGÀY CUỐI NĂM
Nhân những ngày cuối năm lại viết năm ba giòng gọi là Vui Ngày Tất Niên ((Mừng cho một năm đã hoàn tất ) , để chuẩn bị mừng Tân niên , như thông lệ , người ta vẩn thường chúc tụng nhau lời chúc mừng năm mới . Cuối năm âm lịch , hôm nay đã là ngày 28 Tháng Chạp , ta quen nói  là 28 Tết , Tuy rằng ngày đầu năm chưa đến , nhưng đồng bào mình vẩn quen nói thế , biết làm sao được , mà chẳng có ai để ý bao giờ , như tục lệ kiêng cử , Ông bà vẩn thường nói : Có Kiêng Thì Có Lành , Những câu thành ngữ nghe ; nói quen miệng , nghe quen tai , nên chẳng ai hơi đâu mà suy nghỉ cho mệt . Đó củng là điều mà ta phải nên suy nghỉ , Ừ thì cho rằng người đời xưa , vì có nhiều kinh nghiệm sống , nhất là từ thuở lập quốc , cho đến ngày khởi hành cuộc Nam tiến , mở mang bờ cõi tân mũi Cá Mau .
Từ thời niên thiếu , còn mài đũng quần trên chiếc băng dài bằng gổ , trong trường học , tai thường nghe quen lời văn trong Quốc văn Giáo Khoa Thư . Những ai đi học thời xưa đó , làm sao quên cho được , như bài học nên ghi nhờ công lao mở nước dựng nưóc cuả bao thế hệ Ông cha , Người Việt Tôn Thờ Thân Quyền là cốt ở chuyện tôn thờ các vị Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân . và lên án nặng nề những kẻ Mãi Quốc Cầu Danh .
Ngày cuối năm là nhửng ngày tính sổ sách ( nếu mình có hoạt động về thương mại , làm ăn mua bán tính toán sổ sách , còn không làm ăn mua bán , thì vẩn tính coi năm vưà qua ta sống ra sao ?  cái gì được , điều gì mất . Năm Canh Dần chưa qua , chỉ còn một hai ngày nưả là đã qua đi ; nhanh chóng , và đúng kỳ hạn . Nhưng thực ra ngày đầu một năm ta vẩn tưởng rằng đó là ngày Mùng Một Tiết Nguyên Đán . Năm mới Tân Mão , 2011 , nhằm ngày Thứ Năm 3 tháng Giêng  Dương Lịch , Nhưng … lại dài giòng một chút , Thưa quý vị , không hẳn như thế . bởi lể một năm âm lịch tính thoe tuần trăng , vì thế ngàu đầu tiên cuả năm mới , được xác định theo Tiết khí , không phải là ngày Mùng  Một Tết .
Nguyên Tắc tính Lịch số như thế nầy , ngày đâu tiên chính thức là ngày đầu một năm phải căn cứ nơi tiết khí , Mổi một năm ; được phân chia thành 12 tháng , và gồm có 6 tháng thuọc Dương và 6 tháng thuộc âm . Từ Tiết đông Chí đến hạ Chí thuộc về Dương …. từ ngày Hạ chí đến Đông Chí , thuộc về Âm , Nguyên tắc nấy dùng để tính toán vế các sự kiện , không bao giờ sai chạy , Mổi năm gồm có 24 tiết khí . Mười hai Tiết khi thuộc Âm và Mười hai tiết khi thuôc Dương , Như tháng có tháng Dương và tháng âm , chu kỳ những tháng về Dương khỡi từ tiét Đông chí thuộc tháng 11 âm lịch , đến tiết Hạ chí trong tháng năm . thuộc Dương , và từ tiét khí Hạ chí đến tiết đông chí thuộc về âm .
Hẳn quý vị chưa quên trong truyện Kiều có câu : Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba , Lễ Là Tão Mộ hội là Đạp Thanh , Nghiã là nhân Tiết Thanh Minh , người ta đi thăm viếng và dọn dẹp rác rưới cỏ dại mọc chung quanh các ngôi mộ , trong các khu vực chôn cất . Đó là hình thức và biễu tượng cho lòng hiếu thão cuả con cháu , như tháng bảy âm lịch là tháng cầu siêu cho Tổ Tiên ,
Ngày cuối năm lại nhớ lan man ; đủ thứ chuyện để nhớ , vậy mà có người viết , có một chút gì để nhớ . Như  lời một bản nhạc Một Chút Gì Để nhớ ; bài hát nói về thành Phố Pleiku , khói  sương lạnh giá .
Nói có một chút , là nói cho có nói , chớ thật ra có quá nhiều điều để nhớ , nhớ đủ thứ , Khi bản thân là người tha phương xa xứ (có thể là tha phương cầu thực ) hay vì lý do Tỵ Nạn …. Thiếu gì lý do để mà sống kiếp tha phương , chử tha phương có nghiả là sống ở một nơi không phải là nơi mình sinh ra ( củng như nói nơi sinh quán và trú quán ) . Như bản thân người viết , ngày xưa trước 30 / 04 /1975 ; khi còn phục vụ trong quân ngũ ;vẩn rày đây mai đó ,luôn luôn sống cảnh màn trời chiếu đất ( thực ra lính tráng ngủ trên chiếc vỏng nylon ) thuở đó , nếu một đêm nằm dưới đât , dù đã được trãi bằng tấm Poncho ( vải lều che mưa ) tất nhiên sẻ bị cãm lạnh , nhất là khi tham dự hành quân nơi vùng rừng núí ngút ngàn ở miền trung . Những ai đã từng trãi qua đoạn đường chiến binh ắt hẳn nhớ đìều nầy . Đời lính dầm mưa dãi nắng lấy vủ khí làm tri kỹ , lấy rừng nuí làm nhà « ôm yên gối trống đã chồn , nằm vùng cát nóng ngũ cồn rêu xanh « . Ngày xa xưa đó , khi được hưỡng 15 ngày phép ngắn ngũi , ( một ngày đi về gia đình , và một ngày trở về đơn vị , vị chi số ngày còn lại chỉ võn vẹn có 13 ngày ) về xum họp cùng gia quyến , lòng lại thấy nhớ nhửng người anh em đồng đội , nhớ đơn vi , cứ mong sao mau hết phép ( vì về phép thì vui , nhưng khi về tới nơi , chẳng có gì là vui , vì lính mồ côi mà , vui thì vui với ai ??? đã là lính thì về phố chẳng giống ai ,, đó là sự thật , quần áo civile chẳng còn , mà giử làm gì , khi ra đi có bao giờ ước hẹn với người ở hậu phương rằng : Em hỏi anh bao giờ trở lại ? Xin trã lời mai mốt anh về , ít có người chiến binh nào dám cả gan hưá trước ngày về , chì ngoại trừ máy chú lính ma lính kiễng , đánh giặc thì vắng mặc vì bận biết phái tại nhà xếp lớn , lè phè ở hậu phưong cua gái nói dóc . Trở lại thân phận phiêu lưu trôi dạt với cuộc sống nơi quê hương thứ hai , thân mình ăn gởi nằm nhờ , dù có mua sắm được nhà cưả thì mình vần là thứ Dân Tây Dân Mỷ giấy , chỉ là thứ tầm gởi , hay ho gì , thành ra cuối năm nhớ đủ thứ , nhớ chuyện ngày xưa  , nhửng ngày chưa đi xa , định cư ỏ xứ lạ quê người . Nhớ lắm chớ . Tuy không phải là dân sinh đẻ ờ Sài Gòn , vậy  mà vần thấy Sài Gòn  như  là một cái gì đó thực là gần gũi , biết bao kỹ niện , vui buồn thời mới lớn , thời trốn học đi cùng dăm ba thằng bạn xóm nhà lá ( mấy cu cậu ngối dãy bàn chót , thường là Tổ sư trốn học coupe cours , Bởi thế mới lỡ  thầy lỡ  thợ  ;
Nhân xem qua một số bài vở viết về Sài Gòn , với tưạ đề : CÁI GIỌNG NÓI KIỂU SÀI GÒN ; làm mình nhớ quá chừng , mình sinh ra ở Biên Hoà , vậy mà ít gắng bó với Biên hoà , là vì thuở nhỏ về Sài gòn đi học , cứ tưởng học ở Sài Gòn là bãnh lắm , ai mà ngờ , rôi cuối cùng , củng chỉ là anh  binh nhì deuxième cùi bắp . Vui quá phải không . Ừ thì vui lắm , củng vì nhờ có nhiều chuyện vui trong đời lính , nên nhờ thế , mà thân được an ủi đôi phần . Đọc chùa vài bài viết trên net , củng nhớ Tết , như bài hát :
ĐỒN ANH ĐÓNG BÊN RỪNG MAI . NẾU MAI KHÔNG NỞ , ANH ĐÂU BIẾT XUÂN VỀ HAY CHƯA ????
Vui có buồn củng có , mới chiều hôm qua , còn đánh banh bóng chuyền với nhau vui vẻ ồn ào , vậy mà ít hôm sau , khi vìện binh cho Tĩnh Vị Thanh Hoã Lưụ , đơn vị mất hai đai đội , Vì nóng lòng cứu viện cho Vị Thanh mà đon vị gặp phục kích cuả đối phương ,  Đến bây giờ mình vẩn chưa quên được tiếng buá đóng đinh nắp hòm suốt đêm . vui sao được . Lính thì hay  chọc ghẹo đàn bà con gái , nghịch ngợm , bởi thế , có câu LÍNH VỀ LÀNG NHƯ THẦN HOÀNG VỀ MIỄU . Ngày xưa khi đơn vị về đồn trú trong làng xã nào đó , y như ràng các vị xã trưỡng sợ mất mật .
Từ sau 30 / 4 / 75 mình mới gắng bó với Biên Hoà . Nhưng củng chỉ 15 năm , Biên hoà là một thành phố nhỏ , với giòng sông Đồng Nai hiền hoà , với giòng thuỷ triều lặng lờ , ( vậy mà năm Nhâm Thìn 1952 , thuỷ triều cuả giòng sông nầy đột nhiên phẫn nộ , khiến cho đồng bào phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất )  vì ăn như xáng múc ; làm như lục bình trôi , ông bà nói thế , có ngồi quán cà phê nơi bờ sông Đồng nai mới quan sát đám lục bình trôi lặng lờ . Nhiều khi trong đám lục bình ấy củng có vài xác chết trôi sông . nghèo hay giàu thì ngày cuối năm , 30 Tết vẩn phải có măm cơm canh đạm bạc cúng rước ông bà ; củng trái cây bông hoa trên bàn thờ . nếu không có ắt hẳn ngày Tết ãm đạm thê lương , nhất là ngày Tết lại thường có đám giổ , vì người nhà mất trong Tết Mậu Thân 1968 , khi bị luà đi vào dịp Tết , để ra đi không trở về , vì thế người nhà mới lấy ngày Têt hàng năm làm ngày Giỗ . Và năm Ất Mão 1975 củng đã là ngày Giỗ của nhiều gia đình , Vì ai nhiều tham vọng quyền lực , gây bao đau thương tang tóc đồng bào ; Thường thường thì  ngày xuân khi mang thân phận phận kẻ tha phương , nên buồn nhiều hơn vui ,

Ngày Tư ngày Tết mà lại nói toàn chuyện buồn  ắt hẳn là điều không nên ; Thấy tưạ đề bài thơ xưa cuả Vũ Đình Liên ,
                                      Mổi Năm Hoa Đào Nỡ
                                      Lại Thấy Ông  Đồ  Già
                                      Bày Mực Tàu Giấy Đỏ
                                      Trên Phố Đông Người Qua
                                      Năm Nay Hoa Đào Nỡ   
                                      Không Thấy Ông Đồ Xưa
                                      Những Người Muôn Năm Cũ
                                      Hồn Người Xưa Nay Đâu
Nhớ câu Thơ  Tết :    Thịt Mỡ Dưa Hành Câu Đối Đỏ
                                      Niêu Cao Tràng Pháo Bánh Chưng Xanh
Không biết người xưa ý tứ hay lắm , từ những câu ca dao Tục Ngữ , được truyền Tụng bao đời , âu đó củng là nếp văn học lâu đời cuả dân tộc Việt Nam . Ngày Xuân nhớ đủ thứ , nhớ mọi điều , nhớ bạn bè , nhớ thân nhân , nhớ kỷ niệm buồn vui ở quê nhà , một vài kỹ niệm trên quê hương thứ hai , nơi miền đất tạm dung . Ngày Tết , đêm Giao thưà ngày còn đi học, trong đêm Giao Thưà , không thể thiếu được cái mục đi viếng thăm lăng Tã Quân Lê Văn Duyệt , bẻ bông hoa , gọi là xin chút Lọc non cuã  Đức Ông , vì nghe đấu Ông Linh Ứng dị Thường , như chuyện cuả mình , câu chuyện thật , Năm đó , xưa lắm , từ dạo còn đị học ở Trung Học Hồ Ngọc Cẫn ỡ Gia Định , mình vẩn thường rũ hai ba đưá xóm nhà lá trốn học vào hút thuốc và ngũ trưa ở sân cỏ trong lăng Ông , có lẽ ông Từ giử chuà biết lủ học trò trốn học nằm ngũ , nên chẳng nói chi , Mình nghe nói Ông Linh lắm , nên mới thữ vào chánh điện xin xâm , bây giờ đã hơn 40 năm ; chẳng nhớ lời sâm , chỉ nhớ mang mán điều mình hõi khi xin xâm : ý mình hỏi chừng nào con sẻ có tình duyên , vì thuở ấy vẩn cô đơn cô độc , ( vì nhát gái , có dám chọc ghẹo ai đâu mà có bồ bịch . ) chỉ nhớ quẻ sâm giãi đoán với câu : Năm Dần tháng Ngo thì nên duyên phận . Lúc đó có biết năm dần là năm nào , vì có nhiều dân lắm , bảo như thế là không rõ ràng , như gọi là Ngũ Dần , nghiã là 5 năm mang tên Dần , Như giáp dần , bính dần , mậu dần , canh dần , nhâm dần , Vậy thì đó là năm dần  nào ???? đột nhiên trên đường đờì với kiếp sống lưu linh lãng tử , mình lại gặp mối lương duyên , vào đúng năm Dần 2010 ; Cuối năm nay , khi đọc lại bài viết về Lăng Ông Bà Chiễu , chợt nhớ về quẻ Sâm xin được năm xưa , Thật là kỳ diệu , Ai dám nói thánh thần không thiêng , vì chúng sinh người trần mắt thịt , nên không thấy mà thôi , Khi mình gặp và kết duyên với người con gái nầy quả như cá gặp nước .
Sau những ngày cuối năm  Canh Dần 2010 ;  ôn lại chuyện đã qua , Thì bây giờ đứng trên thềm năm mới Tân Mão ; suy tính sắp xếp kế hoạch , chương trình sinh hoạt cho một năm . Nhân đây mới nhớ đến thói quen cuả đồng bào , ngày đầu năm thường hay đến chuà xin xâm hay đi cói bói quẻ , để biết vận hạn trong năm mới ra sao ? Nhưng , ít có mấy ai trong chúng ta hiểu được Bói Toán là gì ?? coi vận hạn có ý nghiã như thế nào . Nội chử Bói Toán chúng ta còn chưa hiểu hết ý nghiả đích thực cuả Tử ngữ Bói Toán ??  Nhân ngày lành tháng tốt , ta nói chuyện bói toán cho vui cưả vui nhà .
Vậy thì Bói Toán là gì ??  Thường thường  chúng ta chỉ nghe nói , hoặc vã nói theo thói quen , chớ kỳ thực đâu có hiểu được ý nghiã đích thực cuả Tử ngữ Bói Toán ra sao ??  Theo thiển ý cuả người viết (đay không phải là do ý kiêén chủ quan )  , mà ở đây , người viết muốn trình bày một vấn đề , mà chính bản thân người viết đã từng trãi qua nhửng năm tháng dài , đi sâu vào lĩnh vực hơi rắc rối nầy , củng vì thế , người viết có một số hiểu biết về chuyện nầy . Bản thân người viết vốn không phải là thầy bói , củng chưa bao giờ xem bói toán là một nhề nghiệp , hay xem đó như là phương tiện để sinh nhai kiếm sống qua ngày . Trước hết chúng ta thử xác định ý nghiã cuả từ ngữ bói toán . Chử Bói : nghiả là bốc , chử toán là tính toán . chúng ta nên hiểu như sau : Khi đứng trước một vài vấn đề có liên quan đến bản thân , ví dụ như tiền bạc , tình cảm v…v…. thường thường , chúng ta hơi rối trí một chút , ví dụ như ngày tháng đó , khi cần đi đâu , làm việc gì ? chúng ta củng thường tự hỏi : không biết hôm nay ra đi , có được việc hay không ? làm chuyện gì đó ai củng muốn thành công hơn là thất bại . Vì thế , ta mới đặt ra vấn đề , ( mới gọi là Bói  ) Bói tức là hỏi , ngày xưa ta hổi người sáng suốt tài giỏi hơn ta , để mong có câu trả lời hay lời khuyên ta cân phải nên làm gì ?? Đôi khi câu trả lời không thoã đáng , vì thế , người xưa mới bày ra : theo phương pháp đã có sẳn từ ngàn xưa , và các câu hỏi hầu như đều có giải đáp , Nhưng chuyện Bói Toán , xuất phát từ  kinh dịch , vì thế sau chử Bói là chử Toán , toán ở đây là tính toán , là phân tích , chia chẻ vấn đề ra làm nhiều yếu tố. Sau khi tính toán đầy đủ , sự cân nhắc đã có , thì chúng ta mới đi đến quyết định phải làm gì ? Chính vì sự truyền đạt không đầy đủ , và vì nhiều lý do khác , nên dần dần , ý nghiả đích thực không được hiểu một cách chính xác , dần dần thất truyền về phương pháp và lý thuyết , nên mới có câu : Sống Chết mặc Bây , Tiền Thầy bỏ túi . Do thế chúng ta mới thấy rỏ , đời nay , lương tâm con người nhiều khi thui chột đi vì quyền lợi , hay vì túi tham không đáy . Ngày nay , qua những bản tin tức thời sự cho thấy , chuyện con giết chết cha , anh em đấu đá lẩn nhau là chuyện như cơm bưả , Những hiện tượng đó không có gì khó hiểu , đối với những ai đã từng nghiên cưú học hỏi nơi Kinh Dịch , chẳng qua là thời kỳ hiện tại , chính là thời kỳ hỗn man , hầu như tất cả mọi thứ đạo lý đểu đão ngược . Nên có người viết về điều nầy : gọi là thời kỳ âm thịnh . vì Dương tượng trưng cho những gì quang minh chính đại , âm tượng trưng cho những gì u ám , mờ tối , tội lổi .
Trở lại chuyện bói toán , củng như khoa tữ vi đã có thuyết trình về 12 cung ( hay là 12 vị trí ) 12 cung đó ảnh hưởng trực tiếp vào 12 lĩnh vực trên bản thân cuả đời người . Các cung cuả khoa Tữ vi chia ra theo các lĩnh vực liên quan đến bản thân một cá nhân . Như cung : Mệnh , Phụ mẫu , Phức Đức , Điền Trạch , (điền đất đai bất dộng sản , Trạch là nhà ở , ) Quan Lộc , Nô bộc , Thiên Di , Tật ách
( hay giãi ách ) Tài Bạch , Tữ tôn , Thê thiếp , Bào đệ ( hay Huynh Đệ ) , Bài viết sẻ không đi sâu vào các chi tiết thuộc về phần kỹ thuật , mà người viết chỉ muốn trình bày thoáng qua ,  có tính cách như kiến thức tổng quát .
Bói Toán xuất phát từ Kinh Dịch , và phân chia ra làm hai phần chính : Phần lý thuyết ( tương đối hơi rắc rối ) , và phần thứ hai , đó là phần ứng dụng thực hành Có nhiều môn bói khác nhau , sự dị biệt chẳng qua ở hình thức , tưụ chung vẩn ở điểm đem lại kết quả mà người ta muốn biết ; Qua các phần như : Bấm độn , Bốc phệ, bói dịch , v…v….
Mổi một khoa bói như thế , đều có phương pháp riêng tư , Bói Dịch dùng để xem xét về lẻ thuận nghịch âm dương , dương thì sự việc đi thuận , âm thì sự việc đi nghịch lý ) thời dương ta làm việc đàng hoàng , thời âm , ta tìm cách làm để thích hợp với thời thế ; thời là thời gian , thế là vị thế riêng cuả bản thân trong từng hoàn cãnh , Phải biết ta thường nghe nói Thế lực , thật ra thế là một chuyện , còn lực là chuyện khác ; có thế tức là đứng ở vị trí nào ? còn lực là sức mạnh , có thế mà thiếu lực thì vô ích , có lực mà không có thế , tức là không có chổ dựa vào ( trong nước họ gọi là có ô thì phải có dù che ) chử thế lực , xuất phát từ kinh dịch hay từ quẽ Dịch , Có tất cả 64 quẽ Dịch . Ngày xưa từ Đức Lý Thường Kiệt , đến Trần Hưng Đạo , Ngô Quyền , Nguyễn Trãi , đều tinh thông kinh dịch . Mổi quẽ dịch gồm có 6 hào , mổi hào tượng trưng cho một lĩnh vực trong cuộc sống , trong mổi quẽ , đều đã phân chia sẳn các hào Thế , và ứng , lời Dịch noí : Thế là mình ứng là người ; đó là đìểm chuẩn tắc . như hhắm bắn vào vòng tròn , khi bắn phát đầu tiên nếu chệch vào bên trái thì điều chĩnh về bên phải , ví dụ như Quan Mai Dịch , đó là cách dùng điễm chuẫn , để tính toán , nên dịch viết Quẽ âm thì hào dương  nhiều , hào âm ít , quẽ dương thì dương nhiều âm ít , vì dịch viết chũ vi thiểu ( Thiễu vỉ quã vi chũ )  , tức là hào ít làm chủ , chũ ở đây không phải là sỡ hưũ chủ , mà chũ ở đây là chũ yếu , trọng yếu , Nguyên tắc khi xem xét quẽ dịch , chúng ta phải xem thứ 1 : quẽ tên gì ? thứ 2 : các hào Thế và ứng , âm hay dương , và đứng tại vị trí nào , trung hay chính , Trung là ở giưả quẽ như vị trí trung tâm , then chốt , chính là chính đáng , như xem được hào thế thể dương ở vị trí âm , đó là bản thân nam giới lại phải làm việc cuả phụ nử , như sau 30/4/1975 , đường đường một đống , vậy mà ở nhà làm việc nội  trợ , gặp sự thế thế thời phải thế . gặp tình trạng đó không  khen  mà củng chẳng chê, kẻ tinh thông kinh dịch , không cần lấy quẽ vẩn qua được tai nạn , vì lời dịch nói , thân tuy tù đày , mà tâm ta vẩn hanh thông , đó là tâm địa cuả hiền nhân quân tử . Bình thãn dù đang ở tù . Bản thân người viết đã từng bị cảnh tù đày một năm . khi đến hạn thì tù đày , hết hạn thì tự do , thế thôi . Bởi thế nên , Dịch rất quan trọng , đối với bản thân cuả từng cá nhân , và đến việc nước non . Lời dịch nói : Đất nước có tuần , non sông có vận , Năm tháng qua nhanh , bốn mùa  chuyễn tiếp , chuyện sang hèn , nghèo giàu , vinh hoa phú quý như gió thoảng mây trôi , như nước chảy qua cầu . Nói tiếp theo các quẽ , xem thời vận , như ta đang xem thuộc năm tháng ngày giờ nào , xem năm nào tháng nào để  đối chiếu , năm nay , Tân mão , muà xuân , thuộc Mộc , vạn vật muôn hoa đang đâm chồi nẩy lộc , sinh sôi nẩy nở . Năm có năm thuộc dương , năm thuộc âm , tháng và ngày giờ củng vậy . Đối chiếu với bản mệnh , để xem sinh khắc hay dở ra sao ? chuyện cuả một năm , xem trong tháng thì chuyện cuả một tháng , trong gày giờ thì chuyện trong tuần , một tuần giáp không phải là tuần lể dương lịch , mà là tuân cuả giáp , tức là 10 can Thập can , mổi tuần giáp có 10 can giáp hay thiên can , từ  Giáp Ất , Bính Đinh , Mậu , Kỹ , Canh , Tân , Nhâm , Quý, nhưng tuần giáp có 12 địa chi , Tý Sưũ Dần , Mão , Thìn , Tỵ , Ngọ , Mùi , Thân , Dậu , Tuất , Hợi . cách sắp xếp thiên can và địa chi củng là điều thú vị , ví dụ như trong ngày , khi can dưong thì chi củng dương , can ngày thuộc âm thì chi ngày củng thuộc âm , ví dụ như can dương : Giáp Bính Mậu Canh Nhâm . Can Âm : Ất Đinh , Kỹ Tân , Quý . Người xưa khi viết dương thực âm hư , thực đây là thực sự , nhưng đừng có cố chấp , tuy là nam giới thuộc dương , nhưng tâm địa bất chính thì đó là âm nhiều hơn dương , nử giới thuộc âm , nhưng trong tâm tính ngay thẳng như Nhị Trưng , đìều binh khiễn tướng thì mầm dương nhiều hơn âm . Khi người nữ phục vụ trong  ngành cảnh sát , hay toà án , tức thì đừng có nghỉ họ là đàn bà , Muốn biết điều nầy nên xét qua tướng diện , qua thái độ , Câu chuyện về bói toán dài lắm , dài như lịch sữ cuả dân tộc VN . Vì lý thuyết Kinh dịch hầu như có liên quan đến văn hoá văn minh cuả Bách việt . Dân tộc Việt Nam có một Lý thuyết Chĩ đạo ( người viết không thích danh tử chũ đạo , viết thế tức là tiếm , hay lạm dụng ) qua hình ãnh Trống Đồng , và tôn thờ Thần Kim Quy , thử suy nghỉ tại sao ?????? Tại sao tôn thờ thần Kim Quy ?????? có ai biết điều nầy xin vui lòng chỉ giúp ;
LÊ LAM SƠN







Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #17 - 20. Feb 2011 , 04:55
 
Ngày Xuân Nói Chuyện Bói Toán ( tiếp theo )

Mổi một khoa bói như thế , đều có phương pháp riêng tư , Bói Dịch dùng để xem xét về lẻ thuận nghịch âm dương , dương thì sự việc đi thuận , âm thì sự việc đi nghịch lý ) thời dương ta làm việc đàng hoàng , thời âm , ta tìm cách làm để thích hợp với thời thế ; thời là thời gian , thế là vị thế riêng cuả bản thân trong từng hoàn cảnh , Phải biết ta thường nghe nói Thế lực , thật ra thế là một chuyện , còn lực là chuyện khác ; có thế tức là đứng ở vị trí nào ? còn lực là sức mạnh , có thế mà thiếu lực thì vô ích , có lực mà không có thế , tức là không có chổ dựa vào ( trong nước họ gọi là có ô thì phải có dù che ) chử thế lực , xuất phát từ kinh dịch hay từ quẽ Dịch , Có tất cả 64 quẽ Dịch . Ngày xưa từ Đức Lý Thường Kiệt , đến Trần Hưng Đạo , Ngô Quyền , Nguyễn Trãi , đều tinh thông kinh dịch . Mổi quẽ dịch gồm có 6 hào , mổi hào tượng trưng cho một lĩnh vực trong cuộc sống , trong mổi quẽ , đều đã phân chia sẳn các hào Thế , và ứng , lời Dịch noí : Thế là mình ứng là người ; đó là đìểm chuẩn tắc . như hhắm bắn vào vòng tròn , khi bắn phát đầu tiên nếu chệch vào bên trái thì điều chĩnh về bên phải , ví dụ như Quan Mai Dịch , đó là cách dùng điễm chuẫn , để tính toán , nên dịch viết Quẽ âm thì hào dương  nhiều , hào âm ít , quẽ dương thì âm nhiều dương  ít , vì dịch viết chũ vi thiểu ( Thiễu vỉ quã vi chũ )  , tức là hào ít làm chủ , chũ ở đây không phải là sỡ hưũ chủ , mà chũ ở đây là chũ yếu , trọng yếu , Nguyên tắc khi xem xét quẽ dịch , chúng ta phải xem thứ 1 : quẽ tên gì ? thứ 2 : các hào Thế và ứng , âm hay dương , và đứng tại vị trí nào , trung hay chính , Trung là ở giưả quẽ như vị trí trung tâm , then chốt , chính là chính đáng , như xem được hào thế thể dương ở vị trí âm , đó là bản thân nam giới lại phải làm việc cuả phụ nử , như sau 30/4/1975 , đường đường một đống , vậy mà ở nhà làm việc nội  trợ , gặp sự thế thế thời phải thế . gặp tình trạng đó không  khen  mà củng chẳng chê, kẻ tinh thông kinh dịch , không cần lấy quẽ vẩn qua được tai nạn , vì lời dịch nói , thân tuy tù đày , mà tâm ta vẩn hanh thông , đó là tâm địa cuả hiền nhân quân tử . Bình thãn dù đang ở tù . Bản thân người viết đã từng bị cảnh tù đày một năm . khi đến hạn thì tù đày , hết hạn thì tự do , thế thôi . Bởi thế nên , Dịch rất quan trọng , đối với bản thân cuả từng cá nhân , và đến việc nước non . Lời dịch nói : Đất nước có tuần , non sông có vận , Năm tháng qua nhanh , bốn mùa  chuyễn tiếp , chuyện sang hèn , nghèo giàu , vinh hoa phú quý như gió thoảng mây trôi , như nước chảy qua cầu . Nói tiếp theo các quẽ , xem thời vận , như ta đang xem thuộc năm tháng ngày giờ nào , xem năm nào tháng nào để  đối chiếu , năm nay , Tân mão , muà xuân , thuộc Mộc , vạn vật muôn hoa đang đâm chồi nẩy lộc , sinh sôi nẩy nở . Năm có năm thuộc dương , năm thuộc âm , tháng và ngày giờ củng vậy . Đối chiếu với bản mệnh , để xem sinh khắc hay dở ra sao ? chuyện cuả một năm , xem trong tháng thì chuyện cuả một tháng , trong gày giờ thì chuyện trong tuần , một tuần giáp không phải là tuần lể dương lịch , mà là tuân cuả giáp , tức là 10 can Thập can , mổi tuần giáp có 10 can giáp hay thiên can , từ  Giáp Ất , Bính Đinh , Mậu , Kỹ , Canh , Tân , Nhâm , Quý, nhưng tuần giáp có 12 địa chi , Tý Sưũ Dần , Mão , Thìn , Tỵ , Ngọ , Mùi , Thân , Dậu , Tuất , Hợi . cách sắp xếp thiên can và địa chi củng là điều thú vị , ví dụ như trong ngày , khi can dưong thì chi củng dương , can ngày thuộc âm thì chi ngày củng thuộc âm , ví dụ như can dương : Giáp Bính Mậu Canh Nhâm . Can Âm : Ất Đinh , Kỹ Tân , Quý . Người xưa khi viết dương thực âm hư , thực đây là thực sự , nhưng đừng có cố chấp , tuy là nam giới thuộc dương , nhưng tâm địa bất chính thì đó là âm nhiều hơn dương , nử giới thuộc âm , nhưng trong tâm tính ngay thẳng như Nhị Trưng , đìều binh khiễn tướng thì mầm dương nhiều hơn âm . Khi người nữ phục vụ trong  ngành cảnh sát , hay toà án , tức thì đừng có nghỉ họ là đàn bà , Muốn biết điều nầy nên xét qua tướng diện , qua thái độ , Câu chuyện về bói toán dài lắm , dài như lịch sữ cuả dân tộc VN . Vì lý thuyết Kinh dịch hầu như có liên quan đến văn hoá văn minh cuả Bách việt . Dân tộc Việt Nam có một Lý thuyết Chĩ đạo ( người viết không thích danh tử chũ đạo , viết thế tức là tiếm , hay lạm dụng ) qua hình ãnh Trống Đồng , và tôn thờ Thần Kim Quy , thử suy nghỉ tại sao ?????? Tại sao tôn thờ thần Kim Quy ?????? có ai biết điều nầy xin vui lòng chỉ giúp ;
Nếu bói theo hình , thì hình ảnh thừ hai nầy , tượng trưng cho Hằng Nga tức là quẽ đoài ; vì Đoài là mặt trăng , là khuyết , Tuy hình thức có dáng vẻ tươi đẹp , nhưng đó là vẻ đẹp ở bên ngoài trong Thiền tông gọi là sắc tướng , thấy vẻ đẹp ánh ra bên ngoài . Đoài là lời nói , là cô thiếu nử tuổi xuân xanh , có hai nét đẹp : Thứ nhất đó là nét đẹp bên ngoài hình dáng , nét đẹp thứ hai về nết na hạnh kĩm , Nét đẹp thứ nhất chỉ như đoá hoa sớm nở tối tàn , nét đẹp thứ hai , laànết đẹp theo phong thuỷ điạ lý , như Non Sông Gấm Vóc ; nét đẹp chuả bông hoa , thì sớm nở tối tàn , nét đẹp cuả sông nuí , thì vĩnh cưủ , Nói vậy  thì nói , ( nhưng vì khi xem xét sự việc , củng cần phải xem về Triệu , tức là điềm ) để Bổ túc thêm về ý nghiả đích thực cuả sự việc , Hôm nay chúng ta đang dđ vào mùa Xuân , tháng Giêng ta , gọi là tháng Dần , năm Tân Mão thuộc Mộc , tháng giêng dần thuộc Mộc , như thế mộc Thịnh , chi đưa tám hình ra , tượng quẽ đoài , thuộc kim , ( ứng về muà thu ) dù có mong muốn về điều gì đó , củng chưa đạt thành trong lúc nầy , hơn thế nưả , Đoài thuộc Kim , gặp mộc vượng , nên phải dè dặt , kẻo vướng chuyện khẫu thiệt , nghiả là tai tiếng thị phi , rước lấy sự phiền nhiễu ; cho dù chỉ là lời nói đùa chơi cho vui mà thôi , nhưng hảy lưu ý , như người xưa hay kiêng lời nói gỡ ( nghiả là nói trước chuyện xui xẽo ; ) lời nói hay hình ảnh đưa ra , đều thuộc về ( sách viết ) là ngoại ứng , ngoại ứng nằm trong thập ( thập là 10 ) ứng là chuyện ở ngoài , nếu lấy quẽ , thì xin thưa , muà xuân tháng giêng thuộc quẽ Chấn , dó là quẽ thương ( hay là quẽ ở trên ) Đoài là quẽ Hạ ( quẻ ở dưới ) Chấn mộc trên , Chấn mộc  ở dưới , ta được quẽ Trạch Lôi Tùy . Tùy là theo ( tiếng pháp là  SELON ) Tùy là chấm dứt một chu kỳ vận hành , để qua về nguyên gốc. Dịch thuyết trình về sự vận hành cuả thế giới sự vật ( việc ) miên miên bất tận ( như không gian bao la , thời gian vô tận ) , Nếu đúng như chị đả viết , khi chị thực tấm : Sau bao ngày nguyện cầu , thì ước nguyện sẻ đạt thành , gọi là cầu được ước thấy , còn như chỉ là lời nói đùa chơi cho vui , thì chuyện củng sẻ ứng ra , gọi là Lộng Giã thành chân , tưởng chơi hoá ra thật sự , đó là con dao hai lưởi , vuốt vào lười dao tưởng là dao cùn , nhưng không dẻ lưởi dao tuy có vẻ cùn , nhưng lại sắc bén không ngờ , thành ra trước đuà vui sau khóc than , Tiền hĩ hậu bi , nếu thực sự không phải là chuyên đuà chơi , thì Trước buồn sau vui , Trong cái hoạ có cái phúc . Ngày xưa , khi còn tham gia sinh hoạt cùng với một số đoàn thễ người Việt tại Pháp , Một hôm người viết được mời lên thuyết trình về đề tài Kinh Dịch , Ngay từ lời mở đâu : Thưa quý vị , Kinh Dịch chính là Nguyên  Lý Học, là học để biết , cho đến nơi đến chốn các lý lẻ của thế giới sự việc , tức thì có người lên tiếng chất vấn ( ngụ ý nói đùa chơi cho vui , đó là cố tật cuả người mình ) anh ta hỏi : anh nói anh học Cái Biết , vậy chứ khi anh biết , liệu anh có tránh được cái chết hay không ?? người viết liền ứng khẫu trả lời , Thưa anh , nếu nói khi đã biết , thì dù có chết ta vẩn không tránh được trước cái chết tất định , nhưng .... người biết sẻ tránh được vô số cái chết do sự ngu xuẩn cuả bản thân , Câu hỏi ngụ ngầm ý khinh thị , tức thì câu trả lời củng khiếm hhã , Đối đáp kiểu này gọi là ứng khẫu thành văn , Một sự việc ngầm chưá hai mặt , mặt trái và mặt phải , như bàn tay , bề trái ban tay , chúng ta không thể nắm bắt được vật , nếu biết xoay bàn tay lại thì sẻ nắm bắt được dể dàng . Nếu vô ý thức , thì biến phúc thành họa , nếu ý thức thì biên hoạ thành phúc ; họa là mất , phúc là đạt được . Họa vơí phúc như hình với bóng .
Để nói về chuyện đang nói , tức là điều mà chị hỏi : xin thưa , điều gì chị hỏi , TỨC NHIÊN SẺ XẢY RA  , nhưng thời gian ứng việc sẻ chậm , xin lưu ý chị , cứ tự hiểu lấy ( tuy bên ngoài chị hỏi về tình duyên , nhưng bên trong ngụ ngầm về điều khác ) Có rất nhiều phương pháp để đoán biết được thời gian xảy ra khi nào . như theo kiểu cuả Thiệu Khang Tiết đời nhà Tống , lấy theo Tượng cuả quẻ , xem hào động tại đâu ; tức là động về lĩnh vực nào , ví dụ như quẻ Trạch Lôi Tuỳ ;
Phần nhiều các quẽ Dịch đều ngụ ngầm các lời cảnh cáo , báo trước , Trong 64 quẽ dịch , chỉ có quẽ Khiêm , tức là khiêm tốn , là quẽ tốt đẹp nhất . Khi vật hôi tụ đầy đủ điện năng , tức thì sẻ phát sáng ra chung quanh .
theo nguyên lý tự nhiên , hể có đóng thì sẻ có mở , vì trước mở sau đóng , trước đóng sau mở , hết sống tời chết , có trẻ thì có già , các thế giới sự vật cứ đối đải nhau như thế , Năm có năm âm và Năm Dương , tháng có tháng âm và Tháng Dương , ngày giờ củng thế . Nhưng chúng ta ở trong lòng thế gian , cho nên không thể nói chuyện đạo lý chung chung , vì con người  sinh sống và hoạt động , tức nhiên phải nói đến điều cụ thễ . Học hõi thi nhiều , nhưng khi áp dụng chỉ cẩn có một , ví dụ như kẻ học Võ nghệ, Học nhiều lắm , nhưng khi đối mặt với  kẻ muốn tấn công mình , chĩ cần dùng một hai thế là có thể chế ngự được đối phương , Xem cao thấp chỉ cần nhìn qua nét mặt , hay ánh mắt , lời xưa nói : Cơ Tại Mục , nghiã là mắt là cưả ngỏ cuả guồng máy . mắt đối phương nhìn vào điễm nào trên cơ thể , tức nhiên ý định cuả đối phương sẻ tấn công vào nơi đó . Tuy nhiên , đôi khi cần đón được ý định thực sự , như Binh Thư dạy Giương đàng đông kích đàng tây , Trong binh thư , hư hư thực thực khó lường được , nhưng thời xưa , tiền nhân củng có chỉ dãy nhiều phương pháp để xét đoán được ý định cuả người đối diện muốn gì ??? Nhiều khi … lúc mới vào con đường học hõi . đọc nhiều câu , nhưng tối nghiã , không thể hiểu được . có khi sau năm , mười năm , mới hiểu được câu  viết trong sách mà mình xem được đã lâu . lúc đó tự nhiện thân tâm khai sáng bởi sực mạnh siêu nhiên nào đó . Kinh Thiền Tông gọi đó là Giác Ngộ , giác tức là biết rỏ ràng , ngộ nghiã là gặp . bản thân người viết đã từng trãi qua nhièu điều kỳ diệu .
Nhắc lại về Thần Kim Quy , trong Lịch sữ cuả Dân Tộc Việt Nam chuyện về con ruà Thần ta đã nghe thấy bàng bạc , Trong Sử Tàu có ghi , hình như vào năm 2780 trước khi Jésus—Chris chào đời , Sứ giả cuả VN gọi là Việt Thường , đã đến giao hảo , và biếu cho nhà Vua tàu , con ruà , mình dài hơn một thước tây ; Trên mai ruà có ghi chử khoa đẫu . tức là loại cỗ ngữ , cuả người Việt . các chữ Khoa đẫu đó chính là các số ký hiệu , mà người Việt lúc đó , bảo với Vua Tàu dùng nó để điều chĩnh lịch số cuả người Tàu . Sau nầy khi xây Thành Cỗ Loa , An Dương Vương xây thành bị sạt lỡ mải phải nhờ thần Kim quy hiện ra giúp nhà Vua xây dựng được thành . ( kiểu xây cất như thế ngày nay gọi là áp dụng kiến trúc theo nguyên lý Phong Thuỹ Điạ Lý . ) Vì nếu nhìn cho kỹ , cái mai ruà như vòng cung , phân chia ra làm 9 vị trí gọi là Cưũ cung ( Cưũ = 9 , cung là vị trí ) ; Sách viết Cữu cung Lạc Thư ) ( Lạc tức Lạc Việt , Thư là tài liệu sách vỡ ) người Pháp gọi đó là Hình Vuông Ma quái . tại sao , bởi lẽ , trên hình vuông có 9 cung đó , có ghi các con số ( hay nhóm chử số )  , và ma quái có nghiã là các nhóm số đó chuyễn động được :Hình vuông đó nhu sau:
                                                                                                             
                                                   
                    6                 1              8


                    7                 5              3


                     2            9              4

Sở dĩ các số như thế là vì , người đời xưa , khi quan sát trên bầu trời ,đã nhận xét được các nhóm sao
gần quả đất nhất có 9 Nhóm Sao , nên dùng cách ghi cho dể nhớ , ghi số 1 nghiã là một ngôi , ghi số Hai là hai ngôi và cuối cùng ghi số 9 là 9 ngôi . Vì thế trong sữ chỉ ghi lại sự kiện gọi là Thần Kim Quy là vị ruà thần bão vệ đất nước VN . Chớ thực ra , đó là Lý Thuyết mà  Tiền nhân người Việt tôn thờ ; đó là lý thuyết Kinh Dịch . Đó là lý do vì sao trong sữ Việt có nhiều truyền thuyêt hoang đường gọi là Huyền Sữ . Người Việt vốn hay khép kin , là vị muốn tự bão vệ , trước nạn đất nước bị xâm chiếm .  Vì mất lãnh thổ , và băt buộc phải chung sống với kẻ thụ cường quyền , nên thường che dấu tài năng , hầu bão vệ mạng sống , để ẫn nhẫn chờ ngày quang phục quê hương đánh đuổi được kẻ thù ra khỏi bờ cõi . Khi nào không còn nạn đố kỵ và đè nén , củng như hoạ tiêu diệt nhân tài , thì chừng đó người Việt mới bỏ được tính hay khép kín .
Tất cả chín nhóm sao ấy là điễm chuẫn , để  tiền nhân người Việt xem xét nhiều hiện tượng và tiên liệu kế hoạch cho quốc gia , trong tương lai , gọi là xem tượng trời . Bởi lẽ , phong thuỹ điạ lý nếu không biết xem thiên văn thì kể như vô ích . Kể ra thì còn nhiều lắm , không thể chỉ với vài trang giấy là viết hết cho được , Từ Lý thuyết Kinh Dịch , cho đến phần thực hành nơi kỷ thuật ứng dụng , tiền nhân đả bày ra nhiều khoa khác nhau , Từ Thái Ất , cho đền Tữ vi , Kỳ môn độn giáp ; Bấm độn , v…v .

