Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - VĂN HOÁ và  NGÔN NGỮ VIỆT  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 15 16 17 
Send Topic In ra
VĂN HOÁ và  NGÔN NGỮ VIỆT (Read 44469 times)
hoangkybactien
Junior Member
**
Offline


Mưa qua biển Bắc!

Posts: 53
Re: VĂN HOÁ và  NGÔN NGỮ VIỆT
Reply #240 - 25. May 2013 , 18:50
 
*
Khóc Cười Theo Mệnh Nước Nổi Trôi, Nước Ơi:
Vô Hình Chung hay Vô Hình Trung?


Chân Phương
January 15, 20130 Bình Luận

Vô Hình Chung hay Vô Hình Trung?
Đổi Viên Ngọc Quý Để Lấy Hạt Sỏi Thô!

Lang thang trên mạng toàn cầu hơn một năm trước đây, chúng tôi đọc được đoạn văn do bí danh anhcasg (Anh Cả Saigon?) viết như sau:

[Vô hình trung: Đây là một từ mới, không biết được đưa vào sử dụng từ bao giờ, nhưng những tự điển chữ Hán, chữ Việt xuất bản trước chiến tranh, không ghi.

Về chính tả, còn có người viết "vô hình chung". Về nghĩa, mỗi người hiểu một cách. Tựu trung, có hai cách hiểu chính: 1-Theo nghĩa "không cố ý"hoado 2-Theo nghĩa của từ cũ "chung qui".

Tôi thử tra tự điển, thì thấy:

-Tự điển Hán-Anh Mathews (1966) không ghi "vô hình trung", nhưng có ghi "vô ý trung", và định nghĩa là "thoughtlessly, inadvertently" (không dụng tâm);

-Tự điển Hán-Anh Viễn-Đông (1993) có ghi "vô hình trung", và định nghĩa cũng gần giống cuốn vừa dẫn;

-Từ điển Việt-Hán của Hà-Nội (1990) chú nghĩa "vô hình trung" là "vô ý trung"hoado

-Tự điển Tiếng Việt Hoàng Phê (1988) định nghĩa "vô hình trung": Tuy không có chủ định, không cố ý, nhưng tự nhiên là. Và cho thí dụ: -Anh không nói gì, vô hình trung đã làm hại nó.

-Tự điển Lê Văn Đức (1970) có ghi "vô hình trung", nhưng giảng rất lúng túng: "Tóm lại, rút ra những phần cốt yếu mà khó thấy. Thí dụ: Làm chính trị phải có nhiều thủ đoạn để giải quyết trăm ngàn việc khó khăn phức tạp; nhưng vô hình trung, là làm cho nước mạnh dân giàu, an cư lạc nghiệp".

Bốn cuốn trước hiểu "vô hình trung" theo nghĩa "không cố ý". Riêng cuốn sau cùng hình như hiểu theo nghĩa "chung qui", "rốt cuộc".]

(http://vn.answers.yahoo.com/question/in ... 637AAkIGiH)

Theo Tiến Sĩ Sử Gia Nguyễn Duy Chính (Việt Thức) cho hay:

[Để biết thêm rằng mình sai lầm tôi có tìm một vài cuốn từ điển tiếng Việt trong nhà thấy Đại Từ Điển Tiếng Việt [Nguyễn Như Ý chủ biên] (Hà Nội:VH-TT, 1999) tr. 1826:

vô hình trung: Không cố ý, không chủ tâm, tự nhiên mà có với thí dụ: Như thế vô hình trung anh lại không ủng hộ nó.

Tôi cũng tra Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị [tác giả Lê Ngọc Trụ (bản in trong nước trước 1975, Đại Nam tái bản hải ngoại không đề năm), tr. 117 cũng thấy viết vô hình trung trong mục chữ TRUNG [中]. Cụ Lê Ngọc Trụ là một học giả nổi tiếng nên chúng ta có thể theo mà không sợ nhầm lẫn…

Hán Ngữ đại từ điển (Thượng Hải từ thư, 1986) viết như sau:

無形中:亦作“無形之中”。

||不知不覺之間;不具備名義而有其實質之情況下。

瞿秋白《論大眾文藝‧大眾文藝的問題》:“無形之中對於
命的階級意識的生長,發生極頑固的抵抗力。”

峻青《秋色賦‧女英雄孫玉敏》:“她一氣教會了四十多個
妹,能夠很熟練地埋雷,她無形中成了整訓中的婦女核心。
]

Từ các sự kiện trên đã cho chúng tôi ngạc nhiên lớn và không khỏi xót xa cho kho tàng ngữ vựng mà Ông Cha chúng ta để lại. Chúng ta đang vô tình đánh mất một viên ngọc quý để đổi lấy hạt sỏi thô thay vào trong các từ ngữ Hán Việt đã từng được dùng rất trong sáng và rõ ràng trong công trình vun đắp của tiền nhân.

Người viết bài (Chân Phương) xin tạm phiên âm đoạn Hán văn của Hán Ngữ đại từ điển mà sử gia Nguyễn Duy Chính đã đem về bên trên như sau:

Phiên âm: [Vô hình trung: diệc tác “vô hình chi trung”.

|| Bất tri bất giác chi gian; bất cụ bị danh nghĩa nhi hữu kỳ thực chất chi tình huống hạ.

Cù Thu Bạch; Luận đại chúng văn nghệ, đại chúng văn nghệ đích vấn đề: “Vô hình chi trung đối ư cách mệnh đích giai cấp ý thức đích sinh trưởng, phát sinh cực ngoan cố đích để kháng lực.”

Tuấn Thanh; Thu Sắc Phú, Nữ anh hùng Tôn Ngọc Mẫn: “Tha nhất khí giáo hội liễu tứ thập đa cá muội muội, năng cú ngận thục luyện địa mai lôi, tha vô hình trung thành liễu chỉnh huấn trung đích phụ nữ hạch tâm.”]

Xin dịch sang tiếng Việt như sau:

[Vô hình trung (hầu như, dường như): cũng được hiểu là “vô hình”

|| Sự vô tình; không có tên gọi đầy đủ để nói lên thực chất của sự việc.

Theo Cù Thu Bạch, trong “Luận đề về văn nghệ quần chúng”; thì:

“DƯỜNG NHƯ, trong sự phát triển về ý thức cách mạng giai cấp đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt.”

Tuấn Thanh, trong “Thu Sắc Phú, Nữ anh hùng Tôn Ngọc Mẫn”:

“Cô ấy liên tục dạy hơn bốn mươi chị em, huấn luyện bản lãnh đủ thành thạo việc chôn dấu địa lôi, cô ta HẦU NHƯ trở thành hạt nhân trong vấn đề rèn luyện và củng cố (lực lượng) phụ nữ.] (Chân Phương dịch)

Trong một câu văn khác, người Trung hoa đã dùng như sau:

[她无形中成了我们的顾问 – Tha vô hình trung thành liễu ngã môn đích cố vấn.

Cô ta HẦU NHƯ trở thành cố vấn của chúng tôi.]

Như thế, rõ ràng chữ “vô hình trung” không có nghĩa gì khác hơn là “hầu như, dường như” và là một trạng từ bình thường theo nghĩa tiếng Anh là “virtually”. Nghĩa này hoàn toàn khác với “vô hình chung” mà trước nay chúng tôi biết rằng chỉ mới được dùng từ thời Phong Hóa – Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn (1930’s).

Quả thật, chúng tôi đồng ý với nhận định của bí danh “anhcasg” rằng đây là một chữ “Hán Việt” mới được mượn và dùng trong giai đoạn chữ Quốc ngữ đang phát triển mạnh mẽ. Chính vì sự xuất hiện của nó trong dân gian và trong làng văn bút Việt Namchưa quá lâu, nên các từ điển Việt ngữ hầu như không kịp cập nhật ngoại trừ cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị do học giả Lê Ngọc Trụ viết (1959) như Sử Gia NDC đã dẫn. Cụ Lê Ngọc Trụ là một học giả khả kính về Việt ngữ và cũng là người hiệu đính bộ Việt Nam Tự Điển do Lê văn Đức chủ biên (Khai Trí, 1970). Vì thế, trong cuốn Việt Nam Từ Điển này cũng có chữ “Vô hình trung” và được giải nghĩa là: ”Tóm lại, rút ra những phần cốt yếu mà khó thấy. Thí dụ: Làm chính trị phải có nhiều thủ đoạn để giải quyết trăm ngàn việc khó khăn phức tạp; nhưng vô hình trung, là làm cho nước mạnh dân giàu, an cư lạc nghiệp”.

Từ đây, chúng tôi nghĩ rằng, cái sai vô tình và ngoài ý muốn của cụ Lê Ngọc Trụ đã bị hậu sinh nhắm mắt noi theo một cách mù quáng mà không hề có sự tìm hiểu một cách độc lập… Trong đó, lần lượt có các cuốn Từ Điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (1988), Từ Điển Việt Hán của Hà-nội (1990), rồi Đại Từ Điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (1999)…

Học sinh chép bài của nhau để nộp cho Thầy Cô giáo đã là điều xấu và đáng chê trách. Người nghiên cứu soạn sách, nhất là khi soạn tự điển cho quần chúng noi theo cũng “cọp dê” mà thiếu suy nghĩ kiểm chứng, thì hậu quả đến thật khôn lường! Nếu chỉ “sao y bản chính” từ người khác, thì soạn từ điển để làm gì, ngoài việc ham danh ham lợi?

Quả thật, như chúng tôi đã dẫn, “vô hình trung” (無形中, 无形中 – Viết theo lối giản thể) chỉ là một trạng từ có nghĩa “hầu như”, “dường như” và không giống như giải thích của các cuốn từ điển kể trên.

