Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - ĐẤT NƯỚC TÔI  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 
Send Topic In ra
ĐẤT NƯỚC TÔI (Read 13000 times)
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
ĐẤT NƯỚC TÔI
08. Mar 2007 , 20:20
 
Tôi trở về nhà sau một chuyến bay dài đỏ mắt. Không biết ai là người đầu tiên đặt tên cho những chuyến bay đêm là “đỏ mắt” thật là hay. Chập chờn giữa thức và ngủ cả mười ba, mười bốn tiếng thì chắc chắn mắt xanh như cô Kiều của cụ Nguyễn Du cũng thành mắt đỏ. Chữ nghĩa mang ảnh hưởng đến đời sống tình cảm của ta rất nhiều, có những chữ mình không thể nào thay bằng chữ khác được. Mỗi lần đi, về giữa Việt Nam và Mỹ tôi vẫn lúng túng giữa về Mỹ, hay về Việt Nam. Việt Nam là quê hương của mình thì mình về là đúng rồi, nhưng ở Mỹ có một mái nhà, mảnh vườn, cái bếp của mình thì mình nói là về đâu có sai. Nhưng sao lúc từ giã Việt Nam, chào những người thân quen, nói tiếng trở về Mỹ lòng vừa ấm áp vừa thấy buồn buồn. Ba mươi năm sống ở Mỹ mà vẫn chưa mờ nỗi nhớ quê hương, vẫn bất chợt một hôm nào đó, không cần phải là có nắng thu hay có mưa đông, chỉ là một buổi chiều như tất cả mọi buổi chiều, đang ngồi uống ly trà bỗng khựng lại nhớ về một buổi chiều nào rất xa xôi ở quê nhà thăm thẳm, về cái xóm cũ, về cái ngõ vào nhà, về cái vũng nước đọng ở cái ổ gà đâu đó, về cây trứng cá, về cái bể nước mưa. Rồi lan man nhớ về trường cũ, về buổi hẹn hò đầu tiên, người yêu thứ nhất, người tình thứ hai. Chao ôi, nhớ ơi là nhớ! Nước mắt ứa ra, bỗng thèm được về quê ngay lập tức. Thế mà về Việt Nam đến tuần lễ thứ ba là bắt đầu nhớ về cái nhà ở Mỹ. Không biết mấy chậu cây có ai tưới hộ không? Mùa Ðông này tuyết có rơi không? Nhớ về mấy người thân, mấy người bạn đang mong mình về, rồi lại nhớ về cái sạch sẽ, cái tiện nghi và chỉ ước gì được về ngay để ngủ trên cái giường của mình thay vì phải ngủ ở khách sạn.

Chao ôi! chỉ một chữ về mà có trăm điều muốn nói.

Anh Sơn, ông anh họ của tôi, du học từ thập niên 60. Bây giờ ngoài 60 tuổi, anh đã đi du lịch khắp nơi trên thế giới, anh nói:

- Bao giờ về Việt Nam tôi vẫn thích nhất.

Tôi nói :

- Tại vì Việt Nam là quê hương của mình, nên tự nhiên mình yêu. Thế thôi!
Anh bảo:

- Ðúng vậy!

Chúng ta chắc ai cũng yêu quê hương của mình, tự nhiên như yêu cha mẹ, con, cháu hay yêu chính bàn tay, bàn chân mình. Thế thôi! Thật là dản dị. Thế là anh em rủ nhau thu xếp về Việt Nam. Về Việt Nam vào dịp cuối năm, vào dịp thiên hạ kéo nhau “về quê ăn tết” rất là đông nên phải mua vé từ tháng sáu.

Tôi cứ tính tới tính lui xem phải đem những gì? Vì lần này đem theo cả chồng con, sẽ dự tính đi nhiều nơi nên không thể đem theo những thùng quần áo lạnh về Bắc cho họ hàng ở quê được. Thôi đành giữ lại chờ dịp sau. Cứ cách hai, ba năm tôi về thăm Việt Nam một lần. Mỗi lần về lại thấy một Việt Nam đổi khác, nghe những câu chuyện khác về Việt Nam. Hai cậu con trai của tôi mới về lần thứ nhất, đã thấy xôn xao rủ nhau cuối năm trở lại không có bố mẹ đi theo. Chắc trong máu hai cậu, những giọt nào thuộc về mẹ cho mình đang dành chỗ đứng.

Chúng tôi đi trong một Hà Nội đầy gió, người Hà Nội đặt tên cho gió này là Gió Mùa Ðông Bắc. Có không biết bao nhiêu thi sĩ, bao nhiêu nhạc sĩ đã xúc động về những cơn gió này và viết ra bao nhiêu tác phẩm làm thăng hoa đời sống con người để ngay cả khi đang sống trong một hoàn cảnh khó khăn nhất, con người vẫn tìm ra cái đẹp của nơi mình đang sống. Khí hậu của tháng Mười Một và tháng Chạp âm lịch là khí hậu lạnh và đẹp nhất trong năm của miền Bắc. Gió hay trở lạnh đột ngột như một người đi xa bỗng trở về không báo trước. Có thể mới buổi sáng trời còn rất ấm không có gì báo hiệu là một ngày lạnh, nhưng đến trưa gió ở đâu bỗng kéo về chật phố. Gió chen chúc vào đám đông đang đi trên đường, gõ cửa những ngôi nhà, hàng quán, ngồi sát vào những người buôn bán hai bên vỉa hè rất là hồn nhiên. Chẳng cần nói năng gì cả. Chỉ cần có mặt, tôi đến, tôi ngồi xuống và tôi ở lại. Giống như Caesar ngày trước I came, I saw, I conquered. Thế là mọi người chạy ùa đi mua áo ấm để ngồi chung với gió.

Chúng tôi đã được đi, được ngồi chung với Gió Mùa Ðông Bắc trong suốt mười ngày ở Hà Nội.

Bây giờ ngồi đây nhớ Gió Mùa Ðông Bắc, muốn khóc.  

Suốt từ Sài Gòn, đi xe ca theo tour Tiền Giang, Hậu Giang, Phan Thiết, Nha Trang, Hà Nội rồi bay ra Phú Quốc, ta nhìn thấy sự phồn thịnh luôn luôn đi bên cạnh nghèo đói một cách rất rõ ràng. Miền Bắc, miền Trung ở quê vẫn còn khổ và nhiều người rất nghèo trong khi ở thành phố Sài Gòn, Hà Nội, hàng đêm người ta đổ xô ra phố tiêu tiền (không biết tiền ở đâu ra mà nhiều thế!) Ở những nhà hàng, những quán ăn thì người trong nước tiêu phung phí hơn Việt Kiều. Thử vào một chỗ ăn chơi như vào bar chẳng hạn, thì có thể chỉ nhìn chai rượu gọi sẽ nhận ngay ra ai là Việt Kiều ai là Việt Việt (chữ một cậu cháu tôi dùng để gọi người trong nước). Việt Kiều xài sang gọi chai rượu 150 mỹ kim, trong khi đó Việt Việt gọi chai rượu 1.500 mỹ kim. Tôi quê mùa, hỏi cháu:

- Chai rượu gì mà đắt vậy?

- Con không biết, nhưng thấy họ trả 1.500 mỹ kim cho chai rượu; họ đi năm, sáu người tiêu một buổi tối năm ngàn đô là chuyện nhỏ.

Nghe nói một tối tiêu năm ngàn đô là chuyện nhỏ thì chắc ai cũng biết cái xuất xứ của những số tiền nhỏ đó thật là mù mịt.

Ăn uống ở các tiệm bây giờ cũng đắt hơn gấp năm sáu lần của ba năm trước và không ngon. Trung bình chúng tôi ăn một bữa cho một người là từ ba cho đến bẩy mỹ kim. So với ở Mỹ thì rẻ, nhưng với tiền lương của một người trung bình là 700.000 đồngViệt- khoảng hơn 40.00 mỹ kim một tháng- thì làm sao trả được. Tôi tự hỏi, Sài Gòn bây giờ hình như không ai nấu ăn trong nhà hay sao mà tối nào các tiệm, các quán cũng tấp nập khách ăn? Bao giờ nhìn chung quanh các bàn cũng rất nhiều người địa phương ngồi ăn, phần đông là giới trẻ, và trung niên. Trên bàn đầy ắp thức ăn và bia, nước ngọt.

Lương của một công chức không biết con số thật là bao nhiêu? Tôi có một người em họ xa ở Hà Nội, làm phó giám đốc một công ty nhà nước gì không rõ mà anh đi xe BMW, khi chúng tôi tới thì vợ đang du lịch ở Singapore, con thì đi du học ở Mỹ, một năm hết ba mươi ngàn Mỹ Kim tiền học, chưa kể chi phí ăn ở. Nghe mà giật mình. Theo cách anh nói chuyện thì ở Việt Nam bây giờ du học tự túc ở Pháp và Ðức như một phong trào cho các con ông lớn. Học giỏi hay không thì chưa rõ, nhưng mà đã là con của những ông lớn thì phải xuất ngoại, phải du học. Sang bên đó không học được thì ở chơi một thời gian, may mắn kiếm được người lấy thì ở lại, không thì về.

Nghe anh nói, tôi nhớ đến một ca làm việc của mình ở Mỹ. Khi tôi đến thăm tại gia cho một sản phụ được hưởng Phiếu Y Tế (Medical Coupon) tôi mới biết đó là một sinh viên Việt Nam du học tự túc, có bầu và ở lại. Cô là sinh viên du học mà không nói được một câu Anh Ngữ nào. Căn nhà cô ở thuê là một apartment water front. Tôi hỏi tiền đâu mà cô trả tiền nhà thì được cô cho biết căn apt. này cha mẹ cô chuyển tiền sang mua, trả bằng tiền mặt, cho một người bà con có quốc tịch Mỹ đứng tên. Nghe mà giật mình, vì tôi biết căn apartermen đó ở Seattle ít nhất là 400.000 Mỹ kim, bởi gần sát mặt hồ.

Khi có những người giầu không rõ xuất xứ lợi tức như thế thì người nghèo có xuất xứ rất rõ ràng. Họ sống bằng những món tiền kiếm được hàng ngày rất khiêm tốn. Nếu đi dọc theo bờ hồ Hoàn Kiếm ta sẽ luôn luôn bắt gặp những người (một cụ già, hay một đứa trẻ đang tuổi đi học) bán vé số, hoặc nước trà. Bán vé số thì lấy vé của nhà nước đi bán lại mỗi vé số giá có hai ngàn, không biết lời được bao nhiêu? Trong khi đó giá một gói xôi khoảng bốn ngàn đồng- một Mỹ kim bằng 15.900 đồng-Vốn liếng của người bán nước trà tất cả chắc chưa đến ba Mỹ kim: Một cái ấm ủ trong cái khăn cũ kỹ, vài cái ly thủy tinh nhỏ, năm ba cái kẹo lạc, kẹo vừng. Họ ôm cái gia sản bán buôn đó trong vòng tay gầy guộc, mời khách bên hồ. Hy vọng họ kiếm đủ cơm ăn cho một ngày hôm đó. Ngay ở trong khu phố có tấp nập khách du lịch, thỉnh thoảng ta vẫn thấy một người gánh hai cái thúng hầu như chẳng có gì trong đó, chỉ có vài ba mớ hành, mấy củ su-hào, mấy quả chanh đem đi bán. Chắc đây là những thứ kiếm được trong vườn nhà. Tiền thu về may ra đủ cho một gói xôi, hay hai chiếc bánh mì không nhân. Có cô bé lên năm cầm từng chiếc kẹo cao su lẻ bán cho du khách, cô bé nhỏ xíu, đen thui, ốm nhách mà cái mặt tươi như một bông hoa Mười Giờ chạy theo con gái tôi, đưa cái kẹo ra mặc cả bằng thứ tiếng Mỹ ngô ngọng, thấy vừa buồn cười, vừa tội nghiệp. Cô con gái tôi trêu cho em cười bằng cách nói tiếng Việt cũng ngô ngọng với em và gần như muốn bế em lên, vì em bé xinh quá!

Ôi tuổi thơ Việt Nam! Khi em lớn lên, em sẽ có ước vọng gì?

Ði càng về miền quê càng thấy những người nghèo. Ở những nơi ruộng nước như lối vào Tam Cốc, Bích Ðộng ở Ninh Bình hay Suối Trong, Suối Ðục ở Chùa Hương thì những người dân quê vẫn ngâm một nửa người trong nước nguyên ngày mò ốc, lưới tép kiếm ăn. Một kí tép khoảng hai chục ngàn, ngâm nước nguyên ngày được khoảng ba đến năm kí, kiếm được 60.000 -100.000 đồng cho nguyên một gia đình bốn năm người, trong đó có cả tiền học cho con. Trẻ con đi học cho biết đọc, biết viết rồi nghỉ vì không có tiền trả tiếp, lại đi ngâm mình dưới nước giống cha mẹ thôi. Suốt một đời họ ngâm dưới nước. Người chèo thuyền chỉ cho chúng tôi xem một vài nấm mộ chôn một nửa chìm dưới nước, nói là mộ của những ông bà cụ già suốt đời mò cua, xúc tép ở đây, họ muốn con cháu họ chôn mình như thế, vì họ đã có câu: “Sống ngâm da, chết ngâm xương” để chỉ đời sống gắn liền với nỗi vất vả này.

Du khách Âu Châu đổ vào Việt Nam một ngày một đông hơn, sau sau vụ khủng bố11/9/2001. Cả nước sống về nguồn lợi thu nhập được của du khách. Du khách nước ngoài vào, mang theo bao sự thay đổi. Việt Kiều đóng một vai trò không nhỏ trong môi trường này. Mỗi người đem một ít về cho thân nhân, giúp vốn buôn bán, xây lại nhà cửa, mai mối cho lấy chồng nước ngoài.

Cho nên ta thấy có những con hẻm lầy lội, nghèo nàn tự nhiên mọc lên một cái nhà hai ba, thậm chí bốn từng. Cửa kính, cửa sắt đứng cô đơn như một anh hề sau khi vãn hát. Những cô gái được tân trang từ đầu đến chân để lấy chồng nước ngoài, trông như những con búp bế vô hồn. Ðã có một số cô bằng lòng lấy bất cứ ai, dù đó là anh cắt cỏ hay rửa chén bên Mỹ, bên Úc. Ngay cả một anh ăn tiền tàn tật cũng vẫn lấy. Cứ lấy để đi đã, sang đó không ở được thì bỏ. Những câu chuyện đó bây giờ không có gì là mới lạ nữa, chỉ có sang bên đó mà sau năm năm không bỏ chồng thì mới gọi là “Lạ”. Người không có thân nhân lo cho thì sẽ rơi vào bất cứ một bàn tay không lương thiện nào đó, và đã xẩy ra bao nhiêu thảm kịch. Ban đầu thì còn là chuyện thương tâm, sau đi đến nỗi quốc nhục.

Nhiều cô gái quê lớn lên trong cảnh nghèo sẽ làm bất cứ điều gì, không đắn đo để được thoát ra cảnh mò ốc, bắt cua, làm ruộng. Cô ở tỉnh thì chạy theo những nhu cầu vật chất và cũng một phần muốn có một cuộc sống nhàn nhã, không phải vật lộn với đời sống xã hội khó khăn hiện tại, nên họ không ngần ngại làm gái bao cho những người nước ngoài. Chúng tôi đã gặp trên con đường từ Bắc vào Trung, ra Nam một vài cô rất trẻ, khoảng 17 đến 22 đi cặp đôi với những người đàn ông luống tuổi nước ngoài như Thụy Sĩ, Ðức, Pháp, Ðại Hàn, Ðài Loan.v.v. Trên bãi biển Phú Quốc nơi chúng tôi tắm, một lúc chúng tôi gặp ba người Ðức độ ngoài sáu mươi tuổi cùng tắm với ba cô gái Việt rất trẻ. Họ ngồi ngay ở mấy cái võng, và bàn ăn dưới gốc dừa cạnh chúng tôi. Họ nói tiếng Anh với mấy cô, mấy cô nói rất ít, ngoài lắc, gật và cười ròn rã. Một lúc sau có thêm một người nữa dắt một cô đến, họ làm quen và nhập bọn với nhau. Họ ngồi ngay cạnh chúng tôi, nên dù không chú ý cũng nghe rõ tiếng những người đàn ông nói với nhau:

- Gái ở đây hiền và dễ bảo hơn gái Sàigòn.

- Sống ở đây, cần bao nhiêu một tháng, kể cả tiền trả cho mấy cô này?

- Rẻ lắm, chỉ độ năm trăm mỹ kim thôi.

Hình ảnh mấy ông già da nhăn nheo đó đùa rỡn dưới biển với mấy cô má hồng còn lấm tấm mấy cái mụn dậy thì, trông chẳng khác gì cảnh ông nội, ông ngoại ra bơi với cháu. Thật đáng buồn!

Tôi nhìn sang con gái tôi, cô đang nằm phơi nắng trong bộ áo tắm, cuốn tiểu thuyết The memoirs of a Geisha úp trên mặt, tôi thấy cô thật là may mắn biết bao! Cô được đi học, cô có việc làm tử tế, cô kiếm sống được bằng kiến thức và lòng tự trọng. Nếu cô chẳng may sinh ra và lớn lên trong một cái làng, cái tỉnh nghèo nàn nào đó Việt Nam, không được đi học đến nơi, đến chốn, thì có gì bảo đảm cô sẽ không là một trong những cô gái đang bơi lội dưới kia? Cái nghèo khó luôn luôn kéo theo cái bất hạnh.

Giữa mênh mông sóng biển, nhìn những cô gái trẻ đang bơi trong nước, bỗng những cành đào Nhật Tân hiện ra trong trí tôi. Những cành đào hiếm hoi còn sót lại năm nay ở làng này vì người ta đang cào xới đất để xây những cao ốc trên đó. Rồi những cô gái làng này không còn hoa đào để bán, không còn đất để trồng cúc, trồng lay-ơn, trồng hoa hồng nữa. Họ sẽ đi đâu và sẽ làm gì để sống? Họ sẽ lại ra những bãi biển với những người đàn ông già như ông nội hay sao?

Khu đất cổ truyền trồng hoa, nổi tiếng về hoa đào Nhật Tân còn không cứu được, còn bị san bằng để xây cao ốc thì những cô gái Nhật Tân có ai cần để ý tới là họ sẽ trôi ra biển hay đi về đâu!

Người thanh niên hai mươi tám hướng dẫn tour cho chúng tôi than:

- Tụi con bây giờ, những người lợi tức thấp, khó kiếm vợ và kiếm bồ lắm. Họ cặp với người nước ngoài hết rồi cô ơi!”

Tôi hỏi.:

- Nhưng các cô ở miền quê như Phú Quốc này, thì làm sao gặp được những người du khác ở xa đến, trong khi họ lại không biết ngoại ngữ?

- Dễ lắm cô ạ. Cứ cô nào đi trước kiếm được một người thì lại chỉ dẫn giới thiệu cho cô sau. Mấy ông du khách đó lại giới thiệu cho nhau. Cứ cái đà này thì con gái Phú Quốc chẳng còn ai cho tụi thanh niên chúng con ở đây nữa. Mấy tỉnh miền Tây bây giờ cũng thế hết, con gái họ bỏ đi Sàigòn kiếm sống bằng cách làm gái bao cả

Anh ta nói như một tiếng than. Tôi ngồi im nghe không biết nên an ủi thế nào.

Ở Sàigòn thì gặp mấy người chạy taxi kể lể:

- Cô ơi! Mấy thằng cha Ðại Hàn bây giờ nó khôn lắm. Nó sang đây giành giật của Việt Nam vừa đàn bà vừa tiền. Nó không cần biết tiếạngViệt, nó bỏ tiền ra thuê một cái mặt bằng, thuê bao luôn một côợ ở đây đứng trông tiệm (bán đồ cho khách du lịch) làm người ở và làm vợ tạm thời cho nó. Cô ta được trả vài ba trăm đô một tháng là mừng lắm rồi. Làm ăn một thời gian vài ba năm thôi, hết hạn, nó trả tiệm lại, trả cô nhà quê ra đường, ôm tiền về nước. Mấy thằng Ðài Loan cũng vậạy. Còn mấy ông già Việt Kiều nữa cô ơi! Ðến tuổi hưu trí rồi, về Việt Nam kiếm một cô bồ chỉ bằng tuổi con gái, con dâu mình. Giữ đấy, như một thứ vợ nhỏ, cho một tháng hai ba trăm đô la. Mỗi năm đi, về hai, ba lần hưởng thụ. Cơm bưng, tình bưng đến tận miệng. Trong khi ổng không có ở đây thì các cô muốn làm gì thì làm, khi ổng qua thì các cô phải hoàn toàn phụng sự ổng là được rồi.

Anh nói thêm:

- Chuyện này đều đều từ nhiều năm nay rồi. Các cô rủ nhau, dắt mối cho nhau, Ðại Hàn giới thiệu cho Ðại Hàn, Ðài Loan giới thiệu cho Ðài Loan,Việt Kiều giới thiệu cho Việt Kiều. Mỗi người một tiêu chuẩn, một dịch vụ khác nhau. Ai cũng vui vẻ hài lòng cả.

Tôi nghe, mà lòng buồn ruời ruợi. Có lẽ những phụ nữ chọn cuộc sống này họ thấy còn hơn là phải sang Ðài Loan làm nô lệ cho cả một gia đình, hay bị bán vào những nơi họ không hề lựa chọn. Tôi nhớ đến một bản tin đọc được ở báo trong nước về một người đàn bà Việt Nam muốn sang Ðài Loan kiếm tiền giúp gia đình. Hai vợ chồng vay mượn một số tiền mười ngàn mỹ kim để được sang bên đó làm công nhân, hay ở mướn gì đó qua trung gian môi giới. Không biết vì một lý do đau thương, tủi nhục nào, người vợ đã không cho chồng biết, âm thầm chịu đựng rồi đi đến chỗ tự tử chết. Người chồng vừa đau đớn vừa bị món nợ mười ngàn mỹ kim hối thúc, tự tử chết theo vợ, để lại mấy đứa con thơ.

Thử hỏi có bản tin nào đau thương hơn bản tin này  

Trong khi đó thì ở một mặt khác của xã hội, những cô gái của cả Sài Gòn, Hà Nội bây giờ sống rất là thời thượng. Họ đi làm những công việc văn phòng chỉ để lấy danh nghĩa đi làm, họ có một nguồn lợi tức ở đâu đó cung cấp chuyện tiêu pha ăn, mặc hàng ngày cho họ mình không biết. Họ rất giỏi về lãnh vực tìm bạn Việt Kiều trên mạng. Mỗi tối ngồi hàng giờ để chat với một ai đó, rồi đưa đến hò hẹn. Một cậu Việt Kiều ở Mỹ hay Úc, trước khi về Việt Nam, có thể tìm trên mạng cho mình một cô bồ ra tận phi trường đón. Cô ta nói tiếng Anh tương đối, hướng dẫn các dịch vụ ăn chơi, cô chỉ bảo tận tình và cho cậu cái cảm tưởng là cô không đến vì tiền của cậu (cô có tiền rồi!) cô sẵn sàng mời cậu về nơi cô ở thay vì ở khách sạn (tình cho không, biếu không), cô hiền lành, chiều chuôỳng hết mình, rồi cô cho cậu biết cha mẹ cô là những người có địa vị trong xã hội, cô mời cậu ra Bắc hay lên Ðà Lạt, hoặc Nha Trang gặp họ. Trong khi chuyện trò, cô thường nói là “Em không thích sống ở Mỹ”, cô cho cậu cái cảm tưởng cậu là người may mắn, gặp được một cô không giống những cô mà trước đây cậu thường nghe tả. Có thể cậu Việt Kiều này sẽ gặp ông bố của cô bồ là một Kỹ Sư nhà nước hay một ông bác sĩ thật (Một bác sĩ xuất thân là y tá và được thăng bác sĩ nhờ tuổi đảng thâm niên). Và cô “không thích sống ở Mỹ đâu” chỉ có nghĩa là cậu lấy cô rồi cậu sẽ ở lại Việt Nam, và cô có cơ hộỳi vào quốc tịch Mỹ. Có trời mà biết những gì sẽ sẩy ra sau tấm màn sân khấu này.

Những vở kịch này hiện nay đang diễn ra thường xuyên ở Việt Nam. Những người thân quen ở Việt Nam chỉ biết dặn dò:

- Cháu coi chừng đấy, gái Việt bây giờ có cả ngàn chiêu, không biết đường nào mà đỡ đâu.

Tôi được nghe kể, còn một phương cách kiếm chồng nước ngoài cao hơn thế nữa là các cô con ông lớn thứ thiệt, có đăng ký tên trong những cái bar sang trọng. Khi chủ nhân thấy có một đám khách Việt Kiều trẻ nào, thuộc loại mặt mũi sáng sủa, lịch sự, học thức, ăn xài sang vào bar là lập tức họ thu dọn chiến trường, dẹp hết những cô tầm thường đang làm việc ở đó, gọi những cô gái con các ông lớn trong danh sách đến. Các cô ăn nói lịch sự, có học đến làm quen chuyện trò với khách, và sau một buổi tối, nhiều cậu đã được mời về nhà, giới thiệu với gia đình. Nhà sang trọng, có xe hơi, và tài xế riêng, cha mẹ niềm nở đón tiếp. Hỏi ra thì được biết cha mẹ các cô toàn là những nhân viên cao cấp của chính quyền cả. Những cậu được mời này, chắc chắn sẽ quay lại và kết thân cùng cô gái. Mọi việc kế tiếp thì chỉ có Trời mới biết là sẽ được xếp đặt như thế nào.

Ôi! Những chuyện quê nhà thì nói sao cho hết. Chuyện vui thì qua mau, chuyện buồn thì ở lại. Mỗi lần về là một lần xót xa. Cứ nhủ lòng thôi không về nữa. Thế mà một hai năm sau, nguôi ngoai một chút lại thu xếp quay về.

Hà Nội bỗng dung nhan đổi khác nhờ những cơn Gió Mùa Ðông Bắc. Thanh niên, thiếu nữ giấu trong chiếc áo len, áo dạ, những mơ ước lãng mạn của mình. Họ khoác tay nhau ngồi xuống những quán ăn đơn sơ ngay ở vỉa hè. Chuyền tay nhau những chén lục tào xá, bánh trôi, bánh chay. Họ ăn bằng mơ mộng của tuổi trẻ, ăn bằng hoang mang của những ngày cuối năm, ăn bằng nôn nao của mùa xuân đang tới. Gió lãng mạn, gió phiêu du, gió làm gầy những con phố, làm trái tim đập dịu dàng và làm những bài thơ bỗng nghiêng xuống, nằm sát vào những chiếc lá cuối đông.

Bây giờ ngồi đây nhớ Gió Mùa Ðông Bắc, muốn khóc.

Về Sài Gòn để được chen lách giữa những đám xe cộ, nhất là xe gắn máy. Ðể nhìn khói bụi mù đường, nghe những tiếng gọi nhau ơi ới, những tiếng rao hàng, hòa vào giữa tiếng xe nổ, tiếng còi xe inh ỏi. Ðể trong lúc chen lấn giữa dòng người, dòng xe, thỉnh thoảng lại nhìn cái bảng tên đường lạ hoắc, cố đoán ra trước đây là đường gì? Rồi chợt nghe đau nhói trong ngực về một kỷ niệạm thân yêu cũ ở con đường mình đang đi. Nước mắt ứa ra, hình dung lại một buổi chiều êm ả đã xa lắm rồi. Tình đã quan san từ đáy mắt (Ðinh Hùng)
Về để lại đi xuồng máy nguyên ngày trên Tiền Giang, ghé vào những rạch, chỗ người dân làm bánh tráng, làm kẹo dừa, đan võng, đan giỏ, để được ngắm những người dân miềm Nam giản dị, chất phác, nhìn những vất vả của người mẹ, người cha:

Quê hương là cây cầu khỉ
khẳng khiu như cánh tay cha
quê hương gánh hàng nặng trĩu
mẹ về tất tả chợ xa
quê hương áo bà ba trắng
khăn lau lệ mẹ vắt vai
quê hương mồ hôi cha đổ
cho con miếng ngọt miếng bùi.
(tmt)

Về để đi ra Bắc, lên tận Yên Bái, đến ngôi nhà sát bên sông Hồng của người anh họ, được soi mặt trong thau nước múc lên ở lòng sông, có phù sa lắng hồng đáy chậu. Ðược ngồi trong một cái bếp còn đun củi, bám đầy bồ hóng, được dùng gáo múc nước, được ăn măng trúc, măng mai. Nhớ về câu thơ cũ trong bài Trấn Thủ Lưu Ðồn:

Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng

Về để được chen chân đi trong phố cổ Hà Nội nhỏ hẹp, có rác và cống trên từng bước đi, được đi trong nắng, trong gió Hà Nội nhớ lại thủa ấu thơ, ngơ ngác đi qua nhà thờ xưa như đứa bé tan Lễ ra, lạc mẹ:

Lâu lắm em mới về Hà Nội
đi trên viên gạch tuổi thơ ngây
gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy!
(tmt)

Mấy ngày hôm nay Hà Nội lạnh, Hà Nội vào Tết, Hà Nội chạy ùa ra phố mua áo ấm, gió mùa đông bắc thổi vạt áo bay tung, hai mẹ con đi sát vào nhau, chen chân trong khu chợ đêm trong phố cổ. Cảm tưởng hương vị của một ngày cuối đông đang tan trong cổ mình như những câu thơ:

Hà Nội rủ nhau mua áo ấm
gió mùa đông bắc thổi qua len
khăn san quàng vội vào cổ gió
trên vai một chiếc lá rơi nghiêng
(tmt)

Người, xe, hàng quà hai bên vệ đường cùng đan vào nhau, gần như dẫm lên chân nhau. Hàng Ðào với những cửa tiệm sang trọng bán quần áo tơ lụa cho du khách, Hàng Bạc lấp lánh những vòng vàng những xuyến bạc, và kiềng trạm, Hàng Mã một mầu đỏ đến căng từng mạch máu của đèn lồng, giây pháo giả, vàng mã. Người ta đổ xô đi mua về để đốt cho ông Táo lên trời. Cứ thế đi theo dòng người, hai mẹ con bập bềnh trôi.

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
(Bùi Giáng)

Ðúng là mùa xuân đang về trước mặt cho con gái và sau lưng là cả một giấc miên trường của đời sống mà người mẹ đã đi qua.

TRẦN MỘNG TÚ
__._,_.___
www.take2tango.com/Data/Image/news/02-2007/Tuan%203/HaNoi03.jpg
Back to top
« Last Edit: 08. Mar 2007 , 20:22 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #1 - 12. Mar 2007 , 21:36
 
Sổ Tay Thường Dân
Lần đầu nhìn thấy tên của mình, bên cạnh tên một cô bé học cùng lớp – được viết thật to trên bảng, lồng khung trong hình một quả tim – mặt tôi bỗng đỏ bừng lên vì ngượng ngập, sung sướng và... hạnh phúc! Hạnh phúc ở tuổi ấu thơ sao mà giản dị, nhẹ nhàng, lảng xẹc (và dễ ẹc) như vậy – hả Trời. Tôi vẫn cứ nhớ mãi cái cảm giác hơi choáng váng, có pha lẫn một chút ngây ngất, rạo rực như thế – cho mãi đến bây giờ.

Và bây giờ thì chắc chắn ông Hà Sĩ Phu cũng sẽ choáng váng (thấy mẹ luôn) khi “bỗng” nhìn thấy tên mình bên cạnh tên bà... Tôn Nữ Thị Ninh! Tôi cũng sợ rằng ông ấy sẽ không cảm thấy rạo rực, ngất ngây, sung sướng hay hạnh phúc gì cho lắm – khi có một người phụ nữ (thứ dữ) như bà Ninh đột ngột xuất hiện và đi (sát ngay) bên cạnh cuộc đời mình, như thế
Lần đầu nhìn thấy tên của mình, bên cạnh tên một cô bé học cùng lớp – được viết thật to trên bảng, lồng khung trong hình một quả tim – mặt tôi bỗng đỏ bừng lên vì ngượng ngập, sung sướng và... hạnh phúc! Hạnh phúc ở tuổi ấu thơ sao mà giản dị, nhẹ nhàng, lảng xẹc (và dễ ẹc) như vậy – hả Trời. Tôi vẫn cứ nhớ mãi cái cảm giác hơi choáng váng, có pha lẫn một chút ngây ngất, rạo rực như thế – cho mãi đến bây giờ.
Và bây giờ thì chắc chắn ông Hà Sĩ Phu cũng sẽ choáng váng (thấy mẹ luôn) khi “bỗng” nhìn thấy tên mình bên cạnh tên bà... Tôn Nữ Thị Ninh! Tôi cũng sợ rằng ông ấy sẽ không cảm thấy rạo rực, ngất ngây, sung sướng hay hạnh phúc gì cho lắm – khi có một người phụ nữ (thứ dữ) như bà Ninh đột ngột xuất hiện và đi (sát ngay) bên cạnh cuộc đời mình, như thế. Dù biết thế, và dù cũng hết sức áy náy cho ông Hà Sĩ Phu, tôi vô cùng tiếc là đã không không có cách chi giúp cho đương sự thoát khỏi tình huống rất khó khó khăn (và khó coi) như hiện cảnh. “Chuyện tình” giữa bà Tôn Nữ Thị Ninh và ông Hà Sĩ Phu (kể) cũng hơi dài.Xin được bắt đầu bằng một bài báo ngắn – với tựa là “Sống Ðời Chùm Gửi” của Nguyễn Triều, trên báo Người Lao Động, số ra ngày 1 tháng 8 năm 2004 – như sau:“Khách uống cà phê trên đường Nguyễn Chí Thanh, quận 10 không lạ gì một thanh niên bán vé số ngoài ba mươi tuổi bị liệt chân, di chuyển bằng tay trên hai chiếc ghế gỗ. Ðáng chú ý ở chỗ, tháp tùng theo anh là một thanh niên trẻ hơn, cao lớn và khoẻ mạnh. Mọi việc diễn ra đã được lập trình sẵn: Người thanh niên liệt chân vào quán mời khách, anh chàng ''hộ pháp'' lên xe lăn ngồi chờ!”
“Có một cặp khác, bà lão ''cổ lai hy được ''hộ tống'' bởi một thanh niên khoảng hai muơi tuổi. Qui trình làm việc của cặp này được ''phô tô'' giống hệt cặp kia. Rõ ràng ở đây hai anh chàng khỏe mạnh kia đang sống nhờ vào đôi chân què quặt của người thanh niên và cái dáng lom khom của bà lão bẩy muơi” (Người Lao Động, 1/8/2004).
Tưởng gì chứ “sống nhờ” vào sự khốn cùng, và nỗi bất hạnh của kẻ khác thì ở Việt Nam (bây giờ) kể như là chuyện nhỏ, và là chuyện vô cùng phổ biến. Có nhiều trường hợp “rõ ràng” hơn và tệ hại hơn nhiều nhưng Nguyễn Triều không biết; hoặc giả, tuy cũng có biết nhưng nhà báo (quốc doanh) thấy không “tiện” nói.

Xin đơn cử vài trường hợp (hơi) khó nói. Năm 2002, sau chuyến đi thăm những trại cùi ở Việt Nam, linh mục Ðinh Thanh Bình đã tường thuật như sau:Trên danh nghĩa hiện thời, nhà nước quản lý 21 trại cùi ở Việt Nam. Tuy nhiên ban điều hành các trại đa số vẫn là do các nữ tu đứng đầu... Trại phong Di Linh hiện giờ có 350 bệnh nhân, nhưng chỉ có 147 người đủ tiêu chuẩn trợ cấp 15 Úc Kim một tháng của chính quyền. Số còn lại 200 người thì mặc kệ tụi mày, sống chết mặc bay, tao không cần biết. Nhà nước chỉ giỏi cướp công, mỗi lần đưa phái đoàn ngoại quốc đến thăm để xin tiền, nhà nước sẽ đưa tới Di linh, vì Di Linh là một trọng điểm kiểu mẫụ Xin được bao nhiêu, vô túi ai không biết, vì Di linh không hề nhận được thêm đồng cắc nàọ Tôi rời Di Linh, để lại thêm một số tiền, ít ra cũng nuôi được vài bữa cơm qua ngày cho 200 người cùi thiếu tiêu chuẩn không biết làm sao mà sống được cho đến mùa Tết tháng sau (Những kẻ bất hạnh, Thông Tin Berlin.)

Thêm một hoàn cảnh (khó nói) khác.
“Chị tôi rủ đi thăm một trường câm điếc ở Sông Bé... Chúng tôi chất thức ăn lên xe, bánh mì ổ, nồi ''la gu’ (lỏng chỏng thịt bò sắt cục, khoai lang trôi trong nước súp đùng đục), thùng chè đậu quơ cái vá mới thấy cái. Chị bảo ít vậy chứ nấu từ 3 giờ sáng, mà cũng nhiều người góp của lắm nghe mới đủ một bữa trưa cho mấy đứa nhỏ.”

“Chúng tôi đem thức ăn vào nhà bếp để hâm lại. Trường có hai dẫy dành cho học sinh nam và nữ cách nhau một sân rộng và một hàng ràọ Tôi được Sơ hiệu phó giới thiệu với một người đàng ông có tuổi tầm vóc trung bình, ốm, nét mặt thông minh đang ngồi trong căn phòng của ban Giám hiệu: Ðây là anh B, hiệu trưởng, đảng viên nhưng rất cởi mở...”

“Rồi ông và Sơ thay nhau nói về thành tích của trường. Năm 1886, các cha người Pháp dòng Phao–lồ thành lập, đến nay có 270 học sinh nhưng vì thiếu tiền nên nhà nước chỉ nuôi 250 đứa, mỗi tháng phát 55 ngàn cho mỗi em, thành thử nhu cầu bức thiết của trường không phải là giấy mực hay sách giáo khoa mà là thực phẩm...” (Lý Không Minh. Ngày Về Của Qủi. Ðồng Dao , Victoria , 1977, 33).

Sao (đ... mẹ) mâm nào cũng có tụi nó ngồi sẵn ở đó – vậy cà? Kể cả những mâm ăn mà “khoai lang trôi trong nước súp đùng đục, thùng chè đậu quơ cái vá mới thấy cái” mà bao kẻ đã phải dành dụm, chắt bóp để chia sẻ với những đứa bé thơ câm điếc. Qúi vị đảng viên cộng sản Việt Nam khiến tôi liên tưởng đến hai người đàn ông “hộ pháp” – luôn luôn ngồi chờ một bà lão già và một thanh niên khuyết tật đang bò lê bán vé số – ở đường Nguyễn Chí Thanh, Sài Gòn.

Hai người này đã bị ông nhà báo Nguyễn Triều gọi là những kẻ sống đời ký sinh hay chùm gửi. Lời kết án này e (hơi) vội vã, và cũng có phần (quá) khắt khe. Ðẩy xe lăn cho một người già nua hay phế tật đi bán vé số là một hình thức cộng sinh, một cách hợp tác để sinh tồn, dù cách phân công trông (có vẻ) hơi khó coi chút đỉnh.

Và nó chỉ “có vẻ” thế thôi chứ chưa hẳn đã thế. Không ai biết đích xác liên hệ giữa những người trong cuộc ra sao và chuyện họ chung sức làm ăn được chia chác thế nào. Còn cái cách kiếm tiền của Ðảng và Nhà Nước CSVN (dựa trên lòng trắc ẩn mà nhân loại dành cho những người dân kém may mắn nhất ở xứ sở này) thì rõ ràng (và hòan toàn) không sòng phẳng.
Sơ Giám Ðốc Trung Tâm Mai Hoà, nơi chăm sóc cho những bệnh nhân liệt kháng ở Củ Chi, đã cho biết thế này:
“Một triệu Ðô La Mỹ viện trợ khi tới tay trung tâm may ra còn một triệu đồng Việt Nam” (Trung Tâm Mai Hoà, Phóng sự đặc biệt của Linh mục Đinh Thanh Bình, Thiên Lý Bửu Toà).
Một cá nhân có thể sống cuộc đời chùm gửi nhưng một dân tộc thì không. Theo đuổi chính sách sống bám là chủ trương của một chế độ bệnh hoạn; đã thế, còn huyênh hoang và tự mãn về lối sống đời ký sinh của mình thì kể như là hết thuốc.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh có thể coi như là một thí dụ tiêu biểu và điển hình cho cái loại người hết thuốc (chữa) như thế. Với cương vị Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Ðối Ngoại Quốc Hội, cuối năm 2004, bà Ninh đã được phái đến Hoa Kỳ gần một tháng. Chuyến công du này trên danh nghĩa có mục đích nhằm cải thiện mối tương giao (vốn chưa bao giờ tốt đẹp) giữa Việt Nam với Mỹ, và với cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở đất nước này.

Theo ngôn ngữ của báo chí của người Việt ở hải ngoại thì bà Tôn Nữ Thị Ninh có nhiệm vụ đi “giải độc”. Bà Ninh đi đâu, gặp gỡ những ai, giải độc (hay rải độc) thế nào..., tôi tuyệt đối không hề bận tâm. Tôi không có rảnh rỗi đến thế.

Dù thế, tôi vẫn hết sức kinh ngạc khi đọc tường những bài phỏng vấn của báo chí ở Việt Nam dành cho bà Ninh – sau chuyến đi này. Bà Ninh giễu cợt khi kể lại những biểu tình phản đối sự hiện diện của mình ở Hoa Kỳ, và đối với cộng đồng người Việt tị nạn ở nơi đây – cái tập thể mà hằng năm vẫn chăm chỉ và đều đặn gửi về VN vài ba tỉ đô la – bà Tôn Nữ Thị Ninh đã (thỏ thẻ) bỏ nhỏ như sau:

“Mình là thế thượng phong của nguời chiến thắng, mình cần chủ động, người ta không thể chủ động được do mặc cảm, cũng không thể yêu cầu ngươi ta đi trước, họ đứng ở vị trí không thuận lợi trong tiến trình lich sử” (Thanh Niên, 25/12/2004, Mục tin tức xã hội).
Dân Việt có thành ngữ (thú vị) là “đi xa về nói khoác". Tôi cũng thuộc loại người khoác lác, cỡ một tấc đến Giời, nhất là sau khi đã uống sương sương vài ba ly Cognac, nhưng nghe qua miệng lưỡi của “Madame Ninh” thì (chợt) biết mình còn yếu cơ  thấy rõ.

Cái nhìn của tôi về thế sự, xem ra, cũng không được “bao la và trời biển” như “Bà Ðại Sứ". Tôi hoàn toàn (và tuyệt đối) không thấy ra “cái vị trí thuận lợi trong tiến trình lịch sử “của nhà đương cuộc Hà Nội trong hiện cảnh. Nếu dân làng Ba Ðình đang thực sự ở “thế thượng phong” thì qúi quan chức ngoại giao như ông Nguyễn Ðình Bin, Nguyễn Phú Bình và bà Tôn Nữ Thị Ninh đâu đến nỗi phải bị gậy túa đi khắp mọi nơi. Tôi cũng có dịp đi qua nhiều xứ sở, gặp đủ kiểu và đủ cỡ hành khất nhưng chưa thấy ai đi ăn xin với giọng điệu hợm hĩnh (và ngu xuẩn) quá cỡ như vậy.

Thái độ láu cá và trơ tráo của bà Tôn Nữ Thị Ninh khiến tôi thấy nhớ (và thương) ông Hà Sĩ Phu hết sức. Loại người như bà Ninh tôi mới thấy lần đầu nhưng sĩ phu họ Hà chắc phải đối diện thường xuyên nên ông mô tả diện mạo cũng như phương thức sinh hoạt của họ vô cùng chính xác:

“Thế giới sinh vật đã cho ta những ví dụ rất rõ về vấn đề này. Con đường tiến hóa là: Sinh vật đơn bào phải đa bào hóa, trên cơ sở đa bào mới phân hóa thành những cơ quan khác nhau, giữa các cơ quan ngày càng có sự ''phân công'' rành rọt nhưng ngày càng phối hợp với nhau chặt chẽ bởi sự chỉ huy càng ngày càng tập trung của hệ thần kinh. Cứ thế mà tiến hóa từ thấp lên cao, và cuối cùng xuất hiện loài người chúng ta.”

“Nhưng có những sinh vật đơn bào không đi vào con đường đa bào hóa mà thích nghi bằng cách ''tu sửa vặt'', ''bổ sung vặt'', khiến cho bên trong cái tế bào duy nhất của nó cũng có đủ thứ như một cơ thể đa bào: có một chút tượng trưng cho ''tim'', một chút tượng trưng cho ''dạ dầy, một chút ''thận'', một chút ''giác quan'', một chút ''thần kinh'', một chút ''chân tay''... Chúng kéo dài cái cấu trúc ''cổ lỗ'' ấy suốt mấy triệu năm, và vĩnh viễn không thể ''gia nhập'' vào con đường tiến hóa chung được nữa. Nếu chỉ lấy sự ''sống chết'' để đo mức độ tiến hóa thì những sinh vật đơn bào ấy hẳn là ''caó hơn con người người nhiều, vứt ra bất cứ cống rãnh nào chúng cũng sinh sôi”.

“Ðiều kiện để có sự tiến hóa là phải có nguy cơ bị tiêu diệt: Nếu không tiến hóa nó sẽ bị diệt vong trong cuộc đấu tranh sinh tồn! Sự ''tu sửa vặt'' chính là ''giải pháp'' giúp cho sinh vật ''lách'' qua được sự đấu tranh sinh tồn khắc nghiệt, vượt qua nguy cơ bị tiêu diệt mà không cần đến con đường chính thống, nhưng chính sự ''thành công'' này đã tách nó ra xa con đường chung và không tiến hóa cao được nữa”. (Ðôi Ðiều Suy Nghĩ Của Một Công Dân. Tuyển Tập Hà Sĩ Phu. Phong Trào Nhân Quyền Cho Việt Nam Năm 2000 và Tạp Chí Thế Kỷ 21 xuất bản tháng 1 năm 96, trang 99 và 100).

Bước vào kỷ nguyên toàn cầu, trong thời kỳ đất nước đổi mới, quí vị lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng có nhiều “tu sửa vặt” và “bổ sung vặt” rất thành công. Ít nhất thì họ cũng thành công trong việc giữ cho chế độ chưa bị sụp đổ. Và chính sự “thành công” này đã tách nó ra xa con đường chung và không tiến hóa cao được nữa!

Báo chí quốc nội cũng mô tả chuyến đi của bà Tôn Nữ Thị Ninh là thành công. Nếu đúng thế theo tôi đây chưa hẳn đã là điều đáng mừng mà (không chừng) còn là chuyện đáng lo. Ðể cho những những sinh vật đơn bào hay nói rõ ra là sán lãi sống ký sinh (thành công) trong cơ thể của mình không phải là chuyện đáng lo sao?
Tưởng Năng Tiến


Back to top
« Last Edit: 12. Mar 2007 , 21:37 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #2 - 19. Mar 2007 , 12:19
 

Vợ Hay Nợ ?

Người viết: NGUYỄN DUY AN

Tác giả Nguyễn Duy-An, cư dân Virginia, hiện là Vice President, phụ trách Infor-mation Technology của National Geographic. Bài của ông là truyện về Việt Nam cưới... nợ.

Tuấn thẫn thờ lê chân bước ra bãi đậu xe của tòa án trong chán chường và tuyệt vọng vào một buổi chiều cuối đông... Trời lạnh lắm, nhưng cái buốt giá ngoài trời chẳng thấm vào đâu so với cái lạnh và nỗi đau trong tim của chàng.

Tuấn lên xe ngồi ôm tay lái nhưng không biết sẽ về đâu. Chàng “phải tránh xa, ít là 100 feet (khoảng 30 mét) cô vợ trẻ đẹp” mới bảo lãnh từ Việt Nam qua được hơn tuần nay, nhưng chưa một lần được thực sự làm chồng. Bây giờ tất cả đã trở thành một con số không (0) to tướng theo lệnh của quan tòa! Thêm vào đó, Tuấn còn phải cung cấp nơi ăn chốn ở và tiền chi dùng cho cô vợ hụt liên tiếp 12 tháng sắp tới, đổ đồng mỗi tháng 2 ngàn Dollars để cô có đủ thời gian học thêm tiếng Anh cũng như học nghề.

Đã có lần Tuấn nghe một người nào đó than thở “con là nợ, vợ là oan gia”, nhưng với chàng bây giờ thì vợ không còn nữa, con cũng không, chỉ còn có “nợ”!

Cuối năm ngoái Tuấn về Việt Nam thăm gia đình. Nghe lời rủ rê của bạn bè, chàng đến chơi và làm quen với Liên, một cô gái nổi tiếng xinh đẹp và dễ thương trong vùng, vừa tròn 18 tuổi, đang học lớp 12... Hình như nàng đã có bạn trai là một sinh viên đang lưu học trên Thành Phố, nhưng tự tin vào cái mác Việt Kiều của mình, Tuấn bất chấp tất cả, chỉ mong muốn chiếm cho bằng được người đẹp.

Hôm đầu tiên đến nhà chơi, Tuấn đã không chiếm được cảm tình của Liên, nhưng mấy ngày sau tình hình có vẻ khả quan hơn vì mẹ nàng rất quý mến Tuấn. Chỉ còn vài tuần nữa Tuấn phải trở về Mỹ! Chàng nhờ người chị cả dẫn tới gặp cha mẹ của Liên để chính thức xin hỏi cưới nàng.

Gia đình nàng cũng không đến nỗi “cổ lỗ sĩ” nên đã gọi Liên ra cùng ngồi nói chuyện. Mẹ nàng, bác Trinh lên tiếng trước:

- Được anh thương đến em nó, thật là quý hóa lắm, nhưng để tôi gọi em Liên ra nói chuyện trước mặt người lớn cho phải phép.

Bác Trinh ra nhà sau một lúc thật lâu rồi mới cùng con gái trở lại phòng khách. Tuấn hơi thất vọng khi thấy nét mặt của Liên không được tươi tỉnh lắm, nhất là đôi mắt nàng có vẻ hững hờ như đang đi lạc vào một cõi vô định...

- Cháu chào cô Thu. Liên chào anh Tuấn.

Tuấn vội vàng đứng lên, định kéo ghế cho Liên, nhưng nàng đã nhanh nhẹn ngồi xuống bên cạnh mẹ. Bác Trinh quay sang nói:

- Cô Thu tới xin hỏi cưới con cho anh Tuấn, mẹ muốn con cùng ngồi bàn công việc luôn. Con nghĩ sao?

- Thưa mẹ, thưa cô... Con đang đi học, và cũng còn ít tuổi quá.

Tuấn hiểu rõ ý nghĩa “chối từ” trong câu nói của Liên, nhưng chàng đã bàn trước với chị, nên cứ ngồi “hiền” để chị Thu phân trần:

- Liên đừng ngại. Thật ra nếu hai đứa thương nhau, chị xin phép hai bác để làm cái lễ hỏi nho nhỏ, rồi lên xã làm giấy đăng ký kết hôn thôi, vì Tuấn cũng sắp trở lại Mỹ trong nay mai. Thủ tục giấy tờ bảo lãnh cũng mất cả năm là ít. Khi có giấy đăng ký, Tuấn có thể làm giấy bảo lãnh cho Liên theo diện hôn thê, rồi bao giờ giấy tờ xong xuôi, tuỳ hai em, muốn làm lễ cưới bên này rồi đi, hoặc cứ sang bên đó rồi làm đám cưới sau cũng được. Nhưng có cái lễ hỏi, chụp hình chụp ảnh cho Tuấn mang qua Mỹ cũng dễ dàng làm giấy tờ bảo lãnh hơn. Bác Trinh Nghĩ sao?

- Tôi thì không biết gì về ba cái vụ giấy tờ cả. Có điều nếu anh thương em nó, và muốn tiến tới thì cứ thế mà làm cũng được.

- Mẹ à... Chúng con chỉ mới quen biết nhau vài tuần, con xin mẹ cứ để chúng con từ từ tìm hiểu nhau đã, nếu hợp rồi lo giấy tờ...

Nghe Liên trả lời mẹ, Tuấn sợ chị mình trả lời không ăn khớp, vì cũng như bác Trinh, chị Thu đâu có biết gì về thủ tục bảo lãnh, những gì chị ấy nói ra chẳng qua là do Tuấn dặn trước.

- Liên nói rất đúng, nhưng anh nghĩ nếu mình chờ tới lúc đó mới bắt đầu làm giấy tờ, lại phải chờ thêm một vài năm nữa. Nếu như Liên không chê anh, chúng ta cứ xin phép cha mẹ làm một bữa cơm gia đình cho đúng thủ tục, rồi mình lên xã đăng ký để anh về Mỹ xúc tiến ngay việc bảo lãnh, càng sớm càng tốt. Nếu như sau này Liên cảm thấy không hợp với anh, Liên vẫn có thể từ chối không đi; chúng mình cũng chưa bị ràng buộc gì trong phép đạo, mà hôn thú đời cũng chưa xong, anh nghĩ cũng đơn giản thôi. Tuy nhiên, anh thật lòng thương em, và hy vọng với thời gian Liên sẽ hiểu anh hơn, và chúng ta có thể tiến tới.

Bác Trinh cũng nói thêm vào:

- Anh Tuấn đã nói thế, mẹ nghĩ cũng tốt đó con ạ. Mình làm một bữa cơm gia đình để hai bên ra mắt anh em bà con họ hàng, rồi chúng con cứ đăng ký giấy tờ, bao giờ giấy tờ bảo lãnh xong xuôi rồi ta tính chuyện cưới xin sau cũng chẳng sao.

- Mẹ nói thế thì con biết trả lời sao nữa! Con chỉ sợ... nhỡ rồi chúng con không hợp nhau, lại mang tiếng với họ hàng!

- Tiếng tăm chi con. Thời bây giờ người ta lấy Việt Kiều hà rầm đó. Ai cũng lo giấy tờ bảo lãnh trước rồi mới lên cha, lo gì... Ý anh Tuấn muốn tổ chức một bữa cơm ra mắt thì mẹ cũng ưng, nhưng nếu con ngại thì chúng con cứ âm thầm lên xã đăng ký làm giấy tờ. Khi nào chắc ăn, có giấy tờ đi Mỹ rồi ta tổ chức đám hỏi, đám cưới một lần cũng được.

Chị Thu vội vàng nói thêm vào:

- Gia đình em muốn thưa với hai bác cho em Tuấn đi cái lễ hỏi nho nhỏ để cho “danh chính ngôn thuận”, nhưng mọi sự tuỳ thuộc hai bác và em Liên cả.

- Vậy để tôi bàn lại với ông nhà tôi và anh chị con Liên, rồi vài ngày nữa ta tính nhé.
- Vâng, bác định sao chúng em xin theo... Nhưng nhà em cũng xin phép bác cho em Tuấn đưa Liên đi sắm ít “lễ vật đính hôn” cho đầy đủ kẻo lại mang tiếng với làng nước là Việt Kiều đi hỏi vợ mà không thấy có lễ vật gì cả.

- Cô thư thả cho vài hôm... Có chi ta cứ để tuỳ hai đứa.

Trong lúc cả nhà xôn xao bàn tán về việc “lấy chồng Việt Kiều”, thì Liên xin phép cha mẹ đi Thành Phố một hôm để bàn với người chị theo chồng về buôn bán ở chợ Tân Định. Nghe Liên xin phép, mẹ nàng mừng lắm, vì chính Trang, cô chị của Liên đã có lần nói với bà “con Liên nhà mình xinh lắm, để con tìm xem có anh Việt Kiều nào đường được con giới thiệu cho nó. Cỡ như nó lấy chồng bên này làm chi cho uổng.” Liên xin phép cha mẹ lên thành phố không phải để hỏi ý chị Trang, nhưng là để bàn bạc với Hùng. Nàng lên tìm người yêu để tính toán xem phải sắp xếp thế nào cho tình yêu hai người không đi vào ngõ cụt. Không biết hai đứa bàn tính với nhau ra sao mà hôm sau Liên cùng chị Trang trở về, và đồng ý nhờ chị dẫn đi sắm “lễ vật đính hôn” với Tuấn, nhưng không làm đám hỏi hay tiệc tùng gì hết, chỉ âm thầm lên xã đăng ký xin kết hôn với Việt Kiều. Lên xã xong phải ra Huyện, rồi lại lên Tỉnh... Tới khi Tuấn cầm được mảnh giấy “Đăng Ký Kết Hôn” chứ cũng chưa phải Hôn Thú thì chỉ còn một ngày nữa chàng phải về Mỹ.

Tuấn đã có ý định khi làm xong giấy tờ sẽ xin phép đưa Liên đi Nha Trang hay Đà Lạt chơi mấy hôm trước khi về Mỹ, nhưng bây giờ đã hết hy vọng. Tuấn đã không thực hiện được ý định “đen tối” là tìm cách gài bẫy cho Liên vào chuyện đã rồi cho ăn chắc, nhưng “hay không bằng hên”, cái số của Tuấn không được hên cho lắm! Người ta vẫn thường nói “đỏ tình thì đen bạc”, nhưng với Tuấn lúc này thì tình chưa được, mà bạc thì tốn kém cũng không ít vì phải chiêu đãi, quà cáp cho bao nhiêu người mới xin được tờ giấy “tạm”. Thôi thì tương lai còn dài, “cơm chưa nấu, gạo vẫn còn đó”, chẳng mất đi đâu mà sợ thiệt.

Mấy tháng sau Tuấn gởi giấy tờ về để Liên nộp đơn xin xuất cảnh. Lúc này nàng đã học xong trung học, và theo đề nghị của Tuấn, Liên lên thành phố ở với chị Trang để đi học thêm tiếng Anh chứ không cần thi vào đại học làm gì cho thêm mệt. Mặc dầu Liên lên thành phố ở với chị nhưng Tuấn vẫn chu cấp dư thừa... Nàng sắm thêm son phấn, quần áo đẹp, có máy vi tính nối mạng để liên lạc email với Tuấn, có xe Dream II để chiều chiều cùng người yêu ra ngoại ô hóng gió! Trong lúc Tuấn xúc tiến thủ tục bảo lãnh cho Liên theo diện Hôn Thê, thì Hùng và Liên cũng cậy nhờ người anh họ của Hùng là Hiệp, một luật sư bên Mỹ “nghiên cứu và hướng dẫn” tìm cách để Liên qua được Mỹ nhưng không phải làm vợ Tuấn, rồi từ từ bảo lãnh Hùng qua sau. (Một việc không ai ngờ là người luật sư Tuấn đến nhờ giúp đỡ làm giấy tờ bảo lãnh cho Liên cũng chính là Hiệp, người anh họ của Hùng). Đã có lúc Liên cảm thấy áy náy lương tâm, chỉ muốn nói thật với Tuấn để xé bỏ tờ giấy “Đăng Ký Kết Hôn”, nhưng Hùng lúc nào cũng có đủ lý do để thuyết phục nàng đi theo kế hoạch của chàng.

Liên đã đồng ý vì thời buổi này làm gì còn chuyện “một túp lều tranh với hai trái tim vàng!” Hùng mới ra trường với mảnh bằng kỹ sư cơ khí, nhưng ngày ngày vẫn phải chạy mánh buôn bán ở chợ trời vì không kiếm được việc làm. Và nếu như có tìm được việc làm, lương kỹ sư ở Việt Nam gom góp cả năm cũng không bằng số tiền Tuấn gởi về hàng tháng cho Liên tiêu dùng. Thôi thì “một liều, ba bảy cũng liều”, nàng đành nhắm mắt đưa chân... Cùng lắm, nếu kế hoạch không thành, nàng làm vợ Tuấn cũng không đến nỗi phải khổ vì người ta thường nói “lấy người yêu mình thì sung sướng hơn là lấy người mình yêu”. Bằng chứng là nàng không yêu Tuấn, nhưng nàng vẫn dung dăng dung dẻ, tiền bạc rủng rỉnh, chỉ ăn rồi bát phố vì Tuấn yêu nàng!

Trong lúc Liên cùng người yêu tận hưởng những ngày “hạnh phúc bên nhau” thì Tuấn phải kiếm việc làm thêm hai ngày cuối tuần ở nhà hàng để phụ vào đồng lương khiêm tốn của một công nhân lắp ráp dữ kiện điện tử. Những ngày mới chân ướt chân ráo qua Mỹ, Tuấn cũng cố gắng theo bạn bè đi học Đại Học Cộng Đồng, nhưng vì mất căn bản từ lâu, và những nhu cầu cấp bách phải giúp đỡ gia đình còn ở Việt Nam, chàng đã nghỉ ngang để đi làm. Tuy nhiên, nhờ tính siêng năng cần mẫn, sau 10 năm miệt mài với công việc “lắp ráp”, Tuấn đã “sống lâu lên lão làng” nên tương đối cuộc sống đã ổn định, và cũng dành dụm mua được một căn chung cư hai phòng ngủ, chờ ngày gặp “ý trung nhân” để xây tổ ấm. Chuyến về Việt Nam năm ngoái Tuấn đã tiêu sạch bao nhiêu vốn liếng để dành của chàng. Từ ngày trở lại Mỹ, vì hàng tháng phải gởi cho Liên một ngàn, rồi tiền lo giấy tờ luật sư nên tài chánh của Tuấn càng ngày càng chật vật. Thôi thì chịu khó “cày” thêm một “job” (công việc) ở nhà hàng Tàu vào cuối tuần để kiếm thêm, coi như bù vào số tiền giúp Liên ăn học, chuẩn bị lo cho tương lai... Nhưng rồi chàng lại phải "refinance" (tái tài trợ) căn chung cư để lấy ra mấy chục ngàn gởi về cho Liên xây nhà mới “báo hiếu cha mẹ trước khi theo chồng về xứ lạ.”

Khi nhận được giấy báo từ văn phòng luật sư Hiệp cho biết Liên đã có "visa" (giấy nhập cảnh) vào Mỹ, chỉ cần nộp tiền lệ phí giấy tờ và mua vé máy bay, chuẩn bị ngày đoàn tụ, Tuấn đã nghỉ việc mấy ngày dọn dẹp lại căn chung cư, mua giường mới, chăn nệm mới... chuẩn bị đón "vợ". Sau khi suy đi tính lại, Tuấn quyết định mua một chiếc xe Toyota Camry đời mới làm quà cho Liên vì chàng có thể dùng số tiền hàng tháng vẫn gởi về cho nàng để trả tiền xe. Mua xe mới cho Liên chàng chỉ phải trả mỗi tháng 500 Dollars, vẫn còn thoải mái hơn số tiền một ngàn hằng tháng chàng vẫn gởi cho Liên suốt cả năm nay, đó là chưa kể những khoản "đột xuất" như tiền lo giấy tờ, tiền đưa mẹ đi bác sĩ...