Mổi một khoa đều có phương trình thức khác biệt , không có phương trình nào giống phương trình nào . Nhưng Tiền nhân thông minh , và đã bày ra nhiều phương thức đơn giản , như viết câu : việc xa thì dùng năm , tháng , việc gần thì tính ngày giờ, Dùng năm , Tháng , Ngày , Giờ , nghiả là căn cứ theo tên cuả năm tháng ngày giờ . như năm nay Tân Mão  2011 , Tên cuả năm là Tân Mão ; Tân là thiên can , vả Mão là địa chi , Tính việc lớn thì dùng can , tính việc nhỏ thì dùng chi , Đối chiếu năm với tháng , và ngày với giờ , từ năm ta tính được qua tháng , từ ngày tính được ra giờ . Xem sách thì thấy có vẻ dể , nhưng khi đi vào kỹ thuật mới biết không đơn giãn . Bởi thế , cho nên nhiều người củng bắt chước dùng lịch ta để coi ngày giờ mà mở hàng , cuối cùng tiền mất tật mang là thế . Không biết thì phải hỏi , muốn biết thì phải học , Có học thì mà không hiểu thì phải hỏi , có hỏi thi có giải đáp , hiểu rồi thì làm cho đúng . Bởi thế nên kinh dịch không chỉ là sách để bói , nhưng dịch nói : muốn tinh thông kinh dịch thì cần phải bói , Tại sao thế ??? , vì bói tức là cưú xét vần đề , mang những điều học hõi được vào vấn đề ta đang đối mặt . Bói tức là xem xét , xem xét tới nơi tới chốn , rồi sau mới làm , khi làm thì thành công . nên lời xưa nói , như người bắn tên , trăm phát trăm trúng . Các thiên Binh Thư vốn xuất phát từ Lý thuyết kinh dịch đem ứng dụng vào Kỷ thuật điều hành quân sự .

Kinh dịch là khoa học thực dụng ( scien pratique ) hay là áp dụng quy luật vận hành cuả thế giới tự nhiên vào cuộc sống thường ngày . còn một nguyên tắc khác , đó chính là biết cách đặt câu hỏi . Nếu câu hỏi chính xác rỏ ràng , thì câu trả lời sẻ chính xác , khi hỏi , nên hỏi có tính cách trực tiếp vào vấn đề . không nên hỏi vòng vòng để thử thách tài năng cuả người xem . lời xưa nói : Có thành tâm thì có thần , thần ở đây có nghiã là năng lực siêu nhiên , không thể nắm bắt được , Như chiết tự : chử cát gồm có bộ chử khẩu nằm bên dưới chử Thổ .
Chử thổ là đất , chử khẩu là miệng ( hay là vàng là ngọc , là nữ trang , ) gọi là vàng chôn ngọc cất , ví dụ như lời nói cẫn trọng thì tránh được hoạ thị phi do lời nói , con gà ghét nhau vì tiếng gáy , con người giết nhau vì lời ăn tiếng nói , nên người xưa nói : Một câu nhịn chín câu lành ,
Back to top
« Last Edit: 03. Dec 2017 , 23:27 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #18 - 20. Feb 2011 , 05:07
 
ĐẦU  NĂM NÓI CHUYỆN BÓI TOÁN ( Tiếp Theo )

      Nói về Kinh Dịch đã dài , nói về Bói Toán củng không ngắn . Chổ khó nhất chính là bắt đầu . Vì Dịch giống như không gian thì bao la , thời gian thì vô cùng ,chuyện thế gian thì vô số . Hôm nay viết tiếp theo bài viết hôm qua , Tạm thời nói về 1 cung vị mang tên 12  con Thú quen thuộc  , Nếu tính theo  cung cuả Khoa Tử vi , đó là ở khoa Tữ vi , có 12 cung , còn các khoa khác , như bấm độn , người ta chỉ dùng có 9 cung , Có một điểm lý thú , đó là 9 cung ( gọi là Cưũ cung )  dùng để bấm động , khi sử dụng để tính toán sự việc khẩn cấp , chúng ta thường thấy mổi khi đi đến nhờ các vị thầy bói quẻ Dịch , hay quẽ Diệt , thấy các thầy thường bấm vào các lóng cuả bàn tay trái , chúng ta thử suy nghỉ một chút , (điều nầy , do chính bản thân người viết tự suy luận ra được , ) nếu chúng ta xoè bàn tay trái ra , trừ đi ngón tay cái , và ngón tay út , ta còn 3 ngón tay , mổi ngón tay gồm có 3 lóng tay . 3 ngón tay nhân cho 3 ; 3 X 3 = 9 , 9 lóng cuả bàn tay trái có thể sữ dụng giống như xét trân đồ trên bảng cưũ cung Lạc Thư . chúng ta có 9 lóng cuả ba ngón tay , ứng với Cưũ cung Lạc Thư . Trở lại 1é cung vị cuả Khoa Tữ vi , ta thấy : khỡi đầu với cung Tý , Sưũ , Dần , Mão , Thìn , Tỵ , Ngọ , Muì , Thân , Dậu , Tuất , Hợi . Các cung đó được trình bày và phân bố như sau :                            
                         LY                     KHÔN
          TỴ           NGỌ           MÙI       THÂN
TỐN THÌN                                         DẬU   ĐOÀI

CHẤN MÃO                                       TUẤT
                                                                   CÀN
         DẦN       SƯỦ             TÝ          HỢI
                 CẤN                KHÃM               

   ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN BÓI TOÁN  ( Tiếp theo )

Theo như chúng ta hiểu teê gọi cuả các con thú , như sau : Tý con chuột , Sưũ trâu ; Dần cọp
Mão mèo , Thìn rồng , Tỵ rắn , Ngọ ngựa , Mùi dê , Thân khỉ , Dậu gà , Tuất chó n Hợi heo . Nhưng vì sao , Nếu giải nghiả theo kiểu người Tàu thì thật là lanh quanh , chúng ta nên hiểu các sự việc một cách đơn giản , đừng có làm  cho thế giới sự việc vốn đã rắc rối càng thêm rắc rối . Hảy hioểu đơn giản : ví dụ lời kinh nói : Chính bắc đương Tý , tý nghiả là con chuột , Phương bắc là phương vị cuả quẽ Khãm , Khi nói con chuột ta gọi đó là Tý , tý là chuột , là phương bắc , là quẽ Khãm . Sưũ con trâu , là phương đông bắc quẽ Cấn , Dần cọp , là phương đông bắc , mão hay mèo ( mình đọc là mẹo , ) văn nói thì là mèo , văn viết là mão hay mẹo cho hợp với lổ tai . đó là quẽ chấn ở hướng chính đông , Thìn con rồng , hướng đông nam ứng với quẽ Tốn , Tỵ con rắn đông nam , quẽ tốn , Ngọ con ngựa , hướng nam , cung ly hay quẽ Ly , Muí con dê , hướng tây nam quẽ Khôn  , Thân con khỉ , hướng tây nam , quẻ Khôn , Dậu con gà , hướng tây hay quẽ Đoài , Tuất con chó , hướng Tây bắc thuộc quẽ Càn , Hợi con heo , hướng tây bắc quẽ Càn ; theo như các bài hướng dẩn , như :

Tý khảm ,   Sưũ dần : Cấn ,  Mão Chấn  ,  Thìn Tốn Tỵ , Ngọ Ly , Mùi Thân Khôn , Dậu Đoài , Càn tuất hợi , Điểm đáng nói ở đây chính là phương pháp truyền đạt hay truyền khẫu cuả tiền nhân người Việt , phương pháp nầy đơn giãn , dể học , dể nhớ , khó quên . ngoài ra tiền nhân còn nhiều cách để truyễn đạt cho nhau . Như các bộ Binh pháp bán trên thị trường sách , đều không thể sữ dụng đưọc , chỉ để xem chơi để mà giải trí , Bởi vì như thế nầy , sau một thời gian dài nghiên cưú , nhờ cơ duyên nên người viết quen biết với một một người ẩn  dật , người ấy truyền cho và giải thích về điều nầy , Dịch là truyển lẩn cho nhau . không truyền cho người ngoài , hoặc trền cho người không đáng tín nhiệm . Bằng chứng cho thấy trong lịch sữ , có hiều chứng cớ , khi khão cổ khai quật một ngôi mô cỗ , đời nưóc sỡ , ở Mã vường Đồi , bên Tàu , khai quật được trong ngôi cỗ mộ, bảng vẻ có chú thích cuả một vị Hầu tước , và chú thích riêng , tức là mội nhà đều có soạn riêng cho mình , những tài liệu không truyền ra ngoài . Vì thế sách Dịch bán rất nhiều trên các tiệm sách . Nhưng xem chơi để mua vui thôi , còn nhiều câu kinh văn , người ta viết rất tối nghiả không thể hiểu được , nếu không có người chỉ vẻ cho mình . Tại sao ta thường nghe được đời người 12 bến nước , đó là cách nói lấy từ khoa Tữ vi mà nói ra . Ví dụ như nói : hết cơn Bĩ cực đến hồi thái lai , tức là muốn nói đến quẽ thiên địa bĩ và quẽ điạ thiên thái . Bĩ nghiả là cực khổ , và thái tức là thái bình .
Như nói Đời người trãi qua 12 bến nước , tại sao 12 bến nước , Trong nhờ đục chịu , Nói như thế là nói theo khoa Tữ vi , vì Tữ vi có 12 cung , lại chia ra làm cung  Mệnh và cung Thân , ) khi ta nói thân mệnh , ta tưởng đâu chỉ có một , vì hai chử thân mệnh đi liền với nhau . thật ra đó là hai cung khác nhau , cung mệnh là cung khi ta sinh ra , và cung thân là khi ta đã ra đời , chỉ trừ trường hợp đạc biệt , ngoại lệ , mới có người có cung thân và cung mệng giống nhua , như bản thân người viêét , có bảng số Tữ vi ,  Thân mệnh đồng cùng chung một cung . những người như thế , khi mới lớn , và khi đã ra đời thân và mệnh như bóng với hình . Bảng Tữ vi chia ra làm 12 cung .

Nếu cung thân mệnh nằm tại cung nào thì bản thân cuả người đó sẻ phải chịu ãnh hưỡng cuả cung đó .
Cung Mệnh : nói về bản thân , khi mới sinh ra cho đến chết .
Cung Phụ Mẫu : nói về cha mẹ ,
Cung Phúc Đức : nói về những gì giòng họ đã làm được hay hưõng được , hoặc gặp phải những điều bất hạnh ,
Cung Điền trạch : nói về đất đai nhà cưả ,
Cung Nô Bộc , nói về người làm , người cộng sự ,
Cung Tật Ách , nói về bệnh tật ,
Cung tài Bạch : nói về tính trạng tài chính
Củng Tữ tôn : nói về con cháu ;
Cung Thê thiếp ( nếu người xem là nam giời ) là vợ và nhân tình , hay bao nhiêu đời vợ )
nếu là nữ giới , ghi là cung Phu quân .
Huynh đệ : nói về anh em , bạn bè ,
Người viết chỉ trình bày sơ qua thôi , vì khi đi vào chi tiết cần phải có nguyên một quyển sách để thuyết trình .
Có nhiều người trong chúng ta thường nghe , như , chẳng hạn số tôi nghèo quá … v.. v.. nói như thế không đúng . khi nói về số , hảy hiểu , có 4 yếu tố . dùng để xem xét các sự kiện như là khi xem vận hạn ,   Mệnh , Số , Thời , Vận , vì chúng ta thường nói Số Mệnh , mà không biết có mệnh thì có số , nếu không có mệnh thì chẳng có số, như khi nhập ngũ , thì người lính sẻ được mang một số thứ tự gọi là số quân , hay quân số . Có lần bản thân người viết nghe một vị sư cô trụ trì trong một ngôi chuà , cô ấy nói , đến giày dép còn có số , huống chi con người lại không có số . nói như thế là vì vị sư cô bí quá noí bậy . Phải nói vì mệnh cuả mình như thế , nên phân mình được thế . Kinh Dịch cấm kỵ chuyện nói bậy bạ , củng như khi lĩnh hội được thuật mà truyền dạy bậy bạ , thì thực là một trọng tội ,

                              
Back to top
« Last Edit: 03. Dec 2017 , 23:28 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #19 - 20. Feb 2011 , 05:15
 
ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN BÓI TOÁN ( Tiếp Theo )

Chúng ta có thể nhận thầy sự hiển nhiên , trước cách sắp xếp năm tháng ngày giờ , và định danh cho các năm , các tháng , các ngày , giờ , đều được mang một cái tên , như tên người , ngay cả khi mở mang bờ cõi về phương nam trên vùng đất cuả Thuỹ chân Lạp năm xưa , khi cha mẹ đặ tên cho con mới sinh ra , đã phải tuân theo một thứ trật tự , khuôn phép , như người nam thường làm , đó là Năm Văn , Nữ Thị , chử lót ; khi con sinh ra là nam thì chử lót (đệm ) sẻ là văn , khi con gái sinh ra thì chữ lót là thị , năm tháng ngày giờ đều có quy cách riêng biệt ,Năm có năm thuộc âm , vá có năm thuộc dương , tháng và ngày giờ củng đều như thế . Gần như sự sắp xếp như thế thực đáng kinh ngạc , và tài tình , khỡi thuỹ , trước khi người Tàu đánh chiếm Việt Nam , họ đã nghỉ không đúng về người Việt và nước Việt cuả chúng ta , họ cho rằng Người Việt và Nước Việt là giống man di mọi rợ , ngang hàng với người thiễu số , nhưng khi cữ sứ thần qua Việt nam để giao hảo (ý định cuả họ chẳng có đàng hoàng ) để mưu sự đánh chiếm , thôn tính Việt Nam , khi có cơ hội , Người Tàu lần đầu tiếp xúc với người Việt , họ đã kinh ngạc về cách tổ chức hành chánh , quân đội , v… v..

Chuyện viết về kinh dịch thì nhiều lắm , và nhiều phương pháp cách thức dùng để cưú xét sự việc củng nhiều , như trong sách , có khi đọc thấy một câu , phân nhiều qua các bài thơ ( gọi là phú đoán ) hay phú , dạng văn vần , như thế dể nhớ , ví dụ như :
     Nhâm Giáp Phùng Càn Ất Quý Khôn ,
     Bính Cấn Đinh Đoài Kỹ Ly Môn ,
     Tốn Tân Khãm Mậu , Chấn Canh Đồn ,
Khi đọc được , lại không có lời giải thích , lúc nào chúng ta thấy hình như khi đi vào thế giới kinh dịch , chúng ta lạc phải vào thể giới Huyễn Ão . Thuở đó khoảng sau 30 / 4 / 1977 ; người viết đã xem được các câu đó qua khoa Kỳ Môn Độn Giáp , người viết không hiểu được ý nghiả và cách sữ dụng ra sao ; mải gần 15 năm sau , khi đã đi định cư ơ Pháp , tình cờ xem được một quyển sách khác , mới có lời giải thích về bài thơ nói trên . một thời gian dài 15 năm . Nhiều câu được viết với lời giải nghiã chung chung , nhưng không đi vào chi tiết cụ thể . Hình như kinh dịch về phần lý thuyết và phần ứng dụng được bày ra , chỉ dành cho nhửng thành phần tinh hoa , đôi khi như Sấm Trạng Trình , củng giống như những đầu đề toán hóc buá , mà khi đi thi ngày xưa chúng ta thường gặp , ờ những đầu đề toán khó giải , vì ngày xưa , khi còn chế độ quân chũ phong kiến , qua các cuộc thi tuyễn chọn nhân tài , thường thì củng có vài câu hỏi liên quan đến kinh dịch , các câu hỏi như tưạ đề , và đòi hỏi thí sinh bình giãng : ý nghiả đích thực , khi trả lời qua văn viết và qua sự khão hạch cuả giám khão , sự giải đáp không được nói y như câu văn viết trong các sách , mà phải chính là hiểu như thế nào ?? Trường học là nơi tập trung nhân tài , và các khoá thi chính là lúc tuyễn chọn nhận tài thực sự , những thành phần tài hoa nầy , sẻ được phân phối bố trí vào các cơ quan , các chưc vụ thích hợp với tài năng cuả đương sự .
Qua các quyển sách đưọc soạn lại về sau cuả Thiệu Khang Tiết ( một nhà toán học đời nhà Tống ở Trung Hoa ) người viết có xem được câu nói : khi lĩnh hội được học thuật , chớ có trao xằng truyện bậy ) nghiã là thứ nhất , đùng có dạy người bưà bãi , phải chọn lưạ người đẻ mà truyền lại , và khi dạy dỗ , hướng dẩn , củng cần nên hướng dẩn thực sự , truyền lại những gì qua sỡ học , không truyền lại theo kiểu ký cóp , ví dụ như chỉ biết dạy hai lần 2 là 4 mà không hề giải nghiả được , có  hai cách học : thứ 1 là học thuộc lòng , thứ hai là học đến đâu thì hiểu rõ đến đó .
Củng vì có nhièu người không ý thức được tầm mức quan trọng cuả lý thuyết kinh dịch ( nếu có hiểu , thì họ cho rằng đây chỉ là cách dùng để kiếm tiền ) nên họ cười cợt , khi trao đổi , khi bàn luận , nên trên các diễn đàn lại thường có tình trạng nhảm nhí . đó là điều đáng tiếc .
Bài viết nầy có thể là phần khão luận , hay nghiên  cưú , nhưng nếu ai muốn xem là chuyện vui chới thì mặc tình . nhưng đó là điều không nên . vì nếu đã đi vào thế giới huyễn ão cuả kinh văn , thì hầu như đều có liên quan đến thế giới ngàn xưa , tức là liên quan đến thế giới siêu nhiên , mình có thói quen gọi đó là Thế Giới Siêu Hình , hay là cõi âm . trong kinh dịch đã có phần xác định không đề cập đến Thượng Đế , ngay nới chử Thiên , như Thiên thời , chử thiên theo hán Việt , là chử trời , nhưng trời ở đây không phải là thượng đế , mà trời ở đây chỉ có ý nghiả như là thế giới tự nhiên ( la loi de la nature ) ; Kinh dịch thuyết trình về Thế giới Tự nhiên và sự vận hành . Tuy không nói đến trời và quỹ thần , nhưng vẩn có phần giải thích , bởi lẻ chuyêện quỹ thần thuộc về thế giới bên kia , một thế giới khác hơn thế giới mà chúng ta đang sinh sống và hoạt động . thế giới bên kia lại thuộc về một nơi khác ( une autre dimension ) Mổi bầu vũ trụ là một thế giới , và là một dimension , ở thế giới đó củng có sự vận hàng theo tứ trật tự nào đó , Nên kinh Thiền Tông có nói ; Đạo bất khã luận , bất khã thuyết , bất khã tư nghị ; Chử thiên thời có nghiả như thiên là trời hay espace , thời là thời gian , là khoản thời gian nào đó ( chính xác ) trog không gian nào đó ( chủ không gian có thể hiểu như là sự kiện xảy ra ở một địa phương nào đó trên mặt đất . khi đi vào lĩnh vực cuả khoa Kỳ Môn Độn Giáp ; ta sẻ thấy được điều đó , riêng khoa Bốc Phệ củng chỉ nói thoáng qua mà thôi . Qua các phần viết , người viết chỉ mong muốn trình bày một cách cho rỏ ràng về một lý thuyết và phần ứng dụng của  khoa là Bói Toán , để hiểu nó một cách rõ ràng và chính xác , hơn là chuyện cứ mê tín dị đoan , Hảy trả giá trị địch thực cuả khoa bói toán về đúng chổ và ý nghiả cuả nó . Lời lẽ và văn ngôn cuả người viết có thể hơi tối nghiả , có thể không làm cho  nhiều người xem qua hài lòng , và có thể  khiến họ phật ý , vì đây không phải là thơ văn , tiễu thuyết , xem chơi cho vui , như Nguyễn Du viết :
                                                            Lời quê chấp nhặt dông dài ;
                                                            Mua vui củng đặng một vài trống canh .
Chúng ta tử suy nghi sâu xa hơn chuú , vậy thì khi xem sách , thái độ cuả chúng ta ra sao ; xem như chuyên giải trí ( thư giản đầu óc ) một vài thứ chuyện chó cán xe , hay xe cán chó , xem rồi vứt đi , nếu truyện Kiều ( hay Đoạn Trường Tân Thanh ) chỉ là truyện hhãm nhí mua vui trong chốc lát , có sao lại tồn tại đến hôm nay , vì trong truyện Kiều , có biết bao nhiêu là điễn tích . Những gì được trình bày hôm nay , không chỉ được đưa lên một diễn đàn nào đó , mà bài viết sẻ được đưa ra trên nhiều diễn đàn , và kể cả báo chí .
Kinh qua lịch sữ , ta thấy trong sử Tàu , về truyện tam Quốc , một Tiều thuyết lịch sữ , nói về cuộc chiến giưả ba nưóc , thời đó nưóc Tàu phân ra làm Ba , như VN hai , tuy cùng là nước Việt . Hảy mở rông tri thức , hơn là cứ bảo thũ , vì tình tự dân tộc ; khi đọc sữ , chúng ta nên đọc với con mắt cuả nhà nghiên cưú , tìm tòi nhận xét , trên tinh thần bình đẵng . Bài viết nầy , chỉ là phần trình bày về các yếu tố ; mà không có ý đào bới sâu vào lĩnh vực học thuật . Theo thiễn ý người viết : Nhửng ai lĩnh hội được Kinh Dịch , phần lớn đều cần phải có tiêu chuẫn sau đây : Thứ nhất : Thiên Bẩm . Lần bản tính tự nhiên, thông minh , Thứ hai , Kiên nhẩn , thứ ba , học tập có phương pháp , có nhiều đức tính tốt đẹp , Bởi thế Nguyễn Hiến Lê đả viết Kinh dịch sách dành cho người Quân tữ vì dịch nói : DỊCH VI QUÂN TỬ MƯU , BẤT VI TIỂU NHÂN MƯU ; đay là câu nói cuả Trương Hoành Cứ , Một nghà Trí thức đời xưa ỡ Tàu .Vì sao mà đời xưa lại có nhiều tư tưởng nghiêm khắc như thế .
Người ta phần nhiều không hiểu biết , những thiên Binh Thư đưọc soạn ra , củng xuất phát từ KInh Dịch ; như trạn chiến xích bích , giưả quân cuả Tao Tháo với liên quân đông ngô và ba Thục ; như trận gọi là Bát quái Trận do Khổng Minh bày ra , v… v… Vậy bát quái trận là cái gì mới được . Bát quái trận là trân thế có 8 cưả , hay 8 cung ( Bát là 8 ) quái là quẽ . một trận thế có 8 cưả ứng theo 8 vị trí , theo phương thức cuả khoa Kỳ Môn Độn Giáp , nói sơ qua về Kỳ Môn Độn Giáp một chút , đó là phương trình thức đặc biệt , khi an vị phưog trình thức trên giấy trắng mực đen , vẻ ra một bảng , có 9 cung thay vì giống như bảng tữ vi với 12 cung


         *
                                                   6            1             8

                                                
                                                    7            5             3

                                                 
                                                    2            9             4.




                         TÂY BẮC        6             CHINH BẮC      1              ĐÔNG BẮC       8


                          CHÍNH TÂY  7              TRUNG ƯƠNG  5         CHÍNH ĐÔNG       3


                          TÂY NAM      2                CHÍNH NAM    9              ĐÔNG NAM     4

Phương trình thức nầy , được dung khi phối hợp với tiết khí  cuà các tháng trong năm ; Tuỳ theo mình dung vào lúc nào , thì dung các tiết khí cuả tháng đó , đòi hỏi sự chính xác , Khi tinh được ra các con số , thì phải viết con số đó xuống bảng vẻ , để tính toán cân nhắc ta và đối phưong ( chử đối phương xuất phát từ lý thuyết kinh dịch ở phân ứng dụng . )  ví dụ như nói : ta ở phương đông , thì người kia ở phương tây , vì Tây sẻ đối lại đông . như bắc đối Nam , v… v…
Các số trên bảng Cưũ cung là các số tiêu biểu cố định trên các cung ,  nhưng do thời vận mà có sự di chuyển , khi thực học khác nhau thì tài năng cao thấp sẻ khác nhau . Nhiều khi trên chính trường và chiến trường người ta không những đấu về lực ( lực lượng quân số ) mà còn đấu nhau về trí , Trận chến hôm nay đang xảy ra trên mặt đất giưả ba khối , Khối Mỹ , khối Tàu và khối Âu Châu . thế lực cuả 3 khối tương tranh , qua trận chiến về kinh tế , thương mại , tiền tệ , để biến thế giới thành Năm vùng kinh tế về nhiều lĩnh vực khác . nên câu sấm Trạng Trình có nói đến :
                                  CƠ NHỊ NGŨ THƯ HÙNG VỊ QUYẾT
                                  ĐẢO HOÀNH SƠN TAM LIỆT NGŨ PHÂN
                                  TA HỒ ( LỜI THAN ) VÔ PHỤ VÔ QUÂN
                                  ĐÀO VIÊN TÁN LOẠN NGÔ DÂN THỦ THÀNH
tức là phải nên hiểu tình thế cuả VN củng như thế giới sẻ chịu ảnh hưỡng tác động cuả ba khối ( hay ba cường quốc nói trên ) ảnh hưởng đến .
Người viết không có ý đụng chạm đến chính trị , vì đối với người Việt , có một điều rất kỳ cục , đó là các sự tranh cãi ( không phải tranh luận ) về đề tài lien quan đến chính trị , nhưng đó củng là sự khác biệt gìửa đông và tây , khi người ta hiểu chính trị theo nghiã rộng thì chúng ta hiểu chính trị theo nghiã hẹp ; bời thế khi đúng chung với người Pháp , trò chuyện về chính trị , người ta thưòng ít có hiềm khích , vì khi họ không thích ông thũ tướng thì họ sẻ bỏ phiếu bất tín nhiệm , người Pháp có lối suy nghỉ khác hơn chúng ta , củng chính thế , nên khi viết thì phải lách , nên mới có câu thong về không nói đến chính trị , bài viết nầy chỉ đề cập và trình bày về một lý tguyết cổ xưa cuả người Việt , do hoàn cảnh lịch sữ nên đã mai một , chỉ khi nào người Việt ngồi lại bên nhau , nói chuện cùng nhua trên tình thần cới mỡ , nhân nhượng và hiểu biết , thì chừng đó sẻ có hội nghị ( la conférence ) để cùng trao đổi về kinh dịch . để trả lại giá trị đích thực cuả lý thuyết Kinh Dịch .
Sở dĩ nói leo qua một chút về chuyện thời sự , là vì Nói thì phài có sách vở chứng minh , khi mach bảo cho ai đìều gì đó củng cần phải có chứng cớ rõ ràng . Chính vì thế , người viết phải dẩn chứng qua các sự kiện xảy ra trong lịch sữ . như có lần người viết đã viết bài phân tích về trận đánh ở Ban Mê Thuộc và tháng 3 năm 1975 , bài viết chì nhằm phân tích về trận đánh và lý thuyết kInh Dịch có lien , khi người chỉ huy trận đánh mang danh nghiả là Tướng Văn Tiến Dũng , nhưng thực ra đó là sự điều khiễn cuả Lê Đức Thọ , người nhân vật thứ ba trong Trung ương đảng cộng sãn VN , rất nhiều sự kiện xảy ra trong quân sữ , đều có liên quan dến kinh dịch , giưả các trận chiến dưới thời Lý , thời Trần trên sông Bạch Đằng ,

Người viết chỉ sơ lượt thôi , vì người viết không phải là nhà viết sữ chính thống , củng chẳng phải là người viết sữ nghiệp dư ( nói theo kiểu Xã hội chũ nghiã ) , khi người ta viết để kiếm tiền thì có thể sợ không có người đọc thì sách bán không chạy , còn kẻ nầy , viết không để vì miếng ăn , nên viết và đua lên để bằng hưũ khắp nơi xem cho biết , biết để có sự suy nghỉ đúng đắn , chính xác hơn , nghiêm trang hơn ,

Một nguồn văn minh xưa còn bị xem thường cười cợt , thão nào dân tộc chẳng đoạ lạc , vì chúng ta thiếu lý thuyêt chĩ đạo , tất cả nguồn văn minh văn hoá xưa bị tiệu diệt tù thời Tàu đô hộ, qua người Pháp củng thế , nên người Việt học xong tghì làm công cụ để làm đầy tớ kẻ khác , chớ không học hõi để điều hành quãn trị guồng máy nhà nước Việt Nam , lame người thưà hành thì ngon lành , nhưng không thể tự phát triển sáng kiến , vì sáng kến đã bị đui mù , ngay cả nên văn hoá , đều thuộc vào Khổng Tữ , cái thứ đạo lý khốn nạn quái đãn chế ngự lên đầu óc người Việt , khôngdám suy nghỉ khi đứng trước bất cứ vấn đề trọng đại nào , chúng ta thường lập đi lập lại câu : Tiên Học Lễ nghiả , học văn chương , nói thế là kết quả từ những năm tháng thuộc Tàu , từ Nhâm Diên và Sỹ Tích , mình mang ơn kẻ xâm lược , đời đời thần phục , tư tưởng phản kháng biến mất , nên đến ngày 30 / 4 , vcả nước buông khi giới để đâu hang , rồi kết quả hơn 400 ngàng quân cán chính vào Tù lưu đài không xét xử , người ta cố ý tiêu diệt nhạn tài Nam Việt nam . Cái đớn hèn đó xuất phát từ câu Tiên học lễ Hậu học văn , nghiả là vâng dạ là chuyện tối cần , trước khi học được điều hay lẻ phải , Bài viết nầy không nhằm xách động ai , không nhằm chống đối ai , không nhằm lật đổ bất cứ chính quyền ác ôn nào . mà chỉ nói lên sự thật về tính nhẫn nhục chịu đựng thái quá cuả người Việt , đôi khi sự nhẩn nhục đó không cần thiết . Người Việt cần phải tiên văn hậu võ . Một trí tuệ minh mẩn trong cơ thể tráng kiện , hơn là bắt chước đám sỹ phu Tàu phù quỳ mọp hèn kém , rồi qua Việt Nam chiếm đóng , để dạy dổ người Việt phải biết vâng lời thiên triều . con cái phải vâng lời bố mẹ , cho dù bố mẹ sai lằm , cho dù bố mẹ quyết đoán , cuối cùng hậu quả chính đưá trẻ lảnh đủ , bản thân người viết đả từng trãi qua , nên tạm sửa câu : cá không ươm muối cá ươn , con cải cha mẹ trăm đường con nên . nếu phải nghe theo lời nói phải thì nên nghe , còn nghe lời nói bậy , theo việc làm bậy bạ thì thà đùng nghe theo . Nếu từ trong tư tưởng đã có ý tưỡng hèn yếu , thì nói gì đến chuyện làm cách mạng xã hội . Đó là kết quả cuả ngày 30 / 4 / 1975 .


 
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #20 - 02. Mar 2011 , 14:45
 
ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN BÓI TOÁN . ( Tiếp theo )

Khi nói chuyện về Kinh dịch , đìều khó khăn nhất chính là không hiểu mình nên bắt đầu từ đâu ??  củng bời thế , nên ngày trước có một vài vì củng vì ham muốn học hỏi , muốn nghiên cưú , nên có ngỏ ý muốn theo thọ giáo , mình thử nhận lời , để thử hướng dẩn cho họ , Một người trước đây là Sỹ quan QLVNCH , đã từng giử chức vị Sỹ quan liên lạc trong Phái Đoàn Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên , sau khi Hiệp Định Paris ban hành , bản thân người viêt có thử hướng dẩn bằng cách soạn bài cho anh ấy xem trước . Nhưng sau đó nhận thấy anh ấy không có khả năng để lĩnh hội , thành ra mình ngưng không tiếp tục nưả , rồi có người khi xưa có trình độ văn hoá cao , nhưng khi đi vào lĩnh vực Lý thuyết kinh dịch , chị ấy củng đàng chịu thua , đủ thấy rằng , học hành và khoa bảng vẩn chỉ là một việc , còn tiếp nhận và lĩnh hội còn phải có nhiều đức tính hiếm có nưả .