Sau đây, chúng tôi xin ghi nhận các trường hợp mà chữ “vô hình chung” (无形终) được dùng bởi các văn thi sĩ người miền Trung và miền Bắc là những người có được ảnh hưởng ít nhiều từ Phong hóa – Ngày nay, Tự Lực Văn Đoàn:

“Tôi viết ra được những bài viết, những bài thơ này chỉ là vì những Thầy Cô đã tận tâm dậy dỗ cho đám học trò chúng tôi và nhất là giáo sư Doãn Quốc Sỹ đã VÔ HÌNH CHUNG cho tôi cái hứng ngồi nghe Thầy đọc thơ văn trong lớp. Tôi đã phải sống xa quê hương quá lâu nhưng thực ra trong tôi, tôi luôn luôn có quê hương, có tình đồng hương và có tình Thầy Trò của riêng tôi.”

Ðàm Trung Phán – TÌNH THẦY TRÒ VÀ KIẾP THA HƯƠNG

Mùa Tuyết Rơi tạiCanada

Tháng 12, 1991″

“Lam Nguyên trong bài “Biểu Cảm Cách Tân”, (TG&TP, II, trang 223,) đã cho thấy VÔ HÌNH CHUNG Du Tử Lê đã là biểu tượng của “Tân kỳ biệt chí / mới mẻ độc đáo,” lời của tác gia Trung Hoa Tiết Bảo Thoa, khi bàn về tác phẩm “Hồng Lâu Mộng” của Tào Tuyết Cần.”

(Lê Vương Ngọc – anh ruột nhà thơ Du Tử Lê, trong Tuyển Tập Du Tử Lê 50 năm).

Đặc biệt người em út trong gia đình Nhất Linh của Tự Lực Văn Đoàn là Bác Sĩ Nguyễn Tường Bách:

“Gia đình Khái Hưng ở ngay bên tòa soạn cho tiện công việc. VÔ HÌNH CHUNG, anh cũng như một vị “Tổng Thư Ký tòa soạn” tuy không có chức vụ đó. Mỗi ngày, bài vở thư từ chồng chất trên các bàn giấy. Hai anh Khái Hưng và Thạch Lam có nhiệm vụ giải quyết, một công việc phiền phúc và khô khan. Sau này, khi rỗi, tôi cũng có khi đến giúp vào nhiệm vụ này. “ (Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách – trong Tưởng Nhớ Khái Hưng)

Cả ba thí dụ trên cho chúng ta thấy rằng, “vô hình chung” đã xuất hiện ít nhất trong khoảng thời gian phát triển mạnh nhất của tiếng Quốc Ngữ và đã được dùng với ý nghĩa của chữ “chung – 终” là “cuối cùng”, phù hợp với giải thích của Lê văn Đức trong mục chữ “vô hình trung” (do sự nhầm lẫn đáng tiếc của cụ Lê Ngọc Trụ gây ra).

Trên tất cả các lý lẽ vừa kể ra, chúng ta hãy tìm hiểu thẳng vào Hán văn để xem người Trung Hoa dùng chữ “vô hình chung – 无形终“ này ra sao:

1/ Thời Chiến Quốc, khi được Tề Hoàn Công hỏi về phép trị nước sao cho ngôi vua được vững bền; Quản Trọng nói:

柔为无形终不断! Nhu vi VÔ HÌNH CHUNG bất đoạn!

An dân (trị dân một cách mềm mỏng) TẤT không mất nước!

2/ 大道无形终有义
Đại đạo VÔ HÌNH CHUNG hữu nghĩa (phiên âm Hán-Việt)
Đạo lớn ĐƯA ĐẾN phép tắc. (Phùng Khánh dịch)

3/ 烟尘无形终被风所散
Yên trần VÔ HÌNH CHUNG bị phong sở tán
Khói bụi CUỐI CÙNG CŨNG theo gió tản tự tan.

4/ 魂去无形终虚 幻. 谁云作者太疯癫 只是少人?

Hồn khứ VÔ HÌNH CHUNG hư ảo. Thùy vân tác giả thái phong điên chỉ thị thiếu nhân?

Lạc hồn ĐẾN MỨC hoảng loạn. Ai hay chăng, ta đã cuồng điên vì nhớ người?

Trong bốn thí dụ vừa kể, ngoài câu số 2 do Ni Sư Trí Hải dịch, tất cả ba câu còn lại đều do người viết (Chân Phương) dịch lại theo hiểu biết mông muội của mình.

Với các thí dụ kể trên, chúng ta thấy rõ nghĩa của chữ “vô hình chung” trong bất kỳ trường hợp nào, Hán văn hay Hán Việt, đều có điểm chung với nhau là luôn luôn nhấn mạnh đến ý nghĩa của chữ “chung – 终” là “cuối cùng”.

Từ một nhầm lẫn vô tình của học giả Lê Ngọc Trụ và việc “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia” tiếp theo sau đó của Lê văn Đức trong Việt Nam Tự Điển, các nhà soạn tự điển sau này của Hanoi đã “cọp dê” nguyên xi cái sai của người khác vào làm của mình. Nếu còn cắp sách đến trường, tác giả của những cuốn tự điển tiếng Việt sau này đã được hưởng hai trái trứng vịt to tướng chứ chẳng chơi!

Nói thế là còn nhẹ vì khi sinh tiền, Ông Cụ thường nhắc nhở chúng tôi rằng: “Làm bác sĩ chữa bệnh mà sai, giết một mạng người!

Làm tướng cầm quân mà sai, giết cả một đạo quân dưới trướng!

Viết sách sai, giết bao thế hệ theo sau mình!”

Lại còn có tác giả làm ra vẻ hiểu biết, tách từng chữ để dịch ra mỗi chữ một của hai chữ “vô hình chung” và “vô hình trung” và kết luận “vô hình trung” đúng hơn vì có chữ “trung” nghĩa là bên trong(?). Họ có biết làm thế khác nào dịch từng chữ “horse-fly” là “chuyến bay do ngựa kéo” không hả trời(!)

Chúng tôi gọi chữ “vô hình chung” là viên ngọc quý khi so với “vô hình trung” chỉ là hạt sỏi thô, không phải là điều quá đáng. Đơn giản, khi hiểu được ý nghĩa của nó, người ta sẽ dùng nó một cách hạn chế và đúng nơi đúng chỗ mà không bừa bãi như thói quen khoe chữ thời nào cũng gặp được:

1/ Ông Cha chúng ta đã có nhiều chữ khác trong Việt ngữ đủ để thay thế cho chữ “vô hình chung” này. Thế nhưng, sao các Cụ lại mượn thêm chữ mới từ Hán văn để làm tốn giấy bút của con cháu ngày sau? Xin thưa: Trong mọi trường hợp khi dùng chữ “vô hình chung” trong câu văn Việt ngữ, chúng ta đều có thể tìm ra được ngữ vựng tương đương để diễn tả điều cần viết hoặc nói ra. Điều đó có thể chứng thực khi chúng ta dịch từ Hán văn sang Việt ngữ trong bốn câu 1/, 2/, 3/, và 4/. Tuy nhiên mượn một tiếng Hán văn để Việt hóa và dùng trong trường hợp này (chữ “vô hình chung”), ý của Ông Cha chúng ta muốn nhấn mạnh một yếu tố quan trọng trong câu văn đó. Ý muốn nhấn mạnh, xin được giải thích rõ hơn trong phần kế tiếp sau đây.

2/ Như đã có lần đề cập trong bài viết của Sử Gia Nguyễn Duy Chính, chúng tôi được dạy rằng, “vô hình chung” là một trạng từ khá đặc biệt dùng để tạo thành mệnh đề hậu quả trong câu “điều kiện cách”. Thật vậy, trong mọi hình thức của câu văn nói hay viết, nó luôn luôn được dùng làm liên từ (từ nối) giữa hai mệnh đề giả thiết và mệnh đề hậu quả theo sau. Bốn câu Hán văn đã là bằng chứng nguyên thủy cho luận đề này. Chúng tôi xin được kể lại các trường hợp khác trong Việt ngữ khi dùng chữ “vô hình chung”. Bắt đầu với câu của GS Đàm Trung Phán:

“Tôi viết ra được những bài viết, những bài thơ này chỉ là vì những Thầy Cô đã tận tâm dậy dỗ cho đám học trò chúng tôi và nhất là giáo sư Doãn Quốc Sỹ đã VÔ HÌNH CHUNG cho tôi cái hứng ngồi nghe Thầy đọc thơ văn trong lớp.”

Kế tiếp là lời của bào huynh của thi sĩ Du Tử Lê khi viết về em mình:

“Lam Nguyên trong bài “Biểu Cảm Cách Tân”, (TG&TP, II, trang 223,) đã cho thấy VÔ HÌNH CHUNG Du Tử Lê đã là biểu tượng của “Tân kỳ biệt chí / mới mẻ độc đáo,” lời của tác gia Trung Hoa Tiết Bảo Thoa, khi bàn về tác phẩm “Hồng Lâu Mộng” của Tào Tuyết Cần.“

Với hai ví dụ kể trên, vai trò liên từ và trạng từ dùng để thiết lập mệnh đề hậu quả đã rõ ràng. Và, ý của tiền nhân khi mượn chữ “vô hình chung” vào trong câu văn là nhấn mạnh đến tương quan nhân-quả của hai mệnh đề (các sự việc) trong câu đang nói hay viết ra. Tuy nhiên đôi khi chúng ta cũng nhìn thấy chữ “vô hình chung” được nằm ở đầu câu thì sao? Xin được chuyển sang đề mục tiếp theo.