Để chia sẻ niềm vui "đoàn tụ với người vợ trẻ đẹp", Tuấn mời Hiệp cùng mang hoa hồng ra phi trường đón Liên. Có một điều Tuấn không ngờ là Liên và Hiệp đã từng liên lạc email và điện thoại với nhau nhiều lần trước đó qua sự giới thiệu của Hùng, người yêu của Liên và là em họ của Hiệp. Vừa trông thấy Liên bước ra trong bộ quần áo rất hợp thời trang, Tuấn vội vàng tiến đến, một tay trao hoa, một tay dang rộng để ôm Liên vào lòng, nhưng Liên đã đưa tay cản:

- Anh Tuấn đừng làm vậy, kỳ chết!

Tuấn hơi sững sờ trước phản ứng của Liên, nhưng tự an ủi rằng nàng mới từ Việt Nam qua, chắc còn e lệ... Tuấn quay lại, định giới thiệu vị "ân nhân" đã giúp chàng lo thủ tục bảo lãnh, nhưng Hiệp đã lên tiếng trước:

- Chúc mừng Liên đã tới được "vùng đất hứa". Tôi là luật sư Hiệp, Hùng khỏe chứ?

- Ồ, anh Hiệp. Liên đang lo không biết làm sao để liên lạc được với anh. Cám ơn anh đã ra phi trường đón Liên.

Trong lúc Hiệp chưa biết phải giải thích ra sao thì Tuấn đã lộ vẻ khó chịu:

- Hai người quen nhau trước rồi hả? Hùng là ai?

Không ai lên tiếng trả lời, mà biết trả lời làm sao bây giờ! Sau một phút do dự, Liên lên tiếng:

- Hùng là bạn em bên Việt Nam, và là em họ của anh Hiệp. Lúc nhận được giấy tờ của anh gởi về từ văn phòng của luật sư Hiệp, Hùng có giới thiệu em với anh Hiệp để nhờ giúp đỡ trong bước đầu còn bỡ ngỡ ở đất khách quê người.

- Em không phải sợ điều đó, anh sẽ lo cho em tất cả.

- Nhưng có người giúp đỡ vẫn hơn chứ anh, vả lại anh Tuấn là luật sư...

- Thôi được, mình đi lấy hành lý rồi anh đưa em về. Cám ơn anh Hiệp đã giúp đỡ trong thời gian qua.

Hiệp không ngờ Liên xinh đẹp và nhanh trí như thế. Chàng đánh trống lảng:

- Đó là bổn phận của văn phòng chúng tôi. Xin chúc mừng hai người. Tôi xin phép về trước nhé.

Liên còn muốn hỏi Hiệp nhiều điều nhưng không biết nói sao, đành lặng lẽ bắt tay và gật đầu từ giã. Nàng hơi bị giao động trước vẻ lịch thiệp và trí thức của Hiệp. Trước đây nàng so sánh Tuấn với Hùng, cả hai đều tương đương "bên tám lạng, bên nửa cân" nên nàng chỉ nhắm mắt đưa chân theo kế hoạch của Hùng vì nàng không hề yêu Tuấn. Chỉ một vài lần nói chuyện trong điện thoại và email qua lại với Hiệp, cũng không có gì đặc biệt, nhưng bây giờ, tuy mới gặp mặt lần đầu, nàng đã hoàn toàn bị động trước người anh họ "hào hoa phong nhã" của Hùng... Nàng chợt cảm thấy thương hại Tuấn, nên khẽ nắm tay chàng thỏ thẻ:

- Bây giờ sao anh Tuấn?

- Ờ... Chúng mình đi nhận hành lý rồi anh đưa em về. Anh nghỉ mấy ngày đưa em đi chơi cho biết đó biết đây.

Lúc hai người ra xe, Tuấn trao cho Liên một bao thơ dầy cộm:

- Chiếc xe này anh mới mua tuần trước để làm quà cho em. Giấy tờ đều đứng tên em, cả hồ sơ bảo lãnh và đơn xin "Thẻ Xanh"... đều nằm trong đó cả. Em cứ giữ lấy rồi từ từ anh sẽ hướng dẫn em làm quen với nếp sống bên đây.

- Anh Tuấn tốt với Liên quá.

- Đó là bổn phận của anh mà cưng.

Hai người đi ăn rồi về nhà. Tình hình có vẻ khả quan hơn... cho tới khi Tuấn đòi vào phòng ngủ chung giường thì Liên làm dữ. Ban đầu còn nhỏ nhẹ, nại lý do hai đứa chưa chính thức làm đám cưới, nhưng càng lúc càng gay go, Liên dọa sẽ gọi cảnh sát nếu Tuấn làm ẩu. Tuấn hơi ngạc nhiên không hiểu sao cô vợ mới từ Việt Nam sang lại rành luật lệ bên Mỹ quá, nhưng chàng đâu biết Liên đã được Hùng và luật sư Hiệp chỉ vẽ trước khi rời Việt Nam. Liên giận dữ đóng sập cửa phòng ngủ rồi khóa trái bên trong. Tuấn ấm ức lắm nhưng chỉ dám đứng ngoài chửi đổng nho nhỏ vì cũng đã khuya rồi, không dám làm phiền hàng xóm trong chung cư.

Phần vì giờ giấc thay đổi, phần vì không dự phòng trước phản ứng của Tuấn, Liên không dám ngủ. Nàng mở bao thơ của Tuấn đưa hồi chiều xem có gì trong đó. Tờ giấy đầu tiên đập vào mắt nàng chính là tập hồ sơ do văn phòng luật sư Hiệp đưa lại cho Tuấn, gồm tất cả giấy tờ bảo lãnh nàng, và ngay ở trang bìa có ghi đầy đủ số điện thoại của Hiệp, kể cả số nhà riêng và điện thoại di động. Như người sắp chết đuối nắm được miếng ván, Liên gọi ngay cho Hiệp:

- Hello.
- Dạ có phải luật sư Hiệp không ạ?
- Vâng, tôi đây. Xin hỏi ai đầu giây ạ?
- Em Liên đây anh.
- Ồ Liên, mọi sự tốt đẹp cả chứ? Tuấn đâu mà Liên gọi anh giờ này?
- Ông ấy đang làm dữ ngoài kia, đòi vào ngủ chung, em không chịu. Anh giúp Liên với.
- Anh đã nói hôm trước rồi, bí quá thì quay số 911.
- Nhưng em đâu biết nói gì với họ.
- Em không cần giải thích, cứ kêu "help" rồi đừng cúp máy, cảnh sát họ sẽ đến ngay. Bao giờ có cảnh sát tới cứ đưa số của anh cho họ liên lạc. Không sao...

Tuấn đang hậm hực bên ngoài, nghe tiếng nói chuyện rầm rì bên trong, đoán chắc Liên đang gọi điện thoại cho ai đó, chàng phá cửa rồi lầm lũi bước vào, quát tướng lên:

- Cô to gan lớn mật lắm. Tôi đã lầm nuôi ong tay áo.

- Anh Tuấn bình tĩnh lại đi, em có làm gì sai trái đâu! Chúng mình không thể ngủ chung vì không phải là vợ chồng.

- Tôi đã chẳng đem lễ đi hỏi cô là gì? Ai bảo lãnh cô sang đây?

- Anh Tuấn mà làm dữ Liên gọi cảnh sát.

- Tôi chấp cô đó.

Liên bấm vội số 911 như lời Hiệp dặn, chưa kịp nói "help" thì Tuấn đã giáng cho nàng một cái tát nẩy lửa. Liên khóc thét lên bên ống nghe điện thoại. Tuấn càng điên tiết thêm, tát cho nàng một cái nữa rồi hậm hực bứt giây điện thoại. Liên chỉ ngồi khóc trong khi Tuấn lôi hết cha mẹ, ông bà của Liên ra chửi rủa. Cực chẳng đã, Liên phải hét lên:

- Đồ hèn hạ, vũ phu, bần tiện...

Một cái tát ngang mặt làm Liên im bặt vì máu mũi chảy dàn dụa. Cũng lúc đó cảnh sát đập cửa bên ngoài với lời đe dọa "nếu không mở ngay, họ sẽ phá cửa vào". Cực chẳng đã, Tuấn phải ra mở cửa. Hai người cảnh sát bước vào, một người đứng giữ Tuấn, một người bước về phía phòng ngủ để quan sát hiện trường. Khi trông thấy Liên mặt ướt đầm nước mắt và máu mũi, anh ta ra lệnh cho người bạn đứng ngoài còng tay Tuấn lại, và quay sang hỏi Liên xem chuyện gì đã xảy ra. Liên vừa khóc vừa trao tờ giấy có số điện thoại của luật sư Hiệp cho người cảnh sát. Sau mấy phút nói chuyện với Hiệp, người cảnh sát trao điện thoại cho Liên và ra phòng khách làm việc với Tuấn.

Khi Hiệp đến nơi thì cảnh sát đã sẵn sàng để dẫn Tuấn về bót, và "nhờ" Hiệp chăm sóc cho Liên.

Tuấn chỉ bị giữ một đêm rồi được thả với cái hẹn tuần sau đi hầu tòa... Nhưng khi về tới chung cư thì Liên không còn, đồ đạc của nàng mang từ Việt Nam cũng đi theo, kể cả chiếc xe mới "cáo chỉ" cũng "cuốn theo chiều gió" mặc dù Liên chưa biết lái xe. Tuấn chỉ còn một mấu chốt duy nhất là luật sư Hiệp, người đã giúp chàng bảo lãnh Liên qua Mỹ, và cũng có mặt tại "hiện trường" đêm trước. Tuấn gọi điện thoại và để lại không biết bao nhiêu lời nhắn trong máy, nhưng mãi tới hôm phải ra tòa Hiệp mới gọi lại cho chàng.

- Tôi sẽ gặp anh Tuấn ở tòa. Liên sẽ cùng đi với tôi vì nàng vẫn tá túc đàng nhà tôi từ hôm anh bị cảnh sát...

- Thằng láu cá. Cả tuần nay sao mày không gọi lại cho tao? Mày làm gì con vợ tao rồi?

- Anh ăn nói lịch sự một chút nghe... Cô ta không phải là vợ anh. Anh hiếp đáp cô ta, việc đó sẽ có luật pháp lo, nhưng tôi sẽ dạy cho anh một bài học đích đáng nếu như anh còn ăn nói lỗ mãng với tôi.

Tuấn bực mình cúp máy cái rụp rồi chửi trời, chửi đất, chửi hết mọi người.

Tuấn chỉ ra tòa cho khỏi mang thêm tội trốn chạy chứ chứng cớ rành rành trong biên bản của cảnh sát, còn chối cãi vào đâu. Lúc thấy Hiệp đứng lên bênh vực Liên trước tòa, Tuấn giận lắm nhưng thua lý hoàn toàn. Khi nghe đọc phán quyết của tòa, Tuấn cũng dửng dưng vì với chàng giờ này cuộc đời chẳng còn gì quan trọng nữa: "Chiếc xe đứng tên Liên, của nàng. Tuấn giữ lại chiếc xe cũ. Từ nay không được tới gần cô Liên trong phạm vi 100 feet (khoảng 30 mét). Hàng tháng phải trợ cấp cho Liên đi học thêm tiếng Anh cũng như học nghề." Một phán quyết vô lý, nhưng Tuấn cũng chẳng buồn tranh cãi, cũng không cần phải viết đơn kháng cáo làm gì, chàng ký tên chấp nhận rồi uể oải ra xe.

Quá mệt mỏi và căm hận, Tuấn nằm gục xuống ghế xe mơ mơ màng màng... "Xe mới thuộc về nàng, nhưng nợ mua xe hàng tháng Tuấn vẫn phải trả. Căn chung cư là mồ hôi nước mắt của chàng từ bao nhiêu năm nay, bây giờ coi như thuộc về ngân hàng vì Tuấn đã rút hết tiền ra, gởi về cho Liên xây nhà báo hiếu cha mẹ trước ngày rời Việt Nam..." Vội vàng bảo lãnh một người không yêu mình sang đây làm vợ đã là một lỗi lầm to lớn, nhưng cho nàng mấy cái bạt tai trong lúc nóng giận còn tai hại hơn vạn lần!

Một giọng nói quen thuộc của Hiệp vọng tới từ một chiếc xe đậu gần đấy: "Tờ giấy đó chẳng có giá trị gì bên Mỹ này. Liên phải nhớ anh là luật sư, không việc gì em phải sợ cả. Chờ ít tháng lấy tiền trợ cấp của Tuấn cho em tiêu xài, nhận được Thẻ Xanh rồi chúng mình làm đám cưới... Liên muốn đi Âu Châu hay về Việt Nam hưởng tuần trăng mật?"

Việc duy nhất mà Tuấn có thể làm lúc này là ngồi bật dậy, nổ máy xe phóng như lao vào đêm tối.

Nguyễn Duy-An
__._,_.___
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #3 - 25. Mar 2007 , 20:24
 
Tạp ghi của một chuyến trở về

Trương Văn Tân
 
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đại học Cần Thơ, tôi có cơ hội được đến đây thỉnh giảng. Bốn mươi năm trước, chính phủ Việt Nam Cộng hoà nhận thấy tầm quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long đã quyết định thành lập Viện Đại học Cần Thơ với ba phân khoa chính là Nông nghiệp, Khoa học và Sư phạm. Ngày hôm nay, Đại học Cần Thơ là một đại học tổng hợp bao gồm nhiều phân khoa kể cả khoa Y Dược. Khoa Nông nghiệp vẫn là khoa chủ lực, có chương trình đào tạo cao học với học vị thạc sĩ (Master) và tiến sĩ (PhD).

Những con đường sình lầy trong khuôn viên đại học, những căn nhà tiền chế dùng làm phòng học mà tôi biết ở những năm cuối thập niên 60 bây giờ là những con đường xe chạy rợp bóng cây với những bụi hoa nhiệt đới nở thật đẹp, dẫn đến những toà nhà hoành tráng dùng làm phòng học, phòng nghiên cứu và phòng làm việc của ban giảng huấn. Vào những năm đầu mới thành lập, trường còn phải "mượn" giảng viên của Đại học Sài Gòn đến giảng dạy. Ngày hôm nay nhà trường có một ban giảng huấn trẻ, ưu tú và nhiệt tình. Ở khoa Công nghệ nơi tôi làm việc với các đồng nghiệp, số tuổi trung bình của các giảng viên vào khoảng 35. Nguyện vọng của ban quản trị nhà trường là các giảng viên phải có ít nhất bằng thạc sĩ được đào tạo tại nước ngoài.

Được biết hiện nay Đại học Cần Thơ và Đại học Đà Nẵng là hai đại học Việt Nam có nhiều liên hệ giáo dục và giao lưu quốc tế đứng đầu cả nước. Khoa Công nghệ của Đại học Cần Thơ vừa mới được thành lập gần 5 năm đào tạo kỹ sư với tên gọi tiếng Anh là "College of Technology" (theo tôi từ chính xác nên là: Faculty of Engineering) . Khoa mô phỏng theo Đại học Bách khoa Tp HCM (tên cũ: Trung tâm Kỹ thuật Quốc gia Phú Thọ), ngoài những bộ môn đã có từ lâu như công nghệ Điện (electrical engineering) , công nghệ Hoá (chemical engineering) , khoa Công nghệ đặt trọng điểm giảng dạy và nghiên cứu về Vật liệu học (Materials Sciences), chú trọng đến các loại vật liệu tiên tiến (Advanced Materials).

Trong bối cảnh là một trường đại học nông nghiệp, chính sách giáo dục và nghiên cứu của Đại học Cần Thơ đa dạng và có tầm nhìn xa. Phần lớn khoa Công nghệ (kỹ sư) của các đại học Việt Nam vẫn phân chia các bộ môn công nghệ không khác gì thời Pháp thuộc. Ngoài Viện Vật liệu trực thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam tại Hà Nội, tôi nghĩ không có một đại học Việt Nam nào chú trọng đến khoa Công nghệ Vật liệu (Materials Science/ Engineering) . Khoa này đã là một phân khoa chính thức của các đại học tại Bắc Mỹ, Nhật, châu Âu hơn nửa thế kỷ nay. Trong vài thập niên gần đây, nó đã trở thành một khoa quan trọng tại Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Iran.

Bộ môn này liên quan đến việc khảo sát những đặc tính và ứng dụng của các loại vật liệu như ceramics (gốm), kim loại và polymers (plastics - nhựa). Nó đòi hỏi người học và nghiên cứu phải có một kiến thức đa ngành về Hoá học, Vật lý, Toán học và biết áp dụng những môn này vào việc cải tạo hoặc biến chế vật liệu cho một ứng dụng nhất định. Những vật liệu có thể là chất cách điện, chất dẫn điện hoặc bán dẫn. Những ứng dụng bao gồm những việc trong cuộc sống đời thường như chống ăn mòn (cầu, tàu bè, máy bay...), những dụng cụ điện tử, pin mặt trời, cho đến những áp dụng trong của thế kỷ 21 như vật liệu thông minh và công nghệ nano. Sự trì trệ trong việc phát triển khoa Công nghệ Vật liệu tại các đại học Việt Nam có thể phát sinh từ sự tôn sùng cách học thuần lý của Liên Xô và các nước Đông Âu cũ, chỉ biết dựa trên toán và vật lý lý thuyết. Cách học này sản sinh ra những nhà lý luận tuyệt vời "trên trời" nhưng lại lơ ngơ trong ứng dụng.

Liên quan đến việc học toán, có một số người trong nước thường thắc mắc hỏi tôi, "Người Việt Nam ở nước ngoài làm nghiên cứu khoa học chắc giỏi hơn người nước khác?", "Tại sao mình lại giỏi hơn người khác?" tôi hỏi lại. "Vì ta giỏi toán"! Thật ra, người Việt Nam nghiên cứu không thua cũng không hơn, học không giỏi cũng không kém hơn người nước khác. Nhưng sinh viên Việt Nam có cái khuyết điểm chung là dễ tự mãn, không có sự khiêm tốn của sinh viên Nhật, sự cần cù của sinh viên Trung Quốc và sự trầm lặng hiền hoà của sinh viên Thái Lan. Ta đã tự tạo cho ta một huyền thoại "giỏi toán" và để huyền thoại vây quanh ta, trở thành người tù của ảo tưởng "đỉnh cao trí tuệ". Học sinh Mỹ không giỏi toán như học sinh Việt Nam, nhưng Mỹ là cường quốc khoa học kỹ thuật đứng đầu thế giới. Học sinh Ấn Độ, Nhật Bản chắc chưa bao giờ có huy chương vàng Olympic Toán, nhưng là những nước nhất nhì thế giới về công nghệ thông tin, điện tử và những công nghệ tiên tiến khác.

Một người quen, bây giờ là giảng viên đại học, thổ lộ với tôi rằng anh đã từng là học sinh giỏi toán. Anh đã được chọn vào những "lò" luyện toán để cuối cùng được tuyển chọn tham gia thi Olympic Toán. Anh đã được dạy giải những bài tích phân sao cho thật nhanh, nhưng không ai nói cho anh biết ý nghĩa của tích phân là gì. Mãi đến sau này, anh mới biết tích phân chẳng qua là một dạng của phép tổng (summation). Hoá ra, khi những cuộc thi Olympic được xem như những cuộc thi giao hữu ở những nước khác, thì chính phủ Việt Nam xem như là một "quốc sách" đào tạo những học sinh chỉ biết làm toán như cái máy để đi thi lấy tiếng, nhưng không biết áp dụng.

Tôi vào một hiệu sách xem qua một số sách đại học. Những kệ sách giáo khoa đại học tại các nhà sách phản ảnh khuynh hướng học nặng về lý thuyết, phần lớn bày bán những sách bài giải Toán, Lý, Hoá. Sách giải toán chiếm gần 80%, bao gồm đủ mọi đề tài: Hình học, Đại số, Vi tích phân v.v... Sách giáo khoa viết ở một trình độ bình thường, không hơn những quyển sách xuất bản vài chục năm trước. Tác giả vẫn còn lấn cấn trong việc giải thích một khái niệm khó hiểu bằng một ngôn ngữ giản dị. Các sách giáo khoa tiếng Anh rất thành công về mặt này, vì mỗi lần tái bản người học có thêm dữ liệu, hình ảnh minh hoạ, nhiều thí dụ, bài tập liên quan và đề nghị các sách tham khảo đọc thêm. Không có sách giáo khoa chuyên đề cho những năm cuối đại học hay sau đại học. Trừ một vài quyển sách Vật lý của hai nhà Vật lý Nga nổi tiếng, L. Landau và E. Lifshitz, rất ít sách dịch từ tiếng nước ngoài. Bản dịch tiếng Việt từ những quyển vật lý và khoa học đại chúng tiếng Nga là những bản dịch đồ sộ rất công phu, dễ hiểu. Giá cả lại phải chăng, nếu không nói là quá rẻ (sách dày 800 trang, giá $8 USD). Sách dịch không thịnh hành có lẽ vì độc giả quá ít, không bán được. Điều nầy rất khác biệt với Nhật Bản, hầu hết những sách nổi tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc... của tất cả mọi môn học, ngành nghề, từ khoa học đến văn học đều có bản tiếng Nhật. Sách dịch trở thành một nguồn tri thức ngoại nhập và món ăn tinh thần không thể thiếu của người Nhật Bản hơn hai trăm năm nay.

Các đại học Việt Nam hiện nay chỉ là nơi cung cấp nhân lực có học vị kỹ sư hoặc cử nhân cho những doanh nghiệp. Mặc dù nhiều đại học đã có kinh nghiệm giáo dục, nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp và khoa học tự nhiên với chiều dài hơn nửa thế kỷ, cộng với vài chục ngàn tiến sĩ khoa học, tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ, đại học Việt Nam vẫn chưa đạt đến trình độ là nơi cung cấp một nền tảng tri thức cần thiết trong quá trình "nghiên cứu và phát triển" cho việc phát minh và biến phát minh thành những sản phẩm thương mãi hữu dụng.

Nguyên nhân chính đầu tiên vẫn là tiền đâu. Cái vòng luẩn quẩn vì không tiền nên không thể nghiên cứu sản phẩm bán ra tiền. Đâu là bước đột phá? Tiếp xúc với đồng nghiệp làm việc tại đại học và các viện nghiên cứu Việt Nam, tôi được biết có những đề án nghiên cứu rất hấp dẫn, nhưng kinh phí nhận được từ trung ương chỉ có vài ngàn USD cho một đề tài, trong khi với đề tài tương tự tại các nước Âu Tây, số tiền cần thiết phải 50 đến 100 lần nhiều hơn. Có một điều phấn khởi và đáng mừng là nghe đâu Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tăng gia kinh phí nghiên cứu khoa học theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Có nghĩa là kinh phí sẽ được tăng lên gấp 10 hoặc thậm chí 100 lần cho các đề án cấp nhà nước. Nếu theo phương thức "nghiên cứu khoa học là quá trình biến tiền thành tri thức", thì tri thức gặt hái được sẽ tỉ lệ thuận với số tiền cung cấp nếu được sử dụng đúng chỗ. Vì nguy cơ tham nhũng, ta cũng chớ vội mừng khi tiền có gia tăng nhưng hội đồng thẩm định đề án nghiên cứu và cơ chế giám sát sử dụng kinh phí chưa được thành hình.

Tham nhũng trong khoa học sẽ rất khó phát hiện vì những thành quả và thất bại trong nghiên cứu khoa học phần lớn vượt ra ngoài sự hiểu biết và cách lý giải thông thường. Nếu không có một hội đồng chuyên môn độc lập thẩm định các đề án và cơ quan giám sát kinh phí khi đề án được chấp nhận thực thi, và nếu không có những biện pháp phát hiện và trừng trị những vi phạm tài chính, tham nhũng trong khoa học sẽ lan tràn và xảy ra trong nhiều tình huống ngụy trang rất tinh vi. Với các đề án cấp nhà nước, hội đồng thẩm định cần phải có ý kiến phản biện của chuyên gia nước ngoài về mục tiêu, phương pháp nghiên cứu, kết quả có thể gặt hái và các khoản kinh phí của đề án.

Đại học tại chức và đại học địa phương là một hiện tượng đặc thù Việt Nam nhưng khá phổ biến, manh nha từ nhu cầu kinh tế, sự tôn vinh bằng cấp hơn là vì học thuật. Ở nhiều đại học, số "sinh viên" tại chức cũng gần bằng sinh viên thực thụ. Nhu cầu có bằng cử nhân, kỹ sư nở rộ trong giới quan quyền cho việc trang sức địa vị và thăng quan tiến chức. Người dạy có thêm thu nhập, người được "dạy" sẽ có mảnh bằng với điều kiện thi cử dễ dãi, đôi bên đều có lợi đúng theo nguyên tắc bách chiến bách thắng "win - win" của chủ nghĩa kinh tế thị trường. Chỉ có nền học thuật thì suy đồi và bị thui chột.
 
Đại học địa phương được lập nên chỉ cần một toà nhà với một vài phân khoa. Gần Sài Gòn, người ta thấy có đại học Bình Dương, đại học Bà Rịa-Vũng Tàu, đại học Tiền Giang. Ở miền Tây, cách đại học Cần Thơ non 100 km là đại học An Giang. Đại học Bạc Liêu gần đó rồi sẽ được thành lập. Tôi nghĩ không lâu cũng sẽ có đại học Kiên Giang, đại học Đồng Tháp v.v... Nó đi ngược khuynh hướng tập trung hoá các đại học nhỏ thành một đại học lớn để thống nhất giáo trình, nâng cao chất lượng giáo dục và đơn giản hoá cung cách quản trị hành chính. Việc này chính phủ Úc thực hiện rất thành công và hiệu quả 15 năm trước. Nó cũng đi ngược lại chính sách thành lập đại học đẳng cấp quốc tế mà các bậc trí giả trong, ngoài nước bỏ nhiều công sức hoạch định, bàn tán sôi nổi từ mấy năm qua.

Trong một thập niên gần đây, chính phủ đã liên tục kêu gọi sự đóng góp và hợp tác chất xám Việt Kiều. Thậm chí, có những đại học như đại học Cần Thơ viết thư ngỏ kêu gọi hợp tác quốc tế trên bình diện tổ chức cũng như cá nhân. Cũng theo chiều hướng này, không ít những người Việt Nam làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật tại nước ngoài đều mang một hoài bão phục vụ quê hương. Tuy nhiên, sự kêu gọi của chính phủ như một lời chào khách sáo, chỉ mang tính chất tuyên truyền không cụ thể. Thói quen ngửa tay nhận viện trợ vô hình trung đã thâm nhập rất sâu vào tư duy của giới giáo dục và làm công tác khoa học. Muốn tận dụng chất xám Việt kiều thì chính phủ phải có một ngân khoản đầu tư cho những vấn đề hợp tác cụ thể lâu dài, bao gồm từ việc nhỏ như chuyện đi lại ăn ở, chi phí hội thảo, mở những lớp học chuyên đề, tổ chức dịch thuật sách giáo khoa, đến chuyện lập ra những tiện nghi giáo dục cho con cái, nhà ở cho những người muốn trở về hợp tác trung hạn hoặc dài hạn.

Phần lớn cá nhân những người làm công tác khoa học tại nước ngoài chỉ ở mức lương trung bình. Họ có thể rất giàu về kiến thức chuyên môn, nhiều nhiệt tình nhưng không sung túc trên mặt tài chính. Những cá nhân này thường tận dụng những chuyến đi hội thảo hoặc thăm nhà tại Việt Nam bỏ thì giờ và tiền túi tự nguyện đến các đại học và viện nghiên cứu trong nước để trao đổi chuyên môn. Hình thức này đã có từ nhiều năm qua, nhưng vì bản chất "tự nguyện" nên thường chỉ là cục bộ, ngắn hạn. Hiệu quả như cơn gió thoảng trên mặt nước hồ thu.

Từ những kinh nghiệm cá nhân, tôi cảm thấy có một sự chênh lệch về mục đích giữa chủ và khách. Phía chủ cần tiền, cần tri thức, cần sách vở, cần tài liệu nhưng có lẽ tiền là quan trọng hơn hết, trong khi khách chỉ có thể cung cấp tri thức, tài liệu trong ngành chuyên môn của mình, mặc dù những tri thức này biết sử dụng khéo léo cũng có thể là nguồn tiền của vô tận. Cho đến bây giờ, lời kêu gọi hợp tác và lợi dụng chất xám Việt Kiều chỉ là lời nói suông, không có giá trị thực tế, ngay trên bình diện giao lưu đơn giản.

Một cơ duyên đã đưa tôi đến tỉnh Bình Dương. Bình Dương đứng đầu cả nước trong việc thu hút những khoản đầu tư của các công ty nước ngoài, chủ yếu là Đài Loan và Hàn Quốc. Ngoài vị thế chiến lược ở gần Sài Gòn, Bình Dương xây dựng nhiều hạ tầng cơ sở và tạo nhiều điều kiện kinh doanh dễ dãi cho công ty nước ngoài. Khu công nghiệp "Vietnam Singapore Industrial Park" trên quốc lộ nối liền Sài Gòn-Bình Dương là một biểu hiện thành công của chính sách đầu tư của tỉnh Bình Dương.

Trên những hương lộ dẫn đến những huyện Tân Uyên, Tân Lương tiếp giáp với chiến khu D khi xưa, xuất hiện rất nhiều nhà máy sản xuất, phần lớn của các trung tiểu xí nghiệp Đài Loan. Nếu không có những hàng chữ Hoa và chữ Anh bên ngoài toà nhà, thì không ai biết đó là những công ty Đài Loan. Đọc được tên công ty, nhưng bảng hiệu không cho biết họ sản xuất những sản phẩm gì. Phương thức "úp úp mở mở" này có lẽ phản ảnh lối kinh doanh âm thầm không khoa trương, làm giàu trong im lặng cố hữu của người Hoa, khác hẳn kiểu "chơi nổi" của một vài doanh nhân nước ta; chưa vào "top 100" hay thậm chí "top 1000" người giàu nhất hành tinh thì đã có người mua chiếc xe hơi Maybach 62 đắt nhất thế giới đáng giá 1 triệu USD, chạy rong làm thiên hạ lác mắt cho vui! Những người Đài Loan, Hàn Quốc làm việc ở đây dễ dãi chấp nhận với nếp sống yên bình của một tỉnh lỵ. Các tiệm ăn đặc sản Đài Loan mọc lên rải rác trên quốc lộ. Thực khách ra vào dập dìu các quán "mộc tồn" hữu nghị Hàn Việt, với các món "cờ tây" làm theo khẩu vị ta lẫn khẩu vị Hàn.

Những đầu tư nhỏ đưa đến đầu tư lớn. Trong những ngày tôi ở Việt Nam, giới truyền thông đưa bản tin hàng đầu về tập đoàn Kumho sản xuất vỏ xe nhất nhì của Hàn Quốc chính thức ký kết một văn kiện làm nhà máy tại Bình Dương. Những đầu tư lớn nhỏ này đã hoàn toàn làm thay đổi bộ mặt nông thôn tỉnh Bình Dương. Những khu rừng cao su rộng lớn âm u, có một thời là một trong những nguồn sản xuất quan trọng, bây giờ được san phẳng để cung cấp mặt bằng cho những khu công nghiệp tương lai. Những thanh niên, thiếu nữ ở đây bây giờ không phải những anh nông dân hay cô thôn nữ, quanh quẩn trên những mảnh vườn cha ông để lại, chỉ biết trồng trọt, chăn nuôi. Họ tìm mọi cách để nâng cao trình độ học vấn và học tiếng Anh để xin việc ở những công ty nước ngoài. Họ sẽ được trả lương khoảng 1 triệu VND/tháng (60 USD) cho lao động bình thường, 2 triệu (120 USD) cho công việc văn phòng. Số lương nhỏ nhưng đủ để giúp người dân thoát khỏi cảnh nghèo khó ở thôn quê.

Những trung tiểu xí nghiệp sản xuất những sản phẩm mang tính chất "trung tiểu" như giày dép, quần áo, đồ gia dụng, các sản phẩm chế biến từ gỗ v.v... Việt Nam mang lại cho doanh nghiệp nước ngoài một nguồn lao động rẻ. Ngược lại, tuy những xí nghiệp mang công việc cho người dân địa phương, nhưng trên đường dài phát triển không mang một ích lợi kỹ thuật nào cho nền kinh tế quốc dân. Công nghệ điện tử, tin học, y sinh học, công nghệ nano, công nghiệp sản xuất máy móc chính xác (precision machinery) là những ngành mũi nhọn tạo nên sự giàu có cho một đất nước, vẫn chưa thấy manh nha ở các khu công nghiệp này. Tất cả đầu tư nước ngoài, theo sự quan sát phiến diện của tôi, chỉ ở công nghệ "trung" đến công nghệ "thấp," bao gồm công nghệ lắp ráp.

Bình Dương không phải là nơi độc nhất có nhiều khu công nghiệp. Trên quốc lộ 1 về miền Tây đi qua tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ, những khu công nghiệp lớn, nhỏ mọc lên như nấm. Thành lập khu công nghiệp có lẽ thành một cái "mốt" trên toàn quốc. Dù không phải là một nhà nghiên cứu kinh tế, tôi có cảm giác là các tỉnh tranh nhau thu hút đầu tư, nếu không được đầu tư nước ngoài thì đầu tư nội địa. Hệ quả là số cung nhiều hơn số cầu. Nhiều khu công nghiệp không rộng lớn nhưng đất đai thừa thãi, cả khu chỉ có lèo tèo một vài nhà máy nội địa. Cũng giống như các khu phố của người Việt hải ngoại, khi có một tiệm bán phở đắt khách thì vài tháng sau sẽ có một tiệm phở khai trương kế bên. Cứ như thế mà phát triển thì một khu phố nhỏ sẽ có năm sáu quán phở cùng thi đua thu hút số khách ăn nhất định.

Tính sáng tạo và đa dạng hoá không thấy ở những khu công nghiệp. Cần Thơ nằm ở một vị trí chiến lược trung tâm, tiếp giáp với Vĩnh Long, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Kiên Giang, là vựa lúa Việt Nam, một khu vực với tiềm năng vô hạn trong việc khai thác tôm cá nước ngọt, hải sản, và cũng là trung tâm sản xuất hoa quả nhiệt đới toàn quốc, nhưng tôi không thấy một khu "nông công nghiệp" nào trong đó có những nhà máy cao cấp chế biến nông phẩm, đóng hộp hoa quả ngũ cốc. Được gọi là Tây Đô, nhưng Cần Thơ đã mất đi nhiều dịp để biến thành phố này trở thành một trung tâm sản xuất nông ngư nghiệp cho cả nước.

Việt Nam đang chuyển mình để hội nhập thế giới và thế giới cũng đang dang tay chấp nhận Việt Nam như một đối tác đáng tin cậy. Việt Nam sẽ là một con rồng châu Á, bay lên như cá vượt vũ môn. Tuy rằng có muộn nhưng còn hơn làm thân phận con cá chép lượn lờ lửng lơ mãi trong ao! Nhưng cho đến bây giờ, con rồng Việt Nam sẽ bay được bao xa, theo phương hướng nào, vẫn là một hàm số có nhiều ẩn số. Trước những thắng lợi cục bộ, nhà nước cũng không quên nhắc nhở người dân qua những chương trình TV, radio, rằng "một lần nữa, những thành quả rực rỡ về kinh tế và ngoại giao là một bằng chứng hùng hồn khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và nhà nước". Sao chỉ có Đảng và nhà nước, còn sáng kiến nhân dân ở đâu?

Trên đường phố Sài Gòn thỉnh thoảng xuất hiện những băng rôn điện tử to đùng "Thành phố Hồ Chí Minh: thành phố của anh hùng". Vâng, theo tôi đây là thành phố của những anh hùng chạy xe ôm vài ngàn đồng cho một cuốc xe về nuôi vợ con, bất kể những buổi trưa nắng gắt hay những cơn mưa tầm tã; anh hùng là những người buôn bán nhỏ bên lề đường, ở những quán cóc bán cà phê, cơm, phở; những anh thợ hớt tóc tận tâm phục vụ khách hàng với một loạt nghiệp vụ làm đẹp, kể cả cạo mặt, lấy ráy tai với giá bèo 60 cents US; anh hùng là một đoàn quân nam phụ lão ấu bán vé số từ 7 đến 70 tuổi nhẫn nại năn nỉ khách mua ở tất cả hang cùng ngõ hẻm. Tôi cũng thấy những anh hùng nông dân "miệt vườn" thấp cổ bé miệng sinh sống dọc theo những khúc đường liên tỉnh gần quê tôi, mịt mù bụi đường những ngày nắng ráo, lầy lội bùn đất những ngày mưa. Họ phải hít thở hàng tấn bụi mỗi ngày trong 2, 3 năm qua, con cái họ phải chịu những chứng bệnh hen suyễn với một thái độ chấp nhận số phận, không một lời than vãn, trên một đoạn đường đầy hang lỗ không hơn 10 km, chỉ vì nhà nước "thiếu" tiền tu sửa. Những "anh hùng" này là giai cấp nghèo "mới" trong nền kinh tế thị trường, nơi mà sự phân cực giàu nghèo càng lúc càng gia tăng. Họ là những thành phần cốt cán làm xã hội chuyển mình, làm ăn lương thiện, chắt bót từng đồng, nhưng bị xã hội bỏ quên.

Nhìn sự phát triển của khu công nghiệp Bình Dương, qua sự tiếp xúc với những đồng nghiệp làm công tác khoa học, và nhìn vào chính sách phát triển khoa học công nghệ của nhà nước, phải nói là chưa có sự đối thoại và liên thông giữa khoa học, kinh tế, doanh nghiệp và công nghiệp sản xuất. Nếu nhà nước không có những chính sách cụ thể, "ngôn hành hợp nhất", dùng người đúng chỗ, và nếu tiềm năng chất xám Việt kiều không được sử dụng triệt để, hệ quả tất nhiên sẽ là nội lực quốc gia phát xuất từ những thành quả nghiên cứu của khoa học kỹ thuật tạo ra tiền của, vật chất chắc còn lâu lắm mới thành hình. Mãi mãi, Việt Nam chỉ là nơi tập họp của "anh hùng" xe ôm, những người mua gánh bán bưng lam lũ không biết bao giờ thoát ra được cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo.

Khi đề cập đến sự phát triển và giàu có của Singapore, Lý Quang Diệu có lần trả lời báo giới Việt Nam, "Tôi không phải là người tài, nhưng tôi biết sử dụng người tài đúng chỗ".

12 March 2007
Trương Văn Tân

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #4 - 26. Mar 2007 , 04:45
 
Quote:
Tạp ghi của một chuyến trở về

---------
12 March 2007
Trương Văn Tân



Anh Lam Sơn ơi ,

My cũng post y chang bài này ở mục đọc báo  Cheesy, My mới xóa đi rồi. Cám ơn anh nhiều lắm  Wink


Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #5 - 26. Mar 2007 , 14:43
 
Đặng-Mỹ wrote on 26. Mar 2007 , 04:45:
Anh Lam Sơn ơi ,

My cũng post y chang bài này ở mục đọc báo  Cheesy, My mới xóa đi rồi. Cám ơn anh nhiều lắm  Wink


cam on chi My
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #6 - 29. Apr 2007 , 22:08
 
Lải Nhải Đời Tôi 1959 - 1969
Lưu Nhơn Nghĩa

Cuối năm 1958, Thủ khoa Nghiã không nhận lên Đệ Tam, tôi lao đao lên Sài Gòn tìm trường tư học tiếp.  Đọc báo thấy tên trường Hoàng Vịệt ở đường Phan đình Phùng, gần nhà nhứt, tôi chưa dám đi xa, chưa quen đường, hay chạy lạc.  Ngày ngày đạp xe đạp từ đường Triệu Đà Chợ Lớn. Tôi ở nhà thân nhân bán gạo, than, dầu lửa, gạo chất tới gác.  Ở Châu Đốc thanh thản đã quen, SG xa lạ, cao sang, tôi cứ nhìn các cô để tóc đuôi ngựa, đẹp quá.  Tôi thì quần kaki xanh mốc, mồ hôi đổ ướt mình trên xe đạp, mắc cở.

Năm 1958, dân SG đã quen tên đường bằng tiếng Việt, nhớ năm trước đi trại hè, ngủ tạm trườngTiểu học Phan đình Phùng, hỏi dân xích lô máy không biết, chỉ nhớ tên đường Richaud (?).  Dân còn khá thảnh thơi, nhiều anh xích lô đạp nằm ngủ trưa hay đọc báo bên đường.   Người Pháp và ảnh hưởng văn hoá Pháp rất mạnh, các cô trường Pháp cứ tự nhiên nói tiếng Pháp ngoài phố.   Các ông còn mặc quần short trắng, aó trắng, vớ cao, ngồi ăn sáng quán Vĩnh Lợi, trên dĩa có miếng bánh mì, lát fromage, trái chuối già. Ông dùng dao cắt trái chuối thật gọn, tự nhiên, động tác rất noble. Áo dài cổ cao, vạt áo chấm gót.  Nón Tây ( nón cối ) vẫn còn.

Đường SG còn cây cao bóng mát, xe đạp rất nhiều, xe bus cũng dư cung cấp phương tiện di chuyển rẻ tiền, thấy xe ngựa còn lọc cọc trên tuyến đường Bảy Hiền, năm 1965 mới không còn. Xích lô đạp, xích lô máy rất thông dụng.   Taxi là xe Renault nhỏ, hai ngựa, màu xanh dương.  Xe gắn máy ( Mobylette, Sach, Velo Solex, Gobel, Puch ) khá nhiều dành cho công chức, học sinh ít dùng, xe Mobylette chừng hơn $6000.  Ai cũng khen đồ Tây tốt và bền nhứt, cũng như tiếng Tây hay nhứt.   Các cô mặc áo dài trắng, ẻo lả, đội nón lá, chạy Solex đẹp lắm. Xe hơi có Peugeot, Renault, Citroen, Simca, vài chiếc xe Huê Kỳ.  Hàng hóa Tây được chuộng, ảnh hưởng Mỹ chưa mạnh như sau nầy.

SG mới có phong trào Đại nhạc hội, nhạc nhớ miền Bắc rất thịnh, bảng " Nhớ về Hà Nội, Chuyến đò vỹ tuyến,...Nhạc sĩ miền Bắc chi phối nền văn học và giáo dục miền Nam.   Trường tư cũ ít, trường Nguyễn văn Khuê, Lê bá Cang... Trường tư lớn do người Bắc mở khắp SG, thêm lớp dạy thêm, học sinh đông lắm, mở trường là có học sinh, thời thanh bình, thanh niên nô nức đi học. Thời vàng son của giáo sư.

Tôi chọn ban B, hy vọng khá toán để thi lại Trung học Đệ nhứt cấp.   Bàn học chật chội, 6 đứa, lớp chừng trên 80 đứa, khỏi trả bài, khỏi điểm danh, chỉ kiểm soát học phí, khoảng $300/ tháng (?).   Lần đầu học chung với nữ sinh, sĩ số nữ sinh chừng 1/3 tổng số, có lẽ ban B, ít nữ sinh.   Nhớ Thủ Khoa Nghĩa thời tôi, sĩ số nữ sinh là 1/4. chỉ có 1 lớp A va 3 lớp nam sinh.   Nữ sinh trường tư không có đồng phục, áo dài màu đẹp lắm, hình như đẹp hơn nữ sinh Châu Đốc(?).   Học sinh gốc Bắc khá đông, toàn bộ giáo sư đều gốc Bắc.   Tôi nhớ luật sư Trần văn Tuyên dạy Pháp văn, đủ biết là lương giáo còn cao, sau nầy luật sư không ai dạy học thêm.   Thầy Nguyễn Phố, nhà văn Hư Chu dạy học còn hơi hướng nhà nho.

Lớp có ban đại diện, trưởng lớp là chị Trần khánh Tuyết, ở Châu Đốc chỉ biết già G. làm mấy năm liền.   Chị Tuyết rất hoạt động, nói tiếng Pháp rất hay. Lúc đóng kịch Molière, chị đóng vai chánh, tôi khôn hồn lựa vai phụ ngắn đóng cho qua.V Tôi chỉ quen chị duy nhứt, chị coi tôi như em.   Sau năm học, mất liên lạc tới năm 2005, tình cờ liên lạc qua email, nghe tin tôi bịnh, chị tức tốc qua Brisbane thăm tôi đầu tháng 1/2007, 45 năm, tâm sự chuyện cũ cả tuần chưa chán.   Chính chị dạy tôi chơi correspondant, bạn thư, tôi quen Kazuko, Annette Fricker..,viết thư say sưa.   Suốt năm, không thu thập gì, toán lý hoá quá kém.   May là tôi mua sách học thêm sinh ngữ.   Ở Châu Đốc lay quay bài chép trên bảng.   Ở SG nhiều thư viện và tiệm sách, được cuốn nào, tôi học ngấu nghiếng cuốn đó. Bây giờ nhớ lại thấy mình ngu, tôi học các bài toán "tủ", vô thi trật tủ thì chịu chết. Đọc được cuốn Grand Coeur ( Tâm hồn cao thượng ), Sans famille say sưa, có khi cảm động ngậm ngùi. Sau khi học thuộc lòng cuốn Les mots Anglais, tôi ôm tự điển học, rồi dành trọn buổi học thêm ở Centre Culturel Fransais gần Sở thú, rồi học thêm chương trình Anh ở trường Mỹ chung với con cháu dân ngọai quốc thường.

Năm 1960, lại rớt Trung học thêm hai keo, hết chuyện nói.   Tôi ít về Tri Tôn sống trong địa ngục gia đình có đứa con thi rớt, hàng đêm nghe chửi, rớt thì học cours luyện thi.   May mà gặp trường tư thục Hàn Thuyên có Đệ nhị ban C, ban C khó đậu, học sinh quá ít, mở lớp không có lời, sau năm đó trường dẹp ban C, hú viá.   Giáo sư dạy cho có, giảng lang bang. Ông Nguyễn D D, có tiếng là nhà văn, không tốt nghiệp Đại học nào, vào ngâm thơ Hàn mặc Tử, dạy không hết chương trình.   Giáo sư Sử Địa cũng tà tà, không biết chương trình theo, miễn học sinh vui, không phá phách là được.   Giáo sư Pháp văn thì cà kê chuyện cá nhân mình.   Mỗi năm thi hai kỳ cho có, lúc vào thi thật thì phú thác cho trời.   Giám khảo chấm thì hà tiện điểm, vào oral thì được dịp mắng thí sinh để tỏ uy quyền. Chỉ có ban A, B, trúng toán lý hoá là xong. Năm đó cả lớp tôi đậu Tú Tài đúng ba đứa. Thời đó, miễn còn đi học là còn hoãn dịch. Tránh được toán lý hoá là yên thân, tôi không trông cậy giáo sư trường, chỉ chuyên lo học thêm, tới đâu hay tới đó. Những bài toán lý hoá không còn ám ảnh. Ban C thi chỉ có bốn môn viết, Việt, Anh, Pháp, Sử Địa.Tôi tìm an vui trong những lá thư ngoại quốc, ước mơ lãng mạn.

Năm 1961, xách gói lo thi thêm kỳ thi Trung học đã bỏ oral, hy vọng tìm được niềm vui, bớt áp lực gia đình chòm xóm. Năm thứ ba, nghĩa là lần thứ năm lại rớt. Tôi không về quê, viện lý do thi Tú Tài. Lại chuẩn bị hồ sơ thi Trung học kỳ hai, lần thứ sáu, hết đường vô Quốc gia Sư phạm, thất thần như chết chưa chôn, mặt ngơ ngơ ngáo ngáo. Đang ngồi ăn cơm, ông già tôi ở quê lên, hầm hầm, trước mặt mọi người, " Mặt gà mở cửa mả, sao không nhào vô xe lửa chết đi ".   Nghe chửi đã quen, mà tôi có biết xe lửa chạy đường nào mà tự tử. Ổng nói với bà già tôi, " Tao xài nó trước mặt thằng H. con H. cho nó nhục. " Tôi chịu nhục đã quen suốt ba năm, vết thương bây giờ còn hằng trong đầu, không cách gì xoá được.   Về An Giang nộp đơn xong trở lên SG thì có kết quả Tú Tài, vậy là không cần bằng Trung học, tôi cũng có về thi cho vừa lòng nhà, tôi không theo dõi kết qủa vì biết chắc là rớt.

Năm đó, cả SG chỉ có bốn trường có Đệ Nhứt C, Gia Long, Petrus Ký, Chu văn An, Trưng Vương. Trường tư không đủ học sinh, may là Hồ ngọc Cẩn Gia Định có ban C, dành cho dân lục tỉnh lên, hình như năm sau lại dẹp. Lớp không có nữ sinh, 2/3 học sinh gốc Bắc. Thi viết có ba môn, Triết, Anh, Pháp, oral cũng có môn Triết Anh Pháp, ba môn nầy đủ dập toán lý hoá vạn vật. Năm nầy vui vì không bị áp lực toán lý hoá, ít thấy đứa nào lo lắng thi cử, thế nào cũng đậu. Thầy Huỳnh Hoà, giáo sư Pháp văn lớp tôi lại là Chánh chủ khảo của Trung tâm duy nhứt ở trường Gia Long. Bọn tôi hầu hết vào Văn khoa, Sư phạm và Hành chánh, một số du học. Hơn nửa lớp ở Mỹ. Vài bản nhạc thịnh hành," Tiếng hát Mường luông, Kiếp nghèo, Em ơi nếu mộng không thành thì sao.."

Thời thế bắt đầu thay đổi, cuộc sống vội vả hơn, xe gắn máy nhiều hơn, bắt đầu thành nhu cầu. Xe bus bị dẹp. Xe gắn máy khan hiếm, command lâu, phải quen biết. Giá xe tăng khá nhiều. Không khí chánh trị ngột ngạt, rất sợ mật vụ. Anh em chỉ chơi với bạn học cũ từ Trung học lên, thấy người lạ là lã vã nói chuyện khác. Nữ sinh viên rất ít, hình như héo hắt, vài đứa chương trình Pháp còn khá tươi tắn. Sinh viên gốc Bắc nhiều hơn.   Tôi gặp lại thầy học Hồ ngọc Cẩn ghi danh học chung. Đi đâu cũng nghe than phiền bà Ngô đình Nhu, con bà là Lệ Thủy không hiểu sao ghi danh học Văn khoa, mật vụ vào giử an ninh và chổ ngồi cho cô. Trường cách dinh Gia Long con đường, dinh được rào kẻm gai . Tôi ghi danh học Dự bị Anh, khi lên chứng chỉ, tôi đổi qua Việt Hán dễ đậu và dễ học vì tôi gốc Hoa.

Rạp hát Đại Nam có máy lạnh đầu tiên, rồi dần dần nhiều rạp hát quanh khu quận Nhứt có máy lạnh. Công chức hay vào xem buổi trưa tránh nóng. Đây là một hiện tượng, lần đầu ngồi phòng lạnh sướng lắm. Thông thường, chỉ có quạt máy, nóng bức, khán giả đã quen chịu nóng. Nhiều rạp bình dân, chiếu hai phim, permanent, xem đi xem lại suốt ngày cũng được. Phim nói tiếng Pháp, phụ đề Việt ngữ, dù là phim Cowboy. Rạp Long Phụng chiếu phim Ấn Độ thường xuyên, nhiều khán giả ghiền nhạc Ấn Độ du dương. Phim VN biến đâu hết. Lúc còn ở Châu Đốc, có một loạt phim VN, Thoại Khanh Châu Tuấn, Lâm Sanh Xuân Nuơng, Quan Âm Thị Kính, Ngưu Lang Chức Nữ. Hồi đó Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng còn trẻ đẹp lắm. Trước khi bắt đầu, khán giả phải đứng lên chào cờ, sau đó là bài " Suy tôn Ngô Tổng thống " ( sau tháng 11/1963 thì không còn bài suy tôn. ) Chợ Lớn thì tuồng Tàu, hát tiếng Quảng tôi không nghe được Đại nhạc hội càng phổ thông, Trần văn Trạch, Tùng Lâm, Vân Hùng, Thanh Thuý,Tuý Phượng..,thấy quảng cáo ở rạp Thanh Bình. Đài phát thanh, chưa có TV, ban Thăng Long và ban kịch Dân Nam phổ thông nhứt. Khán giả đông, cải lương thịnh hành, dù là gánh Kim Chung, Bắc di cư. Thời cuả Thanh Nga, Thành Được, Út trà Ôn.

SG thanh bình khá lâu, từ 1954, ngưng chiến. Tháng 11/61, nghe tin đão chánh, dân chúng sợ, ùn ùn mua gạo, than, nước mắm, dầu lửa dự trử. Tiệm mấy cậu tôi ở đường Triệu Đà và Lê văn Duyệt bán lên giá, hễ có tin gì bất an, dân SG mua thực phẩm. Than củi có thời khan hiếm, chưa xài điện, nhà nghèo xài củi. Than đước Cà mau, than sầm, than tạp. Tôi nhớ có chở bán tạ than cho nhà người Pháp ở villa sang trọng đường Hồ xuân Hương. Mỗi lần có tin đồn về biến cố nào đó, tiệm than gạo bán không kịp. Tủ lạnh chưa phổ thông. Sau đó, có hai chiếc phi cơ ném bom dinh Độc Lập, than gạo lại lên giá.

Cố vấn Mỹ khá nhiều ở SG, năm 1961 đã vô Tri Tôn cất đồn Châu Lăng, khuynh hướng học tiếng Anh phát triển mau, Hội Việt Mỹ rất đông học viên. Các cơ quan Mỹ tuyển mộ nhân viên, thấy người bạn học mặc đầm phấn son, đứng trong đám đông chờ trước cơ sở Mỹ, tôi thấy bất ổn, lo lo.

Chắc người già còn nhớ và than phiền bộ luật Gia đình của bà Nhu, cấm ly dị. Dân biểu Trần tấn Phát Châu Đốc hay ghé nhà chơi, hơi túng, phải nuôi hai vợ, hỏi sao không nghe ông tuyên bố gì, ông thú nhận, "Trời ơi, nó bôi tên tôi rồi sao ?" Mỗi lần lễ lớn, SG tràn ngập bộ đồng phục xanh dương của Thanh niên Cộng Hoà của ông Nhu và Thanh nữ Cộng Hoà cuả bà Nhu.

Bắt đầu kiểm tra trưng binh, ngoài thẻ căn cước, thanh niên phải có thêm giấy "Tình trạng hợp lệ quân dịch và thẻ cử tri đi bầu. Xin giấy chứng chỉ nầy không phải dễ, chầu chực ở bến Chuơng Dương, sắp hàng dài, nộp hồ sơ, đủ thứ giấy tờ, giấy về trể, đi đường dễ bị Cảnh sát hốt vì giấy cũ hết hạn,. Ngày nay, người ta không cảm được cái sợ sệt về giấy tờ. Trước 1/11/63, đão chánh ông Diệm, nghe lịnh " Giới nghiêm trên toàn lãnh thổ VN ", nghe rợn người, đi đâu cũng như mật vụ theo dõi, bọn tôi ít liên lạc nhau, sợ sợ. Ngày nay chúng ta quên cảm giác đó trong xã hội thanh bình là điều phước.

Nhớ năm còn ở New Zealand, tối thứ bảy hay có party ở Đại học, bọn nó chơi tới sáng. Độ gần 11 giờ đêm, bọn tôi bồn chồn muốn về, dù biết không có giới nghiêm. Trong những năm Philippine khủng hoảng Tổng thống Marcos, ra đường giờ giới nghiêm chết như chơi. Nhóm ca sĩ Phi đến Chrischurch NZ tham dự trình diễn South Pacific Contest. Mấy anh ca sĩ Phi lần đầu xuất ngọai, đứng thập thò trước cửa hotel, nôn nóng thèm đi chơi cho biết Chrischurch về đêm. Họ chờ cảnh sát hỏi, " Mấy giờ chúng tôi phải về hotel ?", lập đi lập lại nhiều lần mà mấy anh Cảnh sát NZ không hiểu ý câu hỏi." Việc gì ông hỏi tôi ?" Ông trưởng đoàn Phi phải mất thì giờ giảng nghiã chữ " curfew ", cho ví dụ ở Phi, nếu đi quá giờ giới nghiêm thì bị bắn. Anh Cảnh sát NZ cười xòa, chữ curfew nó chỉ là ngôn ngữ thời Trung cổ, quả là anh ta quên từ ngữ nầy, " Cám ơn ông dạy tôi chữ curfew, ở NZ không có giới nghiêm, ông đi về giờ nào mặc ông." Người Phi dạy Anh ngữ cho người Anh, kể thật lý thú.

Sau cuộc đão chánh 11/63, không khí nhẹ thở hơn. Sinh viên hoạt động rầm rộ, hội thảo, biểu tình chống trung lập của De Gaule Pháp, rồi Nguyễn Khánh đão chánh, than, gạo lên giá, lên thì khó xuống.Tổng hội Sinh viên được bầu lên, các lãnh tụ hầu hết gốc Bắc và Trung. Tôi cũng chạy theo đuôi cho vui, thường họat động ở các Cô nhi viện, tránh chánh trị.

Mỹ đổ quân vào, nhân viên cơ sở Mỹ nhiều quyền lợi hơn, quân nhân Mỹ đi đầy đường, xích lô đạp, xích lô máy, taxi làm ăn lên, không rước khách VN, báo chí lên tiếng nhưng không thay đổi gì được. Hệ thống xe bus đã dẹp, phương tiện di chuyển là xe gắn máy, các tiệm buôn xe giấu hàng để bán chợ đen. Xe Mobilette xanh đã có từ 1961. Vật giá bắt đầu leo thang dần dần, công chức hạng thấp bắt đầu thấy khó khăn.

Khoảng năm 1965, đợt Honda dame 50cc đầu tiên nhập cảng cho quân nhân, xe rất đẹp so với xe Pháp.Tin đồn là hàng Nhựt không bền, sẽ bán kí lô như thời thế chiến, giá xe Honda xuống giá thê thảm vài tháng đầu, ai bán được thì bán, bán không được thì để xài tạm, xe vẫn chưa có vấn đề .Chừng năm sau, Honda đàn ông và Suzuki, Yamaha, thêm radio cassette ào ạt chiếm thị trường VN, thay thế hoàn toàn hàng hoá và lối suy nghĩ thời thuôc địa, nghiã là hàng Pháp chưa hẵn tốt nhứt thế giới. Lúc thi vào Đệ Thất, rất ít học sinh chọn Pháp văm làm sinh ngữ một, cứ 4 lớp Anh văn mới có một lớp Pháp văn. Ngày nay, Pháp văn không còn trong chương trình Trung học, thời đã qua, thế hệ trường Tây thuộc địa đã già, ở các trường Đại học, uy thế nằm trong tay mấy ông cố vấn Mỹ.

Sau năm 1963, văn học nghệ thuật còn trong vòng ảnh hưởng bắc, tuy những bài hát nhớ đất Bắc không còn nghe hát thường xuyên trên đài SG như trước, khuynh hướng nhạc chuyển sang tình yêu, rồi nhạc mới của lính. Sinh viên gốc Bắc bị Nam hóa dần, nói giọng Bắc lai Nam, số sinh viên Nam tăng dần, hiểu và thân nhau hơn. Cuốn " Hương rừng Cà mau " làm sinh khí văn chương miền Nam bừng dậy, tác phẩm nầy được đón nhận nồng nhiệt, Sơn Nam nổi tiếng từ đó.Trước đó có nhà văn Bình nguyên Lộc, nhưng còn chìm ít ai biết. Các nhà văn gốc bắc thường viết quanh đề tài SG.

" Honda ôm " xuất hiện năm nào ?, chắc phải sau khi nhập cảng đợt xe Nhựt, khoảng năm 1967. Dân công chức lương thấp nghĩ cách kiếm sống, dùng xe mình đưa khách kiếm thêm. Hình như giới xe ôm cũng có luật riêng giúp đở lẫn nhau khi có trường hợp bị khách giựt xe. Khi đưa khách trả tiền đến vùng đáng sợ, anh xe ôm đưa tay ra một hai dấu hiệu gì đó cho đồng nghiệp, một hay hai người sẽ chạy theo kín đáo bảo vệ nhau, tiền chia chát sau đó . Lần đầu tiên, nhóm xe Taxi, xích lô máy, xích lô đạp xô xát với nhóm xe ôm vì quyền lợi. Lúc đó tương đối còn sống được, sau nầy đời sống chật vật, cả đến quân nhân, cảnh sát ngạch thấp công an chìm cũng chạy xe ôm. Rỏ ràng là chỉ có xe Nhựt, yên liền rộng, thấp, vừa tầm người Á Châu, chổ gác chân thoải mái mới sử dụng được trong việc kiếm ăn nầy. Xe Nhựt lại hết sức bền bỉ, ít hao xăng chạy suốt từ SG ra Vũng Tàu không nằm đường. Xe Pháp như Mobilette, Sach, Puch chạy không nỗi, yên xe nhỏ, chông chênh. Năm 1970, chiếc Honda cũ chừng $70 000. Tôi mua chiếc xe Puch $25 000., thay đồ lô, gảy căm, nổ vỏ, đứt thắng, đứt dây số đều đều. Chủ là ông Đặng đình Đáng đầu cơ sai, giấu cả kho xe chờ lên giá bán cắt cổ. Trước đó chiếc xe Puch ba đèn trên $50 000, chưa dễ mua được. Ông sập tiệm, để họa cho ai mua xe ông. Tôi chỉ chạy đi học, chạy thêm năm đi làm, chiếc xe lết như rùa, sửa rồi cũng vậy. Ở Thái Lan cũng có xe hai bánh chở khách, không biết nước nào có trước.

Khi quân đội Mỹ đổ vào VN, bar mọc lên theo nhu cầu chung quanh khu Mỹ đóng. Dân liên hệ đến Mỹ kiếm tiền dễ dàng nên họ xài rộng rãi, hàng hoá Mỹ mua đi bán lại, đổi dollars, rác Mỹ cũng phải thầu..Luơng công chức VN không theo kịp thời giá, lóp ngóp. Họ nuôi gà trong nhà lấy trứng bán, tạm ổn ngắn hạn.

Khoảng năm 1969, có phong trào nuôi chim cúc rầm rộ khắp SG. Cơn sốt chim cúc lạ lùng, giá lên hàng ngày, tin đồn lang ra. Trước đó, trong báo Hương Quê, báo Nông nghiệp viết về cái lợi nuôi cúc, chất dinh dưỡng của trứng cúc...Chủ cái ở đâu không biết, tung chim cúc ra bán, rồi cho người đi mua với giá cao hơn, lại cho người khác mang ra bán với giá cao hơn nữa, cứ thế tiếp tục. Khi giá hết lên, cặp cúc dám lên $16 000, ( hơn 2 tháng lương giáo sư Đệ nhị cấp ) họ bán ra hết và không mua lại. Người nuôi cúc chờ kẻ mua ngày nầy qua ngày nọ, bầy cúc vô dụng, sạt nghiệp, có người biết ngưng đúng lúc thì có lời. Lúc đó, công chức bị mắc lừa nhiều nhứt. Tôi tự hỏi, gia đình công chức muốn ăn con gà $700 còn ngại ngùng, mâm cơm công chức đông con, cơm và rau muống làm chuẩn, chim cúc dù bổ như sâm cũng không mắc tới vậy. Mấy ông Kinh tế gia, Tiến sĩ báo chí đâu đâu không đặt vấn đề, lên tiếng giải thích đúng lúc cho bà con nghèo nhờ. Mấy ông có chia chát vụ nầy không?