Đây chính là kinh nghiệm , sau quá trình trãi qua hơn 30 năm . Chính bản thân người viết , đả trãi qua nhiều gian nan khổ nhọc , cho dù trong nhà ( sau 30 / 04 / 1975 )  không có gạo đong , không có củi nấu , nhà thì đông con , việc làm không có , vì thân người lính nguỵ , ai mà dám thuê mướn . Vậy mà sự học hỏi khi có cơ hội vẩn có thể tiếp tục , quả thực như Nguyễn Văn Học tự Học Lạc ; ông có viết Đường Đi Không Khó Vì Ngăn Sông Cách Nuí , Mà khó Vì Lòng Người Ngại Núi E Sông . Chính tư tưởng con người mới là yếu tố , có tính cách quyết định , Tư tưởng là phần ở trong , và hành vi là phần ở ngoài . Như nói Phức và Đức không phải là một như ta lầm tưỡng . mà phúc và đức là hai Phúc là sự việc ta có thể thấy được , như người ta giàu sang , thể hiện qua nhà cưả đất cát , ruộng ương , hay tiền tài danh vọng , nhưng đức thì tiềm ẩn bên trong .

Trong đời binh nghiệp , bản thân người vìết  học được nhiều điều lý thú , quả có thế . vì khi còn đi học , người viết củng hay lơ là xao nhảng việc học hành chữ nghiã . nhưng khi nhập vào môi trường và lĩnh vực quân sự . tự nhiên trí óc sáng suốt hơn , và người viết củng có phần có phúc được tham dự nhiều khoá huấn luyện đặc biệt , Và sau đó , khi tham gia các cuộc hành quân bí mật , nơi cùng mật khu cuả đối phương , nhằm bí mật kiểm soát vể hoạt động quân sự cuả đối phương . Từ môi trường đó , người lính mới hiểu trí óc và tư tưởng là yếu tố quyết định . Phương tiện chỉ là điều phụ thuộc . Như tất cả những ai đã từng là người trãi qua đoạn đường chiến binh , sẻ hiểu được cách mưu sinh thoát hiểm , vì nhiều trường hợp , dodn vị tan tác , phải di chuyển , và hầu như không còn liên lạc được với Bộ Chỉ Huy , Tự bản thân người lính chiến tự xoay sở , để tìm đường trở về với đơn vị .

Nếu chỉ biết đòi hỏi phương tiện mà đầu óc nghèo nàn , lại không có sáng kiến , thì dù có phương tiện tối tân , vẩn như vứt đi . Nhìn lại thời điểm trước 30/4 / 1975 ai ai củng đều thấy rỏ , với xe tăng tàu bay , pháo binh , mà cuối cùng tan thế trận , Bài viết không nhằm lên án ai , không nhằm bênh vực ai bất kỳ . Bài viết chỉ muốn đề cập đến yếu tố tinh thần , rất hệ trọng .

Ngay từ thời còn đi học , bản thân có nghe nói sơ qua về kinh dịch , nhưng lúc ấy đầu óc chưa đũ không ngoan để nhận thức được  điều hay lẻ phải nằm trong bộ kinh nầy . Hể cứ sau 5 năm , tầm nhìn cuả chúng ta sẻ khác đi , sự nhận thức sẻ khác hơn , vì thế cố tật cuả người viết có lẻ củng không hay lắm , vì sau khi đã soạn bài , thì sau  lại bỏ đi , và soạn ra cái bài mới , sự thay đổi biến đổi không ngừng , vì có lẻ bản thân đòi hỏi sự sáng tạo trong việc làm .

Củng nhờ có việc đập phá bỏ đi cái củ , mà nhân loại đả phát minh ra những cái mới hơn , Như chúng ta đã biết , qua lịch sử cuả nhân loại . Củng như Kinh dịch thuyết trình về sự biến đổi , sự biến đổi có tính cách ngắn hạn , dài hạn như ta thấy trong khoa tữ vi ,Có hạn  mười năm gọi là đại hạn , hạn một năm gọi là tiễu hạn, hàng tháng gọi là nguyệt hạn , và hạn từng ngày , nhưng vì từng ngày quá ngắn nên người ta ít chú ý đến , khi coi hạn trong tuần lễ , người ta thường dùng đến khoa Bốc phệ , hay Bốc dịch , các khoa nầy xem nhanh ( tính chất vẩn chính xác ngang nhau , vì trên nguyeê tắc , khi xem xét một đời người ta thường cần đến năm , tháng , ngày , giờ sinh . nhưng khi đang trên đường đi .

khi gặp sự khẩn cấp phải tính toán liền và phải biết trước tình thế , thì người ta dùng Bấm độn , hoặc trong quân đội , đời xưa , người ở vị trí lãnh đạo chỉ huy thường tinh thông kinh dịch , thường sữ dụng phương pháp tính nhanh : gọi là ngồi trên đầu ngựa mà tính . Ví dụ như : khi một cấp chỉ huy quân đội thị sát mặt trận , thường có đoàn tùy tùng , khi đi đến đâu vị chỉ huy , thường quan sát địa thế và hỏi những người kề cận , về cách ứng xử trong trường hợp lâm trận thế . Đó chính là lúc người sỹ quan tuỳ viên sẻ thưa trình về tình thế theo cách nhận định cuả ông ta .

Những phương thức dùng đến phần nhiều chỉ dùng bấm độn trên bàn tay , nhhung trong lãng đạo chỉ huy , người xưa thường dùng khoa Kỳ Môn Độn Giáp , để tính toán , Khoa Kỳ Môn độn giáp , thực ra chử Kỳ là Tam Kỳ (ất kỳ , Bính kỳ , đinh kỳ , ất kỳ dùng tính về thái dương , bính kỳ tính về thái âm , và đinh kỳ tính về tinh tú , những vòng sao được tính đến như Thái Ất , như Nhị Thập Bát Tú v….v……chính hệt thống về lịch số cho thấy sự sắp xếp năm tháng gày giờ với tên gọi từng năm , đã nói lên điều gì đó ; nhưng có ai màn nghỉ đến tại sao ??? Trong quân sữ cuả dân tộc Việt Nam củng thế . Khi viết về lịch sữ , chúng ta không vì tự ái dân tộc mà khen ta và chê đối phương , mà chúng ta thấy rỏ , người Tàu đã bao đời không hề che dấu ý định và tham vộng lấn chiếm lãng thổ Việt Nam và muốn đồng hoá chúng ta với người Tàu , để rồi ta sẻ nói tiếng tàu , và lãnh thổ Việt Nam trở thành một quận huyện cuả nước Tàu . Người Tàu chưa bao giờ thành công , chỉ trừ bây giờ , khi người lãnh đạo đất nước đớn hèn thuần phục thiên triều , để vinh thân phì gia , nhưng dân tộc Việt Nam còn đó , thiểu số lãnh đạo không đại diện cho toàn thể dân tộc Việt Nam , vậy thì chúng ta không nên bi quan trước vấn đề nhượng đất nhượng biển trong bao năm tháng đã qua . Dịch đã khẵng định rằng , hết tối thì sáng , hết nghèo thì giàu , đó là quy luật tất yếu . Đất nước Việt Nam vẩn còn nhiều nhân tài , còn ẫn phục chờ cơ hội thuận tiện sẻ xuất hiện giúp nước cưú dân  . Cái thời hạn điêu linh ngàn năm đã hết . kể từ ngày Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long . Năm Tân mão là năm khỡi đầu cho vận hội mới , những ai manh tâm buôn dân bán nước phải coi chừng cái hoạ trước mắt như Hồ Quý Ly , như Lê Chiêu Thống . Người tàu đông dân nhưng chỉ về số lượng , nhưng phấm cách chỉ là lủ trộm cướp , ngay về lý thuyết kinh dịch , củng chỉ ăn cướp , ăn cắp cuả dân tộc Việt Nam . Ngay từ chính quyền mới , ngưới ta cho rằng lý thuyết kinh dịch là mê tín dị đoan , kỳ thực họ đã dùng theo Kỳ môn độn giáp để đánh trận Ban Mê Thuộc , đủ thấy họ rất gian  trá . đó là bản chất . Nếu kỳ môn độn giáp là mê tín dị đoan thì làm sao mà đứt đìểm được cuộc chiến từ 1945 đến 1975 ?????  Hỏi tức là trả lời , đây là dẩn chứng từ lịch sử ….. Có phải chăng trong bọn họ có một bộ phận nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết kinh dịch trong chính trị , trong quân sự , trong tình báo , và trong cách cai trị . Nếu không phải thế , thì họ đã thay đổi nhiều lần từ biễu ngử bảng hiệu để trước các trụ sở hành chánh , kể cả quân trang quân phục của đon vị công an ; chữ cách mạng trong bảng hiệu đã biến mất . thế thì tại sao ??? bài viết nầy không nhằm đá động đến chính trị , mà tại sao người ta lại dị ứng với từ ngử chính trị , và cách mạng .


Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #21 - 02. Mar 2011 , 14:47
 
ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN BÓI TOÁN. ( Tiếp theo )

Khi nói chuyện về Kinh dịch, đìều khó khăn nhất chính là không hiểu mình nên bắt đầu từ đâu?? cũng bởi thế, nên ngày trước có một vài vì cũng vì ham muốn học hỏi, muốn nghiên cứu, nên có ngỏ ý muốn theo thọ giáo, mình thử nhận lời, để thử hướng dẫn cho họ. Một người trước đây là Sỹ quan QLVNCH, đã từng giữ chức vị Sỹ quan liên lạc trong Phái Đoàn Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên, sau khi Hiệp Định Paris ban hành, bản thân người viết có thử hướng dẫn bằng cách soạn bài cho anh ấy xem trước. Nhưng sau đó nhận thấy anh ấy không có khả năng để lĩnh hội, thành ra mình ngưng không tiếp tục nữa, rồi có người khi xưa có trình độ văn hóa cao, nhưng khi đi vào lĩnh vực Lý thuyết kinh dịch, chị ấy cũng đành chịu thua, đủ thấy rằng, học hành và khoa bảng vẫn chỉ là một việc, còn tiếp nhận và lĩnh hội còn phải có nhiều đức tính hiếm có nữa.

Đây chính là kinh nghiệm, sau quá trình trải qua hơn 30 năm. Chính bản thân người viết, đả trải qua nhiều gian nan khổ nhọc, cho dù trong nhà (sau 30 / 04 / 1975) không có gạo đong, không có củi nấu, nhà thì đông con, việc làm không có, vì thân người lính ngụy, ai mà dám thuê mướn. Vậy mà sự học hỏi khi có cơ hội vẫn có thể tiếp tục, quả thực như Nguyễn Văn Học tự Học Lạc; ông có viết Đường Đi Không Khó Vì Ngăn Sông Cách Núi, Mà khó Vì Lòng Người Ngại Núi E Sông. Chính tư tưởng con người mới là yếu tố, có tính cách quyết định. Tư tưởng là phần ở trong, và hành vi là phần ở ngoài. Như nói Phức và Đức không phải là một như ta lầm tưởng, mà phúc và đức là hai. Phúc là sự việc ta có thể thấy được, như người ta giàu sang, thể hiện qua nhà cửa đất cát, ruộng ương, hay tiền tài danh vọng, nhưng đức thì tiềm ẩn bên trong.

Trong đời binh nghiệp, bản thân người vìết học được nhiều điều lý thú, quả có thế. vì khi còn đi học, người viết cũng hay lơ là xao nhãng việc học hành chữ nghĩa, nhưng khi nhập vào môi trường và lĩnh vực quân sự, tự nhiên trí óc sáng suốt hơn, và người viết cũng có phần có phúc được tham dự nhiều khóa huấn luyện đặc biệt, Và sau đó, khi tham gia các cuộc hành quân bí mật, nơi cùng mật khu của đối phương, nhằm bí mật kiểm soát về hoạt động quân sự của đối phương. Từ môi trường đó, người lính mới hiểu trí óc và tư tưởng là yếu tố quyết định. Phương tiện chỉ là điều phụ thuộc. Như tất cả những ai đã từng là người trải qua đoạn đường chiến binh, sẽ hiểu được cách mưu sinh thoát hiểm, vì nhiều trường hợp, đơn vị tan tác, phải di chuyển, và hầu như không còn liên lạc được với Bộ Chỉ Huy. Tự bản thân người lính chiến tự xoay sở, để tìm đường trở về với đơn vị.

Nếu chỉ biết đòi hỏi phương tiện mà đầu óc nghèo nàn, lại không có sáng kiến, thì dù có phương tiện tối tân, vẫn như vứt đi. Nhìn lại thời điểm trước 30/4 / 1975 ai ai cũng đều thấy rõ, với xe tăng tàu bay, pháo binh, mà cuối cùng tan thế trận. Bài viết không nhằm lên án ai, không nhằm bênh vực ai bất kỳ. Bài viết chỉ muốn đề cập đến yếu tố tinh thần, rất hệ trọng.

Ngay từ thời còn đi học, bản thân có nghe nói sơ qua về kinh dịch, nhưng lúc ấy đầu óc chưa đủ không ngoan để nhận thức được điều hay lẽ phải nằm trong bộ kinh nầy. Hễ cứ sau 5 năm, tầm nhìn của chúng ta sẽ khác đi, sự nhận thức sẽ khác hơn, vì thế cố tật của người viết có lẽ cũng không hay lắm, vì sau khi đã soạn bài, thì sau lại bỏ đi, và soạn ra cái bài mới, sự thay đổi biến đổi không ngừng, vì có lẽ bản thân đòi hỏi sự sáng tạo trong việc làm.

Cũng nhờ có việc đập phá bỏ đi cái cũ, mà nhân loại đả phát minh ra những cái mới hơn, Như chúng ta đã biết, qua lịch sử của nhân loại. Cũng như Kinh dịch thuyết trình về sự biến đổi, sự biến đổi có tính cách ngắn hạn, dài hạn như ta thấy trong khoa tử vi, Có hạn mười năm gọi là đại hạn, hạn một năm gọi là tiểu hạn, hàng tháng gọi là nguyệt hạn, và hạn từng ngày, nhưng vì từng ngày quá ngắn nên người ta ít chú ý đến, khi coi hạn trong tuần lễ, người ta thường dùng đến khoa Bốc phệ, hay Bốc dịch, các khoa nầy xem nhanh (tính chất vẫn chính xác ngang nhau, vì trên nguyên tắc, khi xem xét một đời người ta thường cần đến năm, tháng, ngày, giờ sinh). Nhưng khi đang trên đường đi, khi gặp sự khẩn cấp phải tính toán liền và phải biết trước tình thế, thì người ta dùng Bấm độn, hoặc trong quân đội, đời xưa, người ở vị trí lãnh đạo chỉ huy thường tinh thông kinh dịch, thường sử dụng phương pháp tính nhanh: gọi là ngồi trên đầu ngựa mà tính. Ví dụ như: khi một cấp chỉ huy quân đội thị sát mặt trận, thường có đoàn tùy tùng, khi đi đến đâu vị chỉ huy, thường quan sát địa thế và hỏi những người kề cận, về cách ứng xử trong trường hợp lâm trận thế. Đó chính là lúc người sỹ quan tùy viên sẽ thưa trình về tình thế theo cách nhận định của ông ta.

Những phương thức dùng đến phần nhiều chỉ dùng bấm độn trên bàn tay, nhhung trong lãnh đạo chỉ huy, người xưa thường dùng khoa Kỳ Môn Độn Giáp, để tính toán, Khoa Kỳ Môn độn giáp, thực ra chữ Kỳ là Tam Kỳ (Ất kỳ, Bính kỳ, Đinh kỳ, ất kỳ dùng tính về thái dương, bính kỳ tính về thái âm, và đinh kỳ tính về tinh tú, những vòng sao được tính đến như Thái Ất, như Nhị Thập Bát Tú v….v... chính hệ thống về lịch số cho thấy sự sắp xếp năm tháng gày giờ với tên gọi từng năm, đã nói lên điều gì đó; nhưng có ai màng nghĩ đến tại sao??? Trong quân sử của dân tộc Việt Nam cũng thế. Khi viết về lịch sử, chúng ta không vì tự ái dân tộc mà khen ta và chê đối phương, mà chúng ta thấy rõ, người Tàu đã bao đời không hề che dấu ý định và tham vọng lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam và muốn đồng hóa chúng ta với người Tàu, để rồi ta sẽ nói tiếng tàu, và lãnh thổ Việt Nam trở thành một quận huyện của nước Tàu. Người Tàu chưa bao giờ thành công, chỉ trừ bây giờ, khi người lãnh đạo đất nước đớn hèn thuần phục thiên triều, để vinh thân phì gia, nhưng dân tộc Việt Nam còn đó, thiểu số lãnh đạo không đại diện cho toàn thể dân tộc Việt Nam, vậy thì chúng ta không nên bi quan trước vấn đề nhượng đất nhượng biển trong bao năm tháng đã qua. Dịch đã khẳng định rằng, hết tối thì sáng, hết nghèo thì giàu, đó là quy luật tất yếu. Đất nước Việt Nam vẫn còn nhiều nhân tài, còn ẩn phục chờ cơ hội thuận tiện sẽ xuất hiện giúp nước cứu dân. Cái thời hạn điêu linh ngàn năm đã hết. kể từ ngày Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Năm Tân mão là năm khởi đầu cho vận hội mới, những ai manh tâm buôn dân bán nước phải coi chừng cái họa trước mắt như Hồ Quý Ly, như Lê Chiêu Thống. Người tàu đông dân nhưng chỉ về số lượng, nhưng phẩm cách chỉ là lũ trộm cướp, ngay về lý thuyết kinh dịch, cũng chỉ ăn cướp, ăn cắp của dân tộc Việt Nam. Ngay từ chính quyền mới, ngưới ta cho rằng lý thuyết kinh dịch là mê tín dị đoan, kỳ thực họ đã dùng theo Kỳ môn độn giáp để đánh trận Ban Mê Thuộc, đủ thấy họ rất gian trá, đó là bản chất. Nếu kỳ môn độn giáp là mê tín dị đoan thì làm sao mà đứt điểm được cuộc chiến từ 1945 đến 1975????? Hỏi tức là trả lời, đây là dẫn chứng từ lịch sử ….. Có phải chăng trong bọn họ có một bộ phận nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết kinh dịch trong chính trị, trong quân sự, trong tình báo, và trong cách cai trị. Nếu không phải thế, thì họ đã thay đổi nhiều lần từ biễu ngữ bảng hiệu để trước các trụ sở hành chánh, kể cả quân trang quân phục của đon vị công an; chữ cách mạng trong bảng hiệu đã biến mất, thế thì tại sao??? bài viết nầy không nhằm đá động đến chính trị, mà tại sao người ta lại dị ứng với từ ngữ chính trị, và cách mạng.

Hiện tại qua tình hình thời sự nóng bỏng đang diễn ra khắp nơi, chúng ta thấy ở Tunisie, Ai Cập, và hiện nay ở Algerie; Đó là dân chúng các nơì đang đứng lên thực hiện cuộc cách mạng xã hội. Cách Mạng tức là thay đổi bản mệnh. Vấn đề không nằm ở chỗ suy tư, mà còn biến suy tư trở thành hiện thực. Dân Ai cập, dân Tunisie đâu có thông minh hơn dân tộc Việt nam Con rồng cháu Tiên. Vậy mà họ vẫn làm; họ làm đó là thế giới hện tượng, nhưng người viết muốn nói đó là đúng thời điểm, đã đến lúc, đúng thời vận, tức nhiên sẽ bùng nổ. Ngay cả ở trung quốc cũng đang xảy ra biểu tình trên tỉnh thành phố.

Người Trung Hoa đang chuẩn bị xuống đường

Bắc Kinh 20/2: Trong lúc những cuộc nổi dậy ôn hòa của người dân Tunisia lan sang các nước Bắc Phi như Ai Cập, Bahrain, Yemen, Algeria và Libya hiện vẫn còn khiến cả thế giới theo dõi trong hồi hộp và hy vọng thì tại Trung cộng nhà cầm quyền Bắc Kinh thình lình điều quân đến vây kín khu vực trước một tiệm ăn "Mc Donald" cũng tại thủ đô Bắc Kinh, ngay sau khi một sinh viên 25 tuổi có tên là Liu Xiaobai đặt một cánh hoa lài màu trắng trong một chậu hoa trước cổng tiệm ăn này.

Thật ra, Bắc Kinh vốn chỉ có những phản ứng dè dặt và chiếu lệ trước những sự kiện đang dồn dập xảy ra tại Bắc Phi như cảnh báo về sự "bất ổn" trong vùng, hạn chế tối đa những tin tức về phong trào biếu tình đòi dân chủ cũng như ngăn cấm những người sử dụng internet trong việc tìm kiếm thông tin về Bắc Phi - nhà cầm quyền này chỉ thật sự tỏ thái độ cứng rắn sau khi có lời kêu gọi người Trung Hoa biểu tình vào đúng 2 giờ chiều Chủ Nhật trên 11 thành phố lớn của TC như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Vũ Hán, Chương Du v.v.. được phóng lên Boxun.com, một trang mạng tiếng Trung Hoa do Mỹ yểm trợ.

Lực lượng cảnh sát hùng hậu Bắc Kinh gởi đến để ngăn chận biểu tình trước tiệm ăn Mc Donald

Theo AP, mặc dù nhà cầm quyền Trung Cộng cố tình dấu nhẹm thủ đoạn trù dập đàn áp những người dân mà họ cho là dính dáng đến việc tổ chức biểu tình, có khoảng hơn 100 người được cho biết đã bị bắt giam, quản thúc tại gia hay mất tích, chưa kể có vài nhà đối kháng nổi tiếng đã bị bắt trở lại hoặc bắt đầu bị quấy nhiễu thường xuyên hơn trước, theo lời tố cáo của tổ chức bảo vệ nhân quyền tại đây.

Được biết, trong thông điệp kêu gọi sự tiếp diễn cuộc cách mạng cũng có tên là "Hoa Lài" tại TC, người viết đã kêu gọi dân chúng Trung Hoa hãy "gánh lấy trách nhiệm cho tương lai", đề nghị dùng khẩu hiệu này khi xuống đường biểu tình "chúng tôi muốn có cái ăn, cái mặc, sự công bằng" là những lời oán thán rất phổ thông hiện nay tại TC. Các trang mạng Facebook, Twitter trên internet ngay sau đó đã bị cắt đứt, nhưng các chuyên gia trẻ hiện đang tìm cách nối lại đường truyền nhanh chóng để người dân có thể theo dõi diễn biến từ "lề trái"

Về số phận sinh viên Liu Xiaobai tức khắc bị áp giải cùng với 2 người khác bới an ninh mật vụ TC, phone tay của anh bị tịch thu, nhưng anh đã được một nhóm phóng viên nhào tới vây quanh nên an ninh không dám làm dữ và còn phải thả cho về sau khi anh lớn tiếng thắc mắc về việc tại sao bị bắt khi chỉ đặt cành hoa vào chậu?

Cũng theo AP, trước đó 1 ngày chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã gởi thông điệp đến quốc dân và đặc biệt là các quan chức CS cấp tỉnh, "ra lệnh" phải quyết những "vấn đề nổi cộm" kẻo gây "nguy hại đến sự hòa bình và ổn định trong xã hội".

(Tara lược dịch từ Yahoo News)

Sau đây là vài hình ảnh về tình hình Trung Cộng hôm chủ nhật 20/2

Mật vụ xô đẩy người hiếu kỳ không cho dừng lại chỗ tụ tập

tuổi già cũng muốn xuống đường?

http://www.boxun.com/
http://www.aolnews.com/2011/02/20/china-tries-to-stamp-out-jasmine-revolution/
Lê Lam Sơn
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #22 - 02. Mar 2011 , 14:48
 
ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN BÓI TOÁN  ( TIẾP THEO )

Sở dĩ bài viết có một vài đoạn nhắc sơ qua về chuyện thời sự , đó là ý cuả người viết muốn chhứng minh cho phần luận cứ , về thời sự đương đại ; tức là những sự kiện đang xảy ra , Quý vị nên hiểu rằng , khi người xưa đã nhận xét qua câu văn cuả Trương Hoành Cứ ; một Cao thủ vỏ lâm về kinh dịch , ông viết Dịch Vi Quân Tữ Mưu , Bất Vi Tiểu nhân Mưu , là có ý khuyên bảo người đời sau , rằng : khi đã lĩnh hội được những điều cao siêu trong kinh dịch , thì chớ có dùng nó , để đem sự cao siêu đó mà phụng sự cho lủ buôn dân hại nước , và loại đầu trộm đuôi cướp , vì kinh dịch là đạo trị quốc , nếu vô tình hay cố ý phạm vào , nhẹ thì bị anh linh cuả tiền nhân quở trách , nặng thì uy trời trừng phạt . biết bao nhiều thời đại đã qua , biết bao nhiêu nguồn văn minh xuất hiện trên quả đất , vậy mà một sớm một chiều tan biến , do các triều đại đó ăn chơi xa xĩ , sống đọa lạc , như Châu Atlantic ; Là chuyện có thật , như thành Babilon . Uy trời thì chúng ta không thể nhận ra , nhưng trời đã trừng phạt thì đó là sự kiện có thật , Hiện thời , có nhiều sự kiện xảy đến , nhưng giới bác học , vẩn bảo đó là những sự việc chưa giải thích được .
Bây giờ xin trở lại phần chính cuả bài viết , đó là các phương pháp để Bói , trong đó , có các sự giải thích chung chung chưa đầy đủ , qua các tác phẩm được bày bán trên thị trường sách . tại sao thế ???  Xin Thưa , vì Dịch là Truyền đạt lẫn cho nhau , và không được tự ý truyền dạy , mà không chọn lưạ người cẩn thận . Kể cả các quyển Binh Thư được bày bán , thực ra , người xưa khi soạn các thiên binh thư , đều không có ý viết sách để bán . đời nay người ta kinh doanh , và buôn bán chữ nghiã để trục lợi ( dù có nói gì cốt đẻ biện hộ cho hành động nầy , củng chỉ là nguỵ biện ) cho nene sách thì bán đầy , mà thực để  xem cho vui mà thôi , Ai dám vỗ ngực xưng tên rằng mình lĩnh hội được  yếu chỉ cuả kinh văn qua các sách bày bán trên thị trường , nói thế đúng là nổ  văng miễng hơn lưụ đạn . Trong Binh Thư Yếu Lược được bán ra , có vẻ hình các thế trận , nhưng chỉ có hình vẻ , mà hoàn toàn không có cách hướng dẩn ??? dạy thì dạy tới nơi tới chốn , dạy như thế , thì dạy làm gì ????? Dạy mà dạy bậy bạ , dạy nưả vời là một trọng tội , nhưng ai xét xử ai được thời nay . Ngày xưa thời củ , nhiều anh lính binh nhị , dám mang lon thiếu úy đi cua gái , ra đến ngoại quốc dám xưng là thiếu tá , để loẻ thiên hạ , xạo sự cho vui thôi , những cái ba vớ đó xin miẻn bàn .
Trước khi đi vào các phương pháp bói : chúng ta củng cần nên biết một chút qua sự  sắp xếp quẻ dịch ,Thứ nhất , Cách sắp xếp quẽ Dịch : Quẽ dịch gồm có Tên , Do hình thể cuả quẽ mà chúng ta có tên quẻ . ví dụ như :  quẽ  gồm hai quẻ chính hợi lại mà thành . Ví dụ : ta nghe nói sự  việc xảy ra , mới nghe qua chúng ta vẩn tưởng sự và việc là một . thưa không phải thế . Khi sự việc đưọc nói cung , nhưng khi chia ra ta biết sự và việc là hai .  lẻ ra Sự đứng trước , và việc đi theo sau , nhưng trong cách sắp xếp quẽ dịch , cách xem xét sự kiện ; ta bắt đâu ngay từ nơi góc rể . dười góc cây là rể cây . vậy góc cây ở trên , rể cây ở dưới , để hút phân , hay hút các chất dinh dưởng để nuôi thân cây . Nguyên tắc , tính toán sự việc , chúng ta bắt đâu xem xét các yếu tố ở bên dưới , nên dịch viết , ở trong là chũ , ở ngoài là khách ( quẻ trong hay quẻ nội , còn được gọi là ‘’quẻ hạ ở dưới ‘’ , quẻ ngoài là khách ) đó là cách nói theo chuyên môn , nơi phần kỹ thuật , thực hành . nội là bên trong , ngoại là bên ngoài . Nguyên do dịch khó học là vì phân nhiều lời văn đều phát xuất từ tiếng Hán Việt , nên  đôi khi ta biết chử mà không hiểu nghiã . Rắc rối cuộc đời là ở chổ đó . Sau đây là phần trình bày về quẻ dịch củng như cách sắp xếp .

Ví dụ như : Quẻ dịch gồm có Tám quẽ chính , gọi là bát quái , khi đem Tám quẽ chính đặt chồng lên thì ta có 64 quẻ . Điều nầy ta nên hiểu như sau . Khi đọc dịch hay học dịch , chúng ta đọc được trong các quyển Kinh Dịch dù là tác giả nào viết . đều không giải thích tại sao lại bắt đầu với quẽ thuần Càn , kết thúc với quẽ  Vị Tế . xem cách đó chỉ hiểu được có một phần mà ngôi , Dịch còn nhiều phần khác nưả , Xin thưa , Dịch chia ra làm Hai phần chính yếu . Phần Lý Thuyết phần kỹ thuật ứng dụng thực hành . Chính vì có nhiều lý do nên phương pháp giảng dạy cuả tiền nhân củng chỉ nưả vời , cốt để cho hậu học , tự phát triển thêm vể thiên tư cuả mình .
Nguyên lý Dịch có ghi rỏ , chúng ta có tám quẽ dịch chính . Mổi quẽ được xem như là quẽ mẹ , từ quẽ mẹ sinh ra bảy quẻ con , mổi quẻ chính được gọi là nhà .
Ví dụ như quẻ Càn :  Càn Cấu Độn , Bĩ , Quán , Bát , Tấn , Đại Hưũ . chúng ta hảy xem : từ quẻ Càn , nếu đem một quẻ Càn thứ hai chồng lên quẽ Cán thứ Nhất ; ta được quẻ thuần Càn , thực ra không phải chúng ta tự bày ra ; mà ở đây chính là sự hiễn hiện cuả thế giới sự việc ; Cách xem xét sự kiện cuả tiền nhân nhu sau , trước hết , chúng ta nhìn thấy trên mặt đất cảnh vật như trên đường phố , hay trên vách tường , hoặc trên nền nhà , chỉ có sàn nhà tráng ciment hay nền đất , đột nhiên , trên nền đất xuất hiện ra một vật , đó là sự , hay là hiện tượng , ( hiện ra tượng ) khi sự xuất hiện sẻ xin ra việc , gọi là sự việc . vậy thì xem xét từ góc rể , tức là khi vẻ ra hình thễ quẻ dịch , sự việc phát nguồn từ dưới đi lên , từ trong ra ngoài , nên lời xưa nói : Tiên tu kỳ thân , thứ đến  trị kỳ gia , hậu trị kỳ quốc . Sau cùng bình thiên hạ , Bình ở đây là thiên hạ thái bình . Nhưng người hán họ tham lam nên hiểu sai câu nầy . Chử trị không mang nghiả cai trị , mà nghiả thực sự chính là yên ổn , làm cho nước yên chính là Trị quốc . Các phương pháp trong Quan Mai dịch số củng đã có đề cập , quan là xem xét , Mai là Hoa mai , hay cây Mai , Thứ nhất , hoa mai là sự vật , phương hưóng là nền tãng , theo dịch hể có vật thì có số ; số là số tiêu biễu , tiêu biễu cho vạn vật , như nhóm sao Thái Ất có mang các nhóm số . do hình thể quẽ ta có tên quẽ , ví dụ như sau quẽ Càn , là quẽ Cấu , như Thiên Phong Cấu .
Trong dịch viết ,
Càn vi thiên , ( tượng trời ) nên  nhớ , các câu nói trong dịch chỉ là các ẫn dụ ,
Khãm vi thuỷ ( nước ) ( tượng trưng cho nưóc )
Cấn  vi Sơn ( Sơn là núi )
Chấn vi lội  ( Lôi là Sấm chớp )
Tốn  vi phong ( như là gíó thổi )
Ly vi Hoả ( Hoả là lưả cháy )
Khôn vi điạ ( như đất đai )
Đoài vi khẩu ( khẩu là cái miệng )
Qua Gia đình hà Càn : Nếu thấy quẻ Càn trên quẻ Càn ở dưới ta đọc là Thuần Càn , Quẽ Càn trên tốn dưới ta nhớ Càn vi thiên , Tốn vi phong , thiên phong tên quẽ là Cấu . Càn trên kkhôn dưới đọc là thiên địa bĩ , đó là phương pháp đọc tên quẽ dịch . Đây là một trong các quy tắc , cần phải thuộc nằm lòng ,

Thường thường ta thấy trong quẻ dịch thường có ghi thêm tên cuả thiên can và địa chi , nhưng thường được ghi tắt , vì theo khoa Bốc Phệ , người ta chỉ ghi tắt các chi , để cho tiện , và cho các sự việc tương đối ngắn, gần , và không hệ trọng . ví dụ như :

                Nhâm  Tuất       ___ Thế
                Nhâm thân        ___
                Nhâm  Ngọ        ___
                Giáp   Thìn         ___  Ứng
                Giáp   Dần          ___
                 Giáp   Tý            ___
Trên đây là một trong 64 quẽ dịch . Ví dụ như quẻ tứ hai trong Gia đình Càn là quẽ Thiên phong Cấu , ta nhớ  Càn Vi Thiên , Tốn vi phong , nên  vẻ hình quẻ Càn bên trên , quẽ Tốn bên dưới ,

                  Nhâm Tuất       ___ 
                  Nhâm  thân      ___
                  Nhâm   Ngọ      ___Ứng
                  Tân      Dậu      ___
                  Tân      Hợi       ___
                  Tân      Sưũ      _  _ Thế
Ở đây ta thấy người xưa quã nhiên tài tình và thông minh khi bày ra những đìều nấy . Quẻ thì có quẻ âm quẻ dương , hào củng có hào âm hào dương , bởi thế , nếu người  hậu học dịch không được chân truyền thì khi lấy quẽ , chúng ta sẻ lầm lẫn hết mọi sự . Khi nhìn hình thể cuả quẽ Dịch , chúng ta có thể mường tượng ra các biểu tượng , Bởi thế nên chúng ta nhận thấy , Dịch là cả một thế giới huyền ão . Khi đọc Dịch xem quẽ , hay cưú xét tình thế , chúng ta cần nên biết , nếu làm việc chẳng có phương pháp , thì chúng ta tựa hồ như đứng trước ngả ba , ngả tư , ngả năm cuả con đường phố . Nếu ở ngả ba , ngả tư , ngả Năm đó , không có bảng chỉ đường hướng dẩn , thì ta làm sao biết phải đi về hướng nào . Bởi thế , các quy tắc , nguyên tắc , như định đề , định lý rất hệ trọng , như người lính , thường phải trải qua các khoá huấn luyện quân sự , Học cách đi đứng nằm ngồi , học tập cách ăn sao cho nhanh , , làm sao có thể tạo ra được mái che , làm sao căng vỏng trong rừng , làm sao khi biến động , người lính sẻ nhanh chóng phản ứng . V… v……
Quý vị đã từng xem qua những phim được trình chiếu , về hình ảnh người lính qua các trận chiến trong các trận đại chiến thế giới lần thứ Nhất , và đệ nhị thế chiến , Ngày nay các chiến lược , các chiến thuật đều được thay đổi để thích hợp với thời đại nguyên tử , kể cả chính trị , quân sự , kinh tế , và từ khi thế giới phát sinh ra Hệ-thống internet ( nghiã là Chương trình Liên lục địa , ) Tuy nhiên , sự thay đổi chỉ ở hình thức , còn nôi dung thì hầu như không có gì mới lạ . Như ngày xưa , trong lãnh vực quân sự , khi tấn công , ngưới ta thường dùng TIỀN PHÁP HẬU XA , nghiả là như trong cờ tường , dùng con pháo trước khi đẻ tấn công vượt quá đầu ( dùng pháo binh hay hoả lực ) đế tiêu diệt lực lượng đối phương , Sau đó dùng chiến xa tấn công , và sau cùng là đưa bộ binh tiến chiếm mục tiêu . Nhắc lại một người quân nhân , trước khi tham dự hành quân , người lính đã được huấn luyện cẩn thận và trang bị đầy đủ , để dự phòng khi tác chiến lâm trận họ có thể chiến đấu , củng như đạt lấy thành công . Trong chiến tranh không có quền thua , vì thắng là sống , thua là chết ; một mất một còn .không hề có chuyện tranh đấu hay chiến đấu nữa vời .
Củng vì thế nếu không được chân truyền ( truyền đạt thực sự ) thì chúng ta sẻ bở ngở và khi đi vào hệ thống kinh dịch , ta sẻ lạc đường , như người viết đã từng đi lạc đường vào lịch sữ . Xin trở lại với chuyện cưú xét quẻ dịch ,
Lấy được quẽ dịch ( người ta có nhiều phương pháp ) nhưng khi đã lấy được quẻ dịch , vẻ đưọc hình thể quẻ dịch , gày thêm can chi vào quẻ , ghi thêm Thế và Ứng  ( Thế là mình Ứng là người , ) nghiả là , khi tình hình đả đến , gồm có ta và người , người đó là ai , chử là ai , không phải là tên tuổi , mà đó là người nào , theo nhu quẻ dịch , quẻ có 6 hào ; vậy thế hào đứng ở vị trí nào , và Ứng hào đứng ở vị trí nào ?? thế đứng có vửng chắchay không ?? có trung chính hay không ?? có đúng thời hợp lý hay không ?? v….v… Rắc rối quá , phải không quý vị  . Bởi thế , Khi học để làm thầy bói , củng đã sói trán rồi , nói chi hộ để làm cố vấn ( Tôi rất ghét từ tư vấn , mặc dù tôi hiểu người ta muốn nói gì ) Hầu như sau ngày 30 / 04 / 1975 , Những người cầm quyền cho đến dân chúng đều có một cái tật rất lớn , đó là cái lối nói chuyện đao to búa lớn . Hàm hồ , lớn lối , tuỳ tiện . Xin trở lại vấn đề cưú xét quẻ dịch . Sai khi đã ghi thêm phần thế ứng vào quẻ , người ta còn ghi thêm phần Lục thân , ( lục là 6 ; thân được hiểu như người thân trong gia đình , ( không phải trong bà con , mà phải hiểu , 6 nhân vật đó như là cha mẹ  , con cái , anh chị em , công việc hay bệnh tật , tài chính hay vợ hoặc chồng . Từ ngữ chuyên môn ghi : Phụ Mẫu , Huynh đệ , Tữ tôn , Thê tài , Quan Quỹ , và nơi mà thế hào dựa vào .
Người viết không có ý truyền bá tư tưỡng mê tín dị đoan , mà người viết chỉ mong muốn , những ai xem được bài  viết , nên  có sự suy nghỉ khác hơn như từ trước đến nay  vẩn hiểu lầm về khoa bói toán . Người viết không thích tranh luận hay tranh cãi , nếu có xảy ra , thì sẻ không nhận được câu trả lời cuả người viết , Ai thích thì xem , không thích thì đừng có xem , vậy thôi , chúng ta đang sống ở một thế giới khác hơn với thế giới nhà tù . Trăm người bán vạn người mua .
Ngoài phần lục thân , còn có phần ghi thêm về lục thần , lục thần , đừng nên nghỉ đó là thần thánh . Đó chỉ là 6 nhóm sao tiêu biểu cho vòng sao Nhị Thập Bát Tú . ( Hai Mươi Tám Vị Sao ) trên bầu trời , và có nhiều ảnh hưởng , như các vị Cố vấn trong Hội đồng An Ninh Quốc Gia , chuyện dưới mặt đất và chuyện ở trên trời như nhau ; như độ ở tâm tương ứng với độ ở cung . Tâm là ở trong , cung là vòng ngoài biên . Tâm như thũ đô hành chánh , cung như biên giới cuả đất nước . Xin lưu ý , bài viết nầy là bài soạn ra , để đưa lên diễn đàn , không phải là bài soạn để hướng dẩn , hay để dạy , hoặc để truyền đạt , và Quý vị nên nhớ cho , sư khôn ngoan và trí thông minh tự nhiên là hai điều khác biệt , sư khôn ngoan và ngu sy như bóng với hình , hôm nay ngu , nhung ngày mai hiểu ra sẻ hết ngu , nhưng thông minh thì khác hẳn , khôn ngoan thì thành công chuyện nhỏ , lặt vặt , còn thông minh thì hiễu biết lớn hơn . Ở xứ sở Việt Nam , chúng ta hẳn thường nghe nói đến chuyện các thần đồng , Tinh hoa phát tiết ngay khi tuổi còn thơ ấu .
Lam Sơn Họ Lê