3/ Có những trường hợp trong câu văn viết hoặc văn nói, chúng ta bắt gặp chữ “vô hình chung” nằm ở đầu câu thay vì ở giữa hai mệnh đề như một cấu trúc bình thường. Bào đệ của các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và Thạch Lam là BS Nguyễn Tường Bách viết:

“Gia đình Khái Hưng ở ngay bên tòa soạn cho tiện công việc. VÔ HÌNH CHUNG, anh cũng như một vị “Tổng Thư Ký tòa soạn” tuy không có chức vụ đó.”

Trong đoạn hai câu văn phía trên, BS Nguyễn Tường Bách đã lúng túng trong diễn đạt của mình. Để đúng văn phạm, ông không thể ngắt chúng thành hai câu độc lập vì câu thứ hai hoàn toàn không có nghĩa nếu không có câu đầu tiên. Vì thế, BS đã có thể viết câu đó như sau:

“Gia đình Khái Hưng ở ngay bên tòa soạn cho tiện công việc; VÔ HÌNH CHUNG, anh cũng như một vị “Tổng Thư Ký tòa soạn” tuy không có chức vụ đó.”

Trong câu văn đã được nối lại sau này bằng dấu chấm phẩy (Wink thay cho dấu chấm của BS Bách, hai mệnh đề độc lập đã được nối với nhau để được đủ nghĩa và đúng với mục đích nhấn mạnh vào tính cách nhân-quả trong câu điều kiện cách này!

4/ Sự lúng túng và nhầm lẫn của BS Nguyễn Tường Bách xảy ra, chứng tỏ ông đã từng biết cách dùng chữ “vô hình chung” khi đặt ở đầu câu. Chúng tôi ngờ rằng do lâu ngày không dùng khiến ông quên mất. Nhưng chúng tôi tin chắc căn bản vẫn bám cứng trong những con người đong đầy chữ nghĩa như gia đình các ông.

5/ Vậy, khi nào người Việt, nhất là người Bắc đặt chữ “vô hình chung” này lên đầu trong một câu văn điều kiện cách mang tính nhân-quả? Hãy nghe mẹ chồng an ủi con dâu bằng câu nói sau đây:

“Vô hình chung, anh ấy là người bạc nghĩa, con à!” (2)

Vâng, đó là một câu nói đầy đủ ý và nghĩa trong văn phạm Việt ngữ cho dù chúng ta chỉ nhìn hoặc nghe thấy có một mệnh đề mà thôi!

Tuy chỉ nhìn hoặc nghe thấy một mệnh đề sau chữ “vô hình chung”, nhưng thật ra, trong câu đó người nói đã che giấu mệnh đề đầu tiên. Với một câu rõ ràng hơn, người mẹ chồng đã nói rằng:

“Mẹ tưởng anh ấy tử tế nhưng cuối cùng, anh ấy là người bạc nghĩa, con à!” (1)

Câu số (1) đã được thay thế bằng câu (2) vừa có ý che giấu sự thất vọng của người mẹ chồng đối với con trai mình, vừa muốn nhấn mạnh ý nghĩa chia sẻ và an ủi đối với nàng dâu bất hạnh!

Có lẽ, chỉ có các bà mẹ chồng người Bắc mới tìm được lối diễn đạt ý nghĩ một cách kín đáo và phức tạp đến như thế mà thôi!

Nói chung, người ta dùng “vô hình chung” đứng ở đầu câu khi cố tình giấu đi mệnh đề giả thiết và mong đợi rằng người nghe hoặc người đọc đủ khả năng hiểu ngầm mệnh đề đã không được nói hoặc viết rõ ra đó!

6/ Cuối cùng, vì các lẽ kể trên mà chúng ta thấy trước kia “vô hình chung” đã ít được dùng bừa bãi trong Việt ngữ. Và đó cũng là lý do khiến các nhà soạn từ điển Việt ngữ không kịp cập nhật cho đến năm 1959 khi cụ Lê Ngọc Trụ ghi lại một cách nhầm lẫn trong Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị. Rồi sau đó, sự nhầm lẫn này bị “cọp dê” mà không được nghiên cứu, kiểm chứng một cách kỹ lưỡng. Ngày nay, khi những người thiếu hiểu biết nhưng lại “sính chữ” vớ được một chữ Hán Việt “vô hình trung” được ghi, không chỉ trong tự điển mà còn là “Đại Tự Điển”, thì còn gì bằng mà không vung vít xài cho có vẻ “trí thức” với đời?

Người ta đang ném đi viên ngọc quý “vô hình chung” trong kho tàng ngữ vựng Việt ngữ (Hán-Việt) một cách không thương tiếc để nhặt hạt sỏi to tướng “vô hình trung” với nghĩa què quặt và đem lên sùng bái như món trang sức thời thượng… Có còn gì mỉa mai hơn cho tiền nhân ra sức vun bồi Quốc ngữ cho chúng ta đang dùng và… phá hủy?

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi, tiếng ru muôn đời!

Tiếng nước tôi bốn ngàn năm ròng rã buồn vui!
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!
Tiếng nước tôi, tiếng Mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!…
(Tình Ca – Phạm Duy)

Falls Church, VẠ
1/12/13

Chân Phương

http://www.vietthuc.orgChân Phương
 
Posts: 62
Joined: 06/09/2012

Source: http://vietjoy.com/viewtopic.php?f=54&p=32417
Back to top
 
 
IP Logged
 
hoangkybactien
Junior Member
**
Offline


Mưa qua biển Bắc!

Posts: 53
Re: VĂN HOÁ và  NGÔN NGỮ VIỆT
Reply #241 - 23. Jun 2013 , 13:23
 

"Công Cha, Nghĩa Mẹ, Chữ Thầy"


Tưởng nhớ & tri ơn các bậc học giả đời trước đã sáng suốt nhận ra những ích lợi của chữ Quốc Ngữ và đã dốc lòng quảng bá cho nhân dân Việt Nam.


***

Từ chữ Nôm tới chữ Quốc ngữ


Hàng ngàn năm chúng ta phải dùng Hán tự coi như văn tự nước nhà. Từ ấu thơ người xưa đã phải học Tam thiên tự, Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi… và ở tuổi trưởng thành thì phải “Tứ thư thục, Ngũ kinh thông” (thuộc Tứ thư và thông Ngũ kinh). Không nên quên Tứ thư gồm Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dung và Ngũ kinh gồm Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân thu, là sách gối đầu giường của kẻ sĩ muốn thực hiện giấc mơ công hầu khanh tướng. Vì thế, chữ Hán và văn hóa nòi Hán có giai đoạn đã xâm nhập khá sâu vào sinh hoạt của kẻ sĩ bị trị.

Thời kỳ độc lập mở ra một hy vọng mới, một chân trời mới, từ thế kỷ XIII tổ tiên chúng ta đã điển chế ra Chữ Nôm, và nền Văn học Chữ Nôm của chúng ta phát triển dần từ Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố đời Trần tới đỉnh cao là Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du đời Lê mạt-Nguyễn sơ.

Tuy nhiên, Chữ Nôm vẫn không có cơ hội chính thức thay chữ Hán vì phần lớn các triều đại còn quá bảo thủ, mang nặng ảnh hưởng văn hóa phương Bắc, đã coi chữ Hán như phương tiện chính thống để truyền thông từ việc cai trị tới việc ghi chép lịch sử, địa dư… và ngâm vịnh. Kẻ sĩ ngày xưa quen với chương trình học hành thi cử “thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi”, nghĩa là “học cho thuộc một ngàn bài thơ, một trăm bài phú Hán và trăm bài văn sách mẫu” và tụng cho kỹ Bắc sử, là có thể lều chõng tới trường thi nên văn chương họ sáng tác phần nhiều là khuôn sáo, thù ứng từ nghệ thuật tới ý tứ.

Thời kỳ duy tân, văn minh Âu Tây tràn vào Đông Á, kẻ sĩ có cơ hội giũ bỏ xiềng xích cũ.
Tầng lớp trí thức tiến bộ ở Trung hoa như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Nghiêm Phục… hô hào duy tân chế độ chính trị, tiếp đó là Hồ Thích, Trần Độc Tú…, song song với phong trào Ngũ tứ vận động (04-05-1917), trong những tờ báo tiến bộ như Tân thanh niên, phản đối chính quyền hủ bại, đề xướng cải cách văn học, bãi bỏ cổ văn, nâng cao thể bạch thoại.

Riêng đất nước ta, trào lưu duy tân tới rất sớm, cực kỳ sôi động và lần đầu tiên đã có nho sĩ như Phan Chu Trinh mạnh dạn đả kích ý thức hệ phong kiến và mang tư tưởng dân chủ gieo rắc nơi đồng bào cả nước.

Tuy nhiên, kẻ sĩ cuối thế kỷ XIX ở ta chợt nhận ra thiếu phương tiện truyền thông và truyền cảm và phổ biến tư tưởng mới nghĩa là thiếu một hệ thống văn tự hữu hiệu.
Dùng chữ Hán, thứ chữ vay mượn, để ghi chép và sáng tác khó lòng diễn đạt được tình ý của mình. Sự truyền thông đã khó và cũng khó tạo ra những tác phẩm siêu việt. Đây là một sự thực mà chúng ta không cần tìm lời bào chữa.

Cứ nhìn thực tế, những tác phẩm sáng tác bằng chữ Hán của Nho gia lịch triều Lý, Trần, Lê có tới hàng chục ngàn bài thơ nhưng chỉ có vài trăm bài được lưu truyền ghi lại trong Hoàng việt thi tuyển. Nhắc tới thi ca sáng tác bằng chữ Hán có giá trị của người Việt, ngoài Nguyễn Trãi đời Lê, Đặng Trần Côn thời Lê mạt… chỉ còn có thơ của Nguyễn Du, Cao Bá Quát và Nguyễn Khuyến… đời Nguyễn là được đời truyền tụng. Phần còn lại vì sao mai một hoặc nằm mãi trong thư viện khảo cổ?