Khi Việt Nam hoá chiến tranh, quân đội và nhân viên Mỹ rút đi, giới bán bar quen xài hào phóng bị thất nghiệp ngang, việc làm không dễ tìm, họ xoay sang nghề beer ôm, họ uống và dụ cho khách uống càng nhiều càng tốt, ăn tiền huê hồng chủ, nghề không cần vốn, chủ cũng khỏi trả tiền mướn các cô, độc lập. Tôi chưa được thưởng thức thú beer ôm, không phải tôi tốt, vì chưa tới giờ. Thời đi học, lo quân dịch, đi làm , lo kiếm tiền và học bỗng. Thường đêm, sau giờ dạy kèm hay học thêm, tôi chỉ ghé khu Ngả Bảy Phan thanh Giản ăn tối. Đêm nào cũng như đêm nào, tô phở xe đẩy, khúc bánh mì fromage và ly sinh tố. Cô bán sinh tố, da trắng, đoan trang, chưa bao giờ thấy cô đùa cợt. Nét mặt vui nhưng không lơi lã, đóa hoa huệ cao sang sao xuất hiện nơi tầm thường vất vả nầy?. Hai người đã quen mặt nhau, xa thấy nhớ. Đêm mưa tầm tã, cô đậy xe sinh tố, ngồi trên ghế, dựa hiên trường Phan sào Nam, hai đứa nhìn mưa. Hai tâm sự khác nhau. Tôi vừa ở Goethe Institut ra, lão Dr Hol lười như quỷ. Lão dạy chưa giảng hết bài thơ Heidenroeslein ( hoa hồng trong đầm lầy ), thì có điện thoại, lão biến mất luôn cả buổi học. Tôi nao lòng nhớ mấy câu thơ, Sah ein knabe ein Roeslein steln, Roeslein aưf der Heiden . War so jung und morgenschoen,..Anh là thằng bé thấy hoa hồng nhỏ trong đầm lầy, tươi đẹp như buổi sáng , Em là đoá hoa hồng nhỏ. Tình yêu là đoá hoa hồng nhỏ có gai trên đầm lầy, thằng bé say tình bị gai hồng đâm. Mưa vẫn rai rức, không ai rời nhau được, mong cho mưa suốt đêm. Sáng đó tôi nhận giấy nhập ngũ. Chợt em nhìn tôi ngập ngừng , " hôm nay chạy khá không anh ?".,tôi giống anh Honda ôm, vậy là qúy hơn. Cả năm sau, mặc quân phục về thăm, mắt em sáng lên, bất giác đỏ mặt, " Anh bỏ...đi lâu quá vậy?. Quên xay cho anh ly sinh tố , có nhớ anh thích mùi gì không, Tuyết?

Cùng lúc, chiến tranh khốc liệt sau Mậu thân, nhạc Trịnh công Sơn đáp đúng nhu cầu chán chiến tranh, quán cà phê mọc lên. Chỉ cần dàn âm thanh, căn phòng trong hẽm cũng không sao. Thanh niên vào ngồi quán nghe nhạc uống cà phê quên đời, cho đời quên họ.

Brisbane, ngày 15/1/2007 

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Chữ với Nghĩa.  Chán thật
Reply #7 - 06. May 2007 , 07:57
 
30 tháng 4 rục rịch đến thêm lần thứ 32 với người Việt hải ngọai.  Ba mươi hai năm khóc cười theo mệnh nước nổi trôi.  Ba mươi hai năm của ly tán bên này bên kia đại dương.  Ba mươi hai năm của tiếng Việt biến thiên nhọc nhằn.  Ba mươi hai năm tôi góp ít dòng về tiếng Việt bên ni, bên nớ.

Giải phóng mặt bằng: cái này tôi chỉ mường tượng được ý nghĩa thôi, không chắc là đúng.  Có thể là san bằng chăng?  Mặt bằng là thế nào, mà mặt không bằng nó ra làm sao ?  Trong tóan học ta có mặt phẳng.  Thế thì mặt bằng có khác với mặt phẳng không.  Mà nhóm chữ “giải phóng mặt bằng” thường hay xuất hiện trên báo chí bên VN liên quan đến đất đai, nhà cửa.  Cho nên tôi đóan chừng là họ nói về căn nhà, một đơn vị diện tích nào đó.  Sở dĩ đóan như thế vì cũng có nhóm chữ “thuê mặt bằng” trên báo chí bên ấy.  

Nhưng sao lại phải “giải phóng” nhỉ ?  Hóa ra là cái nhà, cái lô đất ấy nó bị áp bức, bị đô hộ à ?  Mà ai bóc lột nó, ai bóp hầu bóp cổ nó cơ chứ ?  Rồi nó có kêu cứu, có làm đơn thưa kiện gì không để được “giải phóng” ?  Một mớ câu hỏi như thế chẳng tìm ra câu trả lời thỏa đáng nào cả.
Nếu phải nói theo cái lối tiếng Việt miền Nam trước 1975 thì phải nói thế nào ?  San bằng khu nhà, lô đất thay cho “giải phóng mặt bằng” được không thưa quý cụ ?  
Nếu “giải phóng mặt bằng” mà dịch sang tiếng Anh theo cái kiểu word by word thì nó thành ra “liberation of platform” hay “platform liberation”.  Dịch lối nào nó cũng ngô nghê.  Có lẽ tôi dốt thật quý cụ ạ.  “Demolish the property” có cụ bảo là cũng tàm tạm.  Chả biết nghe ai bây giờ.  

Phi vụ:  báo chí bên ấy bây giờ tường thuật những vụ làm ăn phi pháp thường dùng chữ 2 chữ “phi vụ”.  Chữ “phi” trong trường hợp này không thể bảo rằng là dùng thay cho “phi pháp” được.  Nhảm lắm !  “Phi” là “không có” (như “phi thương bất phú” – không buôn bán không giàu được”) hoặc là “bay” (như phi cơ – máy bay).  Ngày xưa trước 75, ta dùng “phi vụ” để chỉ chuyến bay như thường thấy trong các bản tin chiến sự.  Người Việt hải ngọai vẫn dùng như vậy.  Nhưng đã có một số nhỏ báo chí bên này thỉnh thỏang cũng dùng “phi vụ” theo nghĩa là ăn phi pháp như báo chí bên nhà.  Một vài con sâu đã và đang bò vào tô canh hải ngọai rồi đấy.

Sự cố kỹ thuật: cái này ngày xưa đài truyền hình VN gọi là “trục trặc kỹ thuật” mỗi khi đang “anh tiền tuyến, em hậu phương” tự dưng lại xuất hiện một cái hình cánh quạt với đầu ông mọi da đỏ.  Và cái tiếng è è cà chớn.  “Trục trặc” nghe nó có phải VN không.  “Sự cố” nghe nó ra “nàm thao” ấy !  Tôi đóan nó là tiếng Tàu.  Nhưng lại dốt tiếng Tàu nên không hiểu rõ.  
Ở Mẽo này nó gọi là “tếch ních cồ đíb phi quyn ti”.  Phải không thưa quý cụ ?

Xịn:  ngày xưa phe ta gọi là “số dzách”, “thượng hạng”.  Nguyên ngữ chợ trời Hùynh Thúc Kháng nó là “ô ri din”.  
   Mẽo trắng, mẽo đen, mẽo vàng, mẽo nâu có một lô tiếng.  Nào là “hot”, “top of the line”, “the best”.  Gì nữa nhỉ ?

Chảnh:  Cái này thường xuyên xuất hiện trên các blog của đám choi choi.  Bà bán tạp hóa, anh đạp xích-lô trong ngõ trước 75 vẫn phang khách hàng khó tính bằng câu: “Xí, nghèo mà làm phách, làm tàng !”  Thú thật, chữ “Chảnh” này tôi không biết đã từ đâu ra nhưng coi mòi cũng đã bắt đầu len lỏi vào cái cộng đồng VN ta bên này rồi.

Con dế, con Dylan:  Hỏi ra mới biết các ông thợ viết VN bên nhà đang nói tới cái điện thọai di động và cái xe gắn máy Dylan.  Có tay còn gọi cell phone là “con a-lô” nữa mới là tức cừơi.  Nếu cứ cái kiểu này thì một ngày u ám nào đó ta sẽ có hàng lọat “con nhà”, “con xe”, “con gọi là …”, vân vân và vân vân

Máy vi tính:  phe ta ngày xưa gọi là “điện tóan”.  Cái này nằm vào trong mục thuật ngữ khoa học nên khó phán xét.  Trước năm 75, chỉ có hai chữ tương đối thông dụng cho dân trong ngành ở VN là “computer” hoặc “computing”.  Ta quen gọi “computer” là máy điện tóan.  Ngày nay hai chữ “micro computer” dù đã xuất hiện từ cả hơn 20 năm rồi nhưng người Mỹ chỉ gọi tắt là “computer”.  Nếu là máy cá nhân thì gọi là “PC”, “desktop”, “laptop”.

Phần mềm:  thằng bạn thân VN ra trường giữa thập niên 80 bên California đã tự diễu mình bắng cách tự gọi là “kỹ sư phần mềm”.  Đầu óc đương nhiên là méo mó rồi.  “Software” bên này ta gọi là “nhu liệu điện tóan”.  Các ông bên VN nghĩ rằng phải có mùi nước mắm cho nó “độc lập” nên gọi là “phần mềm”.  Vậy thì hardware các ông bên ấy gọi rằng chi ?  “Phần cứng” chăng ?  Điệu này thằng bạn Cali chắc phải vào trường học tiếp rối.  “Liền ông” đi với “kỹ sư phần cứng” nó mới hách xì xằng chứ phải không các cụ ?  “Kỹ sư phần mềm” nghe chán mớ đời.

Triển khai và Giản đơn:  chỉ ngược lại với cách dung chữ của miền Nam trước 75.  Ấy, cái gì các ông ấy không đẻ ra được thì các ông ấy cho lộn đầu chơi hay trộn thập cẩm cho nó khác người.  Nhất định là không thể giống cái “bọn Ngụy”.  Nhờ thế mới có các thứ như “lính thủy đánh bộ”, “tên lửa”, “máy bay lên thẳng”, “nhà đẻ Từ Dũ”.

Nhưng ngọan mục nhất vẫn là 4 chữ “Học Tập Cải Tạo”.  Nghe hiền khô à.  Bởi vậy hệ thống giáo dục này đã đào tạo ra không biết bao nhiêu cao học và tiến sĩ.  7 năm đến 18 năm thì không cao học mí lị tiến sĩ thì là cái gì ?  Dốt lắm thì cái anh thiếu úy rằn ri nhà ta cũng chớp được cái cán sự của trường đại học Suối Máu, Hà Nam Ninh, Bù Gia Mập, Chí Hòa…  Ông Phan Nhật Nam phe ta chắc phải có đến 2, 3 cái “Ph.D”.  Ông ấy mới có đại úy thôi nghe quý cụ !  Mà ông ấy cặm cụi đèn sách dưới mái trường cải tạo những 14 năm, trong đó có ít năm kiên giam vì cái tội bướng.  Có một điều ngộ nghĩnh là chẳng có ông nào tốt nghiệp từ các trường cải tạo mà đầu óc lại bị gột rửa được.  Trái lại nhiều ông còn trở nên khéo tay hơn lúc còn làm quan to súng ngắn ngày trước.  Các ông mang về cho mẹ, cho vợ, cho con nào lược chải đầu, kẹp tóc, trâm cài đầu, chuỗi tràng hạt bằng các thứ vật liệu quẩn quanh trong tù.  Và y như rằng 10 ông thì 9 ông lo dọt ngay hoặc ra đi trong các chương trình HO.  Chả thèm nhớ đến nền giáo dục XHCN cùng sự khoan hồng của “Bác” mí lỵ “Đảng”.  Uổng công “Bác” thiệt !

Chữ với Nghĩa.  Chán thật !
Back to top
« Last Edit: 06. May 2007 , 07:58 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Tại sao phải Hoà-Giải
Reply #8 - 06. May 2007 , 11:09
 
TinParis . Lý chánh Trung là một  người CS nằm vùng trong GH Thiên chúa Giáo. Xin quý vị đừng cho y là một người  theo đạo Thiên Chúa nhưng đường lối Dân Tộc.Khi dùng chữ sai, ý nghĩa có khác. Chúng ta nên nhớ điều đó. Chính ngay Gs Nguyễn ngọc Huy, lúc đó còn không biết LCT là ai , nên mới tham dự cuọc Hội Thảo nầy.

Trong cuộc hội-thảo về vấn-đề Hoà-Giải Dân-Tộc do Hội PAX ROMANA tổ-chức tại Nhà Thờ Tân-Định ngày 21-4-1974,Giáo-Sư Lý Chánh Trung,với tư-cách thuyết-trình-viên trong cuộc hội-thảo đã đặt ra ba câu hỏi:
1. Tại sao phải Hoà-Giải?
2. Hoà-giải với ai?
3. Làm thế nào để đi đến Hoà-Giải?
Vì thì giờ dành cho mỗi tham-luận-viên quá ngắn,mỗi người chỉ phát-biểu có 8 phút,nên Giáo-Sư Nguyễn Ngọc Huy đã dùng trọn phần thời-gian này để trả lời câu hỏi thứ ba,câu quan-trọng hơn hết.Sau đây là nguyên-văn phần tham-luận của Giáo-Sư Nguyễn Ngọc Huy.
                                    *****

 Chúng tôi chỉ xin đóng góp ý-kiến về câu hỏi thứ ba mà Giáo-Sư Lý Chánh Trung đặt ra là "Làm cách nào để đi đến sự Hoà-Giải?" vì những lý-do sau đây:

1.Về hai câu hỏi trên,là "Tại sao phải hoà-giải?" và "Hoà-giải với ai?" chắc là không có sự khác-biệt bao nhiêu giữa những người tham-dự cuộc hội-thảo này.
2.Câu hỏi thứ ba là câu hỏi quan-trọng và thiết-yếu hơn hết nên chúng tôi xin để phần thì giờ dành cho tham-luận-viên vào việc khai-triển câu trả lời cho đầy đủ.
 
Chúng tôi nghĩ rằng muốn trả lời câu hỏi thứ ba này,trước hết,chúng ta phải tìm xem những trở-lực cho sự hoà-giải ở chỗ nào.Có thấy những trở -lực đó rồi,chúng ta mới có thể tìm cách phá tan nó để thực-hiện sự hoà-giải được.
 Trái với quan-niệm của một số người,chúng tôi nghĩ rằng hiện nay,trở-lực đó không phải do các cường-quốc đã và đang can-thiệp vào vấn-đề Việt-Nam mà ra.Giữa Huê-Kỳ với Nga-Sô và giữa Huê-Kỳ với Trung-Cộng,đang có xu-hướng hoà-giải và việc vãn-hồi hoà-bình ở Đông Dương nằm trong khuôn-khổ của sự hoà-giải đó.Trong thực-tế,các cường-quốc nói trên đây đã phải giảm bớt rất nhiều việc cung-cấp võ-khí và đạn dược cho các phe lâm-chiến trong vùng này.
 Vậy,trở-lực chính cho sự hoà-giải hiện ở phiá người Việt-Nam chúng ta nhiều hơn.
                                               
 Xét tình-thế các nước bị chia đôi,phân nửa nằm trong tay cộng-sản,phân nửa nằm trong tay những người không Cộng-sản,chúng ta có thể nhận thấy rằng chiến-tranh giữa hai bên do phe cộng-sản gây ra chớ không phải do phe không cộng-sản và phe cộng-sản chỉ gây chiến khi họ thấy rằng họ mạnh hơn phe không cộng-sản.
 Ở nước Đức,phe cộng-sản yếu hơn phe không cộng-sản nên hai bên đã sống yên-ổn với nhau cho đến ngày nay.
 Ở Triều-Tiên,lúc đầu phe cộng-sản  ở Bắc Hàn mạnh hơn nên mở trận chiến-tranh xâm-lăng Nam Hàn.Đến khi bị đẩy lui về phiá bắc vĩ-tuyến 38 và thấy Nam Hàn có lực-lương tương-đương với mình,họ mới để cho Nam Hàn yên.
 Ở Việt -Nam,cộng-sản Bắc Việt cũng cho rằng họ mạnh hơn phe không Cộng-sản.Bởi đó,họ cố gắng tranh-đoạt chánh-quyền Miền Nam Việt Nam bằng cách tổ- chức Mặt Trận Giảithanks.gifhóng,và sau này,còn mang cả quân-lực của họ từ Miền Bắc đánh vào Miền Nam Việt Nam..
 Việc ký-kết Hiệp-Định Paris chưa chấm dứt chủ-trương thôn-tính Miền Nam Việt Nam của họ,vì họ nghĩ rằng sau khi Huê-Kỳ rút quân,cán cân lực-lượng quân-sự đã nghiêng về phiá họ.Bởi đó,họ vẫn còn cho xâm-nhập vào Miền Nam Việt Nam rất nhiều cán-binh và võ-khí để tiếp-tục cuộc chiến-tranh.
 Với mấy trăm ngàn binh sĩ và một số luơng võ-khí đủ để đánh lớn trong mấy tháng ở Miền Nam Việt Nam,cộng-sản Bắc Việt có thể mở cuộc tấn-công qui-mô như hồi Tết Mậu Thân hay hồi năm 1972.
 Người không cộng-sản ở Miền Nam Việt-Nam không thể nào chấp-nhận sự hoà-giải nếu Bắc Việt còn duy-trì một áp-lực quân-sự thường-trực và lớn như hiện nay.Bởi đó,việc rút quân Bắc Việt ra khỏi Miền Nam Việt-Nam là điều tất-yếu cho sự hoà-giải.
 Nhung nếu Bắc Việt rút quân thì Mặt Trận Giảithanks.gifhóng sẽ còn quá yếu và lo sợ người không cộng-sản sẽ lấn ép và tiêu-diệt họ nên phiá cộng-sản,nếu có chịu rút quân đi nữa,thì cũng chỉ chịu rút khi nào họ tin chắc rằng sau đó,Mặt Trận Giảithanks.gifhóng sẽ còn tồn-tại trên chánh-trường Miền Nam Việt-Nam.

Vậy,điều-kiện tất-yếu để có sự hoà-giải là:

1. Phiá người không cộng-sản phải mạnh để cộng-sản hết hy-vọng thôn-tính được Miền Nam Việt-Nam bằng võ-lực và chấp-nhận rút quân Bắc-Việt về Miền Bắc.
2. Mặt khác,phiá người không cộng-sản phải chấp-nhận một chế-độ dân-chủ tự-do và cởi mở để Mặt Trận Giảithanks.gifhóng có thể sống yên-ổn trong chánh-trường Miền Nam Việt Nam mà không sợ bị thanh-toán.
 
Muốn đóng góp vào việc thực-hiện sự hoà-giải dân-tộc,chúng ta cần phải tạo những điều-kiện cần-thiết trên dây cho sự hoà-giải đó.Nhưng chúng ta phải làm việc gì trước?
 Hiện nay,một số người chủ-trương hòa-giải đã đặt trọng-tâm vào việc làm áp-lực với chánh-phủ Việt-Nam Cộng-Hoà để đòi-hỏi chánh-phủ Việt-Nam Cộng-Hoà phải nhượng-bộ trước những đòi hỏi của cộng-sản.Chúng tôi nghĩ rằng đó là một sai lầm chiến-thuật tai-hại vì những lý-do sau đây:
1°)Những người làm như vậy rất dễ bị những người cầm quyền ở Miền Nam Việt-Nam cho là về cánh với cộng-sản,dọn đường cho cộng-sản chiếm Miền Nam Việt-Nam,và chống-báng lại mạnh mẽ.Điều này làm cho phe không cộng-sản ở Miền Nam phân-hoá và yếu sức.Trong tình-thế đó,Cộng-Sản lại càng nhiều hy-vọng chiến-thắng và càng kiên-trì hơn trong ý-định thôn-tính Miền Nam Việt-Nam,chớ không thật-tâm hòa-giải.
2°) Xét cơ-cấu tổ-chức và tình-thế về mọi phương-diện của hai phe cộng-sản và không cộng-sản thì việc làm cho phe không cộng-sản nhượng-bộ tương-đối dễ-dàng hơn việc làm cho phe cộng-sản nhượng-bộ.Khi phe cộng-sản đã thực-sự chấp-nhận hoà-giải rồi thì phe không cộng-sản không thể cưỡng lại áp-lực của nhơn-dân và thế-giới mà từ-khước giải-pháp hòa-giải được.Trái lại,dầu cho phe không cộng-sản đã chấp-nhận sự hòa-giải rồi,chưa chắc ai đã ép được phe cộng-sản chấp-nhận sự hoà-giải,nếu quả-tình họ không muốn.
Trongtình-thế đó,muốn đạt mục-tiêu mong ước:

1°/Trước hết chúng ta phải thực-hiện sự hòa-giải giữa người không cộng-sản với nhau.Người không cộng-sản dầu sao cũng có những quan-niệm căn-bản về đời sống và về chánh-trị như nhau,nếu họ không hòa-giải được với nhau thì còn mong gì hòa-giải với  người cộng-sản vốn có những quan-niệm căn-bản về đời sống và về chánh-trị hoàn-toàn khác biệt với mình? Người không cộng-sản hòa-giải với nhau được thì cộng-sản hết hy-vọng khai-thác những cái mà họ gọi là mâu-thuẫn trong hàng ngũ không cộng-sản và bớt tin-tưởng nơi sự thắng-lợi cuối cùng của họ.
2°/Người không cộng-sản cũng phải hợp-tác nhau để cải-thiện tình-thế về mọi mặt:chánh-trị,xã-hội,kinh-tế để cho Miền Nam Việt-Nam mạnh hơn hiện nay.Việc làm này chỉ có thể thực hiện bằng những cuộc gặp gỡ,tiếp-xúc,trao đổi ý-kiến với nhau trong tinh-thần cởi mở và xây-dựng,chớ không thể thực-hiện bằng sự tố-cáo,bôi lọ,xỉ-vả nhau một cách hằn học và bừa bãi.
3°/Ngoài ra,chúng ta còn phải gây một áp-lực từ dư-luận để đòi hỏi cộng-sản phải rút quân Bắc-Việt ra khỏi Miền Nam Việt-Nam để cho phiá cộng-sản thấy rõ họ không thể nào đặt một giải-pháp trong đó họ có thể giành lấy phần ưu-thế.
4°/ Sau hết,chúng ta phải vận-động cho những người không cộng-sản chấp-nhận dung-nạp Mặt Trận Giảithanks.gifhóng như là một lực-lượng chánh-trị có quyền tự-do hoạt-động ở Miền Nam Việt-Nam,nếu họ từ bỏ việc dùng võ-lực để tranh-đoạt chánh-quyền.
 Việc rút quân Bắc-Việt ra khỏi Miền Nam Việt-Nam và chấp-nhận quyền tự-do hoạt-động của Mặt Trận Giảithanks.gifhóng ở Miền Nam Việt-Nam có thể xem như là những điều-kiện mà hai bên trao đổi với nhau trong tinh-thần tương-nhượng và hai bên đều phải chịu tương-nhượng như vậy thì mới đi đến sự hòa-giải được.
 Để kết-thúc bài tham-luận này,chúng tôi xin góp thêm ý-kiến về tánh-chất của sự hoà-giải mà chúng ta có thể đạt được.Điều mà có lẽ mọi người chúng ta ở đây mong muốn là một sự hoà-giải hoàn-toàn,phát-xuất từ tận đáy lòng mỗi người Việt-Nam.
 Nhưng thành-thật mà nói,điều này rất khó thực-hiện ngày nào mà người cộng-sản còn cuồng-tín nơi chủ-nghiã của họ và còn xem là kẻ thù không đội trời chung những người không chấp-nhận chế-độ cộng-sản.Việc cải-hoán tâm-hồn người cộng-sản là một việc làm ngoài khả-năng của những người không cộng-sản.Vì đó,cái hoà-giải mà chúng ta có thể đạt được chỉ sẽ là một sự hoà-giải hình-thức bên ngoài,chấm dứt sự chém giết nhau một cách qui-mô,nhưng không chấm dứt được sự thù ghét nhau.
 Nhưng mặc dầu không hoàn-mỹ,sự hòa-giải hình-thức đó cũng vẫn hơn là sự tiếp tục chém giết nhau,và dầu sao,chúng ta cũng có thể hy-vọng rằng sau một thời gian dài dặc miễn cưỡng sống chung với nhau một cách hoà-bình,hai bên cộng-sản và không cộng-sản sẽ chịu đựng sự có mặt của nhau một cách dễ dàng và từ bỏ hẳn ý-định dùng võ-lực thanh-toán lẫn nhau.

                          NGUYỄN NGỌC HUY
             (trích  DI CẢO IV , từ trang 92 đến 101)

Back to top
« Last Edit: 06. May 2007 , 11:11 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Cái Miệng
Reply #9 - 03. Jun 2007 , 19:12
 
Cái Miệng


Phiếm của Tiểu Tử
Cái miệng có hai chức năng chánh: ăn và nói. Xưa nay ít có ai để ý đến những chức năng phụ của cái miệng – tiếng là phụ nhưng cũng không kém phần quan trọng – như : ngáp, ợ, ho, khạc, thở khi nào bị nghẹt mũi v.v… Có lẽ tại vì nó…hạ cấp quá nên bị coi thường ! Và cũng tại vì có sự coi thường đó mà người ta chỉ chú trọng dạy trẻ con học ăn học nói thôi. Thành ra, lớn lên, phần đông ngáp ơi ới không che miệng, ợ ồng ộc nghe chỏi lỗ tai, ho thẳng vào mặt người đối diện, còn khạc nhổ thì tùm lum bất cứ chỗ nào…Trong chuyện phiếm này, tôi cũng theo "truyền thống" để chỉ viết về hai chức năng " ăn và nói " của cái miệng.
Ăn…Từ hồi còn nằm trong bụng mẹ, con người đã biết ăn ( Ông Trời sanh ra như vậy ! ) Mới lọt lòng, không ai dạy, kề vú vào miệng là đã biết…đớp (Về sau, khi đã thành nhơn, có đòi đớp như hồi bêbê là một…cái gì khác chớ không phải là ăn ! ) Thành ra " ăn " là một bản năng. Hễ đói là tự nhiên phải kiếm cái gì ăn, chưa biết rằng không ăn lần hồi rồi sẽ chết ( Ăn…hối lộ không nằm trong " diện " tự nhiên trời sanh này ! ) Khái niệm " chết vì không có gì ăn hay có mà ăn không được " chỉ đến với con người khi con người có đủ trí khôn. Khỗ nỗi, khi có đủ trí khôn, con người lại đòi " ăn ngon ", biết chê biết khen, biết chế biến món này món nọ để ăn cho " khoái khẩu ". Cái " ăn ", vì vậy, đã chiếm…đỉnh cao của trí tuệ loài người, đến nỗi có câu "dĩ thực vi tiên" ( ăn trước đã ! ) và ở Việt Nam miền nào cũng quảng cáo rầm rộ " món ăn đặc sản " để làm…chảy nước miếng du khách ( Ở Hà Nội bây giờ "chảy nước miếng hay chảy nước dãi " được gọi là " toát mồ hôi lưỡi " ! Từ ngữ cách mạng vốn…trừu tượng ! ) Trên thế giới, ngành du lịch xứ nào cũng giới thiệu thật nhiều về " cái ăn " ngay sau khi cho xem phong cảnh hùng vĩ hữu tình. Để thấy cái miệng tuy nhỏ xíu như vậy mà đã…đẻ ra chữ " ăn " thật to tổ chảng !
Trong từ ngữ thông thường, chữ " ăn " lúc nào cũng thấy như người lãnh đạo, nghĩa là đứng trên đứng trước nhiều chữ diễn tả một hành động một sự kiện – không biết để làm gì nhưng vẫn phải…đứng trên đứng trước ! – Ví dụ như " ăn quịt, ăn gian, ăn trộm, ăn cướp" v.v…Tiếng " ăn "…ăn nhậu gì với những chuyện " quịt, gian, trộm, cướp ", vậy mà phải có lãnh đạo " ăn " vào đó nghe nó mới…xuôi lỗ tai ! Rồi thì…ăn tùm lum, lúc nào ở đâu cũng thấy ăn: ăn giỗ, ăn cưới ( Hồi xưa còn nói "ăn đám ma " nữa ! ) ăn khánh thành, ăn lên lon, ăn Tết, ăn đầy tháng , ăn thôi nôi, ăn…hối lộ v.v…Chỉ có " ăn " thôi, vậy mà cái miệng sao mà " lắm chuyện " !
Bây giờ, xin nói đến " nói ".
Con người nếu sống một mình chắc không cần phải biết nói ! Thật vậy, biết nói để nói với ai ? Rồi, bởi vì con người cần sống với con người nên mới phải "nói " để hiểu nhau. Mới đầu nói bằng…tay chân ( bây giờ gọi là " ra dấu " ) Lần hồi, chắc ra dấu…mỏi tay nên mới bày đặt tiếng nói ( Dầu sao, mỏi miệng vẫn…dễ chịu hơn mỏi tay ; cái trí khôn của con người bắt đầu…ló dạng ! ) Cái miệng , ngoài chức năng " ăn " của Trời cho, bây giờ có thêm chức năng " nói " do con người đẻ ra vì muốn người khác hiểu mình nghĩ gì muốn gì.
Con người mới sanh ra chưa biết nói, chỉ biết khóc ! Các nhà văn gọi đó là " tiếng khóc chào đời ". Hay quá ! Thật vậy, nếu không có tiếng khóc thì làm gì có tiếng nói ? Rồi từ chỗ " oa oa " đó ọ ẹ riết rồi cũng ra chữ ra câu. Người ta dạy trẻ con học nói cho đúng cách, học nói cho có lễ độ, học nói cho thanh tao. Có một điều lạ là những tiếng…chửi thề chẳng thấy ai dạy mà sao ai ai cũng biết và biết sử dụng đúng nơi đúng lúc một cách " tài tình " ! Ngoài những từ ngữ thông dụng – không kể chửi thề, dĩ nhiên – Nhà Nước Việt Nam còn dạy trẻ con hô khẩu hiệu, nói những lời " dao to búa lớn " theo…phong cách xã hội chủ nghĩa, nghĩa là nói để cho có nói chớ không phải nói để cho người khác hiểu mình nghĩ gì muốn gì. Cái "nói" – một chức năng của cái miệng – cũng bị làm…cách mạng ! Than ôi !
Nói về " nói ", con người nói thôi…đủ thứ. Nào là " nói thánh nói tướng "," nói láo nói phét ", " nói hành nói tỏi ", " nói trăng nói cuội "…Rồi " nói phang ngang bửa củi ", " nói dộng trong họng người ta", " nói trên trời dưới đất ", " nói mà cái miệng không kịp kéo da non ", " nói như con két "…v.v.. Cái miệng nói nhiều hơn ăn, bởi vì ăn no rồi là không ăn được nữa chớ còn nói thì có bao giờ bị…no nói đâu để mà phải ngừng ?
Tóm lại, cái miệng là để ăn và để nói. Vậy mà chính cái miệng nó "hành" con người. Ông bà mình hay nói :" Bịnh từ miệng mà vào, Vạ từ miệng mà ra ". Đúng quá ! Tại vì mình ăn mới đem mầm bịnh vào người và tại vì mình nói mới đụng chạm sanh chuyện. Biết như vậy nhưng làm sao con người sống mà không ăn không nói ?
Ở Việt Nam, Nhà Nước ta đã thấu triệt cái " chân lý " vừa kể cho nên đã…phân loại cái miệng : miệng của nhân dân và miệng của Nhà Nước. Cái miệng của nhân dân là cái miệng " ăn " còn cái miệng của Nhà Nước là cái miệng " nói ". Nhà Nước " quản lý " cái miệng ăn nên chỉ cho ăn vừa phải, đúng tiêu chuẩn, để nhân dân đừng…bị bịnh ! ( Bệnh từ mồm mà vào, đúng thế đấy…Ta đã học tập và triển khai cái chân lý ấy từ thời…không có gì để ăn cơ ! ) Còn " nói " thì nhân dân không nên nói, bởi vì " nói " là mang vạ vào thân đấy thôi. Để Nhà Nước nói, bởi vì Nhà Nước, đã là đỉnh cao trí tuệ của loài người, biết nói thế nào để không bao giờ phải…mang vạ vào thân. Và bởi vì cái miệng của Nhà Nước là loại miệng nói không sợ…mòn, không phải tốn tiền mua và dự trữ đồ phụ tùng thay thế. Cho nên đừng ngạc nhiên sao ở Việt Nam chỉ nghe có Nhà Nước nói và nói không bao giờ…ngừng ! Ngoài ra, Nhà Nước vì thương dân nên khi thấy dân há miệng định nói là đưa tay bịt miệng ngay kẻo dân mang vạ vào thân, tội nghiệp ! Một cử chỉ…đẹp như vậy mà thiên hạ cứ…vo tròn bóp méo !
Nếu " ăn " là để sống thì " nói " là để cảm nhận rằng mình đang sống. Vậy mà người dân Việt Nam chỉ được phép dùng cái miệng để ăn thôi…
Tiểu Tử

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #10 - 03. Nov 2007 , 21:48
 
 Xin được gửi tiếp theo đây một vài mẩu chuyện , góp nhặt trên các trang Web , những mẩu chuyện ngắn ngõ hầu cống hiến cho các bạn một vài phút giây thư giản sau một ngày làm việc mệt nhọc, Lời xưa có nói:" mua vui củng đặng một vài trống canh "

             GIẤC MƠ ĐỔI ĐỜI
Tiếng bà Mai the thé vang trong hành lang phá tan bầu không khí im lặng buồn tẻ nơi căn nhà trọ: "Này các em, 12 giờ trưa nay có người đến xem mắt. Nhớ tắm rửa sạch sẽ trang điểm cho bắt mắt người ta nghe chưa. Các em ra phòng tiếp khách trước nửa giờ vì chị có vài điều muốn căn dặn tụi em".
Cái tin khách tới đã đem lại niềm vui phấn khởi cho những cô vừa mới đến nhập 'cuộc chơi lấy chồng ngoại quốc'. Còn đối với những ma cũ ở lâu căn nhà này mà vẫn chưa được ai rước về làm vợ như Út Lành chả hạn thì tin kia chỉ làm họ lo sợ thêm cho thân phận của họ mà thôi.
Thật vậy làm sao Út Lành không cồn cào ruột cho được khi thấy số tiền cô nợ bà Mai ngày càng chồng chất theo thời gian chờ đợi. Cô chỉ còn hai tuần cuối để thử thời vận mà thôi. Suốt hai tuần qua bà Mai cứ đe răn với Út Lành rằng dẫu 4 tháng đã qua, nhưng vì thương tình Út hiền lành nên bà cho ở lại thêm 2 tuần nữa. Nhưng nếu không ai rước Út Lành về làm vợ thì cô phải hoàn lại chi phí cho bà ngay lập tức. Còn nếu như không có tiền thì cô phải đi khách cho đến khi nào hết nợ. Nghĩ đến động mãi dâm, cô gái quê vừa tròn 18 tuổi đời tên Út Lành bỗng rùng mình lạnh xương sống.
Nếu không may phải bị đẩy vào đó thì cô còn mặt mũi nào để nhìn thấy cha mẹ họ hàng, bà con lối xóm ở dưới quệ Giấc mơ đổi đời tươi sáng lấy được một người chồng ngoại quốc khá giả để gửi tiền về nuôi gia đình như người mối lái tả chưa thấy đâu mà giờ đây Út Lành chỉ thấy một tương lai đen tối sắp chụp lên đầu cộ Út ngậm ngùi soi thân phận mình trong gương, uể oải đánh một lớp phấn hồng lên má và tô đỏ đôi môi. Nhìn hộp phấn thỏi son hoàn toàn xa lạ với mình chỉ mới cách đây 4 tháng, Út Lành nghe đau nhói trong tim. Cô tự hỏi bộ mặt phấn son này rồi sẽ đưa cuộc đời cô đi về đâu.
Tiếng bà Mai the thé gọi mọi người vào gặp bà cắt đứt dòng suy tư của cô gái quệ Khi các cô đã đông đủ, bà Mai dặn dò: ' Khi khách đến các em phải cởi hết quần áo cho họ xem. Cưới vợ cũng tốn kém nên người ta cần xem xét kỹ lưỡng mọi chỗ. Nếu có ai lỡ nặng tay làm các em đau hay khó chịu thì các em không được nhăn mặt than phiền mà phải tươi cười. Các em phải biết chiều khách thì người ta mới cưới các em về làm vợ'.
Nói xong bà nhìn Út Lành rồi lên giọng:
"Các em có nhớ lần trước không ? Con Út Lành vì không nghe lời chị, đẩy tay khách ra chỉ vì ông ta làm đau ngực nó, cho nên họ đâu thèm cưới con Út về làm vợ. Khách chưa được sơ múi gì với con Út mà nó đã cự tuyệt. Như thế thử hỏi xem có thằng đàn ông nào dám bỏ tiền cưới nó về làm vợ."
Bà Mai cười cười nhìn Út Lành rồi miả mai: "Này Út Lành, em chỉ còn 2 tuần để thử thời vận thôi đấy nhé. Nếu hôm nay mà em không biết nhịn, khéo chiều khách thì em phải tính toán nợ nần cho sòng phẳng với chị. Nhà chị không còn chỗ để chứa em mãi đâu".
Nói xong bà Mai ra lệnh cho các cô đứng theo thứ tự. Người nào ở lâu nhất trong nhà này, có nghiã là món hàng ế ẩm thì phải đứng hàng đầu. Còn cô nào trẻ đẹp mới ra lò thì được xếp đứng sau cùng. Món hàng ế ẩm đứng hàng đầu ngày hôm nay không ai khác hơn là Út Lành. Út Lành chạnh lòng chợt nhớ tới ngày hôm nào cô vẫn còn là món hàng tươi được đứng chót. Nào ngờ đâu chỉ 4 tháng sau cô đã trở thành miếng thịt trâu ôi làm gai mắt bà Mai. Cô ngậm ngùi đâu ngờ được rằng trinh tiết của một cô gái hiền lành vẫn chưa đủ sức hấp dẫn lôi cuốn những ông chồng già khó tính.
Có tiếng chuông reo. Bà Mai vội vã ra đón khách. Khi khách bước vào phòng, 12 cô không hẹn cùng tự động cởi hết quần áo ra cho khách ngắm nghiá. Ông khách chạc độ thất tuần, mồm móm, lưng gù tóc bạc, chân đi khập khễnh.
Mấy cô không dấu được nỗi lo âu thất vọng hiện trên ánh mắt. Đoán được điều đó bà Mai lừ mắt đe dọa:
"Tụi em phải cười lên. Đứa nào mặt bí xị chị sẽ đuổi liền ngay tức khắc".
Chỉ nghe đến chữ đuổi mọi người như cái máy nhoẻn nụ cười thật tươi nhưng trong lòng thầm khấn xin ông bà phù hộ cho mình khỏi bị chọn làm vợ.
Có lẽ đây là lần đấu tiên trong đời người khách già được chứng kiến cảnh 12 toà nhà thiên nhiên lồ lộ nên ông ngẩn ngơ một lúc khiến bà Mai phải nhắc khéo với người thông dịch là mời ông ta chọn hàng. Ông già từ từ lấy kính lão ra đeo và tiến về món hàng đầu tiên là Út Lành. Thấy ông ta nhìn chăm chăm vào bộ ngực nở nang như muốn nuốt sống, Út Lành khó chịu lấy đôi bàn tay che ngực khiến người khách cụt hứng. Thấy thế bà Mai vội nhanh nhẩu ra lệnh cho Út tiến lại gần ông khách hơn để ông ta nhìn cho kỹ. Không những thế bà còn nói với thông dịch viên là xin ông khách cứ tự nhiên xem xét kỹ lưỡng các cộ Được chủ nhà bảo thế, ông khách tha hồ đê mê sờ soạng trên cơ thể cô gái quệ
Chưa bao giờ Út Lành cảm thấy tủi hổ bằng lần này. Nhục vì bị một ông già đáng tuổi ông nội mình sờ nắn thân thể, ngay cả chỗ kín nhất của đời người con gái ông cũng muốn xem cho rõ. Cô muốn thét to lên cho vơi nỗi nhục. Nhưng cô không kêu được vì món nợ bà Mai làm cô tắt tiếng. Ông khách già nâng cầm Út Lành bảo cô há to miệng để ông khám răng. Sau đó ông quay sang hỏi giá bao nhiêu. Bà Mai nhanh nhảu ra dấu 3000 đô. Ông khách bĩu môi lắc đầu chê mắc bảo là chỉ có bộ ngực là coi được còn da mặt lại đen đôi bàn chân nứt nẻ, gốc gác con nhà làm ruộng thì làm sao có giá đó.
Sau đó ông ta đi táy máy những cô còn lại. Thái độ của ông đối với những cô kia cũng thô lỗ như trên. Nhưng có lẽ vì giá bán qúa cao so với khả năng mình nên ông đành quay trở lại món hàng rẻ nhất là Út Lành. Ông ta đòi bớt 50% . Nhưng bà Mai lắc đầu lên tiếng giạy đời: "Lấy gái đẹp ông chỉ thêm mệt óc vì phải canh chừng những kẻ theo tán nó. Thà ông lấy con bé quê xấu xí này còn khỏe thân hơn. Không những thế ông khỏi tốn tiền đi bác sĩ vì nó còn trinh tiết nên không thể truyền bệnh sang cho ông.
Như đánh trúng tim đen của ông già dịch gần đất xa trời nên ông ta xuôi lòng.
Tuy nhiên ông ta vẫn kỳ kèo đòi bớt giá trước khi mua.
Bà Mai lại lên tiếng: 'Giá $3000 đô là rẻ lắm rồi còn gì ! Thời nay muốn mua một chiếc xe cũ chạy được thì ông cũng phải chi ít nhất 3000 đô. Nhưng ông cũng chỉ xài được 1 thời gian ngắn rồi vứt đi. Trong khi đó ông bỏ cùng số tiền trên mà lại lấy được một cô gái trẻ về phục vụ sinh lý suốt đời cho ông. Thế thì thứ nào rẻ và bền hơn thứ nào."
Rốt cuộc bà Mai bớt 15% cho ông khách keo kiệt vì bà muốn tống khứ món hàng ế đi cho lẹ để còn thay cô mới vào. Sau đó bà Mai gọi Út Lành ra một chỗ dỗ ngon ngọt ép cô ưng thuận. Bà hứa nếu cô chịu lấy ông ta thì bà sẽ đưa cho ba má cô 5 triệu đồng. Cô gái quê ôm mặt khóc nức nở. Bà Mai lại vỗ về khuyên nhủ: "Út Lành này, chị thấy nếu em lấy ông ta thì cuộc đời em còn sướng hơn là đi khách để trả nợ cho chị. Đàn ông già nó ít sức nên em chỉ phải chiều nó ít hơn là đi khách 10 lần một ngày. Lúc đó em sẽ mệt hơn, chưa kể đến chuyện chúng nó có thể truyền bệnh sida sang em. Lỡ em ngả bệnh chết sớm thì lấy ai lo cho ba má em. Bỗng tiếng người thông dịch nói vọng vào cho biết khách muốn đi về. Bà Mai lo sợ mất mồi liền đổi giọng với Út Lành : ' Giờ cô có chịu lấy nó không ? Hay là cô muốn ngày mai tôi đưa cô đi vào nhà thổ? Tôi cho cô 5 phút để suy nghĩ". Nói xong bà chạy vội ra ngoài tiếp khách.
Út Lành ôm mặt nghẹn ngào trong tiếng nấc: "Ba má ơi ! con đã bị đẩy vào con đường cùng không có lối thoát ! Con đâu ngờ đời con phải lấy 1 ông chồng già tàn tật đáng tuổi ông nội mình!".
Giấc mơ đổi đời của cô gái quê khi mới bước vào căn nhà này giờ đây đã biến thành ác mộng hãi hùng xé nát đời cộ Trong giây phút tuyệt vọng Út Lành mong có một phép lạ kết liễu đời cộ Nhưng thần chết chỉ biết lắc đầu xót thương cho thân phận oan trái của một tuổi xuân sắp bị dập vùi.
Năm phút sau bà Mai chạy vào mặt lạnh lùng hỏi Út Lành muốn lấy sự chọn lưa. nào. Út Lành thẫn thờ gật đầu chấp thuận. Bà Mai thở dài nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Bà bảo Út Lành về phòng nghỉ ngơi cho khoẻ để mai còn đi mướn áo cưới và Út Lành sẽ theo chồng về Đài Loan nội trong tuần tới.
Đêm đã về khuya. Những giọt mưa lạnh buồn rơi trên mái. Buồn như tiếng nấc của đời người con gái bất hạnh khóc tuổi xuân lịm chết. Buồn như màu tang đen đang phủ lên giấc mơ đổi đời của cô thôn nữ hiền lành khờ khạo. Nhưng Út Lành hỡi ! Cuộc phiêu lưu lấy chồng Đài Loan của cô chưa hẳn sẽ chấm dứt ở nơi đây. Cô nào hay còn nhiều chặng đường tủi nhục khác đang rình rập cô và những cô dâu khác khi đặt chân lên xứ người.
Cô nào nghe được tiếng khóc của hàng mấy chục ngàn chị em phụ nữ VN ngày phải làm người ở, tối phục vụ sinh lý cho cả gia đình chồng. Cô nào thấy được cảnh người vợ trẻ bị chồng đánh đập tàn nhẫn, trói tay chân để nhét thuốc phá thai vào miệng? Cô nào thấu được tiếng rên rỉ của người vợ bị chồng bóp cổ vì không chịu đi khách? Những tiếng thét đau thương đó đã làm trấn động dư luận thế giới. Thế nhưng ở xã hội VN lạnh ngắt tình người, những tiếng thét kia đã được nhà nước bưng bít để họ còn tiếp tục làm giầu trên dịch vụ lấy chồng ngoại quốc, dẫu biết rằng những cô dâu VN đó sẽ có nhiều sắc xuất trở thành những con vật tế thần trong cuộc bán buôn nô lệ tình dục mặc cho ngoại bang tha hồ khai thác.
Chỉ còn vài ngày nữa là cô sẽ đi làm dâu Đài Loan. Tôi cầu chúc cô mọi điều may mắn. Cầu mong người chồng già xấu xí kia còn nhân tính để cô vẫn chỉ là người vợ độc quyền trong cuộc đời ông ta. Tôi muốn khóc khi phải viết gửi đến cô lời cầu chúc này, vì tôi biết đó là sự nhục nhã ít nhất mà cô phải gánh chịu nơi xứ người. Nhưng tôi cũng ngậm ngùi chia sẻ nỗi tủi nhục chung với cô - người con gái VN bất hạnh trong cơn lốc đổi đời đầy oan khiên nghiệt ngã.
Biết đến bao giờ nhà nước biết thương dân và lo cho dân giống như các xứ dân chủ khác, để người phụ nữ VN nghèo khổ vẫn có được cơ hội xây tổ ấm với người mình thương giống như bao phụ nữ khác trên thế gian này?

Back to top
« Last Edit: 03. Nov 2007 , 21:50 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #11 - 03. Nov 2007 , 21:53
 
    NƠI CÓ  NGÔI ĐÌNH CỦ

Tôi theo bọn thợ rừng, giạt về Tầm Lanh. Đi kiếm sống mà chui vào xó xỉnh nơi góc rừng này, không mong gì ngóc đầu lên nổi. Cái xóm đìu hiu hẻo lánh đến não lòng. Thế nhưng tôi ở lại đã ba năm. Đời yên mà quạnh lắm. Nơi đây có chừng vài mươi mái nhà nằm đơn độc xa nhau, im lìm vắng vẻ. Nghe nói, ngày trước Tầm Lanh cũng không đến nỗi tiêu điều đến thế, nhưng chiến tranh cứ đẩy con người bỏ xóm đi xa dần. Sau chiến tranh, chẳng ai còn nghĩ đến chuyện quay về chốn cũ, để chiều chiều ngồi bó gối, ngó lên ngọn rừng, nghe vượn hú.
Hồi tôi mới tới đây, Ba Canh nói: "Chú em đừng ngại, chuyện gì rồi cũng sẽ quen đi. Việc đo đạc, tính giá cả, chỉ cần biết bốn phép toán cộng trừ nhân chia là đủ. Còn công việc sau đó, hơi vất vả một chút. Tôi sẽ chỉ cách cho chú em làm. Đóng cọc, vác củi sắp vào từng thước khối... Tiền bạc không có dư, nhưng cũng sống được qua ngày." Thế đấy. Tiền bạc không có dư, nhưng cũng sống được qua ngày. Tôi phụ việc với Ba Canh, làm nơi bãi đất ở cuối xóm, giáp với bìa rừng. Gỗ súc và củi từ trong rừng đem ra chất đống nơi đây, chờ chuyển đi các nơi xa. Dân xe be, và bọn thợ rừng gọi bãi này là Bến Củi.
Bến Củi nằm trong địa phận Tầm Lanh, nhưng trong những giao tiếp làm ăn, người ta quen nói Bến Củi. Càng về sau, nhắc đến Tầm Lanh không còn mấy người biết nữa. Mọi sinh hoat rộn rịp của Tầm Lanh, chỉ diễn ra nơi Bến Củi, chừng vài tiếng đồng hồ vào giữa trưa, khi bọn thợ từ rừng ra, lái gỗ từ các nơi tới. Lăng xăng đo đạc, trả giá. Xuống củi từ những xe bò xe trâu, hoặc cẩu những thanh gỗ súc lên xe be. Xong, họ chia tay. Bọn thợ xách cưa trở vô rừng. Và lái gỗ cùng những chiếc xe be rời Bến Củi bằng con đường đất ngoằn nghèo dài hun hun hút, dưới những tán lá rậm hai bên đường. Tôi là kẻ thất cơ lỡ vận phải vào Tầm Lanh kiếm sống đã đành. Có một thành phần khác, không ai ngờ, cũng vào đây. Đó là những cô đã một thời đem thân xác mình phục vụ cho khách mua hoa nơi các phố thị đông người. Nay nhan sắc đã tàn phai, không còn đủ sức bon chen với đám đàn em mới vô nghề. Họ quay ra đón khách dọc đường, lưu động theo các chuyến xe chạy đường xa, có khi còn vào tận chốn rừng sâu với bọn thợ rừng.
Mỗi lần nhìn thấy các cô em tóc tai rối bời gió bụi trên chuyến xe đi đến, hoặc mặt mũi bơ phờ từ rừng trở ta, lòng tôi trắc ẩn. Có lẽ họ cũng nhìn thấy tôi là kẻ hết thời, không hơn gì "con vạc ăn sương" như họ. Cùng một nòi lưu lạc, dễ thông cảm nhau, và từ đó sinh ra cảm tình. Buổi trưa. Tôi ngồi trốn nắng dưới bóng cây. Một cô sà đến, ngồi kế bên, nói rất tự nhiên như đã quen thân tự kiếp nào: "Em đi lưu diễn nhiều nơi, Chưa thấy nơi nào buồn như nơi này." Tôi cười vì hai tiếng "lưu diễn", và lắc đầu nhẹ, tỏ ý chán đời, đồng cảm. Tôi hỏi: "Em tên gì?" "Kiều." "Tên thật của em hả?" "Không. Hồi em mới bước chân vô nghề, có thằng cha tự xưng thi sĩ, gọi em là Thúy Kiều. Nghe cái tên cũng hay hay, em xưng Thúy Kiều luôn.
Không biết tại sao, khi em nói tên em là Thúy Kiều, có nhiều người cười. Chắc họ biết tên giả. Em bỏ bớt chữ Thúy, chỉ còn Kiều. Em xài tên Kiều cho đến bây giờ." "Sau này, nếu có ai còn cười nữa, em thêm chữ Giáng, thành Giáng Kiều. Người ta sẽ hết cười." "Ừ, Giáng Kiều. Tên cũng đẹp." Cô thò tay vào xú chiêng móc ra một gói thuốc Hoa Mai. Bao thuốc bèo nhèo, điếu thuốc cong queo. Cô châm lửa hút vài hơi rồi trao cho tôi "Hút đi. Nhìn chi mà nhìn dữ vậ?" Tôi nói: "Xú chiêng chứ đâu phải túi đựng đồ mà cho gói thuốc vào trong ấy." "Em còn nhét cả tiền nữa. Thời quỷ vương, bọn cướp giựt đầy đường. Mang bóp đầm, đi õng eọ, dễ làm mồi cho tụi nó lắm." Tôi ngó vơ vẩn ra bìa rừng. Cô nhìn tôi một lúc, lại nói: "Năm bảy năm về trước, cặp vú em no tròn đầy đặn. Bao nhiêu thằng mê em, chỉ muốn vục mặt vào đó. Còn bây giờ thì..." Cô bỏ lửng câu nói.
Tôi hỏi: "Bây giờ thì sao?" "Hỏi mỉa em hả?" "Không. Anh đang nghĩ đến luật đào thải phũ phàng khắc nghiệt của tạo hoá." Cô khoát tay: "Ối. Hơi đâu mà nghĩ luật này luật kia cho mệt. Em chỉ hận lũ đàn ông. Đàn ông là thứ mới chuộng cũ vong, là thứ phản bội, trời đánh thánh đâm." Tôi kêu lên: "Trời đất! Có phải vì nóng nực, làm em nổi giận bất thường? Em hận thằng nào thì chửi thằng đó. Sao bỗng dưng lại trút căm hờn vào anh?" "Em không nói anh." "Anh không phải đàn ông sao?" "Đàn ông, nhưng em trừ anh ra." Cô cười. "Thôi, mình lại quán uống nước đá đi anh. Em bao." Và đứng dậy, nắm tay tôi kéo đi.
Đang đi, cô hỏi: "Anh mấy tuổi?" "Bốn mươi ba." "Vợ con ra sao?" Cô liếc mắt, dí ngón tay vào trán tôi. "Đừng nói với em rằng anh còn độc thân nhe." "Em điều tra giống như công an phòng thẩm vấn." "A a..., nhắc đến công an, em lại nổi sùng. Bọn nó ruồng bắt tụi em, đưa vào trại Phục Hồi Nhân Phẩm. Phục cái mả cha nó, chứ phục hồi gì. Đứa nào "thâm niên công vụ" như em, nó đẩy đi lao động, phơi nắng cháy da. Đứa nào còn trẻ đẹp, nó giữ lại, chơi ngày chơi đêm muốn ngất xỉu, kêu trời không thấu. Những thằng công an của trại Phục Hồi Nhân Phẩm, bản mặt thằng nào cũng tái mét xanh xao, mắt quầng thâm vì chơi bời trác táng quá độ. Có thằng ghẻ lác đầy mình, con vi trùng giang mai đã rúc vô tận xương tủy của nó rồi." "Em hay bắt quàng, từ chuyện nọ xọ chuyện kia." "Thôi, trở lại chuyện của anh. Vợ anh đâu?" "Gửi cho bà già vợ nuôi. Còn anh lo nuôi thân anh."
Cô ngó tôi, cười cười: "Hỏi thiệt nhe. Có thích em không?" "Đừng hỏi tầm phào." "Cái mặt làm bộ sầu đời, cách nói chuyện cà tững của anh, nhiều em gái ngây thơ chịu lắm. Tụi mình kết duyên thành chồng vợ được đấy." "Để ôm nhau chết đói hả?" "Em tình nguyện đi làm nuôi anh." "Đi khách đem tiền về nuôi anh?" "Không. Em chán cái nghề này lắm rồi." Chúng tôi ngồi dưới chái hiên quán Ba Canh. Chị Ba chủ quán mang nước đến, rồi bỏ đi ngay như muốn tránh mặt. Cô Kiều nhìn theo sau lưng chị Ba, kề tai tôi, nói nhỏ: "Em còn lạ gì con đĩ ngựa này. Nó đỏng đảnh với mấy thằng xe be ngoài chợ, Ai chẳng biết," "Thôi. Chuyện người ta. Mắc mớ gì em." "Hứ! Cái thứ rượn đực, còn làm ra vẻ khinh người. Khó ưa." Cô nguýt dài.
Đuôi mắt đã có dấu hiệu xếp nếp thời gian. Tầm Lanh chỉ có một quán tạp hoá duy nhất của Ba Canh, nằm kế Bến Củi. Bên hông quán, che thêm cái chái dùng làm nơi bán thịt rừng, và nước đá giải khát buổi trưa cho những người sinh hoạt nơi Bến Củi. Ba Canh giao quán cho vợ con trông coi. Còn anh, lo chạy vòng ngoài. Vào rừng mua lại thịt tươi từ các tay săn bẫy thú, hoặc theo xe be ra chợ bổ thêm hàng hóa về cho vợ. Nhiều khi công việc bề bộn, vợ anh phải thay thế ra chợ bổ hàng. Việc này cũng mất khá nhiều thời gian, phải ở lại qua đêm, hôm sau mới có chuyến xe vào lại Tầm Lanh.
Vì phải ở lại qua đêm, nên chị Ba mang nhiều tai tiếng lăng nhăng với dân xe be và lái gổ. Người ta xầm xì về chuyện này, nhưng Ba Canh không hề hay biết. Trời sanh ra anh để nhìn đời theo con đường thẳng, chứ không phải để nghi ngờ dò xét ở những khúc quanh. Trời nắng loá. Trông ra Bến Củi, mặt đất dường bốc hơi thành gợn sóng. Những xe be đã bắt đầu rục rịch, chuẩn bị rời bãi. Cô Kiều nói: "Em phải về. Anh có muốn em ở lại không?" "Anh không có tiền." "Miễn phí cho anh." "Anh trú miễu ở đình. Làm bậy Quỷ Thần vật chết. Thôi, em về đi." "Về lần này, có lẽ em không trở vô nữa. Em muốn đổi nghề, kiếm chuyện khác làm ăn." "Ừ, được đấy. Em cũng lớn tuồi rồi. Phải nghĩ tới tương lai." Cô than thở: "Em muốn về quê cũ, làm lại cuộc đời.
Nhưng em hư quá, vô phương quay về." "Thì đi nơi khác. Buôn gánh bán bưng gì cũng được." "Phải có một căn bản gia đình, mà em thì cô đơn, anh ạ." Cô thở dài. Tôi an ủi: "Từ từ, em cũng sẽ kiếm được người thương em." Ngoài bãi, có tiếng kêu ơi ới. Xe sắp rời Bến Củi. Cô đứng dậy: "Em đi nhe. Chắc mình không gặp nhau nữa đâu." Cô bước đi xa, còn ngoảnh đầu ngó lại. Bỗng cô trở gót, quay vào cầm tay tôi: "Coi... kìa..., cái mặt buồn buồn, dễ ghét. Bộ thương em hả?" "Thôi mà, đừng có đùa. Bao nhiêu người dòm ngó." "Dòm, kệ họ. Mai mốt có ra chợ, nhớ tìm em nhe?" Tôi hối: "Được rồi. Em đi đi. Trễ chuyến xe bây giờ." Cô lầm lũi đi nhanh ra Bến Củi, lên xe, đưa tay vẫy vẫy. Tôi trông theo, cảm thấy nao nao. Không biết lòng mình ra sao nữa.
Tôi ngồi lại với nỗi trống không, buồn vô cớ. Chị Ba bước ra hiên, dọn những ly tách trên bàn, nói: "Cặp kè với loại người ấy, chỉ mất mặt." "Nói chuyện thôi. Đã có gì đâu?" "Còn muốn có gì nữa hả? Anh Ba Canh giúp anh có cơm để sống, chứ không phải để anh đem tiền bao gái." "Chị thấy tôi có lạng quạng với ai không?" "Chuyện khuất lấp ban đêm, chỉ có trời biết. Còn chuyện ban ngày, đã rõ trắng đen. Bạ ai cũng tán tỉnh, thượng vàng hạ cám không chừa thứ nào." Thái độ và lời lẽ của chị Ba làm tôi ngạc nhiên.
                                        ( Còn tiếp )
Back to top
« Last Edit: 03. Nov 2007 , 21:54 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #12 - 03. Nov 2007 , 21:55
 