               


Back to top
« Last Edit: 03. Dec 2017 , 23:30 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #23 - 02. Mar 2011 , 14:52
 
  ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN BÓI TOÁN ( Tiếp theo )
Tiếp theo những phần đã được trình bày đã qua , nay người viết giải thích thêm về lai lịch và ý nghiả cuả hai chử Kinh Dịch .
    GIẢI NGHIÃ CHỬ KINH DỊCH :
Chử Kinh : theo tự điễn Huỳnh Tịnh Cuã :  KInh tức là Giềng mối , Kinh còn mang ý nghiả như Kinh Tuyến , Vĩ tuyến . Kinh Tuyến là đường dọc từ Bắc xuống Nam , Vĩ tuyến là đường ngang . KInh tuyến và Vĩ tuyến gặp nhau tại một điểm trên mặt đất gọi là Tọa độ . Chử KInh còn có nghiả là đã trải qua . Nhưng ở đây chỉ mang nghiả là Tọa độ , vì sau chử KInh là chử Dịch .
Dịch nghiả là thay đổi , biến đổi , và chuyễn động , sự chuyễn động cuả một vật thể , đi ngang qua một tôa độ trên mặt đất . Người Pháp họ định nghiả theo người Tàu , le livre de Transformation . Nghiả là quyển sách trình bày về sự chuyễn động cuả vạn vật .
Như vậy Kinh Dịch là bộ sách trình bày về sự vận chuyễn cuà vạn vật đi qua tọa độ trên mặt đất . hay trên bầu trời . Nhưng luôn luôn chúng ta cần phải lấy điểm chuẩn từ nơi ta đang đứng . Chúng ta thấy rỏ quan điểm nầy qua những tác phẩm Quan Mai Dịch do Thiệu Vĩ Hoa ( xưng là cháu mấy đời cuả Thiệu Khang Tiết , nhân vật đời nhà Tống ở Trung Hoa ) Không riêng gì Thiệu Vĩ Hoa , và Thiệu Khang Tiết , nhiều học giả Trung Hoa , và Việt Nam Như Cụ Phan Bội Châu , Phan Chu Trinh củng thế . Khi hiểu được KInh Dịch , thì không nghỉ rằng Kinh Dịch là sách bói toán , nhưng không thể phủ nhận vai trò  cuả bói toán ở trong sách .
Kinh Dịch chia ra làm nhiều phần , nhhung có hai phần chính yếu quan trọng hơn hết . đó là phần lý thuyết và phần kỹ thuật thực hành . chính vì hoàn cảnh loạn lạc , và lãnh thỗ VN bị chiếm đóng thời Bắc thuộc , Nên ít ai hiểu được hai phần nầy đều xuất phát từ một nguồn góc , Cả hai đều chỉ là một mà thôi .
Phần lý thuyết trình bày về 64 quẽ trùng , trùng là quẽ nầy đặt chồng lên quẻ kia . Nguyên do từ  Tám quẽ đầu tiên hay Tám Quẽ chính . Như Càn , Khãm,  Cấn,  chấn , tốn , Ly , Khôn , Đoài . Mổi quẻ chính lại sinh ra 7 quẽ phụ ; là 8 quẽ ( bát quái ) đem Tám Quẽ nhân với nhau thành ra 64 quẻ . Khi học Dịch , ta phải học hết , học toàn thể , học toàn phần . Khi hiểu thì hiểu từ gốc đến ngọn . Phân lý thuyết chỉ trình bày về   64 quẽ và phần đạo lý  ,  Chữ đạo ở đây không phải là tôn giáo như khi ta nói Đạo Phật , Đạo Thiên chuá . Chhữ đạo ở đây có nghiả là con đường , hay nói đúng hơn , là bảng hướng dẩn về các hướng phải đi . chử đạo nghiả là ( direction ) hay Orientation . Kinh dịch trình bày thế giới tự nhiên trong vũ trụ , và trên mặt đất , cùng với lý lẽ tự nhiên . Nguyên tắc học dịch , là học từ điểm dể hiểu , đi dần đến những điểm khó hiểu , từ chổ dể dàng , đến chổ rắc rối , đôi khi không thể hiểu được . Phần lớn kinh dịch được ghi lại theo kiểu thơ phú . Cách dạy , và cách học theo lối đơn giảng cuả người Việt phần nhiều dể hiểu , dể biết , vì như Dịch nói : điều gì dể hiểu thì dể biết , điều gì dể biết thì dể làm . Ví dụ như hể có nhỏ thì sẻ có lớn , hể có vợ thì có chồng , có trẻ rồi sẻ già đi , khi già đi thi sẻ yếu đuối , sẻ bẹnh tật , và sẻ chết , đó là sự chuyển biến tư nhiên . đôi khi sự đời đôi khi xảy ra biến đổi là do sư gặp gở thình lình . Sự gặp gỡ do giao tiếp , giao tiếp mà sinh ra biến đổi , biến đổi sẻ làm thay đổi hoàn toàn , như khi học hết tiểu ọc , ta vào trung học , để tiếp tục việc học , NHưng vì tai biến trong gia đình nên không thể tiếp tục việc học , và đi kiếm việc làm , khi đi kiếm việc làm , chúng ta không còn là học trò nưả , mà đời ta sẻ biến đổi , vì ta đã ra đời , đo đời và hoàn cảnh tự nhiên mà ta có cuộc sống khác . Đây chỉ là một trong nhiều sự kiện xảy ra trong đời .
Đại để , Kinh dịch trình bày những nét chung về thế giới sự vật , và hơn thế nưả , khi đi vào hệ thống không gian kinh dịch , chúng ta có cảm tưởng ta đang ỡ trong thế giới không có ai hiện hưũ ( hay cái Tôi được thể hiện ) . Nhưng đôi khi ta lại có cảm giác như kinh dịch là người bạn chí thân , là tri âm tri kỷ , kinh dịch có những lời khuyên chí lý , vì qua từng quẻ , Kinh dịch đã có sẳn bản phân tích , gần như cặn kẻ với lời khuyên chí tình . Những lời khuyên , đôi khi có vẻ chung chung , không cụ rthể vào công việc mình đang làm , Nhưng …. Khi đã là một người có nhiều kinh nghiệm , và nhất là qua một quá trình được truyền dạy , và đã lĩnh hội được ý tứ sâu xa cuả tiền nhân , tất nhiên , người ta sẻ biết phải làm gì , với nhửng trường hợp nào , Nói tóm lại , những gì được chân truyền , thì không được tiết lộ ra cho người ngoài , dù người đó là ai , Đều quan trọng bậc nhất là không được khinh xuất khi tiết lộ mình là người được chân truyền . Chuyện tiết lộ chẳng lợi lộc gì , mà đôi khi còn vô tình chính mình bị hại đến mất mạng do lời tiết lộ vì vui miệng , hay vi lý do nào khác .  NHững người lĩnh hội được thường thường họ xuât hiện trong đời , đôi khi họ giử trọng trách trong phần hành nào đó trong chính phủ nào đó .
Ngoài các phần được trình bày gần như công khai trên các sách bày bán trên thị trường , phần còn lại tương đói bí hiểm , như cách sữ dụng lịch ngày để xem chuyện tốt xấu cuả ngày , và xem các điều nên làm hay không nên làm . Phần nhiều , trên các cuốn lịch bày bán , có ghi một số ngày nên làm các công việc và không nên làm một số công việc .Sách vở chỉ trình bày chung ( en générale ) , nhưng … thực ra vấn đề không chỉ đơn giản như thế . Các phần trình bày về năm ( gọi là thái tuế ) tháng gọi là nguyệt kiến , ngày gọi là nhật thần , giờ gọi là thời thần ) các phần nầy đều rất quan trọng , nhưng người viết sách thì không bán sách , còn kẻ bán sách lại không phải là người viết sách , vì thêé có chuyện phỏng dịch , thành sách để bán sách trục lợi , Bản thân người viết đã có kinh nghiệm về điều nầy , Ngày xưa , khi mới tham khão , xem sách , vì phần Hán Việt quá nhiều , nên có nhờ một ông cụ gốc người miền bắc , ( có thể nói là ông cụ tinh thông Hán văn , nhưng ông cụ nhìn bản văn , ông cụ lắc đầu , bảo mình không hiểu nổi . vậy thì tại sao ???  Về sau khi đã trải qua thời gian dài , đối chiếu với nhiều sách , nhiều tài liệu khác nhau , nên hiểu được phần lớn các câu kinh văn như : TRong bài Huỳnh Kim Phú có viết : Động Tịnh Âm Dương Phản phúc Thiên biến . Nếu không phải là chuyên viên ( vì đây là ngữ học về kỹ thuật thực hành ) thì không thể dịch ra một cách bình thưòng mà hiểu được . Kinh dịch đả quy định , động tức là dương , Tinh là âm , vì dương thường động , âm thường tiịnh , như hư không , dương là thực âm là hư , nghiả là duơng thì có , âm thì không , có như là có , hư như là không (đừng có hiểu là không có gì ) một động ( dương ) một tịnh (âm , ) phản là ngược lại , vì kinh dịch quy định , nếu chuyễn động theo chiều kim đồng hồ, đó là đi thuận chiều , nếu đi ngược lại gọi là phản hành , phục là trở lại , mình quen nói phản phúc , nhưng không đúng , vì phải nói là phản phục , phản phục là đi ngược chiều để trờ lại . thiên  là trời , biến , là thay đôi từ cái nầy qua cái khác , thay đổi cà về hình thức và bản chất , chử thiên ngụ ý nói trong trời đất . Nếu không được chân truyền , hoặc không rành về từ ngữ chuyên môn kỹ thuật thì không thể hiểu được đoạn văn  trên .
Lam Sơn Họ Lê
Back to top
« Last Edit: 03. Dec 2017 , 23:52 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #24 - 05. Mar 2011 , 09:43
 
TÌM HIỂU VỀ KINH DỊCH

Theo bài viết vưà qua , còn rất nhiều điều có vẻ bí hiểm một chút , nếu như không được truyền dạy ( gọi là chân truyền ) thì chắc chắn sẻ không thể hiểu được , sở dĩ viết thế là vì bản thân người viết đã từng là kẻ ngốc nghếch khi đứng trước bộ Kinh dịch như là người ngu sy đứng trước Tàng Kinh Cát ( Tàng là cất giử ,) lưu trử , chưá đựng , kinh là sách vở , những tài liệu như ngày nay người ta gọi là Thư Viện Quốc Gia , hay văn khố quốc gia , đó là trung tâm lưu trử hồ sơ tài liệu , nếu không có trách nhiệm , và không được phép , thì chưa chắc mình đã được vào xem tài liệu , thứ đến , đó là việc tìm tài liệu ; Nếu những ai đã từng là Nhân Viên trách Nhiệm về Hồ Sơ Phiếu cuả quân đội thời xưa , có lẻ hiểu điều nầy , Nói tóm lại , muốn hiểu được Kinh Dịch , thì chúng ta cần phải được người đã hiểu biết hướng dẩn tận tình , may ra mới có thể hiểu được đôi phần , chưa thể nói là tinh thông toànbộ Kinh Dịch . Ngay Chính Khổng Tữ còn than , phải chi ta được sống thêm năm mười năm nưả để xem Kinh Dịch . Ngày trước ( Theo sử Tàu ) Ngay khi Lảo Tữ , được giao trách nhiệm Quản trị thư viện ( QUÃN THŨ THƯ VIỆN ) tức là nơi mà sau nầy Trụ Vượng dùng là nhà ngục , Dũ Lý , Ngày xưa thời thượng cổ , không có chế độ nhà tù , giam giử tù nhân thì không có nơi chốn , người đời thượng cổ chất phát hồn nhiên , họ sống theo tự nhiên , cho nên người cầm quyền ( thường được dân bầu lên ) không có chuyện trách phạt hay giam tù dân chúng .  Lúc ấy , khi được giao trọng trách quãn trị Dưũ Lý , thì Lão Tữ vội vào xem qua , ông ta vui mừng khôn xiết , vì ông ta không biết tìm ở đâu những tài liệu cần thiết để xem , nay đúng là dịp may , hay cơ hội để có thể xem được nhiều loại tài liệu bài vở , Ngay đến bản thân người viết . Nếu có đủ tiền để sống qua ngày , thì có lẻ chỉ chuyên tâm xem sách mà thôi . Dù là người đời xưa hay người đời nay , tâm tình đôi khi củng giống  như nhau .

Trở lại vấn đề nếu muốn hiểu được Kinh Dịch và nếu muốn sữ dụng lý thuyết kinh dịch để áp dụng vào cuộc sống hàng ngày , thì ít ra , cửng phải được hướng dẩn tận tình . Đó là kinh nghiệm riêng  cuả người viết . Ngoài ra , thì dù thông minh đến đâu chăng nưả , củng sẻ không thể rỏ , và khi nói chuyện sẻ không chính xác ( nếu không muốn nói là nói bậy bạ , ) và khi áp dụng thì sẻ áp dụng bậy bạ, kết quả Sống chế t mặc bây , Tiến thầy bỏ túi . Cứ mổi một khoa ( môn ) trong phần kỷ thuật ứng dụng thực hành , đều có nhửng định lý và nguyên tắc khác nhau . Như phần Đại , Tiễu độn , Nhâm cầm v…v…… đều khác nhau , không có phần nào giống phần  nào ,  Có loại Bói Độn , gọi là Cưũ Thiên Huyền Nữ Toán Pháp , tương truyền ngày xưa Nử Tướng Lê Chân Một vị Nữ tướng thời Nhị Trưng , đã thường sữ dụng khi hành binh , đó là khi đọc qua , thấy ghi ở phần mở đầu , mà thực hư chưa rỏ . Ngoài ra chưa kể các loại man thư ( nghiả là tài liệu giã mạo , được in ra và bày bán , nếu người hậu học không biết , mua hầm sẻ không thêểhiểu , và khi hiẻu thì hiểu sai đi . Có thể thâm ý cuả kẻ làm tài liệi giả , côt bán sách như thế đẻ trục lợi , điều nầy củng đaág trách , nhưng cái thâm độc cuả người Tàu là , họ đã tạo ra man thư ngay từ ý định cuả triều đình nhà Minh và Mãn Thanh , đã cho in ấn tài liệu và bán ra , đưa sang VN ; Những thành phần đã được truyền đạt cẩn thận thì khi xem qua sẻ biết ngay , nhưng họ củng đâu có cần phải liếm sách ở ngoài . Ý định thâm độc cuả họ là cố ý tạo ra tình trạng in sách sai lầm để đánh lưà và khiến cho người Việt khi đọc sẻ bị rối mù và tẩu hoã nhập ma . Phương pháp độn theo Cữu THiên Huyền Nữ toán pháp chỉ là một trong các phương pháp rất đơn giản , nhưng mức độ chính xác thì còn tùy nơi người xem có thành tâm hay không , khi nói đến chử thành tâm nghiả là , có thực sự muốn biết , hay chỉ là chuyện coi chơi cho vui mà thôi , đôi khi lại còn thử xem thầy có giỏi hay không , để nhận biết ra cái tâm hay giởn hớt của khách đến xem . Nguyên tắc , khi có việc cần thiết mà chúng ta không thể quyết đoán , hay vẩn còn hồ nghi , thì mới phải nhờ đến Bói Toán . Ngay cả người thầy xem hộ cho người khác , củng phải coi chừng , nếu bản thân thầy chưa tỉnh táo hay sáng suốt thì đừng có nói bậy bạ .
Thông thường , trong các quyển sách dạy bói , đều có những lời lẻ nghiêm trang đúng đắn, vì không ai dám viết sách bậy bạ rồi bán ra , Vì lời nói sẻ là biểu tượng cho danh tiếng cuả mình . lời xưa nói : Nhất sự bất tín vạn sự bất tin . Ngay trong việc chính trị củng vậy , Nếu vi ham muốn danh vọng quyền lực , với tâm địa bất chính gian manh ; khi ban hành chính sách cai tri : Ngôn thuyết đồng hành , Lời nói và hành động đi đôi , còn chính sách nói một đường , hành vi lmà điều khác , dùng thũ đoạn gian manh đánh lưà người khác với thũ đoân cuả quân tiễu nhân , thì đó là một trọng tội . sau khi mình qua đời , di hoạ lại cho con cháu , tên tuổi lưu xú vạn năm . Vì thế , khi học dịch , không được có tâm điạ gian manh , vì vvới tâm địa gian manh , mình sẻ dùng lý thuyêt kinh dịch để làm trộp cướp . Người làm chính trị như thế , dù có thành công nhất thời , nhưng chắc chắn sẻ di hoạ lại cho cả dân tộc khốn đốn .

Vì thế , nguyên tắc lập ra khi vào cuộc bói toán , phải thực nghiêm trang , và câu  hỏi củng như lời  giải đáp thực rỏ ràng chính xác . Phương Pháp Cưũ THiên Huyền Nữ Toán Pháp sữ dụng các lóng trên các ngón tay nơi bàn tay trái , vì bàn tay phải dùng để ghi chép . Khi tính toán về Bói Độn , phải sữ dùng bàn tay trái , và dùng ngón tay cái cuả bàn tay trái để bấm lên các lóng cuà bốn ngón tay , cả bàn tay trái dùng cả 5 ngón . Ngón tay cái dùng để bấm lên các lóng cuả các ngón tay , các lóng cuả các ngón tay được xem nhu là các cung hay các vị trí bên ngoài vị trí địa lý thực tế . Ví dụ như :

                                                                      Phương pháp nầy tình theo tháng , ngày giờ âm lịch                                             
Khỡi đầu tai cung Sửu , kế tiếp tháng Hai đi ngược cungTý , tháng Ba Hợi , tháng Tư Tuất , tháng năm cung Dậu , tháng Sáu cung Tuất , tháng Bảy cung Hợi , Tháng Tám cung Tý , tháng Chín cung Sửu , tháng Mười cung Dần , tháng 11 cung Mảo tháng chạp ta tại cung Dần. Rồi từ cung Dần ta đếm ngày xem quẻ ,ví dụ như ngày xem quẻ là ngày Mùng Ba , tính tại cung Dần mùng Ba , đến ngày xem quẻ là ngày 12 ạm lịch , ta đến từ Dần mùng 3 ; mùng bốn cung Mảo , mùng 5 cung Thìn , mùng Sáu cung Tỵ , mùng 7 cung Ngọ , mùng 8 cung Mùi , Mùng 9 cung Thân , mùng 10 cung Dậu , 11 cung Tuất , 12 cung Hợi. Ngay tại cung Hợi khơi đếm giờ Tý ( nếu giờ xem là giờ Tỵ , ta đếm cung Hợi giờ Tý , cung tý giờ Sửu , cung Dần giờ Mảo , cung Mảo giờ Thìn cung Thìn giờ Tỵ , ta lấy giờ Tỵ tính toán sự việc. Đến đây , người viết chỉ nói thoáng qua , và không gthể đi sâu hơn , vì lẽ đây là học thuật ,và với vài dòng chữ viết , thì quý vị chỉ xem cho vui thôi , chớ nếu đi sâu thêm vào chuyên môn , sự việc không ngừng ở nơi đây , mà còn phải gtnh toán nhiều hơn nữa mới có thể , tính ra được kết quả.         
Theo phương pháp nầy , người ta chỉ dùng tháng và ngày ,  giờ . Nguyên tắc , khi bói , ta xem ta đang ở tháng nào , ngày nào giờ nào ???  Vì dụ như sự việc xảy ra và ngày rắm tháng giêng ngày 12 , gìờ ngọ . Xin nhăc lại các phương pháp bói nầy đều phải theo năm tháng ngày gìờ theo âm lịch hay theo tuần trăng . Mổi tháng tuỳ theo tháng đũ hay thiếu , tháng đủ thì có 30 ngày , Tháng thiếu đôi khi chỉ có hai mươi chín ngày hay 28 ngày v … v.. Năm thì có nhuận hai tháng , tháng có thể thiếu hay tháng đủ 30 ngày , còn ngày thì không thiếu giờ , vì mổi ngày có 24 gìờ dương , và 12 gìờ âm . Như thế , có khi trong cách áp dụng , nếu không tinh thông , chắc chắn người dung sẻ bị sai lệch . Sai lệch ở chổ , năm có năm thuộc âm , như năm nay Tân Mão thuộc âm , và năm tới sẻ là năm Canh Thìn thuộc dương . tháng củng có tháng âm và tháng dương . ngày củng thế . nên ngày giờ năm tháng ta thấy âm dương xen kẻ nhau , như cày răng lược . Giờ thi phân ra làm 6 giờ thuộc dương từ giờ tý đến giờ Tỵ , thuộc dương , và từ giờ ngọ đến giờ hợi thuộc âm . Từ 23 giờ đến 1 giờ là giờ tý ,
                                                                   01      __   03            Sưũ
                                                                   03      __   05            Dần
                                                                   05      __   07            Mão
                                                                   07      __   09            Thìn
                                                                   09      __   11             Tỵ

                                                                    11     __    13              Ngọ
                                                                    13     __     15             Mùi
                                                                    15     __     17             Thân
                                                                    17     __     19             Dậu
                                                                    19     __     21             Tuất
                                                                    21     __     23             Hợi
Như vậy các giờ thuộc dương từ 01 giờ sáng đến 11 giờ ; từ 11 giờ đến 23 giờ tghuộc âm , Tại sao ??? vì khi sự việc xảy ra trong giờ thuộc dương , thì bản chất sẻ mạnh hơn nhửng sự việc xảy ra trong giờ thuộc âm . chính vì thế , chúng ta mới thầy rõ không phải vô cớ mà tiền nhân đã phân chia âm dương thuận nghịch , và ngũ hành sinh khắc ra sao ??? Giờ thuộc dương thì sự việc đi thuận , giờ thuộc âm , sự việc đi nghịch , Còn rất nhiều lý lẻ , mà người viết không thể giãi bày đầy đũ được .
Theo Cưũ Thiên Huyền Nữ toán pháp tương đồi hơi đơn giản vì phần giải đáp đã được soạn sẳn , không cần phải tính toán cho mệt . 
   
Back to top
« Last Edit: 03. Dec 2017 , 23:51 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #25 - 05. Mar 2011 , 09:45
 
TÌM HIỂU VỀ KINH DỊCH ( Phần I I )
Đối với các loại sách bói , được bày bán trên thị trường ( trong các tiệm bán sách , ) thường thì ngày trước , khi sách được xuất bản , và bày bán , đó là sách mới phát hành , nhưng qua chừng năm mười năm , đã trở thành sách củ . lại được bày bán trên viã hè cuả đường phố . Giá cả tuỳ theo người bán sách . Phần nhiều những người đứng bán sách , ngày trước có thể là học sinh , hay sinh viên , hoặc ít ra củng đã là hoc sinh hay một thời đọc sách , còn biết đôi chút về sách , Nhưng sau nầy nhiều người bán sách , họ chỉ biết thu mua sách , khi mua ví dụ quyển sách , giá là 5 đồng , họ bán lại 7  đồng , lời 2  đồng , còn trong sách ấy nội dung ra sao , họ chẳng lưu ý , vì thế có một điểm khác nhau về trình độ văn hóa , và nhận thức , Ngày xưa khi còn phục vụ trong quân đội , đon vị đồn trú tại Hậu Nghiả , nhửng ngày giờ rỗi rảnh , lang thang ra phố chợ , Hậu nghiã là thị trấn nhỏ , củng co vài tiệm bán sách , thường  thì các thầy giáo có tiệm bán sách để tăng thêm thu nhập , vì thế , mổi khi ghé qua tiệm sách , tìm xem sách mới , tiện thể mua giúp anh chủ tiệm một hai cuốn , để làm quen, đôi khi qua câu chuyện làm quà , anh chũ tiệm sách củng có thể góp chuyện về sách vở , và nhân đó , anh ta mới có thể giới thiệu sách mới về , giới thiệu những quyển truyện đáng xem , Ngày nay thì không thế , ở thành phố Sài Gòn , có nhiều tiệm bán sách mới , sách cũ được tái bản , nhiều lắm , nhưng nhân viên bán sách lại ít đọc sách , hay vì nhu cầu cuộc sống bận bịu , nên  ít chú ý đến sách vở , Nói về trình độ hiểu biết thì có dư , nhưng kiến thức thực sự thì thiếu hẳn ,
Hẳn là quý vị củng thấy chuyện nọ xọ vào chuyện kia , nhưng không phải là người viết viết lung tung , thật ra các bài soạn ra có hai phần . Phần được đưa lên các diễn đàn , chỉ để xem và mở mang kiến thức về một vài vấn đề , còn phân bài soạn ra để giãng dạy , hay để hướng dẩn vê Kỷ thuật ứng dụng thực hành ; thì không được đưa lên diễn đàn . Vì phần nầy rất khô khan , khó nuốt , giống như khi xem bài vở viết về Toán Học , Hình học , Vật lý học . Vì vào đó đẻ học hõi , nghiên cưú , còn ở đây qua các phần bài viết đưa lên diễn đàn đôi khi có lẩn các đìều khác hơn là môn học khô khan .
Trở lại phần Bói Độn , Các sách viết ( thực ra chỉ được sao chép các phương pháp , các cách thức ) để bói , và có ghi sẳn các kết quả . Các phương thưc như thế , rất giãn dị , không đòi hỏi chúng ta phải suy tư , phân tích , và tính toán , Phần nhiều , khi chúng ta di nhờ các thầy họ bói cho một quẻ , xem về gia sự , tài chính , hay tình duyên , Các vị thầy đều biết qua phương pháp đẻ tìm hiểu xem ý cuả người khách đến xem thực sự là gì ??  Chẳng hạn như , Các vị chân sư họ có các nguyên tắc như sau : Thứ Nhất : nếu các vị ấy ở sơ cấp , thì khi khách đến họ sẻ theo sự hướng dẩn qua các bài thơ ( gọi là bái Phú Đoán để biết ý khách , các bài phú ( thơ ) được gọi là Phú Hà Tri , ( hay là Muốn Biết Nhà Người ?? ) ví dụ như câu văn :  Muốn biết nhà người có cháu con , Thanh Long quẽ thượng Phúc Thần tôn , nghiả là ngày xem quẻ , được một quẻ dịch , sau khi theo bốc phệ , an bày Lục Thân ( sáu lĩnh vực liene quan đến bản thân người muốn coi quẻ , ngay nơi hào Tữ Tôn ( tức là Phúc Thần , ) có sao thanh Long đóng tại đó , động , như lơi nói Long Động Gia hữu Hĩ . nghiả là hào thanh long Động trong nhà có niềm vui . Đại khái như thế . Nhưng nếu vị chân sư đó , có trình độ cao siêu , tức thì như câu văn :  Không Động không chiêm bốc , không bàn cát hung , Tại sao , theo như quẻ Quan Mai Dịch : Mổi quẻ lấy theo tứ trụ Năm , Tháng , Ngày , Giờ , thì trong quẻ sẻ có một hào động , vậy thì tại sao lời kinh lại viết như thế . Quẽ nào củng có hào động , tại sao lời kinh dặn , không động thì không bói ???? có mâu thuẩn hay sao ?? xin thưa không hề có mâu thuẩn gì hết , chỉ vì chúng ta chưa được truyền thụ đạo lý bởi chân sư , nên  không biết  thế thôi . Chhữ động ở đây không phải là nói về quẽ , mà nói về Tâm Linh Máy Động , nếu tâm không máy động , thì đừng có xem bói . Tâm động có thể qua hình thức máy mắt , thịt giựt , Riêng bản thân người viết , đã có kinh nghiệm về chuyện hắt hơi , máy mắt . nhửng điềm báo chính xác gần như 99 % . Bảng Điềm Báo có ghi sẳn , người viết đã theo dỏi  từ xa xưa , cách nay đã mấy mươi năm . Khi đã đạt tới trình độ cao siêu , thì tự khắc sẻ biết điềm báo đó là báo về việc gì ?? nếu cao siêu nưả sẻ biết được khách đến thăm là ai , đến thăm vì việc gì ?? Nói tóm lại , nếu là người thực học , tất nhiên  sẻ biết trước , sau đó mới dùng bấm độn để xem xét , Bấm độn củng có nhiều loại . Như Đại Tiễu Độn , công thưc có khác nhau , kết quả giống nhau . Riêng bản thân người viết được truyền qua phương pháp vưà dể hiểu , vưà đơn giản , đôi khi đang đi giưả đường , gặp người hỏi chuyện ( vấn sự ) mình có thể ứng khẩu trả lời ngay , dù đang ở đâu , dù không nhớ được ngày hôm đó là ngày nào , vì khi ra đường chẳng có lưu ý hôm nay là ngày nào ?? Thành thữ bảng Cưũ Cung Lạc Thư rất quan trọng khi ta sử dụng để cưú xét vấn đề cuả bản thân hay cuả người .
 Tây bắc  Càn         Bắc  khãm           Đông bắc  Cấn
             
Tây   Đoài                                         Đông  Chấn
            
Tây nam  Khôn        Nam  Ly             Đông nam Tốn


Đây là phương pháp đơn giãn , dể hiểu , dể áp dụng , ví dụ như : ngày mùng năm , tháng hai , ( phương pháp nầy không dùng năm . chỉ dùng tháng ngày giờ . Giờ Tỵ , ( khoảng 9 giờ đến 11 giờ sáng) ,
Ta khởi tính ; tháng giêng , tháng 12 tại cung Cấn , tháng hai tại cung mão tháng ba thánh Tư cung Tốn ; Tháng Năm cung Ly , tháng Sáu Bảy cung Khôn , tháng tám cung Đoài . Tháng Chín tháng Mười cung Càn . Tháng 11 cung Khãm . Tại sao tháng 12 và Tháng giêng tại cung Cấn , xin Thưa , đó là vì ta tính theo 12 quẻ tháng cho một năm , Từ tháng Tý 11 khởi tại cung khảm ( Dương bắt đầu sinh , âm cực dương sinh ) , Tháng sửu Dần tại cung cấn ví đó là quẻ cấn , từ đó xoay vần mải Chấn , Tốn Ly Khôn Đoài . với lại phân chia theo Tiết khí , Từ tháng 11 , khởi đầu quẻ phục , tháng chạp , quẽ Địa trach Lâm , tháng Giêng dần , Điạ thiên Thái , tháng hai quẻ Lôi Thiên đại Tráng , tháng ba quẻ trạch thiên Quãi , Tháng Tư thuần Càn . từ đó khởi âm ở tháng năm , vì dương cực âm sinh . Tháng tư là quẻ thuấn càn , tức là tiết khí thuần dương , dương cùng cực thì âm sinh ở tháng năm , là quẻ Thiên phong Cấu , Từ đó đế cuối tháng Mười ta , là ấm đến cùng cực , nên sinh dương ở tháng 11 qua quẽ Địc lôi Phục , nghiả là dương trở lại . Năm tháng xoay vần , bốn muà chuyển tiếp . Hàng Triệu năm vẩn như thế , nếu có rối loạn thì cả Ngân hà ,( Galaxie )  Thiên hà đều rối loạn . Chúng ta nên hiểu lý thuyết kinh dịch từ Ấn Độ , truyền qua cho Bách Việt , còn trước đó không biết là là tác giả ???? trở lại với ví dụ trên ; ta thấy tháng hai tại cung chấn , ngay cung Chấn ta khởi ngày mùng một , mùng hai tại Tốn , mùng ba tại Ly , mùng bốn tại khôn , mùng Năm tại cung đoài , ngay tại cung đoài khởi giờ Tý . đến giờ Tỵ là giờ thứ 6 trong ngày , ta đếm , Một tại đoài , hai tại Càn , ba tại Cấn , Bốn tại chấn , năm tại tốn , Sáu tại Ly , như vậy giờ xem giờ Tỵ , tại cung Ly , theo nguyên tắc , lấy năm tháng tính việc đại sự , lấy ngày giờ tính tiểu sự . ta có ngày mùng Năm tại cụng đoài , ta được quẽ đoài , tính đến giờ Tỵ ta được quẻ ly , vậy ngày là chũ giờ là khách , phân chia chủ khách , định vị âm dương , chũ khách trong ngoài . Lời kinh nói , khi quẻ đả thành hình ta biết được họa phúc , tại sao biết , Xin thưa xem tên quẻ tất biết lành dử , Như bước đến cưả nhà người định đưọc cát hung . Quẽ dịch chính là thời cuộc và hoàn cảnh , tình huống mà bản thân ta đang trải qua . lời kinh nói , quẻ như thế nào , thì thân ta như thế ấy .
Trở lại quẻ trên , ta được quẻ Ly ( giờ là khách ở trên ) trạch đoài là chủ ở dưới ( là quẻ thượng và quẽ hạ ) quẻ ly hoả ở ngoài khắc trạch đoài ở trong , Tượng quẻ cho thấy triệu chia rẻ , trong nhà có chuyện lộn xộn do phụ nử . Vì trong ngoài đều thuấn âm , lời kinh nói Nhị nữ cùng nhà , coi chừng chuyện mẹ chồng nàng dâu , hay chị dâu em chồng  , Trên đây là ví dụ cách thức bấm độn để suy đoán sự việc , lời kinh nói Nhất ẩm Nhất Trác , giai Do Tiền Định là thế .
Back to top
« Last Edit: 05. Mar 2011 , 10:01 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC ; TÌM HIỂU KINH DỊCH
Reply #26 - 05. Mar 2011 , 10:02
 
Nói tóm lại , Bấm độn chính là một phương thức , dùng để biết , và xem xét các sự việc hay tình huống có thể xảy đến , để ta chuẩn bị đối phó , vì trong các quẽ dịch , thường có kèm theo các lời khuyên , từ đại ý toàn quẻ , cho đến các hào , củng đều có lời khuyên kèm theo . Vì thế ; dịch gần giống như  vị thầy , hay người bạn , người tri âm tri kỹ .
Dịch có những lời khuyên chí lý . vả dụ như tuỳ theo tình thế ( quẽ , hay tuỳ theo vị trí cuả mình đang đứng ở trong hoàn cảnh nào đó . ) không phải đợi đến khi sự việc xảy ra rồi ta mới phán đoán , mà ta đã chủ động biết trước , Dịch có nguyên tắc . bất cứ tình huống nào ta củng phải làm chủ , nghiã là làm chủ tinh thần cuả chính mình .
Phần kỷ thuật thực hành có nhiều phương thức cách thức khác nhau , có nhiều cách thức không chỉ là bấm độn , như Tọa đoan Pháp Thuật ; trong Quan Mai Dịch . Nghiả là ngồi một nơi nào đó , bất kỳ . chúng ta củng đều phải xem chung quanh , các hướng Đông Tây nam Bắc ở đâu , củng giống nhu ngừơi lính đều phải biết mình đứng nơi nào trên mặt đất trên  vùng đang hành quân . Điều nầy , năm xưa , khi người viết còn đang phục vụ trong đơn vị trinh sát Quân Khu I , Khi đon vị đi đến đâu , củng đều phải xác định cho được mình đang ở trên tọa độ nào , để khi cần xin yễm trợ hoả lực , Bộ Chĩ Huy phải biết mình đang ở đâu , để mà yễm trợ phi pháo . Trên mặt đất , chúng ta đang đứng , nơi đó làm trung ương , trung tâm , rồi dùng bản đồ đối chiếu với điạ hình thực tế , nhắc lại về Tọa Đoan Pháp Thuật , củng như thế , cốt để xem người đến từ đâu ; từ đó xác địng bằng quẽ dịch , khi quẻ dịch đã  thành hình , thì ta đả rỏ họa phúc . vì quẻ dịch đã ẩn chưá họa phúc . khi chưa thành quẻ thì hoạ phúc vẩn xảy ra , nhưng khi đã thành quẽ ta thấy rổ họa phúc như giửa  ban ngày . Có nhiều cách thức đẻ biết sự việc khi nào xảy ra , xảy ra ở đâu , và như thế nào , rồi chúng ta tiên liệu phải làm gì ????
Ngày nay dể hơn , khi dịch không dùng trong quân sự , mà dùng trên thương trường , trong xây dựng nhà cưả , trung tâm thương mại . kể cả xây dựng dinh thự .
Tuy vậy , nhưng trong dịch vẩn thấy ghi lại Di Ngôn cuả người đời trước , nhưng có lẻ di ngôn nẩy không phải cuả người Tàu . mà chính là cuả người Việt khi sống trên lãnh thổ đả bị quân thù chiếm đóng . Lời di ngôn rất thâm sâu , người viết đã đọc thấy nhiều lần , ngẩm đi nghỉ lại thấy ý tứ sâu xa .
Chẳng hạn như câu kinh văn viết : Người đời trong tam ( ba ) thế , quá khứ , hiện tại , tương lai chưa thấu rổ sự huyền vi cuả cái tâm , mà chưa mở được thất khiếu : tai , mắt  , mùi miệng , lưởi , và các giác quan khác , củng chưa lỉng hội được diệu ý , Cho nên , hiểu được thuật , cần phải kín đáo , người chẳng đáng truyền thì chẳng nên truyèn ( chử đáng ở đây nghiã là xứng đáng , vì thiêeu tư cách , phẩm chất thanh cao . ) Khinh thì làm tiết lộ thiên cơ ( cơ trời ) trọng thì vướng phải trách nhiệm cỏi âm . Gầy đấp sâu rộng thì lĩnh hội được đạo lý . áp dụng lâu ngày ắt đạt được thần thông . Đủ thấy tiền nhân cẩn trọng dặn dò người đời sau , như thế . đủ thấy đời xưa tuyễn chọn nhân tài rất nghiêm cẫn .
Nói về phướng thức để cứu xét quẻ dịch có rất nhiều , không thể nói hết được . Đôi khi , người viết học nhiều , nhiều lắm , nhưng khi dùng , có lẻ chỉ một món lằ đủ . Nhiều khi đối đáp với bạn hưũ thân cận , người nghe thường cười cười , và ngầm cho lời mình nói vu vơ , không có chứng cớ xác thực , nếu không nói là mông lung , quanh co , nhưng kỳ thực , họ nghe mà chẳng hội được ý tứ sâu xa , mải nhiều năm tháng về sau , khi tái ngộ , họ mới nói , ngày đó nghe ông nói mà không hiểu , nay nghỉ lại thấy sự việc xảy đến như lời ông nói . Bởi thế , chuyện đi tìm tri âm tri kỹ , dưới lòng đời có lẻ đốt đưốc giưả ban ngày , củng không thể gặp được . Đời xưa cho đến nay , những ai tinh thông kinh dịch , tinh thông không chỉ hiểu rỏ , mà còn có thể đem lý thuyết áp dụng vào cuộc sống cho mình và cho đời . Phần nhiều họ rất cô đơn , có cuộc sống và thu nhập khiêm tốn , có người tự hỏi tại sao biết quá nhiều mà không biết áp dụng để làm giàu cho sung sướng , mà tại sao lại sống nghèo nàn như thế . Biết trả lời thế nào cho câu hỏi nầy , Xin thưa cuộc sống có giàu hay nghèo , tích cực hay sống tiêu cực , đó là do quan điểm cá nhân , mọi người đều có quan đìểm và cách sống tự do theo ý riêng , không có tiêu chuẩn nhất định cho mọi người .
Người thì chọn lựa cuộc sống định cư ỏ ngoại quốc , người còn lại có người không dời chổ , dù thế sự thăng trầm , nhưng tâm tình không thay đổi . Chuyện giàu nghèo , vinh hoa phú quý như : Như vó ngựa phi qua cưả sổ . Như Cụ Nguyễn Công Trứ đả nói : Ở đời muôn sự cuả chung , hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi . Cụ có quan điểm sống khác người , thắng không kieê , bại không nản , khi thăng quan nhất phẩm triều đình cụ không lấy đó làm vui , khi bị đày đi làm lính thú , cụ không lấy đó làm nhục , Nên Dịch viết : Quân tử thân tuy khốn cùn , mà tâm vẩn hanh thông .
Từ ngày tiền nhân lập quốc đến nay đả hơn ngàn năm , biết bao lần nước non đổi chủ , biết bao thăng trầm củ mệnh nước nổi trôi .
Ngay cái sự kiện dùng bàn tay với ba ngón , mà ta có thể dùng làm bàn toán để tính việc trăm năm . Nếu chúng ta biết Lục Thập Hoa Giáp , gồm có 60 can giáp , tứ giáp tý đến Quý Hợi , là 60 năm . mổi 60 năm là một hoa giáp hay một đơn vi . Nhân cho 3 thành ra 180 năm , như cách tính vận ; mổi vận có 2O năm . gọi là Tam nguyên ( thượng nguyên , trung nguyên , hạ nguyên , tiếng nam gọi là thương ngươn , trung ngươn , hay hạ ngươn ) Cưũ vận , ( cưũ vận là 9 vận ) từ ngữ chuyên môn gọi là cưũ nghiả là 9 , tức là hào dương là 9 , hào âm là lục 6 ) dương vận đi 9 ngày 9 tuần , 9 tháng 9 năm , vận âm đi 6 ngày , 6 tuần lể , 6 tháng , hay 6 năm , tất cả đề có định sẳn , không hề có chuyện vu vơ , nói càn nói bậy bạ ; mổi vận là 20 năm , nhân cho 9 vận = 180 năm ; Tính từ ngày Hãi quân Pháp tấn công vào cảng Vũng Tàu năm 1864 ; kết thúc chiến tranh Việt Pháp vào năm 1954 , việc gì củng đều có ngày giờ định sẵn . Người Tàu đến VN người tàu phải ra đi đúng ngày giờ , Người Pháp và người Mỹ củng thế , kể cả người cộng sãn , củng đồng chung số phận , Khi họ tàn ác với đồng bào miền nam chứng tỏ họ là quân ngoại nhập . nếu là đồng bào với nhau , thì họ không nhớ câu : Bầu ơi thương lấy bí cùng , tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn ??????? Đừng có nguỵ biện nưả , hảy nhìn vào biện chứng lịch sữ thi thấy rỏ . Khi họ trở thành người chiến bại , chứng tỏ việc gì điều gì củng điều có giới hạn , hề thể chế chính trị có sinh ra , thì thể chế chính trị củng sẻ phải chết mà thôi , không có chuyện lãnh tụ muôn năm đâu . Chử muôn năm sẻ biến thành chử muốn nằm khi đã đến hạn kỳ nhất định .


Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: LIÊN QUAN GIƯẢ KINH DỊCH VÀ VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM
Reply #27 - 18. Mar 2011 , 03:51
 
KINH DỊCH CÓ LIÊN QUAN GÌ ĐẾN MỆNH NƯỚC

Sau các phần viết được trình bày đã qua , hẳn quý vị đã có cái nhìn và hiểu thêm phần nào về lý thuyết kinh dịch , Đời xưa Kinh Dịch được ứng dụng vào trong cuộc sống . Ban đầu , Kinh Dịch là một trong các bộ kinh tối cổ cuả Trung Hoa . ( Nhưng Kỳ thực không phải thế ) vấn đề nấy đả gây tranh cải suốt hơn hai ngàn năm ở Trung Tàu  . Họ cải nhau về lai lịch , và qua kinh văn có những đoạn văn hô i pha chút màu sắc huyền bí , để khoát lên cho kinh dịch bộ áo huyền bí , kỳ thực họ che dấu thái độ trộm đạo , không ngay thẳng , khi chìếm đóng lãnh thổ Bách Việt . Thời gian gần đây , sự xuất hiện dần dần những giòng dõi lâu đời người Việt định cư ( không phải di cư kiểu tài liệu và báo chí VN cộng sãn phô biến ; họ nghỉ rằng người Việt có mặt ở lãng thổ trung hoa , tức là họ di cư từ Bắc Việt qua Tàu , chớ không phải là người Việt có mặt trên lãnh thổ củ , trước ngày bị quân Tàu Xâm lăng và thôn tính rồi đồng hoá . Chúng ta không mất thời gian để tranh cải về việc nầy , và người viết , không có chũ trương đua các sự việc lộn xộn lên các diễn đàn , nếu có va chạm với ai , hoặc nếu có ai muốn cải cọ , thì người viết sẻ từ chối tranh luận , bài viết nầy không dùng cho mục đích thương mại , không việt để kỳ thị chũng tộc , không viết để khích động chính trị , không viết để khích động cho người dân đứng lên lật đổ bất cứ chính quyền nào , Vì Dịch đã khẳng định , cái gì có sinh ra thi cái đó sẻ chết đi , đó là quy luật bất biến , không bao giờ thay đổi . Nếu cai trị , thuận theo thiên lý , hợp với lòng dân , thì tồn tại , nếu nghịch lý , không hợp với lòng dân , cố làm nhièu điều tàn ác , thì sẻ tự diệt . Sự thay đổi các thể chế chính trị đã xảy ra bao nhiêu lần , không phải chỉ mới một hai lần . Lịch sữ đã chứng minh cho thấy , ở sự kiện không ở lời nói .
Thời trước , kinh dịch chỉ dành cho các triều đình vua chuá sử dụng cho riêng họ . Cấm phổ biến ra ngoài , Nhưng lần hồi củng bị tiết lộ ; đó là chuyện tự nhiên . Không có giòng họ nào có thể độc chiếm cho mình điều gì hay ho ích lợi . Ở đời muôn sư cuã chung . Dủ thấy kinh dịch có vị trí và vai trò hệ trọng như thế nào rồi . ngay cả thời Tần Thuỹ Hoàng còn không ra lệnh thiêu huỷ . vì xem thường kinh dịch , cho rằng đó chỉ là sách bói . Do sức mạnh siêu nhiên thúc đẩy , nên người viết không thể cưởng lại được , đành phải ngồi bên  máy computer để gỏ bài viết . Muốn biết rthể chế chính trị có tồn tại trog bao lâu thì hảy cứ nhìn vào màu cờ . quốc kỳ . Quốc kỳ là biểu tượng cuả một quốc gia , nhưng nếu không chính tạm , tâm địa gian manh dù cho có đặt tên nghe có vẻ mỹ miểu , nhưng thực chất , chỉ là tiếm danh , củng có thời , người viết quen biết một số anh em người  Việt quốc gia , thuộc các đoàn thể chính trị  , Khi nhìn thấy biểu tượng đãng kỳ cuả họ , người viết đành xa lánh , vì ngồi gần tất nhiên chịu hoạ lây . Có lẻ do phúc phần cuả người viết không chịu tai ương , nên có điều gì đó đã khiến người viết xa lánh họ . Điều nầy có đúng là thiên cơ hay chăng , chính người viết củng không giải thích được . Nhìn mầu lá quốc kỳ tung bay tươi đẹp , chợt giác ngộ , biết tất có ngày cả nước sẻ đi ở tù . Khi nhìn thấy cơ trời , có dám tiết lộ hay sao ??? Nhưng Dịch viết HỌA TRUNG HỮU CƯÚ ; Nghiã là trong cái hoạ có mầm mống cuả phúc trợ cưú . Phúc đó là do khi mình giử quyền lực vì dân vì nước , không làm gì sai trái , làm tròn trách nhiệm đối với đất nưóc . Nên khi đi ỡ tù ( tù cãi tạo cộng sãn ) thì sẻ đuợc trợ cưú ra khỏi nhà tù . Khi có phúc mà làm nhièu điều tàn ác thì phúc đó sẻ giảm rất nhanh . Bài viết nầy không cố ý giảng kinh thuyêt pháp về đạo giáo , mà chỉ nói về  lý lẻ đương nhiên , hể có nhân thì sẻ có quả . gieo gió tất nhiên gặt bảo . Khi thời kỳ thuận lợi sắp qua, tất nhiên  sẻ thấy được nhiều điềm rất xấu , như tù tôi , chết thảm khốc . Khi tay mình nhúng vào máu cuả thường dân vô tội , thì ngày kia khi hết quyền lực , mình sẻ bị người giết để báo thù , di họa lại đời con cháu . đó là báo ứng tự nhiên . Khi ngọn gió lịch sữ xoay chiều báo ứng không sai . Thường thường người ta dùng bói toán để làm phương tiện kiếm sống , điều đó không đáng trách . Nhưng đa phần , chỉ dùng theo cách ứng dụng mà không hề biết đó là khoa học , xuất phát từ đâu . Bản thân người viết , có anh bạn trẻ , vốn là con trai út cuả một vị Cưụ Quốc Trưởng , anh chàng nầy sống về nghề coi bói , anh ta giải đoán lá Xâm , cách coi cuả anh ta ,  chọn lưạ theo phương thức đơn giản , dể dãi , như đưa ống Xâm cho khách rút thẻ , rồi xem số cây Xâm là số mấy , sau đó mới lật sách để  đọc cho khách biết kết quả . Cả một học thuyết , chĩ đạo cho cả một dân tộc , tự nhiên  biến thành mê tín dị đoan . quả là buồn cười . Đúng là vận mệnh dân tộc đọa lạc , nên mới xảy ra nhiều đìều chướng tai gay mắt . Khi người ta dùng đó như là phương tiện để kiếm sống trên dương lưu vong thì miển bàn . Ngày trưóc khi đất nước còn bị quân thù chiếm đóng , nhiều nhân tài người Việt khi làm chuyện quốc sự củng khoác lớp áo thầy bói , thầy cúng để che mắt đối phương thế thôi .
Back to top
« Last Edit: 18. Mar 2011 , 03:52 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #28 - 12. Apr 2011 , 10:55
 
      THẾ LỰC , THỜI VẬN .
Chúng ta thường nghe nói đến các từ ngữ nầy rất nhiều , nhưng thường thì chúng ta chỉ hiểu biết chung chung , nhưng  không thực sự hiểu đươc ý nghiã đích thực cuả các từ ngữ nói trên . Các từ ngữ nầy xuất phát từ Lý Thuyết Kinh Dịch . Ngày trước dưới thời kỳ Quân Chủ Phong Kiến , khi người ta còn dùng mưu chước để hảm hại lẩn nhau , cả trong chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ cuả nhau .
Ngày nay tuy không còn là thời đại phong kiến , nhưng mưu chước vẩn còn được áp dụng . Vì mưu chước và kế sách vẩn còn có chổ đắc dụng trong cuộc sống . Vì thế nên , khi chúng ta cần làm ăn , hay làm điều gì đó . chúng ta củng vẩn cần phải hiểu qua , ý nghiả đích thực cuả từ ngữ nói trên , và cần nên áp dụng vào cuộc sống . để tránh được các thất bại trong công việc làm ăn sinh sống , hay trong các lỉnh vực chính trị ,
Chúng ta thường nghe thế lực ,  ta tưởng là một , nhưng kỳ thực đó là hai , Thế là một , và lực là điều khác . Trước hết , ta nên biết qua một chút về lý thuyết kinh dịch . nhưng ở phần nầy chúng ta chỉ nên nói sơ qua , và không đi sâu vào phần chuyên môn hay kỹ thuật thực hành . Kinh dịch chia ra làm Hai phần , phần Lý thuyết và phần kỹ thuật thực hành . phần lý thuyết chỉ nói sơ qua về 64 quẽ dịch , Từ quẻ thuần Càn cho đến quẽ thứ 64 là quẻ cuối cùng . Nhưng khi qua đến phần Kỷ thuật ứng dụng thực hành , ở phần nầy trình bày rỏ hơn . khúc chiết hơn . Ví dụ như nói nếu muốn cho tinh thông kinh dịch , không gì hơn là bói , vì khi bói phải an bài ra Quẽ Dịch .
Mổi quẻ dịch gồm có hai quẻ hợp lại . Quẻ chính chỉ có một gọi là quẻ đơn ( hay đơn quái , quái là quẻ ) quẻ trùng là hai quẻ hợp lại . Khi hai quẻ hợp lại có 6 hào . Trong Quẻ lại có hai hào Thế Và hào Ứng . Dịch viết Thế là mình , Ứng là người đối tác . khi vào công việc làm ăn , Thế tức là mình và ứng tức là người cùng mình hợp tác trong việc làm . Dịch đã khẵng định rằng : Quẻ như thế nào thì bản thân ta như thế đó , nghiả là , khi ta xin được quẻ dịch ( vì lý do gì đó ) quẻ dịch được hiểu là hoàn cảnh tình thế mà chúng ta đang ở trong , hoặc đang phải đối mặt . Trong quân sự và chính trị , những điều nầy rất hệ trọng . Ví dụ như ta nghe nói : TRI BĨ TRI KỸ BÁCH CHIẾN BÁCH THẮNG . Hiễu mình , hiểu người , đánh trăm trận trăm thắng , Vậy thì , như thế nào mới là hiểu mình và hiểu người .
Trong quân sự chính trị , và trong nhiều lĩnh vực , không ai dám vỗ ngực xưng rằng ta đây cóc cần đến thế lực và thời vận . Điều nầy chưa hề xảy ra bao giờ trong lòng đời . Vì thế , các yếu tố , các điều kiện mà chúng ta cần , chúng ta lại không hiểu biết đến nơi đến chốn , thì làm sao ta có thể thành công ?? khi mà thành công đòi hỏi chúng ta cần đến rất nhiều yếu tố ắt có và đủ . Thế lực quốc gia năm xưa vì chủ quan khinh địch , nên kết cục bi thãm , hằng mấy trăm ngàn chui vô tù . Đó là bài học xương máu do cái đầu óc  chủ quan khinh địch . Liệu chúng ta có muốn điều nầy tái diễn hay không ??
Người đời xưa , trước vấn đề hệ trọng cuả quốc gia , Tiền nhân ( có thể là do các vị quân sư  , đời nay gọi là cố vấn hay ở Việt nam hiện nay gọi là tư vấn ) thường  dùng các phương pháp cuả Lý thuyết kinh dịch , mà bày ra quẽ dịch ,  có nhiều phương pháp khác nhau ( như Kỳ Môn Độn Giáp , Thái Ất , Bắm Độn , v… v . ) Khi bày ra được quẻ Dịch rồi mới xem xét đến quẻ , Mổi quẻ gồm có 6 hào , mổi hào có kèm theo thiên can và địa chi , căn cứ nơi hành cuả quẻ , mà người ta lập ra Lục Thân ( Sáu thành phần nhân sự liên hệ trực tiếp với bản thân người xem quẻ ) Lục thân gồm các thành phần nhân sự sau đây :
Phụ Mẫu : như cha mẹ , ông bà, hàng trưỡng thượng , cấp chĩ huy , nhà cửa bất động sản , hay xe cộ thuyền bè .
Huynh Đệ : Anh em , người cộng tác với mình , nhân viên hay bạn bè ,
Tữ tôn : con cháu , người được sai phái đi công vụ , giấy tờ ,
Thê tài : Vợ , hay tài chính
Quan  quỷ : công việc , nhà chức trách , chính quyền , người cản trở công việc ,
Thường thì trong quẻ có hai hào trùng với nhau .
Thông thường khi sử dụng đến phương pháp bốc phệ , ngưòi ta chỉ thường dùng khi ở yên một chổ , còn trên đường đi , hay gặp chuyện khẩn cấp , người ta dùng phương pháp như bấm độn và chì tính ngôi vị chủ khách , chủ tức là mình , và khách là người mình gặp .
Kế đến người ta còn phố hợp với Bảng Cưũ cung Lạc Thư để xem xét tình thế . ví dụ như nói đói phương , là các phương vị đối chiếu với nhau , như đông đối phương cuả Tây , phương nam đối với phương bắc . Trong lý thuyết Dịch , thường đòi hỏi yếu tố chính xác , không thể nói có thể thế nầy hay có thể thế kia , cho nên tính chính xác được tôn trọng , có chính xác thì mới dể hành động , và khi hành động ta không măác phải khuyết điểm khinh xuất , chính vì thế kết quả mới có thể tốt đẹp .
Trở lại hai chử Thế lực , ta cần nên biết vị trí cuả ta trong tình thế đó ra sao ?, Ta đang ở vị trí nào ? ở đâu , và Ta đang nương tựa vào đâu , Lục thân trong Bốc Phệ chỉ nói chung chung , còn ngoài ra , khi laà tham mưu , ta cần nên  hiểu một cách khác , như Phụ mẩu chẳng hạn , phụ mẩu chẳng còn có nghiả là cha mẹ , mà còn có nghiả là thượng cấp , cuả chúng ta hay cuả đối phương . Tữ tôn không hẳn là con cháu , mà còn ám chỉ đến  sách lược chiến lược , hay sản phẩm mà chúng ta tạo ra . như quan quỷ , là quyền lực , nếu thuộc về quan thì đó là quyền lực mà ta thấy được , còn nếu quỷ thì nên hiểu : đó là quyền lực trong bóng tối . hoặc ta được hổ trợ ngầm . hoặc ta bị đối phương chơi đòn ngầm , Những điều nầy không được trình bày trên sách vở , mà phải được chân truyền hoặc được Tâm truyền thì mới thấu rỏ được .
Xin nhắc lại , chúng ta nên biết hoàn cảnh và tình thế ta đang đối mặt , đang đương đầu là gì ?? Thế cuả ta nương tựa vào đâu ?? vào thành phần nào ?? chúng ta cần nên khai thác điểm nầy , để củng cố vị thế , và tạo nên lực , vì có thế  thì sẻ có lực , Đôi khi người xưa còn xử dụng đến  LIÊN HOÀN KẾ , đời nay gọi là liên minh , sở dĩ liên minh ngày nay không có lực là vì liên minh không đúng đối tượng , và đó chỉ là sự liên minh trên hình thức Các cường quốc đang thực hiện các liên minh như Mỷ Nhật và Âu Châu . đó là trục tam giác tuyến , Mỷ ở phiá Tây Băc , Âu Châu ở phiá Tây , và Nhật bản ở phiá đông . Trong chuyên môn , người ta gọi là Thế Tam hợp , như thân tý thìn , hợi mão Mùi , Tỵ Dậu Sữu , Dần Ngọ Tuất . Gọi là Tam hợp thế , hay nhị hợp thế , Khi biết được Thiên thời , chúng ta lợi dụng địa bàn ( gọi là điạ lợi ) và kết hợp thành thế nhân hoà .
Lẻ tất nhiên  chúng ta cần nên biết mình đã gặp được thời cơ thuận lợi hay chưa ?? nếu đã gặp được , chúng ta nên lợi dụng thời cơ mà hành động . Nếu chưa gặp được , thì ta nằm chờ đó . Dịch dạy , không thái quá (thời đã qua rồi ) không bất cập , ( thời chưa đến ) nên dịch viết ; Nuôi quân ba năm , dụng quân nhất thời  , nên nhớ là nhất thời . Phần nhiều các vị nguyên  thủ đời xưa thường được những nhân sự tài giỏi  phụ giúp ý kiến , bàng các phương pháp chuyên môn mà họ đã học hỏi được , Như Bình Định Vường Lê Lợi nhờ có Nguyẽn Trãi trợ giúp . Lưu Bị thời Tam quốc được Không Minh Gia Cát Lượng phụ tá . Những vị phụ tá nầy rất tinh thông lý thuyết kinh dịch .
Muốn biết thời cơ đã đến hay chưa , thì chúng ta cần nên biết rổ về bản thân , không chỉ biết về khả năng , còn phải biết về Mệnh Số . lể tất nhiên , một con người không thể hiểu hết về mọi sự , và củng không thể làm hết được mọi việc .
Muốn biết về mệnh số , thì nên biết năm sinh , để xem coi mình sinh ra đời năm nào ; >Rồi mới tính xem bản thân chịu ảnh hưởng cuả nhóm tinh tú nào , nếu tài giỏi tất nhiên sẻ biết cách nhìn thiên văn , nhìn xem chân mệnh cuả bản thân đang ở đâu ? và khi đã lập được bản số ( giống như bảng Tữ vi ) Thì ban đêm , trời quang mây tạnh , đứng ngoài trời , nhin lên trời , để xem  ngôi sao thủ mệnh đang ở đâu ? Đây chính là câu ngữa xem , cúi xét . Cấp lãnh đạo quốc gia , nếu dốt nát mà cầm quyền , chỉ gây ra tai họa và tội ác với dân ,  với nước .
Khi đã biết về mệnh số , thì ta cần phải đối chiếu với năm tháng hiện tại , như năm nay , năm Tân Mão , Năm Mão thuộc Mộc , nếu ta mệnh hoả , thì mộc hoả tương sinh , nếu ta mệng thổ , thì mộc khắc thổ , như thế năm thuộc Mộc sẻ là năm Thổ mệnh bị xung khắc , không thuận lợi  , chúng ta có thể tính trước được do năm tháng và mệnh số , mà ta biết được năm nào tháng nào , thời kỳ nào ta có thể làm được điều ta muốn làm . Điều đó chính là chúng ta lợi dụng thời cơ , để hoạt động và hành động , gọi là kịp thời hay hợp thời .
Một ví dụ cổ ngày trước ,  Thời Bình Định Vương  khỡi nghiả ,  vào khoảng năm 1415 , vào một đêm khuya , trong vùng đồi núi chập chùng Lam Sơn . Buổi hội họp bí mật cuả Bình Địn Vương Lê Lợi diễn ra trong đêm , như một tình cờ khi NGuyẽn Trãi có mặt , tuy không dự họp , nhưng ông đã lên tiếng khi nghe Bình Định Vương tuyên bố : sẻ khởi động cuôc kháng chìến vào năm Kỹ Hợi 1419 . Nguyễn Trãi vì sự Bất khả kháng , nên đành phải xuất đầu llộ diện trước mặt Bình Định Vương ; Nguyễn Trải nói : Thưa minh chủ , Ngài đã tính sai rồi . Câu nói đó làm cho Lê Lợi bàng hoàng , và Ông muốn chém ngay ngươờ vưà mới lên tiếng , nhưng Nguyễn trãi vôi xưng danh tính . đến đây Nguyễn trải mới trình bày về Thời cơ và các yếu tố cần nên làm ,  Sau khi cân nhắc về Mệnh số cuả Bình Định Vương , và đói chiều các điểm phù hợp với thời cơ , Nguyễn Trãi cho biết cuộc Tổng Khởi nghiả sẻ phải làm vào năm Mậu Tuất 1418 . Bởi thế , chúng ta nên biết , đời xưa tiền nhân tôn trọng lý thuyết Kinh Dịch , Các Yếu tố Năm Tháng Ngày Giờ rất hệ trọng . Bốn yếu tố nói trên có ảnh hưởng và tác động trực tiếp vào cuộc sống cuả chúng ta . Thêm vào đó chính là sự tác động nầy mắt thường không nhìn thấy được . Ngay trong thời Ngô Đình Diệm , bất cứ vị Sỹ quan nào trước khi  được bổ nhiệm , củng phải trình diện ông , để chính ông nhìn thấy diện mạo cuá Sỷ quan đương sự , sau đó ông sẻ phê chuẩn . Đủ thấy phép xem tướng và chân tướng được áp dụng qua thuật lãnh đạo , chính trị .
Sở dĩ từ lâu nay , trong các phong trào đấu tranh chống lại bạo quyền cộng sãn , ngay từ quốc nội , cho đến hãi ngoại , Phần ỡ quốc nội thì miễn bàn , nhưng phần ở hải ngoại , các  phong trào chống cộng sãn mọc  như nấm đầu muà mưa ,  Tựa hồ như một dàn nhạc khổng lồ , các nhạc công mạnh ai nấy chơi , Thành ra chúng ta có thế mạnh , mà ta không ý thức hay nhận biết , vì thế chính ta coi thường ta , khi tư tưởng ta lúc nào củng chê cây nhà lá vườn là dở ẹt , và cuả người ngoài là hay ho , Có Thế mà không biết mình có thế . như thế làm sao biến thế thành ra lực ( sức mạnh ) Ví dụ như khi chúng ta mệnh danh (đạt tên cho phong trào tranh đấu ) như NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA TỴ NẠN CỘNG SÃN , chúng ta thấy câu trên gồm có 8 nhóm chử ( giống như khi gởi télégramme trong bưu điện , nhờ người ta gởi công điện chẳng hạn , Tám nhóm chử ấy là một con số . chính thế , khi đả được khai sinh ra đời , phong trào đó là một thực thể , củng như Người Việt Quốc Gia đi tỵ nạn chính trị (ở đây chúng ta không mất thời gian để cải nhau về chuyện đi tỵ nạn chính trị hay đi tỵ nạn kinh tế )  . Đừng nên mất thời gian như thế vô ích , Theo lý thuyết kinh dịch khi đã hình thành một thực thể , chính đó là biểu tượng nơi nhóm chử số . Kinh dịch chia ra làm thành 8 nhóm quẻ chính ( hay là quẻ đơn ) , như Càn 1 , Đoài 2 , Ly 3 , Chấn 4 , Tốn 5 , Khãm 6 , Cấn 7 , Khôn 8  . Quẻ Khôn trong kinh dịch là đám đông , là dân chúng , là bao dung , là chưá đựng . Đến đây chúng ta thử xem thời vận đả thuận lợi chưa ( gọi là có thời ) Từ ngày VN lập quốc đến nay là chính nguyên 11 , Kỳ Hạ nguyên , vận 8 , Vận 8 khời từ năm Giáp Thân 2004 cho đến 2023 .
Vận 8 là thời cuả Sao Bát Bạch ( 8 ngôi sao màu trắng ) còn có tên khác là Tả phù . Thuộc dương thổ , Quẻ Khôn thuộc âm thổ, khi âm dương thổ trùng phùng nghiả là hợp thời , hay được thời , có thế mà không biết lợi dụng , có thời mà không hay , cú mải sống trong cái hào quang năm xưa ( một thời vàng son ) mà không hề ý thức về hiện tại , đã là một thực thể , đó là một cái thế . tuy thực thể đó chỉ gần khoảng 3 triệu , Nhưng củng giống như nước Monaco , đâu có bao nhiêu dân số , vậy mà Monaco , và Thụy Sỹ , đều là nước nhỏ , nhưng họ có thế mạnh , vì họ biết cái thế cuả họ ở đâu , Thời Lý Thời Trần , đều nương tựa  vào thế nhân dân ,  thời sau nầy , chỉ nương tưạ vào thế lực ngoại bang thão nào chẳng đọa lạc triến miên .
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #29 - 13. Apr 2011 , 04:07
 
CHỪNG NÀO ĐÁ NỔI LÔNG CHÌM ,
ĐỒNG KHÔ HỒ CẠN BUÁ LIỀM RA TRO .

Trên đây là lời tương truyền về các câu  ‘’Sấm  Trạng Trình ‘’ , Điều nầy có đúng là câu Sấm Trạng Trình hay không là chuyện khác . Thường thì các lời Sấm được loan truyền trong dân gian , mổi khi đất nước sắp có chuyễn biến về chính trị trọng đại . Phần nhiều thì lời sấm xuất phát từ chuà chiền , do các nhà sư , phần còn lại do một số nhửng người làm chính trị loan truyền với mục đích ‘’ gây ra trận chiến Tâm Lý ‘’ gọi là TÂM LÝ CHIẾN  . Trong chiến tranh , người ta dùng tất cả mọi phương pháp để đạt được mục đích cốt dành chiến thắng về phần mình . Chiến tranh là chiến đấu , là giết nhau không thương xót , không nhân  nhượng , Nhưng lời xưa có nói : SÚNG ĐẠN VÔ TÌNH , NHƯNG LÒNG NGƯỜI THÌ ĐỘ LƯỢNG , Đó chính là Vỏ Đức cuả bậc lãnh đạo chỉ huy . Thời kỳ gần đây , chúng ta nghe thấy có nhiều lời đồn đãi trong dân gian . Những câu Sấm như : Phá Điền Thiên Tử Xuất , Bất Chìến Tự Nhiên Thành …. Long Vĩ Xà Đầu Khởi Chiến Tranh …..v….v .
Kèm theo là các lời giải đoán mù mờ , Khi nào lời nói trước ( tiên tri ) về các sự kiện nào đó sẻ xảy ra ; mà các sự kiện đã xảy ra đúng như lời Tiên Tri , thì người ta mới tin . Bây giờ thử xem lại câu sấm :
      Chhứng Nào Đá Nổi Lông Chìm ,
      Đồng Khô Hồ Cạn Buá Liềm Ra Tro .
Chúng ta hiểu chung chung như sau : Chừng nào là khi nào , là bao giờ , Đá Nổi , đá là vật nặng , làm sao mà lại có thể nổi trên mặt nước , phải chăng là nước sông hay  ao hồ can hết nước , Thì lúc ấy mới lòi ra đá và san sỏi trên mặt đất ở lòng sông . Câu kế tiếp , Lông chìm , lông là vật nhẹ , luôn luôn nổi trên mặt nước , vật nhẹ luôn nổi trên  mặt nước , lại chìm lĩm dưới đáy sông , thì chỉ có nghiả là dòng sông đã cạn nước . khi dòng sông đã cạn hết nước , thì lúc bấy giờ mói lộ ra các vật dưới đáy sông . Chừng nào đá nổi lông chìm : có nghiả là bao giờ nưóc sông cạn hết , chử nước thì ai củng hiểu , nhưng còn có nghiả khác hơn đó là đất nước , Đến thời kỳ nào mà các dồng sông trên nước Việt Nam can kiệt , Hiện nay từ nhiều năm qua các tin tức qua báo chí xuất hành trong nước đều đả đề cập đến , dòng sông thường tạo ra lũ lục ngoài Bác đó là sông Hông , hiện nay đả cạn tận đáy sông . Câu tiếp theo : Đồng Khô Hồ Cạn , Buá Liềm Ra Tro . Đồng khô có nghiả là các cánh đồng bị nạn hạn hán làm cho khô khan , nên chết luá . nghiả thứ hai đó là Đồng tiền ( Ngoại tệ ) chử hồ : có nghiã là chử khẩu ;  tức là cái miệng , hay quẻ đoài , là khẩu thuyết , là vàng trắng ( bạch kim ) là nữ trang , là ngoại tệ , hay tiền tệ , Hồ Cạn : có nghiã là đồng tiền ngoại tuệ trong nước khô cạn , chính quyền cộng sãn đang đói khát tiện ngoại tệ , có ăn ( thu vào ) thì sống , nếu không thu vào thì sẻ chết . sẻ chết vì tái chính tên liệt , như các mạch máu trong cơ thể bị tắt nghẻn . Quẽ Đoài thuộc về muà thu , số cuả quẽ Đoài là số 7 , là sao Phá Quân Thất Xích Kim Tinh , Buá liềm ra tro , nghiả là sự giãi thể đãng cộng sãn là chuyện đương nhiên không thể tránh được ; Giải thể đảng cộng sãn và xoá bỏ tất cả cơ cấu hành chánh thể chế chính trị phải được xoá bỏ toàn diện , không thể có sự thay thế tạm bợ , vá víu mà được . Xin mời qúy vị xem bài viết về Nghị Quyết 11 cuả Trung Ương đãng cộng sãn VN ; liên quan đến tiền tệ đã được ban hành trên toàn quốc . Mời quý vị cùng xem .
Đánh thuế tiền gởi về VN
Vi Anh

Đảng Nhà Nước CS Hà nội mới đây ban hành nghị quyết 11 chống đô la hóa, vàng hóa trong kinh tế, cụ thể là cấm tư nhân kinh doanh đô la và vàng miếng. Nghị quyết này thiệt hại rất nhiều cho người Việt hải ngoại gởi tiền về VN: coi như phải đóng thuế thêm cho CS Hà nội ngồi không mà hưởng. Vạn vật vô thường, cái gì cũng thay đổi. Nhưng đối với người dân sống trong xã hội, dưới mọi thể chế chánh trị, có hai cái không thay đổi, đó là cái chết và thuế má, ai cũng lo sợ. Những nhà thuế vụ và những nhà làm ngân sách biết điều đó. Nên quí vị này hay dùng thuế gián thu là cách nhổ lông mà con vịt ít kêu la nhứt. 

Người dân móc tiền túi đóng thuế trực thu ai cũng nhăn mặt nhíu mày, lầm bầm ta thán. Nhưng mỗi lần đi chợ, mỗi lần đổ xăng, ăn một tô phở, trả tiền người dân đều phải trả thuế, nhứng ít ai để ý đến việc trả thuế. Thực sự phần lớn, đều có, đã có trả thuế. 

Và bây giờ CS Hà nội bắt đầu gián tiếp nhổ lông vịt “Việt Kiều” khi gởi tiền về nước với cái nghị quyết 11 nghe rất ư bảo vệ danh dự quốc gia là chống đô la hóa, vàng hóa trong kinh tế, cấm tư nhân kinh doanh đô la và vàng miếng.

CS Hà nội không ra sắc thuế gián thu hay trực thu đánh trên số tiền Việt Kiều gởi về. Việt Kiều sẽ kêu la, chống đối, có thể không gởi hoặc giảm gởi một năm bảy tám tỷ Đô la, ngoại tệ mạnh, mà CS rất cần nữa, thì vô cùng bất lợi cho Đảng Nhà Nước CS Hà nội. Hoặc vì kẹt phải giúp gia đình nghèo túng, bịnh hoạn, có thể phải gởi chui, thì ngoại tệ không sớm vào tay nhà nước nữa. Lúc đó Đảng Nhà Nước không đủ ngoại tệ để xài. Đảng viên cán bộ và số người ăn thiếu ngoại tệ để gởi ra ngoại quốc dấu đút như những nhà độc tài Ben Ali, Mubarak và Gadhafi đã gởi dấu ở ngoại quốc hàng chục chục tỷ Đô la cuớp của nước và dân.

Cán bộ đảng viên và những người ăn theo thiều tiền ngoại quốc liền cho con du học thí ít mà và du hí thì nhiều và nhập cảng xa xí phẩm một năm 10 tỷ nữa cho họ chưng diện cho đúng “mô de”.

CS Hà Nội không dùng biện pháp thuế khoá bị kêu ca mà dùng biện pháp hành chánh không cho tư nhân giữ, đổi, dùng ngoại tệ nữa, điều mà từ lâu CS Hà nội thả nổi để thu hút ngoại tệ trong dân chúng VN trong ngoài nước và đễ cho ngoại quốc dầu tư vào VN. 

Biện pháp hành chánh này mới nói nghe rất hợp lý, rất quốc gia chủ nghĩa, rất tôn trọng danh dự quốc gia, khó mà phê bình chỉ trích.

Gần đây nhơn danh chống lạm phát, chống vật giá gia tăng, Thủ Tướng VC Nguyền tấn Dũng đã ban hành Nghị quyết 11 để kiểm soát vấn đề lạm phát, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, và góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Theo tinh thần và nội dung nghị quyết này chỉ có các phòng giao dịch của ngân hàng mới được phép giao dịch ngoại tệ. Cấm không cho tư nhân thanh toán bằng đô la, buôn bán vàng miếng là hai loại bản vị bảo đảm đồng tiền VN vừa dùng đô la bản vị hay kim bản vị. 

Thế là “Việt Kiều” ở hải ngoại và thân nhân ở quốc nội VN từ nay phải chấm dứt việc đòi hỏi những nơi gởi tiền gởi bằng Đô trả Đô, gởi giấy 100 phải trả bằng Đô giấy 100 nữa. Đảng Nhà Nước buộc cơ sở phải đổi ngoại tệ gởi từ hải ngoại ra tiền Đồng VN để trả cho khách hàng. 