Phan Khôi (1887-1959), một cây viết gốc Nho nhưng thuộc tầng lớp kẻ sĩ tiến bộ đầu thế kỷ XX đã tiết lộ lời chỉ trích của một tác giả Trung hoa về phong cách ưa múa bút đề thơ bằng chữ Hán của đa số Nho gia ta đời trước. Cho dù lời chỉ trích có vẻ kênh kiệu và nhìn chung là sai lầm nhưng cũng đủ để ta suy nghĩ khi chúng ta thiếu một văn tự dành cho nòi giống Tiên Rồng nên phải học nhờ, viết mướn ngôn ngữ nước người.

Phan Khôi kể lại, sách Dinh hoàn chí lược của Tàu trong chỗ nói về sĩ phu Việt Nam thời xưa ưa làm thơ chữ Hán đã nhận xét rằng: “Sĩ phu họ tính ưa làm thơ nhưng có kẻ làm không nên câu mà cũng thích làm”.

Cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, ở ta giỏi chữ Hán mấy ai bằng chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940). Cụ Phan không những từng là thủ khoa kỳ thi hương (1901) mà còn là một nhà văn lớn của dân tộc. Thế mà Phan Bội Châu khi ở Nhật viết Việt Nam vong quốc sử có nhờ Lương Khải Siêu (1873-1929) viết lời giới thiệu thì họ Lương tuy ngợi khen tấm lòng của cụ Phan với dân, với nước nhưng có nói một câu tựa hồ phân bua với độc giả Tàu rằng, “trong sách nếu có chỗ không được nhã thuần, ấy là vì muốn để y cho còn cái chân tích của tác giả nên không hề sửa chữa một chữ nào”.

Lương Khải Siêu chê Phan Bội Châu viết văn chữ Hán chưa chuẩn (kém nhã thuẩn). Điều này chẳng có gì làm giảm giá trị của Việt Nam vong quốc sử và ngòi bút của tác giả vì cụ Phan là người Việt dĩ nhiên viết văn Tàu khó có thể đạt tới tiêu chuẩn chân-thiện-mỹ như thầy trò Khang Lương (Lương là học trò của Khang Hữu Vy).

Phan Khôi giải thích: “Tội không tại người mà cũng không tại chữ. Tội tại người nước này mà dùng chữ nước kia”. Từ thực tế này Phan Khôi cho rằng: “Một thứ chữ ngoại quốc nào cũng chỉ hành dụng bởi nhu cầu của thời đại mà thôi, còn muốn lập nên văn học thì ắt phải là văn tự bản quốc mới được. Vậy chúng ta nên đồng thanh kêu: hỡi người Việt Nam trở về với quốc văn!”

Làm sao trở về với quốc văn?

Trước đây, kẻ sĩ ưu thời mẫn thế nhận rõ Chữ Nôm rất khẩn thiết đối với vận mệnh dân tộc nhưng thứ văn tự này chưa đủ làm võ khí sắc bén về văn hóa cho một nòi giống hùng cường và quật cường dưới trời Đông Á như chúng ta.

Thực vậy, Chữ Nôm cho dù là tài sản, một công trình tim óc của tiền nhân để lại, nhưng nó lại là một thứ chữ khó học, khó viết nên khó có thể đại-chúng-hóa. Trong thực tế kẻ giỏi chữ Hán mới dùng được chữ Nôm.

Chúng ta thử lấy câu đầu trong Truyện Kiều ghi bằng chữ nôm để xem cách cấu tạo của thứ chữ Việt ngày xưa tiền nhân ta đã dùng: “Trăm năm trong cõi người ta.”

Khi chưa có chữ Quốc ngữ như ngày nay, muốn ghi chữ “trăm”, Nguyễn Du đã ghép hai chữ Hán là chữ “bách” (chỉ nghĩa: một trăm) và chữ “lâm” (nghĩa là rừng, nhưng ở đây dùng chỉ cách đọc vì “lâm” có âm tương tự như “ăm”). Kế đền chữ “năm” thì ghi làm sao? Cần hiểu rõ “năm” muốn chỉ số hạng hay năm muốn chỉ “mười hai tháng”. Nếu “năm” chỉ số hạng thì ghép hai chữ, chữ “ngũ” chỉ nghĩa, chữ “nam” chỉ âm. Còn “năm” chỉ thời gian thì ghép hai chữ Hán, chữ “niên” (chỉ năm tháng) và chữ “nam” (chỉ âm). Tương tự chữ “trong” thì ghép hai chữ Hán (long chỉ âm) và trung (chỉ nghĩa); chữ “cõi” (ghép chữ “thổ” chỉ nghĩa với chữ “quý” ghi âm ); và chữ “người” thì dùng chữ “ngại” ghi âm ghép với chữ “nhân” ghi nghĩa. Còn riêng chữ “ta” thì dùng ngay chữ Hán để ghi vì đọc cùng âm với “ta” của Việt. Cách cấu tạo xem ra phức tạp và chưa theo quy tắc nhất định (vì chưa được phổ biến và cải thiện) nên đọc văn bản Nôm nhiều khi phải đoán xem cổ nhân đã muốn ghi âm gì trong tiếng Việt.

Đang lúc cần canh tân gấp, lại gặp bế tắc về văn tự là nỗi đau đầu của kẻ sĩ tâm huyết cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ở nước ta.

Cơ hội đã tới. Tiếp xúc với Tây phương chúng ta đã có một thứ văn tự mới và các nhà văn hóa sáng suốt của ta đã vội vàng mượn lấy nó để làm thứ chữ của cả nước và đặt tên nó là Chữ Quốc ngữ.

Tại sao lại gọi là Chữ Quốc ngữ?

Giáo sư Dương Quảng Hàm (1898-1946) giảng rằng:

“Chữ quốc ngữ là một thứ chữ dùng tự mẫu (chữ cái) La mã để phiên âm tiếng ta. Quốc ngữ nghĩa đen là tiếng nói của nước: vậy cái từ ngữ ấy dùng để gọi thứ chữ mới đặt ra đây, kể thì không đúng, vì đó là một thứ chữ chứ không phải là một tiếng; nhưng từ ngữ ấy đã dùng quen rồi không thể đổi được nữa.”
Chữ Quốc ngữ hình thành từ bao giờ?

Học giả Phạm Quỳnh (1892-1945) trong loạt bài khảo về chữ Quốc ngữ đăng trên Nam Phong tạp chí đã viết:

“Chữ quốc ngữ là do các cố đạo Tây sang giảng đạo bên nước Nam đặt ra vào đầu thế kỷ thứ 17, các cố đó, người Bồ đào nha có, người Ý đại lợi có, người Pháp có, chắc là cùng nhau nghĩ đặt, châm chước sửa sang trong lâu năm, chứ không phải do một người nào làm ra một mình vậy, duy đến khi in ra thành sách thì một ông cố người Pháp là Alexandre de Rhodes, in một bộ tự điển và một bộ sách giảng đạo bằng chữ quốc ngữ trước nhất. Vậy thời hai bộ sách đó là hai quyển sách quốc ngữ cổ nhất còn lưu truyền tới nay.”

Bộ tự điển mà Phạm Quỳnh đã đề cập là cuốn tự điển của cố Alexandre de Rhodes có tên là Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum in ở Rome năm 1651). Còn “sách giảng đạo” mà ông chủ Nam Phong đề cập là “Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo Thánh đức Chúa Trời”.

Tác phẩm của cố de Rhodes, theo lời tác giả, đã dựa vào hai cuốn từ vựng trước nó liên quan đến tiếng Việt giảng sang tiếng Bồ của Gaspard de Amaral và Antoine de Barbosa.

Ban đầu chữ Quốc ngữ chỉ là phương tiện truyền giáo ở Việt Nam của các giáo sĩ thuộc nhiều quốc tịch Tây phương. Nhưng khi Pháp đặt chế độ thuộc địa lên đất nước ta, sau khi chiếm Lục tỉnh Nam kỳ (từ 1862 tới 1867) thì thực dân lại mượn nó làm phương tiện thông tri chính sách cai trị cho dân bị trị không biết chữ Pháp hay chữ Hán. Tờ Gia định báo là tờ báo có một phần chữ Quốc ngữ đầu tiên xuất hiện ở miền Nam vào ngày 15 tháng Tư 1865 với mục đích cai trị trên.

Giới kẻ sĩ Việt Nam tha thiết với tiền đồ dân tộc và bén nhạy với sự đổi mới đã nhanh chóng mượn thứ văn tự này làm văn tự nước nhà. Chữ Quốc ngữ đã trở thành phương tiện hữu hiệu giúp nòi Việt trở mình, thoát khỏi ảnh hưởng phương Bắc và gây dựng được lâu đài văn học tự chủ của một quốc gia độc lập như học giả Nguyễn văn Vĩnh (1882-1936) trong bài tựa bản dịch Tam quốc chí của Phan Kế Bính (1875-1921) xuất hiện vào năm 1909 đã dự liệu “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ”.

Chữ Quốc ngữ thuở ban đầu tới nay đã có những sự cải cách tinh vi và phong phú hơn gấp bội, nên ghi rất chuẩn cách phát âm của ba miền đất nước Việt Nam, lại có khả năng truyền đạt nhiều mặt kể cả khoa học và kỹ thuật, và đã thực sự biến thành một thứ văn tự được ngót trăm triệu giống Lạc Hồng trân trọng bảo tồn và phát huy. Nhờ đâu? Giải thích điểm này, chúng ta không thể không mượn ý kiến của tác giả Việt Nam Văn Học Sử Yếu:

“Các giáo sĩ người Âu đặt ra chữ quốc ngữ, chủ ý là có được một thứ chữ để viết tiếng ta cho tiện và dùng trong việc truyền giáo cho dễ. Không ngờ rằng, vì tình thế lịch sử xui nên, thứ chữ ấy nay trở thành thứ văn tự phổ thông của cả dân tộc Việt Nam ta. Đành rằng cũng như các công trình do người ta sáng tác, thứ chữ ấy cũng còn có một vài khuyết điểm, nhưng ta nên nhận rằng ở trên hoàn cầu này, không có thứ chữ nào tiện lợi và dễ học dễ biết bằng thứ chữ ấy.”