Chị đâu có quyền nói những lời gay gắt như thế với tôi. Nghĩ tới tình nghĩa anh Ba Canh lâu nay, tôi không nỡ phản ứng làm mất lòng người vợ của anh. Tôi nói: "Chị hơi nặng lời đấy." Và bỏ đi ra bãi. Bến Củi không còn ai. Tôi một mình vác củi chất vào từng thước khối theo những cây cọc, Ba Canh đã đóng sẵn từ trước. Hôm nay, anh theo xe ra chợ lấy hàng. Tôi làm mãi đến xế chiều. Khô cổ, khát nước, mồ hôi đầm lưng áo.
Trời đứng gió, oi nồng. Muốn vào quán để uống ly nước đá, nhưng nghĩ lại thái độ khó chịu của chị Ba, tôi ngại. Tôi đi chếch về phía tây Bến Củi, nơi có ngôi đình, lâu ngày không được trùng tu. Hồi mới tới đây, trông thấy một bên hiên đình quằn xuống sắp đổ. Hình ảnh hư hao tàn tạ cuốn hút lòng tôi. Tìm ở đâu cho xa. Một nơi chốn mà người đời quên lãng, sẽ là nơi trú ngụ an toàn cho con chim tơi tả trước cơn dông thời cuộc. Mái đình xưa, lợp ngói âm dương, phủ màu rêu xám. Cuối nóc đình, chỗ giáp với đầu hồi, có gắn con hạc bằng đồng thau, xoãi cánh như đang cố sức một cách tuyệt vọng, chấp chới bay lên để thoát khỏi sự sụp đổ của thời gian, nhưng đôi chân tội nghiệp cứ dính chặc với ngôi đình. Phía sau con hạc, cỏ dại và những cây con mọc đầy trên mái. Lớp lớp rêu cỏ, âm thầm nói lên biết bao điều ý nghĩa. Những ai hăm hỡ xẻ gỗ dựng đình từ thế kỷ trước, đều khuất bóng cả rồi. Thần linh phiêu hốt nơi đâu, mà tượng gỗ xiêu xó nơi này. Dù không được trùng tu, nhưng số phận ngôi đình vẫn còn may mắn.
Nhờ vào vị thế địa dư hẻo lánh, và không có tiếng tăm linh hiển vang xa, nên ngôi đình thoát được cái hoạ san bằng, bởi chiến dịch triệt hạ những đình chùa lăng miếu, quét sạch nền văn hoá cũ của bao đời cha ông để lại. Đã bao nhiêu đêm, tôi nằm trăn trở dưới mái hậu liêu, sau đình. Nghe chim đớp muỗi vỗ cánh chạm xạc xào trong khóm lá ngoài kia. Nghe tiếng dơi chí choé cắn nhau giành chỗ đậu, dưới mái ngói bên hàng hiên sắp đổ. Thấm thía nhứt là tiếng vạc kêu sương, rớt xuống tự trên lưng chừng trời. Dường như trong tịch mịch lặng im, tiếng vạc lẻ loi, làm tôi thấy rõ hơn về nỗi quạnh hiu của lòng mình. Những đêm trăng tỏ, tôi thường đứng trông ra Bến Củi. Những khối củi mập mờ nhìn từ xa, giống như những chiếc xe tăng đang lổn nhổn tiến về phía bìa rừng. Bồi hồi nhớ lại thời còn chiến tranh. Một binh lực hùng mạnh là thế, bỗng một ngày tán loạn rã tan.
Chuyện vô lý, tưởng chừng như cơn mơ. Đến khi lủ khủ dắt nhau vào tù, mới bừng ra sự thật. Từ ấy trở đi, lý lịch tôi mang một dấu ấn lớn, không mong gì xoá được để làm lại cuộc đời. Tôi về Tầm Lanh như người xưa bất đắc chí, quay về sằn dã. Ẩn nhẫn mà sống. Nhưng, sao bất cứ nơi nào, tôi cũng thấy bi đát. Hoàn cảnh một cô Kiều trưa nay, cũng làm tôi suy nghĩ. Tôi có hơn gì cô đâu. Đời đã lâm vào thế bí. Trở lui không được, tiến tới không xong... Đêm đã khuya. Sương xuống lạnh màu trăng. Hình như có tiếng chân ai dẵm lên những phiến lá khô ngoài sân đình. Tôi nhỏm dậy. Một người vừa bước đến bên thềm hậu liêu. Tôi ngạc nhiên: "Chị Ba. Có gì gấp mà giờ này ra đây?" "Cũng có chút việc." Chị nói nhỏ giọng. "Tôi có thể giúp chị không?" Vừa hỏi, tôi vừa vén tấm mùng, vắt lên nóc. Chị e dè ngồi xuống mép giường: "Anh có giận tôi không?" "Giận chuyện gì?" "Hồi trưa, tôi lỡ lời." "Không đâu. Chị nói cũng đúng. Tôi hay rà rê với mấy cô ấy." "Tôi biết anh làm thế, vì buồn." "Vâng. Tán gẫu cho qua ngày." "Nhưng anh phải lựa người chứ." "Có tính chuyện lâu dài đâu mà chọn lựa?" "Giữa ban ngày, kề vai bá cổ với gái điếm, không sợ người ta cười sao?" "Cái thân cùng đinh mạt kiếp như tôi, còn sợ ai cười nữa?" "Thấy chướng quá, tôi có nói nặng lời. Anh buồn không?" "Tôi buồn, nhưng không phải buồn chị" Chị ngó tôi, cười cười: "Buồn ai?" "Buồn vì... buồn. Thế thôi."
Tôi ngập ngừng lúng túng. Cảm giác có điều gì bất thường. "Buồn vì cô đơn hả?" Con mắt chị liếc nhẹ, gợi tình thì thôi. Dưới ánh trăng khuya nghiêng rọi vào hậu liêu, nét mặt chị Ba có sức quyến rũ lạ lùng. Mùi xà bông chanh trên tóc, mùi đàn bà quyện vào nhau thoang thoảng. Những đêm nằm một mình dười mái hậu liêu, tôi thèm được ôm một người đàn bà. Nhưng, chưa bao giờ tôi nghĩ người ấy là chị Ba. ""Nói đi. Có phải buồn vì cô đơn?" Chị lẵng lơ nhìn tôi, và đưa tay vén mớ tóc giạt qua một bên cổ. Bộ ngực vun đầy của chị phập phồng dưới lớp áo mỏng. Tôi chống đỡ sự quyến rũ một cách yếu ớt: "Chị Ba ơi..., còn anh Ba Canh." Nói thế, nhưng hình ảnh Ba Canh đã mờ nhạt trong trí tôi rồi.
Chị nói: "Ảnh đi ra chợ. Anh cũng biết mà." Hơi hướm từ cổ chị Ba phả vào mũi tôi, cám dỗ. Và tôi cũng nghe rõ cả hơi thở hồi hộp của mình nữa. Có tiếng dơi kêu chí choé bên kia hàng hiên. Bỗng dưng, tôi cảm tưởng như tất cả những bức tượng ngả nghiêng đóng bụi trong đình, đều chỗi dậy. Quỷ Thần kéo nhau ra hậu liêu, đứng nhìn chị Ba và tôi. Tôi chợt nhớ lại ngày còn bé, đọc chuyện Một Vị Quan Thanh Liêm đời xưa, trong sách Giáo Khoa Thư: Có người mang của hối lộ đến. Vị quan từ chối. Người ấy nói: "Xin quan cứ nhận. Chuyện này không ai biết." Vị quan nói: "Sao lại không? Ông biết. Tôi biết.
Quỷ Thần Trời Đất biết." Chuyện của Chị Ba và tôi đêm nay, dù anh Ba Canh không biết, nhưng chị Ba biết, tôi biết, và Quỷ Thần Trời Đất biết. Ngọn đèn lương tâm leo lét sắp tắt rồi. Tôi cố lấy lại bình tĩnh, bước xuống giường, ra đứng ngoài hiên, lơ lãng nhìn trăng. Tôi gọi, vừa tha thiết, vừa khước từ: "Chị Ba ơi... Về đi. Lỡ có người trông thấy thì... chết." Chị ngỡ ngàng, ngồi sững lâu lắm. Tội nghiệp chị. Tôi muốn quay lại ôm lấy cái thân thể chín muồi dục vọng, ngả trên mặt giường, âu yếm. Đời có ra sao thì ra. Bất ngờ chị nói: "Thôi, tôi về. Đã theo tán tỉnh mấy con đĩ, còn lên mặt đạo đức làm cao." Câu nói như một gáo nước lạnh dội xối vào mặt tôi, bừng tĩnh. Chị thay đổi nhanh vô cùng.
Mặt lạnh băng, vùng vằng bỏ đi. Không biết nghĩ sao, chị dừng lại, ngập ngừng: "Anh hứa không nói với ai?" "Vâng. Tôi hứa." Chị quay lưng. Thấp thoáng dưới trăng, bóng chị Ba mờ khuất ngoài Bến Củi. Tôi nằm thức suốt đêm. Thầm tiếc dịp may, nhưng cảm thấy yên lòng. Ngày mai, nhìn lại anh Ba Canh mà không hề thấy ngượng. Bình minh lên. Quạ kêu trên đầu cây sao già. Tiếng quạ kêu nghe thảm. Trong tiếng quạ sáng nay, dường như có thêm một điều gì thảng thốt. Có lẽ, hồn tôi bắt đầu nhuốm bệnh? Mọi sinh hoạt của Tầm Lanh, Bến Củi vẫn bình thường. Chị Ba đối với tôi, cũng bình thường. Nhiều khi tôi tự hỏi, chị có còn nhớ gì trong đêm ấy không? Khó mà biết được ý nghĩ của chị.
Trong cái đầu của mỗi người đàn bà, có cả một kho tàng bí mật. Anh Ba Canh bao giờ cũng tử tế. Lòng anh đơn giản. Anh tưởng lòng người cũng đơn giản như anh. Anh thường khuyên tôi, nên tìm một người đàn bà goá, để gán ghép hai cuộc đời cô đơn làm một. Vì quá thật thà, anh đâu biết rằng có những cặp vợ chồng đang sống trên lưỡi dao cạo. Đến một ngày nào đó, hiểu ra thì con tim đã bị cứa nát rồi. Chừng nào anh Ba Canh mới thấu được lòng dạ chị Ba? Lúc ấy, liệu anh làm sao với con tim chảy máu của mình? Ba năm tôi ở Tầm Lanh. Kẻ lạ chợt đến chợt đi. Tình người dưng nước lã.
Tôi nương tựa vào gia đình Ba Canh, và coi đây là chỗ thân tình duy nhất. Đứa con gái lớn của anh, tên Mận, học hành dang dở. Tôi đến chơi, thường vẫn dạy thêm cho Mận về văn học, sử ký, địa dư, khoa học thường thức. Năm mười lăm tuổi, Mận nghĩ chuyện gì ở trên đời, tôi cũng thông suốt. Có lần, Mận hỏi: "Chú ơi, muối lấy từ đâu?" Tôi nói: "Từ trong nước biển." "Tại sao nước biển có muối nhỉ?" "Vì nước biển mặn." "Tại sao nước biển mặn?" "Vì nước biển có muối." Cái kiểu trả lời theo chu kỳ vòng tròn của tôi, làm hai chú cháu cười ngất. Năm mười sáu tuổi, Mận nói: "Chú ngon hơn ông Nguyễn Công Trứ." Tôi hỏi: "Tại sao?" "Ông Nguyễn Công Trứ đang làm quan, bị hất xuống làm lính, vẫn chạy theo sau chiếc xe công danh réo gọi ơi ới, để leo lên nữa. Còn chú, nghe ba cháu nói, cũng đang làm quan gì đó, rồi bị đi tù, trở về đi vác củi, chứ không thèm chạy theo cách mạng."
"Hoàn cảnh mỗi thời mỗi khác. Không so sánh thế được đâu. Cháu đừng nhắc chuyện cũ, để chú được yên thân làm nghề vác củi." Năm mười bảy tuổi, Mận nói: "Chú ơi, chú giống ông Trần Tế Xương." Tôi hỏi: "Ổng là thi sĩ. Chú là tiều phu. Sao lại giống nhau được?" Mận lật quyển sách, đọc: Một trà, một rượu, một đàn bà Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ ấy Có chăng, chừa rượu với chừa trà. Rồi ngước lên nhìn tôi: "Chú cũng vậy. Không chừa được đàn bà." "Đàn bà đâu? Chú đang sống một mình mà." "Hừm... Cháu thấy mấy cô làm... điếm, bu vào chú nói chuyện hoài." "Ừ, thì nói chuyện cho... vui." "Không được. Chú phải chừa cái thứ ba luôn." Tôi kêu: "Trời ơi. Chú đâu phải thầy tu mà chịu đủ thứ điều răn, giới luật?" Mận khẳng định: "Người tốt không giao thiệp với người xấu." Trong mắt Mận, tôi là người tốt. Mận không muốn tôi lân la gần gũi những người mà Mận cho rằng xấu. Mận đâu biết trên cõi đời ô trọc này, không thể nhìn bề ngoài con người mà tỏ được vàng thau. Mận thừa hưởng tấm nhan sắc tương đối mặn mà của mẹ, còn tính nết ra sao, chỉ có trời biết. Một chiều, nghỉ việc sớm. Tôi thơ thẩn trên sân đình. Mận đến, nói: "Má cháu bảo đem biếu chú trái dưa hấu đầu mùa." Và đặt trái dưa xuống bậc thềm.
Tôi nói: "Tránh chỗ đó. Coi chừng mái hiên sập xuống bất cứ lúc nào." Chúng tôi vòng ra đứng trước tiền đình, cửa chính. Mận nhìn cánh cửa, mối mọt hư hao: "Cái đình này, ghê quá." "Cháu có vào bên trong bao giờ chưa?" "Hồi nhỏ, cháu thường vào mỗi khi có dịp cúng đình. Nghe nói Thần đình được sắc phong của vua. Sắc đựng trong cái hộp gỗ, để bên cạnh bức tượng." "Mình vào coi thử đi." Tôi mở cửa chính điện. Bụi thời gian lả tả, rơi đầy trên tóc trên vai. Mùi cứt dơi xông nồng lên mũi. Nền đình lót gạch Tàu, bản lớn. Dấu chân chúng tôi in trên màu bụi xám. Ánh sáng bên ngoài hắt qua cửa chính mờ mờ, đủ nhìn thấy bàn thờ, và bức tượng. Hai tấm liễn màu đỏ rủ xuống hai bên, viết bằng Hán tự. Bụi phủ, nhện giăng. Tượng Thần không lớn mà uy nghiêm. Hộp đựng sắc vua phong làm bằng gỗ mun, được che bởi miếng vải lụa điều. Tôi giở miếng vải lụa. Trên nắp hộp có khắc hình một con rồng khảm xa cừ.
Tôi toan mở, Mận ngăn: "Không được." Tôi quay lại nhìn: "Sao không?." "Chẳng phải ai cũng có thể mở hộp ra coi được đâu." "Vậy, ai có thể mở?" "Cháu nghe nói, chỉ những vị chức sắc phải làm lễ xin phép Thần, trước khi mở hộp." "Những vị chức sắc, bây giờ ở đâu?" "Không biết." Mận đứng nép vào tôi, ngó dáo dác chung quanh. "Mình đi ra, chú. Vào đây, cháu thấy sờ sợ." Vì tôn trọng tín ngưỡng và tập tục lễ nghi của ngưới đời trước, tôi không mở hộp để coi sắc phong thần vua ban, Tôi nói: "Mai cháu đem cây chổi cho chú mượn. Chú muốn quét dọn bên trong ngôi đình." "Không. Đừng động đến mọi vật bên trong." Chúng tôi ra tới cửa chính. Bất ngờ, thấy chị Ba đứng sẵn nơi tiền đình. Tôi gọi: "Chị Ba." Như thay thế một lời chào. Mặt chị có vẻ khác thường: "Các người làm gì trong ấy?" Mận nói: "Chú định coi sắc vua." "Hừ... Sắc vua?" Chị nắm tay Mận lôi về. Không thèm ngó đến tôi. Tôi gặp lại Ba Canh ngoài bãi, hôm sau. Anh không nói gì.
Thái độ rất lạnh. Không chịu nổi sự im lặng của anh, tôi lên tiếng hỏi: "Chị Ba có nói với anh điều gì về tôi?" Anh ngừng tay làm việc, rút thuốc ra hút, và đứng suy nghĩ. Mãi lâu sau, anh nói: "Tôi quý chú em, coi như người nhà. Không ngờ, chú tệ quá." Anh thở dài. "Nhưng chị nói những gì?" "Những gì, chú cũng biết rồi. Con Mận còn khờ. Chú là người hiểu biết. Miếu đình là chốn linh thiêng. Sao lại đem nhau vào trong ấy làm... bậy? Không sợ Quỷ Thần quở phạt?" "Có phải chị Ba thêu dệt chuyện này?" "Ai dám thêu dệt chuyện động trời như thế." "Anh chị đã hỏi kỹ lại con Mận chưa?" "Nó chối. Khóc kêu oan. Làm sao nó có thể nhận một hành động tồi bại?" Tôi gắt: "Anh cũng tin lời chị sao?"
"Không tin vợ thì tin ai?" Nếu vợ tôi không bắt gặp tại trận, chỉ nghe lời đồn, thì cũng khó tin được." "Bắt gặp tại trận thế nào?" "Chú là người trong cuộc, chú biết rõ hơn ai hết. Tôi không nói là vì còn nể mặt nhau." Tôi muốn đấm ngực, than trời. Mận khóc, kêu oan. Còn tôi, kêu với ai? Đính chính thế nào? "Bây giờ anh tính sao?" Tôi hỏi. "Chuyện xảy ra quá đột ngột, tôi chưa biết đường nào giải quyết. Đàn bà nhiều khi sáng suốt hơn mình. Vợ tôi nói, không nên làm ồn lên vụ này, vì danh dự của chú và con Mận. Nó phải giữ danh giá để mai kia còn lấy chồng nữa. Chú nên rời khỏi Tầm Lanh, cắt đứt ngay mối tình vụng trộm này." Cái câu, chú nên rời khỏi Tầm Lanh, làm tôi hiểu rõ ý định của chị Ba.
Chị không hiểu lầm. Chỉ vì không muốn tôi còn lảng vảng quanh đây, sợ một lúc nào đó, tôi sẽ tiết lộ cái đêm trăng cũ, có lần chị đến mái lậu liêu. Nếu lần ấy, tôi đồng tình với chị, thì hai người cùng giữ bí mật. Và chị cũng không cần phải dựng đứng lên một điều không có thật giữa tôi và Mận. Bây giờ, dù tôi có vạch rõ âm mưu của chị Ba, thì anh Ba Canh cũng sẽ cho rằng tôi đặt điều bêu xấu vợ anh, để chạy tội cho mình. Tôi nói: "Anh Ba, mai tôi rời Tầm Lanh theo ý của chị. Xin anh nhắn với chị rằng, vì muốn bảo vệ danh giá của mình, chị đã vu oan cho tôi và con Mận." "Vu oan? Tôi không nghĩ thế. Và cũng không hiểu chú muốn nói cái gì?" "Hiểu sao được, khi anh đang sống ngọt ngào trên lưỡi dao cạo? Tôi và con Mận đã bị đứt tay rồi. Không biết chừng nào tới anh?" Trên chuyến xe rời Bến Củi, tôi thấy Mận đứng dưới mái hiên, ngùi trông theo. Chẳng biết Mận có khóc hay không. Bóng xế hắt hiu trên đầu cây sao già. Ngôi đình vẫn im lìm như ngày tôi mới đến. Ba năm. Cây rừng Tầm Lanh mọc rễ trong tôi. Tôi nhổ gốc ra đi. Không có ai vẫy tay làm đưa tiễn.
Lâm Chương      

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #13 - 03. Nov 2007 , 22:34
 

   LÀNG XƯA XÓM CỦ;
Mme Ngôhoahong.gif:
Chí-Hoà Hoà Hưng

Hổng hiểu sao lại chia ra Chí-Hoà và Hoà-Hưng vì có vẻ như cả hai địa danh ni là cùng một vùng. Nếu quả thiệt là hai vùng khác nhau thì không rõ ranh giới phân chia bắt đầu từ khúc nào? Chí-Hoà Hoà Hưng chạy dài theo dường Lê Văn Duyệt Sài gòn (khác với đường Lê Văn Duyệt Gia Định có Lăng Ông Bà Chiểu) Giới hạn bởi hai đầu, đầu trên là Công trường Dân chủ, và đầu dưới là nghĩa địa Đô-thành.
Vị thế :
Công trường dân chủ đúng ra chỉ là một bùng binh sáu nhánh.
Đường Lê Văn Duyệt bị cắt ngang nơi đây nên nó chiếm hết hai nhánh, những nhánh còn lại là Trần Quốc Toản, Yên Đỗ, Tú xương. Nhánh cuối cùng thiệt nhỏ và thiệt ngắn là ngõ tắt trổ thẳng vào đường Phan Than Giản (có nhà thương Bình Dân) mà tui quên tên mất rồi!
Cũng trên đường Phan Thanh Giản này có trường trung học Áo Tím Gia Long của cô Hoàng Lan Chi và có chùa Xá-Lợi. Tui đã từng là dân canh me (đứng toòng teng dưới gốc cây để chờ ... me rụng) ăn hàng chuyện nghiệp tại đây, từ gỏi thu đủ khô bò cho tới đậu đỏ bánh lọt. Ăn xong thì nhào vô chùa lễ Phật và ... thành tâm xám hối! Riêng chuyện ngôi trường con gái ni của cô HLC thì để cổ kể cho mình nghe mới thập phần hấp dẫn.
Cũng tại cái bùng binh ni có dinh của ngài trung tướng Mai Hữu Xuân, nằm giữa hai đường Tú Xương và Yên Đỗ. Đường Tú Xương có Ký túc xá sinh viên Mai Khôi của các cha dòng Đắc-Lộ, có trường Regina Pacis và sau này có thêm trụ sở Caritas.
Đường Yên-Đỗ ngắn thôi, có con hẻm nhỏ là nơi Học giả Nguyễn Hiến Lê sống lặng lẽ với bà vợ thứ, nó cũng có đường Kỳ Đồng đổ vào.
Đường Kỳ Đồng với nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của các cha dòng Chúa Cứu Thế, tui kêu nó là nhà thờ trắng vì nó sơn trắng để phân biệt với một nhà thờ khác có tên nhà thờ hồng sẽ nói sau. Nhà thờ ni có ông cha trẻ Nguyễn Ngọc Lan hùng biện hết ý. Sau này nghe nói cha Lan ‘vào đời’ chống chánh phủ, một thời gian sau thì ổng vứt mẹ nó cả áo dòng mà tà tà đi lấy vợ. Cũng lại nghe nói vợ ổng là người say mê những bài giảng của ổng rồi bả a lê hấp bưng ổng về làm màn nâng khăn sửa cà vạt luôn cho gọn việc sổ sách! Tui đã theo những khoá cấm phòng tại nhà thờ ni vì ... ham vui, nhưng tui cũng đã thành tâm nghe kinh cầu Đức mẹ hằng cứu giúp để thấy lòng được yên ủi.

Đầu giới hạn dưới của CH-HH là Nghĩa địa Đô Thành. Đối diện nghĩa địa nầy là một trại lính. Tiếp cận với nghĩa địa là một con đường nhỏ dẫn vào cư xá sĩ quan Chí Hoà, y hình tên nó là đường Bắc Hải thì phải (?). Tại nghĩa địa ni con cousin cà chớn của tui bị thằng kép đưa vào làm màn hăm dọa, hễ bỏ nó thì bỏ xác luôn lại đây. Con ni ớn quá nên phải xuất giá vu qui, khóc như cha chết mẹ chết mà lết về nhà chồng. Chồng nó là một thằng pháp kiều (lại kiều, chán quá xá !) gốc Pakistan, thằng ni sau về làm giám đốc hãng sữa Foremost ở Thủ-Đức và nhờ vậy tui được đớp cà rem hộp mệt nghỉ.

Qua khỏi nghĩa địa thì đường Lê Văn Duyệt biến thành LVD nối dài (nối thêm thì phải dài ra là cái cẳng) và là bắt đầu giang sơn của các vị anh hùng Lê Nguyễn Hiệp, Trò Tê vv...
Tui hiền lành hổng dám phiêu lưu, thành ra cứ tới nghĩa địa là tui thắng cái két rồi gài số de liền. Chuyện ba cái giáo xứ ông Hiệp kể ra thì tui bù trất, trừ xứ An-Lạc. Tui có vào đây một lần để thăm một bà cô họ và đi lễ với bà. Than ôi, họ đọc kinh bằng tiếng chi mà tui hổng hiểu, nó cứ ê a dài dằng dặc, bao nhiêu ông thánh bà thánh được họ lôi ra hết đặng xin cầu bầu tuốt luốt (cầu vậy cho chắc ăn, khỏi có màn bên trọng bên khinh mất lòng ai ráo !)

Chi tiết :
Từ bùng binh đi ngược xuống nghĩa địa Chí Hoà, bên tay phải là Quân vụ thị trấn, có xe quân cảnh lúc nào cũng hằm hè xét giấy (trốn lính) hay hốt mấy ông lính leo rào quá hạn phép (người ta nói bị phạt trọng cấm, nghĩa là bị giam, nói nôm na là lãnh củ, mỗi củ tương đương một ngày) Đối diện Quân vụ thị trấn là một khu nhà khang trang theo kiểu townhouse của công chức trung lưu (xin đừng lộn nó với cư xá công chức). Xích xuống chút nữa cũng bên phải là con đường cụt dẫn thẳng vào khám Chí-Hoà. Đầu con đường này, chỗ ngã ba có một tiệm phở bắc, lúc nào cũng đông khách. Trên đường ni có cư xá công chức. Tui phải nói thêm về cái cư xá ni. Tưởng tượng vầy ha, giữa Sài Gòn hoa lệ chật hẹp đông đúc thinh không có cái ốc đảo vuông vắn đầy những vi-la mát rượi, hướng vào chính giữa là một công viên rộng. Dân của cư xá phần lớn là công chức cao cấp. Gần cư xá ni có một quán cà phê nhỏ. Ông chủ quán chạy xe gắn máy Goebel tóc mây bềnh bồng và đeo kiếng râm 24/24... người thì thậm xấu hát thì thậm hay ... ông ấy chính là ca sĩ Ngọc Long đó và ông ấy hát bài Lệ Đá Xanh tuyệt lắm lận ! Xéo xéo quán phở phiá bên kia là một căn nhà nhỏ có giàn bông giấy đỏ, nhà tui đó nha. Ông Hiệp đã từng qua lại trước nhà tui cả hơn 2000 lần, nhưng vì ... vô duyên đối diện bất tương phùng, thành ra tui hổng hân hạnh quen biết ổng, dám có vụ uýnh lộn đôi lần với ổng tại ngay xe nước đá bên hông chùa Xá lợi vì chuyện canh me hổng chừng ha ông? Trên đường Lê Văn Duyệt, qua khỏi đường Chí Hoà, đối diện phiá bên kia có một cái nghĩa trang nhỏ mang tên Nghĩa trang của Người Hồi Giáo. Ngay cổng nghĩa trang ni thấy có vài gia đình Hồi giáo ở, nhìn cách ăn mặc y hình họ gốc chà dà pakistan thì phải (thằng anh rể Foremost của tui dám ba má nó đứng chần dần ở trỏng hổng chừng) Đi xuống nữa thì tới rạp cinê Thanh Vân, cạnh rạp TV là phòng mạch ông BS Nguyễn Văn Phúc. Ông khám bệnh kỹ lưỡng, chỉ cho toa khi cần, ông không mị dân nên rồi không được tiếng mát tay, khách hàng nghèo ông khám miễn phí luôn. Ông đã là thần tượng của tui và chính ông đã mở đường cho tui đi vào y nghiệp sau này. Đối diện rạp TV là một quán tạp hoá sách vở học trò và chuyên cho mướn truyện. Từ đây tui đã rinh về nhà biết bao là bí kiếp thần công rồi bế môn tu luyện. Có lần luyện kỹ quá nên tẩu hỏa nhập ma, sáng sau quên cả đi thi, dĩ nhiên là ăn roi mây quắn đít! Cạnh quán sách có con hẻm sâu, tận trong cùng là trường tiểu học Chí Hoà. Cổng sau của trường này dẫn thông sang hàng loạt những ngõ ngách hẹp khác rồi dẫn thẳng ra đường Chí Hoà có cái cư xá công chức nói ở trên. Xích xuống chút nữa cùng bên với rạp hát TV là một cái hẻm khác, đầu hẻm có xe đậu đỏ bánh lọt của vợ chồng một ông tàu, lúc nào cũng đông khách vì ngon hết ý. Sau này lại có thêm bà bán bánh cay. Bánh cay làm bằng khoai mì xay nhuyễn trộn ớt rồi dùng muỗng cà phê dích một miếng nhỏ thả vào chảo dầu sôi chiên cho vàng. Trờiii ... nhớ lại còn chảy nước miếng. Đối diện bên kia là đầu đường Tô Hiến Thành. Đường ni có chợ Chí Hoà và nó dẫn ra tới đường Nguyễn Tri Phương nối dài. (Lại nối dài nữa. Hồi trước thì Đường NTP chạy từ ngã sáu chợ lớn đụng Trần quốc Toản là hết, sau mở thêm đường thành ra lại nối cho dài là vậy. Có cái chợ cá tên là chợ cá TQT. Viện Hoá Đạo nằm ngay góc Nguyễn Tri Phương-Trần Quốc Toản này) Qua khỏi đường Tô Hiến Thành là chợ Hoà Hưng. Chợ Hoà Hưng không khang trang bằng chợ Chí Hoà nhưng sầm uất hơn, có lẽ vì đường Lê Văn Duyệt lớn hơn đường Tô Hiến Thành chăng ? Hai cái chợ ni có con hẻm thiệt nhỏ phía sau lưng ăn thông với nhau, mùa mưa đi chợ bùn dích văng tới cả tóc ! Tại chợ Hoà Hưng tui đã gặp mối tình đầu. Tui ra đó mua bún và tầu hũ chiên cho mạ tui xong là xề qua xạp bán hoa gần đó. Yên chí , tui chỉ yêu hoa thôi còn bà bán hoa thì tui hổng dám đụng tới, bả dữ tàn mạt luôn. Có muốn ngắm chi thì cũng ngắm xa xa thôi nha, tới gần xạp quá bả xua như xua tà. Mà trời ơi ngắm bông thì tui ngắm hoài hổng chán, thành ra có lúc tui toan tính nữa lớn mượn tiền sang cái xạp rồi ngồi chồm hổm bán bông, vừa có nghề sanh nhai vừa tha hồ dòm đã con mắt ! Cuối chợ Hoà Hưng là một đống rác. Má ơi bự kinh khủng, nhứt là về chiều. Rác rến từ trong chợ được lôi hết ra đây. Ngay cạnh đống rác là tiệm phở bắc Tương Lai của một cặp vợ chồng bắc kỳ thiệt cũ (45 hổng chừng) Buôn bán kiểu đó thì dĩ nhiên ế ẩm hổng khá. Sau này ông bà chủ dẹp tiệm phở xoay nghề bán nồi niều xoong chảo thấy cũng phát đạt. Đối diện chợ là phòng mạch của BS Trần Minh Tùng, ông ni sau thành tổng trưởng y tế trong chánh phủ Nguyễn Văn Thiệu. Gần phòng mạch là tiệm thuốc tây của một bà già Bắc cực kỳ sang trọng. Bà có hai thằng con trai du học từ tây về, thằng nào thằng nấy lầm lì ít nói, hổng gentlemen mẹ gì ráo ! Sau tiệm ni bán lại và biến thành chi nhánh Tín Nghĩa Ngân hàng của Nguyễn Tấn Đời Qua khỏi chợ Hòa Hưng là con hẻm bự có tên Cống Bà Xếp. Trong Cống Bà Xếp ni có trại gia binh (hạ sĩ quan) và có ga Hoà Hưng. Hồi chiến tranh leo thang, xe lửa được Mỹ trưng dụng vào việc chuyên chở nhân công làm sở Mỹ từ SG đi Long Bình. Chuá nhựt mô hổng có bài vở ngặt nghèo, tui cùng mấy thằng em họ nhảy xe lửa sáng đi chiều về, xuống tuốt Biên-Hoà ngoạn cảnh. Từ hẻm Cống Bà Xếp ni nếu đi hoài thì ra tuốt đường Kỳ đồng, cũng có một con hẻm khác rộng rãi khanh trang tiếp nối đâu gần đó, dẫn ra cổng xe lửa số sáu Trương Minh Giảng và ra tới y hình cả đường Nguyễn Huỳnh Đức tuốt bên Phú Nhuận nữa, nếu tui hổng lầm. Cùng bên đường vào Cống Bà Xếp là một cây xăng bự, y hình đây là cây xăng duy nhứt trong vùng thì phải. Buối tối trời nóng con nít ra đây chơi rần rần và mua nước đá nhận ở mấy cái xe do Các-chú đẩy tới bán. Đối diện cây xăng phía bên kia là một con hẻm khác của giới trung lưu. Nhà cửa trong con hẻm ni khang trang rộng rãi hơn. Cạnh con hẻm là một ngôi biêt thự thiệt lớn cây cối um tùm của hai ông dược sĩ đã nói ở trên, sau này nó thành hãng bào chế thuốc. Cạnh hãng bào chế thuốc là một ngôi biệt thự mới và nhỏ. Biệt thự ni là của cặp Nguyễn Xuân Oánh –Thẩm Thuý Hằng. Thỉnh thoảng người đẹp Bình Dương xuất hiện đi chợ, có bà người làm cắp giỏ phía sau. Con nít người lớn hiếu kỳ theo rần rần như đám rước đèn vậy. Tui có lần đang ngắm bông thì gặp nàng tới mua bông. Đố bạn vậy chớ bông thiệt và bông biết nói tui ưa cái nào hơn và tại sao ?? Nói trúng có thưởng đàng hoàng. Xích xuống dưới chút nữa là nghĩa địa, đối diện bên kia là một trại lính tui hổng nhớ tên, y hình trại Hoàng Hoa Thám thì phải.
Chí-Hoà Hoà-Hưng tới đây là giang san chấm dứt.
Nói thiệt thì tui ở đây cũng lâu nhưng hổng quen ai chi nhiều vì tui bận quá xá, hễ hổng học là tui lo luyện chưởng (bộ nào tui luyện cũng nhuyễn nhừ hà) cuối tuần thì mắc ra thăm xạp bông còn không thôi nhảy xe lửa xuống tuốt Biên Hoà. Tại Biên Hoà tui gặp mối tình thứ nhì (cũng lại là hoa nhưng hoa dại) Sau này khi chuyện bút nghiên của tui tuột dốc thì ba tui sắm cây roi mây để sẵn góc nhà. Tui vốn nhát hìu thành ra đành giã biệt sân ga, giã biệt luôn cả cô hàng cho mướn truyện. Thì buồn chớ sao, nhưng hổng buồn bằng cái bữa ra chợ hay tin xạp bông đã sang lại cho bà bán bún chả. Xạp bông thì còn dòm cầm hơi rồi thấy mình quí phái hẳn lên, chớ xạp bún chả thì trần tục quá, mà ra đứng xớ rớ ngó không cũng kỳ !

Bây giờ thì tui đang ở ngoại quốc. Tui ra ngoại quốc sống đã lâu mà in hình chưa hề nhớ cảnh nhớ nhà. Tui bận lu bù hổng rảnh nên rồi ba cái đó tui kỵ vì nó tốn kém năng lượng lãnh nhách. Tui đang mắc chăm chỉ hướng về tương lai. Vậy rồi thinh không cũng tại ông Hiệp mà bữa nay tui ngồi xuống viết về quê cũ. Có thiệt là tui nhớ nhà không vậy cà ? Tui ngờ là không. Quê cũ nó hổng phải là của mình nữa rồi. Hổng phải tui nói đâu nha ông Hiệp, ông già tui nói đó. Mỗi năm ông mỗi về, thời gian ông ở lại rút ngắn từ từ, hồi đầu 6 tháng, rồi 5 tháng rồi 4 tháng ... lần cuối thì ông đổi vé máy bay và trở qua một tháng sau. Về quê hương mà như lạc tinh cầu. Ngó chừng ông kỳ vọng quá nhiều ở quê hương chăng nên rồi ông thất vọng ? Hay vì ông già rồi nên lẩm cẩm hổng chừng ?...
Ôi, cố hương nan khứ hựu nan qui ! ...



Người gửi: Mme Ngo
Người đăng: Tí Lười
Người sửa: TVMT;

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
tuyet_ngo
Gold Member
*****
Offline



Posts: 912
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #14 - 09. Jan 2008 , 21:44
 
CHỐNG AI? AI CHỐNG? BÂY GIỜ CHỐNG AI? (cùng với tâm sự người Assyrian)

Mai Ly
Tâm Thức Việt Nam
January 8, 2008


Trong không khí sôi sục của những cuộc biểu tình đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa, tôi thật hoang mang. Chống ai? Để đạt được điều gì? Và trong khi chống đối thì ai sẽ chống người chống đối? Rồi sau đó chuyện gì sẽ xẩy đến cho mọi phía liên quan trong cuộc chiến này ?

Cách đây hai tháng, trong một buổi hội thảo bỏ túi về các nền văn minh của các sắc dân tại Úc, vào giờ giải lao, một cô bạn người Assyrian đã cùng tôi ngắm nghía bản đồ thế giới. Cô buồn bã tâm sự như thể tiếp tục cuộc hội thảo với cá nhân tôi mà thôi: “Chị thấy không, trên bản đồ thế giới, không có nước của người Assyrians chúng tôi. Chúng tôi đã bị mất nước từ nhiều thế kỷ nay và hiện nay chúng tôi sống rải rác khắp nơi trên thế giới, tập trung nhiều nhất ở vùng Trung Đông như Iraq, Iran, Syria v.v... Chúng tôi là người theo Thiên Chúa Giáo lạc loài trong khối người Hồi Giáo. Văn hóa chúng tôi đã lừng lẫy một thời với Babylon, Nineveh, và những chứng tích lịch sử trong Kinh Thánh, phần Cựu Ước, cho đến thời Chúa Giêsu giáng trần. Nước chúng tôi nằm tại một phần trong nước Iraq bây giờ. Nhưng, hiện nay chúng tôi không có một tấc đất nào thuộc về người Assyrian chúng tôi nữa.

Nghe qua bài nói chuyện của chị về nước Việt Nam, tôi khâm phục dân tộc Việt Nam, thật nhỏ bé bên cạnh nước Trung Cộng khổng lồ, mà sao các bạn duy trì được mảnh đất ấy cho đến ngày nay.

Nhưng mà, với cái đà bành trướng của Trung Cộng hiện nay, coi chừng họ chiếm nước chị đấy. Thương cho dân chị trong nước, họ không làm gì nổi đâu. Tôi đã sống ở Iraq dưới thể chế độc tài của Saddam Hussein, nó tàn ác và tham nhũng, hại dân hại nước y như CSVN, nên tôi rất hiểu dân tộc chị. Trong nước, người dân bị bó tay, đàn áp, như người Assyrian ở Iraq. Ngoài này các bạn phải giúp cứu họ khỏi tay độc tài để còn giữ gìn đất nước các bạn trước hiểm họa bành trướng của Trung Cộng. Đừng để con cháu các bạn không có đất sống như chúng tôi bây giờ. Đau đớn lắm. Và đó sẽ là do lỗi của người Việt hiện nay tại hải ngoại đã quá thờ ơ trước vận mạng đất nước. Hãy làm gì đi khi bạn còn có thể làm được. Since you can still do something, do it!”


Cuộc đối thoại cách hai tháng luôn âm ỉ trong tôi. Cho dù tôi cũng từng hiểu như vậy trước khi cô bạn tâm sự. Nhưng, một người bạn ngoại quốc, mà dân tộc cũng bi đát như dân tộc mình, lại tỏ lòng thương mến, lo lắng cho dân tộc mình, thì cái đau, cái thương cho dân tộc càng mạnh hơn.

Nỗi đau đớn này lại càng bộc phát mạnh mẽ từ vài tuần qua, khi theo dõi những diễn biến về Hoàng Sa và Trường Sa.

Đúng, Trung Cộng luôn hăm he xâm chiếm Việt Nam, một dải đất nhỏ xíu ở miền nam Trung Cộng. Đó là một sự thật hiển nhiên từ ngàn xưa. Mộng bá chủ hoàn cầu của Trung Cộng còn lan ra cả Âu Châu với những trận chiến trên dòng sông Rhein bến Đức nữa kìa. Và ngay cả hiện tại, Trung Cộng vẫn tiếp tục mộng bành trướng qua ngả kinh tế. Điều này quá hiển nhiên. Cả thế giới đều thấy.

Đúng, dân Việt Nam oai hùng đã giữ vững được dải đất của cha ông.  Lịch sử Việt Nam từ ngàn xưa đã ghi biết bao chiến công hiển hách từ Hai Bà Trưng đến Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung v.v... Điều này cũng quá hiển nhiên.

Đặc biệt, riêng đối với Hoàng Sa và Trường Sa thì hải quân VNCH đã đổ máu đào để bảo vệ vào năm 1974. Con dân Việt Nam tại miền Nam Việt Nam trong thời chiến tranh chống cộng sản, đích thật là con cháu dòng dõi hiển hách trong sứ mạng giữ gìn tấc đất tấc vàng của dân tộc Việt Nam, của tổ tiên cha ông để lại.

NHƯNG, NHƯNG, NHƯNG.......


Tiếc thay, một nhóm người cũng mang dòng máu oai hùng đó đã đi ngược lại kỳ vọng của cha ông.

Ngày 14.9.1958, CSVN đã ký công hàm xác nhận chủ quyền của Trung Cộng tại Hoàng Sa và Trường Sa. Một sự công nhận có nghĩa là một sự dâng hiến, trao tặng. Người ký là Phạm Văn Đồng, người chủ xướng là Hổ Chí Minh. Người nhận là Chu Ân Lai.

Hồ Chí Minh nghĩ sao mà lại xác nhận chủ quyền của Trung Cộng vậy? Chỉ có thể cắt nghĩa như sau:

-        Trong cuộc chiến chống miền Nam, Việt Nam Cộng Hòa (1954-75), phần đất này thuộc Việt Nam Cộng Hòa vì ở dưới vĩ tuyến 17. Cứ tưởng tượng như hai miền Nam bắc là hai anh em trong nhà Việt Nam. Bắc cho hàng xóm Trung Cộng cái phần của Nam thì cũng chỉ là cho cái mà bắc không có, thì, Bắc có mất mát gì đâu? Nghĩa là: Hፊ?? Chí Minh đã vô tâm, vô tình đối với tài sản của tổ tiên. Hồ Chí Minh chỉ một mực muốn tiếp tay với cộng sản quốc tế để bành trướng chủ nghĩa cộng sản tại vùng Đông Nam Á mà thôi. Tổ tiên Việt Nam, đất đai tổ quốc? Họ Hồ chẳng quan tâm. Vậy là kể từ ngày ấy, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Cộng.

Kể từ ngày ấy, dânViệt Nam đã mất hai quần đảo đang có nhiều triển vọng phát triển về dầu hỏa, một tiềm năng không thể đo lường được.

Đọc đến đây, người viết mong rằng, ai còn mảy may chút ít cảm tình với Hồ Chí Minh, nhất là người dân trong nước (bị bịt mắt trước sự thật về họ Hồ), và những bạn trẻ hay những người “thờ ơ” ở nước ngoài (vì quá bận rộn với chuyện học hành hoặc công ăn việc làm), chắc phải nhận ra rằng: Ồ, vậy là Hồ Chí Minh đã bán nước, CSVN đã bán nước. Đích thật CSVN đã và đang làm hại dân tộc Việt Nam, phản bội cha ông, phản bội tổ quốc.

CSVN hiện nay biện minh hành động bán nước này là (nguyên văn): "Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn bó của Trung Cộng, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng hai quần đảo nói trên."

Câu nguỵ biện này thật trơ trẽn, bởi vì vào thời điểm 1958, người Mỹ đâu đã tham gia cuộc chiến Việt Nam. Thời điểm đó chỉ có quân Bắc Việt xâm lấn miền Nam, dưới chiêu bài Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đánh lừa thế giới rằng chính người miền Nam đứng lên đòi “giải phóng” miền Nam.


Việc bán nước lần này (tức dâng hiến Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Cộng), một số thành phần CSVN vẫn còn chối là: công hàm của Phạm Văn Đồng  không giá trị, và chỉ do Trung Cộng đưa ra là bằng chứng để chính thức thiết lập nến hành chánh trên Hoàng Sa và Trường Sa mà thôi. CSVN nói là để nói, chứ chạy tội làm sao được bây giờ? Dù là Trung Cộng đã “nhận của từ kẻ cắp” thì “của” này cũng đã thuộc về Trung Cộng và CSVN dư biết điều đó. Vả lại, trong vài tuần nay, có thấy một nhân vật của đảng CSVN lên tiếng hay có hành động nào để đòi lại đâu.

Thế giới có can thiệp để đòi “của” này từ Trung Cộng thì cũng không đủ cơ sở. Một cuộc đối thoại giản dị sẽ là:

-         Quốc tế: Trung Cộng ơi, anh đã xâm chiếm lãnh thổ của Việt Nam, xin anh vui lòng trả lại.

-         Trung Cộng: Tôi đâu có xâm chiếm. Việt Nam cho tôi mà. Bằng chứng rành rành đây này (TC đưa công hàm của Hồ Chí Minh do Phạm Văn Đồng ký) !

-         Quốc tế: Cái này là do Bắc Việt ký, mà Hoàng Sa và Trường Sa thuộc  Nam Việt, nên bản ký này không có giá trị. Hồi năm 1958, anh bạn Trung Cộng đã nhận “món quà” từ kẻ cướp rối anh ơi. Trả cho Việt Nam đi!

-         Trung Cộng: Ủa mà trả cho VN thì tôi lại trả cho thằng cướp à? Vì bây giờ Bắc Việt làm chủ đất nước mà. Tôi trả cho thằng cướp thì vô lý quá. Nó đã cho tôi rồi thì tôi giữ, dù là của thằng cướp.

-         Quốc Tế: Vậy thì khi thằng cướp bị dẹp đi, khi Việt Nam có một chính phủ của dân Việt Nam, chính thức được toàn dân công nhận thì anh có trả không?

-         Trung Cộng: Lúc đó tính sau. Nhưng bây giờ thì dứt khoát không tính toán gì hết. Vì tôi không trả thằng cướp.

-         Quốc Tế: Trả thằng cướp thì chúng tôi cũng chẳng giúp được. Khi nào có một thể chế do dân bầu, theo ý dân, trong tự do dân chủ thì quốc tế chúng tôi sẽ đòi lại giải đất này của anh (Trung Cộng) để mà giao lại cho họ (Việt Nam). Thế mới là công lý, công pháp quốc tế là thế đấy, anh (Trung Cộng) không thể giữ Hoàng Sa và Trường Sa khi Việt Nam có một chính phủ do dân bầu ra đâu nhé. Wait and see!!!

Vậy thì, trong tình thế hiện này, khi Hoàng Sa và Trường Sa được CSVN tặng cho Trung Cộng, nguời dân Việt trong và ngoài nước, mang danh dòng máu oai hùng của cha ông, sẽ phải chống ai? Xin trả lời ngay:

Trước hết phải chống CSVN bán nước.


Ai sẽ chống chúng ta, những người đang chống CSVN bán nước?

Đầu tiên hết chính là đảng CSVN. Họ sẽ bảo là: dân Việt Nam phải đoàn kết trước hiểm họa xâm lấn của Trung Cộng. Bây giờ không phải là lúc chia rẽ. Cờ đỏ, cờ vàng, đừng đối chọi nhau nữa, cùng là dân Việt, máu đỏ da vàng cả mà !!! Cứ giành lại được đất đi rồi anh em trong nhà tính sau !!!

Xin thưa : Một người thờ ơ nhất trong toàn khối dân tộc Việt Nam, trong và ngoài nước, nếu không phải là một cán bộ cộng sản (còn u mê và còn bám víu vào chế độ để mưu cầu tư lợi cho cá nhân và gia đình mình) đều thấy: đoàn kết với kẻ cướp thì dù có lấy lại được của thì rồi của đó cũng sẽ mất sau này. Bằng chứng là sau khi Phạm Văn Đồng lén lút ký dâng hiến Hoàng Sa Trường Sa từ thập niên 50, CSVN vẫn tiếp tục bán nước, bán Ải Nam Quan, bán Thác Bản Giốc. Và còn bao nhiêu văn bản ký kết bán nước mà hiện nay người dân vẫn chưa được biết.

Chẳng lẽ cứ mỗi lần một bản ký lén lút bị « xì » ra, chẳng lẽ cứ mỗi lፊ??n Trung Cộng tuyến bố lập cơ cấu hành chánh trên một giải đất mà CSVN đã bán lén lút (như trường hợp Hoàng Sa Trường Sa), thì người dân Việt Nam trong và ngoài nước lại phải rầm rộ oai oái đòi lại sao? Mà có đòi được không khí chính CSVN, đại diện cho dân, đã chính thức, nhưng lén lút người dân, đem tặng cho Trung Cộng rồi ? CSVN coi thường người dân, điển hình là họ đã thờ ơ khi Trung Cộng bắn giết ngư phủ Việt Nam vì các ngư phủ này đã đánh cá trên phần biển « của Trung Cộng » mà họ không biết.

Kẻ chống những người chống CSVN (thay vì chống Trung Cộng )  trong vụ Hoàng Sa Trường Sa, còn là những bàn tay nối dài của CSVN tại hải ngoại. Điển hình là những kẻ chủ trương cờ đỏ cờ vàng đề huề sánh vai nhau, hoặc là chủ trương bỏ hết cờ đi, có đi biểu tình thì chỉ đi tay không, cùng lắm là cầm các biểu ngữ chống Trung Cộng, chứ chẳng cần các biểu ngữ chống CSVN, vì sẽ lại …..gây chia rẽ !!!!

Nhóm này khuyến khích đồng bào hải ngoại chỉ biểu tình trước các toà đại sứ, các tòa lãnh sự Trung Cộng, đừng đến các toà đại sứ lãnh sự CSVN, vì sẽ lại…. gây chia rẽ !!!!. Họ đang ra riết kêu gọi chống Trung Cộng, nhưng không muốn « mở mắt » cho người dân về việc toàn dân Việt Nam bị CSVN lừa dối, bởi vì, chính họ cũng chưa mở mắt để thấy cái tội tầy trời bán nước hại dân của CSVN, một cái tội trên muôn vàn tội ác của CSVN đối với người dân Việt cả hai miền Nam Bắc.

Lại nữa, khi người dân Việt chỉ chống Trung Cộng mà không chống CSVN thì kẻ hưởng lợi nhất là cũng chính là CSVN !!!

Chả gì, làm như vậy thì cái tội bán nước « được » che lấp đi. Người dân oán Trung Cộng chứ đâu có oán CSVN ! Vậy thì CSVN vẫn ngang nhiên đứng vững trên ngôi cai trị đại diện cho người dân. Mọi sự thương thảo sẽ phải thực hiện với CSVN, đại diện cho người dân Việt Nam !!


Và kẻ được hưởng kế tiếp lại chính là Trung Cộng vì, khi «thương thảo » với đàn em nhu nhược, kẻ đã cho mình một cách lén lút thì sau này, chính kẻ ấy (CSVN) cũng sẽ lén lút cho tiếp những giải đất khác !!! Đó là chưa nói đến những công hàm mà CSVN đã từng ký lén lút (nhưng chính thức) mà dân Việt Nam chưa được biết.

Nhìn sắc tộc bạn, những người Assyrian, đang sống tại Úc, tại Hoa Kỳ, rải rác khắp nơi trên thế giới như những người tỵ nạn, chủ yếu từ Iraq, người Việt đang cảm thấy trùng lòng. Còn người Assyrian ở Iraq, mặc dù sống trên dải đất của cha ông, cũng không được sống như là người Assyrian. Họ hoàn toàn bị trị và cô lập. Thế hệ này qua thế hệ kia, họ phải nói tiếng Ả Rập và phải chấp nhận văn hóa Ả Rập. Họ vẫn còn duy trì nòi giống được là do tôn giáo (Assyrian Catholic - đạo Thiên Chúa giữa vùng Hồi Giáo) và bằng ngôn ngữ riêng của họ, tiếng Assyrian, mà con em họ ngày nay may ra chỉ còn nói chứ đa số không biết đọc hay viết.  Người Assyrian đã không còn một đất nước, không còn một quốc gia của họ, một quốc gia đã từng mang tên Assyria, lừng danh trong Cựu Ước, một quốc gia đã bị mất vì những sự xâm chiếm của các nước chung quanh (2400BC-612BC). Ngoài ra họ còn có một lá cờ riêng, màu trắng với hai dòng sông, sông Tigris và sông Euphrate, ôm gọn dải đất của nước Assyria ngày xưa, mà nay không còn nữa. Họ đau buồn, nhưng không oán cha ông, vì nước họ bị các ngoại bang hùng mạnh xâm chiếm, tương tự như bao nhiêu nước khác trên thế giới không còn hiện hữu nữa, trong đó có nước Chàm, xưa ở vùng mà nay là miền Trung Việt Nam.

Những người Assyrian hiện nay, tỵ nạn khắp năm châu, đang mòn mỏi chờ đợi ngày mà một chính phủ tại Iraq « khoan hồng » dành cho họ một dải đất nhỏ tự trị. Từ trên 20 thế kỷ nay họ chỉ mong thế thôi, một niềm mong mỏi khá vô vọng. Trên nét mặt và tâm tư của người Assyrian hiện nay luôn phảng phất nỗi u buồn của kẻ mất nước.

Còn đối với người Việt Nam máu đỏ da vàng, than ôi, kẻ bán nước ngày nay lại  chính là người cùng mang một giòng máu đỏ da vàng. Dù Trung Cộng có là kẻ luôn ôm mộng xâm chiếm xưa nay, nhưng lần này họ đã không tốn một giọt máu để có được Hoàng Sa và Trường Sa. Họ được CSVN dâng tặng mà.

Người Việt Nam còn đất nước, còn quê hương, còn tiếng nói, còn văn hóa. Tại sao lại phải nhìn từng mảnh đất bị dâng hiến cho quân Tàu ? Tại sao lại phải để cho một tập đoàn bán nước tiếp tục cai trị để rồi chúng sẽ còn tiếp tục bán nước nữa ?

Phải mau mắn dẹp ngay kẻ bán nước.


Cho dù chúng ta chưa thể giành ngay những dải đất đã mất, đang mất, và sẽ mất do CSVN lén lút ký tặng cho Trung Cộng, nhưng sau này, với một chính quyền hợp pháp, hợp lý, không bị áp đặt trên người dân như CSVN hiện nay, thì việc lấy lại những giải đất đã mất là một chuyện có thể thực hiện được. Quốc tế sẽ hỗ trợ,  người Việt trong và ngoài nước sẽ cùng nhau lấy lại được.

Vậy thì, điều đầu tiên trong cuộc chiến Hoàng Sa Trưòng Sa là phải giành ngay chính quyền cho người dân để chính quyền này sẽ lo cho dân. Chỉ một chính quyền dân chủ pháp trị mới có thể bảo đảm rằng những tội ác bán nước, tội ác tham nhũng (lên tới bạc tỷ đô la Mỹ của các chức sắc đang cầm quyền tại VN) sẽ không còn, vì chính quyền này phải biết lo cho dân thì mới tồn tại được qua các cuộc đầu phiếu.

Lúc này hơn lúc nào hết, một cuộc TRƯNG CẦU DÂN Ý để đưa đến một chính quyền cho dân, vì dân, là một điều CẤP BÁCH.

CSVN nếu muốn ra đi trong yên ổn, hãy sớm thực hiện điều này.

Ngoài 80 triệu dân Việt Nam trong nước, còn có 3 triệu dân Việt Nam hải ngoại luôn hướng về quê hương, mong ước xây dựng đất nước trong tự do dân chủ, ấm no, phú cường. Đây là một thực tế rất khả dĩ, dư sức thực hiện, một điều trong tầm tay của người dân Việt Nam trong và ngoài nước,

Vào thời điểm đầu thế kỷ 21 này NẾU,(MỘT CHỮ NẾU TO TƯỚNG CẦN ĐÁNH ĐỘNG LƯƠNG TÂM NGƯỜI CSVN tin rằng vì, là con người, họ vẫn phải còn lương tâm !!!), nếu CSVN chấp nhận trao quyền điều hành đất nước cho những người khá hơn, giản dị nhất là qua một cuộc trưng cầu dân ý.


Toàn dân Việt Nam không muốn thấy con cháu lạc loài như người Assyrian hiện nay, đau đớn lắm.



January 8, 2008
Back to top
« Last Edit: 10. Jan 2008 , 05:43 by tuyet_ngo »  
 
IP Logged
 
DoQuan
Gold Member
*****
Offline


Boycott Red China

Posts: 681
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #15 - 14. Jan 2008 , 04:39
 
Chào chị Tuyết Ngô,
  Cám ơn chị đã post bài viết của tác giả Mai Ly đọc cũng khá ngậm ngùi . Tuy nhiên những điều tác giả hoang mang về những cuộc biểu tình là không đúng .

Những cuộc biểu tình không hẳn là sẽ thành công về việc chống ai mà biểu lộ cho những người dân trên thế giới biết về hành động không đúng của Trung Cộng và của CSVS .  Khi thấy những cuộc biểu tình lớn mạnh càng nhiều càng tốt thì ít nhất CSVN và TC cũng sẽ e dè và giảm thiểu các việc xâm lấn hay bán nước tiếp tục . Cũng chưa chắc là TC sẽ không xâm lăng nước VN tuy nhiên các phản ứng của khối người Việt yêu nước tại hải ngoại và trong nước sẽ ít nhiều làm mưu đồ của họ chậm lại trước khi khối đoàn kết của dân tộc tìm cách lật đổ và giải tán chính quyền CSVN .

Viêc kêu gọi lương tâm của những kẻ vô thần CSVN là những việc tầm phào vô ích. Không bao giờ đảng CSVN cầm đầu bời những người phản bội quê hương lại triệu tập trưng cầu dân ý để giải tán đảng CS hay để để dân chủ tự do.  Nếu có lương tâm và nhân đạo họ đã không đấu tố và giết hàng ngàn người dân như những cuộc thảm sát tại Huế v.v.  Nếu có lương tâm và nhân đạo họ đã không nhốt các sĩ quan QLVN CS, viên chức chính quyền VNCH trong các trại tù cải tạo và hàng người đã chết vì sự ám sát, đói khát, lạnh lẽo v.v.v

Nhưng việc kêu gọi những người lính bộ đội từ bỏ hàng ngủ đứng về phía người dân thì rất có thể nhưng làm thế nào những người lính này có thể hiểu được tình hình thế giới hay những việc làm phản bội dân tộc và quê hương của đảng CSVN . Chúng ta hy vọng những người lính bộ đội này có thể hiểu biết nếu gia đình của họ hiểu biết ....

Lịch sử cho ta thấy Chỉ có thể lật đổ bạo quyền CSVN bằng vũ lực hay bằng chính máu đổ của người dân trong nước vùng lên .  Việc dùng vũ lực là chuyện khó có thể xảy ra khi Mỹ đã bỏ cuộc từ năm 1975 . Người dân trong nước thì vẫn có chống đối nhưng khó có thể tạo thành một lực lượng nổi lên cùng một lúc vì chính quyền CS luôn luôn tìm cách tiêu diệt hay chận đứng những tổ chức từ trong trứng nước ...

Chúng ta chỉ còn hy vọng rất mong manh là qua nguồn lớn mạnh từ internet thì tất cả người dân cùng những người lính bộ đội sẽ từ bỏ hàng ngũ và đứng về phía người dân cùng loạt đứng lên như thế tức nước vỡ bờ khi thấy hiểm họa mất nước trước khi quá muộn.  Đây là điều chính quyền CS rất sợ nên họ đang thành lập các cơ quan tìm cách ngăn cản và khóa kín các blogs, website hoặc các diễn đàn không có lợi cho họ ... từ internet VN.

Tất cả những hành động biểu tình, phản đối Trung Cộng và CSVN dù tiêu cực hay tích cực trong giai đoạn này rất cần thiết và có tầm ảnh hưởng rất mạnh . Các cuộc biểu tình của cộng đồng người Việt hải ngoại tại Mỹ, Úc, Hòa Lan v.v. làm cho khí thế và tinh thần của chúng ta càng tăng và nuôi dưỡng hào khí và tình thần cho ngày quang phục quê hương .

Xin có một đôi điều nhận xét, phê bình và bổ túc bài tham luận của tác giả Mai Ly .

ĐQ
Back to top
« Last Edit: 14. Jan 2008 , 04:55 by DoQuan »  

1) Không mua hàng Made in China&&2) Không du lịch hay travel bằng hàng không China&&3) Không giao dịch và mua bán với China
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #16 - 20. Jan 2008 , 03:43
 

Quả thực là ngu ngơ, khi nghỉ rằng người Cộng Sãn VN còn có một lương tâm ,
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
tuyet_ngo
Gold Member
*****
Offline



Posts: 912
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #17 - 02. May 2008 , 04:23
 
Cheesy Chào hai anh Đỗ Quân & Lam Sơn,

Lời đầu TN thành thật xin 2 anh tha cho tội "trễ nại"  Embarrassed  mãi đến hôm nay TN vào đây định post bài mới thì mới biết 2 anh đã thương tình chỉ bảo, vạch rõ những xảo trá của CSVN để TN mở rộng tầm mắt nữ nhi  Roll Eyes Roll Eyes. Vô cùng cảm kích & cám ơn  2 anh đã bỏ thì giờ chia xẻ vui buồn cùng với chị em trong g/đ LVD  Cheesy Cheesy

TN
Back to top
 
 
IP Logged
 
tuyet_ngo
Gold Member
*****
Offline



Posts: 912
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #18 - 02. May 2008 , 04:36
 
Trích từ Việt Vùng Vịnh --Thứ Sáu, ngày 2 tháng 5 năm 2008

Những Trang Chiến Sử Bị Xóa: Việt Nam Quên Lãng Những Người Đã Mất •
Phạm Trần


...

Những Trang Chiến Sử Bị Xóa: Việt Nam Quên Lãng Những Người Đã Mất


• SOURCE: A war story's missing page: Vietnam forgets those who lost The New York Times, by Seth Mydans


THỦ ĐỨC, Việt Nam - Đôi mắt của hạ sĩ Lê Văn Nào bị đục thủng trên bức chân dung bằng sứ trong nghĩa trang quân đội bị bỏ hoang của miền Nam.

Những con bò lang thang gặm cỏ, nơi mà những mẫu đất với những tấm bia nghiêng ngả, nhiều tấm bị vỡ vụn và bị phá nát, nhiều tấm bị bật tung lên nằm bên cạnh những ngôi mộ trống.

Bên kia xa lộ là ngôi mộ được chăm sóc chu đáo của đại úy Nguyễn Xuân Trường, cũng chết vào năm 1969 vào lúc cao điểm của cuộc chiến Việt Nam. Ông là một trong muôn ngàn người lính của phe Cộng Sản chiến thắng được chôn trong chỗ gọi là "nghĩa trang tử sĩ," bia mộ của họ được vây quanh bằng những lối đi lát sỏi và những thảm hoa.

Trong những ngày lễ chính thức, những buổi lễ trang trọng được tổ chức để vinh danh những chiến sĩ Cộng Sản đã ngã xuống. Nhưng chỉ 15 cây số về phía nam, nhiều người ở thành phố Sài Gòn, cũng không hề biết rằng có những ngôi mộ bỏ hoang ngay bên cạnh con lộ.

Nam Việt Nam, kẻ chiến bại, coi như xoá tên khỏi lịch sử. Thực vậy, họ đã bị bỏ quên bởi nhà cầm quyền Việt Nam và chính phủ Hoa Kỳ, đang xích lại gần nhau để hòa giải.

Kẻ chiến thắng miền Bắc đã không có một cố gắng nhỏ nhoi nào để chấp nhận người anh em vốn từng là kẻ thù. Những thế hệ già (của miền Bắc) nhớ lại họ một cách hẹp hòi, khác hẳn với sự hòa thuận với người Mỹ.

"Tôi nghĩ là bọn nó chạy sang Mỹ cả rồi." một cựu bộ đội Cộng Sản nói, phản ánh lại thái độ lạnh lùng của nhiều người miền Bắc. "Ngay cả những người trong trại cải tạo cũng đã đi rồi. Họ đi hết rồi."

Sự cố tình làm ngơ này là một chỉ dấu cho thấy vẫn còn những xung khắc giữa Nam và Bắc Việt Nam mặc dầu nhà cầm quyền cố gắng nhiều để thống nhất kinh tế và chính trị.

Giữa những người miền Bắc, vẫn còn lẩn khuất sự nghi ngờ rằng họ vẫn không chinh phục được trái tim và khối óc của tất cả mọi người ở miền Nam. Giữa những người lớn tuổi ở miền Nam, sự uất ức vẫn còn đọng lại về những cuộc đời đã mất, những ngôi nhà bị tịch thu, nghề nghiệp đổ vỡ và hy vọng tan tành.

Những năm đầu của cái được gọi là sự thống nhất đất nước là những năm cùng cực cho những người sống ở miền Nam thảm bại.

Hơn một triệu người rời bỏ đất nước sau khi cuộc chiến kết thúc. Khoảng 400.000 bị giam cầm trong các trại để "cải tạo" - một số ngắn ngày, nhưng có người đến 17 năm dài. Khoảng 1.5 triệu người bị cưỡng bách đi " kinh tế mới", những vùng đất cằn cỗi, thêm tan nát bởi đói và nghèo.