Chỗ này là chỗ Đảng Nhà Nước CS Hànội móc túi thêm Việt Kiều.. Ai cũng biết tỷ giá của Đô la ở thị trường tự do đổi ra tiền Đồng VN lúc nào cũng cao hơn tỷ giá chánh thức của ngân hàng đổi ra. Đô la giấy 100 giá cao hơn đô la giấy nhỏ. Nếu Ngân hàng Nhà Nước phát ra thì chỉ có một thứ giá không phân biệt giấy lớn nhỏ gì cả, chỉ theo một hối suất do Nhà Nước qui định mà thôi. Giành quyền đổi Đô la, giao dịch Đô la cho Nhà Nước, là ĐảngNhà Nước trực tiếp và gián tiếp đánh thuế trên người gởi tiền về VN hay có tiền Đô la đem đổi thành tiền VN hay gởi kiếm lời ở ngân hàng. 

Còn nếu các cơ sở gởi tiền muốn trả bằng Đô la cho dân như trước khi TT Dũng ra lịnh, thì cơ sở phải làm chuyện bất hợp pháp, hẹn giờ, ngày, chỗ đem lén tới nơi. Làm ăn lớn ít cơ sở nào chịu phiêu lưu như thế. Mà có làm thì phải tăng lệ phí rất cao để bù trừ rủi ro bị bắt phải lo lót. 

Còn việc Đảng Nhà Nước CS Hà nội cấm tư nhân buôn bán vàng miếng; tức giá tiếp không cho tư nhân trữ vàng nghe rất “kinh tế”, hợp lý nhưng không hợp tình đối với người dân không tin tưởng nhà nước. E đó chỉ là chuyện “duy ý chí” mò kim đáy biển thôi. Ai cũng biết rất hợp lý kinh tế 1$ xài qua tay ba nơi giá trị kinh tế sản xuất, tiêu thụ như 3$. Nhưng đó là lý thuyết trong nền kinh tế vững mạnh, người dân tin chánh quyền, dùng tiền tiết kiệm để đầu tư. Còn ở VN các công ty sản xuất kinh doanh phần lớn là của Đảng Nhà Nước và ngoại quốc, người dân đâu có chỗ đứng trong việc chung vốn dưới hình thức hợp doanh hay vô danh. Người dân chỉ còn cách gởi tiền tiết kiệm ở ngân hàng để kiếm lời. Nhưng không ai đám để nhiều vì bóng mà dổi tiếng, có người có cả triệu cũng chỉ lấy ra đươc 200 – hãy còn ám ảnh người dân Việt trong thời CS. 

Thêm vào đó nạn trữ vàng là thói quen lâu đời của người Việt. Thời CS làm cho thói quen đó trở thành một thứ phòng xa hữu hiệu. Người dân thấy nếu không có vàng dấu đút thì sau khi CS chiếm được Miền Nam, thì làm sao vượt biên được, làm sao thực hiện “thủ tục đầu tiên” uốn mình qua ngỏ hẹp nhà Hồ được, làm sao có thể sống sót với nạn độc tài đảng trị toàn diện của CS và tham nhũng thành quốc nạn thời CS. 

Tóm lại tính già hoá non; CS Hà nội qua nghị định 11 muốn “nắm” tiền nước ngoài và vàng lại như thời CS gọi là “bao cấp” trở lại. Việc này chắc chắn thất bại. Thị trường tự do Đô la và vàng sẽ phát triễn ngoài vòng kiềm soát của Đảng Nhà Nước. Nạn tham nhũng sẽ giúp cho thị trường tư do bành trướng. Người Việt hải ngoại sẽ giảm gởi tiền về nước vì lệ phí tăng và ghét bị chế độ “chặt chém”.
 

Vi Anh
http://www.vietbao.com
Back to top
« Last Edit: 15. Feb 2017 , 08:22 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #30 - 19. Apr 2011 , 05:14
 
Lý Đi Rồi Lý Lại Về
avril 17, 2011
                                              Lý Đi Rồi Lý Lại Về11/09/2006 -
Tác giả: Lưu Văn Vịnh – Vietnam Review
Vùng Đình Bảng ( Kinh Bắc ), dân chúng từ xưa vẫn truyền tụng hai câu sấm :
Bao giờ rừng Báng hết cây
đầm Long hết nước Lý nay lại về
(hay Tào khê hết nước Lý nay lại về…). rừng Báng và Tào khê bây giờ vật đổi sao rời đã hết cây cạn nước. Nguyên vùng Cổ Pháp tức Đình Bảng là đất xuất phát của nhà Lý, Lý Công Uẩn lên ngôi một cách êm đẹp nhất trong sử Việt, một hiền sĩ duy nhất không cần dựa vào thanh gươm để đoạt ngôi báu, từ năm khai mở triều đại 1010 đến 2010 sẽ là 1000 năm rồng dậy đất Thăng Long. Nhà Lý mất vì nhà Trần năm 1225 cách đây 775 năm ( tính từ năm 2000), Trần Thủ Độ dùng thủ đoạn quyết liệt tận diệt họ Lý, thừa khi tôn thất họ Lý làm lễ giỗ tổ, ông cho đào sẵn hầm rồi giật sập nhà chôn sống cả trăm người họ Lý ( 1232 ). Tuy vậy vẫn có người trốn thoát, thay họ đổi tên sống trong nước hoặc trốn ra ngoài nước như trường hợp hoàng tử Lý Long Tường vượt biển sang Hàn Quốc.
CÓ HAI CHI HỌ LÝ ĐI SANG NƯỚC HÀN
Theo tài liệu của Sở Cuồng
Lê Dư trên số Xuân 1942 Tri Tân (sang Hàn quốc 1914) và của Trần Văn Giáp, thuộc Viện Khảo Cổ Hà Nội, năm 1959, thì có 2 vị dòng dõi nhà Lý chạy sang nước Hàn :
1-Lý
Dương Côn,
em vua Lý Thần Tôn 1128 -1138 ( tức Lý
Dương Hoán) chạy sang Hàn quốc để “ tránh quốc loạn “, không nói rõ loạn gì và tại sao lại chạy mãi sang Hàn Quốc, chỉ biết Lý Tinh Thiện hiện đại là dòng dõi chi này.
2-Lý Long Tường, chú vua Lý Huệ Tông (1211 – 1224), con vua Lý Anh Tông (1138- 1175)
em vua Lý Cao Tông (1176- 1210), cùng với Lý Quang Bật mang đồ thờ cúng chạy ra biển Đông ( cửa Thần Phù, Thanh Hóa ),trốn khỏi bàn tay Trần Thủ Độ, trên ba con thuyền. Một thuyền bị bão dạt vào
Trung Hoa không rõ sống chết ra sao, thuyền của Lý Long Tường đến được Trấn Sơn, gần Pusan ngày nay, vào năm 1226.
Lý Long Tường khi ấy ở khoảng tuổi 50, ông ra đi với tâm nguyện noi gương Vi Tử đời Ân ( khi nhà Ân mất thì Vi Tử chạy sang nhà Chu để giữ việc cúng tế gia tiên theo sử Tầu), vì thế ông lấy hiệu là Vi Tử Động và có ghi trên bia Thụ Hàng Môn Ký Tích ở Bồn Tân, Hàn quốc, tâm nguyện đó.
Tương truyền vua Hàn quốc là
Cao Tông nằm mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lên, đậu bên bờ sông Tây Hải, khi cho người tìm kiếm thì thấy thuyền của Lý Long Tường và tùy tùng đang dạt vào bờ, vua Hàn nhớ lại giấc mơ cho là việc kỳ diệu nên đối xử với họ Lý rất tử tế.
Hai mươi bảy năm sau,1253, quân Mông Cổ do Đường Cơ chỉ huy xâm lăng Hàn quốc, Lý Long Tường năm ấy đã vào khoảng 78 tuổi, cưỡi ngựa trắng đôn đốc dân chúng trong vùng chống trả quân Mông Cổ suốt 5 tháng. Quân Mông thấy khó thắng bèn lập kế khuân 5 hòm vàng lớn tới dâng Bạch Mã Tướng quân Lý Long Tường, Lý Long Tường biết là mưu kế nên cho khoét lỗ, đổ nước sôi vào hòm, quả nhiên sát thủ Mông nấp kín trong hòm bị phát giác và chịu chết. Sau khi thủy binh của đô đốc Katan Khan bị hỏa công phá tan, bộ binh của Đường Cơ mất tinh thần, bị quân
Hoa Sơn bản địa họ Lý nòi Việt tiêu diệt chỉ còn lại vài tên chạy về Mãn Châu.
Sau chiến công ấy, vua Hàn cả mừng, phong Lý Long Tường làm Tướng quân, đổi Trấn Sơn nơi họ Lý trú ngụ thành
Hoa Sơn ( bởi thế có tên
Hoa Sơn Tướng quân ), lại lấy 30 mươi dặm vuông, nhân khẩu 20 hộ cho họ Lý làm Thái ấp. Nơi quân Mông Cổ đầu hàng được gọi là Thụ Hàng Môn, lại cho lập bia để ghi công Lý Long Tường, di tích nay hãy còn.
Khi Lý Long Tường mất, mộ táng cách Thụ Hàng Môn ( ở Bồn tân ) 10 dặm, tại chân núi Di Ất, gần Bàn Môn Điếm bây giờ.
Trong thời gian ở
Hoa Sơn, Lý Long Tường lập làng Giao Chỉ, làng Nhật Nam, lại hay lên đỉnh núi ngồi vọng về phương Nam mà khóc, nơi ấy gọi là Vong quốc đàn !
Về sau dòng họ Lý ở
Hoa Sơn chia làm hai chi, từ Bình Nhưỡng (cố đô) ở Bắc Hàn, rời về Hán Thành Seoul là đô mới của nước Hàn ở phía Nam, có tộc phả dày 400 trang ghi rõ chi tiết. Hâu duệ họ Lý này hiện có trên 200 hộ, hơn 600 người, cháu đời thứ 26 là Lý Xương Căn đã về lễ tổ tại Đình Bảng lần đầu tiên vào năm Tuất 1994 ( xin ghi chú Lý Công Uẩn sinh năm Tuất ).
Tại nước Hàn, nhiều sách truyện về
Hoa Sơn Tướng quân được truyền tụng, tập
Hoa Sơn Quân bản truyện còn ghi sự tích cây hạnh lớn do Lý Long Tường trồng trên nền nhà Văn Nhã Đài là nơi Lý Long Tường từng ngồi dạy học, vì thế Lý Long Tường còn có tên là Hạnh Đàn Công tử. Như vậy đủ thấy Lý Long Tường cũng như nhiều danh nhân khác đời Lý Trần, có đủ tài kiêm văn võ, theo đúng truyền thống Đại Việt mà đời sau, từ đời Lê trở đi, để mất, đổi từ Văn ôn võ luyện sang tiên học lễ, hậu học văn, biến kẻ sĩ thành ra “ trói gà không chặt “, hư danh khoa bảng, thật đáng tiếc. 
Ở Việt Nam hiện nay, dân chúng vùng Cổ Pháp ( Đình Bảng là tên mới từ đời Trần ) vẫn làm lễ hội rất lớn tại đền Đô ( tức đền Lý Bát Đế thờ 8 vị vua Lý ), họ truyền tụng câu :
“ đền Đô đến hẹn lại lên “……
hẹn gì ở ngôi đền đất Kinh Bắc, cố đô tinh thần hương quán nhà Lý và của nền quân chủ nhân quốc văn hiến Việt Nam ? lại lên và bao giờ lên ? câu sấm hay đồng dao này xuất hiện từ bao giờ và do ai đặt ra, không mấy ai biết rõ, nhưng chắc rằng có mang mầu sắc huyền nhiệm nên cả dân chúng lẫn giới truyền thông đều tin rằng có gì thiêng liêng trùm lên dòng sử Việt nhất là từ khi con cháu họ Lý từ Hàn Quốc trở về giỗ tổ sau gần 1000 năm tính từ năm 1010 khai triều thịnh đức nhà Lý.
LÝ ĐI RỒI LÝ LẠI VỀ
Những câu sấm trên do ai đặt ra và đặt ra từ bao giờ ? Điều này chỉ có thể giải thích được nếu ta ngược dòng lịch sử 1000 năm trước để theo các nhà sư Mật tông như Định Không,
La Quý An, Vạn Hạnh…tiên đoán đất Cổ Pháp hưng vương, và nhất là sư Vạn Hạnh, thầy của Lý Công Uẩn, người đã xây dựng nên triều Lý, một kingmaker của thế kỷ thứ X-XI. Theo truyền thuyết, các nhà sư này đã xếp đặt cuộc đất vị trí phong thủy cho đất Cổ Pháp và sư Vạn Hạnh đã nhìn ra thế đất Thăng Long vô chiến địa để làm quốc đô, chuyển từ đất
Hoa Lư ra đất Long Đỗ ( lưng rồng), có Ba Vì , Tam Đảo làm án che, có sông Hồng sông Tô làm huyết mạch, có Tây Hồ làm não bộ…Nếu đã có khả năng tiên đoán nhà Lý dài tám đời vua, rằng ngôi mộ của mẹ Lý Công Uẩn có mối đùn lên thành hình hoa sen tám cánh, thì các nhà sư đó cũng đủ khả năng sấm ký để tính ngày trở về của họ Lý, ngày quang phục vương đạo truyền thống Lạc Việt Hùng Vương. Dường như sư Vạn Hạnh đã tìm ra ngôi đất tái phát một ngàn năm sau cho họ Lý, điều này Sấm Trạng Trình có ghi lại :
Lý đi rồi Lý lại về
…ngẫm về sau nhà Lý xưa nên
nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn…
Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010, một nghìn năm sau, khoảng 2010, nền vương đạo nhân quốc Lạc Việt sẽ lại phục hoạt sau 500 năm long mạch đất Giao Chỉ bị
Cao Biền trấn yểm và ma quỷ ( qua huyền sử Hồ tinh chín đuôi xâm phạm minh đường Tây Hồ sau bị Lạc Long Quân đánh chết ở Đầm Xác Cáo ) quấy phá đất tổ :
Ma vương sát đại quỷ
hoàng thiên
chu Ma vương
…một cơn sấm dậy đất bằng
thánh nhân ra mới cứu hằng sinh linh
NHỮNG HIỆN TƯỢNG LẠ TRÊN NỀN TRỜI CỔ PHÁP THĂNG LONG
Lý Long Tường và Lý Quang Bật ( Bật là em Hàn
lâm Học sĩ Lý Quang Châm, Châm bị Trần Thủ Độ giết cùng với nhiều tông thất họ Lý ) khi chạy sang nước Hàn đã mang theo được vương miện, áo long bào và thanh Thượng phương bảo kiếm truyền từ đời vua Lý Thái Tổ, sang bảo toàn trên đất Hàn. Tại
Hoa Sơn Trấn, Lý Long Tường còn cho xây ngôi đình kiểu Đại Việt, đền thờ các vị vua Lý… trong những ngày lễ tết, Bạch Mã tướng quân ra lệnh gióng 2 hồi 6 tiếng chiêng trống thay vì 3 hồi 9 tiếng, để dành 1 hồi 3 tiếng cho mọi người lặng lẽ âm thầm chiêu niệm cố hương ! Tục lệ này nghe nói tới nay con cháu họ Lý trên nước Hàn hãy còn giữ.
Ngày 18/5/1994 Giáp Tuất, Lý Xương Căn thuộc đời thứ 26 dòng Lý Long Tường, lần đầu tiên về lễ tổ ở đền Lý Bát Đế đã ghi vào sổ lưu niệm như sau : …” cháu chắt xin thề nguyện không làm điều gì tổn thương đến vong linh cao cả tổ tiên bằng cả tinh thần và sứ mệnh đặc biệt “
Bốn chữ cuối, do học giả Trần Văn Giáp dịch, “ sứ mệnh đặc biệt “ phải chăng hàm chứa ý nghĩa thiêng liêng mà Lý Xương Căn đã được tổ tiên phó thác ?
Tính ngược lại từ năm Giáp Tuất 1994 tới năm Canh Tuất 1010 là năm Lý Công Uẩn lên ngôi ( Lý Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất 974 ) thì họ Lý quả có trở về sau 33 đời, 984 năm, nghĩa là gần 1000 năm sau năm khai nghiệp và cùng vào năm Tuất.
Câu sấm : Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh chúa
ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày
và câu ngẫm về sau họ Lý xưa nên
cùng với câu : nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn
cho thấy có sự ứng hợp vào năm Tuất ( Bính Tuất 2006) Thánh xuất, và năm sau,
Đinh Hợi (2007) yên ổn thanh bình, đấy cũng là hàm ý của câu sấm “ Tuất, Hợi, phục sinh “ mà cố học giả Hồ Hữu Tường rất quan tâm trong thời gian ngồi tù Cộng Sản mà không giải ra được . Đây cũng là thời điểm : Bảo sơn thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành vậy. ( xem Việt Sử Siêu Linh cùng tác giả tr.95).
Trong hai năm 1997- 98 vừa qua, vùng Cổ Pháp ( Đình Bảng ) xuất hiện 4 hiện tượng lạ 
1- Chùa Ứng Tâm ( tức chùa Dặn, thờ mẹ vua Lý Thái Tổ ), có cây dứa lạ, một quả mẹ và nhiều quả con nở ra xung quanh (1997).
2- Hình tám giải mây hiện trên đền Bát Đế đúng ngày hội 21- 4- 97, vào chính ngọ ở nóc đền, như linh khí của 8 vị vua Lý hiện về.
3- Hình tám đợt mây hiện trên đền Bát Đế vào đúng ngày giỗ vua Lý Anh Tông, 26- 8- 1998, với một đợt mây nhỏ ở sau chót mà người ta giải là biểu tượng của Lý Chiêu Hoàng, đời vua chót thứ chín nhà Lý trước khi bị nhà Trần đoạt quyền.
4- Hình một giải mây vàng như mình rồng từ Thăng Long bay về Cổ Pháp vào ngày lễ rước linh bài Lý Thái Tổ và chiếu rời đô ra Thăng Long, 1- 9- 1998 lúc 4 giờ 45. Giải mây dừng lại trên đền rồi tản dần ra.
Các hình trên có lưu trữ tại đền Đô, Đình Bảng, gần Hà Nội, như là dấu tích huyền nhiệm của dòng Việt Sử siêu linh.
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #31 - 20. Apr 2011 , 12:16
 
Nhân thây có tiếng vang hơi xa, sau loạt bài Sấm ký, nên Lam Sơn  lại phải góp thêm chút ý tưởng về Sấm. Mới vừa qua đây, chuyên vẩn còn hời nóng hổi, người viết nhận được một điện thư gởi đến, người viết không biết tác giả bức thư ấy là ai, vì Lam Sơn gởi đăng trên hai diễn đàn, một ở Diễn đàn Trung Học lê Văn Duyệt, và diễn đàn Trung học Duy Tân, mà Hàn sinh cũng không thể biết được người viết thư ấy là nam hay nữ, mình chẳng có lưu ý về vấn đề nam hay nữ, điều nầy không có gì là quan trọng. Ý của mình muốn nói rằng: Trước khi gởi đang trên các diễn đàn, không thể viết bậy, viết bạ, rồi bàn luận như chuyên chơi đùa ngày xưa ở chốn học đường.

      Hai câu sấm: CHỪNG NÀO ĐÁ NỔI LÔNG CHÌM, ĐỒNG KHÔ HỒ CẠN BUÁ LIỀM RA TRO.

Trước khi đưa loạt bài diễn giải về Sấm Trạng Trình, Lam Sơn  đã lần lựa, do dự rất nhiều, từ khoảng năm 2003, nhưng lúc ấy mình  vẫn chưa quen với thế giới của Computer, vì nhà chẳng có máy, khi đi học lớp bổ túc về Pháp văn, mới được vọc sơ sơ mà thôi, sau đó viết bài trên giấy trắng, và gởi cho vài người bạn có sinh hoạt trong giới báo chí của cộng đồng tại Pháp, nhưng anh em từ chối, với lý do, nếu ông viết như vầy thì không có ai hiểu hết.

Bởi thế nên đành để đó, cho đến mới đây không lâu, khi tham gia vào Diễn Đàn của Trường Trung Học Duy Tân, Lam Sơn  mới quyết định công bố trên các diễn đàn, ai hiểu thì tốt, bằng không hiểu thì chẳng có sao.

Năm 2004, khi mới tham gia vào Diễn Đàn Lê Văn Duyệt, cô bạn Admin có đề nghị mình gởi bài vở cho vui thôi, mình có nói đến về đề tài Kinh Chu Dịch, Lý Thuyết Kinh Dịch Và Vận Mệnh Dân Tộc Việt Nam. Vì sau thời gian dài nghiên cứu về kinh dịch, mình đã liên kết được những sự kiện lịch sử của Dân Tộc Việt Nam, với Lý thuyết Kinh Dịch.

Tuy đã hiểu được vấn đề, nhưng.. việc khó nhất, đó chính là khi viết bài, chúng ta sẽ phải bắt đầu từ đâu. Ví dụ đơn giản như, ngày còn đi học, khi muốn làm quen với một cô học trò trường bạn, ta phải làm sao?? Ôi sao chuyện nầy khó quá... nếu tỏ ra thông minh thì sợ người ta nói mình làm mặt lanh, (ngang hàng với xảo trá), còn hơi ngu ngu, thì người ta lại bảo mình là loại nhát gái, đây chỉ là ví dụ chơi chơi, cũng có chút kỷ niệm ngày còn đi học, bởi vậy, nên cuối cùng không thèm kiếm chuyện làm quen, với cô nào hết. Nếu không thì có lẽ đã là rể của Trung Học Lê Văn Duyệt rồi cũng nên.

Trở lại vấn đề viết bài; Mình đã viết và bắt đầu với câu. Từ những năm tháng gần đây, trên các diễn đàn và báo chí, thỉnh thoảng lại ồn ào với chuyện tin đồn và Sấm Trạng Trình. và sau lời mở đầu, ngòi bút cứ từ từ lướt nhanh trên trang giấy. Bây giờ nếu ngồi viết lại hồi ký, mình có thể bắt đầu với câu: Tôi đi vào thế giới văn học, và đi lạc đường vào lịch sử cách nào? Có lẽ điều nầy cũng do nguyên cớ vì khi nghiền ngẫm khoa tử vi và mải mê với bảng số Tử vi của bản thân, mình mới hiểu được bản thân ra sao?? cá tính như thế nào? có khả năng gì?? và điều gì được, điều gì mất trong cuộc sống, gọi là Biết mình Tri Kỷ.

Khi xem được lời phê về bản mệnh nơi một quyển sách viết về Tử vi, loại người như mình chỉ đắc dụng trong thời loạn, và người lập được kỳ công thời ly loạn, thiệt quá lạ lùng. Nhưng càng ngày mình càng thấy điều nầy đúng, vì năm xưa có lúc (khi chưa đi định cư) mình đã làm thầy cúng (siêu sinh), và giải trừ được cơn hành xác của một số người bệnh, mà bác sĩ đã chê, người bệnh không chết mà cũng không sống, đến tay mình, cúng trong vòng hai ngày là đi về Tây phương không cần visa, cúng cho ai thì người đó sẽ đi luôn, không kịp từ giã nữa. Vui quá phải không quý vị. Nên mình thường nói bông đùa rằng mình ăn cơm dương gian, nhưng làm việc cõi âm phủ.

      Khi bắt đầu loạt bài về Sấm Ký, mình có đề cập đến tình trạng luận giải về Sấm Trạng Trình, thường thiếu chính xác, đôi khi còn đoán mò, nếu không muốn nói là viết bậy bạ.

Sở dĩ như thế là vì phần nhiều cụ Trạng, dùng cổ văn, loại văn hán nôm, đời sau mới diễn giải bằng quốc ngữ, vì thế giải được Sấm do Trình Quốc Công viết không phải là điều đơn giản. Thứ đến, ý tứ của người xưa thật sâu xa, thâm trầm, đôi khi gần như bí hiểm, vì mình có kinh nghiệm khi học dịch, lời lẽ trong kinh dịch rất thâm sâu, đôi khi không thể hiểu được, vì sao, vì nếu đọc dịch như đọc tiểu thuyết, thì chúng ta không thể hiểu được ý tứ của kinh dịch. vì thế muốn hiểu dịch, chúng ta cần phải xâm nhập vào thế giới huyễn ảo của kinh dịch, như chúng ta đi vào “quatrième dimension”, Tức là chiều thứ tư, loài súc vật có loại chỉ nhìn thấy hai chiều như con cua, như con ngựa, loài người nhìn thấy được ba chiều, chiều thứ tư chúng ta chưa biết, họa chăng, các vị chân tu sau khi giác ngộ, họ sẽ có thực hiện được. Nay nhân chị admin lên tiếng, mình sẽ theo ý đó mà dẫn giải thêm:

      Câu: Ma vương sát đại quỷ,
      Hoàng thiên tru ma vương;

      nếu hiểu theo nghĩa đen, một cách bình thường, ta hiểu là: ma vương là cộng sản, vì họ luôn luôn ma giáo, ma giáo nghĩa là lúc nào cũng dùng âm mưu, âm mưu là mưu kế của cõi âm, trong bóng tối, trong ngày tháng thuộc về âm, và ngầm hại hiền nhân quân tử. Như ra lệnh cải tạo tập trung, nói đi học tập trong một tháng, kỳ thực đó là cuộc lưu đày kiêm biệt xứ. Hãy đếm thử xem bao nhiêu người sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã chết và thân xác bị vùi dập, bao nhiêu người tin lời đóng vàng cây đi bán chính thức, để rồi tàu công an biên phòng kéo họ ra biển, cướp hết vàng, và bắn chìm thuyền vượt biên trên biển đông???

Vì họ dùng quá nhiều âm mưu ma quỷ, nên lời sấm ví cộng sản Việt Nam là ma, đại quỷ là người phương Tây, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chữ đại là to lớn, ám chỉ các cường quốc. Sát là giết hại, là trừ khử, khắc chế, là chống lại.

      Hoàng Thiên tru ma vương, Chữ Hoàng Thiên ngầm hiểu là trời, nhưng trong kinh dịch không hề đề cập đến đức thượng đế chí tôn như chúng ta ngầm hiểu, mà chúng ta nên hiểu chữ trời ở đây chính là bầu trời, hay là vũ trụ, hay là sự vận hành theo một quỹ đạo, đó là sự vận hành của mọi vật trong thế giới tự nhiên.

      Do câu: Thiên Địa Vô Nhân, Thánh nhân Bất nhân, câu nầy có nghĩa là sự vận hành của mọi vật theo một thứ trật tự tự nhiên, gọi là không có nguyên nhân (như ý phàm phu tục tử hiểu) như trái đất tự xoay, và xoay chung quanh quỹ đạo của thái dương hệ.

Câu: Hoàng Thiên Tru Ma Vương có nghĩa là đến thời điểm nào đó tự nhiên chế độ cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ, do một nguyên cớ nào đó, vì tia lửa nhỏ sẽ gây thành đám cháy lớn. Thể chế chính trị sẽ tan rã, nhưng Dân Tộc, và Đất nước Việt Nam sẽ tồn tại vĩnh cửu, thời điểm đó chính là vận hội trùng phùng, như vận 8 bắt đầu từ năm Giáp Thân 2004 đến năm Quý Tỵ 2013, Trong khoa Huyền Không Phi Tinh, khi năm nhập trung cung, thì đó là vị trí của Sao Liêm Trinh, Ngũ Hoàng Đại Sát Tinh, Năm Quý Tụy 2013 thái tuế nhập trung cung. Thành thử chữ Hoàng thiên chính là muốn ám chỉ ngôi vị của Ngũ Hoàng.


NGHI VẤN VỀ SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH .


Thời gian sau nầy ; dạo gần đây , trong chúng ta phần nhiều nghe và xem được trên báo chí hoặc các diễn đàn loan truyền các đoạn sấm ký , tương truyền do cụ Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm viết ra . Nhưng … chúng ta chỉ nghe nói , và được xem caá bản dịch , nhiều khi có người đã dịch ra năm xưa , rồi theo từng giai đọan lịch sữ , lại cho in , sao chếp lại , và bày bán khắp nơi . Nên có lẻ chúng ta củng chẳng biết có nhiều đoạn sấm ( một phần là do Đán cơ từ Giáo Phái cao Đài , và giáo Phái Hoả Hão như hình thức Sấm giãng cuả Ông Sư Vãi bán khoai . ) tất cả đều trở nên loạn cào cào , đời sau nghe được rồi truyền khẫu cho nhau . vì lời sấm đôi khi dính líu và liên quan đến chuyện quốc gia đại sự , nên rất nguy hiểm , ví các thế lực cầm quyền đồi bại , nên họ không thích bất cứ ai bài bát  chính sách cai trị bất nhân và tàn bạo , qua thời quân chủ và thời Pháp , lẩn thời kỳ sau ngày 30 / 04 / 1975 , Người viết còn nhớ lại , ngày đó sau khi miền nam hoàn toàn thất thũ , thường khi người viết và ông thân sinh hay trao đổi về một vài vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước , có lần ông thân sinh hỏi một câu : ba không hiểu tại sao Sấm Trạng Trình lại nói xấu về Việt Minh cộng Sản . Lúc ấy người viết vì chưa đạt được trình độ cao siêu , nên chỉ trả lời cho qua chuyện , thì đời xưa thấy xấu nói xâu , thấy tốt thì khen tốt , vậy thôi . khi chính quyền cai trị tốt đẹp , thì có ai mở miệng để chê bai  ????
Sau nầy càng đi sâu vào lĩnh vực nghiên cưú kinh dịch và biết qua cách ứng dụng trong tình báo , chính trị , tài chính , và các lĩnh vực khác khi ứng dụng lý thuyết dịch vào cuộc sống . người viết củng như nhiều người quan tâm đến tình thế nước nhà , và cùng nhau đàm luận trao đổi , có lúc củng thử dịch một vài đọan : như câu sấm nói về quê quán cuả thánh nhân như câu :
Dục Thức :
– Dục đức thánh nhân hương :  Muốn biết nơi sinh quán cuả bậc thánh nhân .
419 – Quá kiều cư bắc phương    Đi qua khỏi : quá , tức là đi qua khỏi , hay là đi qua cây cầu
420 – Danh vi Nguyễn gia tử       ( Tựa như con nhà họ Nguyễn , là con rể )
421 – Kim tịch sinh ngưu lang  Kim Tịch : đêm muà thu Kim , Sao Ngưu Lang
422 – Thượng đại nhân bất nhân  (thượng đại là : chử đại là nét ngang thêm vào trên chử nhân , bất nhân là không có nguyên nhân là chử khẩu ( chử nguyên nhân là chử đại nằm bên trong chử khẩu . nhân khẩu là miệng người , do sự truyền miệng , 
423 – Thánh ất dĩ vong ân    ( dùng chử ất không dùng chử Giáp : là kỳ môn độn giáp )
424 – Bạch hổ kim đái ấn    ( Bạch hổ là nhóm sao áng về phương tây , ) nhận tước vị tại phương tây
425 – Thất thập cổ lai xuân   là sau tuần giáp thứ 7 , tức là vận 8 từ năm Giáp thân 2004 , lịch sữ tái diễn ,
426 – Bắc hữu kim thành tráng  câu 426 và 427 chỉ về vị trí nơi cự trú cuả bậc Thánh Trí ,
427 – Nam tạc ngọc bích thành
Thời kỳ đó , mình chỉ mới dám dịch có đoạn : Hoả Thôn Đa khuyễn phệ, Mục giã dục nhân canh .
428 – Hỏa thôn đa khuyển phệ   Thôn làng nghèo khó ở cuối dảy Trường Sơn , Đa khuyển , khuyển là núi , đa khuyển là áng trùng áng ,
429 – Mục giả dục nhân canh   ; Kẻ chăn trâu , khuyến dạy hướng dẩn người dân cách thức làm ăn mua bán ( có khi làm  thầy bói thầy cúng bất đắc dĩ )
430 – Phú quí hồng trần mộng    Bản thân người người nầy xem thường vinh hoa phú quý .
431 – Bần cùng bạch phát sinh   Số mệnh nghèo quá hoá ra phú quý . Tượng hổ  thay lông
432 – Anh hùng vương kiếm kích  Người nầy tuyên triệu cùng muôn  dân bách tính ,
433 – Manh cổ đổ thái bình ; đến người mù củng có thể nghe thấy thái bình ( lời an uỉ ân cần )
434 – Nam Việt hữu Ngưu tinh  ( Sao Ngưu nằm trong chòm sao Huyền Vũ )
435 – Quá thất thân thủy sinh      Chu kỳ vận hành có 60 năm ( lục thập hoa giáp )
436 – Địa giới sĩ vị bạch
437 – Thủy trầm nhi bắc kinh
438 – Ký mã xu dương tẩu
439 – Phù kê thăng đại minh
440 – Trư thử giai phong khởi
441 – Thìn mão xuất thái bình
442 – Phân phân tùng Bắc khởi
443 – Nhiểu nhiểu xuất đông chinh
444 – Bảo sơn thiên tử xuất
445 – Bất chiến tự nhiên thành
446 – Thủy trung tàng bảo cái  ( giưả nước có cù lao )
447 – Hứa cập thánh nhân hương
448 – Mộc hạ liên đinh khẩu
449 – Danh thế xuất nan lường
450 – Danh vi nguyễn gia tử
451 – Tinh bản tại ngưu lang
Mời chư vị xem một đoạn văn viết , Tưởng nên nhấn mạnh quyển sách xưa nhất , với đầy đủ chi tiết là sách Phả Ký cuả Vũ Khâm Lân , soạn ra sau khi Nguyẽn Bỉnh Khiêm qua đời hơn 150 năm . Chính điều nầy lan rộng hơn , nhiều nghi vấn về Nguyễn Bĩnh Khiêm , Một người nhiều tiếng tăm , đươc( phong tặng danh Trạng trình ( Tức là Trình Quốc Công ) làm cố vấn cho ba triều đại , một lúc , đào tạo nhiều nhân tài nổi danh , nên danh phận , mà lại không có tiểu sữ , Những tài liệu liên quan về cụ Trạng đã bị giới nho sĩ đời quân chủ ganh tỵ , đã tìm cách ngăn trở , và không cho thờ cụ Trạng trong văn miếu . Hành động kiễm duyệt thời nào củng có . Sau nầy khi sấm ký được loan truyền vào những thời kỳ đầy nhiễu nhươn g và trước khi có biến động về chính trị , Chỉ khi nào sự việc xảy ra rồi , người ta mới bảo rằng Sấm Trạng Trình là đúng . )
Có những cấu sấm , mà người ta cố ý diễn giải trật lất , hoặc giải bậy bạ củng có . Như câu Nhược giã ưng lai sư tữ thượng . Bốn Phương Thiên Hạ Thái Bình Phong ; có người dám dịch ra là : Cọp rày làm chũ lâm điền , quần thần cộng lạc miên miên cưũ trùng . , thiệt là bậy bạ , chưa kể . nhửng năm tháng gần đây một bài viết trong tạp chí cộng sản , số 11 ra tháng 11 / 1982 , khi Ông Phan Khắc Hoè phê bình quyển Con Rồng An Nam do Đức Hoàng Đế Bão Đại viết , đã tiết lộ rằng chính ông ta ( Phan Khắc Hoè , ) lúc đó giử chức Đổng Lý Văn Phòng Ngự Triều , đã nhận lệnh cuả đãng cộng sãn , qua trung gian Trương quang Phiệt , lợi dụng sấm Trạng Trình , làm các âm mưu chính trị , để gầy ra điều kiện buộc vua Bão Đại thoái vị , ( Hoàng xuân Tưũ trang 62 ) qua các ví dụ trên , chúng ta phải lưu ý đến việc các đảng phái chính trị loan tải sấm Trạng Trình theo ý định cuả họ , ) Như câu : Nguyễn đi rồi Nguyễn lại Về , rồi bàn ra tán vào là Nguyễn cao Kỳ trở về , và Nguyễn hưũ Chánh làm lảnh tụ là do chú chánh chân mệnh thiên tử .
Như câu sấm viết : ô hô thế sự tại bềnh bồng , Nam bắc hà thời xích lộ thông , lại dám viết thành ra . ô hô thế sự tại bềnh bồng , Nam Bác Hà Thời Thiết lộ thông , hai câu văn hơi giống nhau nhưng ý nghiả hoàn toàn khác nhau , hai chử Thiết Lộ và chử Xích lộ khác biệt hoàn toàn , thiết lộ là đường tàu hoả , chemin de fer , trong khi Xích lộ là con đường đỏ , tức là chủ nghiả cộng sãn . nam bắc nghiả là từ nam cực đến bắc cực có bao giờ chủ nghiả cộng sãn lại thôn tính được thế giới .

Nay nhân viết loạt bài về Sấm Ký , Lam Sơn  chỉ viết lại và có chút phiếm luận , tãn mạn , Biết đâu qua bài viết nầy , lại không tình cờ gặp người cao kiến hơn , biết rành hơn , thì Lam Sơn  sẻ xin thọ giáo . Người biết được điều mình sai lầm , ắt phải là thầy mình . người tinh thông cùnh mình bạn luận trao đổi vui vẻ , ắt là bạn bè tâm phúc , Như câu nói cuả người xưa giưả Bão Thúc và Quãn Trọng đời vua Tề . sinh ra ta là cha mẹ ta , biết được ta chính là Bảo Thúc . Hai người cùng làm quan đồng triều , mà Bảo Thúc hết lòng tiến cử bạn hiền , tiến cử người có tài đức để giúp đất nước ; ngẩm đi nghỉ lại , tình nghiã đời xưa sao hay quá , Ôi Thế nước Việt  , Thời nước Ngô . / 

Lam Sơn Họ Lê
Back to top
« Last Edit: 01. Dec 2017 , 02:09 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #32 - 24. Apr 2011 , 10:05
 
CHỪNG NÀO ĐÁ NỔI LÔNG CHÌM
ĐỒNG KHO HỒ CẠN BUÁ LIỀM RA TRO

( Trích dẩn Sấm Ký Trạng Trình )
•      
•      
•      CSVN tẩu tán hàng chục tấn vàng mỗi  năm ra ngoại quốc dưới hình thức nữ trang !
Nguồn tin Tonguehỏng theo bài viết của  báo tài chánh FT ngày 28.03. 2011 _ http://www.ft.com

Từ hơn hai năm qua, các nhà buôn bán vàng tại VN ( trong đó có các quan lớn) đã xuất cảng sang Thụy sĩ hàng năm trị giá trên dưới 3 tỷ đô la US$ hàng năm. Hình thức xuất cảng dưới dạng nữ trang ( vì nhà nước CS cấm bán vàng) , rồi nung lại thành thỏi vàng ròng để định giá bán dễ dàng hơn. 3 công ty  Thụy sĩ phụ trách việc nầy là  Argor-Heraeus, MKS Finance và Valcambi.