Có công lớn cho việc trau dồi chữ Quốc ngữ trở thành một công cụ xứng đáng của một quốc gia độc lập phải kể Huỳnh Tịnh Của (1834-1907). Học giả Paulus Của là người có công soạn bộ từ điển Đại Nam quốc âm tự vị, một bộ tự vị soạn thảo công phu và giá trị nhất làm nền tảng cho chữ Quốc ngữ.

Bên cạnh học giả họ Huỳnh không thể quên công trình bác học phổ biến tiếng Việt của học giả Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Petrus Ký và Paulus Của cũng là những văn gia đầu tiên dùng chữ Quốc ngữ để trước thuật các loại đoản thiên như Chuyện giải buồn, Chuyện đời xưa và Chuyện khôi hài.

Đầu thế kỷ XX phải kể công của nhóm Đông dương tạp chí (1913-1917) với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục và nhóm Nam phong (1917-1934) với Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục… góp phần vào việc phổ biến chữ Quốc ngữ và luyện câu văn chữ Quốc ngữ cho tinh tường hơn. Sau đó cũng không quên công của Phan Khôi trên Phụ nữ tân văn. Nhà báo nàyđã đề nghị xây dựng mẹo luật cho chữ Quốc ngữ.

Hoàng Yên Lưu
*

Lưu ý: Đồng chí = Việt cộng. (Kể từ năm 1930 đế nay.)
           Đồng hành = Đồng chí.
=>      Đồng hành = Việt cộng!

VNCH không nghèo nàn chữ nghĩa đâu mà phải bắt chước VC.


*
Back to top
« Last Edit: 29. Jun 2013 , 04:54 by hoangkybactien »  
 
IP Logged
 
hoangkybactien
Junior Member
**
Offline


Mưa qua biển Bắc!

Posts: 53
Re: VĂN HOÁ và  NGÔN NGỮ VIỆT
Reply #242 - 23. Jun 2013 , 16:12
 

Chút ý kiến về hai chữ "Hàng đầu"

Ngày nay ở hải ngoại đã có một số người  bị nhiễm theo lối dùng chữ của những nhà báo Việt cộng ở trong nước. Một ví dụ thường thấy (không cần phải "điển hình" gì hết!) là hai chữ "hàng đầu".  Hể cái gì hay, đặc biệt, hạng nhất, "có một không hai" là dân xã nghĩa dùng ngay chữ "hàng đầu" để nói lên cái điểm "số dzách" (dzách là tiếng Quảng Đông, có nghĩa là 'nhất = một') của nó. Nếu không phải là "hàng đầu" thì có thể hiểu là còn chưa ngon, chưa bảnh, chưa hay!

Có thể do chưa từng sống qua thời VNCH cho nên họ không biết rằng là "hàng đầu" còn có nghĩa là hạng chót, hay hạng bét nữa, chứ không phải lúc nào cũng là hạng nhất hết đâu!

Thử nghĩ lại coi! Thời VNCH, nếu đi coi xi nê mà mua vé hàng đầu tức là vé ngồi ngay trước màn bạc sân khấu là vé rẻ nhứt! Còn vé mắc nhứt là vé ngồi tít phía sau gần cửa ra vào, hay trên lầu nếu là rạp chiếu bóng có lầu. Vì màn bạc quá lớn, muốn coi rõ toàn cảnh phải ngồi thật xa màn bạc, và không bị mỏi cổ vì cứ phải ngước mặt lên hoài.  "Hàng đầu" chỉ thật sự là hàng đầu (hạng nhất) là khi coi cải lương hay kịch sống, nhạc sống mà thôi, vì ngồi sát sân khấu cho nên nhìn mặt nghệ sĩ rõ hơn người ngồi ở xa vậy thôi.

VNCH thường dùng "thượng hạng", "thượng hảo hạng", "hạng nhất", hay "số một" để chỉ cái "hay", cái "nhất" của một vật hay việc gì đó, chứ ít thấy ai dùng "hàng đầu".


*
Back to top
« Last Edit: 29. Jun 2013 , 04:54 by hoangkybactien »  
 
IP Logged
 
hoangkybactien
Junior Member
**
Offline


Mưa qua biển Bắc!

Posts: 53
Re: VĂN HOÁ và  NGÔN NGỮ VIỆT
Reply #243 - 29. Jun 2013 , 04:53
 
*
...



Người giữ mầm cho Văn chương miền Nam _T/g Hồ Phú Bông


Khoảng một, hay hai tuần, sau 30/4/1975, tôi và thằng bạn ngồi tại góc ngã tư đường Trương Minh Giảng – Trần Quang Diệu, là trạm xăng Shell cũ. Lúc đó không phải bán xăng mà người ta bày bán đủ thứ linh tinh, thượng vàng hạ cám. Một góc là quán nhậu dã chiến. Thằng bạn, lục trong tủ nhà của cô em, đem theo một chai Martel, Hennessy, Courvoisier hay Whisky chi đó còn sót lại. Hai đứa, dù chẳng phải là bợm nhậu, cũng cưa đứt. Ngồi nhìn Sài Gòn đang ngơ ngác. Ngồi nhìn Sài Gòn đang hoảng loạn. Ngồi nhìn Sài Gòn đang nhếch nhác. Chúng tôi cũng hoảng loạn, cũng ngơ ngác, cũng nhếch nhác. Cái gì sẽ đến cho bản thân và gia đình? Cái gì sẽ đến cho thành phố, cho xã hội miền Nam? Tự chọn ở lại quê hương là khôn hay dại? Phải chăng mức độ căng thẳng như thế, lớn hơn, mạnh hơn nồng độ cồn nên cả hai đứa vẫn tỉnh bơ, không xỉn?

Hai đứa tôi đã bỏ chạy khỏi Đà Lạt gần hai tháng trước theo hai ngã khác nhau. Hắn làm việc tại Ủy ban Điều hợp Quân sự bốn bên, theo Hiệp định Ba Lê về Việt Nam, ngay tại thành phố Đà Lạt.

Hắn kể, trước khi bỏ chạy đã kịp khuân ra sân đốt sạch tất cả sách vở giấy tờ trên kệ sách trong phòng khách của chúng tôi. Phần lớn sách trên kệ là tài liệu, về triết, về chính trị, đặc biệt là sách phân tích về chủ nghĩa cộng sản. Số còn lại là văn chương. Trong số sách đó tôi quý nhất là cả chục cuốn dày cộm có chữ ký của vị chỉ huy trưởng một quân trường, nơi tôi đã theo học. Đó là phần thưởng của hai giải diễn thuyết và biện luận.
Còn tại Sài Gòn thì thằng em tôi phải đem tất cả sách giao nộp cho công an để họ hỏa táng “văn hoá đồi trụy, tàn dư Mỹ-Ngụy”!

Tần Thủy Hoàng xưa, đốt sách! CSVN vào cuối thế kỷ 20 nay, cũng đốt sách của miền Nam! Mao đốt sách trắng thay bằng sách hồng trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, kèm theo sinh mạng 35 triệu dân Trung Quốc do bọn Hồng Vệ binh thi hành. Thì, CSVN cũng đốt sách của nền văn minh tự do miền Nam, đày ải hàng trăm ngàn quân cán chính vào các trại tập trung cải tạo. Chết bờ chết bụi, chết trong lao tù ở rừng sâu núi thẳm từ Nam ra Bắc do bộ đội và công an thực hiện!

Đốt sách là chối bỏ văn minh xã hội. Nhưng khi nền văn minh đã thấm đẫm vào từng tâm hồn, từng thớ đất của người miền Nam thì về mặt nổi, dù có biến thành tro bụi, nhưng phần chìm, phần nền tảng, vẫn còn nguyên. Và những tro bụi đó đã tự bay theo gió từ Nam ra Bắc trong thời điểm sớm nhất, ngay sau 30 tháng Tư. Là thời điểm hàng hàng lớp lớp, đủ loại xe bị trưng dụng, nối đuôi nhau chở tài sản cướp được về Bắc. Họ mang theo cả văn hóa, văn chương “ngụy” miền Nam, một loại rất quý hiếm lúc bấy giờ!
Còn Hà Nội thì ra sức trấn an phe “ta” trước sự choáng ngợp về tính tráng lệ, giàu có và văn minh tại miền Nam.

Họ ra rả lên án “nhạc vàng”, “văn hóa đồi trụy Mỹ-Ngụy”, kinh tế “phồn vinh giả tạo” của miền Nam!

Để đến bây giờ, tháng Năm năm 2013, nhiều nhà phân tích công nhận: Chính văn minh và kinh tế miền Nam đã giải phóng miền Bắc!

Miền Bắc chiếm được miền Nam bằng quân sự nhưng miền Nam giải phóng miền Bắc bằng tự do dân chủ và văn minh.

Giới văn nghệ sĩ miền Nam ngày đó cũng theo vận nước, tứ tán như bầy ong vỡ tổ. Cho dù chỉ 20 năm ngắn ngủi (1954-1975) được tự do, được tích lũy góp mật thu từ những tinh hoa của thế giới văn minh đem về, nhưng như thế cũng đã thừa đủ độ ngọt để làm ngọng những cái lưỡi gỗ tuyên truyền!