Vết thương hậu chiến

Một cựu chiến binh của miền Nam, lòng vẫn còn đầy nỗi đắng cay, được hỏi bằng cách nào những người lính già như ông đã chấp nhận sự bất công như vậy.

"Bởi vì chúng tôi đã bại trận." Người cựu chiến binh nói, người không những thua một cuộc chiến mà cả sự nghiệp, địa vị xã hội cũng tan biến theo "Chúng tôi chấp nhận tất cả. Chúng tôi không được quyền nói năng gì. Đã bao năm rồi. Thời gian trôi qua, rồi chúng tôi cũng quên đi."

Tuy nhiên đây chỉ là nỗi uất ức của thế hệ già. Cuộc chiến đối với thế hệ sau 1975, hơn một nửa dân số, không để lại một dấu vết nào trong ký ức.

Đối với thế hệ trẻ, có những đam mê không phân biệt Bắc Nam. Đó là những liên hoan cuồng nhiệt , đôi khi vượt khỏi tầm kiểm soát của công an, mỗi khi đội tuyển quốc gia thắng được một trận với nước ngoài.

Trong mười năm đầu tiên sau ngày thống nhất, theo các học giả, là thời kỳ "Bắc hoá" miền Nam, khi mà tài sản và ruộng đất bị tịch thu bởi nhà nước và các cán bộ miền Bắc nắm giữ hầu hết các chức vụ lãnh đạo.

Sự đổi mới năm 1986, làm cho mọi người bắt đầu gọi thời kỳ này là "Nam hóa" của Việt Nam.

Ngày nay, miền Nam là đầu tàu kinh tế của toàn quốc, sản xuất ra hai phần ba tài sản, và đóng góp cho nhà cầm quyền trung ương ở Hà Nội đến 90% tổng số tiền thuế.

Nhưng năm tháng trôi qua, như người cựu chiến binh miền Nam nói, "Ký ức rồi cũng theo gió bay đi."

Ông có một người con 15 tuổi, thích chơi đá banh và bạn bè hơn là để tâm đến những xung đột của thế hệ của bố mình.

"Tuổi trẻ bây giờ, chúng không biết gì về chúng tôi cả," người cựu binh nói, "Chúng không biết gì về quá khứ của chúng tôi. Chúng tôi cũng không nói chúng tôi là ai. Thà không biết gì thì tốt cho chúng hơn."

Một ngày nào đó, ông nói, may ra ông sẽ kể cho con ông nghe chuyện đời mình, cũng như chuyện của người anh của ông, cũng thích bóng đá và đã hy sinh như một chiến sĩ cho miền Nam năm 1974.

Ở trên đỉnh đồi nhìn xuống nghĩa trang bị bỏ hoang của miền Nam có một đền thờ cỏ dại mọc hoang tàn, những cơn mưa hè và rêu phong gần như bào mòn những chữ khắc oai hùng "Vị quốc vong thân."

Những chân hương cắm ngổn ngang trên mặt đất. Trên một tấm đá khắc kỷ niệm một người nào đó dùng mực xanh ghi lên vài chữ "thành kính."

Trong những trưa hè oi ả, một thanh niên tên là Nguyễn Minh Quang thích ngồi nghỉ dưới bóng mát của ngôi đền. Anh là người lao động cho những xưởng làm gạch nhỏ, họ đào những tảng đất vàng chung quanh các ngôi mộ để nung gạch. Anh Quang chỉ mới 24. Anh nói chẳng bao giờ anh để ý đến chuyện lịch sử của ngôi đền mà anh đang trú nắng hoặc những ngôi mộ chung quanh. Nhưng anh bảo thỉnh thoảng cũng có người đến quỳ trước các tấm bia mộ tỏ lòng thành kính.

Một vài người, có lẽ là những người Việt ở bên kia đại dương trở về thăm viếng, đôi khi trả tiền cho những người thợ làm gạch để gìn giữ những ngôi mộ của một người anh hay một người con. Thực ra, người thanh niên nói, cha anh là một thương binh từng là hạ sĩ trong Lực Lượng Đặc Biệt của miền Nam, mỗi năm cũng ghé vào đền vài lần để cầu nguyện.

"Bố tôi thích lên đây thắp hương. Tôi chẳng biết để làm gì," người thanh niên nói. "Tôi thấy bố tôi đến thắp hương. Ông nói với tôi rằng ông đã từng chiến đấu cùng với người Mỹ. Tôi chẳng bao giờ hỏi bố tôi tại sao."


(SOURCE: A war story's missing page: Vietnam forgets those who lost The New York Times, by Seth Mydans).


Back to top
 
 
IP Logged
 
DoQuan
Gold Member
*****
Offline


Boycott Red China

Posts: 681
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #19 - 11. May 2008 , 19:52
 
Người Việt Hải Ngoại  

VI ANH .

Việt Báo Thứ Ba, 5/6/2008, 12:02:00 AM

Chắc người Việt ở Bắc, ở Trung, ở hải ngoại ít ai dè ba triệu người Việt tỵ nạn CS làm được một kỳ tích ít ai ngờ. Người Việt Hải Ngoại hầu như đã hình thành được một Việt Nam Hải Ngoại với niềm tin, hy vọng, và lý tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền sau 33 năm tỵ nạn CS.

Thực vậy, 30-4- 1975 tới 30-4- 2008. 33 năm người Việt với bàn tay trắng ăn nên làm ra, tạo được thế chánh trị ngay trong lòng Tây Phương, ở các nước định cư là những đại siêu cường thế giới. Mạnh và bảnh hơn người Pháp hải ngoại thời Đệ Nhị Thế Chiến nhiều; chỉ chưa có quân đội vì không có chánh phủ lưu vong thôi. Nên 33 năm người Việt tiếp tục cuộc Chiến tranh VN (đấu tranh võ trang  để bảo vệ tư do, dân chủ cho Miền Nam) bằng một cuộc "chiến tranh khác", là đấu tranh chánh trị ở hải ngoại để giành lại tự do, dân chủ, nhân quyền cho đồng bào trong nước. Có thể tự hào một cách chánh đáng, cộng đồng Việt hải ngoại là cộng đồng chống Cộng mạnh, bền nhứt nhứt so với cộng đồng Đại hàn, Cuba, Trung Hoa Quốc Gia.

30- 4- 1975 người Việt hải ngoại thua một trận nhưng đang hành động thắng một cuộc chiến tranh. Chế độ tự thực dân của CS Hà nội còn nghiệt ngã, hà khắc hơn 1000 Bắc thuộc và 100 năm Tây thuộc. Một thứ tự thực dân nghiệt ngã nhứt mà Loài Người đã thấy được trong lịch sử Loài Người.Nhưng người Việt hải ngoại biến đau thương thành hành động kiên tâm, quyết chí, cố gắng vươn lên. Từ bàn tay trắng, ăn nên làm ra, học hành tiến phát. Từ tay không, tiếp tục cuộc chiến tranh khác, đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền. Một quốc tế vận lớn mạnh chưa có tiền lệ trong lịch sử Việt nhưng hữu hiệu vô cùng. Một cuộc chiến tranh bất cân xứng nhưng nhiều triển vọng và thế tất tháng đối với một đối thủ là CS Hà nội với một lực lượng quân sự, an ninh CS thừa sức diệt chủng, có ngân sách trong tay, có lãnh địa để khai thác, có người dân để bóc lột, có bang giao và giao thương với nhiều nước.

Hai mắt giáp công. Chẳng những đấu tranh ở hải ngoại mà người Việt hải ngoại còn vận động, tiếp trợ đồng bào trong nước. Ở hải ngoại dùng lá phiếu, vận động hành lang quyền lực, kiến nghị, biểu tình, và các phương thức sinh hoạt dân chủ khác để quốc tế vận, thúc đẩy các siêu cường áp lực CS Hà nội. Nhập nội chuyển lửa về quê hương, giúp nhân tài vật lực cho phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền. Cuộc chiến đấu của người dân Việt trong ngoài nước có lúc thịnh suy nhưng kiên trì  với niềm tin  như nhà cách mạng lão thành Phan bội Châu mong mỏi, “đời ta không thành thì có con ta, con ta không thành thì có cháu ta, cháu ta không thành thì có chắt ta."

30- 4- 2008, 33 năm sau, tương quan thế lực thay đổi. Cán cân chánh trị nghiêng về phía nhân dân VN. Biểu tượng tự do, dân chủ, nhân quyền của cuộc đấu tranh của người dân Việt được quốc tế chấp nhận và ủng hộ, được trong nước hưởng ứng mạnh và phát triển từ điểm sang diện, từ phẩm sang lượng. Từ năm 2005, "diễn biến hoà bình" của người Việt hải ngoại đã không còn hoà bình nữa. Chỉ trong  3 tháng mà nhân dân đứng lên chống đối Công An, đốt xe, bao đồn, ném đá trên 80 vụ khiến Bộ Công an CS phải ra lịnh cho Công An của 64 tỉnh thành tăng cường đàn áp, đối phó.  Còn các siêu cường trên thế giới, hết Quốc Hội này đến Quốc Hội khác ở Tây Au, Bắc Mỹ  liên tục phê bình, chỉ trích, áp lực ngấm ngầm và công khai chế độ CS Hà Nội. Thất thế của CS Hà Nội trên mặt trận nhân quyền vô phương cứu gỡ trong đoản kỳ cũng như trong trường kỳ.  

Còn CS Hà nội thì tự thân đã rệu rã. Bên ngoài, mất tính đấu tranh, mất tinh thần sáng tạo, bị động trước các thế lực siêu cường, mất đất, mất biển, mất chủ quyền, đi xin xỏ, chiều lụy Mỹ, Trung Cộng. Bên  trong, các thứ bịnh tham nhũng, kỳ thị địa phương, xung đột lập trương thân Tàu, thân Mỹ, suy bì tị hiềm, kèn cựa chức quyền như bịnh ung thư đang trong thời kỳ di căn. Mổ cắt bỏ cũng chết mà không làm cũng chết. Đảng CS chỉ còn nằm chờ chết, dùng Nhà Nưóc để thu vén cuối đời, được chừng nào hay chừng ấy.

Nói tới thì cũng phải nói lui. Trong hàng ngũ ngưòi Việt hải ngoại cũng có một số người bi quan vì thiếu kiên trì, thấy sao đấu tranh hoài mà không đi đến đâu, CS Hà Nội chưa sụp đổ. Có người ngưng đấu tranh, tìm cách "tránh đâu" đó để hưởng thụ cuối đời, ôm mối căm hơn trong củi sắt, ngặm đắng nuốt cay, lánh mắt đi về nước kiếm cỏ non, bò lạc hay kiếm một chút tiền cò để hưởng thụ cuối đời.

Nhưng đại đa số nắm vững qui luật đấu tranh chánh trị và sự vận hành của lịch sử. Tranh đấu có lúc thịnh suy nhưng khi đối phương không diệt được trong ngắn tầm thì phong trào đấu tranh sẽ trưởng thành và thắng lợi trên tro tàn của chế độ trong dài hạn. Con đường đấu tranh chánh trị ít khi là con đường thẳng. Lắm khi nó đi vòng vèo, khúc khuỷu,  quanh co, lên dốc xuống đèo. 33 năm ngoảnh nhìn lại mời thấy đã đi quá xa, xa hơn ngưòi đã đi dự tưởng. Có lúc nó hẹp lại tưởng đâu bế tắc khi CS cai trị dân bằng bao tử, siết chặt người dân bằng ăn gạo sổ, ở hộ khẩu và khi  tài phiệt đa quốc gia các nước giàu xem Đô la trọng hơn nhân quyền.

Trên đường xa 33 năm đó, một tiến bộ lồng lộng, không thể không thấy được. Dù CS hay Quốc gia, dù lạc quan hay bi quan, dù né tránh hay tham gia chánh trị công dân -  cũng thấy thế lực của CS đã bị xói mòn, xói mòn như con dao bữa cau ăn trầu xài lâu khuyết lưỡi sắp gãy. Con người dân Việt đã vượt khỏi nỗi sợ CS tưởng đâu không rời được. Nhưng dân Việt đã tiến lên từ trạng thái sợ, ríu ríu nghe theo, qua giai đoạn cãi vã, chống đối bằng miệng, chống đối bằng hành động, đấu lý vơi công an, sử gụng gậy hiến pháp hữu danh vô thực của CS làm gậy ông đập lưng ông, bám thắt lưng địch mà đánh - đã và đang vượt xa trạng thái mà những nhà chánh trị học gọi là bất tuân hành dân sự.
Đó là những thắng lợi lớn nhứt và điều kiện cần và đủ phải có trong các cuộc đấu tranh chánh trị thay đỗi vận mạng quốc gia dân tộc. Tất cả cuộc cách mạng bạo động hay bất bạo động đều phải qua giai đoạn này. Quần chúng phải không sợ thì mới dám đứng lên, nổi dậy, đấu tranh, chiến đấu và lật đổ bạo quyền, theo lời kêu gọi của các lãnh tu, đoàn thể, tổ chức có sức lôi cuốn ( charisma)

Nếu so sánh bối cảnh Việt Nam hiện nay với các nước CS Đông Âu, Liên Xô, hay các chế độ độc tài quân phiệt khác trên thế giới đã bị sụp đổ, thì chế độ CS Hà Nội rệu rã hơn nhiều so với các nước ấy vào thời tiền cách mạnh tự do, dân chủ  của nhân dân. Thế lực đấu tranh có mặt và hoạt động nhiều và đều trên phương diện phẩm lượng cũng như diện địa. Chắc chắn khi nhân dân VN nổi lên lật CS Hà Nội, quốc tế không nước nào binh. Và nhân dân trong nước, kể cả một số lớn đảng viên cũng không binh, huống hồ gì người dân bị trị. Nếu Đảng sử dụng Quân Đội, theo kinh nghiệm cách mạng ở các nước CS Đông Âu và Liên xô, Quân Đội luôn luôn tìm cách  né, tỏ ra trung lập, đợi xem phe nào mạnh, sẽ nghiêng về để tự cứu, chớ không dại gì điều binh khiển tướng ra bắn giết dân trong đó có mẹ chị, anh em, con cháu mình.

Đảng, Nhà Nước CSHà nội trên phương diện chánh tri nhân dân đã trở thành ngoài không chằng, trong không néo, chỉ cần một cơn giông là sụp đổ. Nhưng lực lượng Quốc Gia nào sẽ góp gió làm bão đây và chừng nào tung cơn bão đó ra, là cả một tính toán, cả một vận dụng đúng thời cơ, địa lợi, nhân hòa. Nhưng chắc chắn cơn giông bão làm sụp đổ chế độ CS  Hà Nội độc tài toàn trị phải có và phải đến vì mây đã kết, gió đã tụ, áp lực không khí đang xoáy theo vòng quay của Trái Dất rồi. Không ai có thể cản được.

Back to top
« Last Edit: 11. May 2008 , 19:54 by DoQuan »  

1) Không mua hàng Made in China&&2) Không du lịch hay travel bằng hàng không China&&3) Không giao dịch và mua bán với China
 
IP Logged
 
le_lam_son
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 3
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #20 - 05. Jun 2008 , 14:05
 
Xin Thân chào các bạn trên diển đàn , Sau thời gian dài vắng tiếng , vì đa đoan, nên khi trở lại vô tình bị diển đàn tẩy chay ( trích lời chị Đậu Đỏ ) Xin thông báo cùng các bạn,bút danh LAM SON được thay đổi như trên, Nhân đây củng xin cảm ơn chị Đậu Đỏ đã điều chỉnh giúp mình , Xin gửi đến các bạn bài phân tích về chuyện động đất ở tàu vừa qua,

1- TỨ XUYÊN, TRUNG TÂM CỦA NHỮNG CƠN ÐỊA CHẤN:
Tứ Xuyên (Sichuan) là một tỉnh rộng lớn của nước Tàu, nhất là sau năm 1949 được sáp nhập thêm phần đất rộng của nước Tàu , giáp Thiểm Tây, Cam Túc. Phía tây kế Thanh Hải, Tây Tạng, Phía nam giáp Vân Nam, Quy' Châu và phía đông kế hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc.    Theo thống kê của World Atlas năm 2006 cho biết tỉnh Tứ Xuyên có dân số 99.713.310 người, là nơi sinh sống của hằng ngàn bộ lạc khác nhau, trong số này người Hán, Hồi,Miêu, Mông và Tạng chiếm đa số.
Riêng thủ phủ Thành Ðô (Chengdu) dân số 2.499.000 người nhưng thành phố lớn nhất lại Trùng Khánh (Chongquin) có dân số 2.673.170 người.       Ðối với thế giới bên ngoài, từ lâu các tỉnh Cam Túc, Thiểm Tây và Tứ Xuyên được coi là vùng đất cấm xa lạ và chỉ được mở cửa khi có phong trào du lịch chừng 10 năm trở lại. Ðây là vùng đất cổ kính lâu đời của Hán Tộc, với nhiều di tích lịch sử rất hấp dẫn các nhà khảo cổ khắp nơi trên thế giới. Với người Việt gần như hầu hết các thế hệ sau này đều ưa thích pho truyện Tam Quốc Chí diễn nghĩa của La Quán Trung, nói về lịch sử của thời Hán mạt và sự tích Ðào Viên kết nghĩa của các nhân vật Lưu, Quan, Trương.. có liên hệ tới đất  Thục.
Tỉnh Tứ Xuyên hay Ðất Thục có Tam Quốc Thánh Ðịa, nằm về phía nam thủ phủ Thành Ðô, được xây dựng từ hàng ngàn năm trước, do Lý Hùng thuộc nhà Tây Tấn (265-316) thực hiện sau khi Gia Cát Lượng qua đời hơn vài trăm năm, trước khi La Quán Trung viết bộ Tam Quốc Chí. Khu di tích còn tồn tại tới ngày nay có diện tích 37.000 m2, gồm hai khu vực thờ Lưu Bị (Ðền Hán Chiêu Liệt Ðế) phía trước và Ðền Gia Cát Vũ Hầu ở phía sau. Mộ của Lưu Bị chỉ là một mô đất có chu vi 200m đắp cao như một ngọn đồi thấp, nằm giữa khu rừng tùng, bách cao ngất xanh um. Có lẽ nhờ ngôi mộ thật giản dị nên nó đã tồn tại hằng ngàn năm qua một cách bình yên mà không bị bàn tay con người đào xới cướp của như các khu lăng mộ khác của các vua chúa Tàu từ Tần Thủy Hoàng, Hán Cảnh Ðế tới Càn Long, Từ Hy nhà Mãn Thanh. Ðây cũng là cái gương để cho người đời sau noi theo mà sống sao cho đáng kiếp con người ‘Hãy sống lương thiện vì con người và chết giản dị như con người‘.       Tứ Xuyên là nơi có bốn con sông lớn chảy qua. Tất cả đều là phụ lưu của Dương Tử Giang, đó là Minh Giang, Gia Giang, Vũ Giang và Cẩm Giang. Ðây là vùng rừng rậm, núi cao, mưa nhiều nên cây cối tươi tốt quanh năm, có nhiều loại dược thảo quý hiếm được sử dụng trong y học Ðông Phương từ hàng ngàn năm trước. Khí hậu Tứ Xuyên cũng ấm áp hơn các tỉnh lân cận, mùa đông không hề có tuyết như tại Lan Châu, Tây An.       Thành phố Thành Ðô nằm trên một nhánh sông của Trường Giang.     Riêng Hoàng Hà dài 5646 km lớn thứ hai của nước Tàu, phát nguyên từ cao nguyên Thanh Hải, cũng chảy vào khu vực rừng núi phía tây bắc Tứ Xuyên, trước khi đổi hưóng đột ngột vào tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Bắc và ra biển tại thủ phủ Tế Nam (Sơn Ðông) trong vịnh Nhiệt Hà. Thành Ðô nằm giữa trung tâm Tứ Xuyên, cách thành phố Trùng Khánh chừng 170 dặm về hướng Tây Nam, đã hiện diện trong lịch sử Trung Hoa qua hằng ngàn năm với biết bao nhiêu thăng trầm.       Thời Ðông Hán (25 trTL ố 220 sauTL) , Thành Ðô là trung tâm sản xuất gấm lụa của nước Tàu, qua danh xưng Gấm Cẩm Giang cũng là tên của con sông chảy qua thành phố này. Thời Tam Quốc (220-265 STL), Thành Ðô là kinh đô của đất Thục (ích Châu) hay Hậu Chu, một trục lộ giao thương quan trong, nối liền con đường tơ lụa phía nam của nước Tàu tới Tây Tạng, Vân Nam, Miến Ðiện. Ðây cũng là quê hương của Võ tắc Thiên hoàng đế (Võ Hậu), của thi hào Ðổ Phủ, Tư Mã Tương Như.. Ngày nay Thành Ðô là một thành phố du lịch thanh nhã, có nhiều di tích lịch sử và các công viên trồng đủ kỳ hoa dị thảo. Lạc Sơn vùng ngoại ô của thành phố, hiện vẫn còn một tượng Phật được đục sâu vào núi đá, nằm cạnh bờ sông Minh Giang. Tượng Phật được khởi công từ năm 713 sau TL cho tới năm 803 mới hoàn thành, cao 71 m.       Nhưng Trùng Khánh lại là thành phố lớn nhất của Tứ Xuyên, nằm trên giao lưu của hai con sông Gia Linh và Trương Giang, về phía đông nam của thủ phủ Thành Ðô. Thời Trung Hoa kháng Nhật, Trùng Khánh là thủ đô của chính phủ Quốc Dân Ðảng (1937-1945 do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Vì được xây dựng trên một triền núi dọc theo hai bờ sông, nên thành phố luôn bị sương mù che phủ nhiều ngày trong năm. Ðây cũng là một trung tâm kỹ nghệ nằm sâu nhất trong nội địa nước Tàu, trên đầu nguồn sông Dương Tử. + ÐẬP THỦY ÐIỆN TAM HỢP TRÊN
Back to top
« Last Edit: 05. Jun 2008 , 14:07 by le_lam_son »  

Hảy Đến Chia nhau nghèo khó , Quên Lo Tương Lai Mịt Mờ
 
IP Logged
 
tuyet_ngo
Gold Member
*****
Offline



Posts: 912
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #21 - 10. Aug 2008 , 05:15
 
...


Thế Giới Cần Biết Điều Này      
Người viết: Administrator   
09/08/2008
________________________________________________________________________________
______



Thế Giới Cần Biết Điều Này




...
Giới thiệu Hồi ký trong tù “Cuối Tầng Địa Ngục”
Bài của Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng Giám Đốc Boat People SOS



Cách đây khoảng một tháng, tác giả, cựu tù nhân “Cải Tạo” Đỗ Văn Phúc, ngỏ ý muốn tôi viết lời tựa cho quyển hồi ký đời tù nhan đề Cuối Tầng Địa Ngục. Tôi đón nhận với một chút ngỡ ngàng trộn lẫn cảm giác đồng cảm thật mênh mang.

Ngỡ ngàng vì thực ra tôi chỉ biết tác giả qua một vài bài viết đăng trên Internet, đặc biệt là lời kêu gọi quan tâm đến những cụ tù nhân “cải tạo” vẫn còn kẹt ở Việt Nam. Ngỡ ngàng vì kinh nghiệm mỏng manh của tôi đối với chủ đề của tập sách. Năm 1975, khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, tôi chưa đến tuổi động viên, chưa một ngày cầm súng và dĩ nhiên chưa một ngày đi tù. Thế thì lấy tư cách gì để viết lời tựa cho một quyển sách ăm ắp ký ức của 10 năm đầy đoạ trong các trại tù?

Mặt khác, đây cũng lại chính là một đề tài thu hút tôi từ cả chục năm nay, một đề tài mà nói bao nhiêu cũng không đủ, kể bao nhiêu cũng không hết; một đề tài mà đến nay nhiều người vẫn chưa biết đến hay chưa biết rõ; chưa kể những nỗ lực ở bên này và bên kia địa cầu nhằm tẩy xoá nó khỏi lịch sử của nhân loại, như nguời ta cố tẩy đi vết máu loang lổ trên manh vải trắng. Năm 1985, cũng là năm tác giả ra khỏi tù, hai học giả Hoa Kỳ xoá đi huyền thoại mà giới truyền thông thiên tả vẽ vời về cộng sản Việt Nam. Hai vị học giả này, Jacqueline Desbarats và Karl Jackson của Đại Học Berkeley, phủ nhận lập luận nguỵ biện hay giả trá của một số ký giả rằng bộ đội tiếp thu miền Nam lịch thiệp như du khách và không hề có cuộc tắm máu như người ta lo sợ. Qua hàng trăm cuộc phỏng vấn các thuyền nhân đã định cư ở Hoa Kỳ và Pháp, hai học giả này khám phá ra rằng cuộc tắm máu đã và đang âm thầm diễn ra sau bức màn tre của các trại tù cải tạo. Kết quả của cuộc nghiên cứu tạo xao xuyến lớn trong tôi lúc bấy giờ và âm ỉ mãi đến ngày hôm nay. Tôi luôn cảm thấy nhu cầu thôi thúc phải ghi lại những kinh nghiệm tù cải tạo, một giai đoạn u ám nhất của sử Việt cận đại. Chúng ta, những người đã vượt thoát ra với thế giới tự do có nghĩa vụ vén bức màn tre ấy lên để làm bài học cho nhân loại, cho hậu thế đừng tái diễn. Chính sự thôi thúc ấy đã rung lên nhịp đồng cảm sâu đậm nơi tôi với từng chữ, từng câu trong Cuối Tầng Địa Ngục.

Nhưng những con số thống kê, các bài tính xác suất của cuộc nghiên cứu không thể nào mô tả được chiều sâu thăm thẳm của tâm trạng người tù, cứ sâu hoắm thêm trong chuỗi ngày vô tận. Bằng lời lẽ đơn sơ, không văn hoa bóng bảy, tác giả đã mở hé ra cho người đọc thoáng nhìn vào cái thế giới nội tâm u uất đã một thời vây bủa và có lẽ sẽ mãi mãi ám ảnh người tù.

“Tuần lễ đầu tiên sau Tết Bính Thìn (1976), chúng tôi được gặp gia đình sau bảy tháng xa cách. Buổi thăm gặp được giới hạn trong ba mươi phút. Tôi gặp đủ Mẹ, vợ và các con. Cháu bé nhất sinh vào giữa tháng tư 1975 nay bụ bẫm, hồng hào. Khi tôi đưa tay ra bế cháu, cháu đã chồm về phía tôi như có sự thôi thúc của tình máu mủ. Chúng tôi cầm tay nhau mà nghẹn ngào một hồi; chẳng biết nói điều gì trước, điều gì sau…” (Trang 56).

Giây phút đoàn tụ thật ngắn ngủi chắc hẳn ăm ắp mừng tủi, quyến luyến, nhớ nhung. Mân mê những ngón tay chai của vợ, vuốt mái tóc bạc phơ của mẹ, bồng ẵm đứa con thơ trên tay, những điều mà con người bình thường nhiều khi không còn để tâm đến thì lại là cả một trời hạnh phúc cho người tù cải tạo. Phút chia tay chắc hẳn chan chứa những giọt nước mắt, những gởi gắm, bịn rịn. Và người tù đã vội ghi vào ký ức hình ảnh của người mẹ già, cảm giác da thịt của người vợ yêu, mùi thơm của đứa con thơ để dành làm ngọn gió mát trong cơn nắng cháy của ngày lao động, hay để nuôi mộng tái ngộ khi đêm lạnh về trên núi rừng hoang vu.

Chế độ khắc nghiệt đã giết chết cả những giấc mơ nhỏ bé nhất của người tù. Tết năm sau, Đinh Tỵ (1977), tác giả lại được gia đình thăm nuôi, nhưng với một tin sét đánh.

“Sau vài phút trấn an, vợ tôi đã mếu máo kể cho tôi nghe rằng cháu út bị sốt xuất huyết và không bệnh viện nào nhận cháu vì là con của người đang cải tạo, tiêu chuẩn cao nhất là các trạm y tế phường. Cháu qua đời vì không có thuốc men và chữa trị đúng mức.” (Trang 71).

Còn đau đớn nào hơn. Còn bất hạnh nào hơn.

Nhưng ở cuối tầng địa ngục vẫn có những đoá hoa rực rỡ; giữa bùn đen vẫn có những hạt vàng lóng lánh. Tác giả viết về một Nguyễn Thi Ân luôn chia sớt phần ăn cho bất kỳ ai xin hỏi, một Nguyễn Văn Phước sẵn sàng liều mạng nhảy hàng rào xà lim tiếp tế cho các bạn tù… Tác giả cũng viết về một số cán bộ quản trại lớn lên giữa bày lang sói nhưng không đánh mất lương tâm loài người, như “anh Ngà, anh Hoa chẳng bao giờ để cho chúng tôi làm việc quá sức. Các anh hàng ngày chạy ngược chạy xuôi kiếm cho chúng tôi giỏ khoai lang, nồi rau muống. Họ muốn trò chuyện và học hỏi nơi chúng tôi.”

Trên bức tranh vân cẩu, tác giả không quên điểm tô dăm nét chấm phá khôi hài, như khi kể về tượng bán thân của “Bác Hồ” ngày nào không thuốc rê cắm vào trên miệng thì cũng có cục đàm trét trên má hay sợi lông xoắn phất phơ trên đầu; đến nỗi cán bộ phải mếu máo: “Bác Hồ là người ai cũng yêu quý, kính trọng… Thế mà có anh lại dám bứt lông dái bỏ lên đầu Bác.” (trang 78) Và cũng có những mẩu chuyện cười ra nước mắt, như khi chính tác giả đang lén nấu nước bằng chiếc lon guigoz thì bị cán bộ bất thần khám xét, bèn vội ngồi lên che “lò” giả bộ đang đánh cờ tướng và cứ thấp thỏm sợ cháy quần, cháy cả mông.

Rải rác khắp quyển sách là những cảnh tra tấn, nhốt conex, còng chân, bỏ đói, bỏ khát, đánh đập, cấm thăm nuôi, lao động khổ sai, doạ bắn, hạ nhục… Thực ra tôi đã biết khá rõ về các hình thức tra tấn dùng trong tù cải tạo của cộng sản Việt Nam qua các tài liệu nghiện cứu của Bác Sĩ Richard Mollica và các cộng sự viên ở Đại Học Harvard. Đây là nhóm bác sĩ đầu tiên, và có thể độc nhất trên thế giới, đã để tâm chữa trị những vết thương tâm hồn cho cựu tù cải tạo Việt Nam. Họ tỉ mỉ phân loại 29 hình thức tra tấn cùng với mức độ thông dụng của chúng, và phân tích cũng như đo lường hậu quả lâu dài để lại nơi nạn nhân. Mục đích hiểm độc của các hình thức tra tấn là vừa bầm dập thể xác vừa đục khoét tâm hồn.

Người đọc không khỏi cảm thấy bùi ngùi, xót xa cho những người tù nằm xuống không thân nhân thăm viếng, không kèn trống tiễn đưa, không mộ bia, hương khói; cho những người tù bị cán bộ bóp cổ chết, bị xử bắn trong trại, bị hạ sát trên đường đào thoát, hay chết vì khát, vì kiệt sức. Như hai nhà học giả Desbarats và Jackson từng khẳng định sau nhiều năm nghiên cứu, cuộc tắm máu âm thầm đã xẩy ra. Cộng đồng người Việt ở các vùng trời tự do có nghĩa vụ ghi lại tất cả những cái chết trong trại tù cải tạo, như một sự tưởng nhớ đối với người quá cố và tri ân đến những thân nhân còn sống. Những cái chết oan nghiệt ấy chắc chắn đã để lại những vết hằn không thể nào phai cho người thân còn sống, với rất nhiều câu hỏi mà không có câu trả lời.

Và người đọc cũng không khỏi phấn chấn trước tinh thần bất khuất của đại đa số tù nhân cải tạo, như Hạ sĩ Đèn dám tuyên bố “ngày nào còn Cộng Sản, tôi còn chống” và phanh ngực ra thách thức cán bộ bắn, như Quách Dược Thanh từ chối không hãm hại đồng đội để đổi lấy mạng sống, như hàng trăm người tù lãng công và tuyệt thực để phản đối cán bộ đánh trọng thương hai người bạn tù. “Họ là những con đại bàng dù sa cơ vẫn không để bị lẫn lộn trong đám gà qué.” Trong quyển sách mới xuất bản, nhan đề Chữa Lành Các Vết Thương Vô Hình (Healing Invisible Wounds), Bác Sĩ Mollica của Đại Học Harvard nhắc nhở rất nhiều đến nghị lực của những tù cải tạo Việt Nam, mà ông xem là những bậc thầy về lòng dũng cảm, về ý chí sống thoát, và về khả năng hồi phục. Theo Ông, có ba yếu tố ảnh hưởng rất lớn: lòng vị tha, lý tưởng, và tinh thần xốc vác. Những mẩu chuyện tự thuật và về các bạn tù xuyên suốt quyển Cuối Tầng Địa Ngục đã minh chứng điều này.

Sau khi đọc xong bản thảo, tôi gọi điện thoại nói chuyện với tác giả--lần đầu tiên nói chuyện với nhau. Tôi kể về sự đồng cảm sâu sắc và nhận xét về văn phong đơn giản, trong sáng, và thăng bằng đến lạ. Không thấy hận thù, nguyền rủa mà chỉ thấy một cố gắng lớn để ghi lại trung thực sự kiện và cảm nghĩ. Tác giả đã bỏ ra 15 năm để viết. Tôi đoán tác giả đã nhiều lần, rất nhiều lần, duyệt đi duyệt lại để gạn lọc những lời lẽ thái quá, hay điều chỉnh những thiên kiến. Kết quả là một cố gắng dựng lại toàn cảnh của xã hội trại tù, với đầy đủ ác và thiện, ti tiện và hướng thượng, hèn yếu và dũng cảm, bóng tối và ánh sáng; đủ các mầu sắc của cầu vồng. Tôi nói với tác giả rằng sự thăng bằng ấy đã nâng tính chất sử liệu của quyển sách. Tôi đề nghị tác giả viết thêm, đào sâu hơn; cả viết hộ cho những người không quen viết, để từ từ xây dựng một tủ sách về các trại tù cải tạo--đúng hơn, một bảo tàng viện về các trại tù cải tạo, như người Do Thái có bảo tàng viện về cuộc thảm sát bởi Đức Quốc Xã (Holocaust Museum). “Chỉ mươi năm nữa chúng ta sẽ cạn kiệt nhân chứng sống”, tôi chia sẻ với tác giả.

Điều tôi không nói ra là nỗi ái ngại cho chính tác giả. Tôi hình dung Cựu Tù Nhân “Cải Tạo” Đỗ Văn Phúc, mỗi lần đặt bút là mỗi lần ôn lại những đau đớn, dày vò, mất mát. Không biết mỗi khi đọc lại đoạn viết về người con út chết vì thiếu thuốc men, hay những ngày tháng biệt giam trong conex, hay cảnh bơ vơ của người vợ trẻ, hay những cái chết tức tưởi của bạn bè… tác giả nghĩ sao, cảm giác thế nào? Hãy hình dung một người phải xem đi xem lại cuốn phim không bao giơ dứt về những khổ đau, bất hạnh của đời mình; liệu người ấy sẽ đối phó, ứng xử ra sao khi cơn xúc động dâng trào?  Câu trả lời nằm ngoài sức tưởng tượng của phần lớn chúng ta mà thuộc về thế giới tâm linh ẩn kín và riêng tư của người trong cảnh. Nhưng có một điều tôi biết: khả năng đàn hồi của những cựu tù nhân cải tạo Việt Nam thật phi thường. Một chuyên gia tâm lý người Mỹ dày kinh nghiệm về các trại giam của Đức Quốc Xã và các xứ Nam Mỹ có lần nhận xét với tôi rằng ông ta chưa hề gặp nhóm tù nhân nào lại chịu sự tra tấn liên tục và kéo dài như tù cải tạo Việt Nam; và ông ta rất ngạc nhiên về khả năng chịu đựng, sống thoát và hồi phục của họ.

Trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến, tôi tìm đọc quyển Một Ngày Trong Đời Của Ivan Denisovitch của văn hào Alexander Solzhenitsyn, để chuẩn bị tinh thần nhỡ phải sống dưới chế độ cộng sản sắp phủ chụp lên miền Nam. Nếu so sánh, thì Gulag của Nga là ngưỡng cửa bước vào địa ngục, còn trại tù cải tạo của cộng sản Việt Nam nằm ở tầng cuối.

“Nếu có một địa ngục như lời các tôn giáo thường răn đe, thì chắc hẳn địa ngục đó cũng không sánh được với cái địa ngục mà Cộng sản đã dành cho người quốc gia và những ai không theo chúng.” (Trang 198)


Thế giới cần biết điều này, cho bây giờ và cho mai sau.


Nguễn Đình Thắng

Virginia, Ngày Mùng Ba Tết Năm Mậu Tý

Michael Do (Do Van Phuc)


webpage: www.michaelpdo.com

  *** Vietnamese Communists must render FREEDOM, DEMOCRACY and HUMAN RIGHTS to the people before a political defeat would cost them their livelihood and even their lives.***


Back to top
« Last Edit: 10. Aug 2008 , 06:33 by tuyet_ngo »  
 
IP Logged
 
tuyet_ngo
Gold Member
*****
Offline



Posts: 912
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #22 - 22. Oct 2008 , 05:33
 
DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN VIỆT NAM

trước thái độ ỡm ờ của Mỹ

bài của Lê Việt





Từ 1995 đến nay, Mỹ thiết lập bang giao với CSVN, qua 3 đời Đại Sứ:



1.    Peter Peterson (Dân Chủ) đối tác là Lê Văn Bàng

2.    Mike Marine (Cộng Hòa) đối tác là Lê Tâm Chiến

3.    Mike Michalak (Cộng Hòa) đối tác là Lê Công Phụng.




Với 3 đời Đại Sứ, người ta cứ tưởng Cộng Hòa khác Dân Chủ, nhưng đến nay, sau 13 năm trắc nghiệm, rõ rệt Mỹ chẳng làm cho CS thay đổi một tí nào, ngược lại, CS càng lộng hành độc ác hơn, nhờ thu nhập từ Mỹ nhiều đặc quyền, đặc lợi. Nếu Clinton dám nói trắng ra rằng: “Nhân Quyền không bằng Kinh Tế” thì Bush điềm nhiên thêm sức cho CSVN với những liều thuốc bổ ngoạn mục như dúi cho bằng được CSVN vào Tổ Chức Mậu Dịch Quốc Tế (WTO) và biến cho bằng được CSVN thành Ủy Viên Không Thường Trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, rồi dồn mọi nỗ lực luyện cho CSVN thành Chủ Tịch Luân Phiên của Hội Đồng này, mặc dù chính phủ Bush thừa biết CSVN vẫn mọi rợ, hung hãn  vi phạm nhân quyền, trong khi, Tổng Thống Bush vẫn long trọng cam kết: “ Nhân Quyền nước nào bị vi phạm thì nước Mỹ sẽ đứng sau lưng nhân dân nước đó”… nhưng không phải để yểm trợ mà là để đâm sau lưng nước đó.



Ngày gần đây, một biến cố liên quan đến quyền lợi giữa Tàu Cộng, Việt Cộng và Tư Bản Mỹ qua việc công ty dầu lửa Exxon Mobil của Mỹ định xía mũi khoan vào cái túi dầu trên thềm lục địa VN, người ta mới thấy rõ bộ mặt thật của bộ ba Tàu, Việt cộng và Mỹ.



Sự việc xẩy ra giống hệt như năm 2007 Tàu cộng đã đuổi Công Ty BP  (British Petroleum) của Anh Quốc vì đã đơn phương cấu kết với CSVN khai thác dầu ở ngoài khơi VN. Nhưng khác ở chỗ, nếu Công Ty BP phải chào thua bỏ chạy thì khi đụng đầu với Exxon Mobil, Tàu cộng đã gặp phản ứng của Mỹ bằng biện giải đại ý : “Tranh chấp lãnh thổ là quyền của các anh. Còn khai thác đầu tư là quyền của chúng tôi”… có nghĩa là Mỹ không cần biết dầu đó của ai, miễn sao Mỹ được độc quyền khai thác. Cái lối giải thích ỡm ờ này của Mỹ, đã khiến mạng lưới “Sina.com” của Tàu cũng đã ỡm ờ trả lời Mỹ bằng cách tung ra kế hoạch thôn tính VN trong vòng 31 ngày với mục đích mở đường xâm chiếm Đông Nam Á để tiến tới khống chế toàn vùng Biển Đông là khu vực đang xảy ra cuộc tranh chấp dầu khí giữa nhiều quốc gia trong vùng mà VN là cái đinh của vấn đề.



Sau khi nhận được nguồn tin này, Việt cộng đã hốt hoảng đem cái tinh thần hữu nghị môi răng để năn nỉ xin Tàu cộng xóa bỏ cái trò chơi đứng tim đó đối với đàn em từ bao năm qua vẫn cúc cung tận tụy tôn thờ Bắc Triều  để rồi phải lì lợm đón nhận những lời nguyền rủa thậm tệ của nhân dân cả nước. Tất nhiên, Tàu cộng đã gian dối chối bỏ ý đồ xâm lược  đó và hứa sẽ truy tìm xuất xứ của nguồn tin trên. . Nhưng, sự thật ra sao ?  Và đây là câu trả lời :



1963, nghĩa là cách đây trên 40 năm, Mao Trạch Đông đã có ý định xua quân tiến chiếm VN được Mao ví như khúc xương ngăn chặn mưu đồ bá quyền của Tàu cần phải nhổ bỏ. 1997, Đặng Tiểu Bình đã thực sự đem quân tấn công Cao Bằng, Lạng Sơn và một số tỉnh thuộc vùng biên giới. Cuộc chiến tuy ngắn ngủi, nhưng đã đủ sức buộc Việt cộng phải chia đất chia biển cho Tàu bằng các hiệp ước bí mật ký kết vào những năm 1999 và 2000. Chứng nhân bằng xương bằng thịt đã trực tiếp nhúng tay vào tội bán nước này không ai khác là Lê Công Phụng hiện giữ chức Đại Sứ của CSVN tại Thủ Đô Mỹ Quốc.. Tuy nhiên, với đà tiến hóa của thế giới hiện nay, từ 1963 qua 1997 đến 2008, thời cuộc biến chuyển đã đưa Tàu cộng từ một nước kém mở mang đến địa vị của một đại cường mà NHIÊN LIỆU vẫn là vấn đề sinh tử của công cuộc phát triển nước Tàu hiện nay. Và trớ trêu thay, nền thịnh vượng của Tàu lại do chính bàn tay Mỹ tạo dựng.



Cách đây 20 năm, mạch máu giao thông của Hoa Lục chỉ là những con đường nhỏ hẹp. Đến nay Hoa Lục đã xây xong 450 ngàn cây số đường cao tốc cho 300 ngàn xe cộ đủ loại lưu thông mỗi ngày. Mỗi năm, Hoa Lục sản xuất trung bình khoảng 10 triệu xe hơi, đồng thời dự tính xây thêm 97 phi trường trong thập niên này để san sẻ gánh nặng với 147 phi trường hiện có. Chỉ nhìn thoáng qua những con số như vừa ghi nhận - chưa kể những nhu cầu về điện lực, nguyên tử lực và các loại xí nghiệp khác - cũng đủ thấy, mức cầu nhiên liệu của Hoa Lục ngày nay ra sao ! Và đây là lý do khiến Tàu, với bất cứ giá nào,  phải tìm đến các mỏ dầu tại Biển Đông được coi như kho “Vàng Đen” thứ hai sau Vùng Vịnh.



Nói về tiềm lực vàng đen tại Biển Đông, Mỹ là quốc gia biết rõ hơn ai hết. Những ngày gọi là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” để tiến tới bán đứng VN cho cộng sản vào đầu thập niên 1970, Mỹ đã hoàn tất công cuộc khai tìm dầu khí ngoài khơi VN, trong số có các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào thời điểm này, tại trụ sở báo chí trên đường Tự Do Saigon,   Trung Tá Lê Trung Hiền, Phát Ngôn Viên Quân Sự VNCH thường nhật cho hay, các hãng dầu Mỹ đã tìm thấy nhiều giếng dầu ở ngoài khơi VN, và sau khi xác định phẩm lượng của mỗi giếng thì Mỹ đã bịt ngay lỗ giếng vừa khoan ấy lại. Dư luận ngày ấy đã hoài nghi hành tung của Mỹ là muốn dành giụm công trình tìm kiếm dầu để chờ ngày khai thác. Và hôm nay, ngày ấy đã đến .



Có dư luận cho rằng, khi tung tin thôn tính VN bằng võ lực, Tàu cộng đã thả lên một trái bóng thăm dò. Tuy nhiên, nếu bảo rằng, Tàu không dám đánh VN vì đã có Mỹ yểm trợ, thì điều này cần xét phải lại. Nhiều chiến lược gia quốc tế nhận định, Mỹ sẽ không dại dột tham chiến giúp VN chống Tàu , không phải vì Mỹ đang mắc kẹt tại Iraq và Afghanistan hay vì Mỹ đang gặp thời suy thoái kinh tế. Chiến lược của Mỹ sau khi kết thân với Tàu là muốn thỏa hiệp để cầu lợi hơn là đổ máu để thu lợi. Chiến lược này đã khởi sự từ 1956, khi Mỹ quyết định trả về Hoa Lục hai nhà bác học vật lý Tàu là Lý Chánh Đạo và Dương Trấn Ninh được đào tạo tại Mỹ để thiết lập kỹ nghệ nguyên tử và các công nghệ cao cấp cho Hoa Lục. Hành động này của Mỹ đã gây niềm tin cho MaoTrạch Đông để rồi 1972, Mỹ chính thức trao đổi mậu dịch với Tàu là thị trường rộng lớn, bổ béo về tài nguyên lao động cũng như phong phú tài nguyên thiên nhiên.. 1974, ngày miền Nam VN chưa mất và Nam vĩ tuyến 17 còn thuộc VNCH , khi chứng kiến quân Tàu xâm chiếm Hoàng Sa, hạm đội 7 của Mỹ vẫn án binh bất động, để mặc cho hải quân VNCH chống trả lại quân Tàu. Ngay từ lúc này, Mỹ đã tránh né gây sự với Tàu và kết quả cho đến nay, tình hữu nghĩ Mỹ-Tàu vẫn thắm thiết hơn bao giờ hết. Cụ thể là nhân dịp Olympic Bắc Kinh 2008, Mỹ là quốc gia yểm trợ cho Bắc Kinh cả về tinh thần, kỹ thuật lẫn tiền bạc. Cứ nhìn gia đình Tổng Thống Bush hăm hở tham dự Olympic Bắc Kinh và Đài Truyền Hình NBC tận tình quảng cáo cho Olympic Bắc Kinh, trong khi gần như cả thế giới, đặc biệt là Anh, Pháp và Đức đều chống đối Bắc Kinh đã tàn sát nhân dân Tây Tạng, thì cũng đủ thấy chính sách hiếu hòa của Mỹ đối với Tàu cộng được thể hiện như thế nào!



Sau thế chiến thứ hai, Mỹ đã thành công trong việc phục hồi kinh tế Đức và Nhật, tuy là những kẻ thù cũ, nhưng hai nước này đã trở thành đồng minh thân thiết của Mỹ. Chính sách ấy được Mỹ áp dụng nguyên si đối với Tàu cộng nhất là đối với Việt cộng mà Mỹ không biết rằng, ý thức quốc gia của Đức và Nhật không phải là ý thức cộng sản của Tàu và CSVN. Nếu ông Bush Con cho rằng, 10 năm qua, cộng sản Việt đã cải thiện nhân quyền một cách rất đáng khích lệ thì ông Bush Cha nhận định rằng, kinh tế Tàu cộng là Kinh Tế Khổng Giáo (Confucianist Economy) lấy nhân-nghĩa-lễ-trí-tín để quản lý đất nước. Ca ngợi như thế là hết mức rồi. Chỉ tiếc rằng, các ông đã cố tình  không thấy, Khổng giáo tại Hoa Lục ngày nay chỉ là phương tiện để Tàu cộng xoa dịu những hờn giận của dân đen đối với chế độ, cũng như Việt cộng cho phục hồi tín ngưỡng tại các làng xã kể cả tục lệ mê tín dị đoan như “đồng bóng” đã cho thấy Tàu cộng cũng như Việt cộng dùng tín ngưỡng để mị dân khiến cho dân quên đi những cơ cực hàng ngày mà lo sản xuất làm giàu cho bọn thống trị được sống phè phỡn trên đầu trên cổ họ. Gần nhất và hiện thực nhất trong những ngày này, chẳng lẽ chính quyền Mỹ lại không thấy các vụ tranh chấp đất đai giữa cộng sản với giáo dân Thái Hà và Tòa Khâm Sứ Hà Nội đã gây ra những vụ đàn áp đổ máu. Và chính quyền Mỹ chẳng lẽ không tin nhà báo Mỹ Ben Stocking và cũng là công dân Mỹ bị công an Việt cộng đánh lỗ đầu  chỉ vì chụp ảnh và săn tin về vụ tranh chấp này. Vậy thì từ 10 năm nay, Việt cộng được Mỹ ca tụng là đã cải thiện nhân quyền nằm ở chỗ nào khi dân oan khắp nơi kêu gào đòi Việt cộng phải trả lại ruộng vườn, nhà cửa, đất đai của họ đã bị cộng sản ăn cướp.



Với chính sách của Mỹ như vừa trình bày, chắc chắn Mỹ sẽ chọn con đường trung lập tại Biển Đông. Như vậy thì lấy cái gì để bảo đảm rằng, Tàu cộng không dám nhổ khúc xương VN là chướng ngại vật ngăn cản bước tiến của Tàu xuống Đông Nam Á. Cái nhìn này đã được cố Tổng Thống Mỹ Eishenhower ghi nhận từ 1953 khi ông ví VN như con cờ domino hay văn vẻ hơn là tiền đồn cần được bảo vệ nhằm chống họa cộng sản lan tràn khắp thế giới. Ngày nay dân tộc Việt đã nhận ra cái vị thế “con cờ” của mình khi hết hiệu lực đã  bị Mỹ  bỏ rơi không thương tiếc.



Ngày gần đây, người ta càng thấy rõ hơn ý đồ của Tàu cộng muốn biến VN thành chư hầu, khi thấy xuất hiện trên lá cờ Tàu  ngôi sao vàng nhỏ thứ 5 được treo tại một số tỉnh thành của Hoa Lục đã được các phóng viên quốc tế ghi nhận nhân dịp Olympic Bắc Kinh 2008. Phải chăng đây là chủ ý của Mao Trạch Đông khi cho phép Hồ Chí Minh đem lá cờ đỏ và ngôi sao vàng về VN để làm cuộc cách mạng cộng sản bên cạnh 4 ngôi sao vàng kia là biểu tượng của 4 quốc gia Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng và Tân Cương Hồi Giáo đã trở thành chư hầu định mệnh của Tàu Đỏ.



Đến nay, cho dù Việt cộng có dùng bạo lực bịt miệng những người tranh đấu trong nước, không cho họ được phép chống Tàu thì bọn cầm quyền Bắc Kinh vẫn đem cái công hàm 14-9-1958 do Phạm Văn Đồng ký nhận và được Hồ Chí Minh cho phép, để chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Hoa Lục.   



Kết hợp những diễn biến như vừa trình bày, không thể ngây thơ tự trấn áp cho rằng, Tàu sẽ không đánh VN vì có Mỹ bao che. Xuẩn động hơn nữa, đến giờ phút này, còn có kẻ tin, bức công hàm của Phạm Văn Đồng chỉ là văn bản cho mượn đất trong tình nghĩa anh em. Ngày nào VN cần, người anh em sẽ trả lại nhằm bào chữa cho tội bán nước của Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh cũng như đàn hậu duệ đang ngự trị Việt Nam. .



Gorbachew chỉ đốt lên mồi lửa để nhân dân Đông Âu kể cả nhân dân Nga tự cứu mình. Thanh niên và sinh viên của các nước này đã vùng lên để phát động các làn sóng cách mạng. Còn những người cầm súng giữ nước thì yểm trợ cho cách mạng lật đổ bạo quyền CS thành công. Công trạng này của những người cầm súng giữ nước tại Đông Âu và liên bang Nga đã được chứng minh vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, nhờ  tinh thần yêu nước và uy quyền của mũi súng mà các chế độ cộng sản phải tan rã.




Những ai chủ trương thân Tàu hay thân Mỹ, hãy nhớ rằng, ngàn đời, Tàu vẫn là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam, còn Mỹ chỉ biết phù thịnh, cầu lợi. Ta phải tự cứu ta chứ Tàu hay Mỹ không thể cứu ta. Muốn cứu ta, trước hết phải lật đổ bạo quyền Việt cộng. Chẳng lẽ 84 triệu dân Việt, đa số là giới trẻ đầy nhiệt huyết, trong đó có gần l triệu quân nhân lại chịu ép mình để cho 14 tên cán bộ già nua ẩn mình trong chính trị bộ Việt cộng tự tung tự tác!



Hãy ra tay trước khi Tàu cộng biến ngôi sao vàng trên nền cờ đỏ của Việt cộng thành ngôi sao vàng thứ 5 trên nền cờ đỏ của Tàu cộng. Hãy đem quốc gia Việt Nam trở về với dân tộc Việt Nam. Công trạng này đang nằm trong tay giới trẻ Việt Nam và quân đội Nhân Dân Việt Nam. Toàn dân Việt Nam đang mong đợi lòng quả cảm và quyết tâm tranh đấu của các bạn. Sứ mạng thành công, mặc nhiên thế giới sẽ ủng hộ chính nghĩa của chúng ta.(LV)



Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #23 - 26. Oct 2008 , 04:48
 
Sinh viên với sứ mệnh lịch sử




Lý Công Bằng- ĐDCND

Những năm gần đây, khi phong trào đấu tranh cho những quyền lợi cơ bản của con người ở nước ta trên đường phát triển mạnh, thì cũng là lúc các nhà lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam thể hiện những chiêu thức ngày càng hạ đẳng. Nhìn từ bề ngoài, họ đã dẹp được những phong trào này bằng nhiều cách khác nhau như: đàn áp, bắt bớ, phong tỏa thông tin đa chiều, xuyên tạc và chụp mũ cho những phong trào này là phản động, chia rẽ đoàn kết dân tộc v.v...
Một số người dân vẫn đang nằm mơ rằng: đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) là kết tinh trí tuệ của dân tộc, là lực lượng lãnh đạo trung thành và duy nhất cho mọi lợi ích của nhân dân Việt Nam. Những người dân này vẫn thuộc lòng luận điệu của lãnh đạo đảng các cấp rằng: Chỉ có một Đảng (ý nói đảng CSVN đang cầm quyền) lãnh đạo thì đất nước chúng ta mới ổn định chính trị, có ổn định thì mới có phát triển v.v... Chính nguyên tổng bí thư đảng CSVN - Lê Khả Phiêu trong lễ trao giải Hoa Trạng Nguyên ngày 7/9/2008 tại Hà Nội, cũng chia sẻ niềm "tự hào về đất nước ổn định chính trị" với các tân thủ khoa các trường đại học, cao đẳng các tỉnh phía bắc. Ông cũng nói đại ý thêm rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể phát triển lên hàng tiên tiến của thế giới trong vòng 10 năm nữa; chúng ta đủ điều kiện làm được, đất nước ta ổn định chính trị, còn các nước bên cạnh ta lật đổ liên tục thì làm sao phát triển lên được (có thể ông ta muốn nói tới Thái Lan thời điểm này).
Vậy, có phải sự ổn định chính trị như Việt Nam hiện nay, là yếu tố cơ bản tiên quyết cho sự phát triển của đất nước hay không? Đảng CSVN đã cố gắng để ổn định chính trị như thế nào? Kết quả của sự ổn định này là gì? Tại sao mỗi sinh viên Hà Nội lại bị đảng CSVN lừa và ăn quỵt mười nghìn đồng vào ngày Chủ nhật 21/9/2008? Anh chị em sinh viên sẽ phải làm những gì để chứng minh lòng yêu nước và xứng đáng với niềm hy vọng của nhân dân về một Việt Nam Tự Do, Công Bằng, Dân Chủ, Văn Minh và Cường Thịnh? Đó cũng chính là lý do mà người viết muốn chia sẻ với bạn đọc và đặc biệt là anh chị em sinh viên - lực lượng trí thức trẻ đầy nhiệt huyết với sự đi lên của dân tộc.
Trước khi đi sâu vào vấn đề, chúng ta cần thống nhất với nhau rằng: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong số những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc..." (trích Tuyên Ngôn Độc Lập- Hồ Chí Minh). Quyền tự do ở đây là quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, tự do báo chí, tự do lập hội và tự do biểu tình trên tinh thần bất bạo động. Những quyền ấy là do đấng tạo hóa ban cho những sinh linh nào được gọi là con người. Bất kỳ ai, bất kỳ đảng phái nào hay chính phủ nào cũng không được phép xâm phạm những nhân quyền ấy. Hiểu rõ điều này thì chúng ta cứ thoải mái trao đổi thông tin, hội họp và bàn định về bất kỳ điều gì cho dù những điều ấy không làm hài lòng các lãnh đạo đảng CSVN.
Có thể nói: Bằng chiêu bài ổn định chính trị, đảng Cộng Sản Việt Nam đã vỗ về, an ủi được không ít người dân ngoan ngoãn trong vòng kiểm soát, không một lời trách móc kêu la, hễ cứ mở miệng ra là ơn Đảng, ơn Bác Hồ... Quả thực, những người dân này đáng thương hơn là đáng trách. Trong tâm trí họ chỉ có hình ảnh của Đảng, của Bác Hồ, và họ cũng chỉ được biết đến những cụm từ này qua những thông tin đã được hư cấu mà các lãnh đạo đảng CSVN dành cho. Họ yên tâm rằng Đảng luôn luôn tận tâm, tận lực cho mình, và những gì được như ngày hôm nay là tốt nhất có thể, không tài nào hơn được nữa. Đúng là đảng CSVN đã làm rất tốt, rất thành công trong việc ru ngủ quần chúng nhân dân. Đảng CSVN đã ngăn chặn bằng mọi cách hòng bịt miệng, bịt tai quần chúng, không cho nhân dân được hưởng quyền tự do thông tin, quyền tự do ngôn luận và những quyền cơ bản khác... làm cho Việt Nam ta không tận dụng được triệt để những thành tựu, những quan điểm tiến bộ ở trong và ngoài nước, cùng như không biết cuộc sống các nơi khác trên hành tinh này ra sao, không được phép nói xấu lãnh đạo đảng CSVN cho dù thế nào đi chăng nữa v.v... Như vậy, chẳng phải họ đã làm ngu dân đó sao? Tuy nhiên, mấy năm gần đây, do mạng lưới thông tin internet phát triển khó bề kiểm soát, lực lượng trí thức và một số bộ phận quần chúng bắt đầu có những biểu hiện "không ngủ yên rõ nét", thì giới lãnh đạo đảng CSVN đã phải loay hoay tìm cách qui chụp; chính vì điều này đã làm thò cái đuôi cáo ra ngoài, khiến chân tướng của kẻ phản bội, kẻ lừa gạt nhân dân suốt mấy chục năm cầm quyền đã lộ rõ nguyên hình.
Để xác minh sự phản bội của đảng CSVN với lợi ích của tổ quốc và nhân dân Việt Nam bằng chiêu bài "ổn định chính trị" thì chỉ cần nhìn ra Hoàng Sa, Trường Sa, ải Nam Quan, thác Bản Dốc (những nơi mà đảng CSVN tự ý bán cho Trung Quốc để được yên ổn vị trí lãnh đạo nhân dân của mình)...; chỉ cần nhìn vào bảng xếp hạng thứ tự về mọi mặt của nước ta so với cộng đồng thế giới (chính đảng CSVN cũng thừa nhận năm 2007 Việt Nam ta đứng thứ 2 châu Á về viện trợ nhân đạo từ Ngân Hàng Thế Giới, đứng đầu là Pakistan); chỉ cần hỏi thăm những gia đình ngư dân có người bị hải quân Trung Quốc bắn chết khi đang đánh cá trên vùng biển Việt Nam ngàn đời nay; chỉ cần hỏi thăm những nông dân bị cướp ruộng đang sống trong cảnh bần cùng; chỉ cần tự cân đối mức lương của chính mình với mức chi do lạm phát mấy năm nay; chỉ cần để ý đến mức sống, cũng như của chìm, của nổi của các lãnh đạo đảng CSVN; và chỉ cần lắng nghe những tiếng nói từ những luồng thông tin không chịu sự sai khiến của đảng CSVN; hoặc chỉ cần bạn thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình ở nơi đông người trên dải đất hình chữ S này v.v...
Đã lâu lắm rồi, đảng CSVN đã không làm tròn bổn phận của mình. Từ chuyện to lớn như lãnh hải, lãnh thổ đến chuyện xăng dầu, H5N1, dịch lợn tai xanh,... rồi cả chuyện vặt vãnh như Mắm Tôm cuối năm 2007, cấm bán hàng rong ở Hà Nội giữa 2008... đã chứng tỏ sự thiếu trách nhiệm đến mức không thể chấp nhận được. Đặc biệt là vấn nạn tham nhũng đã và đang không thể kiểm soát. Nó xuất hiện ở khắp mọi nơi, mọi ngõ ngách của cơ quan công quyền. Điều kỳ lạ ở đây là, tất cả những cơ quan công quyền đều xuất hiện bức tượng chân dung ông Hồ Chí Minh. Phải chăng người ta đưa ông Hồ Chí Minh vào để làm biểu tượng thiêng liêng cho tất cả cán bộ, nhân viên của cả cơ quan học theo phẩm chất, tư cách đạo đức của người khai sinh ra đảng CSVN này? Trớ trêu thay! Cứ nơi nào có tượng ông Hồ Chí Minh thì nơi đó có chuyện tham ô, hối lộ, cửa quyền, hách dịch, đàn áp, thiếu công bằng, mất dân chủ v.v...! Hẳn đây là một chuyện trùng khớp đau buồn đối với những ai coi ông Hồ Chí Minh là thánh thần của dân tộc. Trước kia, những ngôi chùa đều là nơi tu học Phật Pháp của các Tăng Ni và các phật tử, nhưng từ khi tượng ông Hồ Chí Minh được đưa vào thờ trong đó thì nơi ấy có những chuyển biến trái chiều với việc tu học Phật Pháp. Điều này thì có lẽ ai ai cũng biết nhưng hình như chưa ai dám nói ra, vì sợ làm tổn hại đến uy danh Hồ Chí Minh và đảng CSVN. Hơn thế nữa, người ta còn sợ tổn hại đến cuộc sống bình yên của mình cũng như gia đình do sự trả thù của đảng cầm quyền. Chẳng hiểu tại sao khi đảng CSVN tổ chức cuộc vận động học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thì chẳng những không đẩy lùi được các vấn nạn xã hội, mà các hiện tượng tham nhũng lại có chiều hướng ra tăng với qui mô và sự tinh tế gấp nhiều lần trước đó. Đây là cuộc vận động tốn kém và lãng phí tiền của nhất trong lịch sử mà chẳng có tác dụng gì, nếu như không muốn nói là phản tác dụng. Hầu hết nhân dân Việt Nam đều biết rằng, khi cuộc vận động ấy triển khai được hơn 1 năm thì ngay tại sân vận động thành phố Vinh - quê hương ông Hồ Chí Minh đã xảy ra vụ bạo động kinh hoàng (26-5-2008), cho người ta thấy thế nào là tình người, tình đồng bào hay tinh thần đoàn kết dân tộc cũng như sự ảnh hưởng của cuộc vận động ấy.
Đảng CSVN luôn muốn thể hiện sự đổi mới trong việc điều hành đất nước, nhưng tiếc thay, chẳng có mấy cái đổi mới ấy lại hợp với nguyện vọng và quyền lợi của đông đảo nhân dân. Việc sát nhập tỉnh Hà Tây vào Hà Nội là một sai lầm và tổn thất khủng khiếp đối với nhân dân Hà Tây và đất nước, nhưng lại có lợi ích to lớn với các lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN. Chính vì lẽ ấy mà Hà Tây vẫn thành Hà Nội, bất chấp mọi dư luận.
Chuyện ấy đã qua rồi nên không cần nói đến nhiều nữa. Tuy nhiên, sắp tới đây, các lãnh đạo đảng CSVN còn định tăng giá đăng ký xe ôtô, xe gắn máy và thu phí lưu hành, nhằm hạn chế hoặc giảm bớt lượng xe trong thành phố - thật là lố bịch, ngu dốt và tham lam hết chỗ nói. Phương tiện giao thông và việc lưu thông là một nhu cầu tất yếu của con người. Càng ngày người ta càng cố gắng cải thiện, nâng cấp cho vấn đề lưu thông nhằm duy trì hoặc nâng cao mức sống của chính bản thân mình. Dù chính phủ hay đảng CSVN có đánh thuế đến đâu, thì những nhu cầu ấy vẫn không bao giờ mất đi cả. Ấy thế mà đảng CSVN lại tranh thủ cơ hội vơ vét cho thỏa mãn lòng tham nếu như ai đó muốn duy trì, hoặc nâng cao mức sống của gia đình mình.
Sự ổn định chính trị như hiện nay là không cần thiết, nếu không muốn nói là cần phải đổi mới có tính triệt để. Dư luận cho rằng, trong nội bộ đảng CSVN đã xuất hiện phái cấp tiến, phái bảo thủ và hy vọng phái cấp tiến sẽ làm nên một điều kỳ diệu cho Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết anh chị em trí thức trong nước cho rằng: Các lãnh đạo của đảng CSVN đã bị tha hóa quyền lực ngay từ trong trứng nên không thể nào cải cách dựa trên nền tảng cộng sản được nữa; nó như một chứng bệnh nan y mà chỉ có cách thay máu mới có thể cứu vớt được. Sự đấu đá giữa phe bảo thủ và phe cấp tiến hiện nay trong nội bộ đảng CSVN, vẫn chỉ là tranh dành nhau miếng mồi, chứ hoàn toàn chưa có cơ sở nào đáng để nhân dân mong đợi. Mặc dù đang đấu đá với nhau, nhưng cả hai vẫn chung một mục đích là cố gắng duy trì vai trò lãnh đạo độc tài của đảng CSVN.
Trên tinh thần chung ấy, chúng đã thực hiện những hành vi tiểu nhân, đê tiện khi hành hung, bắt bớ, giam cầm, tù đày các nhà bất đồng chính kiến hoặc bất cứ ai đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình mà ảnh hưởng đến quyền lợi của lãnh đạo đảng CSVN. Thời gian gần đây cho thấy, lãnh đạo đảng CSVN giải quyết vụ Giáo xứ Thái Hà và 42 Nhà Chung bằng việc cho công an đóng giả lưu manh hành hung, quấy rối những người công giáo đang đấu tranh đòi đất bằng hình thức cầu nguyện.
Đảng CSVN đã bắt bớ và chụp mũ cho những người công giáo dám lên tiếng đòi công bằng và lẽ phải là những phần tử phản động; chúng cắt xén câu nói của đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, biến từ câu nói thiết tha với đất nước ấy thành một cái cớ để "đánh đĩ ngòi bút" của mấy tên văn sĩ đảng CSVN. Thời điểm mảnh đất 42 Nhà Chung được các lãnh đạo của đảng CSVN chia chác để làm vũ trường, khách sạn thì cộng đồng giáo dân đã lên tiếng đòi lại đất. Khiếu nại, kiện tụng dai dẳng mãi, cuối cùng lãnh đạo đảng CSVN biết nuốt không trôi nên ngay lập tức biến nó thành vườn hoa Hàng Trống. Đây là việc làm rất gian ngoa, xảo quyệt của các lãnh đạo đảng CSVN. Khi họ đã thực sự đuối lý và không thể có nó cho riêng mình thì biến ngay tức khắc thành tài sản của toàn thể nhân dân. Thế là từ khi khu đất 42 Nhà Chung nằm trong diện qui hoạch vườn hoa thì lãnh đạo đảng CSVN lại về thế thượng phong khi kích động nhân dân, phê phán giáo dân đòi mảnh đất này là hẹp hòi, ích kỷ.
Tuy nhiên, vì có quá nhiều điều khuất tất nên các lãnh đạo đảng CSVN đã rất lo ngại sự can thiệp và ủng hộ giáo dân của anh chị em sinh viên khu vực Hà Nội. Họ sợ nếu không quản lý chặt anh chị em sinh viên ngày 21-9-2008, thì rất có thể quá trình xây dựng khẩn cấp vườn hoa Hàng Trống (42 Nhà Chung) đã không thành. Chính vì vậy mới có công điện khẩn - Tối mật - Hỏa tốc đề ngày 19 tháng 9 năm 2008. Bằng công điện này, đảng CSVN đã hợp pháp cướp đi quyền được thông tin, quyền tự do ngôn luận, lập hội, biểu tình... của tất cả anh chị em sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp khu vực Hà Nội vào ngày Chủ nhật 21/9/2008 với lý do hết sức đơn giản mà "hiệu quả", xin được trích lại như sau:
"...Để góp phần đảm bảo an ninh trật tự và an toàn giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo yêu cầu các đồng chí Giám đốc, Hiệu trưởng các trường:
1. Có biện pháp cụ thể, bằng các hình thức phù hợp tổ chức cho học sinh, sinh viên của nhà trường học tập, sinh hoạt tập thể tại trường trong ngày Chủ nhật 21/9/2008 để quản lý học sinh, sinh viên. Chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn TNCS Hồi Chí Minh, Hội Sinh viên để triển khai hoạt động này.
2. Chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trên địa bàn để phát hiện và xử lý kịp thời các nguy cơ gây mất an ninh, trật tự.
3. Tổ chức tốt việc trực ban lãnh đạo, bố trí cán bộ để sẵn sàng giải quyết các sự việc phát sinh"
Đề nghị các nhà trường tổ chức thực hiện nghiêm túc các nội dung trên. Trong trường hợp có vấn đề phức tạp xảy ra cần có báo cáo ngay về Bộ theo số điện thoại: 04.8694.916 hoặc 0913.319904. Email: nnhuy@moet.gov.vn (hết trích).
Điều đáng nói tiếp theo của công điện trên là phần chữ viết tay ở dưới cùng: "chi 10,000 đ/1h/s tập trung ngày CN. P.TCKH lên danh sách đáp ứng y/c công điện khẩn". Thế nhưng sự thật là: chưa một sinh viên nào tập trung ngày 21/9/2008 nhận được số tiền mười nghìn đồng ấy tính đến thời điểm hôm nay 21/10/2008. Cứ thử ước tính, tổng số học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp khu vực Hà Nội có lẽ cũng lên đến hàng trăm nghìn người, số tiền sẽ là không nhỏ. Chưa một sinh viên nào nhận được số tiền ấy, vậy tiền đó đi đâu nếu như nó không rơi vào túi các quan chức có thẻ đảng viên đảng CSVN? Chẳng lẽ 145 "đồng chí" trong Ban Chấp Hành TW Đoàn Khóa IX lại bỏ mặc trách nhiệm của mình? Các "đồng chí" Võ Văn Thưởng, Lâm Phương Thanh, Nguyễn Hoàng Hiệp đâu cả rồi? Các "đồng chí" Lê Hoàng Anh, Mai Bích Ngọc, Phạm Phương Chi, Nguyễn Mạnh Dũng, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Long Hải, Ngọ Duy Hiểu v.v... cũng chắc chắn không thể không biết đến công điện khẩn số 423/ BGDĐT-CTHSSV này. Tiếc thay, các "đồng chí" đều là đảng viên đảng CSVN và đều nằm trong danh sách thế hệ tiếp theo của các lãnh đạo đảng CSVN đương thời. Vì vậy các "đồng chí" không muốn, hoặc không thể lên tiếng vì có liên quan chút ít thì cũng là điều dễ hiểu.
Chẳng cần thông minh lắm cũng nhận ra được bức tranh toàn cảnh Việt Nam hiện nay, thế nhưng đảng CSVN vẫn tự hào và vỗ về dân chúng rằng: đất nước chúng ta ổn định chính trị. Kỳ thực, sự ổn định như hiện nay là tai họa đối với nhân dân mà kẻ gây tai họa chính là các lãnh đạo đảng CSVN. Nói cách khác, chúng ta đang sống trong một ngôi nhà được xây bằng những phế liệu cũ kỹ, không có tiện nghi phù hợp với nhu cầu cuộc sống hiện tại; nhưng vì ông chủ lười biếng, ngu dốt, ham chơi nên không chịu tháo dỡ, sửa chữa, nâng cấp, khiến những thành viên trong gia đình đều phải sống vất vả trong sự thiếu thốn, dột nát, bẩn thỉu, thối tha...; tất nhiên, câu cửa miệng của ông chủ gia đình vẫn là: chúng ta tự hào được sống trong ngôi nhà ổn định, không như nhà hàng xóm, cứ xây lên một thời gian không ưng ý là lại tháo dỡ thì làm sao mà phát triển lên được...
Hơn lúc nào hết, đảng CSVN lúc này cần những đối tác để chia sẻ gánh nặng trách nhiệm với nhân dân, với đất nước; đồng thời đảng CSVN cần những đối tác để cùng thi thố tài năng, cùng giám sát lẫn nhau và như vậy tham nhũng có cơ hội đẩy lùi cũng không có gì là bất ngờ. Tuy nhiên, lãnh đạo đảng CSVN vẫn cố tình ngụy biện cho sự tham quyền cố vị bằng chiêu bài "ổn định chính trị". Thực tế cho thấy, từ khi đảng CSVN độc quyền lãnh đạo đất nước cho đến nay chưa hề có cuộc đảo lộn chính trị nào, vậy tại sao chúng ta vẫn là nước nghèo đói, không phát triển?
Nói tới đây một số người bảo thủ lại cho rằng: mấy chục năm trước nhân dân đều sống trong nhà tranh vách đất, nay nhà nào cũng được xây cất kiên cố, có ti vi, có xe cộ v.v... thì tại sao lại bảo là đất nước không phát triển?
Để trả lời câu hỏi này chẳng khó khăn gì, mấy năm trước thôi, đứa trẻ học lớp 1 (nghe, nói, đọc, viết đều chưa thành thạo); nhưng 4 năm sau đứa trẻ ấy lại lên đến lớp 5 (có thể làm bài toán lớp 4 không khó khăn gì) nhưng so với các bạn trong lớp thì nó vẫn là đứa học kém nhất. Đứa trẻ ấy là hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam, còn những đứa trẻ cùng lớp là hình ảnh thu nhỏ của các quốc gia khác trên trái đất này. Mấy chục năm nay chưa hề có cuộc đảo lộn chính trị nào vậy tại sao con người Việt Nam lại không có những quyền lợi như những con người ở các quốc gia khác?
Thật buồn cho các anh chị em sinh viên và các đoàn viên TNCSHCM! Các bạn đã bị lợi dụng một cách triệt để và bị lừa gạt một cách trắng trợn. Thay vì ngày 21/9/2008 các bạn có thể có cơ hội để biết những thông tin nóng ở Hà Nội, các bạn cũng có thể trở thành một người yêu nước thực sự, một người biết vì công bằng, dân chủ, văn minh và sự tiến bộ của đất nước thì các bạn lại phải đến trường nghe giảng giải thế nào là công dân mẫu mực, thế nào là yêu nước một cách sáo rỗng. Đã đến lúc các bạn nên nhìn nhận lại sự khác biệt to lớn giữa yêu nước và yêu thể chế chính trị của đất nước lúc này (độc tài đảng trị).
Yêu nước trước hết phải là yêu thương đồng bào. Biểu hiện cho tình yêu thương đồng bào sẽ không có gì đúng và cần thiết hơn là đấu tranh cho sự công bằng, dân chủ và nhân quyền. Muốn đồng bào (cả các bạn) được sống trong một đất nước công bằng, dân chủ, tiến bộ và đảm bảo nhân quyền hơn thì không có con đường nào khác là xóa bỏ chế độ độc tài ở nước ta. Cần phải xóa bỏ sự thống trị độc tài của đảng CSVN. Tôi không hề kích động các bạn xóa bỏ đảng CSVN, bởi vì đảng CSVN có quyền được tồn tại mặc dù đảng này chẳng những tự ý bán đất bán biển cho Trung Quốc mà còn gieo rắc biết bao đau thương cho dân tộc Việt Nam suốt mấy chục năm cầm quyền. Hơn nữa, nạn tham nhũng là hệ quả của sự tha hóa quyền lực và đảng CSVN ngày càng chứng tỏ không thể giải quyết được vấn đề này.
Vận mệnh của đất nước, tương lai tươi đẹp hơn của dân tộc đang nằm trong tay của những trí thức trẻ hôm nay. Ngày nào các bạn thực sự cùng nhau đứng lên thì ngày ấy sẽ là thời điểm chấm hết chế độ độc tài.
Tóm lại, hàng nghìn năm nay người Việt ta vẫn coi trọng những con số lẻ như: 1, 3, 5, 7, 9 bởi nhiều lý do khác nhau, nhưng có một lý do xuyên suốt mà các số chẵn không được sự ưu ái đến vậy là vì các số chẵn tượng trưng cho sự tĩnh, trong khi các số lẻ lại tượng trưng cho sự động, động sẽ sinh ra biến đổi và có biến đổi mới có phát triển. Đảng CSVN chỉ mong cầu sự ổn định chính trị, và sự thật đất nước chúng ta đã ổn định chính trị nhưng song song với nó là sự nghèo nàn tụt hậu và bất công mấy chục năm nay. Đã đến lúc cần phải có biến động lớn, cần phải xây dựng lại một ngôi nhà mới cho mình mà không được phép xây trên cái nền móng cũ. Cái nền móng cũ quá yếu đuối, không thể đáp ứng được ngôi nhà mới, cao, to, và đầy tiện nghi nữa.
Hiện tượng "Bát Đế Vân Du" xuất hiện thường xuyên mấy năm gần đây ở Đền Đô là điềm báo về tuổi thọ 8 thập kỷ của đảng CSVN sắp hết. Hiện tượng rắn trắng quấn lên ngai các Hoàng Đế ở đền Trần (Nam Định) 3 ngày (mồng 7, 8, 9 Tết Mậu Tý) đầu năm nay là điềm báo thời điểm đất nước sang trang mới và sự trừng phạt dành cho những kẻ bán nước, hại dân đang đến gần. Hiện tượng sét đánh sập phần cổ lâu trên cửa An Hòa phía Bắc kinh thành Huế làm bộ rồng phượng tan tành vào 16 giờ ngày 4-6 năm nay (đúng dịp đảng CSVN lần đầu tiên cho tổ chức lễ tế Đàn Nam Giao) cũng là một điềm báo về sự không hài lòng của Đất - Trời dành cho đảng CSVN.
Tin đồn về Sấm Ký không biết tự bao giờ nhưng mới được phát hiện gần đây ở Thăng Long Tứ Trấn (4 ngôi đền linh thiêng trấn 4 phương thành Thăng Long xưa) và đền Đồng Cổ (nơi các triều đại phong kiến thường tổ chức hội thề Trung-Nghĩa tại Thăng Long) bằng chữ Nôm, cũng báo cho chúng ta biết được thời điểm chế độ độc tài sẽ kết thúc vào năm Thăng Long tròn 1,000 tuổi.
Vậy còn chờ đợi gì nữa, hỡi các anh chị em sinh viên! Thánh thần cũng đã phải nổi giận trước sự nhu nhược, yếu kém nhưng lại tham lam của đảng CSVN. Đã đến lúc mỗi một anh chị em sinh viên cho dù là đoàn viên ĐTNCSHCM, hay là đảng viên ĐCSVN đi chăng nữa, cần phải là những lá cờ đầu, là ngọn đuốc rực lửa thắp sáng trang sử mới của dân tộc. Tương lai đất nước đang nằm trong tay thế hệ trẻ hôm nay.
Thời điểm 1,000 năm Thăng Long là thời điểm dân tộc Việt Nam từ bỏ chế độ độc tài bước sang trang sử mới - trang sử của Tự Do, Công Bằng, Dân Chủ và Cường Thịnh mà công đầu thuộc về các sinh viên Hà Nội. Sinh viên Hà Nội có thể lan tỏa và truyền bầu nhiệt huyết cho các địa phương, các thành phần xã hội cũng như các sinh viên của khắp các tỉnh thành trong cả nước. Đây là thời cơ mà các lãnh đạo đảng CSVN không thể có lý do gì ngăn chặn anh chị em xuống đường, cùng với những dòng người như nước cuốn từ mọi miền tổ quốc đổ về thủ đô. Với sự xuất hiện của nhiều chính khách đến từ nhiều quốc gia khác nhau, cũng như sự quan tâm đặc biệt của các hãng truyền thông uy tín trên thế giới trong dịp này, đảng CSVN sẽ không thể áp dụng những hình thức đàn áp mạnh tay với đông đảo anh chị em sinh viên và quần chúng nhân dân giữa Hà Nội. Đây là cơ hội nghìn năm có một, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và điềm báo của Thánh Thần cùng Trời Đất.
Vẫn còn hơn 700 ngày nữa để chúng ta chuẩn bị cho một cuộc xuống đường lớn nhất trong lịch sử Việt Nam này. Hãy nhanh nhanh loan báo và xây dựng kế hoạch để cùng nhau đi vào lịch sử.
(Tiếp theo sẽ là bài "Kế Hoạch Xuống Đường Lịch Sử").
Việt Nam, ngày 18 tháng 10 năm 2008

...


...

*Bức công điện của BGĐ&DT


Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
tuyet_ngo
Gold Member
*****
Offline



Posts: 912
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #24 - 25. Jan 2009 , 06:38
 

"Bày mực tàu giấy đỏ, trên phố đông người qua"


Ngày 25 tết Kỷ Sửu, Lần đầu tiên UBND Hà nội đứng ra tổ chức “Phố Ông Đồ”, nơi vỉa hè Văn Miếu – Quốc Tử Giám, nhưng nhiều cụ đồ có hàng chục năm ngồi viết thư pháp trên con phố này, như nhà Thư pháp Cung Khắc Lược, nhà thư pháp trẻ Trịnh Tuấn…, đã tỏ thái độ phản đối BTC, bằng cách không chấp nhận vào ngồi trong “lều bạt” mà tự trải chiếu ngồi vỉa hè, như đúng câu vè “Ông đồ vỉa hè, cụ nghè ngồi xổm”.


...


Tiến sĩ Cung Khắc Lược, được nhiều người coi là một trong “tứ trụ Thư pháp Việt Nam” (cùng các bậc lão thành về thư pháp: Lê Xuân Hoà, Nguyễn Văn Bách, Lại Cao Nguyện) đang viết chữ tặng miễn phí cho nhưng ai yêu thích nghệ thuật thư pháp.

...


Ông phải van lạy lực lượng công quyền, khi họ thẳng tay giật tung những bức thư pháp mà ông đã mất nhiều công sức thể hiện.


... ...



Nguồn:
Dòng Chúa Cứu Thế


           
Back to top
 
 
IP Logged
 
tuyet_ngo
Gold Member
*****
Offline



Posts: 912
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #25 - 17. Apr 2009 , 05:04
 


Vietland : 17 Apr, 2009 - 11:30 - diet cong
Nhận được bài viết ngắn của một người bạn trong nước, xin gửi đến bạn đọc:


Tôi Có Còn Là Người Việt Nam?




Việt Nam có còn là cái tên của một đất nước với hơn 4.000 năm Văn Hiến dựng nước và giữ nước hay không? Giỗ Tổ Hùng Vương ngày mồng 10/3 AL đã trôi qua, thế nhưng bất cứ ai còn có một trái tim mang dòng máu Việt dường như vẫn còn ngậm ngùi cho vận số của dân tộc, của đất Việt thân thương. Với những người con xa xứ đó là những nỗi uất nghẹn khôn tả, lòng đau đáu hướng về quê hương xa xăm mà rơi lệ.Với những người con đang sinh sống tại quê cha đất tổ càng đau khổ hơn.Ngày Giỗ Tổ qua đi nhưng vẫn ngồi bần thần tự hỏi : Tôi có còn là người Việt Nam hay không? Tôi có còn sinh sống trên chính mảnh đất oai hùng của Ông Cha hay không? ....

Thật vậy, hơn 30 năm,dưới sự cai trị của nhà cầm quyền cộng sản, hãy thử làm một việc đơn giản mà bất cứ ai cũng đều phải làm hàng ngày : Đi chợ. Từ gánh hàng rong rau cải cho đến quầy hàng trái cây... Bất cứ ở đâu cũng có những lời gọi mời như nhau: "Bắp cải Trung Quốc mới về tươi xanh, chị mua ăn thử đi...Lê Trung Quốc giòn ngọt mới về tới, anh chị mua vài kg mở hàng..." Nhìn quanh khắp chợ đầy dẫy những tim gan gà,vịt...tất cả đều đông lạnh thành từng khối và được chào hàng : " Nhập khẩu từ trung quốc đó cô!" ???.

Những việc trên đây tuy nhỏ nhưng phải chăng lại là những điều bất bình thường?.Người nông dân Việt Nam vẫn dầm mưa, dãi nắng, vẫn cần mẫn cày sâu cuốc bẫm với ruộng vườn, thế nhưng đâu mất rồi ba chữ " Hàng Việt Nam ". Tôi đang sống ở Việt Nam, nhưng sao lại đi chợ bán toàn hàng Trung Quốc???.Tôi là ai? Tôi đang ở đâu???

Nhìn xa hơn một chút, các công ty Việt Nam sản xuất các mặt hàng gia dụng nhưng khâu in ấn lại toàn chữ Trung Quốc. Phải tìm thật kỹ mới thấy được dòng chữ " made in VietNam" bé xíu, nằm khá khiêm tốn ở một góc cuối của sản phẩm. Đặt chân đến một khu phố mua sắm sầm uất của thành thị, một vài câu xã giao với người bán bằng tiếng Tàu là có thể mua được ngay một món hàng với giá rất " hữu nghị" vì là "chỗ quen biết". Tôi là người Việt Nam hay người Trung Quốc???.Chân bước đi mà đầu óc thì cứ ngơ ngác.Tôi là ai?....
Trên đây chỉ là những việc nhỏ, vẫn thường bắt gặp hàng ngày, thế nhưng sức ảnh hưởng của nó thật sự khủng khiếp quá. Người dân Việt Nam đang tự đánh mất mình vì thị hiếu? Vì sự tồn tại của cuộc sống?....Tất cả chỉ là một phần nhỏ? không ai có thể quên dòng máu đang chảy trong người mình là dòng máu Lạc Hồng, được truyền mãi từ đời này sang đời khác sự kiên trung, bất khuất trước bất cứ kẻ ngoại bang xâm lược hùng mạnh nào.

Sự thể ngày hôm nay nguyên nhân chính là do tập đoàn cộng sản gây ra, chính họ là thủ phạm, là những kẻ bán rẻ linh hồn và khối óc cho đàn anh Trung Cộng, tiếp tay với giặc phương bắc thôn tính cả dân tộc. Giặc cộng hôm nay đâu chỉ cắt đất, dâng biển. Rồi sẽ có một ngày không xa, tập đoàn cộng sản đương thời sẽ dâng luôn cả tiếng nói của dân tộc mình cho Trung Cộng
.


Thảm cảnh đó đã và đang diễn ra được khởi đầu bằng việc mở cửa cho Trung Quốc vào khai thác boxit với hàng ngàn nhân công người Trung Quốc rầm rộ kéo sang Việt Nam. Từ thành thị đến nông thôn và giờ là Tây Nguyên khắp nơi tràn ngập hàng Trung Quốc... Giờ thì là sự đổ bộ của người Trung Quốc....Thật là ngậm ngùi và chua xót! Tôi có còn là người Việt Nam hay không?



Thúy Nga
Việt Nam
Back to top
 
 
IP Logged
 
HOA_HUNG
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 17
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #26 - 03. May 2009 , 22:19
 
Tại miền Đông Nam phần, có làng Bến Cá là địa danh văn hóa của vùng đất được người Việt định cư khá sớm, nay thuộc xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Tên Bến Cá có từ bao giờ thật khó mà khảo chứng, nhưng khi nhắc đến địa danh này, mọi người đều hiểu nó đồng nghĩa với vùng Tân Triều, một nơi nổi tiếng về bưởi Biên Hòa. Báo Đồng Nai ghi nhận  toàn cảnh về  vùng đất này  như sau.
Từ thế kỷ XIX, địa danh Bến Cá là huyện lỵ huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa khi hàng loạt các tên của chợ, phố, cầu gắn liền với nó. Sách "Đại Nam nhất thống chí" cho biết: chợ Bình Thảo, thôn Bình Thảo, huyện Phước Chánh có tên nữa là chợ Ngự Tân - tức Bến Cá, người buôn tấp nập, đường thủy, đường bộ giao thông, hàng ngoài và thổ sản, giang vị sơn hào không thiếu thứ gì, là một chợ lớn ở miền núi. Vùng Tân Bình còn dấu vết của một con rạch mang tên Bến Cá, được sử sách chép rằng: do lụt lội vào năm 1774 làm xói lở, cù lao Ngô và cù lao Tân Triều chia làm hai, ở giữa là con sông nhỏ, nước cạn và hẹp, nước sông nhỏ chảy ngược ra sông lớn không theo tiết. Người dân địa phương có câu ca dao "Nước sông trong sao lại chảy hoài. Thương người đáo xứ lạc loài tới đây..." để  giải  thích hiện tượng này.
Ở Bến Cá đã phát  giác một số di vật cổ bằng đá của người tiền sử nhưng là những phát hiện ngẫu nhiên, lẻ tẻ chưa thể chứng minh đây là vùng đất con người cổ đã sinh sống. Có chăng, ở đây có sự liên hệ với di chỉ thời đại đồ đá ở vùng Đại An cách khoảng mấy cây số về hướng Bắc. Bến Cá xưa, Tân Bình nay là địa phận có nhiều đình chùa. Hầu hết các đình ở đây đều có sắc phong nhưng qua thời gian, một số không còn lưu giữ được. Đình Bình Ý còn giữ được sắc phong thời Tự Đức và một số châu bản liên quan đến việc đo đạc ruộng đất thời Minh Mạng. Lễ hội Kỳ yên là lễ lớn, ở các đình - một nét sinh hoạt văn hóa của người dân địa phương. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Bến Cá là một trung tâm Phật giáo của Nam bộ với sự hiện diện của chùa Kim Cang và bảo tháp Tổ sư Nguyên Thiều dòng Lâm Tế đời thứ 38. Bên cạnh đạo Phật, đạo Công giáo cũng được truyền bá vào đây khá sớm. Họ đạo Tân Triều là một trong những họ đạo được hình thành sớm ở miền Đông Nam bộ.

Cũng theo báo Đồng Nai, Bến Cá nổi danh về bưởi Tân Triều với nhiều loại như: bưởi đường, bưởi thanh, bưởi cam, bưởi ổi, bưởi long, bưởi xiêm... Đất Tân Triều màu mỡ phù sa, nguồn nước dồi dào nên thích hợp với cây bưởi phát triển nhanh, sản lượng cao, chất lượng tuyệt hảo. Vào mùa thu hoạch, vườn bưởi cây trái xum xuê, trái vàng rực trên cành, oằn nặng dưới tàng cây, sà trên mặt đất, đong đưa trong gió. Nhiều vườn bưởi trở thành địa điểm quen thuộc của du khách đến thăm. Hiện nay, phần lớn diện tích Bến Cá và các vùng phụ cận được quy hoạch phát triển cho giống bưởi.Người dân Bến Cá rất say mê với công việc và có lòng hiếu khách, chân tình. Đến nơi đây, con người như hòa trong hương đồng cỏ nội, chốn quê yên lành, thưởng thức hương bưởi danh tiếng một vùng.

Back to top
 

Một Mình vĩnh Biệt Cao Nguyên &&Mimosa Trả Cho Người Núi Non
 
IP Logged
 
HOA_HUNG
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 17
Gender: male
CÔN ÐẢO QUA GIÒNG SỬ VIỆT
Reply #27 - 09. Aug 2009 , 14:55
 
CÔN ÐẢO QUA GIÒNG SỬ VIỆT

MƯỜNG GIANG


   Thái giám Trịnh Hòa sống vào thời nhà Minh, tên thật là Mã Tam Bảo sinh tại thành phố Côn Minh tỉnh Vân Nam. Suốt 30 năm từ 1405-1433, Trịnh Hòa bảy lần chỉ huy đoàn chiến thuyền của Trung Hoa chu du thiên hạ, chủ đích khoa trương với các quốc gia nằm ven biển từ VN tới tận Hồng Hải thuộc Phi Châu. Theo sử liệu còn ghi, thì chuyện làm vô duyên này của người Tàu chỉ để khoe sự giàu có hùng mạnh với thế giới, chứ không hề thu lượm được một kết quả nào về việc mở rộng đất đai lảnh thổ, phát triển thương nghiệp kinh tế..

   Mai mĩa nhất là mỗi lần đội thuyền rời nước ra đi, đều mang theo nhiều vàng bạc châu báu nhưng khi trở về thì thuyền trống không, đã khiến cho quốc khố và tài nguyên cả nước gần như cạn kiệt. Ðó là nguyên cớ khiến cho nhà Minh sau đó bị diệt vong, đất nước và dân tộc Tàu bị người Mãn Thanh đô hộ gần mấy thế kỷ. Rốt cục chỉ có Trịnh Hòa là đạt được danh vọng cá nhân qua tước hiệu ‘ nhà hàng hải ‘ cùng những miếu đền thờ rãi rác khắp nơi có Hoa kiều sinh sống. Tại VN, dấu vết còn lưu lại của Trịnh Hòa là các chùa miếu của Hoa kiều thờ ‘ ông Bổn ‘ và một ngôi mộ hiện còn tại đảo Phú Quý (Bình Thuận), mà theo truyền thuyết nói là của một binh sĩ nhà Minh dưới trướng của thái giám Trịnh Hòa..

   Ðiều này cho thấy người Tàu không hề dính dấp gì tới những đảo biển của VN như quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quý, Phú Quốc, Côn Ðảo.. Tất cả những lảnh thổ của VN bị giặc Tàu tướt đoạt cưởng chiếm từ năm 1949 tới nay. đều do Hồ Chí Minh và Cộng đảng dâng bán.. Sắp tới sẽ là quần đảo Côn Sơn của ta, chắn chắn sẽ được đảng lên tiếng xác nhận : Ðó là của Tàu lâu đời vì có cột mốc do thái giám Trịnh Hòa cắm, như tin tức mới được phổ biến từ trong nước..

   Không giống như hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm cheo leo ngoài rìa hải phận quốc tế, hầu hết các đảo đều không có người ở. Trái lại quần đảo Côn Sơn chiếm một tầm quan trọng đối với nước ta về các phương diện lịch sử, địa lý, kinh tế và chính trị lẫn quân sự. Nếu CSVN dám bán vị trí quan trọng số 1 này của dân tộc cho Tàu đỏ, thì quả thật ngày tàn của chúng đã tới !

    Côn Sơn nằm về hướng đông nam nước ta, có tọa độ tứ 106,31 ố 106,45 độ (kinh tuyến đông) và từ 8,34 ố 8,49 độ (vĩ tuyến bắc). Nhìn trên bản đồ VN, ta thấy Côn Ðảo hay Côn Sơn có hình dạng giống như một con gấu lớn đang vùng vẫy trong sóng gió biển Ðông. Ðảo lớn nhất thường được gọi là Côn Lôn, cách Vũng Tàu 97 hải lý (180 km), cách cửa sông Hậu 83 km, gồm 16 đảo với tổng diện tích 77,28 km2. Trên đảo còn lưu lại rất nhiều di tích lịch sử từ thời chúa Nguyễn Ánh tẩu quốc, tới thời các nhà cách mạng VN chống thực dân Pháp trước tháng 7-1954. Từ đất liền đến đảo có thể dùng thuyền bè hay phương tiện hàng không (chừng 1 giờ bay). Dân số tại Côn Sơn hiện nay chừng 2000 người, tất cả đều là cán bộ đảng cùng với thân nhân gia đình làm việc tại đây.

       Theo sử liệu thì quần đảo Côn Sơn được sáp nhập vào lảnh thổ của các chúa Nguyễn Nam Hà rất sớm. Do đó vào năm Bính Dần (1686), chúa Nguyễn đã cho một thương gia người Pháp tên Verret đến mở cửa hàng ở đảo Côn Lôn (Côn Ðảo) ngày nay. Trên các bản đồ hàng hải quốc tế xưa nay, Côn Ðảo được gọi là Paulo Condor.

     Côn Sơn gồm 16 đảo nhỏ lớn, được gọi bằng những tên rất mộc mạc bình dân như Hòn Bà, Hòn Bông Lau, Hòn Tài Lớn, Hòn Tài Nhỏ (Hòn Thỏ), Hòn Trác Lớn, Hòn Trác Nhỏ, Hòn Bảy Cạnh, Hòn Vung, Hòn Trọc, Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Nhỏ, Hòn Trứng, Hon Cau và Hòn Côn Lôn lớn nhất. Ðây là mồ chôn của không biết bao nhiêu người VN yêu nước đứng lên chống lại giặc Pháp xâm lăng từ năm 1862 ố tháng 7/1954. Ngày 30-5-1979, CSVN lập Ðặc khu Vũng Tàu-Côn Ðảo gồm thành phố Vũng Tàu, xã Sơn Long (đảo Long Sơn tỉnh Phước Tuy) và quần đảo Côn Sơn thành Ðặc khu Vũng Tàu-Côn Ðảo.

     Vì nằm giữa biển nên Côn Ðảo có khí hậu rất dễ chịu với nhiệt độ trung bình 26,9 độ C. Các đảo lớn nhỏ đều rợp bóng dừa và quang cảnh trên mỗi đảo đều có bản sắc riêng như Hòn Trứng có nhiều giống chim quý lạ, còn vịnh Côn Sơn là giang sơn của Ðồi Mồi, Cá Heo và Rùa Biển. Trong khi đó trên các vách núi trên đảo, có rất nhiều Sóc, Kỳ Ðà và chim Hải Yến tới làm tổ trong mùa sinh sản
Back to top
« Last Edit: 09. Aug 2009 , 14:59 by HOA_HUNG »  

Một Mình vĩnh Biệt Cao Nguyên &&Mimosa Trả Cho Người Núi Non
 
IP Logged
 
HOA_HUNG
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 17
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #28 - 09. Aug 2009 , 14:58
 
Ðảo lớn nhất trong nhóm thời VNCH được gọi là Phú Hải (Côn Lôn Lớn), còn Pháp thì kêu là Grande Condore. Ðảo có diện tích 51,52 km2, chiều dài 15km, rộng 9 km, chiếm 2/3 diện tích quần đảo Côn Sơn. Ðây là trung tâm hành chánh quân sự của Ðặc Khu. Hòn Côn Lôn Nhỏ hay là Hòn Bà nằm về hương tây nam của Hòn Lớn, chỉ cách nhau một rặng san hô chừng 20m gọi là Cửa Tử (Họng Ðầm). Hòn Bà có diện tích 5,5450 km2, trên đảo có một đỉnh núi cao 321m từ xa nhìn giống như dáng vóc của một phụ nữ đang nằm nhìn trời nên mới có tên là Ðỉnh Tình Yêu.

     Ngoài hai đảo lớn trên còn có Hòn Bảy Cạnh (Phú Tường), thường được gọi là Bãi Cạn vì vào mùa nước ròng, vùng biển ngăn cách hai hòn Côn lôn và Bảy Cạnh là một bãi cát trắng. Ðảo này án ngữ trước mặt thị trấn Côn Sơn với diện tích 5,500 km2, trên đảo có ngọn Hải đăng được Pháp xây dựng từ năm 1884 với tầm xa tới 70 km, đến nay vẫn còn hoạt động. Về phiá đông cách thị trấn Côn Sơn chừng 12 km có Hòn Cau (Phú Lệ) với diện tích 1,800km2. Ðảo được một phụ nữ tên Võ Thị Thiết khai thác hơn 100 năm trước nên còn được gọi là Xóm Bà Thiết, hiện nay mộ bà vẫn còn. Hòn Cau nổi tiếng có nhiều chim Hải Yến và một giống Cau quí to trái võ hồng, rất được mọi người ưa chuộng...



           Những đảo nhỏ còn lại như Hòn Bông Lan (Phú Phong) hình dáng giống miệng bánh bông lan có diện tích 0,200 km2. Hòn Vung hay Vọng (Phú Vinh) giống cái vung có diện tích 0,150 km2. Hòn Trọc hay Hòn Trai (Phú Nghĩa) có nhiều ngọc trai, diện tích 0,4 km2. Hòn trứng hay Hòn Ðá Bạc ( Phú Thọ, Roche Blanche) có diện tích 0,100 km2 là đảo qui tụ nhiều loại chim biển nhất tại khu vực Côn Ðảo.



           Theo các nhà địa chất học thì quần đảo Côn Sơn trước đây là phần cuối của rặng Trường Sơn nhưng sau một cơn địa chấn dữ dội bị tách ra, nên hầu hết các đảo lớn nhỏ đều được xây dựng trên một nền móng cấu tạo bằng lớp nham thạch rất vững chắc. Núi đá chiếm tới 88,4 % diện tích, phần lớn nằm trên đảo lớn Côn Lôn như núi Thánh Giá (577m), Chúa (515m), Nhà Bàn (356m), Tàu Bể (259m) ..



           Vì nằm giữa đại dương nên Côn Sơn thường hứng chịu nhiều cơn giông bảo tàn phá nhà cửa của đồng bào. Ðảo không có sông lớn mà chỉ có hai con suối nhỏ, một chảy ngang qua chân núi Chúa rồi ra biển tại mũi Lò Vôi. Suối còn lại chảy vào thị trấn trước khi ra cửa An Hội. Ðất thổ cư trồng trọt chỉ có 3,2% , mùa mưa từ tháng 5 ố 11 dương lịch.



           Nhiều chứng tích tìm được tại Côn Ðảo vào ngày 28-4-1944, cho thấy nơi này đã có người sinh sống từ lâu với các vật dụng như lưởi rìu, cuốc, đục làm bằng đá.. đồng niên kỷ với các di chỉ đã tìm được tại Nam Phần. Ngoài ra còn có nhiều đồng tiền vàng khắc hình Hoàng đế Charles V (1521) của Y Pha Nho cũng như các đồ cổ quí và đồ trang sức vàng ngọc chôn theo tại các ngôi mộ cổ. Nhưng quan trọng nhất là sự hiện diện của người Việt đã sinh sống tại đây từ nhiều thế kỷ trước tại các vùng An Hải, An Hội, Cỏ Ống (Côn Lôn) hay Xóm Bà Thiết ở Hòn Cau.



           Quần đảo Côn Sơn cũng được nhắc tới trong ‘ Ðại Nam Nhất Thống Chí ‘ phần viết về tỉnh Vĩnh Long, qua danh xưng ‘ Quan Tấn Côn Lôn Bảo ‘.Sách trên ghi rằng ‘ Thành đất Côn Lôn ở trên Hòn Bảo giữa biển về phía đông nam Vĩnh Long. Thành có chu vi 50 trượng, 8 thước 9 tấc, cao 4 thước 3 tấc. Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) xây thành này và đặt tên là Thanh Hải Bảo, trực thuộc tỉnh Gia Ðịnh có 2 cửa, 1 pháo đài, 1 kỳ đài. Ðời Minh Mệnh thứ 21(1840) đảo thuộc Hạt Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) trùng tu lại thành cũ và đặt tên Côn Lôn Bảo.



           Sách Gia Ðịnh Thành Thông Chí cũng chép ‘ Ðảo nằm giữa Ðông Hải, thuyền khởi hành từ cửa Cần Giờ tới đảo mất 2 ngày đêm. Trên đảo có đất trồng được lúa đậu và các gia súc trâu, ngựa. Trên các ngọn núi cao không có thủ dữ cọp beo.. Có thôn An Hải cũng là Ðội Thanh Hải, ngoài nhiệm vụ giữ thành còn cung ứng cho triều đình các loại cống phẩm tại bản địa như yến sào, ốc tai voi, đồi mồi, rùa biển (ba ba), mây sa đằng. Khắp đảo có nhiều cỏ tốt nên vào năm Canh Tuất (1790) được chọn làm nơi nuôi ngựa chiến cho quân đội của chúa Nguyễn Ánh.



           Xưa nay Côn Ðảo luôn là một vị trí chiến lược quan trọng nhất của VN trên biển Ðông. Tất cả tàu thuyền từ Bắc Á , Bắc Mỷ xuống Ấn Ðộ Dương hay ngược lại đều phải ngang qua điểm hẹn giao thương quốc tế này. Nên những mỹ danh mà thế giới đã tặng cho Côn Ðảo như ‘ Cái rốn của hai châu Á-Úc ‘.Từ đầu thế kỷ XVI các nước Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, Pháp, Ðức kể cả Mã Lai .. qua các chuyến hải hành, đều ghé Côn lôn để lấy nước ngọt.. Cái tên Poulo Condore là do người Tây Ban Nha đặt cho Côn Ðảo.



           Côn Ðảo khởi thủy lệ thuộc miền Thủy Chân Lạp của Khờmer về phương diện địa lý. Năm 1686 (thế kỷ XVII), một người Pháp là Veret tới Côn Lôn mở thương hiệu và xúi công ty Ðông Ấn của Pháp chiếm đảo này nhưng lúc đó thực dân Pháp đang bị thực dân chèn ép và chiếm hết quyền lợi tại thuộc địa Ấn Ðộ, nên không để ý tới Côn Ðảo. Năm 1702 thực dân Anh đem chiến thuyền từ Mã Lai tới chiếm đảo này và cho thương gia Doughty làm chúa toàn vùng. Thực dân Anh muốn biến quần đảo Côn Sơn thành một căn cứ chiến lược để khống chế thủy đạo giữa Ấn Ðộ Dương và Thái Bình Dương. Bởi vậy đã cho xây một pháo đài rất kiên cố và cột cờ trên núi để xác định chủ quyền cũng như phòng thủ đảo, do 200 lính Mã Lai trấn giữ. Nhưng tướng Trương Phúc Phấn đã dùng mưu trí chiếm lại đảo vào năm 1705.



           Năm 1765 thực dân Pháp lại đánh chiếm Côn Ðảo nhưng tới năm 1769 cũng cuốn gói chạy về nước theo công ty Ðông Ấn đã tan rã. Năm 1783 chúa Nguyễn Phúc Ánh trên đường tâu quốc đã tới Côn Ðảo cùng với đoàn tùy tùng hơn 100 gia đình. Ông đã lập trên đảo các làng An Hải, An Hội và Cỏ Ống để định kế lâu dài cũng là bàn đạp tái chiếm lại Nam Hà đã mất vào nhà Tây Sơn. Nhiều di tích còn lại trên đảo như núi Chúa, các ngôi mộ của Hoàng thân nhà Nguyễn, Am Cậu và Miếu Bà thờ con trai Nguyễn Ánh (hoàng tử Cải) và Vương phi Phi yến(vợ ba của Nguyễn Ánh). Tất cả đều là những chứng nhân xác nhận chủ quyền lâu đời của VN trên quần đảo Côn Sơn.



           Năm 1861 Pháp chiếm ba tỉnh miền Ðông Nam Kỳ, đồng thời cũng cho hải quân ra chiếm Côn Ðảo. Từ năm 1862 ố tháng 7/1954 Côn Ðảo được Pháp xây dựng thành một ngục tù kiên cố để giam giữ tất cả các chiến sĩ VN yêu nước chống lại chúng. Ngày 22-10-1956 Côn Sơn trở về với VNCH và chính thức thành Ðặc Khu Côn Sơn ngày 24-4-1965 do một Ðặc Phái Viên Hành Chánh chỉ huy.



           Ngày nay đọc lại bài thơ kiêu hùng nồng nàn tình yêu nước ‘ Ðập Ðá tại Côn Lôn ‘ của Tây Hồ Phan Chu Trinh (1872-1926)

:

           ‘ Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn

           Lừng lẫy làm cho lỡ núi non

           Xách búa đánh tan năm bảy đống

           Ra tay đập bể mấy trăm hòn

           Tháng ngày bao quản thân sành sõi

           Mưa nắng chi sờn dạ sắc son

           Những kẻ vá trời khi lở bước

           Gian nan nào sá sự cỏn con ‘



           Ðể lòng thêm đắng cay và tủi hổ cho thân phận nhược tiểu VN, trước sự xâm lăng và họa diệt chủng dân tộc, do CSVN và giặc Tàu đỏ gây ra, trong đó chắc chắn không xa.. Côn Ðảo lại mất như đất đai biên giới, Hoàng Sa Trường Sa, Biển Ðông, Cao nguyên Nam Trung Phần mà ai cũng biết.



Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Tháng 8-2009

Mường Giang

Back to top
 

Một Mình vĩnh Biệt Cao Nguyên &&Mimosa Trả Cho Người Núi Non
 
IP Logged
 
HOA_HUNG
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 17
Gender: male
Hãy trả  lại dấu nặng
Reply #29 - 15. Sep 2009 , 17:02
 
Hãy trả  lại dấu nặng

cho câu tục ngữ ấy

lê  hữu








     - “Có học phải có hạnh” và “Có học phải có hành”, câu nào đúng?

     Một thầy giáo trẻ hỏi tôi câu ấy trong giờ  ra chơi của học sinh. Tôi hỏi lại:

     - Ở đâu ra câu “Có học phải có hành”?

     - Các tài liệu giáo khoa ở trong nước. Và ở  đây nữa, đôi lúc cũng thấy ghi như vậy.

     Thay vì trả lời câu hỏi, tôi mời thầy giáo trẻ  ấy một tách café và kể câu chuyện nhỏ: Một phụ huynh nói với tôi rằng, muốn biết học sinh học được những gì ở một trường Việt ngữ, hãy đến thăm trường ấy trong giờ ra chơi của các em. Ông phụ huynh ấy đã đến thăm trường này, và chỉ sau năm phút đứng quan sát các em trong giờ chơi, ông đã quyết định ghi tên cho con mình theo học tại trường. Ông đã “thấy” gì? Ông thấy các em nhỏ gặp thầy, cô mình đều lễ phép cúi đầu chào “Con chào Thầy”, “Con chào Cô”. Ông thấy lại hình ảnh quen thuộc của một sân trường, một giờ ra chơi của học sinh người Việt ở quê nhà thuở trước. Ông thấy lại hình ảnh quen thuộc của một cậu học trò nhỏ nhiều năm về trước, khoanh tay cúi đầu chào thầy cô giáo. Cậu học trò nhỏ ngoan ngoãn và lễ phép ấy là ông, và nay ông muốn thấy con mình cũng ngoan ngoãn và lễ phép như thế.

     Ngoan ngoãn và lễ phép, đó là chữ “lễ” ở trong câu “Tiên học lễ, hậu học văn”, và là chữ “hạnh” ở trong câu “Có học phải có hạnh”.   

     Từ sau năm 1975, người ta đã lập lờ, đã nhập nhằng một cách cố ý, đánh tráo chữ “hạnh”  bằng chữ “hành” trong câu tục ngữ trên. Rõ ràng là cả “ý đồ” (1) chứ không phải chỉ là chuyện dấu nặng hay dấu huyền. Đánh tráo cái “dấu nặng” ấy là đánh tráo những giá trị tinh thần về luân lý, đạo đức của một nền văn hóa truyền thống. Đánh tráo cái “dấu nặng” ấy là muốn tháo gỡ các khẩu hiệu vẫn treo dán trong các lớp học ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, như “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Có học phải có hạnh”, “Không thầy đố mầy làm nên”. Bôi xóa cái dấu nặng ấy là bôi xóa hình ảnh con người ăn ở có nhân có nghĩa, có thủy có chung, có trước có sau, có trên có dưới, và thay vào đó, con người “mới” với nếp sống “mới” trong một xã hội “mới” “tiên tiến, ưu việt” (1).

     Nhiều người dễ tính có thể nói “‘Có  học phải có hành’ thì cũng đúng thôi”. Vâng, cũng đúng thôi; tuy nhiên, đấy là câu tục ngữ mà ông cha ta đã truyền từ đời con sang đời cháu, sang đời chắt, chút, chít…, và thường thì người ta không việc gì phải đi sửa một câu tục ngữ, nếu câu ấy không có gì sai quấy, và nhất là việc sửa đổi không làm cho câu ấy đúng hơn, hay hơn. Hai câu ấy có hai nghĩa khác nhau, và câu được sửa lại–“Có học phải có hành”–chắc chắn không mang ý nghĩa mà ông cha ta và những thầy cô giáo của những thế hệ trước thiết tha muốn truyền đạt cho những thế hệ tiếp nối.

     [Tương tự, không việc gì phải đổi chữ “công” thành chữ “ơn” trong câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” mà ai cũng thuộc nằm lòng từng chữ. Tại sao không chịu gọi là “công” cho nó đàng hoàng? “Công” ấy là “công đức sinh thành”, là “công ơn dưỡng dục” (không phải… “cám ơn” một tiếng là xong, như bạn như bè). Muốn thay bằng chữ “ơn” thì ít ra cũng phải đi với chữ “công”, phải là “công ơn”.

     Cũng không việc gì phải đổi “Công cha nghĩa mẹ” thành “Ơn cha nghĩa mẹ”. Không việc gì phải “dị ứng” (1) với chữ “công” ấy. Không thể tùy tiện sửa đổi, thêm bớt, chế biến, hoặc giải thích khác đi ý nghĩa các tục ngữ, ca dao đã trở thành những khuôn thước và “chuẩn mực đạo đức” (1) từ ngàn xưa của ông cha ta.

     Có những “tu chỉnh” thật nhỏ, rất nhỏ, làm như là… quên, là nhầm lẫn, là vô tình, không dễ “phát hiện” (1) vì ít ai để ý; hoặc nếu có, cũng chỉ nói “Thôi thì ‘ơn’ cũng được vậy”. Việc tu chỉnh ấy là một trong những thủ thuật có chủ ý tạo sự quen mắt, quen tai khiến người đọc, người nghe, nhất là các em nhỏ, dần dà dễ tiếp thu (1). Vì thế học sinh bây giờ mới viết là “Ơn cha như núi Thái Sơn…”, hoặc mới có bài hát “Ơn cha” (mà không phải “Công cha”), hát véo von]. 

     Vì sao những người làm công tác giáo dục ở trong nước lại muốn đổi chữ “hạnh” ra chữ “hành”? (Chắc chắn không phải là đổi cho… vui). Có phải vì cho rằng chữ ấy không cần thiết lắm, hoặc là đã… lỗi thời nên người ta “nhất trí” (1) thay chữ “hành” vào câu tục ngữ ấy, và cho chữ “hạnh” đi chỗ khác chơi. Cho chữ “hạnh” đi chỗ khác chơi có nghĩa là cho những bài học “thảo kính cha mẹ, kính thầy yêu bạn, lễ phép với người già, giúp đỡ người tàn tật, đi thưa về trình, gọi dạ bảo vâng” đi chỗ khác chơi. Thành thử, nếu học trò gặp thầy cô giáo, gặp các bác, các cô, các chú… mà cứ trơ mắt ếch ra thì chắc chắn không phải là lỗi của các em, vì… có được “học” đâu mà “hành”.

     Giá dụ học sinh có nêu thắc mắc, “Bố con nói ‘có học phải có hạnh’”, cán bộ giáo dục sẽ nhanh chóng “lên lớp” (1) để đả thông tư tưởng: “Sai. ‘Có hành’, không phải ‘có hạnh’. Viết ‘hạnh’ là… sai chính tả. Không có ‘hạnh họe’ gì hết. ‘Hành’ nghĩa là ‘chấp hành nghiêm chỉnh’, bảo gì làm nấy, nói sao làm vậy. Hiểu chưa?”

     Kể từ khi câu tục ngữ ấy bị đánh tráo bằng hàng giả, “hàng nhái” (1), nếp sống của người Việt trong nước không còn như trước nữa. Những phong tục tập quán, những luân thường đạo lý bị kéo sập. Và tất nhiên, ba cái lẻ tẻ như “Công, dung, ngôn, hạnh” hay “Cái nết đánh chết cái đẹp” hay “Trai thời trung hiếu làm đầu / Gái thời tiết hạnh là câu sửa mình” (2)… cũng bị kéo sập theo.

     Không ngạc nhiên chút nào khi mà cái nền tảng luân lý, đạo đức ở trong nước đang ngày càng “xuống cấp” (1) trầm trọng. Không ngạc nhiên chút nào khi mà trên các trang báo, trang web hàng ngày nhan nhản, tràn lan những bài báo, những hình ảnh, những khúc phim “minh họa” các thành tích vẻ vang về “hành xử”, “hành sự” (1) của học sinh trong nước, những thành tích “siêu đẳng” khiến các bậc phụ huynh phải… lạnh người.

     Cái khác nhau giữa “dấu nặng” và “dấu huyền” ấy là cái khác nhau giữa hai nền giáo dục trước và sau năm 1975 ở trong nước.   

     Cái nền văn hóa giáo dục không-có-chữ-hạnh ấy rồi sẽ đi đâu, vể đâu? Dường như không mấy ai thắc mắc về chuyện ấy. Dường như không ai cảm thấy mình có trách nhiệm phải trả lời câu hỏi ấy. Người ta mải đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi thiết thực hơn, chẳng hạn “Làm cách nào để nhét tiền đầy túi?” Thử bước vào một tiệm sách lớn ở trong nước, một trong những đầu sách bán chạy nhất là những sách thuộc dạng “Làm thế nào để trở thành nhà kinh doanh giỏi?”  Cả nước đua nhau kiếm tiền, đua nhau làm giàu. Khi đã mải mê làm giàu, người ta không còn màng đến chuyện gì khác nữa. Chuyện nếp sống văn minh văn hóa “nâng cấp” (1) hay “xuống cấp” (1) không có ăn nhậu gì tới họ. Làm như đất nước này là đất nước của ai vậy, chứ không phải “cái nhà là nhà của ta, công khó ông cha lập ra…”

     Trở lại chuyện “học” và “hành”, có hai câu hỏi không thể không đặt ra. Thứ nhất, các em học sinh đã “học” được những gì ở trong trường trong lớp? Nói cách khác, người ta đã dạy các em những gì, để rồi sau đó khuyến khích các em hãy mang ra mà… “hành”? Thứ hai, ngoài việc đánh tráo một cái “dấu nặng”, liệu người ta còn đánh tráo những gì khác nữa trong các tài liệu giảng dạy cho học sinh? Tôi thực tình không muốn đẩy câu chuyện đi xa hơn nữa.

     Chỉ xin quý thầy cô ở trong nước (và  cả ở ngoài nước) một điều: trong kho tàng tục ngữ, ca dao của người Việt không thiếu những câu về “hành”, chẳng hạn “Học đi đôi với hành”, hoặc “Lý thuyết phải đi đôi với thực hành”…, thầy cô cứ việc tùy nghi mang ra mà giảng dạy cho các em, riêng câu tục ngữ “Có học phải có hạnh” vừa thể hiện nét đẹp rất “riêng”, vừa phản ánh bản sắc văn hóa của dân tộc mà chúng ta vẫn tự hào, xin vui lòng cứ để yên đấy, không cần phải bôi xóa cái dấu nặng dưới chữ “a”, và thay đổi “…có hạnh” thành ra “có hành”.

     Thật may một điều, ở quanh đây chúng ta vẫn còn có những trường Việt ngữ. Không chỉ dạy học sinh phép tắc lễ nghĩa của người Việt, những trường mà tôi được biết, trong các buổi lễ mãn khóa, ngoài các phần thưởng dành cho học sinh giỏi, luôn luôn có phần thưởng đặc biệt về hạnh kiểm. Một học sinh nhận được bằng khen “xuất sắc” phải vừa học lực giỏi, vừa hạnh kiểm tốt. Qua việc khen thưởng ấy, các thầy cô muốn các em ghi nhớ: “Có Học phải có Hạnh”.

     Hãy trả lại “dấu nặng” cho câu tục ngữ ấy. Hơn thế nữa, hãy trả lại môn học “Đức Dục” cho các trường học của người Việt.

lê  hữu

(1) Từ ngữ phổ biến ở trong nước

Back to top
 

Một Mình vĩnh Biệt Cao Nguyên &&Mimosa Trả Cho Người Núi Non
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI DI AN CUOI
Reply #30 - 22. Oct 2009 , 06:52
 
ĐI ĂN ĐÁM CƯỚI

  LTS. Mùa cưới VN sắp bắt đầu với rất nhiều hủ tục và bắt chước y Tàu. Đồng bào mình không có can đảm sửa đổi, bỏ xấu, giữ tốt, bỏ rườm rà, giữ sự trang nghiêm và giản dị, đám cưới nhiều khi thành ra một thứ khổ sai cho cô dâu chú rể. Mời quí bạn đọc bài sau đây do cây viết quen thuộc: Bút Xuân Trần Đình Ngọc.

  Liếc nhìn đồng hồ, tôi thấy đã bảy rưỡi. Mấy người đàn ông ngồi chung bàn với tôi thỉnh thoảng cũng ngó đồng hồ. Các bà vợ những ông này đang nói chuyện về thẩm mĩ. Câu chuyện hút mỡ đùi, mỡ mông, mỡ mí mắt, mỡ bắp tay khá hấp dẫn làm các bà - và cả chúng tôi - quên được cái thời gian chờ đợi vô vị này. Chúng tôi đã được mời vào bàn này ngồi từ 6giờ 45 sau khi chụp hình với cô dâu chú rể.

  Trên thiệp mời, đám cưới mời sáu giờ ba mươi, khoảng bảy giờ người đến đã đông mà bây giờ đã hơn bảy rưỡi vẫn chưa thấy nhúc nhích. Nhạc “chết” vẫn rỉ rả chơi, người vẫn đi đi lại lại, bố mẹ chú rể vẫn đứng ở cửa vào đón khách, cô dâu chú rể vẫn chụp hình chung với từng cặp và từng vị khách, cuốn sổ lưu niệm vẫn có người kí...Thế thì bao giờ mới nhúc nhích đây?

  Rất may vừa đúng tám giờ thì cô MC lên micro thông báo sẽ sắp bắt đầu. Sẽ thôi chứ cũng vẫn chưa. Cô cũng nhã nhặn xin lỗi bằng tiếng Việt và tiếng Anh - vì có dăm, bảy người Mỹ - rằng đã bắt đầu hơi trễ. Dầu sao, đa số thực khách cũng thở phào ...nhẹ nhõm vì giờ mong đợi sắp tới.

  Phải mười lăm phút sau, lễ “nghênh rước” cô dâu, chú rể mới bắt đầu. Ði đầu là sáu chú phù rể và sáu cô phù dâu, đôi nào đôi ấy cặp tay từ ngoài cửa thong thả tiến vào sân khấu. Rồi đến bốn cháu trai, bốn cháu gái tuổi từ bảy tám đến mười, mười hai. Các cháu gái thỉnh thoảng lại vãi “confetti” hoặc các cánh hoa rời trông rất vui mắt. Sau cùng là chú rể, cô dâu.

  Sau khi đám “rước” này lên sân khấu, cô MC liền mời cha mẹ đôi bên, cả những người quan trọng như chú bác, cô dì, đã được để sẵn trong danh sách. Những vai vế kém vào hàng cháu, bạn v.v... thì chỉ đứng lên ngay tại bàn khi đuợc giới thiệu. Tiếp là bài “diễn văn” của ông P., cha chú rể, người chủ hôn. Ông cám ơn đi cám ơn lại những anh em đồng ngũ với ông khi xưa đã “vị tình chứ không vị thực” mà đến với ông. Tình huynh đệ chi binh xưa kia vẫn khắng khít keo sơn cho đến nay ở nơi đất khách quê người này thật là đáng quí xiết bao!

  Thực khách bên dưới có người ngồi nghe, thỉnh thoảng nhón một hột lạc; có người bần thần nét mặt vì thấy ông quảng diễn quá, e còn lâu mới bắt đầu được.

  Cũng may ông chủ hôn chỉ nói chừng hơn mười phút vì bà vợ đứng cạnh có lẽ đã nhột vì khai diễn quá trễ, hai lần bà thầm thì vào tai ông cái gì đó.

  Lúc ông chấm dứt, một tràng vỗ tay thật to, tôi nghe có mấy tiếng thở phào ...nhẹ nhõm ngay tại bàn tôi và có lẽ cũng cả của tôi. Dăm vị khách giơ chiếc li chỉ mới có đá cục lên mời nhau, như cái kiểu ta bắt đầu được rồi đó.

  Nhưng chưa mừng đưọc mấy giây thì cô MC lại giới thiệu “đáp từ” của ông sui gia nhà gái, ông bố cô dâu. Ông này không mặc com-plê mà mặc quốc phục, khăn đống áo gấm xanh chữ thọ coi xa như ông vua cuối cùng của nhà Nguyễn, vua Bảo Ðại. Ông thò tay vào túi cầm ra một xấp giấy như kiểu đọc sớ Táo quân. Hắng giọng hai, ba lần cho trong trẻo, ông mới bắt đầu:

  Kính thưa quí cụ trưởng thượng

Kính thưa....

Tôi thực không còn nhớ ông đã dùng từ “Kính thưa...” bao nhiêu lần. Có thể là tôi vốn có tật háu đói, thường ở nhà sáu giờ đã ăn cơm tối, con tì con vị phèo phổi dạ dày lá lách nó đã quen, nay tám rưỡi rồi mà còn ngâm tôm chúng nên chúng hành lại là mắt không hoa lắm nhưng tai nghe lùng bùng không rõ, nhất là thực khách đã ào ào nói chuyện, mạnh ai nấy nói, chảng kể gì ông bố cô dâu đang đọc từng hàng chữ viết rất trịnh trọng từ nhà.

Sau khi ông bố cô dâu cúi đầu chào, MC lại giới thiệu chú rể, rồi cô dâu có đôi lời với cha mẹ. Ðại để “Ba má đã sinh ra, nuôi dạy chúng con để chúng con có ngày nay. Chúng con có lầm lỗi gì xin ba má tha thứ vv và v.v...”