Theo Cameron Alexander, một cố vấn của GFMS chuyên về mua bán vàng cho biết : " Vì lệnh cấm xuất cảng vàng của nhà nước CSVN , nên các ngân hàng xuất cảng nữ trang sang Thụy sĩ để nung lại". Vì đồng tiền VN phá giá, nên họ thủ tiền bằng đô la!

Năm ngoái (2010), VN xuất cảng khoảng 61 tấn kim loại quý, phần nhiều là vàng, trị giá 2,8 tỷ US$ theo quan thuế Thụy Sĩ, năm 2009 54 tấn trị giá 1,9 tỷ US$, năm 2008 3,2 tấn trị giá 71 triệu US$.

Ông Alexander còn cho biết : "Khi có lệnh cấm bán vàng tại VN thì số vàng từ Miên , Lào, Thái Lan, Trung Cộng nhập vào Thụy sĩ tăng lên rất nhiều".


Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)  cho biết VN thất thoát tiền khoản  từ 12 - 13 tỷ US$ năm 2010, tương đương 12% GDP. Theo  Benedict  Bingham, một đại diện của IMF tại Việt Nam, " Việc thất thoát tiền không được liệt kê trong báo cáo chánh thức của nhà nước, thì sự thâm thủng cán cân thương mại có các nguyên nhân sau hoặc do định lượng thấp việc xuất cảng , hoặc do sự đầu tư ước lượng quá cao, hoặc do sự tẩu tán tiền trong nước ra ngoại quốc  không kiểm soát được ".

Nói chung , là các giới chức CSVN đang tẩu tán vàng và tiền  ra ngoại quốc rất nhiều, như  Thụy sĩ , và nhất là tại Mỹ với những kẻ "nói là về làm ăn với CSVN " !.
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #33 - 02. Feb 2017 , 11:46
 
LAM SON wrote on 18. Oct 2007 , 09:01:
    Cái khó khăn của sấm Trạng Trình hay các sấm ký, giáng bút khác mà tôi sắp trình bày là sự xác định thời gian. Ngài chỉ nói: "Thân, Dậu niên lai kiến thái bình", nhưng không nói rõ Thân Dậu nào. Nếu Ngài cộng thêm thiên Can vào, chẳng hạn như Thân, Dậu phải là Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Thân, Quý Dậu, hay Mậu Thân, Kỷ Dậu, v.v... thì dễ cho chúng ta xác định thời gian biết bao. Song làm như vậy ngoài việc lậu thiên cơ, còn dễ đánh tan niềm hy vọng của mọi người, vì nếu không ứng hợp cho cặp Thân, Dậu lần này, người ta làm sao còn tuổi sống để chờ tới 60 năm sau (Lục thập hoa giáp) chứ! Như năm nay là năm Ất Dậu, muốn có một năm Ất Dậu kế tiếp, chúng ta phải đợi tới 60 năm nữa, chứ 12 năm sau, Ất Dậu chỉ thành Đinh Dậu. Thiên Can thì có mười: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý; còn Địa chi có tới 12: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Cho nên thà không thêm thiên Can vào với địa chi vẫn hay hơn, vì nếu không ứng hợp với cặp Thân, Dậu kỳ này, chúng ta chỉ cần chờ 12 năm sau để suy nghiệm lại. Có lẽ vì biết cuộc sống ngắn ngủi rất hạn định của con người, cụ Trạng thường làm một lèo tới bảy năm như mấy câu sấm:

    "Long Vĩ  Xà đầu khởi chiến tranh
    Can qua tứ xứ khởi đao binh
    "Mã đề Dương cước anh hùng tận
    Thân Dậu niên lai kiến thái bình"

    hoặc 8 năm như bài sấm "Rồng nằm bể cạn" cũng của cụ:

    "Rồng nằm bể cạn dễ ai hay
    Rắn mới hai đầu khó chịu thay
    Ngựa đã gác yên không người cuỡi
    Dê không ăn lộc ngảnh về tây
    Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
    Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
    Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
    Ăn no ủn ỉn, lợn kêu ngày"

    Cụ làm vậy đặng chúng ta có hụt một chu kỳ thì chỉ bốn, năm năm sau là bắt đầu suy nghiệm trở lại, đặng hy vọng trở lại. Vì lý do khó xác định thời gian nên thường thường sự kiện xảy ra rồi, người ta mới nhận rõ. Cũng có khi câu sấm lại trùng với hai biến cố cách nhau 60 năm vì tính chất thường lập lại của chúng. Chẳng hạn như biến cố dùng máy bay giật sập hai tòa nhà chọc trời tại Nữu Ước ngày 11 tháng 9 năm 2001 xảy ra mới đây làm chấn động thế giới thì năm 1941, cách đây 60 năm, Mỹ cũng bị một trận tấn công khác bằng máy bay vào Trân Châu cảng do phi đội Thần Phong của Nhật thực hiện. Điểm giống nhau của hai biến cố này là:

    - Cuộc tấn công bằng máy bay
    - Các phi công đều quyết tử

    Một điều lạ lùng nữa là trận tấn công Trân châu cảng năm 1941 này có tên là Tora Tora và trận đánh cuối cùng coi như dữ dội nhất của Mỹ tại Afghanistan năm 2001 cũng có tên gần giống như vậy: Tora Bora, khác nhau chỉ có một chữ "B". Thiên tai, kinh tế cũng có khuynh hướng lập lại sau 60 năm. Chẳng hạn như nền kinh tế của Hoa Kỳ và các quốc gia trên thế giới trong tăm 1930 và 1990 có chung một đặc tính là suy thoái. Hoặc động đất lớn xảy ra tại Tân Cương năm 1906 thì năm 1966 lại xảy ra tại Hà Bắc. Tuy vậy, có khi biến cố lập lại, nhưng ý nghĩa hoặc đặc tính của biến cố lại khác nhau, chẳng hạn như Nga Sô, 60 năm trước, khi Cộng sản nắm chính quyền, sức mạnh của họ thật to lớn, đe dọa cả thế giới; nhưng 60 năm sau, Cộng sản Nga sô lại suy tàn. Hai biến cố này, nhìn vào đặc tính thì trái ngược nhau, nhưng nhìn vào tính chất biến đổi như sự biến đổi của Âm Dương trong kinh Dịch, thì giống nhau. Xem như vậy, lục thập hoa giáp (60 năm) mang một ý nghĩa thật đặc biệt trong sự lập lại của các biến cố. Từ đó suy ra mỗi 12 năm, hay một phần năm của lục thập hoa giáp cũng có nhiều biến đổi và trùng hợp hết sức quan trọng. Sự biến đổi và trùng hợp này thường ứng hợp với các câu sấm lưu truyền.

    Sấm ký thật linh thiêng, nhưng sở dĩ người ta chưa suy đoán kịp những diễn biến sắp xảy ra một cách chính xác, phần là vì chúng ta chưa có một cơ sở suy luận vững chắc nào được thiết lập, phần là vì ý nghĩa khá ẩn tàng, bí mật, đôi khi còn mang nhiều cách lý giải đối nghịch nhau. Chẳng hạn như câu: "Bát Kê thử ư tử địa" với hình cây kiếm chém đứt đầu tám con gà do cụ Trạng Trình ghi trên mộ bia dựng tại vùng Cổ Am gần từ đường họ Trần ở trang ấp vua phong cho Hưng Nhược Vương Trần Quốc Tảng. Nhân đi ngang vùng này và sau khi làm lễ trong nhà từ đường họ Trần, Trình quốc công đã dựng mộ bia và lưu lại câu sấm khó hiểu kia. "Bát Kê thử ư tử địa" có nghĩa là tám con gà chết tại chỗ này, cùng hình ảnh thanh kiếm chém đứt đầu tám con gà là một bí ẩn lớn cho mọi người trong làng. Không ai hiểu nỗi ý Ngài muốn nói gì. Mấy trăm năm sau, có một chuyện xảy ra, người ta mới suy nghiệm được ý của Ngài. Số là quan toàn quyền Pasquier, người Pháp, sang cai trị Đông dương, lúc ra về, máy bay chở ông bay ngang làng Cổ Am thì bị nạn. Dân làng chạy đến chỗ xảy ra tai nạn, lôi được quan toàn quyền Pasquier ra, đặt nằm trên ngôi mộ do ngài Trình Quốc Công dựng nên vì ngôi mộ ở sát ngay chỗ phi cơ rớt. Dân làng sở dĩ đặt quan toàn quyền trên ngôi mộ là vì chỉ nơi đó, đất khô ráo và bằng phẳng. Thoạt tiên, không ai biết người rớt máy bay là quan toàn quyền. Đến khi chính quyền địa phương tới nơi, cho biết, dân chúng mới vỡ lẽ, hiểu được cách chơi chữ của Trình Quốc công trong câu sấm của Ngài. Chữ Pasquier đọc âm theo tiếng Việt là Bát Kê. Dân Việt Nam thường gọi Pasquier là Bát Kê, nên câu sấm: "Bát Kê thử ư địa" không còn nghĩa: "tám con gà chết tại chỗ này" nữa, mà trở thành: "Bát Kê chết tại chỗ này", hay "Pasquier chết tại chỗ này". Thật là ảo diệu! Còn có hai câu sấm khác cũng của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, xác định thêm biến cố này. Đó là:

    "Giữa năm hai bảy mười ba
    Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây"

    Năm hai bảy mười ba là năm âm lịch nhuần hai tháng Bảy thành 13 tháng. Năm đó đúng là năm Pasquier bị chết. Còn câu thứ hai mô tả chính xác chuyện máy bay chở Pasquier, tức Bát-Kê, tức tám gà, bị bốc lửa lúc còn bay trên mây.

    Cái chết của Pasquier được Trình Quốc công tiên tri mấy trăm năm về trước đã là điều lạ lùng, mà nguyên nhân đưa đến cái chết của ông lại là điều khiến người ta vô cùng kinh dị. Trước khi bay về Pháp và bị tử nạn, toàn quyền Pasquier có ghé lại đền thờ Trấn Bắc đại tướng quân Hoài văn hầu Trần Quốc-Toản ở Cửa-ông, lấy trộm thanh gươm ở đó mang về. Thanh gươm này có tên là Dương-kiếm, cùng với Âm-kiếm thành một cặp tên là Âm-Dương song kiếm, do đức thánh Trần Hưng Đạo dùng quý kim đúc lúc chống giặc Mông-cổ. Tương truyền Âm-kiếm bị thượng tướng Trần Nguyên-Hãn đem trấn yểm long mạch của tổ tiên vua Lê, nên kiếm mất tích từ đó. Còn lại Dương-kiếm, Hưng Đạo Vương trao cho Hoài-văn hầu Trần Quốc-Toản và Hoài-văn hầu đã dùng kiếm đó giết chết thế tử Toa Đô trong trận Hàm-tử. Sau khi Hoài-văn hầu qui tiên, Dương-kiếm được đặt trên bàn thờ ngài tại Cửa-ông. Tương truyền Dương-kiếm rất linh thiêng, các danh tướng làm lễ mượn kiếm chống giặc đều thành công. Chẳng hạn như thượng tướng Trần Nguyên-Hãn đã mượn Dương-kiếm cắt đầu Liễu-Thăng trong trận Chi Lăng. Vua Quang Trung cũng dùng Dương-kiếm giết chết Sầm Nghi Đống và Hứa Thế-Hanh. Tướng Cờ đen Lưu-vĩnhthanks.gifhúc cũng mượn kiếm và nhờ đó lấy đầu đại úy Francis Garnier cùng đại tá Henri Rivière tại Cầu-giấy. Sau khi thành công, các danh tướng đều làm lễ trả kiếm lại đền thờ đàng hoàng nên không hề hấn gì. Quan toàn quyền, ỷ mình quyền thế nhất nước, đã ngang nhiên vào đền thờ chiếm đoạt thanh kiếm làm của riêng, khiến Hoài-văn Hầu hoặc quỷ thần bảo hộ kiếm giết chết. Dân Việt chúng ta, ở thời đó, ai cũng nghĩ vậy, nên càng kính sợ sự linh thiêng của Hoài văn-Hầu hơn. Từ đó người ta kéo về chiêm bái lễ lạy ngài rất đông. Theo Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ cho biết, sau khi toàn quyền Pasquier chết, kiếm báu vẫn được đưa về Pháp và lần lượt qua tay hơn chục người; nhưng người nào giữ kiếm cũng bị chết rất thảm khốc. Trần Đại Sỹ nghĩ rằng những người giử kiếm bị thảm tử như vậy có lẽ vì lời nguyền của Hoài văn-hầu Trần Quốc-Tuấn: "Kiếm này của giòng họ Đông-A, dùng để trấn quốc. Chỉ con cháu ta mới được giữ. Kẻ nào không phải con cháu ta, không dùng để tru diệt quốc tặc mà lưu giữ, thì sẽ tản hồn, hủy phách mà chết". Trần Đại Sỹ còn kể thêm một chuyện xảy ra dưới thời Đệ nhị Cộng hòa (1964-1973). Viên phi công Hoa-Kỳ bị bắn hạ sau khi oanh tạc Cửa-ông, gây hư hại đến 70%. Viên phi công này bị bắt vào tù và ở trong tù ông hóa điên, rồi chết. Sau 75, Cộng sản có đến phá khuấy đền, nhưng bị quỷ thần trừng phạt, đâm ra sợ, không dám đụng tới nữa. Sự linh thiêng của Dương-kiếm và đền thờ Cửa-ông cùng sự mầu nhiệm của câu sấm Trình Quốc-công để lại đã ghi chặt trong tâm tưởng những người con dân Việt yêu nước một niềm hãnh diện về tiền nhân, và một niềm tin vững chắc vào sự phò trợ của các ngài. Đất nước chúng ta tuy bị nhiểu nhương, khổ ách bởi thực dân Pháp và Cộng sản hơn hai thế kỷ nay vì ảnh hưởng của luật nhân quả trong việc cha ông chúng ta tiêu diệt Chiêm thành cùng Thủy Chân Lạp; song chúng ta vẫn tin chắc rằng một ngày rất gần đây, khi nhân quả đã trọn, đất nước sẽ hòa bình âu ca thực sự. Các sấm ký của Trình quốc công, của Nostradamus, và các bài giáng bút của Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ cùng công chúa Liễu Hạnh đều xác nhận điều này. Chỉ còn thời điểm là tùy thuộc vào sự suy luận thật sáng suốt của chúng ta vì dẫu sao thiên cơ cũng bất khả lậu và sấm ký chỉ nhằm trao cho người hữu duyên.


Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #34 - 02. Feb 2017 , 11:56
 
Trân trọng kính chào quý Diễn Đàn ,
Sau một thời gian dài Lam Sơn vắng mặt ( củng không nhớ là bao lâu ) nay việc công và việc tư củng tạm ổn định , nên ghé vào thăm trang nhà của Diễn Đàn Trung Học Lê Văn Duyệt , Nhân dịp đầu năm Đinh dậu , xin mến chúc tất cả Ban Điều Hành cùng quý anh chị em đã cùng nhau tham gia sinh hoạt , được nhiều sức khoẻ , van sự như ý.
Tiện thể xin cảm ơn chị Đậu Đỏ đã giúp đở trong việc tìm lại cách thức để vào thăm Diển Đàn
Lam Sơn
Back to top
« Last Edit: 02. Feb 2017 , 11:59 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
tuy-van
Gold Member
*****
Offline


Thành viên xuất sắc
2015

Posts: 10734
Thung lủng hoa vàng
Gender: female
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #35 - 08. Feb 2017 , 16:58
 
...

Năm mới em Tuý Vân thấy anh Lam Son vào đây sau 1 thời gian vắng bóng , em mừng lắm.
Năm mới và Lể Valentine năm nay , em kính chúc a nh được nhiều bình yên và mọi sự như ý muốn nhé.

...

Em TvMs
Back to top
 

hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #36 - 13. Feb 2017 , 01:06
 
Xin mời các bạn xem tiếp bài viết :

                     Cơ Trời Và Mệnh Nước

      CƠ TRỜI  VÀ VẬN MỆNH DÂN TỘC VIỆT NAM 

                              Lê Lam Sơn

Nói đến cơ trời , thì hầu như ai ai trong chúng ta vẫn thường nghe qua, từ những ngày rất lâu xa trong đời , cũng không biết tự thưở nào . Phần đông trong chúng ta , khi gặp chuyện nguy nan , đau khổ thái quá , đều ngước mặt lên bầu trời cao ( làm như có sẵn ở đâu đó trên trời , đang hiển hiện một Ông Trời đang sẵn sàng cứu giúp cho ta vậy) và kêu lên hai tiếng Trời ơi ! Ông trời hình như ở ngôi vị chí tôn , ở cao lắm , mà thực ra trong chúng ta củng chưa hề hay không hề thấy hay biết ông ấy ở nơi đâu nữa . Nhưng khi nói đến hai chữ liền nhau , thì chữ trời ở đây " tuy vẫn ngụ ngầm là trời cao , hay là bầu trời , , vì cơ đi với trời thì ý nghĩa hoàn toàn khác hơn .

Đây là điều mới lạ khi giải thích từ ngữ nầy trên tinh thần khoa học , mới lạ đối với người thường , nhưng không hoàn toàn mới lạ với những người nghiên cứu , học hỏi về một thứ lý thuyết , mà từ lâu gần như thất truyền, Chữ cơ nghỉa là máy móc , và chữ trời có nghĩa là bầu trời hay vũ trụ chung quanh quả đất của chúng ta . người xưa , khi quan sát bầu trời trên cao , nhìn thấy những hiện tượng , những sự kiện , xê dịch của tinh tú trên bầu trời , nên quan niệm về sự vận hành trong vủ trụ giống như một bộ mày vỉ đại , nên khi nói chử cơ " thì tiền nhân " gọi đó là guồng máy " Ngày xưa khi tiền nhân quan sát các sự chuyễn động của tinh tú , Sau một khoảng thời gian khá lâu ; Đã nhận thấy sự chuyển động của tinh tú quả nhiên có ảnh hưởng đến đời sống trên trái đất .

Người xưa mới mệnh danh ( đặt tên cho thế giới hiện tượng đó là : "cơ trời" hay sự chuyễn động của guồng máy . Ví dụ như quả đất tự quay chung quanh nó , và mặt trăng quay chung quanh trái đất . rồi trái đất và 5 hành tinh lớn vận chuyển theo quỹ đạo của mặt trời " ta gọi đó là Thái Dương Hệ " Bài viết nầy không đào sâu vào các mục đích nghiên cứu về Vũ trụ hay thiên văn học của Âu Tây . Mà chủ đích của người viết , nhằm chú tâm vào các biến chuyễn trên đất nước và con người Việt Nam . Nói như thế , không phải người viết có ý ngông cuồng hay ngạo mạn khi nói một cách lớn lối rằng nước Việt Nam đặc biệt vĩ đại nhất thế giới , người viết không có ý đó .

Suốt chiều dài cũa những trang Việt sử , được ghi chép , khi trải qua bao nhiệu sự kiện , bao nhiêu dữ kiện . Tiền nhân của chúng ta đã viết những trang sử bằng con tim , bằng khối óc , với mồ hôi , máu xương và nước mắt . Bài hát mà tôi nghe từ thuở người viết hãy còn tuổi thơ ấu : Tôi yêu... tiếng nước tôi ... Từ khi mới ra đời . Đất có Tuần , non sông có vận , Chữ tuần ngụ ý chỉ về thời kỳ ( theo người viết được hiểu ) và chữ Vận nghĩa là những biến đổi thay đổi xảy ra liên tục cho đời người , hoặc cho đất nước . Không hề có điều gì , sự việc gì xảy ra mà không có nguyên nhân , nếu không do con người do thiên tai dịch họa . Kinh dịch đã khẳng định điều nầy , thế nên có câu : Nhất Ẫm Nhất Trác Giai Do Tiền Định . Đời người có lúc thăng ( đi lên ) trầm ( đi xuống ) mà chúng ta thường nghe câu nói đầu môi : lên voi hay xuống chó .

Bài viết nầy không đi sâu vào lĩnh vực ngôn ngữ học , chủ đích của bài viết muốn trình bày về tam thế " ba thế " Thế quá khứ từ năm tháng đã qua , Thế hiện tại ; những sự kiện đang diễn ra trên đất nước , và Thế tương lai . Vị thế nướcViệt tương đối hơi đặc biệt ; Vị và Thế là hai điều khác nhau , vị tức là vị trí , và Thế là nơi dựa ( tựa ) vào , nói đến từ ngữ vị thế , tức có ý mượn lời lẽ trong Kinh Dịch để nói đến .

Người viết chỉ xin nói sơ qua mà thôi , vì khi bàn đến Kinh Dịch , chúng ta lại rơi vào mê hồn trận . Thế tương lai , là chuyện sẽ diễn ra trong một tương lai ( gần hay xa ) . Bài viết chẳng qua là sự tiếp nối các bài viết đã qua , và đã được trình bà con cô bác làng lưới ( mạng lưới internet ) . Nếu tính từ khoảng thời gian gần đây nhất .

Từ ngày Hải quân Pháp tấn công vào cửa biển Vũng Tàu năm Giáp Tý 1864 , cho đến năm Giáp Ngọ 1954 , khi quân Pháp thua trận Điện Biên Phủ , Và phải ký hoà ước tại Genève ngày 20/7/1954 . sau đó Pháp rút lui toàn bộ ra khỏi Đông Dương . Ngay từ việc nhỏ cho đến chuyện lớn là chuyện nước non , nếu có ý một chút , hay nếu những ai đã từng học hỏi , từng nghiên cứu về kinh dịch " nguyên lý học ", tất nhiên sẽ hiểu .

Hể có sinh ra tất nhiên sẽ có lúc chết đi , đó là quy luật vận hành của thế giới tự nhiên , sự vận hành diễn ra trong khoảng thời gian nhất định .Ta tính từ năm 1864 đến năm 1954 , tổng cộng cả thảy 90 năm . Trong đời người 90 năm là một quãng thời gian dài cả đời người .

Nhưng trong kinh dịch , nhất là trong cách tính vận hạn , mỗi tuần giáp là 10 can ( hay Thập can ) và có 12 chi , Nếu lập bảng tính Vận trên Cửu ( chín ) Cung Lạc Thư , ta thấy khi một nhóm sao di chuyển ( gọi là phi tinh hay sao bay ) di chuyển từ cung này ( vị trí trên không gian ) đến cung khác là 10 năm , nếu ta quan sát bằng mắt thường nếu di chuyển đi hết chín cung thì số năm sẻ là 90 năm .

Vì thế , sau ngày đổi đời ( 30/04/1975 ) có một số anh em quốc gia , những chiến hữu , những đồng đội cũ , và nhiều anh em khác bất đầu nao núng , vì thời gian trôi qua , kể từ ngày : Tháng tư là tháng tư nào , Rừng xưa cởi giáp quăng bào ngó nhau . " ý thơ Hà Huyền Chi" đến nay đã là 36 năm lưu vong , trôi nổi nơi đất lạ quê người . Viết đến đây , người viết nhớ đến tình cảnh của tiền nhân , ngày trước bỏ làng nước ra đi vào phương trời vô định , trước mặt là rừng núi mênh mông , sau lưng là đường xưa bít nẻo . Cùng ngoảnh lại mà cùng chẳng thấy , Thấy Xanh Xanh Những Mấy Ngàn dâu , Ngàn Dâu xanh ngắt Một màu , Lòng Chàng ý Thiếp Mối Sầu nào Hơn" Mượn lời thơ Chinh Phụ Ngâm Khúc , để gởi vào bài viết tâm tình của tiền nhân năm xưa , và của chính chúng ta hôm nay .

Từ ngày cởi chiến y đến nay đã 36 năm dài gần nửa đời người . Một phần đời cho Tổ Quốc , mười lăm năm sống lăn lóc với cuộc đời trần ai khoai củ , Hai mươi năm lưu vong nơi xứ người quả là dài , nhưng khi đi vào phần tính vận hạn đời người , củng như khi tính vận Nước , thì ba mươi mấy năm qua chỉ mới có ba tuần giáp ( mỗi tuần giáp có 12 chi X cho 3 tuần giáp = 36 năm , thành ra như một chớp mắt .

Lời xưa nói đời người tựa như bóng câu :" Vó Ngựa Hồng Thoáng Qua cửa Sổ " Rồi đây năm tháng qua nhanh , non nước tất sẽ đến kỳ khai thông bế tắc , người chủ nhân cộng sản ngu si dốt nát không khéo quản Trị , Điều hành tất nhiên sẽ phải về vườn đuổi gà cho vợ . Đó là số phận của người cán bộ đảng viên cộng sản cũ , ( chuyện nầy đã xảy ra bên nước Nga xa xôi ) , đời xưa gọi là Quả Báo Nhãn Tiền , Gieo Gió Tất Gặt Bão ; chuyện đời ta lo gì . Chủ đích của bài viết , nhằm thức tỉnh cho những ai đang hoang mang vì vận nước đang cực kỳ rối ren . chúng ta nên bình thản khi xem xét chuyện đời , cũng như chuyện nước non .

Như kinh dịch dạy : Hể âm thịnh dương suy , ngày xưa thể chế tự do dân chủ VNCH , chủ trương theo dương , nghĩa là nói gì , làm gì củng đều rõ ràng , điều nầy gọi là dùng Dương mưu , mưu cầu công việc có tính cách ích quốc lợi dân . Người cộng sản bắc Việt theo âm , toàn sử dụng âm mưu , tàng chứa bí mật , khi đã theo âm , làm việc âm , thì phần nhiều đều độc ác hại dân , hại nước . Giết hại chôn sống hơn 6000 ngàn người dân ở Huế , sau đó bắn giết tàn sát dân lành trên quãng "Xa Lộc Kinh Hoàng " từ ngày Tĩnh Quãng Trị thất thủ , khi người dân chạy bỏ nhà cửa vào Huế , vô số đồng bào đã bị cán binh cộng sản giết hại , họ giết dân không có vũ khí trong tay , như giết thú , cho thỏa mãn thú tính của loài quỷ dữ .

Dịch dạy âm hư , dương thực , dương minh bạch , âm đen tối . Từ trước ngày 30/4/1975 toàn miền bắc sống trong âm u , cho đến ngày cơ trời chuyển động , miền nam tự do thất thủ , cả nước sống trong sợ hãi oán hờn chồng chất , oán thù chồng chất , chất chồng lên kẻ cai tri dân gieo quá nhiều điều tàn ác , vì thế lẽ đời oan oan tương báo không sai .

Đây là người viết chỉ diễn dịch theo Lý Dích , chớ bản thân mình không bịa ra chuyện , người không làm điều ác độc , dối trá , thì ta không thễ vô cớ gieo tiếng xấu xa cho người , nay tội trạng đã rành rành , họ những người chủ trương tàn ác ( cho dù họ nhân danh chủ nghĩa nào ) thì họ không thể tránh được lẽ trời báo ứng .
Cho dù họ có tiền tài thế lực đương quyền , Chạy đi đâu củng không thể được ; vì lưới trời lồng lộng . Khi các thể chế độc tài dần dần sụp đổ , ở VN , Trung Hoa , chỉ còn lại chút tàn dư phản động cộng sản ( lời lẽ của họ khi chiếm miền nam VN ngày nào , nay trở lại với họ , ) qua đầu thế kỷ thứ 21 , sẻ chấm dứt hết chủ nghĩa cộng sản ( ngày nay là độc tài quân phiệt ) Điều nầy bà con đã thấy , không cần bàn thêm .

Bài viết nầy nhắn gởi đến Người Quốc Gia ngày trước hiện đang định cư ở ngoại quốc rằng , việc đời hể có lúc mất , thì sẽ có lúc được , có lúc buồn thì sẽ có khi vui ,người đã vượt lên trên thị phi phải trái tất sẽ không vui không buồn ; Nên nhớ Kinh Dịch đã nói : có khi ta rời nước đi tỵ nạn cộng sản thì củng có lúc ta sẽ hồi hương , bởi lẽ thể chế chính trị thì sẽ bị đào thải khi đã đến hạn kỳ , nhưng đất nước và dân tộc thì trường tồn . Người viết sau một thời gian dài , kể cả năm tháng còn phục vụ trong cuộc đời quân ngũ .

Khi đơn vị được nghỉ xả hơi , và lúc đồn trú nơi chốn tiền đồn , người viết vẫn thường xem sách vở đời xưa , người viết vẫn thường nghe những buổi phát thanh trên đài phát thanh , trong chương trình khuya với mục đọc truyện xưa . Những tấm gương xưa được ghi chép lại . Và người viết vẫn thường mang theo ba lô của người lính một ít sách loại gối đầu giường , đó là khoảng sau Tết Mậu Thân 1968 khi đồn trú tại Hậu Nghĩa .

Những trang sách cũ, chuyện người xưa , vẫn còn phảng phất đâu đây , và cũng nhờ chút vốn liếng qua sự đọc sách , nên người viết dù trải qua những cơ cực của đời người , cho nên có thể vượt qua được nhiều nghịch cảnh thử thách trên đời .

Vận hạn cua Đất Nước và của Dân Tộc Việt Nam , đã đến hạn kỳ tai qua nạn khỏi ,thoát được tai trời ách nước . Sau quảng thời gian dài , lạc lối trong những tác phẫm kinh dịch , nay người viết đã có một ít kiến thưc , và những sự trải nghiệm qua cuộc sống khi áp dụng những điều học hỏi qua kinh dịch và mang theo làm hành trang . Người Viết đã dùng những sự học hỏi nơi Lý dịch đem vào nhiều lĩnh vực ; điều hành quản trị , đôi khi đem ứng dụng vào lĩnh vực quân sự và chính trị .

Viết ra điều nầy , người viết không có ý tự khoe khoang hay tự cao tự đại tự mãn ; Mà người viết chỉ muốn dẫn chứng về sự ứng dụng áp dụng lý thuyết kinh dịch vào đời sống . Lý dịch luôn luôn chỉ rõ cho chúng ta thấy những sự kiện hiển nhiên trong đời sống . Dịch không bao giờ sai , chỉ có điều chúng ta tính chưa tới , tính toán chưa cặn kẽ thế thôi . Dòng lịch sử của Dân Tộc Việt Nam , khi thăng khi trầm , khi yên ổn lúc lâm nguy . Có lúc tưởng chừng như dân tộc mãi mãi đọa lạc trong ách nô lệ ngoại bang . Vậy mà chừng khoảng vài trăm năm , lại nổi lên một vị anh hùng dân tộc , đứng lên lãnh đạo toàn dân , quật khởi đánh đuổi quân giặc ra ngoài bờ cõi .

Những ai đã từng trải qua thời trẻ theo học trước ngày 30/4/1975 , đều chưa quên những bài học về lịch sử của dân tộc . Sau nầy , khi miền nam thất thủ , khi cộng sản chủ trương ngu dân , nên bóp méo lịch sử , và mưu định làm cho ngu dân , hầu dễ cai trị , vì lúc bấy giờ nhân dân sẻ thành đàn cừu non , kẻ chăn cừu chính là thành phần cán bộ đảng viên cộng sản chăn đuổi .

Tấm gương bán nước vì cầu vinh , của Hồ Quý Ly cùng Lê Chiêu Thống , sau nầy qua tàu , đành chịu nổi nhục mất nước , làm thân tôi mọi cho đến chết . Nhưng ý định thâm độc của đảng cộng sản không bao giờ thành tựu

Kinh dịch đã cho thấy , Vật cùng tắc phãn , nhân cùng tắc biến , Nghĩa là mọi sự , mọi vật , vận hành theo quy trình vòng tròn , khởi đầu từ điểm 1 rồi chuyển động theo vòng tròn , khi chấm dứt ở điểm 12 , rồi quay trở lại , khởi điểm 1 để bắt đầu vòng xoay mới . Người khi đi đến thế  cùng lực tận , tất nhiên sẽ có biến động ( theo lẽ ta phải nên nói động biến nhưng vì khi nói động biến ta nghe không được êm tai ) quy luật chuyễn động "có động thì sẽ có biến đổi " .

Vì địa thế của miền Nam Việt Nam , là địa thế rất đặc biệt . Sự hùng mạnh về uy thế của Thăng long thủ đô Hà nội chỉ có tác dụng 500 năm trước , bằng chứng hôm nay uy thế đó không còn nữa ; Hiện nay trung ương đảng cộng sản chỉ toàn những thành phần ăn hại đái nát .chết nhát khiếp nhược , và không phải là thành phần tài năng đặc biệt , nên Hà Nội thuần phục người Tàu . Hà nội đang đu dây giữa hai cường quốc tàu và Mỹ . Nhưng hai cường quốc nầy lại không bao giờ tin tưởng ở con người bất nhân , bất nghĩa , bất trí và bất tín , đối xử với dân chúng lại phi lễ .

Hiện tượng người dân lầm than đói khổ, không thể che đậy bằng cách xây cất nhà cao tầng , cũng không thể dấu diếm chuyện dân Oan Khiếu kiện nhà nước . Nguyên lý cho thấy khi nào nhà nước lấy bạo lực để đàn áp người dân , sự đàn áp càng khốc liệt , thì sự chống đối gia tăng , như khi tức nước vỡ bờ . cuối cùng sẽ xảy ra cuộc cách mạng của toàn dân . Ngày đó sẽ không xa .

Theo lý dịch ta thấy hể âm thịnh dương suy , nhưng thời kỳ nầy chế độ cộng sản gian ác theo âm tà , mà âm tà cực thịnh , thì dương sinh , khi cộng sản tuyên bố đổi mới , nhưng đổi mới về đâu mới được , chẵng qua là đảng ccộng sản bí lối chơi chữ , đổi mới nghĩa là trở về cái nền móng ngày trước tức là vay mượn ý niệm cấu trúc " Hạ Tầng Cơ sở Hành chánh thời Việt Nam Cộng Hoà " Bây giờ đã quá trể đối với căn bệnh ung thư như dịch viết : ngoại giao với tư bản thì bế tắc , qua chuyện vay mượn hàng tỉ us , nay không trả được đó là bất tín nhiệm , khi bang giao với nhau lấy sự thành tín làm đầu .

Nay không giữ được lòng tin của người khác , thì không thể tiếp tục bang giao , đó là biểu tượng bên ngoài bế tắc không lưu thông , tượng quẻ Cấn , ngưng , dừng , tĩnh , đình chỉ . Bên trong dối trá , cán bộ đảng dối trên lừa dưới , tượng quẻ Tốn , Cấn bên ngoài , tốn bên trong ; Cấn vi Sơn , Tốn vi Phong , tên quẻ là Sơn Phong Cỗ , tức là Ung Thư Cỗ Trướng , con bệnh hết thuốc chữa , đã đến thời kỳ cuối cùng , Nay Tư bản cho toàn thuốc an thần, morphine , chỉ giảm đau nhức , nhưng không chữa trị nữa .

Cái chết của đảng cộng sản và ngụy quyền bán nước sẽ xảy ra trong ngày giờ mà thôi . Ngày trước ta còn tính năm tính tháng , nay ta có thể tính ngày giờ. Không thể đảo ngược được . Hãy nhìn thế giới sự kiện như là điều hiển nhiên , không lạc quan , không bi quan , nhìn sự dãy chết của cộng sản như là sự đương nhiên . Dịch viết ; trong tình hình nầy , con phải thay đổi lề lối cách làm của cha , bằng cách thay đổi toàn thể guồng máy , và không được vá víu bậy bạ .

Phương cách cuối cùng chỉ có mỗi một việc nên làm , là tiễn đưa đảng cộng sản và ngụy quyền gian ác về địa ngục mà thôi . Rồi sau đó thay cũ đỗi mới , chớ còn tiếp tục mập mờ đánh lận con đen sẽ không có hiệu quả gì hết , mà còn tệ hại hơn nữa .

Dịch còn khẳng định rằng âm cực thịnh thì Dương sinh , bởi lẽ sau tháng chín âm lịch là quẽ Sơn địa bát , nghĩa là hết dương để chuyển qua âm , đến tháng 10 âm lịch tháng Hợi , đó là quẻ Khôn , thuần âm , khi đã toàn âm , thì kế tiếp một hào dương sinh ở tháng 11 tức là quẻ Địa Lôi Phục , Phục là phản phục tức là đi hết vòng thì trở lại ,, sự tuần hoàn luân chuyển không sai chạy .

Trong quẻ thuần âm đã thấp thoáng xuất hiện dương , người viết không thễ nói rõ trên diễn đàn về hiện tình , điều gì đã và đang xuất hiện manh nha chuẩn bị cuộc tổng xuống đường biểu tình và nhân đó tiến hành lật đổ đảng cộng sản và giải tán ngụy quyền . Cho dù không nói rõ , nhưng căn cứ theo quẻ dịch ( do nơi tình thế mà ta xác định được ta đang ở quẻ nào) , vì quẻ tức là hoàn cảnh hay tình trạng hay thời kỳ mà ta hiểu được điều gì đã và đang xảy ra . khi đã xác định được tình thế , thì ta đã biết được kết quả . vì Dịch việt quẻ như thế nào thì ta như thế ấy .

Người viết còn nhớ ngày còn thơ ấu , khi theo học Tiễu Học Chí Hoà , hàng ngày đi đến trường , đều theo con đường hẻm nhỏ ; qua các ngôi nhà có tre làng , ngày nọ khi đi ngang qua một ngôi nhà , nghe loáng thoáng tiếng người trò chuyện : lời nói vẳng bên tai đến nay vẫn còn nhớ : Ngô Đình Diệm nguy rồi , lúc đó vào khoãng 1955 hay 1956 ; vì người viết mới học lớp Tư ( bây giờ là lớp Hai ) . không hiểu sao các cụ ( tiếng người Bắc nói chuyện với nhau ) lại đoán biết trước sự kiện xảy ra trong năm 1963 , Họ là thầy bói dịch hay là nhà tiên tri

Các nhà tiên tri là chuyện khác, vì họ biết trước nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc sống có liên quan đến sinh mệnh người khác , còn nhà bói Dịch thì do nghiên cứu , sau đó áp dụng nguyên lý học , nên họ cũng giống nhà Tiên Tri . Khi quý bà con cô bác xem bài viết nầy , có tin theo hay không , đối với người viết không có chi quan trọng .