Trong số tứ tán đó thì nhóm Trần Hoài Thư lại lặng lẽ gom tụ tại nơi ở mới dù thời gian đã cướp gần cạn sinh lực đời người. Không còn khả năng, sức khỏe và sự nóng cháy của tuổi thanh niên. Không còn thời gian để khám phá chân trời mới của văn học nên nhóm quay về chủ trương khác. Chủ trương đi tìm lại những giọt mật bị tản lạc, rơi rớt mà cuộc tản hàng bất ngờ không thể mang theo. Những bản thảo chưa kịp xuất bản tại miền Nam, đã xuất bản nhưng chưa kịp phát hành, hay phát hành nhưng bị mai một vì tai ương của lịch sử nên bị rơi vào quên lãng… Cả nhóm từ từ tìm lại. Gom góp lại. Dù có lớp bụi thời gian che phủ nhưng cũng giống như bụi phủ trên gương soi. Thổi đám bụi bay đi, tấm kiếng sẽ sáng lại. Sẽ soi lại nhân dáng của một thời đã mất. Nhân dáng đó, dung nhan đó đang là chứng nhân cho lịch sử. Chẳng những lịch sử về chiến trận mà cả lịch sử về nhân văn miền Nam.

Cho đến bây giờ, thực tình tôi không biết nhóm Trần Hoài Thư đã gom góp được bao nhiêu tác phẩm. Đã đánh máy lại bao nhiêu bản thảo cũ nát, sao lục lại từ bao nhiêu thư viện, tái tạo được bao nhiêu sách. Chỉ biết là thỉnh thoảng thấy một tác phẩm tái sinh hay ra đời, kèm theo một tạp chí mang tên Thư Quán Bản Thảo, lâu lâu lại xuất hiện. Xuất hiện không theo định kỳ mà sách lại có giá trị, đạt tiêu chuẩn về phẩm và mỹ thuật!
Và lạ nhất, sách không bao giờ bán! Chỉ tặng. Gửi tặng qua bưu điện không đòi một xu tiền tem!

Tại hải ngoại đã có vô số những tạp chí, ấn phẩm có giá trị, xuất bản định kỳ để bán, sống dai dẳng được như Thế Kỷ 21, Văn Học, Văn Nghệ Tiền Phong… là rất hiếm. Nhưng cuối cùng cũng chết! Ấy thế mà sách của nhóm Trần Hoài Thư, với Thư Ấn Quán xuất bản thì còn đó. Xuất bản lặng lẽ, sống lặng lẽ, dù không đều mà không phải để bán.
Sách in ra, tạp chí in ra chỉ để tặng! Dứt khoát không bán! Mỗi ấn phẩm đều là công khó của nhóm chủ trương. Là tác phẩm của nghệ thuật. Như đứa con cầu tự của vợ chồng già!

Vì, nó là hạt giống văn chương miền Nam ươm mầm cho tương lai.

Trong nước thì chế độ cộng sản lo thủ tiêu. Ngoài nước thì nhóm Trần Hoài Thư lo gây mầm! So sánh lực lượng, một bên là chủ trương của nhà nước, một bên chỉ năm bảy người tự xoay xở kiếm sống và tằn tiện từng đồng, tự tay làm tất cả mọi việc in ấn để xuất bản. Một gã khổng lồ Goliath CSVN tỉ đấu với anh chàng tí hon David.
Nhưng lịch sử cho biết, David thắng!

Và hôm nay, cũng thế. Văn chương miền Nam ngày một được phục hồi. Miền Nam mất nhưng văn chương miền Nam không mất!

Sự thật, văn chương miền Nam vẫn sống như hơi thở của người miền Nam. Hơi thở của cuộc sống. Hơi thở đó là hơi thở của văn minh nhân loại, nên tự nó tồn tại.
Và con số hiếm hoi của những nhóm cố gắng giữ mầm văn chương trước bể dâu thời cuộc đó, phải kể đến nhóm Trần Hoài Thư.

Tôi tin văn chương miền Nam từ sau 30/4/1975 đến nay chỉ đang bị khô hạn nên không thể phát triển trong nước. Nhưng có được những tấm lòng như nhóm Trần Hoài Thư, như những bác nông dân cứ cố giữ tốt hạt giống cho vụ mùa, bất chấp nắng cháy, bất chấp khô hạn để chờ một ngày có cơn mưa lớn.

Cơn mưa làm hồi sinh!

Như mầm sống của cỏ cây, hoa lá chịu ẩn mình dưới băng tuyết với không gian tê cóng, rặt một màu xám xịt. Nhưng khi mùa Xuân đến, lại nhú mầm. Lại bùng lên nhiều loại hoa tuyệt đẹp giữa lớp băng tan. Chính những giọt thủy tinh lóng lánh còn vươn trên những cánh hoa đó lại có tác dụng làm hoa thêm đẹp, thêm tinh khiết.

Trong số sách nhóm Trần Hoài Thư tìm tòi, tái bản để giữ mầm đó tôi may mắn có được cuốn Cõi Đá Vàng của Nguyễn Thị Thanh Sâm.

Vì thế, mùa Xuân của văn chương miền Nam phải trở lại. Phải hồi sinh ngay tại Việt Nam như đã và đang bùng phát qua in chui, nhà xuất bản chui, phát hành chui.

Và, có lẽ, chỉ một Việt Nam XHCN mới có loại văn hóa phẩm mà phải chui!
Chúng ta có thể thờ ơ với nhiều thứ nhưng khó thể thờ ơ với văn chương. Vì, văn chương sẽ luân hồi. Chết đi và sống lại. Như văn chương miền Nam hôm nay.

© Hồ Phú Bông
© Đàn Chim Việt


*
Back to top
 
 
IP Logged
 
thule
Gold Member
*****
Offline


Thành Viên Xuất Sắc
*Năm 2010*

Posts: 3836
Re: VĂN HOÁ và  NGÔN NGỮ VIỆT
Reply #244 - 27. Dec 2013 , 07:46
 
Lâu nay mục Ngôn ngữ Việt ngủ hơi say, xin đem bài này vào đây đánh thức quí vị nhẹ  Bài vui vui, có nhiều điều mình không biệt! 




Xem một vài hiện tượng
thú vị trong tiếng Việt.




Trong tiếng Việt, có những từ ngữ hoặc địa danh sử dụng hằng ngày mà nếu có người hỏi tại sao nói thế và nguồn gốc của những từ ngữ ấy từ đâu thì chúng ta đành bó tay; chẳng hạn câu hỏi trên trong một bài ca dao:

Nước không chưn sao kêu nước đứng?
Cá không giò sao gọi cá leo?
Ghe không tay sao kêu ghe vạch?
Bánh không cẳng sao gọi bánh bò?...


1. Hiện tượng tỉnh lược trong ngôn ngữ.




Chúng ta chỉ có thể giải đáp câu trên dựa vào cuốn Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản cách đây trên 110 năm. Trong sách này, tác giả ghi bánh vú bò và giải thích vì bánh đổ vào chén, trông giống như cái vú con bò. Về sau rút gọn thành bánh bò. Ðây là hiện tượng tỉnh lược trong ngôn ngữ.

Các từ sau đây cũng bị hiện tượng tỉnh lược chi phối: dầu con rái => dầu rái, nấm tai mèo => nấm mèo...

Ở miền Bắc có một loài cá giống và to bằng cá chép, nhưng có đặc điểm là tươi rất lâu tên là cá rói. Dù bị bắt ra khỏi nước từ sáng đến trưa cá vẫn còn tươi nên có thành ngữ tươi như cá rói, về sau tỉnh lược thành tươi rói.
Một thành ngữ tương tự: ngay như cây chò (một loại cây rừng thân rất thẳng) => ngay chò (ở Nam bộ biến âm thành ngay chừ).

Cầu Kiệu ở TP.HCM được Trương Vĩnh Ký ghi là cầu Xóm Kiệu (tức là xóm chuyên trồng kiệu), như vậy chữ Xóm ban đầu đã bị giản lược.
   2. Hiện tượng mượn âm.

Một từ khá phổ biến ở Nam bộ dùng để chỉ người phụ giúp tài xế lái xe đò trong công việc bán vé, thu tiền, khiêng xách hành lý là lơ xe. Từ này bắt nguồn từ tiếng Pháp contrôleur, nghĩa là “người kiểm soát (vé)”. Như vậy, từ một âm tiết vô nghĩa - leur, người Việt biến thành một từ có nghĩa.

Ở miền Bắc, người ta thường dùng từ ngữ săm lốp để chỉ vỏ ruột xe đạp và xe gắn máy. Lốp thì người miền Nam cũng dùng và những người biết tiếng Pháp đều biết nó bắt nguồn từ enveloppe, nghĩa là “vỏ xe”. Còn săm ban đầu người miền Nam và nhất là những người không học tiếng Pháp không hiểu nghĩa. Từ săm bắt nguồn từ ngữ chambre à air “ruột xe”.

Tại sao có từ bồ bịch, nghĩa là nhân tình? Nguyên trước đây có một từ ghép bồ bịch, chỉ hai nông cụ. Bồ là dụng cụ đựng lúa, có đáy; còn bịch cũng là nông cụ đựng lúa nhưng là tấm ví khoanh tròn, không đáy vì lấy nền nhà làm đáy.



Do đó, ca dao VN có câu:
Bởi anh chăm việc canh nông
Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài.



Trong tiếng Việt trước đây có từ bầu (bạn), có biến âm là bồ tương tự như đậu xanh - đỗ xanh, thi đậu - thi đỗ... Vì từ bồ (bạn) đồng âm với từ bồ (cái bồ) nên từ bồ bịch thứ hai (người yêu) ra đời. Chúng tôi gọi đây là hiện tượng     mượn âm.

Một số trường hợp tương tự. Trái sầu riêng có nguồn gốc từ Malaysia là đu-riêng. Ban đầu (giữa thế kỷ 19) người Việt dùng cả hai từ, sau loại hẳn từ đu-riêng.