  Cô dâu nói đến đây mủi lòng rơi lệ.

  Phần trình diện trên sân khấu đã xong, đoàn người theo nhau xuống chỗ ngồi. Ðây mới là lúc đáng liên hoan: tôi liếc nhìn đồng hồ: 8giờ 30 (tức sau giờ ấn định là 2 tiếng).

  Dĩ nhiên các món ăn bắt đầu được bưng ra. Thực khách mời chào nhau ăn vì ai cũng thấy đã quá trễ. Ban nhạc bắt đầu chơi, có lẽ các nhạc công nghĩ đa số thực khách tai nghễnh ngãng nên mở “volume” tối đa. Ðã có kinh nghiệm nên hễ được sắp xa sân khấu - tức xa ban nhạc - tôi và bà xã mừng vô cùng. Bởi nếu ngồi gần, đôi tai sẽ chịu trận ba tiếng đồng hồ, đinh tai nhức óc, tới lúc về nhà vẫn còn cảm giác khó chịu.

  Cũng không phải chỉ chúng tôi mà thấy ai cũng kêu nhạc mở lớn quá.

  Ca sĩ hát - hay hét - trên sân khấu cùng với những tiếng nhạc dập dình thật lớn, nhưng quả tình 90% thực khách không “chịu” thưởng thức âm nhạc. Họ còn đang bận ăn. Hai mẹ con một bà “mệnh phụ” quần áo quá sang nên không dám đụng tay vào món tôm hùm. Tôm hùm mà không dùng tay thì ăn không xong. Ðôi đũa gắp lên nó chỉ trượt đi, mút mát lấy lệ rồi bỏ xuống. Có khi cả dĩa tôm hùm còn nguyên vì thực khách sợ lem tay, lem miệng bởi món sốt, người nhìn thiếu thẩm mĩ. Nhưng nếu thiếu món đó thì lại bị chê là “cheap”, thức ăn không ra gì. Rốt cuộc chỉ nhà hàng có lợi.

Sau đó, hễ đã đi qua món khác, bồi bàn không cần biết tình trạng đĩa tôm mấy chục đô-la này ra sao, còn y nguyên chưa ăn miếng nào cũng kệ, cứ trút thẳng vào thùng rác cho được việc trong khi có mấy người homeless đang ngồi xó xỉnh ngoài kia, cả ngày chưa có miếng bánh mì bỏ bụng.

  Hình như có một số phụ nữ, tuổi sồn sồn và tuổi trẻ, đi dự đám cưới là chỉ cốt đi khoe thân người và áo quần, kim cương. Tôi và nhà tôi đã từng ngồi với những người đàn bà, cả bữa tiệc chỉ ăn uống chút chút, lát lại lấy gương ra soi xem mầu môi có lợt, mầu phấn có phai và lại vội vàng thoa lên một lớp son lớp phấn mới. Câu chuyện có khi đi đến chỗ ồn ào vì những chiếc nhẫn kim cương, bà này khoe sáu li, bà kia không kém, sáu li rưỡi, nước D, nước G, nước H đủ thứ danh từ chuyên nghiệp của thợ kim hoàn.

  Vừa ăn được vài món thì cả bàn phải sửa soạn để đón tiếp cô dâu, chú rể, cha mẹ cô dâu, cha mẹ chú rể và vài cô phù dâu, vài chú phù rể đến chào bàn.

  “Gia đình chúng tôi muốn đến từng bàn để cám ơn quí vị đã đường xa dặm thẳng đến đây với gia đình chúng tôi và các cháu trong bữa tiệc cưới hôm nay.” Bố chú rể đi bàn nào cũng một ca khúc đó - thực ra chẳng có gì khác để nói - mà nào có ít, có đám cưới mời đến 50 bàn tức 500 người, xoàng xoàng cũng 30 bàn, tức 300 người. Có những người chủ trương mời thật đông cho thêm long trọng. Với họ, đám cưới chỉ lèo tèo một, hai trăm người thì kém vui và kém bề thế. Các cô dâu thời nay chính là những người thích mời cho đông. Có những người, chỉ biết nhau chứ không hề qua lại, chơi với nhau, cả năm không gọi nhau một cú điện thoại, nay bỗng nhiên tấm thiệp cưới thật đẹp và thật trịnh trọng được gửi tới nhà. Có người nghĩ, thôi họ đã nghĩ tới mình, phải sửa soạn đến mừng để tỏ ra lịch thiệp. Thêm một người bạn cũng quí. Nhưng những vị cao niên ăn tiền già ba cọc ba đồng, cái kiểu không quen lắm cũng đi, tháng vài ba đám cưới thì cũng kẹt. Ấy là chưa kể phải nhờ vả phương tiện xe cộ người khác vì ban đêm đâu còn xe bus. Mặt khác, những thức ăn của nhà hàng phần nhiều là thích hợp cho các người trẻ, khoẻ không có những chứng bệnh cao máu, cao mỡ, tiểu đường v.v... Một ông bạn già của tôi đi ăn một đám cưới về, đêm đó phải vào nhà thương bằng xe “Ambulance” với tình trạng “Emergency”. Ông vốn có bệnh tiểu đường, thấy thức ăn ngon, lại đói vì nhịn từ chiều, vui với bạn quá, ăn vào, uống vào, đường lên quá cao, xỉu. Một bà vợ của người bạn khác thì không phải dùng “Ambulance” nhưng đêm đó không ngủ được vì bụng cứ “lẩm rẩm” đau cho tới ngày hôm sau.

  Trở lại vụ chào bàn, người viết bài này cũng đã đề nghị nên có đám cưới để một cái thùng ngay cửa vào như hòm tiền nhà thờ hoặc nhà chùa, dán hàng chữ:”Quí vị muốn mừng cho cô dâu, chú rể xin bỏ bao thư vào thùng này. Các gói quà để cạnh.” Nhưng đến giữa bữa tiệc, người nhà kiểm soát thấy không có bao nhiêu bao thư, hoảng hồn giục cô dâu chú rể đi chào bàn gấp.

  Có những đám cưới, đi theo cô dâu chú rể là mẹ chú rể hoặc mẹ cô dâu, xách theo một cái túi lớn. Khi người đại diện bàn vừa trao các bao thư cho cô dâu hoặc chú rể thì bà này đỡ ngay lấy bỏ vào trong bị cho chắc ăn. Ðám cưới thành ra một vụ thu thuế thân để trả cho những gì thực khách đã, đang và sẽ ăn. Nhìn hình thức bề ngoài, nó có vẻ hơi “trắng trợn” không được đẹp mắt.

  Có những đám cưới quá đông bàn, thí dụ 50 bàn, vừa phần vì lối đi quá chật, vừa phần “phái đoàn “đi chào bàn quá đông, ít nhất cũng 8 người, đi mỗi nơi lại còn mời mọc nhau “zô, zô” chú rể say túy lúy, rồi còn giới thiệu, đáp từ, chụp hình và sau khi đi hết mọi bàn thì cũng mất khá thời gian. Ðám cưới vì vậy quá kéo dài.

  Sau khi chào bàn rồi, tức là thực khách đã làm xong nhiệm vụ quan trọng, có nhiều thực khách rải rác bỏ ra về vì đã đến từ đầu giờ mời, mất cả bốn tiếng đồng hồ rồi. Nên lúc cắt bánh, nhiều đám chỉ còn lèo tèo người nhà mặc dù cô MC nói luôn miệng trên micro xin quí vị ở đến phút chót.

  Bỗng nghe tiếng la (đây là chuyện có thực, người viết bài này chứng kiến):

  “Thằng B thằng C đâu? Chúng mày không đến đây mà coi người ta đánh chết bố mày đây này!”

  Cùng với tiếng la của bà P - mẹ chú rể - là tiếng hai người đàn ông đang đấu khẩu dữ dội:

  “Mày ăn ở như thế thì chó nó chơi với mày à, hả P? Tao nghĩ tình anh em cùng trong quân ngũ ngày xưa, lái xe một ngày mới tới để ăn cưới con mày. Tao vừa bảo với mày hai tháng nữa, tao cũng cưới con, mời vợ chồng con cái mày đến, mày lại bảo không biết lúc đó mày có ở nhà không hay đi chơi xa. Mày ăn ở như thế thì chó nó chơi với mày à?”

  Người đàn ông tên T. cứ thế mà chửi, mà rủa thậm tệ sau khi đã đấm vào mặt ông P. mấy cái sưng cả mồm. Ông ta cũng bị ông P. thoi vào mạng mỡ hai cái ê ẩm.

  Khi B. và C. con ông P. tới để hỗ trợ bố thì phía ông T. hai, ba anh con trai cũng đứng ngay kế nghinh chiến. Hai bên gầm gừ tính đánh nhau.

  “Nó đến ăn cưới con người ta mà nó lại gây sự, chửi rủa như hàng tôm hàng cá. Có đời thuở nào bạn bè như thế không?” Một người đàn ông hùng hổ nói.

  “À, mày lại bênh thằng anh mày hả? Sao mày không bảo thằng anh mày, có đi có lại mới toại lòng nhau. Tao ăn ở với vợ chồng nó như bát nước đầy, bố con vợ chồng tao cất công đến đây, vì tình chứ không vì thực, lại mừng rỡ tử tế mà tao vừa bảo hai tháng nữa tao mời vợ chồng nó đến ăn cưới con tao thì nó đã chối đây đẩy là bận, không biết đi chơi xa, có nhà không. Ăn ở như thế thì chó nó chơi với à?”

  Một người nào đó trong bàn tiệc sợ có đổ máu bèn gọi cho Cảnh sát nhưng khi Cảnh sát đến thì vợ chồng ông T. và con cái “giông” mất dạng rồi.

  Rút tỉa những kinh nghiệm về đám cưới ở Hoa kỳ, người viết xin đề nghị thế này:

  - Giản dị hóa đám cưới, nhất là dùng vừa phải thời giờ của khách được mời.

  - Người Âu - Mỹ thường tổ chức đám cưới trong vòng thân mật, họ chỉ mời thân thuộc trong gia đình và những bạn hữu thật thân thiết. Tránh mời những người chỉ quen biết mà không có giao hảo, qua lại hàng ngày, cả tháng không một cú điện thoại thăm hỏi.

  - Ðám cưới năm, bảy chục, một trăm  người mà thân tình, có lồng cái tinh thần trong đó thì vẫn hơn đám cưới năm, ba trăm người nhưng chỉ là để trình diễn và tệ hơn, thu tiền.

  - Thời nay, ở đâu thời giờ cũng quí vì thời giờ đồng nghĩa với tiền bạc và sức khoẻ. Mời sáu giờ thì tối đa sáu rưỡi khai mạc, chỉ nửa tiếng du di. Không thể để cả trăm người chờ đợi một vài người dù người đó có quan trọng đến đâu cho bữa tiệc. Cô dâu chú rể là hai người quan trọng nhất đã có mặt rồi là cứ theo giờ khắc đã định mà thi hành. Có thể có những người, vì lí do gì đó đi trễ như kẹt xe, xe hư trên freeway chẳng hạn, dù cách nào cũng là lỗi đi trễ, nên lẳng lặng ngồi vào bàn. Không nên làm mất thêm thì giờ của những người khác nhất là của gia chủ.

  Bút Xuân Trần Đình Ngọc

 


Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #31 - 30. May 2010 , 23:51
 
NỖI BUỒN TIẾNG VIỆT CỦA NGƯỜI DÂN TRONG NƯỚC
Biên khảo của Chu Dau

Ở trong nước, hiện tượng dùng chữ nghĩa kỳ cục do CS Bắc Việt du nhập vào miền Nam, lai căng với nhiều từ ngữ mới chế rất ngô nghê và xa lạ đối với phần đông dân chúng. Với chủ trương nôm na hóa ngôn ngữ Việt, tập đoàn CS nắm quyền đã lạm dụng từ thuần Việt quá mức trở thành thô tục (như: "xưởng đẻ" dùng cho "nhà bảo sanh", "nhà ỉa" dùng cho "nhà vệ sinh", hay "lính thủy đánh bộ" dùng cho "thủy quân lục chiến" v. v... , và đặt ra nhiều từ sai hẳn với nguyên nghĩa .

Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian, theo sinh hoạt xã hội . Mỗi ngày, từ những đổi mới của đời sống, từ những ảnh hưởng của văn minh ngoại quốc mà ngôn ngữ dần dần chuyển biến. Những chữ mới được tạo ra, những chữ gắn liền với hoàn cảnh sinh hoạt xưa cũ đã quá thời, dần dần biến mất. Cứ đọc lại những áng văn thơ cách đây chừng năm mươi năm trở lại, ta thấy nhiều cách nói, nhiều chữ khá xa lạ, vì không còn được dùng hàng ngày . Những thay đổi này thường làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động hơn, giàu có hơn, tuy nhiên, trong tiếng Việt khoảng mấy chục năm gần đây đã có những thay đổi rất kém cỏi . Ban đầu những thay đổi này chi giới hạn trong phạm vi Bắc vĩ tuyến 17, nhưng từ sau ngày cộng sản toàn chiếm Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975, nó đã xâm nhập vào ngôn ngữ miền Nam.

Rồi, đau đớn thay, lại tiếp tục xâm nhập vào tiếng Việt của người Việt ở hải ngoại . Người ta thuận theo các thay đổi xấu ấy một cách lặng lẽ, không suy nghĩ, rồi từ đó nó trở thành một phần của tiếng Việt hôm nay . Nếu những thay đổi ấy hay và tốt thì là điều đáng mừng; Nhưng than ôi, hầu hết những thay đổi ấy là những thay đổi xấu, đã không làm giầu cho ngôn ngữ dân tộc mà còn làm tiếng nước ta trở nên tối tăm.

Thế nhưng dựa vào đâu mà nói đó là những thay đổi xấu ? Nếu sự thay đổi đưa lại một chữ Hán Việt để thay thế một chữ Hán Việt đã quen dùng, thì đây là một thay đổi xấu, nếu dùng một chữ Hán Việt để thay một chữ Việt thì lại càng xấu hơn. Bởi vì nó sẽ làm cho câu nói tối đi . Người Việt vẫn dễ nhận hiểu tiếng Việt hơn là tiếng Hán Việt. Nhất là những tiếng Hán Việt này được mang vào tiếng Việt chỉ vì người Tầu ở Trung Hoa bây giờ đang dùng chữ ấy . Nếu sự thay đổi để đưa vào tiếng Việt một chữ dùng sai nghĩa, thì đây là một sự thay đổi xấu vô cùng.

Sau đây, chúng tôi xin ghi lại một số từ ngữ (được tạm xếp theo vần abc) mà chế độ CSVN ép dân chúng dùng, đọc lên, nói lên sai với nguyên nghĩa, nghe thô tục, kỳ lạ và ảnh hưởng Tây phương rất nặng, khó có thể chấp nhận: 1. "Buổi đêm". 'Buổi đêm tôi có gặp đồng chí ấỵ Từ xưa đến nay người Việt không bao giờ nói "buổi đêm" cả, chỉ nói "ban đêm", "ban ngày". "Ban" được hiểu như là một thời gian khoảng 12 giờ, ban đêm 12 giờ cộng với ban ngày 12 giờ là 24 giợ Còn "buổi" thì chúng ta có "buổi sáng", "buổi trưa", "buổi chiều", "buổi tối". Ban ngày có 12 giờ và tạm coi như có 4 buổi, như vậy mỗi buổi có 3 giờ đồng hộ Night time, day time khác với morning; noon; afternoon; evening. Chúng ta thường nói: 'Chờ ông ấy mất cả buổị Buổi ở đây là khoảng ba giợ Câu nói khác: 'Thế là mất một buổi càỵ Buổi ở đây lại có nghĩa mất cả một ngày công. Chế ra từ buổi đêm là làm hỏng tiếng Việt.

2. "Cải tạo" = transform, improve; re-education. Họ không phân biệt "cải tạo vật chất" với "cải tạo tư tưởng", quan niệm chính tri Nói : 'Phải dùng cát để cải tạo đất', khác với 'Trung úy miền Nam bị đi tù cải tạọ Nếu muốn chữa cho đất có màu mỡ hơn nên dùng "cải tiến", "cải thiện"... Khoảng 50 năm nay từ "cải tạo" cả nước đã hiểu là ở tù rồi!

3. "Cảm giác". 'Xin anh cho biết cảm giác ra sao về hiện tượng đo những gì cảm thấy được được bằng giác quan. Có ngũ giác: xúc giác: sờ chạm, thị giác: mắt thấy, thính giác: tai nghe; vị giác: lưỡi nếm, khứu giác: mũi ngửi . Ưó là các sense organs, còn cảm giác và cảm tưởng; cảm tính (feeling, khác với lý tính) dễ lầm lẫn vì đó là sensation, impression. Dùng đúng chữ phải là: 'Xin anh cho biết cảm nghĩ, cảm tưởng, về hiện tượng đo chính xác hơn là "cảm giác". (Ngoài ra impression còn có nghĩa là ấn tượng, dấu ấn). Chúng ta có thể nói : có cảm giác ghê sợ, nhờm tởm, lạt lẽo, ấm cúng.. một giác xuất phát từ não bộ, tuy cũng do từ năm giác quan vừa kể gửi tín hiệu lên óc.

4. "Cầu lông" = Badmington = Một môn thể thao nhẹ nhàng gần giống quần vợt, có giăng lưới cao, dùng vợt nhẹ và quả cầu có gắn lông vũ, đánh qua lại trên lưới . Trên thực tế quả cầu badmington làm giả bằng nhựa không chế bằng lông gà lông vịt nữa . Cách gọi này thô tục quá! Tại sao không gọi là cầu lông vũ hoặc bát-minh-tơn? Người viết còn nhớ có lần đã bị bà vợ một đại tá sửa lưng, khi lở miệng nói: lông quả đào . Bà kể lại, tôi bị bà Trg. Tg. Khg. một người miền Bắc chữa khéo: 'Chị nên gọi là tuyết của quả đào thì lịch sự, thanh tao hơn'. Sau đây là cách dùng sai lạc, nhằm chủ đích tuyên truyền hoặc làm giảm đi hoặc tăng mức quan trọng của sự việc.

5. "Chất lượng": Đây là chữ đang được dùng để chỉ tính chất của một sản phẩm, một dịch vu Người ta dùng chữ này để dịch chữ quality của tiếng Anh. Nhưng than ôi! Lượng không phải là phẩm tính, không phải là quality . Lượng là số nhiều ít, là quantity . Theo Hán Việt Tự Ưiển của Thiều Chửu, thì lượng là: đồ đong, các cái như cái đấu, cái hộc dùng để đong đều gọi là lượng ca? Vậy tại sao người ta lại cứ nhắm mắt nhắm mũi dùng một chữ sai và dở như thệ Không có gì bực mình hơn khi mở một tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại rồi phải đọc thấy chữ dùng sai này trong các bài viết, trong các quảng cáo thương mãi . Muốn nói về tính tốt xấu của món đồ, phải dùng chữ phẩm. Bởi vì phẩm tính mới là quality . Mình đã có sẵn chữ "phẩm chất" rồi tại sao lại bỏ quên mà dùng chữ "chất lượng". Tại sao lại phải bắt chước mấy anh cán ngố, cho thêm buồn tiếng nước ta .

6. "Cuộc gặp" = meet, run into = hội kiến, gặp mặt, gặp gỡ, buổi họp. Nghe "Cuộc gặp" thấy cụt ngủn, chưa trọn nghĩa . Ý họ muốn tả một cuộc hội kiến tay đôi, một lần gặp gỡ, chưa hẳn là một hội nghị (conference) . Nên dùng như thí dụ này: "Bộ trưởng Thái đã hội kiến gặp bộ trưởng Lào"...

7. "Cưới". Nhà văn Lê Minh Hà đi từ miền bắc, công tác ở Đông Đức, rồi xin tỵ nạn ở Đức, viết trong tập truyện ngắn "Trăng Góa": 'Bọn này chưa cướí, 'chúng tôi cướí đó là thói quen từ vùng cộng sản. Đây không phải là lối hành văn mới lạ, kiểu cách chỉ là thói quen dùng sai tự To marry, get married, nhưng người Việt phải nói là: 'Chúng tôi chưa làm đám cưới; bọn này cưới nhaụ Câu này lại do một vai nữ tự thuật, lại càng sai nặng nữa . Chúng ta chỉ nói "cưới vợ", không bao giờ nói "cưới chồng" ca? Chỉ có hai trường hợp dùng được hai chữ "cưới chồng". Một là cô gái có lỗi lầm nào đó, nhà gái phải bỏ tiền, chịu mọi chi phí đám cưới để lấy cho được một tấm chồng. Hai là những đồng bào thiểu số, sắc dân nào còn theo chế độ mẫu hệ, cô gái cưới chồng, vì chàng rể sẽ thuộc về nhà gái . Nhà gái phải trả cho nhà trai trâu, lợn, gà, chiêng đồng, v.v. để mua rê?

8. " Đại trà" = on a large scale = cỡ lớn, quy mô lớn. Thí dụ: "đồng bào trồng cây cà phê đại trà". Tại sao không dùng như trước là "quy mô lớn"? Ngoài ra dùng "đại trà" là bắt chước Trung Quốc. Có thể gây hiểu lầm là "cây trà lớn"!!

9. " Đăng ký" = register = ghi tên, ghi danh. Nghĩa rất đơn giản, nhưng bắt chước Trung Quốc, cố dùng Hán-Việt. Câu nói sau đây nghe kỳ lạ: 'Tôi đã đăng ký mua khoai mì ở Phường...'. Tại sao không dùng "ghi danh", "ghi tên"?

" Đăng ký" là một chữ mà người Cộng Sản miền Bắc dùng vì tinh thần nô lệ người Tầu của ho đến khi toàn chiếm lãnh thổ, họ đã làm cho chữ này trở nên phổ thông ở khắp nước, Trước đây, ta đã có chữ "ghi tên" (và "ghi danh") để chỉ cùng một nghĩa . Người Tầu dùng chữ "đăng ký" để dịch chữ 'register' từ tiếng Anh. Ta hãy dùng chữ "ghi tên" hay "ghi danh" cho câu nói trở nên sáng sủa, rõ nghĩa . Dùng làm chi cái chữ Hán Việt kia để cho có ý nô lệ người Tầủ!

10. " Đầu ra, đầu vào" = output, input = cái đưa ra, cái đưa vào, dòng điện cho vào máy; dữ kiện đưa vào máy vi tính. Họ còn dùng có nghĩa là vốn, hoặc thì giờ, công sức bỏ vào và kết quả của cuộc đầu tư đọ Nhưng dùng "đầu ra, đầu vào" nghe thô tục (giống như từ bộ phận = một phần việc, một nhóm, tổ, đã bị nhà văn nữ Kathy Trần đốp chát, hỏi: "Bộ phận gỉ" bộ phận của đàn ông, đàn bà ả). Có thể dùng "vốn đầu tư" và "kết quả sản lượng".

11. "Giải phóng" = liberate, emancipate/ free, relieve, release = giải tỏa, xả ,thả, trả tự do . Từ giải phóng chỉ nên dùng cho con người, không dùng cho loài vật, đất, vườn... Họ lạm dụng từ giải phóng, nghe không thuận tai và sai nghĩa . Thí dụ: ' Đã giải phóng (giải tỏa) xong mặt bằng để xây dựng nhà máy/ Anh công an lưu thông tích cực công tác để giải phóng (giải tỏa) xe cộ ../ Em X giải phóng (thả) con chó !! Những câu sau đây mới là dùng đúng cách: 'phong trào giải phóng phụ nữ ../ Công cuộc giải phóng nô lệ ..'

12. "Hiển thị" 'Chỉ cần ấn nút thì mọi nhu cầu sẽ được hiển thị trên máy tính...' (appear on screen) Tại sao không nói "sẽ thấy hiện rõ trên máy".

13. "Hùng hiểm" ' Địa thế nổi đó rất hùng hiểm...' hùng vĩ = hiểm trở (majestic greatness + dangerous).

14. "Khả năng": Chữ này tương đương với chữ ability trong tiếng Anh, và chỉ được dùng cho người, tức là với chủ từ có thể tự gây ra hành động động theo chủ ỵ Tuy nhiên hiện nay ở Việt nam người ta dùng chữ "khả năng" trong bất kỳ trường hợp nào, tạo nên những câu nói rất kỳ cục. Ví dụ thay vì nói là 'trời hôm nay có thể mưá, thì người ta lại nói: 'trời hôm nay có khả năng mưá, nghe vùa nạng nề , vừa sai . "Có khả năng": Đây là cách sử dụng rất Tây, thí dụ: 'Hôm nay thời tiết có khả năng mưá chúng ta tạm chấp nhận (sao không nói giản dị là: "Hôm nay trời có thể mưa" ?). Thí dụ này khó chấp nhận: 'Học sinh X có khả năng không đạt điểm tốt nghiệp'. Có khả năng là ability; aptitude; capacity và luôn luôn dùng ở trạng thái tích cực (positive), không bao giờ dùng với trạng thái tiêu cực (negative). Những câu sau đây nghe rất chướng: 'Bệnh nhân có khả năng bị hôn mệ ' Địch có khả năng bị tiêu diệt..' v.v...

15. "Khả thi" =  fisible, applicable; ability to carry out = có thể thực hiện được, có thể thi hành được. "Khả thi" và "bất khả thi" cũng chịu ảnh hưởng nặng của Trung Quốc. Sao không dùng: "không thực hiện được"/ "không thực hiện nổi". Ngoài ra "khả thi" sẽ đưa đến sự hiểu lầm là "có thể dự thi được".

16. "Khẩn trương": Trước năm 1975 chúng ta đã cười những người lính cộng sản, khi họ dùng chữ này thay thế chữ 'nhanh chóng'. Nhưng than ôi, ngày nay vẫn còn những người ở Việt Nam (và cả một số người sang Mỹ sau này) vẫn vô tình làm thoái hóa tiếng Việt bằng cách bỏ chữ 'nhanh chóng' để dùng chữ 'khẩn trương'. Đáng lẽ phải nói là: 'Làm nhanh lên' thì người ta nói là: 'làm khẩn trương lên'.

17. "Khẳng định". Thói quen dùng động từ này bị lạm dụng: 'Diễn viên X đã khẳng định được tài năng. Đồng chí A khẳng định ở vị trí giám đốc' Khẳng định; xác định, xác nhận = affirm và confirm có nghĩa gần giống nhau, ngoài nghĩa theo luật pháp có nghĩa là phê chuẩn, chuẩn y . Tuy nhiên âm thanh của khẳng định nghe nặng nề

18. "Kích cầu" = to level the bridge/ needing to sitimulate = nhu cầu để kích thích/ nâng cao cái cầu lên. Cả hai nghĩa đều hàm ý là chất xúc tác, kích thích tố khiến sự việc tiến nhanh hơn. Cách dùng hơi la Bên công chánh có lối dùng những con đội để nâng cao cái cầu giao thông lên. Tại sao không dùng "kích thích tố", "chất xúc tác" như trước?

19. "Làm rõ" 'Công an Phường 16 đang làm rõ vụ việc nàý Làm rõ=clarify, cần làm rõ vì có sự mù mờ, chưa minh bạch, ngoài còn có nghĩa gần như nói lại cho rõ, đính chính. Đúng nghĩa phải là điều tra = investigate . Cách sử dụng từ làm rõ cũng giống như làm việc (với công an) chỉ nhằm xóa bớt sự ghê sợ, hãi hùng của người dân khi phải tiếp xúc với công an cộng sản. Họ cố tránh những động từ như "điều tra", "khai báo", "trình diện" v.v...

20. "Liên hệ": Cũng từ miền Bắc, chữ này lan khắp nước và nay cũng tràn ra hải ngoại . Liên hệ là có chung với nhau một nguồn gốc, một đặc tính. Người cộng sản Việt Nam dùng chữ liên hệ để tỏ ý nói chuyện, đàm thoại . Tại sao không dùng chữ Việt là 'nói chuyện' cho đúng và giản di Chữ liên "hệ dịch" sang tiếng Anh là 'to relate to", chứ không phải là 'to communicate to"

21. "Ngài": 'Bộ trưởng ngoại giao ta đã gặp Ngài Brown thị trưởng thành phố San Franciscó Ngài là Sir, một tước vị của Hoàng gia nước Anh ban cho một nhân vật nào đọ Sir có thể dịch ra là Hiệp sĩ, cũng có thể là Knight = Hầu tước xuống đến tòng Nam tước = Baronet. Theo nghĩa thứ nhì "ngài" là một từ dùng để xưng hô và là một từ tôn xưng như cụ, ông bà, bác, chụ Trong cả hai trường hợp câu trên đều sai . Ông W. Brown chưa bao giờ được Nữ hoàng Anh trao tặng tước hiệu Sir. Theo lối xưng hô chính thức ngoại giao của Mỹ và theo lối Việt Nam, không nên gọi ông W. Brown là Ngài viết hoa . Theo lối xưng hô chính thức của Mỹ, trên văn thư phải là:

The Honorable ...W. Brown

Mayor of San Francisco

Hình thức chào hỏi:

Sir:

Dear Mayor Brown

Như thế gọi một ông thị trưởng Mỹ là Ngài đã hoàn toàn sai .

Qua sách báo từ sau 1954, miền bắc dùng sai và lạm dụng từ Ngài .

Cách dùng thứ nhất để tôn xưng quá đáng giới chức ngoại quốc, thứ nhì là để chế diễu, khôi hài các nhân vật trong khối tự do dân chủ, và ở miền nam, thí dụ: Ngài đại úy, ngài thiếu tá ngay cả có dạo họ đã gọi Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ là Nguyên soái! Từ sau 1954, trong miền nam gần như không bao giờ chúng ta thấy xuất hiện từ Ngài! Chế độ cộng sản tự nhận là vô sản, đánh phong kiến, diệt quan lại, nhưng nay họ lại quan lại, phong kiến hơn ai hết. Chứng cớ qua từ tôn xưng Ngài và họ còn tự nhận và gọi các cán bộ và nhân vật quan trọng ngoại quốc là Quan chức. Quan chức = officials, có thể dịch là "viên chức", hay "giới chức ngoại giao", "nhân viên chính phủ", "phái đoàn ngoại giao", v.v...

22. "Nghệ nhân": Ta vốn gọi những người này là 'nghệ sị Mặc dù đây cũng là tiếng Hán Việt, nhưng người Tầu không có chữ "nghệ sĩ", họ dùng chữ "nghệ nhân". Có những người tưởng rằng chữ 'nghệ nhân' cao hơn chữ 'nghệ sí, họ đâu biết rằng nghĩa cũng như vậy, mà sở dĩ người cộng sản Việt Nam dùng chữ 'nghệ nhân' là vì tinh thần nô lệ Trung Hoa .

23. "Quản lý" = management = quản trị, chịu trách nhiệm. Bắt chước từ Trung Quốc và bị lạm dụng. Nói: 'Anh X quản lý một xí nghiệp' thì được, nhưng câu sau 'nhái lạí khôi hài 'Anh sẽ xây dựng với đồng chí gái, và đồng chí gái sẽ quản lý đời anh...'.

"Quản lý" chỉ dùng để trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, hành chánh. "Quản lý" không dùng cho lĩnh vực tình cảm được, tình cảm không phải là một lô hàng, không phải là một xí nghiệp.

24. "Sơ hữu". 'Mối quan hệ Viê.t-Mỹ chỉ là sơ hữú Sơ hữu + bạn mới quen, mới làm bạn (new friendship). Tại sao không nói: 'Mối quan hệ Viê.t-Mỹ chỉ là bạn mới quen'...?

25. "Sự cố": "Sự cố kỹ thuật": tại sao không dùng chữ vừa giản dị vừa phổ thông trước đây như 'trở ngạí hay 'trở ngại kỹ thuật' hay giản dị hơn là chữ 'hỏng'? (Nói 'xe tôi bị hỏng' rõ ràng mà giản dị hơn là nói 'xe tôi có sự cô).

26. "Tai tệ nạn". 'Tai tệ nạn xảy ra khá nhiều trên đoạn đường nàý tai nạn + tệ nạn xã hội (accident + social crime/evil). Cách ghép nối kỳ lạ .

27. "Thành viên" = member = theo cách nói và viết thông thường là một người trong một tổ chức , hội đoàn, nhóm nào đọ Không thể dùng "thành viên" cho một cá nhân trong gia đình được. Thí dụ sau đây nghe rất Tây: 'Các thành viên trong hộ đó có cha, mẹ và hai con/ Bé Năm là một thành viên trong gia đình....' Tại sao không nói: 'Trong hộ đó có cha, mẹ và hai con/ Bé Năm là một đứa con trong gia đình...'. Thí dụ sau đây mới là dùng đúng: 'Mỹ là thành viên trong Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc có quyền phủ quyết ...'

28. "Tham quan": đi thăm, đi xem thì nói là đi thăm, đi xem cho rồi tại sao lại phải dùng cái chữ này của người Tầủ! Sao không nói là 'Tôi đi Nha Trang chơí, 'tôi đi thăm lăng Minh Mạng', mà lại phải nói là 'tôi đi tham quan Nha Trang', 'tôi đi tham quan lăng Minh Mạng'.

29. "Tháng một; tháng mười hai". Hiện nay ở Việt Nam trong trường học họ không dạy học sinh "tháng giêng" và "tháng chạp" nữa . Tháng giêng và tháng chạp là cách gọi rất Việt Nam. Lịch in ở Việt Nam ghi tháng một là tháng giêng cụ Từ xưa đến nay chúng ta vẫn gọi tháng đầu năm âm lịch là "tháng giêng", tháng thứ 11 là "tháng (mười) một" và tháng cuối năm là "tháng chạp". Gọi là tháng chạp là do tháng cuối năm âm lịch có nhiều lễ, trong đó có lễ chạp. Ca dao đã có câu:

"Tháng chạp là tiết trồng khoai

Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà"

Tháng thứ 11 âm lịch gọi là "tháng một" dễ lầm lẫn với tháng giêng, nên đã tạm bọ Nhưng gọi tháng January dương lịch là "tháng một" nghe không ổn, phải gọi là tháng giêng. Còn tháng December gọi là tháng mười hai, không có vấn đệ Nhưng họ có dạy cho học sinh tiểu học hiểu rằng muốn chỉ tháng thứ 12 trong năm âm lịch bắt buộc phải gọi là tháng chạp không?

30. "Thống nhất". 'Tôi đã xuống huyện thống nhất đồng chí X ..' Câu này mắc hai lỗi . Thứ nhất thiếu từ liên tự với, thứ nhì là thống nhất điều gì, chuyện gị Thống nhất (unify; unified). Trường hợp này phải nói là "đồng ý" với; "nhất trí" với .

31. "Thứ nhất, thứ nhì". Từ xưa theo cách đếm số, chúng ta có con số thường (cardinal number) như 1.2.3.4 và số thứ tự (ordinal number) thứ nhất, thứ nhị Hiện nay họ dường như không ưa dùng số thứ tự và gọi thứ nhì là thứ hai . Chỉ second; deuxième là "thứ hai" dễ lầm lẫn với "thứ hai" = Monday . Trên sách báo chỉ thấy viết: một là; hai lạ Như thế chỉ riêng nước Việt Nam không cần đến số thứ tự (ordinal number) nữa sao ?

32. "Tương thích". Giá cả đó tương thích với chất lượng mặt hàng...' tương đương = thích hợp (equal = appropriated) . Cách ghép nối gượng gao .

33. "Tranh thủ": Thay vì dùng một chữ vừa rõ ràng vừa giản dị là chữ 'cố gắng', từ cái tệ sính dúng chữ Hán Việt của người cộng sản, người ta lại dùng một chữ vừa nặng nề vừa tối nghĩa là chữ 'tranh thụ Thay vì nói: 'anh hãy cố làm cho xong việc này trước khi vế, thì người ta lại nói: 'anh hãy tranh thủ làm cho xong việc này trước khi về

34. "Trao đổi" = exchange = theo nghĩa của họ là nói chuyện, đối thoại, hội thoại . Cách dùng chịu ảnh hưởng nặng Tây phương. Trao đổi theo đúng nghĩa là đổi chác 'ông đưa cái giò, bà thò chai rượụ Họ chịu ảnh hưởng Tây phương quá nặng, vì trao đổi chỉ áp dụng cho hàng hóa (giao thương) hay con người . Thí dụ: 'Hai nước trao đổi lãnh sự, trao buôn bán, mậu dịch'. Kiều và Kim Trọng đã trao đổi quà tặng tình yêu cho nhau . Không bao giờ trao đổi lại có nghĩa là nói chuyện, đối thoại . Thí dụ sau đây cho thấy cách dùng sai lạc: 'Anh Phillippe Jamet đang trao đổi với một bé gái Việt Nam...' Trao đổi gỉ Quà tặng gỉ Trao đổi không bao giờ có nghĩa là converse, talk tọ, chỉ là exchange thôi .

35. "Trọng thị": Coi trọng (show consideration for/ attach important to) trong từ điển ghi là một từ cũ, không hiểu sao lại được dùng trở lại . Thí dụ: "Chúng ta phải trọng thị yếu tố đó". Cứ nôm na nói: 'Chúng ta phải coi trọng yếu tố đo là đủ và giản dị rồi .

36. "Trúng thưởng" = reward, award. Thế nào gọi là thưởng? Thưởng là thưởng cho những cá nhân hay tập thể có công, tài giỏi, đạt thành tích cao ... Thưởng đi đôi với phạt. Vậy không thể nói : 'Mua hàng sẽ được trúng thưởng.../ Anh X trúng thưởng xổ số thành phố X. được 50 triệu . ' Đó chỉ là quà tặng, biếu không, không phải là thưởng, và chỉ là trúng xổ số chứ không lĩnh thưởng. Xổ số là hình thức đánh bạc, nên gọi tránh đi là trúng thưởng (Thật là mâu thuẫn, trong khi đó họ bỏ tiền ra mua máy đánh bạc đặt trong các khách sạn lớn!!)

37. "Trúng tuyển" ( nghĩa vụ quân sự) = select, choose/ recruit. Chúng ta vẫn nói và viết "tuyển sinh", "tuyển quân", "tuyển mộ", "tuyển dụng"... Nhưng nói : "trúng tuyển nghĩa vụ" thật là khôi hài . Nghĩa vụ quân sự là thi hành quân dịch, đến tuổi phải đi, bắt buộc phải đi, không có chuyện trúng tuyển hay không được tuyển (nên dùng theo nghĩa xấu chỉ có dân nghèo, không có tiền đút lót và không phải là con cán bộ cao cấp, mới bị trúng tuyển).

38. "Tư liệu": Trước đây ta vốn dùng chữ "tài liệu", rồi để làm cho khác miền nam, người miền bắc dùng chữ 'tư liệú trong ý: 'tài liệu riêng của người viết'. Bây giờ những người viết ở hải ngoại cũng ưa dùng chữ này mà bỏ chữ 'tài liệú mặc dù nhiều khi tài liệu sử dụng lại là tài liệu đọc trong thư viện chứ chẳng phải là tài liệu riêng của ông ta .

39. "Vị trí" = place/ position/ job, task = chỗ đứng, vị thế / nơi chốn/ việc làm, trách vu Nhưng họ dùng "vị trí" cho luôn cả nghĩa là "trách vụ", "việc làm". Câu nói sau đây là sai: 'Anh A đã thay anh B công tác ở vị trí kế toán trưởng'. Nên nói: 'Anh A đã thay anh B công tác ở trách vụ kế toán trưởng' mới đúng. Thường thường chúng ta hay dùng: 'Tiểu đội A đã chiếm được một vị trí trên cao, từ đó có thể ngăn chặn được trung đội địch tiến lên đồị

40. "Vùng sâu xa": Vùng rừng núi, đầm lầy (highland = swamp area). Đây là cách sử dụng chữ trốn tránh thực tê Vùng ở trong sâu hiểu là vùng hẻo lánh, sình lầy và vùng xa tức là vùng trên cao, ở xa . Đây là cách dùng mị dân, cũng như để dễ bề đẩy giáo viên, kỹ sư, bác sĩ không phe đảng, không là con cháu cán bộ đến phục vụ nơi khỉ ho cò gáy . Ngoài ra "sâu xa" còn gây hiểu lầm với 'lòng cảm ơn, biết ơn sâu xa" đã quen dùng trước đây .

41. "Xuất khẩu", "Cửa khẩu": Người Tầu dùng chữ khẩu, người Việt dùng chữ cảng. Cho nên ta nói "xuất cảng", "nhập cảng", chứ không phải như cộng sản nhắm mắt theo Tầu gọi là "xuất khẩu", "nhập khẩu". Bởi vì ta vẫn thường nói phi trường Tân Sơn Nhất, phi cảng Tân Sơn Nhất, hải cảng Hải Phòng, giang cảng Saigon, thương cảng Saigon. Chứ không ai nói phi khẩu Tân Sơn Nhất, hải khẩu Hải Phòng, thương khẩu Saigon trong tiếng Việt. Khi viết tin liên quan đến Việt Nam, ta đọc bản tin của họ để lấy dữ kiện, rồi khi viết lại bản tin đăng báo hay đọc trên đài phát thanh tại sao không chuyển chữ (xấu) của họ sang chữ (tốt) của mình, mà lại cứ copy y boong?

42. Còn hai từ nữa bị người dân miền bắc lạm dụng vì lây cách dùng của cán bộ là "bản thân" và "chủ yếu": "Bản thân" = self, oneself, và "chủ yếu" = main, principal. Qua những câu chuyện thường ngày, chúng ta nghe họ dùng hai từ này bừa bãi , sai lệch: 'Thức ăn chủ yếu của đồng bào vùng này là ngô và khoai; Chúng tôi lấy gạo làm chủ yếu để qui thành giá trị trao đổí Và: 'Bản thân tôi cũng không tránh khỏi dao động. Bản thân sự kiện đó còn nhiều tồn tại". Người ta đã bỏ quên từ "tự và chính" được dùng từ xưa đến nay, thí dụ: Thức ăn chính của đồng bào . Chính tôi cũng không tránh khỏi dao động; Tự thân sự kiện đó

Hiện nay đang có phong trào ghép chữ bừa bãi giữa hai từ Hán-Việt + Hán- Việt hoặc Hán-Việt + Nôm. Thí dụ: "động thái", "thể trạng", "siêu sao", "siêu trường". Động thái là hành động + thái độ (action + attitude); thể trạng là tình trạng thân thể (physical form sitituation) ; siêu sao = super-star; siêu trường = super-long. nghe lạ tai . Đã đành là ngôn ngữ chẳng qua chỉ là những ước hiệu con người sử dụng để hiểu nhau, thông cảm nhau . Tuy nhiên những ước hiệu đó không được khó hiểu, bí hiểm, khó nghe, chói tai, kỳ la.

43. Những danh từ kỹ thuật mới: Thời đại của điện tử, của computer tạo ra nhiều danh từ kỹ thuật mới, hay mang ý nghĩa mới . Những danh từ này theo sự phổ biến rộng rãi của kỹ thuật đã trở nên thông dụng trong ngôn ngữ hàng ngày . Hầu hết những chữ này có gốc từ tiếng Anh, bởi vì Hoa Kỳ là nước đi trước các nước khác về kỹ thuật. Các ngôn ngữ có những chữ cùng gốc (tiếng Đức, tiếng Pháp) thì việc chuyển dịch trở nên tự nhiên và rõ ràng, những ngôn ngữ không cùng gốc, thì người ta địa phương hóa những chữ ấy mà dùng. Riêng Việt Nam thì làm chuyện kỳ cục là dịch những chữ ấy ra tiếng Việt (hay mượn những chữ dịch của người Tầu), tạo nên một mớ chữ ngây ngô, người Việt đọc cũng không thể hiểu nghĩa những chứ ấy là gì, mà nếu học cho hiểu nghĩa thì khi gặp những chữ ấy trong tiếng Anh thì vẫn không hiểu . Ta hãy nhớ rằng, ngay cả những người Mỹ không chuyên môn về điện toán, họ cũng không hiểu đích xác nghĩa của những danh từ này, nhưng họ vẫn cứ chỉ biết là chữ ấy dùng để chỉ các vật, các kỹ thuật ấy, và họ dùng một cách tự nhiên thôi . Vậy tại sao ta không Việt hóa các chữ ấy mà phải mất công dịch ra cho kỳ cục, cho tối nghĩa . Ông cha ta đã từng Việt hóa biết bao nhiêu chữ tương tự, khi tiếp xúc với kỹ thuật phương tây cơ mạ Ví dụ như ta Việt hóa chữ 'pomp' thành 'bơm' (bơm xe, bơm nước), chữ 'soup' thành 'xúp', chữ 'pharé thành 'đèn phá, chữ 'cycló thành 'xe xích lố, chữ 'manggis' (tiếng Mã Lai) thành 'quả măng cụt', chữ 'durian' thành 'quả sầu riêng', chữ 'bougié thành 'bu-gi, chữ 'manchon' thành 'đèn măng xông', chữ 'boulon' thành 'bù-long', chữ 'garé thành 'nhà gá, chữ 'savon' thành 'xà-bông'?

Bây giờ đọc báo, thấy những chữ dịch mới, thì dù đó là tiếng Việt, người đọc cũng vẫn không hiểu như thường. Hãy duyệt qua một vài danh từ kỹ thuật bị ép dịch qua tiếng Việt Nam, như:

a . Scanner dịch thành 'máy quét'. Trời ơi! 'máy quét' đây, thế còn máy lau, máy rửa đâủ! Mới nghe cứ tưởng là máy quét nhà!
b. Data Communication dịch là 'truyền dữ liệụ
c. Digital camera dịch là 'máy ảnh kỹ thuật sộ
d. Database dịch là 'cơ sở dữ liệụ Những người Việt đã không biết database là gì thì càng không biết 'cơ sơ dữ liệú là gì luôn.
e . Software dịch là 'phần mềm', hardware dịch là 'phần cứng' mới nghe cứ tưởng nói về đàn ông, đàn bạ Chữ 'hard' trong tiếng Mỹ không luôn luôn có nghĩa là 'kho, hay 'cứng', mà còn là 'vững chắc' ví dụ như trong chữ 'hard evident' (bằng chứng xác đáng)ẨChữ soft trong chữ 'soft benefit' (quyền lợi phụ thuộc) chẳng lẽ họ lại dịch là 'quyền lợi mềm' sao ?
f. Network dịch là 'mạng mạch'.
g. Cache memory dịch là 'truy cập nhanh'.
h. Computer monitor dịch là 'màn hình' hay 'điều phốị
i . VCR dịch là 'đầu máý (Như vậy thì đuôi máy đâu ? Như vậy những thứ máy khác không có đầu ả). Sao không gọi là VCR như mình thường gọi TV (hay Ti-Vi). Nếu thế thì DVD, DVR thì họ dịch là cái gỉ
j. Radio dịch là 'cái đàị Trước đây mình đã Việt hóa chữ này thành rađdi-ô hay rađô, hơặc dịch là 'máy thu thanh'. Nay gọi là 'cái đàí vừa sai, vừa kỳ cục. Đài phải là một cái tháp cao, trên một nền cao (ví dụ đài phát thanh), chứ không phải là cái vật nhỏ ta có thể mang đi khắp nơi được.
k. Chanel gọi là 'kênh'. Trước đây để dịch chữ TV chanel, ta đã dùng chữ đài, như đài số 5, đài truyền hình Việt Nam, gọi là kênh nghe như đang nói về một con sông đào nào đó ở vùng Hậu Giang!

Ngoài ra, đối với chúng ta, Saigon luôn luôn là Saigon, hơn nữa người dân trong nước vẫn gọi đó là Saigon. Các xe đò vẫn ghi bên hông là 'Saigon - Nha Trang', 'Saigon - Cần Thớ trên cuống vé máy bay Hàng Không Việt Nam người ta vẫn dùng 3 chữ SGN để chỉ thành phố Saigon. Vậy khi làm tin đăng báo, tại sao người Việt ở hải ngoại cứ dùng tên của một .... để gọi thành phố thân yêu của chúng mình?! Đi về Việt Nam tìm đỏ mắt không thấy ai không gọi Saigon là Saigon, vậy mà chỉ cần đọc các bản tin, các truyện ngắn viết ở Hoa Kỳ ta thấy tên Saigon không được dùng nữa . Tại sao ?

Đây chỉ là một vài ví dụ để nói chơi thôi, chứ cứ theo cái đà này thì chẳng mấy chốc mà người Việt nói tiếng Tầu luôn mất! Tất nhiên, vì đảng cộng sản độc quyền tất cả mọi sinh hoạt ở Việt nam, nên ta khó có ảnh hưởng vào tiếng Việt đang dùng trong nước, nhưng tại sao các nhà truyền thông hải ngoại lại cứ nhắm mắt dùng theo những chữ kỳ cục như thể! Cái khôi hài nhất là nhiều vị trong giới này vẫn thường nhận mình là giáo sư (thường chỉ là giáo sư trung học đệ nhất cấp (chưa đỗ cử nhân) hay đệ nhị cấp ở Việt Nam ngày trước, chứ chẳng có bằng Ph.D. nào cả), hay là các người giữ chức này chức nọ trong các hội đoàn tự cho là có trách nhiệm về văn hóa Việt Nam ở ngoài nước!

Trước đây Phạm Quỳnh từng nói: 'Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn', bây giờ Truyện Kiều vẫn còn mà cả tiếng ta lẫn nước ta lại đang đi dần xuống hố sâu Bắc Thuộc. Than ôi!

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #32 - 17. Aug 2010 , 10:44
 
Đọc đi các bạn, để thấy ..mình thật là may mắn.  Xin mời

THÈM
          Tiểu Tử

          Tụi bây biết không ? Bây giờ tao đi làm bằng xe đạp. Tụi bây đừng cười. Tao không giỡn đâu. Hồi xưa, hồi trước 1975,  trong bọn mấy đứa tụi mình, tao là thằng tếu nhứt. Tao hay kể chuyện tiếu lâm, hay bịa chuyện này chuyện nọ để chọc cười, để phá phách cho vui với nhau. Nên tụi bây thường nói: “Coi chừng ! Nó nói cái gì mình phải xin keo coi có đúng không, rồi hãy tin”. Hồi đó, khác. Bây giờ, khác. Tụi bây đi hết rồi, chỉ còn mình tao kẹt lại. Nói thiệt hay nói dóc đều không còn ý nghĩa gì nữa, cũng không còn giá trị gì nữa đối với tao. Bởi vì không còn ai để giỡn, không còn lòng dạ đâu để giỡn, và cái cười của tao đã vượt biên đâu mất từ lâu...
          Điều ngộ nghĩnh là, bây giờ, bất cứ chuyện gì tao kể ra chắc chắn tụi bây đều không tin ráo ! Bởi vì tụi bây đã di tản trước ngày 30 tháng tư 1975, không thấy không biết những gì đã xảy ra ở trong nước, làm sao mà tin ? Vả lại “những gì đã xảy ra” đã không xảy ra theo quy luật thông thường. Tất cả đều bị xáo trộn, đảo lộn một cách nghịch lý đến nỗi tao là người sống trong đó mà lắm khi tao phải tự hỏi: “Làm sao có thể như vậy được ?”. Vậy mà nó đã “như vậy được” tụi bây à ! Khó
tin nhưng có thật ! Cho nên, những gì tao viết ở đây cho tụi bây hoàn toàn là những chuyện có thật mà... khó tin đó.
          Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày, tao cứ phải nghe ra rả nói láo nói dóc, cứ phải luôn luôn nói láo nói dóc... Nào là “Đã vượt chỉ tiêu 150%” (Chỉ tiêu là con số đã được ấn định trước cho mức sản xuất, không biết là bao nhiêu, nhưng thấy tháng nào cũng vượt, năm nào cũng vượt, nghành nào cũng vượt – tao phải... dịch những chữ mới rõ ràng ra như vậy cho tụi bây hiểu, bởi vì bây giờ mình không còn nói giống như hồi trước nữa). Nào là “Đã hồ hởi phấn khởi đi làm nghĩa vụ” nghĩa là đi làm cái nghĩa vụ gì đó một cách... khoái trá sôi động bởi vì biết chắc rằng không đi cũng không được. Nào là “Hoàn toàn nhất trí” ( Bây giờ không  nói nhứt nữa, mà nói  nhất. Nghe... cách mạng hơn ), nghĩa là “đồng ý hoàn toàn”, cho nó rồi, kẻo không thì... kẹt lắm. Mọi người đều “nhất trí” hết mà mình không “nhất trí” thì nó... lòi ra coi không giống ai. Thành ra “nhất trí” cũng có nghĩa là “phải làm như mọi người”. Tụi bây hiểu chưa ? Nào là “Làm việc rất là năng nổ”. Tao nghĩ chắc khỏi cần dịch. Tụi bây cứ nghe “nó... lốp bốp” là đoán ra cái nghĩa của nó rồi. Đại khái là làm việc giống như có cờ phất trống khua, có loa trên loa dưới ồn ào, còn lè phè suốt buổi hút thuốc uống trà là chuyện khác... vân vân và vân vân... Kể không hết !
          Sau bao năm dài sống trong môi trường như kể trên, “cái thèm” rất lớn của tao là được sống thật, nói thật. Cho nên, viết cho tụi bây giống như tao được... giải phóng. Vậy những gì tao kể ra đây, tụi bây khỏi phải xin

keo !
          Bây giờ, tao đi làm bằng xe đạp. Vẫn làm ở sở cũ. (Còn được làm việc ở sở cũ là may đó nghen. Nhiều người bị đổi đi nơi khác xa hơn và thường thì ở một nghành nghề không dính dấp gì với phần chuyên môn của mình hết. Cách mạng mà !). Cái xe hơi con cóc , tao đã cho nó lên nằm trên bốn gộc cây để bán lần bán hồi bốn bánh xe, cái bình điện, cái đề-ma-rơ... Hầu như tháng nào tao cũng phải bán một món gì trong nhà, bởi vì lương của tao cộng với những gì vợ tao và hai con gái lớn kiếm được hằng tháng... không đủ sống. Tình trạng đó bắt đầu từ sau hai “trận” Nhà Nước đổi tiền.
          Đạp xe riết rồi cũng quen. Khoảng cách trên mười cây số từ nhà đến sở, tao coi như “pha”. Chỉ bực mình là xe đạp của tao hay sút sên khi nó “nhảy” ổ gà. Mà đường sá bây giờ, ổ gà ở đâu nó... lòi ra nhiều quá. (Người ta nói Mỹ rút đi, để lại toàn là đồ giả không – tao nghe sao chép vậy !). Cho nên, ở nhiều đoạn đường, tao lái xe tránh ổ gà giống như người say rượu ! Vậy mà có hôm vẫn cứ sút sên vì “nhảy” ổ gà, cho nên, vào tới sở hai tay tao thường lấm lem dầu, đất, mà áo quần thì ướt đẵm mồ hôi.
          Bây giờ, tao làm việc “thông tầm”, nghĩa là làm suốt tới chiều rồi về sớm không có về nhà ăn cơm nghỉ trưa như hồi trước. Vì vậy, mỗi sáng tao mang theo một lon ghi-gô cơm với vài miếng cá mặn để ăn tại bàn viết buổi trưa. Chiều về sớm, tao có bổn phận nấu cơm làm đồ ăn - những món tầm thường như hột vịt luộc hột vịt chiên…vv - bởi vì giờ đó vợ con tao còn kẹt ở tổ may thêu tuốt trong Gò Vấp. Ờ…bây giờ tụi nó cũng đạp xe
đi làm xa như tao và cũng đi hằng ngày như tao. Đổi đời mà….
          Mỗi sáng đi làm, lúc nào tao cũng đem theo cái giỏ đi chợ treo tòn ten ở ghi-đong, giống như đi chợ chớ không giống đi làm ! Bởi vì trong sở thường hay... bất thần bán cho nhân viên (gọi là “phân phối” chớ không gọi là “bán”, nghe có vẻ như được… cho, nhưng mình phải trả tiền !) cá, rau cải... vv. Tuy không nhiều và không được lựa chọn vì phải... bắt thăm trúng lô nào lấy lô đó, nhưng rẻ hơn ngoài chợ thành ra cũng đỡ. Cho nên, đi làm việc mà ngày nào cũng nhóng nhóng hỏi thăm “coi bữa nay có phân phối gì không ?” và chiều về đến nhà, thằng con tao – thằng út đó, tụi bây nhớ không ? bây giờ nó lớn đại rồi – chạy ra mở cổng lúc nào cũng hỏi: “Bữa nay có mua được gì không ba ?”. Và hôm nào thấy trong giỏ có đồ gì để ăn là mắt nó sáng rỡ. Tội nghiệp, sống trong sự thiếu thốn triền miên, có đứa nhỏ nào, có người lớn nào mà không nghĩ đến miếng ăn ?
          Bây giờ, tao hút thuốc lá vấn tay. Tao tự vấn lấy. Không phải tao muốn lập dị mà vì tao không đủ tiền mua loại thuốc điếu kỹ nghệ thông thường (Ờ ! Nghèo đến nước đó. Tụi bây có tin không ? ) Mới đầu, tao vấn thuốc rê Gò Vấp. Nó nặng muốn... tét phổi ! Về sau, tao bắt chước thiên hạ mua thuốc lá Lạng Sơn đã xắt sẵn - nghe nói là giống thuốc Virginia, mấy ông ngoài Bắc bảo thế ! - đem trộn với thuốc Gò Vấp, hút thấy được. Vậy là mỗi khi muốn hút, tao cứ tà tà xé một miếng giấy quyến, tà tà rứt một miếng thuốc kéo cho dài dài ra khi để lên lòng giấy, rồi đặt hết tâm tư vào mấy ngón tay

_(của cả hai bàn tay đang chụm đầu lại nâng nhẹ giấy và thuốc !) để ém, lận, cuốn, xe... cho điếu thuốc được tròn đều trước khi đưa lên lưỡi liếm. Xem thật “ung dung nhàn hạ”. Giống như một nghi thức. Và tao có quyền tà tà vấn thuốc như vậy bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào: trong khi làm việc, trong các buổi hội họp học tập, và cả ngay trước mặt ông xếp của tao nữa (Bây giờ gọi là “thủ trưởng”, nôm na là “cái đầu đứng đầu”. Còn cái đầu có cái gì trong đó hay không lại là chuyện khác). Cho nên, hút thuốc vấn – đối với tao – giống như là một cách thoát tục, cái “tục” quá... tục mà tao đang sống bây giờ. Tuy nhiên, sao tao vẫn nghe thèm điếu thuốc ba số năm là loại thuốc mà mấy chục năm tao đã hút ! Làm như mùi vị của nó còn nằm ở đâu trong máu trong xương. Nhiều đêm trở giấc, tao nghe thèm ray rứt, thèm chảy nước mắt !
          Chiều hôm qua, trên đường về nhà, đạp xe tới chợ Tân Định thì trời bỗng đổ mưa. Tao tấp vô đụt mưa dưới mái hiên tiệm nước nằm ở góc đường dọc hông chợ (tao quên tên) và đường Hai Bà Trưng. Lúc đó, cỡ gần năm giờ (đồng hồ tay, tao đã bán từ lâu, nên từ lâu, tao chỉ... đoán giờ thôi !). Trong tiệm thấy lai rai có người ăn uống.
          Tao đã đứng sát vào vách vậy mà gió cũng tạt mưa vào ướt hết phía dưới chân. Một lát, tao nghe lạnh chân. Rồi tao nghe đói. Cái đói đến một cách đột ngột, giống như nó chui từ dưới chân chui lên. Hồi nãy đạp xe trên đường, tao có thấy đói đâu, mặc dù  buổi trưa tao chỉ ăn có một lon ghi-gô cơm với ít mắm ruốc – dĩ nhiên là tao có uống thật nhiều trà, thứ này, loại thường thôi, 
trong sở ( Bây giờ gọi là “cơ quan”) có chị nhân viên tối ngày cứ châm đầy bình cho mình uống “líp” – Vậy mà bây giờ tao lại thấy đói. Có lẽ tại vì lỗ mũi tao nghe mùi hủ tiếu, mùi mì. Ờ... tụi bây không biết chớ từ lâu rồi – tao không nhớ là bao nhiêu lâu, nhưng chắc là lâu lắm – tao chưa được ăn mì. Bây giờ đứng đây, bên đường ngang hông chợ Tân Định, phía trên gió, vậy mà vẫn “đánh hơi” rõ mồn một mùi nước lèo của xe mì nằm bên đường Hai Bà Trưng, phía dưới gió, rõ như hơi của nước lèo đang bốc lên ngay trước mũi ! Tao nuốt nước miếng.
          Thèm quá ! Tao thèm ăn ngay một tô mì ! Thọc tay vào túi quần, tao đụng hai tờ giấy bạc. Móc ra xem thì ra là hai đồng. Tao chỉ có ngần đó thôi ! Nhưng hai đồng, đủ để ăn một tô mì rồi ! Thì ăn... đại một tô cho nó đã ! Tao dợm bước vào tiệm nước bỗng nhớ lại vợ tao hồi sáng khi trao cho tao hai đồng đó, có dặn: “Chiều, anh ghé chợ Cây Quéo mua 6 cái hột vịt và nửa giỏ rau. Về, anh bắc nồi cơm bỏ vô luộc trước. Chừng mẹ con em về, em làm nước mắm rồi dầm cho nhà ăn.” Hình ảnh cả nhà tao 7 đứa quây quần bên “nửa giỏ rau và 6 cái hột vịt” và hình ảnh tao một mình ngồi ăn tô mì... làm tao khựng lại. Tô mì mà tao muốn ăn, thèm ăn, là cả một bữa ăn của gia đình ! Tao không thể đổi được. Thà là tao nhịn thèm. Thà là tao chịu đói để về ăn chung với vợ con. Ăn thứ gì cũng được, ít nhiều gì cũng được, dở ngon gì cũng được. Miễn là ăn chung với tụi nó. Để thấy rằng cuộc đời tao bây giờ chỉ còn lại có tụi nó là quí thôi ! Tao nghe thương vợ thương con vô cùng. Và tao cũng nghe thương thân tao vô cùng...
   Tao đứng yên nhìn ra mưa bỗng nghe hai má của mình ướt ướt. Tao đưa tay lên vuốt mặt mà nghĩ rằng mình vuốt nước mưa trên má...
( Trên đây là lá thơ viết lỡ dở, của ai viết cho ai tôi không biết. Thơ viết trên giấy tập học trò, chữ nhỏ li ti, nhưng đẹp và rõ nét. Tình cờ, tôi nhìn thấy nó trong xấp giấy gói hàng của bà bán xôi đầu ngõ nên tôi xin… )
                                                                                 Tiểu  Tử _,_.___
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI ( CÁI GỌI LÀ TÌNH ĐỒNG HƯƠNG )
Reply #33 - 17. Oct 2010 , 02:53
 
Sau những sự việc tai nghe mắt thấy ở ngay trên quê hương , bây giờ xin thân mời quý vị thử ghé mắt một chút nơi đất lạ quê người.
Nỗi đau đồng hương
Huy Phương
Tôi, người Thừa Thiên và bạn quê ở Khánh Hòa, dù “cùng lận đận bên trời một lứa”, từ Việt Nam chạy sang đây không thể xem nhau là đồng hương, vì tôi với bạn không phải là người cùng làng (hương đản).
Theo tục người Tàu, thì người cùng một tỉnh cũng gọi là đồng hương vì cùng đi thi hương ở một tỉnh, do đó ở hải ngoại chúng ta có nhiều hội đồng hương như Hội Đồng Hương Bắc Ninh hay Quảng Nam-Đà Nẵng, đặt tên như vậy là đúng. Trái lại, tôi và người bạn quê Khánh Hòa nói ở trên không thể ở chung trong một hội đồng hương được, nói theo cách nói sai bây giờ, tất cả người Việt gọi nhau là đồng hương, không lẽ có một hội đồng hương mang tên “Hội Đồng Hương Việt Nam”. Cũng như tôi và ông bạn nói trên có thể “liên lạc” với nhau, nhưng không thể nào “liên hệ” với nhau vì không phải là bà con, máu mủ, theo lối nói trong nước mà rất nhiều người bắt chước hiện nay. Nếu có một tiếng lâu nay chúng ta dùng sai, mà chúng ta biết là sai thì liệu chúng ta có sửa lại cho đúng không?