Vì người viết không viết vì tư lợi , vì bất kỳ một đảng chính trị nào , cũng không viết để thổi phồng quảng bá tên tuổi của mình . Khi bản thân sống ẩn dật nơi thôn dã , có chút ít phương tiện đấp đổi , không đến nổi phải hành nghề bói toán kiếm tiền độ nhật qua ngày .,.

Tiếp theo sau phần một , là phần mở bài . Sau đây là phần khai triển vào chiều sâu của bài viết . Trở lại nội dung chính của phần một . Thường thường ở đời , không hề hay chưa hề có sư việc gì xảy ra mà không có duyên cớ . Ngay từ việc nhỏ như việc của một cá nhân , hay việc của một gia đình , cho đến các sự kiện trọng đại trong một nước .

Thảy thảy đều có nguyên nhân sâu xa . Đây chính là điều hiển nhiên , mà chúng ta đều nhận thấy , đó chính là việc đất nước bao nhiêu lần thay đổi chế độ cầm quyền . Thành thử câu : Thể chế chính trị có thể  thay đổi nhưng Đất Nước và Dân Tộc thì trường tồn . Không có bất kỳ một cá nhân nào biện luận khác đi được ; cho dù con người đó có uyên bác đến đâu chăng nữa ,
Thế nên đời xưa các vị nguyên thủ quốc gia tham quyền cố vị , mới bày cho kẻ thuộc quyền tung hô : vạn .. vạn ... tuế . Vạn là 10 ngàn nhân cho vạn là 10000 X 10000= đó là tâng bốc vị vua chúa đó sống mãi không chết , như cán bộ cộng sản tung hô vị chủ tịch của họ là hồ chí minh ; như câu hồ chủ tịch muôn năm vạn tuế , nghĩa là muôn năm ,

Chữ muôn năm được bàng dân thiên hạ thêm dấu huyền cho oai như : hồ chủ tịch muôn năm thành ra hồ chủ tịch muốn nằm . và nhân dân tặng cho bác hồ thêm câu : hồ chủ tịch sống mãi trong quần chúng ta . và hơn nữa , có ông thầy giáo dạy học trò từ câu nói sơ xuất : " các em hãy đem hình bác lộng kiếng " vì câu nói đó mà ông thầy giáo đáng thương vô nhà đá ngồi gỡ lịch dài dài . vì chữ lộng kiếng được đám cán bộ diễn dịch thành liệng cống .
Như câu văn : Hể đầy thì tràn , tức nước ắt vỡ bờ đấy thôi . Đó là lẽ muôn đời , Dịch đã khẳng định , quy định , thế giới sự việc đi đến một giới hạn nào đó sẽ có" biến đổi " Khi hồ chí minh nói : sông có thể cạn , núi có thể mòn , song chân lý ấy không bao giờ thay đổi , chính là ông ta ký cóp , đạo văn câu danh ngôn từ Kinh Dịch , dịch nói : sự biến đổi thay đổi trong đời sống chính là quy luật bất biến trong trời đất ; ông ta mượn lời danh ngôn và đổi thành lời ông ta , cho có vẻ mới . Làm chính trị mà tâm địa gian tà thì chỉ là trộm cướp , ông ta liên kết đất nước và dân tộc cùng với đảng cộng sản ( cái quái thai ) là một , tức là " number one " tàu nói là số dách . chuyện ông ta đạo văn ( đạo đây là trộm đạo ( ăn trộm , ăn cướp ) không có ai có thể sống mãi được . cũng không có chủ nghĩa hay chủ thuyết nào trường tồn vĩnh viễn . Kinh nghiệm cho thấy khi cộng sản nói gì , ta nên hiểu ngược lại , thì hiểu họ sẽ làm gì .
Dịch cho ta thấy đạo lý , chân lý bất biến . cho nên không sai , vậy thì chỉ vì ta không thông suốt lý lẽ , nên ta làm không đúng , thế thôi . Từ năm Giáp Tý 1864 cho đến năm 1954 Pháp đến chiếm Đông Dương , Việt ,Miên ,Lào . cho đến khi người Pháp rút khỏi Đông Dương , tính khoãng 90 năm , Rồi sau đó nước VN bị phân chia ra thành hai phần , tại vĩ tuyến thứ 17

Ta đã thấy tượng hình của quẻ dịch , vì nước Việt có 3 miền ( tuy do Pháp chia ra để cai trị ) mà sau hiệp định Genève ( 20/7/1954 ) miền Nam VN lại chiếm hai phần ba lãnh thổ , còn lại miền bắc cộng sản có một phần , như vậy 1 trên / 2 dưới , Xếp theo quẻ Dịch thành ra Càn 1 trên , Đoài 2 ở dưới , thành quẻ Thiên Trạch Lý , quẻ Lý Tức là hợp chất âm dương kim . nghĩa của quẻ là cứng vì là hợp kim , Thiên trạch lý là nhỏ theo lớn , tức VN bị lệ thuộc vào thế lực của ngoại bang .

Dù theo chủ thuyết cộng sản hay quốc gia , Nước VN tồn tại dưới ảnh hưởng của ngoại bang , Dịch quyết ; dương trên âm dưới là tượng bị đè nén , đè nén mãi thì đảo ngược thành Trạch Thiên quải ; quải là Quyết định , là dương trưởng thành và tiêu diệt âm , âm sẽ bị hòa hợp theo dương .
Quẻ trạch thiên quải từ Khôn mà ra , quẻ khôn có sáu hào âm , khôn thịnh vào năm thái tuế , khôn tức năm Đinh hợi 2007 , niên vận lưu thái tuế tại khôn , nên Khôn làm chủ quản . khôn thịnh nghĩa là âm thịnh , mà khôn tượng trưng cho dân chúng , ta thấy các vụ khiếu kiện bùng lên vào năm Đinh Hợi 2007 . quẻ khôn có 6 hào mỗi hào là 6 năm , dương cữu ( 9 ) âm lục ( 6 ) quẻ khôn đến hết là 36 năm .
Càng ngày các vụ thưa kiện của dân chúng bùng lên ban đầu ít sau nhiều hơn . Hiện nay hầu như lan tràn , nhà cầm quyền như bất lực , nhà cầm quyền bị đặt trước tình thế khó sử , vì sử ép dân sẽ không được , mà không sử ép thì chính nhà cầm quyến là kẻ có tội .
Khi người dân có lỗi thì chính quyền quở trách , nếu có tội thì bị pháp luật trừng phạt , nhưng ở đây lại ngược đời , kẻ phạm pháp luật lại chính là người đại diện pháp luật , khi người đại diện pháp luật phạm luật thì ai sử ? Người làm việc ác thì trời sử , nhưng tới phiên trời làm ác , thì ai sử , như vậy lý lẽ đương nhiên cho thấy chính dân sẽ xét sử trời , bởi thế ta nghe nói người dân thế trời ; đó là câu ý dân là ý trời xét sử nhà nước , tức là ngày giờ đó , sẽ có cách mạng bạo lực . chúng ta nên nhớ vấn đề của nước VN , hoàn toàn không thể dàn xếp ôn hoà để thay đổi không đổ máu như kiểu các nước tư do dân chủ , ở các quốc gia đó người dân dùng quyền công dân ( Dân Quyền ) để tỏ ra tín nhiệm hay bất tín nhiệm chính phủ . Đàng nầy ở đất nước khốn khổ , khốn nạn ( lại chính là quê hương thân yêu của chúng ta ) không thể có chuyện thay đổi chính trị một cách ôn hòa được .
Khi nói đến Cách Mạng Bạo Lực , thì đây không phải là ý riêng hay chủ trương hay quan điểm của người viết . Mà chỉ là sự quan sát và mang ra phân tích mổ xẻ cho bà con làng lưới xem chơi . Sở dĩ người viết đề cập đến Cuộc Cách Mạnh Bạo Lực , để chỉ ra quan điểm của nhà cầm quyền ( hay hiện nay gọi là ngụy quyền bán nước ) đảng cộng sản VN và bạo quyền , dám thách thức toàn dân VN dám làm gì họ , khi tiếp tục cai trị bằng bạo lực , bất chấp công luận và dư luận quốc tế .
Vấn đề người dân VN có dám làm gì hay không thì trong ngày gần đây đảng cộng sản và toàn thể ngụy quyền bán nước sẽ được thấy , và chúng ta cũng sẽ mục kích nhiều trò vui lắm , sắp và sẽ xảy ra trên quê hương . Quê hương là của chung và Tổ Quốc Việt nam không phải là sở hữu tài sản của riêng cá nhân nào , hay đảng phái chính trị nào . Thực tình mà nói về vận mệnh đất nước , là chuyện hết sức lớn lao . nói đến thay đổi vận mệnh một cá nhân còn khó khăn , huống hồ chi đến chuyện nước non .

Khi nói đến vận mệnh của đời người , chính bản thân người viết từng có ít nhiều kinh nghiệm bản thân ; Trong cuộc sống , nhiều lúc bản thân gặp quá nhiều khó khăn khổ nhọc . Rồi cũng ước mong sao cho sự cực khổ qua mau , nhưng ước mơ là một chuyện , còn điều mong ước có xảy ra hay không thì lại là điều khác .

Nhưng luôn luôn , người viết đều thấy , những gì mình mong ước , cũng sẽ xảy ra không sớm thì muộn . Có điều là bản thân mình không có sức chịu đựng mà thôi . Với người viết , đức tính kiên nhẫn , và nghị lực sẽ là yếu tố chính , giúp bản thân vượt qua được tình thế và hoàn cảnh khó khăn .
Cũng có lần , người viết lo vận động về giấy tờ hành chánh cho một người thân , xin nhập cảnh vào xứ Pháp , sau bao nhiêu thời gian ,( Hồ sơ xin nhập cãnh bị từ chối ) vậy mà không vẫn hoàn không , người viết đã có nhiều kinh nghiệm về điều nầy .
kinh nghiệm cho ta thấy rằng , mỗi cá nhân đều có số mệnh riêng , đôi khi có sự trùng hợp , như người dân trên hai quần đảo : Trường Kỳ và Quang đảo của Nhật ( Nagasaki và Hirosima ) nơi nhận lãnh hai trái bom hạt nhân nguyên tử . Khoảng 600 ngàn người dân vô tội bị giết chết , lẫn thương tật , đó là sự cộng nghiệp . Điều nầy ta sẽ bàn ở một bài viết khác , bài viết nầy chỉ nêu ra những sự kiện , để quý vị có thể liên kết được nội dung và ý chính của bài viết

Sau thời gian dài học hỏi và nghiên cứu về kinh dịch , mới hiểu được lẽ đồng ( cùng , giống như nhau ) dị ( sự khác nhau ) vì thế khi sinh ra trên cùng dãy đất liền , cùng chung quê hương , nhưng ở các tỉnh, thành phố khác nhau . Tuy cùng chung cha me sinh ra , nhưng tâm tính trái khác nhau . nói gì đến sự không cùng gia đình , không cùng cha mẹ , tuy sinh cùng năm , cùng tháng cùng ngày giờ , song lại khác nhau về tên tuổi , về quê quán v...v.. Thành thử khi muốn thay đổi cho đời bớt khỗ hơn , thì ta phải chịu sự tác động của quy luật vận hành của thế giới tự nhiên .
Giống như ( ta hãy mường tượng ra trước mắt ta là một trục quay ) trục quay đó to lớn , và khó chuyển động , khi trục quay theo chiều thuận , ta không thể làm cho cái trục đó quay ngược chiều , trái lại khi quay theo chiều nghịch ( ngược ) được , Cái trục đó sẽ quay theo chiều thuận hay nghich tùy theo thời hạn , như ban đêm , một đêm có 6 giờ ( âm ) 12 giờ dương .
Ta đang ở vào giờ nửa đêm , mà lại muốn mau chóng hết đêm , thì không thể nào được . Ta phải chờ cho hết đêm mới thấy được ánh sáng ban ngày . Do đó khi đi sâu vào hệ thống Dịch , ta mới hiểu thấu được ý nghĩa của chử Thời . Bởi thế nên chuyện nước non mới được người xưa mệnh danh là chuyện " Quốc Gia Đại Sự " ,
Chuyện đời tư của một cá nhân khi mong muốn thay đổi đã khó khăn , huống hồ chi là chuyện nước chuyện non . Người xưa hay nói đến lời : dời sông lấp biển , ý muốn nói đến những chuyện lớn lao chỉ có trời ( ý nói ) hay thời cơ thuận lợi , thì người ta mới làm được mà thôi .

Thường thường , khi đọc Dịch hay xem dịch , người ta xem đó là sách triết , hay sách dạy bói mà không hiểu ý của tiền nhân khi bày ra , chính là ý kiến tích cực . 
Trỡ lại chuyện nước non là chuyện trọng đại , nên trong 64 quẻ dịch , có hơn phân nửa đề cập đến chính trị , phần nhiều Dịch đều có lời khuyên những điều ta nên làm , điều gì không nên làm . Nhất nhất đều có sự chỉ dẫn cặn kẽ .
Khi xem Kinh Dịch , ta gặp được sự dẫn giãi tận tình , tựa hồ ta nghe lời người tâm phúc . Bởi thế nên đời xưa những bậc kỳ tài nổi danh trong thiên hạ thường được thọ giáo nơi nghiêm môn .
Thường thường , những bậc tài danh đó khi chưa gặp thời được thế , họ vui với cuộc sống đạm bạc nơi chốn hang cùng , ngõ hẹp , sống khuất mình , không phiền hà , không câu nệ khi thất cơn lỡ vận . Khi gặp thời tạo được thế , họ xuất hiện giữa đời , đem chút kiến thức mà họ lãnh hội được qua Kinh Văn , mà ra đời  giúp dân giúp nước .
Khi đất nước và dân tộc lâm cơn bỉ nạn , hầu như nhân tài biến mất , vì như Kinh Dịch viết quẻ Thiên Địa Bỉ , Bỉ nghĩa là cực khổ, Lời thoán nói : Thiên Địa Cách Ly Hiền Nhân Ẩn
Cực khổ mà không thể kêu than được , Thiên Địa Bỉ là một trong 64 quẻ Dịch . Quẻ là một trạng thái , một thời kỳ , một hoàn cảnh . nên trong Bốc phệ nói : quẻ như thế nào thì thân ta như thế ấy . Ta thường nghe nói :" Hết Cơn Bỉ Cực , Tới Hồi Thái Lai " . Có ai trong chúng ta hiểu được Bỉ và Thái là hai quẻ trong 64 quẻ Dịch . Quẻ Thiên Địa Bỉ : chỉ về thời kỳ khổ nạn , và quẻ Địa Thiên Thái chỉ về thời kỳ mọi sự thông suốt , nên người dân được hưởng thái bình thực sự no cơm , ấm áo , chớ không phải thứ hoà bình bánh vẻ ở VN sau 30/4/1975 .
Các câu khẩu hiệu trơ trẽn như ( diện mạo của cán bộ đảng viên cộng sản ) : Độc Lập . Tự Do . Hạnh Phúc . Hiện tại đất nước Việt Nam chẳng có độc lập , vì muốn làm bất cứ điều gì , thì Trung ương đảng cộng san VN lại phải bay qua Tàu lạy Bắc Kinh để nhận chỉ thị .
Người dân chẳng có tự do , nếu có chăng nữa thì người dân chỉ được tự do làm theo lời đảng dạy , nếu trái lời thì vào nhà tù . và hỡi ơi , làm sao người dân đen có hạnh phúc , khi mà cuộc sống có mắt như mù , có tai như điếc , có miệng như câm , và mọi thứ đều bị đảng cộng sản và đám cán bộ cao cấp tước đoạt đến đồng bạc và hơi thở cuối cùng .
Dịch củng dạy rằng thời Thái ta đem công sức ra giúp đời , giúp dân , giúp nước . Thời Bỉ nạn : Thiên Địa Cách Ly , Hiền Nhân Ẫn , Khi mà nhà cầm quyền dùng chính sách bạo ngược để cai trị , thì ta đi lánh nạn . Chữ người hiền ở đây không có nghĩa hiền lành như ta vẫn thường hiểu . mà chúng ta phải hiểu khác hơn , đó là : người trí thức . người có kiến thức .
Vì đối với cộng sản , có ba đối tượng là kẻ tử thù của chế độ ( ngu dân ) đó là Trí ( thức ) Phú ( giàu có hay gọi theo cách của cộng sản ) tư sản , và Hào là viên chức chính quyền cũ .
Sau 30/4/1975 . cộng sản đã lừa phỉnh gần 400 ngàn quân dân cán chính vào trại tập trung ( centre Concentration ) không xét xử, Lưu Đày Kiêm Biệt Xứ . Người hiền thường thông hiểu được thời thế . nên đã sớm lánh nạn dữ . lời xưa nói : Người Thức Thời Mới Là Trang Tuấn Kiệt . Thành ra đời xưa nói thế , nhưng đời nay lại không hiểu , vì thế nên thân tăm bị đày đọa oan uổng qua một thời gian dài trong trại tù xã hội chủ nghĩa .
Ta thấy dã tâm của cộng sản khi dồn dân quân thời VNCH vào nhà tù đó là tiêu diệt và thanh toán cho hết sạch tinh hoa của miền nam Tự Do . Để cho họ dễ bề thao túng , và tiện ban hành chính sách ngu dân , cho miền nam giống như miền bắc . Có nhiều cách lấy quẻ Dịch để xét đoán sự việc , đơn giản ở chỗ xem tình thế ta lấy quẻ dịch . Ví dụ như : Dinh Độc Lập , hay Phũ Tỗng Thống . ở vị trị trung tâm ( Dịch gọi là Trung ương hay trung cung ) " trung cung là cung ở trung tâm "
Từ sau ngày 30/4/1975 . Hà nội không dùng dinh Độc Lập làm nơi trú ngụ đại diện cho Thũ phủ Miền Nam VN , họ tưởng như thế là họ khôn ngoan , nhưng đó chính là mầm loạn từ đó sinh ra . Một là họ tin theo " Phong Thủy Địa Lý " nửa mùa . Thâm ý của cộng sản Hà Nội là sau khi diệt hết tinh hoa của miền nam tự do , họ cố tình để cho miền nam ở trong tình trạng vô chủ . Lời xưa nói : Hể tham thì thâm ? sau 36 năm cai trị , họ thanh toán tiêu diệt hầu hết người miền nam có tài năng thực sự , sau đó dựng lên một mớ lãnh tụ ba phải , như Phan Văn Khải , Nguyễn Minh Triết , Nguyễn tấn Dũng , Trương Tấn Sang , Quý vị chắc hẳn đã xem qua Youtube . và nghe cách nói chuyện của người lãnh tụ cộng sản, ăn nói ngô nghê; quê mùa dốt nát , như Nguyễn Minh Triết , Phan Văn Khải . Chính người viết đã cười bò lăn ra , khi xem Nguyễn Minh Triết nói  Việt nam Ta ngủ , Cu ba thức , hai nước canh hai đầu thế giới , canh cái mẹ gì mà canh .

Khi nhìn những khuôn mặt cán bộ cao cấp trong đang cộng sản , đứng trên bục , tay cầm micro , miệng phát ra những lời nói ngô nghê , những lời nói vô tội vạ , ngô không ra ngô , khoai chẵng ra khoai . Đã cho thấy hiện trạng của đảng cộng sản ngày nay thật sự thê thảm , không còn sáng kiến , Bỡi lẽ đảng trưởng hồ chí minh , đã tạo ra một đám cán bộ bù nhìn , quen vâng dạ , dể sai bảo , không bao giờ dám cãi lại lệnh trên Nên ngày nay chính là kết quả tất nhiên . ta thấy rằng nhân quả đồng hành . khi không còn sáng kiến , có nhưng không dám hay không quen sữ dụng , thành thử khi phải đối đầu với tình thế rối rắm khi đối mặt với các cường quốc như Mỹ , và kẻ thù muôn năm , vừa tàn ác , vừa thâm độc như Tàu .

Ngày trước , khi Hồ con sống , đó là thời của Hồ , ông ta gian manh quỷ quyệt , ( nên người Pháp mới gọi ông ta là Cáo già Hồ Chí Minh ) , ông ta mới thừa mưu mô để đu giây trên chính trường , đu giây giữa Nga và tàu , thêm Pháp vào đó , khi người Mỹ xen vào Đông Dương , khi ông ta bày ra cái gọi là Việt Minh hầu liên kết các thành phần yêu nước thành một cái Thế , và dùng công sức của toàn dân , để hợp thành Lực , có thế , Lực và được thời , nên Hồ mới đạt được mục đích tóm thâu thiên hạ , nhưng vì tâm địa bất chính , khi Hồ chí Minh lộ thủ đoạn qua việc thanh toán giết hại người của các đảng phái quốc gia . Từ đó mầm móng suy vong đã bắt đầu .

Phương Đoài Tiết Hạ  2013 Lam Sơn họ Lê

Lamsonparis2016@gmail.com
Back to top
« Last Edit: 13. Feb 2017 , 01:09 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: PHONG THUỶ , SẤM KÝ VÀ MỆNH NƯỚC
Reply #37 - 03. Dec 2017 , 14:04
 
Bài viết nầy được dời từ mục Đầu Năm nói chuyện bói toán , dời về đây , cho bớt một mục và thêm bài viết vài mục Phong Thuỷ Sấm Ký và Mệnh Nước

Nhân dịp xuân về, xin gửi đến các bạn bài viết cuả Ông Nguyễn Phú Thứ ,
Trích tác phẩm Tử Vi và Địa Lý Thực Hành
của Hàn Lâm Nguyễnthanks.gifhú-Thứ) 

Sau khi năm Đinh Hợi chấm dứt, thì đến năm Mậu Tý được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm thứ tư, 06-02-2008 để cầm tinh đến 24 giờ ngày 25-01-2009. Năm Mậu Tý này thuộc hành Hỏa và mạng Tích Lịch Hỏa tức Lửa Sấm Sét, năm này thuộc Dương, có can Mậu thuộc mạng Thổ và có chi Tý thuộc mạng Thủy.

Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành,thì năm này "Can khắc Chi" tứcTrờ ikhắc Đất. Bởi vì :"Mạng Thổ = Mậu khắc mạng Thủy = Tý" (mạng Thổ tức Trời được khắc xuất, mạng Thủy tức Đất bị khắc nhập). Do vậy, năm này xem như tổng quát rất xấu, bởi vì bị Trời khắc Đất giống như các năm : Giáp Tuất (1994), Nhâm Ngọ (2002) đã qua, xem như tuổi xấu nhứt của hàng tuổi Tý, chớ không phải người đời cho rằng tuổi có Can là Mậu là không tốt hết đâu. Bằng chứng các tuổi như : Mậu Ngọ (1918 - 1978), Mậu Thìn (1928 - 1988), Mậu Tuất (1958 - 2018)và Mậu Thân (1908 - 1968. Được biết năm Tý vừa qua là năm Bính Tý thuc hành Thủy, nhằm ngày thứ hai, 19-02-1996 đến 06-02-1997.

Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2008 = 4645, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Mậu Tý 2008 này là năm thứ 25 của Vận Niên Lục Giáp 78.Năm Mậu Tý có người thắc mắc, muốn biết năm này tuổi ảnh hưởng vận mạng như thế nào? Vậy chúng ta thử phân tách năm Mậu Tý, thì thấy ba việc phải làm như sau:
 
•      1.- Đối với Mạng ảnh hưởng như thế nào?
 
Bởi vì, năm Mậu Tý thuộc mạng Hỏa sẽ đưa đến thuận hạp hay khắc kỵ với mọi người như thế nào?
Xin trích dẫn như dưới đây :
 
- Những ngưởi có tuổi cùng mạng Hỏa như : Bính Dần (1926 - 1986 ...), Đinh Mão (1927 - 1987 ...), Giáp Tuất (1934 - 1994 ...), Ất Hợi (1935 - 1995 ...), Mậu Tý (1948 - 2008 ...), Kỷ Sửu (1949 - 2009 ...), Bính Thân (1956 - 2016 ...),Đinh Dậu (1957 - 2017 ...),Giáp Thìn (1904 - 1964 ...),Ất Tỵ (1905 - 1965 ...),Mậu Ngọ (1918 - 2078 ...) và Kỷ Mùi (1919 - 1979 ...).   
Xem như tương hòa với năm Mậu Tý bởi vì có cùng mạng Hỏa cho nên năm này có đời sống an cư & lạc nghiệp sẽ gia tăng, phát triển về mọi mặt mt cách bình thường, vì không bị khắc kỵ. Phàm ở trên đời, nếu có đời sống ổn định bình thường, thì xem như tương sanh tốt đẹp   
Tuy nhiên, những người có mạng Âm Hỏa như tuổi : Đinh Mão, Ất Hợi, Kỷ Sửu, Đinh Dậu, Ất Tỵ và Kỷ Mùi, thì tốt hơn những người có mạng Dương Hỏa như tuổi : Bính Dần, Giáp Tuất, Mậu Tý, Bính Thân, Giáp Thìn và Mậu Ngọ. Bởi vì, theo luật Dương Âm lần lượt trưởng tiêu, không khác ngọn thủy triều lên xuống hoặc có không rồi không có hay nói khác đi là Sắc Không rồi Không Sắc. Vì thế: "Dương Âm tương ng tất ứng" còn "Dương ng Dương và Âm ng Âm bất ứng". Phương pháp này áp dụng cho tất cả các tuổi, để chúng ta thực hành sau này.
 
- Những người có tuổi mạng Thổ như : Canh Tý (1900 - 1960 ...), Tân Sửu (1901 - 1961 ...), Mậu Thân (1908 - 1968 ...), Kỷ Dậu (1909 - 1969 ...), Bính Thìn (1916 - 1976 ...) Đinh Tỵ (1917 - 1977 ...), Canh Ngọ (1930 -1990 ...), Tân Mùi (1931 - 1991 ...), Mậu Dần (1938 - 1998 ...), Kỷ Mão (1939 - 1999 ...), Bính Tuất (1946 - 2006 ...) và Đinh Hợi (1947 - 2007...).
 
Những người có tuổi mạng Thổ gặp năm Mậu Tý thuc mạng Hỏa, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Hỏa sanh mạng Thổ ". Bởi vì, mạng Hỏa bị sanh xuất và mạng Thổđược sanh nhập, cho nên những người có mạng Thổ năm này tổng quát rất tốt,thuận lợi, tiến triển về mọi mặtđể đưa đến thành công như ý. Trường hợp này, giống như người có : mạng Hỏa gặp năm mạng Mc - mạng Mc gặp năm mạng Thủy, mạng Thủy gặp năm mạng Kim và mạng Kim gặp năm mạng Thổ.
 
- Những người có tuổi mạng Kim như : Giáp Tý (1924 - 1984 ...), Ất Sửu (1925 - 1985 ...), Nhâm Thân (1932 - 1992 ...), Quý Dậu (1933 - 1993 ...), Canh Thìn (1940 - 2000 ...), Tân Tỵ (1941 - 2001 ...), Giáp Ngọ (1954 - 2014 ...), Ất Mùi (1955 - 2015 ...), Nhâm Dần (1962 - 2022 ...),QuýMão(1963 - 2023 ...), CanhTuất(1910 - 1970 ...) và Tân Hợi ( 1911 - 1971 ...).
 
Những người có tuổi mạng Kim gặp năm Mậu Tý thuc mạng Hỏa, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Hỏa khắc mạng Kim". Bởi vì, mạng Hỏa được khắc xuất và mạng Kim bị khắc nhập, cho nên những người có mạng Kim, năm này xấu tổng quát, không thể thực-hiện gì kết quả tốt đẹp. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Thổ gặp năm mạng Mc - mạng Mc gặp năm mạng Kim - mạng Hoả gặp năm mạng Thủy và mạng Thủy gặp năm mạng Thổ.
 
-Những người có tuổi mạng Mộc như : Mậu Thìnb(1928 - 1988 ...), Kỷ Tỵ (1929 - 1989 ...), Nhâm Ngọ (1942 - 2002 ...), Quý Mùi (1943 - 2003 ...), Canh Dần(1950 - 2010 ...),Tân Mão (1951 - 2011 ...), Mậu Tuất (1958 - 2018 ...), Kỷ Hợi (1959 - 2019 ...), Nhâm Tý (1912 - 1972 ...), Quý Sửu (1913 - 1973 ...), Canh Thân (1920 - 1980 ...) và Tân Dậu (1921 - 1981 ...).
 
Những người có tuổi thuc mạng Mc, gặp năm Mậu Tý thuc mạng Hỏa, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Mc sanh mạng Hỏa ". Bởi vì, mạng Mc được sanh xuất và mạng Hỏa bị sanh nhập, cho nên năm này tổng quát những người có mạng Mc mặc dù được tương sanh, nhưng năm này bị sanh xuất xem như bị tiêu hao tổng quát, vì chỉ cho ra mà chẳng thâu được nguồn lợi nào đáng kể và không bằngnhữngngườicó :mạng Thổ gặp năm mạng Hỏa - mạngHỏa gặpnămmạng Mc - mạng Mc gặp năm mạng Thủy, vàmạng Thủy gặp năm mạng Kim và mạng Kim gặp năm mạng Thổ.
 
- Những người có tuổi mạng Thủy như : Bính Tý (1936 - 1996 ...), Đinh Sửu (1937 - 1997 ...), Giáp Thân (1944 - 2004 ...), Ất Dậu (1945 - 2005 ...), Nhâm Thìn (1952 - 2012 ...), Quý Tỵ (1953 - 2013 ...), Bính Ngọ (1906 - 1966 ...), Đinh Mùi (1907 - 1967 ...), Giáp Dần (1914 - 1974 ...), Ất Mão (1915 - 1975 ...), Nhâm Tuất(1922 - 1982 ...) và Quý Hợi (1923 - 1983 ...).
 
Những người có tuổi mạng Thủy gặp năm Mậu Tý thuc mạng Hỏa, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Thủy khắc mạng Hỏa". Bởi vì, mạng Thủy được khắc xuất và mạng Hỏa bị khắc nhập, cho nên những người có mạng Thủy năm này mặc dù bị khắc kỵ, nhưng tổng quát nó không bị ảnh hưởng xấu nhiều, vì những người đó có mạng khắc kỵ với năm và cũng không có lợi bằng những người có mạng Thủy cùng năm mạng Thủy đã dẫn. Trường hợp này, giống như người có : mạng Thổ gặp năm mạng Thủy - mạng Hỏa gặp năm mạng Kim, mạng Kim gặp năm mạng Mc và mạng Mc gặp năm mạng Thổ.
•       2.- Đối với Thiên Can ảnh hưởng như thế nào ?
 
-Năm Mậu gặp can Giáp Ất :
 
Năm này là năm có Can là Mậu, thuộc mạng Thổ và những người có tuổi Can là Giáp Ất thuộc mạng Môc, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Mộc khắc mạng Thổ ". Bởi vì, mạng Mộc đuợc khắc xuất và mạng Thổ bị khắc nhập, cho nên năm này những người có mạng Thổ dù bị tương khắc, nhưng bị khắc xuất xem như bị tiêu hao tổng quát, vì chỉ cho ra mà chẳng thâu được nguồn lợi nào đáng kể và không bằng những người có mạng Thủy gặp năm mạng Thủy. Trường hợp này, giống như người có : mạng Hỏa gặp năm mạng Kim - mạng Kim gặp năm mạng Mộc - mạng Thổ gặp năm mạng Thủy và mạng Thủy gặp năm mạng Hỏa.
 
Năm Mậu gặp can Bính Đinh :
 
Năm này là năm có Can là Mậu, thuộc mạng Thổ và những người có tuổi Can là Bính Đinh, thuộc mạng Hỏa, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành,thì "mạng Hỏa sanh mạng Thổ". Bởi vì, mạng Hỏa bị sanh xuất và mạng Thổ được sanh nhập, cho nên năm này những người có mạng Hỏa dù được tương sanh, nhưng bị sanh xuất xem như bị tiêu hao tổng quát, vì chỉ cho ra mà chẳng thâu được nguồn lợi nào đáng kể và không bằng những người có mạng Hỏa gặp năm mạng Mc cũng được tương sanh, vì "mạng Mộc sanh mạng Hỏa như đã dẫn. Trường hợp này, giống như người có : mạng Thổ gặp năm mạng Kim - mạng Kim gặp năm mạng Thủy -mạng Thủy gặp năm mạng Mộc và mạng Mộc gặp năm mạng Hỏa.
 
Năm Mậu gặp can Mậu Kỷ :
 
Năm này là năm có Can là Mậu, thuc mạng Thổ và những người có tuổi Can là Mậu Kỷ, thuộc mạng Thổ, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì có cùng mạng Thổ, thì xem như tương hòa, cho nên năm này có đời sống an cư & lạc nghiệp sẽ gia tăng, phát triển về mọi mặt một cách bình thường, vì không bị khắc kỵ. Phàm ở trên đời, nếu có đời sống ổn định bình thường, thì xem như tương sanh tốt đẹp.
 
Năm Đinh gặp can Canh Tân :
Năm này là năm có Can là Mậu, thuộc mạng Thổ và những người có tuổi Can là Canh Tân thuc mạng Kim, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Thổ sanh mạng Kim". Bởi vì, mạng Thổ bị sanh xuất và mạng Kim được sanh nhập, cho nên năm này những người có mạng Kim xem như tổng quát rất tốt, thuận lợi, tiến triển về mọi mặt để đưa đến thành công như ý. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Hỏa gặp năm mạng Mộc - mạng Mộc gặp năm mạng Thủy - mạng Thủy gặp năm mạng Kim và mạng Thổ gặp năm mạng Hỏa.
 
Năm Đinh gặp can Nhâm Quý :
Năm này là năm có Can là Mậu, thuc mạng Thổ và những người có tuổi Can là Nhâm Quý thuộc mạng Thủy, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Thổ khắc mạng Thủy".Bởi vì, mạng Thổ được khắc xuất và mạng Thủy bị khắc nhập, cho nên năm này những người có mạng Thủy, xem như là năm xấu tổng quát, không thể thực hiện gì kết quả như ý. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Hỏa gặp năm mạng Thủy -mạng Thổ gặp năm mạng Mộc - mạng Mộc gặp năm mạng Kim và mạng Kim gặp năm mạng Hỏa.
 
•      3.- Đối với Địa Chi ảnh hưởng như thế nào?
 
Năm Tý gặp Chi Hợi Tý :
Năm này có Chi là Tý thuộc mạng Thủy, những người có Địa Chi Hợi và Tý thuộc mạng Thủy, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì có cùng mạng Thủy, thì xem như tương hòa, cho nên năm này có đời sống an cư & lạc nghiệp sẽ gia tăng, phát triển về mọi mặt mt cách bình thường, vì không bị khắc kỵ. Phàm ở trên đời, nếu có đời sống ổn định bình thường, thì xem như tương sanh tốt đẹp.
 
Năm Tý gặp Chi Thìn Tuất Sửu Mùi :

Năm này có Chi là Tý thuộc mạng Thủy, những người có Địa Chi Thìn Tuất Sửu và Mùi tức Tứ Mộ thuộc mạng Thổ, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Thổ khắc mạng Thủy". Bởi vì, mạng Thổ được khắc xuất và mạng Thủy bị khắc nhập, nhưng bị khắc xuất xem như bị tiêu hao tổng quát, vì chỉ cho ra mà chẳng thâu được nguồn lợi nào đáng kể và không bằng những người có mạng Mộc gặp năm mạng Mộc. Trường hợp này, giống như người có : mạng Thủy gặp năm mạng Hỏa - mạng Hỏa gặp năm mạng Kim - mạng Kim gặp năm mạng Mộc và mạng Mộc gặp năm mạng Thổ.

Năm Tý gặp Chi Dần Mão :

Năm này có Chi là Tý thuộc mạng Thủy, những người có Địa Chi Dần và Mão thuc mạng Mộc, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Thủy sanh mạng Mộc". Bởi vì, mạng Thủy bị sanh xuất và mạng Thổ được sanh nhập, cho nên năm này những người có mạng Mộc, xem như tổng quát rất tốt, thuận lợi, tiến triển về mọi mặt để đưa đến thành công như ý. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Thủy gặp năm mạng Kim. - mạng Kim gặp năm mạng Thổ -mạng Thổ gặp năm mạng Hỏa vàmạng Hỏa gặp năm mạng Mộc
 
Năm Tý gặp Chi Tỵ Ngo :
Năm này có Chi là Tý thuộc mạng Thủy, những người có Địa Chi Tỵ và Ngọ thuc mạng Hỏa, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Thủy khắc mạng Hỏa", cho nên năm này những người có mạng Hỏa, xem như là năm xấu tổng quát, không thể thực hiện gì kết quả như ý. Trường hợp này, giống như những người có : mạng Thổ gặp năm mạng Mộc- mạng Mộc gặp năm mạng Kim - mạng Kim gặp năm mạng Hỏa và mạng Thủy gặp năm mạng Thổ..
 
Năm Tý gặp Chi Thân Dậu :
Năm này có Chi là Tý thuộc mạng Thủy, những người có Địa Chi Thân và Dậu thuộc mạng Kim, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì "mạng Kim sanh mạng Thủy". Bởi vì, mạng Kim bị sanh xuất và mạng Thủy được sanh nhập, cho nên năm này những người có mạng Kim, dù được tương sanh, nhưng bị sanh xuất xem như bị tiêu hao tổng quát, vì chỉ cho ra mà chẳng thâu được nguồn lợi nào đáng kể và không bằng những người có mạng Hỏa gặp năm mạng Mộc cũng được tương sanh, vì "mạng Mộc sanh mạng Hỏa như đã dẫn. Trường hợp này, giống như người có : mạng Hỏa gặp năm mạng Thổ - mạng Thổ gặp năm mạng Kim - mạng Thủy gặp năm mạng Mộc và mạng Mộc gặp năm mạng Hỏa.
 
Để tạm kết thúc bài này, tôi xin kính chúc tất cả quý bà con đồng hương bước sang năm mới Mậu Tý 2008 được : An Khang Thịnh Đạt - Công Thành Danh Toại - Tâm Thân Thường Lạc và Phúc Thọ Khương Ninh.
 
Hàn Lâm NGUYỄN PHÚ THỨ
Mừng Xuân Mậu Tý 2008
Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 
Send Topic In ra