Huyện Kế Sách ở tỉnh Sóc Trăng gốc Khmer là Ksach, nghĩa là “cát”. Vì gần âm với từ kế sách (phương kế, sách lược) nên Kế Sách đã thay thế Ksach.
Nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine của Pháp đã được các trí thức VN khoác cho chiếc áo của Lữ Bố: Lã Phụng Tiên (họ Lữ cũng đọc Lã, Phụng Tiên là tự của Lữ Bố).

Ðèo ở phía bắc thành phố Nha Trang do kỹ sư người Pháp Rury điều khiển sửa sang nên Pháp dùng tên người này đặt cho đèo. Người Việt đã gọi là đèo Rù Rì.

3. Hiện tượng biến âm.

Người Nam bộ thường bảo trẻ con đi chỗ khác chơi, không được láng cháng trước mặt. Nhưng trong từ điển của Huỳnh Tịnh Của đã nói ở trên ghi loán choán. Như vậy từ gốc là choán, yếu tố láy là loán và nghĩa gốc của láng cháng là “choán chỗ”. Ðây là hiện tượng biến âm.

Ở các đô thị Nam bộ có loại xe chuyên chở đồ đạc phục vụ xã hội mang tên ba gác. Nhiều người biết tiếng Pháp cũng ngỡ ngàng khi biết nguồn gốc Pháp của từ này là bagage, nghĩa là “hành lý”.

4. Hiện tượng láy nghĩa.

Bỏng trong từ bé bỏng có nghĩa là “nhỏ”. Trong tập thơ cổ Thiên Nam ngữ lục có câu thơ sử dụng từ bỏng với nghĩa này:

Trẻ thơ bỏng dại thiếu người lo toan

Hai từ bé và bỏng đồng nghĩa hay gần nghĩa kết hợp với nhau. Ðó là hiện tượng láy nghĩa.

Nhiều từ trong tiếng Việt bị chi phối bởi hiện tượng này: Việt + Việt: tìm kiếm, chờ đợi, yêu thương; Việt + Pháp:canh gác

Biết được nguồn gốc và ý nghĩa của nhiều từ tiếng Việt, ngoài cảm giác thú vị, ta còn yêu thích tiếng mẹ đẻ hơn.

LÊ TRUNG HOA
Back to top
 
 
IP Logged
 
Lethikinhhoang
Gold Member
*****
Offline


Cười là liều thuốc
bổ

Posts: 3614
Gender: female
Re: VĂN HOÁ và  NGÔN NGỮ VIỆT
Reply #245 - 27. Jul 2014 , 20:11
 
Sự khác nhau trong văn hóa ứng xử giữa Sài Gòn và Hà Nội


Sự khác nhau trong văn hóa ứng xử giữa Sài Gòn và Hà Nội



Từ nhiều năm qua báo chí thường xuyên nhắc nhở tới cách ứng xử của người dân qua những hành xử thông thường nơi công cộng hoặc các hành động mang tính văn hóa giữa cộng đồng.
Những bài viết này luôn nhận được phản hồi tích cực từ người đọc nhất là nơi bị chỉ trích tuy nhiên sau khi tờ báo được cất hay cũ đi, tất cả mọi thứ trở về với trạng thái cũ, tức là cảnh gấu ó ngoài đường, tranh giành nhau một chỗ đứng, sẵn sàng buông ra lời tục tĩu nếu một người nào đó vô ý đụng chạm tới thân thể hay tài sản của mình. Tất cả những thứ ấy được gói gọn vào bốn chữ văn hóa ứng xử, cụm từ mà trước đây vài chục năm không ai cảm thấy cần phải bàn tới.
Your browser does not support the audio element.
Một nếp gấp lớn

Giáo Sư Nguyễn Đăng Hưng một Việt kiều Bỉ không ngạc nhiên khi báo chí đặt vấn đề sự khác nhau trong văn hóa ứng xử giữa Sài Gòn và Hà Nội. Có một nếp gấp rất lớn giữa hai thành phố mặc dù cùng là người Việt như nhau:
“Tôi thấy những nhận xét ấy không sai đâu. Chính bản thân tôi khi về Việt Nam thì tôi cũng có lớp đào tạo tại Hà Nội cũng như trung tâm đào tạo tại Sài Gòn. Hai mươi năm gần đây thường thường mỗi năm tôi về Việt Nam ở Hà Nội thì hai lần mỗi lần ba tuần. Ở Sài Gòn tôi cũng về hai lần mỗi lần một tháng. Quê tôi ở miền Trung nên toàn bộ nước Việt Nam tôi đều không những bước chân tới mà còn hào mình với nhân dân các vùng.
Phải nói rằng cái văn hóa thanh lịch của Tràng An phải thừa nhận rằng tại Hà Nội chính bản thân tôi cũng rất ngạc nhiên vì không như mình đã tưởng tượng mà nó đã mất đi cái sắc thái chốn kinh kỳ, văn hóa Tràng An của dân tộc Việt nó mất đi bản sắc rất nhiều.”
Lý do tại vì cái văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống bị phai nhạt bởi chính sách, cơ chế của nhà nước nó bài bác nó coi những văn hóa đó là sản phẩm của thời kỳ phong kiến, thời kỳ tiểu tư sản. -GS Nguyễn Đăng Hưng
Tại miền Nam, nền văn hóa phương Tây đã vào theo cùng với bước chân thực dân Pháp. Cung cách đi đứng, ăn nói cũng như đối xử với người khác dần dần ăn sâu vào tính cách người Việt qua sự chung đụng với nhau trong xã hội. Trẻ em tới trường được thầy cô giáo dạy dỗ trước tiên là sự kính trên nhường dưới rồi sau đó mới tới việc tiếp thu các bài học vỡ lòng. Học sinh được cấy vào tâm hồn trong trắng thứ giáo dục nhân bản và sau nhiều năm ngồi trên ghế nhà trường, cách ứng xử phải phép đã hình thành một cách tự nhiên trong đời sống hàng ngày và cả xã hội làm theo một cách vô thức. Người miền Nam có cái may mắn ấy và Sài Gòn là nơi bộc lộ tính cách văn minh rõ rệt nhất.
Trong khi đó miền Bắc lại không may mắn như thế. Suốt nhiều năm sống trong chiến tranh, mọi tinh hoa từ thời Pháp để lại đều bị triệt hạ. Mọi cung cách trang nhã đều bị lên án, mọi cử chỉ trịnh trọng được xem là bắt chước bọn sen đầm. Cả xã hội quay cuồng với chủ nghĩa cộng sản vốn thù hằn gay gắt trí thức tiểu tư sản. Giai cấp tiều tư sản chính là thành phần thu nhận văn hóa tây phương một cách triệt để và ảnh hưởng của nền văn hóa ấy đã tạo nên một tầng lớp tinh hoa hay ít nhất cũng đáng được gọi là có văn hóa theo nghĩa rộng nhất.

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng nhận xét về điều mà ông gọi là nền văn hóa bị thế chấp:
“Lý do tại vì cái văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống bị phai nhạt bởi chính sách, cơ chế của nhà nước nó bài bác nó coi những văn hóa đó là sản phẩm của thời kỳ phong kiến, thời kỳ tiểu tư sản. Thời kỳ văn hóa du nhập từ Tây phương cho nên họ bài bác và họ lại đem những văn hóa khác để thế chấp. Những văn hóa này hơi thô kệch, giản dị vê những quan niệm ứng xử nó phát xuất từ Trung Quốc và có thề phần nào ở Liên Xô thời trước.”

Nếu các nước trong khu vực tỏ ra ngày một gần hơn với văn hóa ứng xử Tây phương thì Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử lại chọn Trung Quốc và Liên xô cũ để làm điểm tựa. Nếu nhiều ngàn năm sống trong không khí Khổng Mạnh người Việt không hề bị đồng hóa thì chỉ chưa đầy 80 năm sống gần với văn hóa “lợi ích cốt lõi” của người Tàu, không ít người Việt tại miền Bắc đã bị biến dạng. Họ không nói hay viết tiếng Tàu nhưng cách đi lại nói năng hầu như không khác mấy với phim Tàu chiếu thường trực trên các kênh truyền hình lớn nhỏ của miền Bắc.

Cung cách lễ lạc tại miền Bắc bị ảnh hưởng rõ rệt văn hóa mê tín dị đoan du nhập từ Trung Quốc. Những hình thức cúng tế xin xỏ điều lợi lộc được nhà nước công khai cổ vũ, thúc đẩy và tạo cơ hội cho dân chúng tiếp cận mà khai ấn đền Trần hàng năm là một ví dụ.

Phim Tàu, mê tín cũng tràn ngập miền Nam nhưng có lẽ nhờ chút miễn nhiễm từ một nền văn hóa do Pháp để lại, cộng với khí chất sông nước phương Nam đã khiến cho số lớn người dân miễn nhiễm với nền văn hóa ô hợp phương Bắc.
phohoa_020109sapo-305.jpg
Phố hoa Hà Nội Tết 2009 bầm dập vì người dân chen nhau chụp ảnh, bẻ trộm hoa.


Vào Sài Gòn người ta khó gặp cảnh người ăn xin bị xua đuổi một cách tệ hại như tại Hà Nội. Tại Hà Nội người ta có thể kéo áo nhau giữa đường để đòi nợ nhưng ở Sài Gòn thì con nợ chủ động than thở với chủ nợ và chờ đợi sự cảm thông.
Một gánh rau bán ế có thể được người mua thông cảm tại Sài Gòn nhưng khó mà tìm một cái chắt lưỡi của người Hà Nội. Tất cả những khác biệt khó nhận ra ấy đã hình thành hai nền văn hóa ứng xử trái ngược. Không phải giai cấp xã hội hình thành cách ứng xử ấy mà chính là nền văn hóa ngoại nhập đã xô đẩy người dân vào quỹ đạo của những tật nguyền văn hóa.
Kinh tế gia Bùi Kiến Thành, một Việt kiều sống và làm việc nhiều năm tại Hà Nộ có cơ hội quan sát và sống cùng với người dân thủ đô đưa ra nhận xét của một người gốc gác miền Nam như sau:
“Trong Nam thì đất rộng người thưa, bao nhiêu năm nay cuộc sống rất là thoải mái khác với miền Bắc đất hẹp người đông cho nên việc tranh giành nhau nó có lẽ khác biệt hơn trong Nam.
Ở ngoài Hà Nội thì một cái nhà ngang 3-4 mét bề sâu thì 5-10 mét đó là nhà phố cổ như vậy từ bao nhiêu lâu nay rồi. Trong Nam thì đất rộng hơn nhà thì 5-7 mét chiều ngang, hai ba chục mét chiều sâu… vì vậy cho nên cái không gian trời đất cho mình nó ảnh hưởng không gian trong đầu óc của mình nên nó thoáng hơn.”
Trừng phạt người vi phạm?

Không riêng chốn công cộng mới có chuyện gây gỗ, thóa mạ hay tấn công lẫn nhau mà nơi công sở cũng đầy dẫy hiện trạng bê bối của cách hành xử. Có lẽ do cảm nhận được sự nguy hiểm khi danh tiếng Tràng An bị đánh mất, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã soạn thảo một thông tư có nội dung “khung hệ thống các quy tắc ứng xử tại nơi làm việc, nơi công cộng”
Theo báo Lao Động thì quy tắc này đặt ra các biện pháp trừng phạt người vi phạm nhằm thiết lập dần lối sống chuẩn mực của một xã hội văn minh lịch sự.
Nếu hình thức chỉ xử phạt để dẫn dắt người dân trở về con đường văn minh lịch sự như tờ báo mô tả thì chắc chắn sẽ không tiến tới một kết quả nào dù nhỏ nhất, mà trái lại có thể gây thêm hố chia rẽ giữa người có và người không có văn hóa ứng xử.
Chúng ta cứ ngẫm nghĩ chậm rãi, từ từ chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Đó là hàng chục năm nay chúng ta mơ ước xây dựng thành công con người mới xã hội chủ nghĩa và khủng khiếp thay chúng ta đã thành công.
-Đỗ Trung Quân
Làm sao có thể viết giấy phạt khi một người không biết nói cám ơn? Mặc dù ai cũng biết hai tiếng cám ơn và xin lỗi là căn bản nhất cho bất cứ nền văn hóa nào trong cung cách ứng xử, thế nhưng muốn cả xã hội ý thức được điều ấy thì không một sự trừng phạt nào có thể được chấp nhận ngoại trừ giáo dục người dân ý thức và thực hành nó trong trạng thái phản xạ bình thường.
Xử phạt người không nói cảm ơn là vi phạm hiến pháp bởi không một luật lệ nào dù của một bộ lạc sơ khai lại mang một người không hề vi phạm pháp luật ra để mà xử phạt. Cám ơn hay không cám ơn không hình thành bộ mặt văn hóa, nó chỉ là một góc của toàn cảnh và thiếu nó trong một bối cảnh nào đó người ta chỉ có thể cảm thấy bị xúc phạm một cách lặng lẽ chứ không bao giờ gây ra hậu quả nào có hại cho cộng đồng.
Cũng giống như câu chuyện bún mắng cháo chửi chỉ xảy ra tại Hà Nội. Người mua hàng không cần biết tự trọng khi chấp nhận thái độ khinh người của chủ quán để ăn một bát bún có thể ngon hơn nơi khác nhưng sự mất mát sau bát bún ấy không ai có thể tính toán một cách chính xác nó như thế nào.
Những ngôn từ thô lỗ có làm cho khách cảm thấy bị sỉ nhục hay không chính là thước đo lòng tự trọng của họ. Khi lòng tự trọng bị đánh đổi chỉ với một bát bún thì nhân phẩm của người ngồi nghe chửi để được ăn ấy chắc không hơn giá trị một bát bún 20 ngàn tiền Việt Nam.
Văn hóa ứng xử đến từ nhân cách của mỗi con người trong tập thể xã hội. Nỗ lực cải cách nhân cách bằng hình thức xử phạt chỉ nói lên sự bất lực lớn lao của nền giáo dục và chính sách gìn giữ bảo tồn văn hóa của nhà nước. Nếu xét kỹ từng sự kiện rời rạc thì sẽ không khó để nhận ra rằng chính những cán bộ trong hệ thống cầm quyền lại là những cá nhân cần điều chỉnh lại nhân cách nhất.
Những yếu tố khiến dân chúng vô tình bị ảnh hưởng đó là cung cách sống, phát ngôn, hành xử và ban bố luật pháp tùy tiện của cán bộ cao cấp của hai thành phố.

Nếu Sài Gòn ít bị than phiền về thói xấu có tính hệ thống ấy thì Hà Nội lại dày đặc các mẩu tin về phát ngôn trái khoáy khiến dân chúng lâu dần không cảm thấy lạ lùng nữa. Đã không lạ lùng mà còn được xem là bình thường và từ đó ăn sâu vào tiềm thức hình thành nên thói quen xem thường người khác như quan cán bộ xem thường dân chúng.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tầng lớp di dân vào thành phố đã biến dạng văn hóa ứng xử của người dân thủ đô. Thật ra di dân các tỉnh kéo về Sài Gòn đông hơn Hà Nội vậy mà nó vẫn dung chứa và sống cùng với những con người khốn khổ ấy gây mối tương quan xã hội trên cách hành xử đậm tình người hơn cách mà người dân Hà Nội đã làm.
Người ta còn nhớ câu chuyện cướp hoa của người dân Hà Nội chung quanh Hồ Gươm vào đầu năm nay. Trong khi người dân Sài Gòn hằng năm vẫn tổ chức những chợ hoa khổng lồ mà không hề xảy ra sự đáng tiếc nào thì tại Hà Nội người dân hành xử hoàn toàn khác hẳn. Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng chia sẻ điều mà theo ông cốt lõi vấn đề bắt đầu từ sự kiện cải cách ruộng đất:
“Ngay cả ông Tô Hoài cũng đã viết rất nhiều sách về cái cảnh con tố cha vợ tố chồng thời kỳ cải cách ruộng đất. Đây là điều làm suy sụp văn hóa truyền thống. Cái văn hóa dở hơi này nó xuất hiện rất sớm ở miền Bắc và ở miền Nam sau năm 75 cho nên cái bề dày ảnh hưởng văn hóa ở miền Bắc nó nặng nề hơn miền Bắc tệ hơn miền Nam về vấn đề thanh lịch, lễ phép và lịch sự. Bằng chứng là ở Sài Gòn này chợ hoa Nguyễn Huệ đã có từ trước năm 75 rồi sau này sau năm 75 mỗi năm đều có chợ hoa. Chợ hoa được dân chúng thưởng lãm trân trọng tron ba ngày tết không có vấn đề gì. Trong khi đó ở Hà Nội có một lần tổ chức chợ hoa, nhập vê một số hoa anh đào của Nhật thì bị người dân Hà thành tới khuân về, chỉ một đêm là không còn cái hoa nào cả.
Đó mới thấy sự tôn trọng thẩm mỹ, tôn trọng thủ công tôn trọng nền văn hóa không được thấm nhuần nữa. Người ta muốn chiếm đoạt, người ta muốn đem về cho mình. Cái văn hóa kiểu ấy nó đã xuất hiện rất lâu tại miền Bắc và còn tác hại cho tới bây giờ.”
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đưa ra một ý tưởng lý thú mà ông cho rằng gói gọn trong một câu chuyện có vẻ tiếu lâm nhưng hoàn toàn có thể áp dụng cho xã hội ngày nay khi mà nhà nước muốn đào tạo những tầng lớp thanh niên hoàn toàn tránh xa chuẩn mực của văn hóa ứng xử:
“Tôi chỉ xin tổng kết bằng một câu, có thể rất hài hước nhưng hoàn toàn chính xác. Chúng ta cứ ngẫm nghĩ chậm rãi, từ từ chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Đó là hàng chục năm nay chúng ta mơ ước xây dựng thành công con người mới xã hội chủ nghĩa và khủng khiếp thay chúng ta đã thành công. Một câu nói hài hước có vẻ chỉ là đùa chơi thôi nhưng nó cho thấy toàn bộ câu hỏi của anh, và đó cũng là câu trả lời của tôi thưa anh.”
Dĩ nhiên không phải ai sống tại Hà Nội cũng đều thiếu văn hóa ứng xử hay tại Sài Gòn thì sẽ thành hòn ngọc Viễn Đông nhưng câu nói “con sâu làm rầu nồi canh” vẫn làm cho cả nước xót xa cho một nền văn hóa không đáng bị xem thường như thế.
Nền văn hóa ứng xử thiếu xương sống ấy vẫn đang lan rộng trong từng giai tầng Việt Nam. Nó như căn bệnh hoại thư, không thể chữa lành nếu người bệnh không cảm giác bị đau đớn nơi vết thương trên cơ thể của họ.
Cắt bỏ một ung nhọt là việc làm quá dễ trong khi không cho ung nhọt xuất hiện cần một nỗ lực hàng trăm năm, nhất là ung nhọt của một nền văn hóa còi cọc và chấp vá bởi nhiều nền văn hóa khác.
Back to top
« Last Edit: 27. Jul 2014 , 20:13 by Lethikinhhoang »  
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 15 16 17 
Send Topic In ra