 Chúng ta là người Việt ở trên đất Mỹ này chỉ có thể xem nhau là đồng bào, một danh từ mà trước đây người ta hay dùng theo nghĩa bóng là con dân chung một tổ quốc, như anh em cùng một bào thai sinh ra. Nhiều người ngại không dùng tiếng “đồng bào” vì sợ xem thường người khác, vì ngày xưa các nhân vật lãnh đạo quốc gia hay mở đầu diễn văn bằng những tiếng “quốc dân”, “đồng bào”. Nhưng không lẽ chúng ta gọi những người Việt trong nước là “đồng bào” và những người Việt cùng chúng ta tỵ nạn sang đây là “đồng hương”? Trên báo chí vẫn thường thấy những tin “cứu trợ đồng bào bão lụt tại miền Trung” nhưng lại viết “đồng hương tham gia biểu tình đông đảo”!

Điều đáng nói là hai tiếng “đồng hương” đã được lợi dụng triệt để để ca tụng tình thân ái, yêu thương, đùm bọc như “tình đồng hương”, “giá đồng hương”, giảm giá cho đồng hương, “đặc biệt cho đồng hương” nhưng nghĩa của nó là “lường gạt”, “xem thường”, “khinh bỉ”. Tôi không nói ngoa. Bạn thử vào một ngôi chợ Mỹ, rồi vào một ngôi chợ Việt để xem các cô bán hàng ở hai ngôi chợ này đối với khách khác biệt nhau ra sao? Bạn thử mua một món hàng ở tiệm đồng hương về nhà, không vừa ý, đem đổi lại, thái độ của ông chủ tiệm sẽ ra sao? Bạn thử vào một bãi đậu xe khu phố Việt để thấy lối hành xử của đồng hương chen lấn, vứt xe đi chợ giữa đường hay để sau đít xe người khác ra sao? Bạn thử vào một tiệm ăn đồng hương có nhiều người ngoại quốc đến ăn để xem người ta tiếp đãi khách da vàng, da trắng khác nhau ra sao?


 Những chuyện giao tiếp giữa đồng hương với nhau, trên các tờ báo địa phương, người ta đã nói đi nói lại nhiều lần, nhưng chúng ta vẫn gặp những chuyện bực mình nghìn lần như một. Hôm qua chúng tôi từ một nhà hàng ăn trên đường Bolsa, lái xe ra trước một dòng xe nối đuôi nhau chạy liên tục. Biết thân, tôi đã chờ đợi khoảng thời gian khá lâu, những người đi qua toàn là đồng hương thân yêu, nhưng chẳng có ai đưa ra một dấu chỉ thân thiện. May quá, cuối cùng có một người ra dấu nhường xe cho tôi ra, vẫy tay chào lại thay một tiếng cám ơn, tôi thất vọng vì nhận ra người lái xe kia là một người Mỹ tốt bụng chứ không phải chủng loại da vàng mũi tẹt như tôi...


 Sống trên mảnh đất có nhiều “đồng hương” nhất ở nước Mỹ này gần hai mươi năm, đã nhường lối xe ra hằng trăm lần cho tất cả mọi người lái xe, không phân biệt vàng, đen, trắng, đỏ, tôi ít khi thấy “đồng hương” mình vẫy một bàn tay để tỏ một cử chỉ thân thiện, mà chỉ thấy những khuôn mặt khó đăm đăm, ra chiều quan trọng, phớt lờ, trái ngược với nụ cười, lối xã giao của những người dân địa phương ở đây. Một lần khác trên con đường ra từ một khu chợ, một đồng hương còn trẻ, trong khi chờ xe đậu lấn qua phần đường ra, khiến chiếc xe của tôi phải mắc cạn không tiến được. Tôi xuống cửa xe nói với đồng hương xin nhích lên một tí, cho tôi đi lên, kẻo sau tôi còn nhiều xe đợi. Y có vẻ phật ý, lắc đầu. Tôi biết y coi thường người đồng hương, cũng như cái xe đời cũ của tôi. Nếu gặp một người Mỹ trắng sang trọng với cái xe đời mới, chắc y đã vui vẻ nhường đường. Cái này, ông cha ta thời xưa nói là kiểu “khôn nhà dại chợ”, đối với người nhà thì khinh bạc, lấn áp, nhưng đối với người ngoài thì sợ hãi kiêng nể.

Tôi cũng đã từng đỡ cửa cho hằng trăm “đồng hương” ở các cửa hàng trong khu người Việt, điển hình là tại thương xá Phước Lộc Thọ, người ta nghĩ tôi là một ông già điếc đặc nên đã không hề mở miệng cám ơn, đôi khi lại không buồn đưa bàn tay ra đỡ giùm cánh cửa, khiến tôi phải khép nép đứng lại một bên, ôm cánh cửa chờ đồng hương bước qua, sợ buông tay, lỡ cánh cửa đập vào mặt người ta. Chẳng phải mới chút đỉnh “thi ân” đã đòi “cầu báo”, mà sợ dân địa phương cho mình là người kém văn minh. Nhưng sự thực tôi đã lầm, vì nếu gặp một ông tây, bà đầm đỡ giúp cánh cửa thì “đồng hương” đã nở một nụ cười rất khả ái và không quên lịch sự cám ơn rối rít. Vậy câu nói “đồng hương khinh bỉ đồng hương” hẳn không sai.
Câu chuyện này đã được ông Bá Dương bên Tàu và nhiều trang báo bên Mỹ nói chuyện nhiều lần, nhưng chẳng ăn thua gì, chỉ sợ người ta lại nhớ đến câu: “Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!”


 Bạn bè cứ cho tôi là hận đồng hương nên mới “Khổ lắm! Nói mãi!” Quả thật là tôi có bị một anh “nhóc con đồng hương” lừa trong bệnh viện, rồi lại bị một “từ mẫu đồng hương” gửi cho cái bill $3,500 về một dịch vụ “ảo” không hề có thực khiến cơ quan medi-care phải è lưng ra trả. Tôi cũng biết tôi có khuyết điểm là nhớ dai và chưa xóa bỏ được hận thù. Tôi biết nhiều người, nhất là giới cao niên, vì ngôn ngữ hạn chế nên phải bám riết vào đồng hương, không bị lường gạt kiểu này, cũng bị lường gạt kiểu khác, nhưng nghĩ “tình đồng hương”, “chín bỏ làm mười”, “dĩ hòa vi quý”, nên bị chúng coi thường, lại càng làm tới. Nhiều người than phiền bị những “công ty đồng hương” nhận tiền cọc, tiền mua vật dụng cho những dịch vụ sửa nhà, ghép phòng, xong rồi cao bay xa chạy. Rất nhiều gia đình khá giả đã bị “đồng hương” đem xe truck đến dọn sạch nhà. Ai hiểu rõ “đường đi nước bước” và chuyện tiền bạc của đồng hương hơn đồng hương, và dọn nhà đồng hương cũng dễ hơn vào dọn nhà Mỹ. Quả thật đồng hương là một tập thể rất dễ tin nên dễ bị lừa, từ chuyện chính trị cho đến chuyện nhỏ nhặt như viên thuốc, gói trà.


 Một nữ độc giả báo Viễn Đông vừa than phiền chuyện đi mua “cơm chỉ’ của đồng hương, về nhà thấy một con gián trong miếng canh mướp đắng, đem lại tiệm khiếu nại thì bị nhân viên không cho gặp chủ, lại còn bị mắng mỏ: “Mướp có gián thì ra chợ mà khiếu nại!” Một người khách khác than phiền mua phải chè thiu, bản thân người viết bài này cũng đã có dịp mua về nhà món tôm càng kho đã bị chua, đành phải mang ra gửi lại cho chủ tiệm thức ăn “to go”, được trả tiền lại, không bị sừng sộ, là may mắn, đằm thắm tình nghĩa đồng hương lắm rồi. Trong khi thức ăn “to go” của các nhà hàng Mỹ, trong ngày nếu bán không hết phải đổ thùng rác, không để qua đêm vì vấn đề vệ sinh và điều quan trọng là biết tôn trọng khách hàng, tiệm “to go” bán thức ăn ở Little Saigon này để nhiều ngày, siu thối, nếu không gọi “xem thường, khinh bỉ đồng hương” thì chúng ta gọi bằng chữ gì? Phải chăng đó là ý nghĩa của khẩu hiệu đẹp đẽ “đồng hương phục vụ đồng hương”!

Trước con mắt quan sát của thiên hạ đối với đồng hương chúng ta, nếu có ai đó có nhã ý giới thiệu nét văn hóa của đồng hương thì nên tránh xa các khu chợ đầy rác, tàn thuốc lá và cũng đừng nên giới thiệu nét “khả ái” của những cô cashier đồng hương, nó cũng không khác gì mấy các cô “Duyên Dáng Việt Nam Airlines” đâu!

Người ta nói ở nước Úc, Pháp, Canada hay ở các tiểu bang miền Đông nước Mỹ, đồng hương đối với nhau tử tế hơn nhiều. Cũng dễ hiểu thôi, cái gì ít mới quý. Một người Việt ở trong cộng đồng sắc dân khác rất dễ thương, nhưng cũng người này về với đám đông đồng hương thì sinh dễ ghét.


 Tôi biết nhiều ông bà ở tận miền Đông buốt giá, ít người Việt, trong hoàn cảnh chưa gần đồng bào được, nên rất muốn về gần đồng hương. Gần đồng hương rồi mới gặp trăm thứ bực mình, nhưng chẳng thà bực mình với đồng hương còn hơn khốn khổ với trăm thứ “đồng bào” giai cấp mới hiện nay ở bên nhà.


Tôi cũng vậy. Nhưng khổ tâm lắm mới phải nói ra!

Nói mãi! Biết rồi! Khổ lắm!

Huy Phương

Back to top
« Last Edit: 17. Oct 2010 , 02:55 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI : NGƯỜI TÙ
Reply #34 - 19. Nov 2010 , 16:53
 
Người Buôn Gió

Tình cờ hôm nọ được cho tập hồi ký của Đức Cha Phao Lô Lê Đắc Trọng mới láng máng biết rằng đó là Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh của nhà thờ lớn Hà Nội, vì can tội không cho chính quyền trang trí trước cửa nhà thờ, cha Chính Vinh bị kết án 3 năm tù, nhưng đi tù mãi chả thấy về, tăm hơi biệt tích, hơn 40 năm sau nhờ bạn tù chỉ dẫn, người thân mới biết nơi cha Chính Vinh chết để chuyển thi hài ngài về.

Từ nhỏ mình đã bị ấn tượng về những người bị bắt tù, mình luôn say sưa đọc về những chiến sĩ cách mạng bị giam ở Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo, những vị anh hùng như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú… đến Hồ Chí Minh. Thật ra hồi mình bé thời bao cấp chỉ có sách về các nhân vật này thôi. Lớn chút mới đọc được Pa Pi Lon, thiên hạ say mê anh chàng Bướm lắm, nhưng mình cũng chả thấy có gì hâm mộ anh chàng này, bá tước Monte của Dumas cũng không ấn tượng lắm vì có lẽ thời kỳ của các nhân vật này khá xa lạ với Việt Nam, sau này có điều kiện mới lùng được sách của Solzenitsyn như cuốn Tầng Đầu Địa Ngục, Một Ngày Trong Đời của I Van, hay cuốn Lửa Yêu Thương, Lửa Ngục Tù của Eriche Maria Remarque, cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn. Mỗi nhân vật đều để lại cho mình những ám ảnh, những ấn tượng. Nhưng có lẽ đoạn văn của Phùng Quán viết lại theo lời kể của Tuân Nguyễn khi Nguyễn ở trong tù là ám ảnh hơn cả.

Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả: trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn. Mình chỉ đơn cử với cậu một người…



“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính. Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc. Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ. Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài. Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc. Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…

Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?… Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho đầm nước. Trời nóng như dội lửa.
Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

- Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.

- Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và trừng phạt”. Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.

- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.

- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.

Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày. Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi tong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè lưỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẩm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra.

Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

Mình nói:
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

***

Trong số bao nhiêu nhân vật tù đã được nổi tiếng nhờ tiểu thuyết hóa, người bạn tù của Tuân Nguyễn chỉ là hạt bụi bay qua so với những tác phẩm đồ sộ để đời ấy, mấy ai biết đến nhà thơ Tuân Nguyễn và mấy ai biết hơn về người bạn tù bí ẩn của ông. Người ta ấn tượng cách ông già của Solzenitsyn đầu rụng hết tóc, nhai bánh mỳ bằng lợi hay già Đô của Bùi Ngọc Tấn chết vất vưởng đâu đó trên phố phường Hà Nội khi mãn hạn tù… mình cũng ấn tượng những nhân vật ấy.

Nhưng hình ảnh người tù xấu xí, nghèo khổ đọc nguyên bản Candide bằng tiếng Pháp khiến mình luôn bị ám ảnh trong đầu, Tuân Nguyễn cả Phùng Quán đều về thiên thu, giá như các cụ ấy còn sống mình cũng cất công đi tìm hỏi người mà các cụ nói ấy là ai.

Back to top
« Last Edit: 19. Nov 2010 , 16:56 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI : LẤY CHỒNG VIỆT KIỀU
Reply #35 - 20. Nov 2010 , 01:43
 
THẰNG CHỒNG  VIỆT KIỀU CỦA TÔI
Những ai phải trải qua cay đắng mới biết giá trị đích thực của cuộc sống. Tôi cũng vậy. Hạnh phúc, tiền bạc, danh vọng, và bộ mặt đã làm tôi như quay cuồng.
Cũng chỉ vì “lấy chồng Việt Kiều” và “có rể Việt Kiều” đã làm cho “thằng chồng Việt Kiều” của tôi điêu đứng và tôi suýt bỏ rơi anh ta khi mới bắt đầu qua đây.
Có lẽ tôi quá cay đắng nhưng tôi đã hối hận rất nhiều.
Tôi vốn ở Biên Hòa, được cho là xinh đẹp từ nhỏ. Tôi được gia đình cưng chiều nhưng không có hư đốn. Tôi vào được Đại Học Sư Phạm nghành Anh Văn và học xong. Trong thời gian làm kiếp sinh viên, gia đình tôi đi xuống và lam lũ. Tôi trở thành sinh viên nghèo phải bươn chãi kiếm sống vì gia đình tôi không thể chu cấp mọi chi phí.
Ở xóm, có nhiều người lấy chồng Việt Kiều và có tiền xây nhà cao ráo. Ai cũng nói tôi có học và có sắc tại sao không kiếm được chồng Việt Kiều cho gia đình đỡ khổ. Cuộc sống khốn khổ như vậy khiến cho tôi nghĩ đến chuyện “lấy chồng Việt Kiều” để cưu mang gia đình. Tôi nghĩ đơn giản như vậy, chính vì đơn giản đó đã làm hại một người, đó là thằng chồng Việt Kiều của tôi.
Với ý nghĩ đơn giản, tưởng rằng ở nước ngoài ai cũng ăn sung mặc sướng dễ kiếm ra tiền. Tôi có đọc sách báo thì thu nhập trung bình hàng năm của người Mỹ là 24 ngàn đô-la. Nếu thằng chồng làm 24 ngàn đô-la thì mình xin 6-7 ngàn có sao đâu.
Nhưng thánh thần ơi, đó là thu nhập, chưa tính thuế, tiền xăng, ăn uống, chi tiêu, nhà cửa, điện nước,…
Cái ý nghĩ ngu xuẩn chỉ cần 6-7 ngàn mỗi năm đó lan truyền vào gia đình tôi và gia đình tôi tưởng bở và thật. Cũng chính vì tôi có sắc và có thân hình đẹp nên tôi kiếm được một thằng Việt Kiều hiền lành nhưng có chút khờ trong những Việt Kiều về thăm.
Hắn hồi ở Việt Nam chỉ học tới lớp 9, sau đi làm phụ hồ, và theo gia đình đi Mỹ theo diện HO. Qua đó hắn chỉ biết đi làm. So về trình độ học vấn thì chênh lệch với tôi do đó khó nói chuyện. Tôi biết không hạp lắm nhưng giả nai để được đi Mỹ. Tôi nhanh chóng trao sự trinh tiết cho hắn và bắt hắn phải chịu trách nhiệm và cưới. Hắn hứa cưới. Tôi ra giá là trước khi tôi qua Mỹ thì gia đình tôi cần 20 ngàn đô để xây nhà mua xe (vì nhà tôi ọp ẹp và không có xe gắn máy).
Hắn trở lại Mỹ, và gởi tiền đều đều, hắn làm gì tôi không quan tâm vì tôi chẳng yêu, thấy tiền là tôi thích. Tôi cố gắng học cho xong 4 năm đại học để phòng khi không qua được Mỹ thì tôi có bằng cấp và dạy học Anh Văn cũng có tiền.
Khi nhà cửa tôi xây xong, xe có 2 chiếc thì hắn về. Trông hắn tiều tụy và ốm sau 2 năm và tôi cũng vừa tốt nghiệp Đại Học. Đám cưới tổ chức linh đình. Gia đình tôi nở mặt nở mày với hàng xóm. Trong khi chờ đợi qua Mỹ, tôi học thêm đủ thứ nghề từ thêu may đến vi tính, uống tóc đến móng tay,… Hắn chu cấp vài trăm đô mỗi tháng.
Khi đến Mỹ tôi thật sự thất vọng. Thằng chồng tôi ốm yếu và bịnh hoạn. Tôi biết sự thật là sau khi gặp tôi, hắn làm 2 việc để có tiền gởi theo yêu cầu tôi. Mỗi ngày hắn chỉ ngủ được 4 giờ. Cuối tuần làm thêm. Nhà thì ở nhà mướn chứ không như tôi nghĩ là nhà riêng có bãi cỏ đẹp. Xe hơi thì xe cà tàng cũ xì chứ không bóng lộn như tôi thấy ở tỉnh ủy tỉnh Đồng Nai.
Tôi lúc đầu nghĩ rằng hắn lừa dối tôi để được tôi nên tôi giận quá bỏ hắn qua người dì. Hắn sụp đổ tinh thần và vào bịnh viện tôi chẳng cần quan tâm. Tôi luôn nghĩ cuộc sống của hắn ở Mỹ phải tốt, phải như thiên đường….. Nào ngờ chỉ là dân lao động nghèo nàn không biết Anh Văn. Dì tôi nói là nếu không trở lại sống với hắn thì về Việt Nam, vì nếu tôi bỏ hắn thì tôi bị trục xuất. Dì tôi không dám chứa chấp tôi sợ liên lụy. Dì tôi cho tôi 10 ngày suy nghĩ.
10 ngày đó tôi tìm hiểu cuộc sống ở Mỹ. Tôi thấy ai cũng cố gắng đi làm để có tiền chứ không dễ hái ra tiền. Khác với ở Việt Nam là làm việc ở đây dù tiền ít vẫn không bị đói. Môi trường sống tốt hơn, học hành miễn phí, có biết tiếng Anh xin làm dễ hơn,…. Tôi nghĩ về thằng chồng tôi không yêu nhưng lấy chồng vì tiền. Tôi dần dần thấy tội nghiệp hắn. Vì mê sắc đẹp tôi mà hắn phải hao tổn sinh lực làm 2 việc để có hơn 24 ngàn đô-la gởi về cho tôi trong lúc bản thân hắn chẳng có gì.
Tôi dần dần động lòng trắc ẩn thằng chồng không yêu. Tôi thấy tội nghiệp quá. Đã tốn sinh lực kiếm tiền cho tôi và sau đó bị tôi bỏ đi. Tôi ứa nước mắt ân hận.
Sau một tuần tôi trở lại và xin lỗi. Những giọt nước mắt hạnh phúc trong thân hình tiều tuỵ của hắn làm tôi thêm đau lòng. Tôi thề với Trời Phật tôi không bỏ hắn và sẽ lo cho hắn.
Tôi dễ dàng kiếm việc và hắn nghỉ 3 tuần dưỡng sức vì mới ra viện. Tôi ráng bươn chãi thêm việc cuối tuần để hòng giúp hắn có tiền mua xe khác và cho tôi một chiếc xe cũ nào đó, vì sống ở Mỹ thiếu xe không thể xin việc làm tốt hơn.
Tôi giải thích cho gia đình tôi hiểu và tôi chỉ sẽ chu cấp 100 đô mỗi tháng mà thôi. Gia đình tôi dĩ nhiên không hiểu và giận tôi và nói rằng tôi đi Mỹ bị Mỹ hoá không biết lo cho gia đình. Tôi thấy 100 đô đủ rồi, gia đình tôi kiếm thêm chứ làm sao tôi phải nuôi chồng và nuôi 6 người bên Việt Nam.
Hắn từ từ hồi phục nhưng do lao lực quá nên lúc nào cũng ốm ốm và không sung sức. Cuộc sống tình dục vợ chồng rất thưa thớt vì hắn yếu sức. Tôi muốn có con với hắn để hắn yên lòng vì thế tôi và hắn phải nhịn 6 tháng để hòng hắn có đủ sức lực theo lời bác sĩ.
Trời Phật thương tôi và tôi có thai. Hắn hạnh phúc và sức khoẻ dần dần tốt hơn. Do có vốn tiếng Anh, tôi có việc trong ngân hàng và lương khác. Hắn chỉ đi làm việc nhẹ và tôi gánh vác mọi thứ. Tôi chỉ mong hắn khoẻ mạnh trở lại chứ trong gia đình ai đi làm chính cũng vậy thôi.
Con tôi ra đời khoẻ mạnh, tôi mừng khôn xiết, người mừng vui hơn tôi là hắn. Giờ gia đình tôi ổn định. Tôi làm việc có lương gấp 3 lần chồng vì chồng chỉ lao động bình thường và khó lòng vươn lên vì trình độ bị giới hạn. Tôi dần dần có được hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng, cũng như được thoả mãn tình dục do chồng tôi hồi phục được sức khoẻ.
Tôi đã sai và sửa sai.
Hy vọng các chị muốn lấy chồng Việt Kiều hiểu rõ hoàn cảnh của ông chồng tương lai để tránh nhiều chuyện đau lòng nơi xứ người.
Yên Huỳnh post
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #36 - 17. Apr 2011 , 04:37
 
Điều hành quốc gia theo kiểu dân chợ búa
Nguyễn Dư
Lời người xưa:
Lấy nhân nghĩa chinh phục nhân tâm là kẻ trí
Lấy sức mạnh cự lại sức mạnh là kẻ dũng
Mỗi cái điều dùng sức mạnh là kẻ bất tài

Cách nay ngót nghét chắc cũng hai mươi năm, nhà văn Nhật Tiến -được biết đến với cuốn Thềm Hoang, đoạt giải văn học hồi thập niên sáu mươi của thế kỷ trước- về Vn “thăm dân”, rồi trở qua Mỹ mới “cho biết sự tình”. Ông tuyên bố rằng: tình trạng Vn như nồi cám heo. Đến hôm nay, hai mươi năm sau, “nồi cám heo” đã “bốc mùi”, còn tệ hại hơn nồi cám heo của ông Nhật Tiến thời đó.
Bây giờ cánh cửa căn nhà Vn đã he hé, Internet có sẵn, chỉ cần ngồi một chỗ, người ta dầu ở bất kỳ nơi đâu trên quả địa cầu này cũng đều biết mọi việc từ Bắc chí Nam.
Cũng chính vì mở cửa nên dân nghèo đói vùng nông thôn phân tán, lưu lạc khắp mọi nơi, nạnh ai nấy kéo về nơi có “ánh sáng” của thành phố; đi Tây, đi Mỹ, đi Tàu… , bằng đủ mọi ngành nghề, bằng đủ mọi kiểu cách tìm việc, tìm chỗ nương thân để kiếm sống. Cái gì chứ khi mà con người tập trung nơi phố thị đông đúc thì đương nhiên sinh ra lắm “tật” và cũng nhiều “tài”. Người nghèo đói nhìn kẻ có tiền, nhìn hào nhoáng vật chất nẩy sinh lòng tham, là một trong hàng trăm ngàn nguyên nhân để họ sinh tật. Đó là một trong nhiều trường hợp chính quyền không có khả năng điều hành trong quản lý quốc gia, phân bổ dân số, dẫn đến tệ nạn.
Nói về quản lý đất nước thì phải nhìn nhận rằng chính quyền Vn không có một chút xíu gì khả năng cả. Chính vì không có khả năng nên mới có chuyện: cái gì không ổn thì cấm. Cấm không xong thì tịch thu, bắt nhốt gọi là cải tạo, giáo dục, học tập. Cải tạo xong, thả ra thì cũng vẫn chứng nào, tật nấy. Là một kinh nghiệm sống, nên họ có lắm mưu nhiều kế đối với chính quyền còn tinh vi hơn xưa. Rồi chính quyền cũng lập mưu chống trả. Sự tha hóa cứ thế mà leo thang.
Cái tư tưởng, lòng dạ của con người không thể ép, cấm. Muốn giáo dục con người là giáo dục bắt đấu từ cái tâm. Cái tâm bộc lộ ra bằng lời, tâm địa xấu thì sẽ dẫn đến hành động không tốt. Trước tiên phải trị cái tâm bằng ngôn luận, không ai đi trị bằng roi, bằng đòn thù. Tranh luận để đi tìm mục đích chung nằm giữa cái đúng và cái sai.
Xã hội sa đọa là thuộc về căn bệnh đạo đức nhiều năm biến thái tinh vi, bám trong cơ thể quốc gia ăn lan ra ngoài xã hội. Mà là căn bệnh quái ác của xã hội thì không thể điều trị bằng cách cắt khối u, giải phẫu là xong. Chữa bằng cách cấm, nhốt, đó chưa phải là biện pháp hữu hiệu và là nền tảng ổn định về lâu về dài. Như thế là đường lối, chủ trương quản lý quốc gia đó sao?! Rồi cưỡng chế. Mà hễ nghe đến hai chữ cưỡng chế (có người còn gọi là ép buộc) thì dầu đúng hay sai người ta cũng coi đó là hành động của những kẻ côn đồ, dân chợ búa. Không thể biện minh cho hành động này.
Đã không có khả năng điều hành quốc gia mà lại còn cấm kiến nghị tập thể thì chắc ai cũng nhận ra là kẻ ngu dốt đang ngồi trên đầu dân tộc. Đồng thời, nếu người ta góp ý thì bảo thiếu tinh thần xây dựng. Người lãnh đạo mà đã ăn nói theo kiểu này thì ai cũng biết ngay trình độ nhận thức của họ, là người ngu hay khôn? Thử hỏi: nếu lãnh đạo để thất để thoát hơn bốn tỷ Mỹ kim của dân, dầu người dân có hạch sách, chửi cha lãnh đạo đi nữa thì đó cũng là tinh thần xây dựng quốc gia đấy. Mà như thế nào mới gọi là xây dựng nhỉ!? Cái thằng ăn bẩn, phá của quốc gia trực tiếp với một số tiền khổng lồ như thế, nếu tìm ra được bằng chứng tham ô, đương nhiên theo luật Vn là phải đem nó tử hình; còn cái thằng chi tiền cho cái đám tham ô thì kiểm điểm, phê bình, xây dựng, nhận trách nhiệm rồi huề tiền thôi sao!? Ai tin là thằng chi tiền trong sạch? Bây giờ còn giao cho thanh tra -mấy con gà nhà- “làm rõ”, chỉ để làm kiểng. Quốc hội tới mấy trăm thằng, biết thằng nào ngoan, thằng nào chứng mà giao! Điều hành đất nước như thế, một đứa con nít ma lanh cũng làm được. Một thằng tự kiểm; Một thằng bị khóa sổ, giơ cao đánh khẽ rồi mọi chuyện sẽ êm ru thôi! Khỏi cần truy cứu trách nhiệm thêm chi nữa. Làm chi cho lớn chuyện, sợ cái bọn lợi dụng quyền tự do dân chủ sẽ bới móc, đánh phá lòi ra tùm lum thì không đẹp mặt chút nào. Đó cũng là một nguyên nhân bao che mờ ám làm cho xã hội đi đến tha hoá.
Cái dân anh chị trùm đứng đường, bao bến bãi cũng có luật, cũng có “điều 4 hiến pháp”. Đôi khi chúng cũng áp dụng luật bất thành văn. Hễ không đồng ý, chúng dùng đàn em gọi là nhân dân tự phát để “nói chuyện phải quấy” với đối phương; nếu không xong thì ép cho té xe gây tai nạn rồi bỏ chạy. Chúng cũng chơi luật theo cảm tính, lôi bè kết cánh, mạnh thắng, yếu thua; tạo sự đồng thuận để đàn em xum xuê, tâng bốc, cùng ngồi chung bàn dễ chấm mút, có chuyện thì bao che, bênh vực nhau; thích thì để yên, ai đầu phục chúng thì xong chuyên; ngược lại thì trấn áp, cưỡng chế, đánh cho… bỏ mẹ đứa nào mà dám xía vào chuyện nội bộ của chúng.
Vì trong khuôn khổ bài viết, đáng lý ra còn quá nhiều chuyện liên quan đến pháp lý, dài dòng, báo chí lề trái cũng đã đề cập không thiếu. Càng nhắc tới, thì càng làm nóng mặt thêm! Tôi chỉ muốn viết, đem so sánh hai trường hợp, giữa lãnh đạo quốc gia Vn với dân chợ búa, có tương đương nhau không?
Nguyễn Dư
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re : VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI
Reply #37 - 20. Apr 2011 , 12:38
 
Hôm nay trước khi gởi lên đây bài viết mình vưà nhặt được trên net , xin phép chư vị , được phép thêm một chút tên cuả bài viết ; vì trên đất nước .  sẻ có con người , đồng chũng đồng hương , đồng bào và đồng loại cùng sinh sống trên dãy đất dài khoảng 3200 km từ muỉ cá Mau đến Ãi Nam Quan ( xin lổi , ý quên , Ãi Nam Quan , Ãi Nam  quan đã bị quân mất dạy dâng cho bọn Tàu Phù rồi ) Tất nhiên , có người tốt củng có kẻ xấu ,
Sau đây xin được gởi lên bài viết theo lời kể chuyện giưả hai quân nhân thuộc Binh Chũng Thuỹ Quân Lục Chiến năm xưa. Để chúng ta có thể thấy được ngoải những thứ chủ nghiã độc hại rác rưỡi , thì chúng ta còn lại con người với nhân bản : vì nhân chi sơ , tính bổn thiện ( chớ không phải là : nhân chi sơ sờ vú mẹ ) Tính bổ thiện ( nên cái miệng hay ăn , nhièu khi ăn hối lộ , ăn quà vặt , ăn trộm , ăn vụng , hay ăn trên ngồi trước , ăn mà để lại tiếng thơm , ấy là ăn lương ba đồng ba cọc , ăn mà ăn bẩn , để lại xú danh thì gọi là gì , ăn uống hỗn tạp như heo ăn )
Sau đây là bài viết có phần cãm động khi xem qua. đó là chút tình người. Súng đạn vô tình , nhưng lòng người thì độ lượng :
Bài viết mang tựa đề : ĐÔI BỜ CHUYẾN TUYẾN


ĐÔI BỜ CHUYẾN TUYẾN

Tác giả là sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH, định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20. Bài viết của ông được một cựu đồng ngũ chuyển tới, với ghi chú đây là câu chuyện thật. Thật nhưng khó tin: một cựu nữ chiến binh Việt Cộng, nhiều năm sau chiến tranh, đi vào tận trại tù tìm thăm người sĩ quan VNCH cô từng gặp trên chiến trường, và rồi ...

* * * * *

Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với địch quân, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu, đơn vị chủ lực miền của địch thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xoá sổ, nhưng tiểu đoàn của chúng tôi cũng bị thiệt hại khá cao. Trung Đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của địch. Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đâỵ Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ. Chợt Kính nói nhỏ:
- Ông thầy ! Coi chừng hình như có người trong lùm cây đàng kia.
- Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng đồ chơi của tụi nó.

Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất, khẩu M16 lên đạn sẳn sàng, Kính theo kế bên hông.Tiếng rên nho nhỏ của phụ nữ văng vẳng ra từ trong lùm cây rậm rạp.
- Một đồng chí nữ nhà ta đấy. Kính reo nho nhỏ.
Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống, có thể địch gài mìn bẫy xung quanh, hoặc giả vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại. Dơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái trạc độ 18,19 tuổi nằm gối đầu lên chiếc ba lô mầu "cứt ngựa", vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẫn không ngớt rên rỉ:
- "Nước ... Nước..cho tôi miếng nước".
Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của "cô" địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu, tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương, đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người tôi đoạn bảo Kính:
- Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ tay.
- Ông nhân từ quá, gặp em con nhỏ này tiêu đời.
Kính vừa băng vừa cằn nhằn.

Tôi im lặng không nói gì, Kính nói đúng, những người lính của tôi đã ngã xuống, máu của họ đổ ra cho sự tự do, người Cộng Sản có nhân từ với người anh em của tôi không ?
- Nước ... Cho tôi xin miếng ... nước.
- ĐM ... Câm miệng mày lại.
Kính quát tháo giận dữ, tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.
- Mày đừng nói như vậy, với một người sắp sửa chết mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi.

Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo, dấu hiệu nhận diện của đơn vị, thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái. Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của cô, khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nom cô phảng phất như minh tinh màn bạc dù trắng xanh vì mất máu nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt. Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:
- Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một

Cô ngoan ngoãn nghe lời như một em bé. "Cám ơn ông nhìều". Giọng nói yếu ớt và mệt mỏi.
- Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.
- Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi, vả lại tôi cũng sắp chết đến nơi.
- Bậy bạ, vết thương này đâu có gì nguy hiểm.
- Đừng an ủi như vậy, hồi nãy ông nói tôi sắp chết đừng nuôi hận thù nữa.
- Tại vì ... Tại vì ... Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy.
Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói, lâu lắm cô nói thều thào:
- Bây giờ ông sẽ làm gì với tôi ? Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cơ quan điều tra.

Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:
- Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước, hãy để thân xác này vùi dập nơi đây. Xin ông đừng giao cho ai hết. Tôi van xin ông.
- Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã đừng bướng bỉnh như vậy.

Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà, tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:
- Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô nhăn nhó, rên rỉ như ...
- Sao không đau, ông ăn nói ... như khỉ chứ gì ?
Cô cướp lời, tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi tôi đứng dậy cầm cây súng lên đạn ... rồi lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:
- Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô, nhưng những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.

Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại.
- Này ... Ông tên là gì vậy ?
- Có quan trọng lắm không ?
- Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.
- Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này.
Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:
- Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.

Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó.
Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giử được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.
Đất nước thanh bình, tiếng súng lặng im, nhưng những người được gọi là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác không được thở hít không khí hoà bình ấy, sau bao năm trăn trở với chiến tranh, tất cả đi vào trại "cải tạo", một danh từ mỹ miều nhưng thực chất là đầy đoạ, là giết lần mòn chúng tôị Tôi bất lực nhìn bạn bè ngã xuống, đói, bệnh hoạn, đày đoạ, khủng bố, đánh đập !

Thân xác anh em chúng tôi bị vùi dập ở nơi núi rừng hiu quạnh, ở hốc núi đen tối ngàn trùng. Tôi lặng lẽ sống như cái bóng tinh thần vững vàng, nhưng thể xác thì suy sụp nặng nề, bám víu ý nghĩ duy nhất "Trả nợ oan gia binh nghiệp". Phải, sinh ra người lính thì chấp nhận mọi gian nguy may rủi về mình.
Ngày hôm ấy, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang "lao động là vinh quang" có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.
- Trần Hoài Lam có thư.

Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng "mồ côi", là "con bà Phước", danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ. Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.
- Trần Hoài Lam có thư.
Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.
Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.
- Có thật là của tôi không anh Đan ?
- Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được, thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.

Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi đọc:
- Anh Lam !
Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai: "Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như ...".

Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ' lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra.

Cô viết tiếp:
- Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện Trung Ương, sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị ngành để hoạt động, không còn muốn tham gia vào nơi lửa đạn nữa. Từng là chiến sĩ xuất sắc trong khu, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vậy mà thoái lui về hậu phương, kỳ lạ quá phải không anh Lam? Chính anh đã làm thay đổi lập trường của em. Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với kẻ thù, dù rằng thuộc hạ của anh không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của kẻ địch, mà có thể trong đó có cả em bắn ra.

Hoà Bình tái lập em không vui vì còn hận thù, vay nợ máu phải trả, phương châm của bạn bè, cấp lãnh đạo đề ra. Em rất buồn vì biết anh đang đi vào ngõ cụt, không lối thoát, con đường đi đến cái chết. Như đã nói, từ sau ngày bị thương, em ra khỏi cuộc chơi, không muốn dính líu đến thù hận nữa, bàng quan trước mọi việc nhưng không thể nào quên anh, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam ! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ giã ra đi không?
"Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi".
Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên.
...

Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo. Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi! Thôi thì chỉ còn cách là ...
*
Trên đất tị nạn, Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:
- Quyên à, em thương anh từ lúc nào.
- "Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à". Em mắc cở phụng phịu.
- Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác. Cô lật đật nắm lấy tay tôi năn nỉ:
- Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha.

Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:
- Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cở muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho em, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.

Cảm động tôi hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương tôi đến như vậỵ
- Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu. Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu uỷ, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao? Có lẽ chết không chừng.

Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái. Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậỵ Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:
- "Duyên nợ trời định em ạ".
Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần./.

Mũ Xanh Hắc Long Lê Văn Nguyên






Back to top
« Last Edit: 20. Apr 2011 , 12:40 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #38 - 27. Apr 2011 , 02:03
 

Đại Vệ Chí Dị
Blog Nguoibuon gio
Nước Vệ triều nhà Sản năm thứ 66. Đầu mùa hạ khí trời mát mẻ lạ thường.
Năm ấy vật giá leo thang vùn vụt, người dân chưa hết ngỡ ngàng vì thứ này lên giá đã phải giật mình với thứ khác. Ở hồ Lục giữa kinh kỳ, có một con rùa sống mấy trăm năm, bỗng nhiên nổi lên liên tiếp, toàn thân tróc lở, nhất là phần mai loét hết. Có kẻ rành thuật bói toán nhìn mai rùa phán rằng.
- Mai là nơi cốt tử của rùa, còn là cái nóc cao nhất như mái nhà. Vât thiêng mấy trăm năm ấy nổi lên , mai loét cả thế kia, ấy là điềm nhà dột từ nóc,bệnh này không chữa nổi.
Triều đình nghe thấy, vội vã cho người quây bắt lấy rùa mà chăm sóc. Rùa lành rất nhanh như có phép màu, có kẻ nói rằng có khi đó là con rùa khác thay thế mới nhanh được như vậy.Bấy giờ thiên hạ lắm sự đảo điên, bỗng dưng nhiều kẻ tuổi đã thất thập cổ lai hy lại sính ra bệnh thích quan hệ loan phượng với trẻ con. Vùng nào cũng có, từ quan chức đầu tỉnh, đầu ngành đến các cụ phụ lão về hưu cũng đua nhau săn tìm trẻ con để giao cấu.
Các quan công sai triều đình tự nhiên trở chứng đồng loạt mắc bệnh thích đánh chết người, cứ gặp việc là tay dao, tay thước, cung nỏ thẳng thừng xuống đầu dân đen. Đến nỗi việc dân đến huyện đường bị đánh chết, hay trẻ em bị bắt cưỡng dâm nhiều đến nỗi thiên hạ nghe thấy mà dửng dưng. Triều đình thấy sự thế nhiễu loạn, mới quyết sách đem tiên đế ra làm tấm gương cho thiên hạ học tập. Ngõ hầu nhờ đó mà thiên hạ bớt tính hoang dâm, tàn bạo. Nhiều tiền của bỏ ra để phát động phong trào học tập tấm gương tiên đế. Thế nhưng đằng đẵng mấy năm, tình hình xã hội chả khá lên tí nào, thậm chí lại còn đổ đốn hơn cả trước. Quan lại triều đình vò đầu, bứt tai không hiểu tại sao.Có quan luận rằng.
- Có lẽ tại cuộc học tập này chưa gắn với liền với thiết thực cho lên bà con nhân dân mới không gắng học theo, chứ tiên đế ta anh minh, đạo đức ngời ngời, lẽ nào mười phần dân chúng không thấm nhuần được  một , hai phần. Được thế là may lắm rồi.
Các quan bí quá, thấy có lời nói vậy như chết đuối vớ phải cọc, ai cũng nhao nhao cho rằng thiên hạ chưa thấy cái thiết thực do học tập tấm gương tiên đế mới vậy mà thôi.
Triều đình lại lập cho một ban, chuyên trách tìm việc gì thiết thực để gắn cho cuộc học tập tấm gương tiên đế.
Lúc ấy một số quan lại địa phương hùa với bọn nhà giàu, làm kế sách chiếm đất của dân. Nhân dân uất lắm mới kéo nhau lên kinh kỳ để kiện, khi đi họ mang theo di ảnh tiên đế, lập bàn thờ, có nơi công
kênh kiệu cả di ảnh tiên đế đi hàng đoàn. Đơn kiện tới tập gửi lên triều đình. Quan trên đang thẩm đơn, đòi kẻ thuộc cấp lên để thẩm vấn. Kẻ ấy mang vàng đút lót cho thư lại xin giúp. Thư lại nói rằng
- Giờ chỉ có cách này mới cứu được ông, muốn xuôi xin thêm vài trăm lượng nữa, kế ấy thế này, thế này....
Kẻ kia nghe xong vỗ đùi
- Thật là cao kiến, mỗ xin vâng lời quan anh.
Mấy hôm sau thiết triều, đến chuyện đất đai dân khiếu kiện bị lôi ra bàn. Quan trên mới nói.
Chuyện đất đai của nhân dân là chuyện nhỏ, quan huyện xứ Đoài tuy phạm tội nhỏ nhưng lại có công lớn mà chúng ta phải sáng suốt nhìn nhận khách quan nhiều chiều mới thấy rõ, là công trạng của quan huyện X rất có giá trị trong thời buổi này, thời mà đạo đức khắp nơi xuống cấp trầm trọng như hiện nay.
Các quan trong triều mới lao xao hỏi công trạng gì vậy.
Quan kia e hèm rồi nói.
- Đó là quan huyện xứ Đoài đã vận động được dân chúng hăng hái tự giác tôn kính tiên đế, chả phải là dân
xứ ấy lập ban thờ tiên đế, người người mang di ảnh của người một cách thành kính hay sao. Họ đòi đất là chuyện nhỏ, cái lớn là dân xứ ấy muốn nêu cao tấm gương tôn kính tiên đế cho thiên hạ noi theo là chính...Triều đình nghe thấy ai cũng hài lòng.
Quan huyện xứ Đoài vì thế bỗng nhiên lại được cất nhắc lên trên tỉnh vì có công lớn trong cuộc vận động hình ảnh tiên đế trong nhân dân. Mặc kệ đơn kiện thưa tới tấp,quan  lên trên rồi, dân cũng chả còn biết kiện ai, ai nấy đều lặng lẽ về nhà lo kiếm miếng cơm. Di ảnh tiên đế mang về nhà không biết làm gì, đành treo lên trên tường đợi khi nào có dịp tốt lại mang đi kiện.
Thế là tự dưng xứ Đoài lại là điểm nổi bật trong cuộc học tập tấm gương tiên đế, các quan lại xứ khác cử người về học hỏi mô hình kinh nghiệm để phát động rộng rãi khắp nơi.
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #39 - 30. Apr 2011 , 00:31
 


...


Hôm  nay là ngày  30 tháng 4  tại Hoa Kỳ
Xin  cả nhà  dành 1 phút để tưởng nhớ  5 vị Tướng lãnh đã Tuẫn Tiết không đầu hàng Giặc Cộng.
Cùng tưởng niệm  Các Chiến sĩ Vô Danh đã Hy sinh vì lý tưởng Tự Do để bảo vệ Miền Nam Việt Nam.

Cùng  tưởng niệm đến hàng trăm ngàn đồng bào đã bỏ mình trên  đường Vượt Biển - Vượt Biên


Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư  A Di Đà Phật


.
    
Back to top
« Last Edit: 30. Apr 2011 , 17:01 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI : VĂN MINH HAY VĂN HOÁ CUẢ MỘT QUỐC GIA
Reply #40 - 14. May 2011 , 05:15
 
BỆNH TIỂU ĐƯỜNG

Trần Văn Giang


KÍNH THƯA CÁC NT VÀ CÁC BẠN.
   
BỆNH TIỂU ĐƯỜNG Ở VN KHÔNG PHẢI LÀ BỆNG CHỨNG NGUY HIỂM - NHƯ NAN Y- NHƯNG LÀ CĂN BỆNH TUYỆT CHỨNG- NGƯỜI BÌNH DÂN GỌI  GỌI HẾT THUỐC CHỮA- KHÔNG CHẾT AI  NHƯNG NGƯỜI NGOÀI THẤY KHÓ CHỊU-
KÍNH THƯA CÓ VÀI HÌNH ẢNH- KHÔNG ĐƯỢC HAY- NHƯNG CHẲNG ĐẶNG ĐỪNG PHẢI POST LÊN ĐÂY- XIN VUI LÒNG BỎ QUA

BỆNH TIỂU ĐƯỜNG




Vấn đề đái đường, tường, gốc cây, góc phố, góc kẹt… phải cần xét lại. Ngòai lý do dơ bẩn, nguồn gốc của nhiều bệnh tật… nó, một mặt, tè lên danh dự của dân tộc khi du khách ngọai quốc nhìn thấy… mặt khác nó cũng là dấu hiệu gián tiếp bảo họ (du khách) “đừng nên trở lại đây nữa nhé!” Buồn chưa?


Trước hết hãy nói về người đái bậy. Đã có người tranh luận là “À! Nếu mót quá mà không có nhà vệ sinh công cộng nào ở gần thì làm sao bây giờ?” Nhưng phải thành thực công nhận là trong số người hay đái bậy, đại đa số là đàn ông! Tại sao vậy? Có phải là các bà nín giỏi hơn các ông? Các “chuyên gia” về “đái đường” không đồng ý như vậy. Họ nói là các bà không “cẩu thả,” “lười biếng” và “vô trách nhiệm” như các ông(?) Các bà không hay uống rượu (bia), cà phê, trà… đại lọai những thứ làm cho bàng quang đầy tràn bình mau hơn.
    Ngòai ra, vì lẽ việc thải nước thừa trong người ra ngòai, các bà thường phải cần có nhiều thời giờ hơn, phải cần chỗ kín đáo hơn. Họ không thể đứng tô hô giữa thiên thanh bạch nhật rồi “hit and run” như đàn ông cho nên họ phải cẩn thận!

hơn. Các bà chỉ đi chợ, shopping… những nơi mà họ biết có nhà vệ sinh công cộng có thể dùng được… trong khi các ông lại ít quan tâm đến các yếu tố lặt vặt mà rất cần thiết này. Vậy đề nghị các bác trai nên bỏ bớt chút ít thời giờ nhậu nhẹc để học cái “bí quyết thần kỳ” này của các bác gái xem sao
Bây giờ nói rộng hơn về vai trò “dân trí” và “văn minh” của dân tộc (dĩ nhiên là cũng trong vấn đề đái bậy!) Có rất nhiều người, trong đó có cả nguyên thủ của các quốc gia như Nam Dương, Đài Loan, Đại Hàn… đã từng tuyên bố nhiều lần đại khái là:
“Nếu muốn xét trình độ văn minh của một dân tộc xem nó đến mức độ nào thì chỉ việc nhìn vào nhà vệ sinh công cộng của họ là đủ!”
(The public toilet is to reflect the civilization index of each country. It also reveals the country’s civilization level and quality of life).
Ngạn ngữ Nhật bản có câu:
“Nhà vệ sinh (buồng tắm) là một phần của đời sống. Chỉ nhìn vào buồng tắm của một gia đình là biết rõ gia đình đó như thế nào?”

Họ có sống ngăn nắp không? có chăm sóc nhà cửa con cái của họ thích đáng không?)
Nếu có lời nói nào đơn giản và dễ hiểu hơn về vấn đề văn minh của dân tộc thì xin các bác làm ơn mách dùm cho cháu biết với? Người Nhật quan niệm đúng theo cái nghĩa “tề gia trị quốc” của dân Á châu chịu ảnh hưởng Khổng Mạnh. Đúng vậy! Nhà ở mà giống như đống rác thì ra ngòai đái đường có gì mà phải ngạc nhiên?
Vì vấn đề cắt giảm ngân sách, giảm chi phí cho tiện nghi công cộng, nhiều thành phố hoa lệ nổi tiếng trước kia như Paris, New York…, nay rất nhiều du khách đã phải lớn tiếng than vãn về “mùi nước đái” (New York’s subway systems và các đường hẻm - alleys…) và “phân chó.” (Paris ngòai vấn đề thiếu nhà vệ sinh công cộng còn bị 200 ngàn con chó tự do sản xuất 160 tấn phân mỗi ngày trên đường đi mà chính quyền thành phố không đủ nhân lực, phương tiện để dọn dẹp!).

Dầu có che mắt hay bịt mũi, cũng phải công nhận rằng: Có sẵn phương tiện và khả năng xây dựng lên các nhà vệ sinh

công cộng đã là một chuyện đại sự rồi; phải giữ gìn bảo trì chúng cho sạch sẽ ở mức độ chấp nhận được đòi hỏi ngân sách to lớn và sự ý thức, sự tham gia, sự giáo dục, sự thành tâm hợp tác giữa chính phủ và quần chúng… Kích thước của vấn đề này chỉ nghĩ đến thôi cũng có thể bí đái rồi… nói chi đến chuyện thi hành…
Bây giờ nói về đất nước Việt Nam độc lập tự do hạnh phúc của mình. Nhà cháu xin nói rõ đây không phải là vấn đề vạch áo cho người xem lưng, hay bôi xấu dân tộc mà là bảo nhỏ với nhau bằng tiếng Việt đàng hòang! Đã có nhiều bác quá khích hấp tấp (nếu chưa nói là vô phép) văng tục một cách vô trật tự là “Việt Nam với 4000 văn hiến đâu chẳng thấy mà chỉ thấy 4000 năm đái đường!”

Nhà cháu xin nhờ các bác nóng tính này một tí! Nhìn qua các chương trình đã và đang thực hiện trong thời buổi “đổi mới,” chúng ta thấy các khách sạn 5 sao, dinh thự “hòanh tráng” của các tay nhà giầu mới (mặc dù lương căn bản mỗi tháng của nhiều người chủ của cơ sở này không quá 200 đô la?), tượng đài hùng vĩ (kể cà công trình xây “lăng tẩm” cho người chết ở thế kỷ 21!) mọc lên như nấm… nhưng lại thấy thiếu bóng các xây dựng khiêm nhường, nhỏ bé nhưng cần thiết hơn nhiều. Đó là: “nhà xí công cộng.” Cứ tưởng tượng quang cảnh tương tự như là trong việc thi hành đường lối “đổi mới,” Việt Nam đã xây dựng rất nhiều ngôi nhà (bằng tiền thiếu vệ sinh!?) to lớn nhưng không hiểu đầu óc của giới lãnh đạo “định hướng” thế nào mà quên không cho vào “bàn cầu” một cái lỗ!!! Thiệt là chuyện “văng vãi tùm lum!” Việt Nam đã có cách mạng (có nghĩa là thay đổi tất cả những cái cũ) vô sản vinh quang “thành công” rồi; nay lại muốn thay đổi tòan diện (“đổi mới”) thì chỉ có cách “đổi thành cũ” mới đúng chứ! Chữ với nghĩa rõ chán! “Nói xuôi cũng được, nói ngược cũng hay!” “Nói đi cũng phải, nói lại cũng dễ nghe!”

Tại các thành phố lớn, số bảng “Cấm Đái,” nếu các bác rảnh hơi chịu khó đếm ra cho có con số chính xác, còn thấy nhiều hơn cả các bảng, băng “rôn” (biểu ngữ) ca ngợi sự lãnh đạo sáng suốt của Bác và Đảng. Các bảng lọai này nhiều đến mức độ làm cho du khách ngọai quốc phải hiểu lầm như trong trường hợp có thật đã xẩy ra cười ra nước mắt như sau:
Một du khách tây phương hỏi anh hướng dẫn viên du lịch

(tour guide) ở Việt Nam:
- “Tôi đã đến Việt Nam nhiều lần. Ở Việt Nam có hai vịnh (“bay”) rất nổi tiếng mà tôi đã đi thăm. Đó là: "Ha Long Bay" và "Cam Ranh Bay." Nhưng còn một vịnh tôi thấy quảng cáo rất nhiều, ở trên tường, cây đại thụ bên đường, trong hẻm. Mà nó nằm ở đâu vậy? Anh có thể dẫn chúng tôi đi thăm được không?”
Anh hướng dẫn viên vội hỏi:
- “Xin ông cho biết tên của cái vịnh đó là gì?”
Ông khách chỉ lên bức tường bên đường rồi bập bẹ đánh vần:
- “CAM DAI BAY!”

Chỉ đọc cho qua nội dung của các bảng “cấm đái” đã đủ hiểu sự phong phú của tiếng Việt mình đến mức nào. Các bảng “cấm đái” có nhiều lời lẽ dài ngắn với cường độ khác nhau: từ lịch sự năn nỉ sự thông cảm như “Xin đừng đái nơi đây;” cho đến các lời cấm khô khan “Cấm Đái;” “Cấm không được đái;” cho đến lời đe dọa nặng nề có kèm theo cả các biện pháp chế tài (tưởng tượng) như “Cấm tuyệt đối không được đái. Vi phạm sẽ bi phạt nặng.” Dưới hàng chữ hăm dọa “phạt nặng” này lại ghi rõ tên các cơ sở có đầy đủ thẩm quyển như “Công an Phường…”

Lời hăm dọa chế tài đôi khi còn được cho thêm “ấn tượng” với hình vẽ một con dao mà phần cạnh bén được sơn màu đỏ, có các giọt sơn đỏ (xem như) còn ướt nhỏ xuống giống như dao vừa mới được “làm việc” xong! Thực tế rất phũ phàng các bác ạ. Tất cả các bảng “cấm đái” đều hòan tòan vô dụng bởi vì không hề thấy có bóng dáng công an cảnh sát nào ở gần đó để các làm các bác muốn đái bậy phải sợ. Công an còn đang bận “làm việc” gì đó mà họ xem là quan trọng hơn chuyện đái bậy. Phải lấy làm lạ là ở Việt Nam công an có thừa thời giờ “bịt mồm” dân mà lại không có thời giờ “bịt chim” của dân cho bỏ cái tật đái bậy!? Đây là chưa kể chính ngay công an cũng thường ra đái ở đây mới chết chứ!!! Óai oăm ở chỗ là các lọai bảng “cấm” này hình như có ảnh hưởng ngược lại (“reverse effect!”). Nó có sức lôi cuốn và nhắc nhở mọi người rằng ở đây “đái đươc không cấm” (các bác thử đọc ngược từng chữ một của câu “cấm không được đái” từ phải qua trái xem sao?!)
Quang cảnh “đái đường” mới thật là một bản bi hài kịch dài không bao giờ hạ màn. Lần về thăm lại Sài gòn gần đây, nhà cháu chứng kiến cảnh một thanh niên ăn mặc khá bảnh bao, áo bỏ trong quần hẳn hoi, cầm tay đào đi dung dăng dung dẻ trên hè phố rất mùi mẫn. Bổng nhiên anh ta quay qua nói với cô bồ câu gì đó (nhà cháu đóan non đoán già là “Anh mắc… quá! Chờ chút xíu để anh…”). Thế là anh ta để cô đào đứng tuỗn ra ở bên lề đường; anh ta quay buớc vào bức tường gần đó rồi thong thả xả bình tự nhiên như con “kiki” của nhà cháu lúc nó buồn tình đi vòng vòng “marking territory” chơi chung

quanh xóm vậy. Sau khi đóng nút quần xong xuôi, anh chàng ta đi trở ra cầm tay đào (yuck!) và dung dăng dung dẻ tiếp như không có chuyện gì xẩy ra! Hãi thật! Sao có thể như vậy được! Phải có người nào ở chung quanh đó nói lên một tiếng chứ! Hay ít nhất cô đào thơ mộng của anh ta dù không tiện nói cái gì nhưng cũng nên tạm thời không cho anh kép đẹp giai này cầm tay chứ! Trong một dịp khác được bạn bè chở ra Bình Triệu (ở ngọai ô Sàigòn) để ăn nhậu, nhà cháu thấy có một ông vào tuổi sồn sồn có vẻ bệ vệ của một đại gia (?) mặc “vét tông” lái xe ô tô rất “xịn,” đột ngột dừng xe lại bên lề đường, một tay vạch quần đái vào tường tỉnh bơ con sáo sậu; trong khi tay kia vẫn đang cầm điện thọai di động và miệng thì vẫn đang bi bô ra chỉ thị (qua điện thọai) cứ như đang “làm việc” ở văn phòng riêng!!! Việt Nam vào thời kỳ “đổi mới” có khác! Cũng còn may là các thành phố ở Việt Nam không có mùi phân chó; bởi vì chó không đủ cung cấp cho các tiệm nhậu. Dân nhậu nhìn thấy chó còn sống đi ngang qua mặt là đã thấy chẩy nước miếng rồi. Lấy đâu ra chó sút chuồng đi rong đái bậy, “marking territories?” Nếu có đi nữa thì đây là lọai chó chán sống; chỉ tổ bị hàng xóm lén đập đầu bắt cóc nấu rượu mận “chui” ngay tức thì! Thiệt tình, vào thời buổi “đổi mới,” “kinh tế thị trường,” “định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ thấy có cán bộ và đảng viên CS là sống phè phỡn. Còn lại, đến chó cũng phải hồi hộp khó sống, nói chi đến thường dân khố rách áo ôm!

Dân số Việt Nam càng lúc càng tăng nhanh, vấn đề đái bậy mỗi ngày sẽ càng trầm trọng hơn. Xin các bác các thím có thẩm quyền, có quyền cao chức rộng ở Việt Nam hãy ra lệnh cho tạm giảm bớt các chương trình hoa mỹ tuyển lựa “ca sĩ,” “hoa hậu…,” “kỷ niệm chiến thắng…” giảm xây cất (hay đập bỏ bớt đi!) các tượng đài kỷ niệm vô tích sự hao tổn công qũy và bắt đầu quan tâm hơn đến các vấn đề thực tế sát với đời sống hàng ngày của dân ngu khu đen như đái đường, xả rác, cống rãnh, giao thông “ùn tắc…” Nếu không bắt đầu từ bây giờ thì đợi đến lúc nào? Không lẽ các bác lãnh đạo đợi dịp để bán cái cho Việt kiều yêu nước hay con cháu của các bác học tốt nghiệp xong từ các đại học ở Mỹ, Úc, Pháp…

Tóm lại, “nhà xí công cộng” thực sự là cái thuớc để đo sự trưởng thành của một dân tộc. Dân chúng không cần các  tượng đài hùng vĩ mà cần các nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ chẳng riêng cho người bình thường mà cả trẻ em, người già và ngưới tàn tật cũng có thể xử dụng được.
   Ở đó nhân viên của nhà vệ sinh được dùng không phải là để ngồi trước cửa thâu tiền; mà lo dọn dẹp cho sạch sẽ bên trong. Hay là nhà cháu mạo muội đề nghị là nhà nước ta nên xúc tiến ngay một chương trình xây cất hàng lọat các nhà xí công cộng miển phí trong nước đồng thời người dân nào đến sử dụng (thay vì phải đi đái đường) còn được phát một món quà nhỏ tượng trưng - chẳng hạn như được tặng miễn phí một ổ bánh mì thịt sau mỗi lần thăm viếng! Nếu đất nước đạt được cái “chỉ tiêu” đó thì thiên đường chắc cũng chỉ đến thế thôi!

Trần Văn Giang



Back to top
« Last Edit: 14. May 2011 , 05:16 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #41 - 19. May 2011 , 02:45
 
CON ĐƯỜNG ĐÌ ĐẾN MỘT NỀN DÂN CHŨ PHÁP TRỊ
Người Việt Thầm Lặng .

Non nước đang hồi vận bĩ cùng cực , nạn phong kiến quân chủ mới thực sự chấm dứt , thì nạn độc tài quân phiệt xảy đến , ngay từ miền bắc , ngay từ miền nam Việt Nam , dù có được mệnh danh là gì , thì đó củng chỉ là danh nghiả , hay chiêu bài , nếu không muốn nói là cái vỏ bọc bên ngoài , ở miền nam dưới thời đệ nhất Cộng Hoà, và kế tiếp theo là Đệ nhị Cộng Hoà, chính quyền vưà tham nhũng vưà tối nát , được lực lượng cảnh sát , và quân đội bão vệ , chỉ là chế độ quân phiệt với sự đồng loã và tiếp sức cuả giới Tài phiệt quốc tế . Miền  Bắc Việt Nam do đãng cộng sãn lãnh đạo kềm kẹp nhân dân , dưới chiêu bài giải phóng dân tộc , thống nhất đất nước VN , nhưng kỳ thực đó là chế độc quân phiệt toàn trị , Cả hai miền đều giống nhau về bản chất , Điều nầy có lẻ là điều khó hiểu đói với người dân Việt Nam , nhưng theo thiển ý cuả người viết , không có gì gọi là khó hiểu , chẳng qua đây chính là buổi giao thời mà thôi , giao thời không phải là thay đổi từ chế độ nầy sang chế độ khác , thay đổi từ quân chủ chuyên chế  biến đổi qua độc tài quân phiệt , mà thực ra đó là sự chuyển tiếp thay đổi từ cục diện naỳ qua cục diện khác . Như năm xưa vào năm Giáp Tý 1864 , khi Hãi quân Pháp Tấn công Cưả biển Vũng Tàu . Đó là thời kỳ Nền văn minh Âu Châu tiếp cận với nền văn minh cuả Á châu . Người Viết gọi đây là Cơ Trời Và Vận Mệnh Cuả Dân Tộc Việt Nam . Sau cuộc chiến Việt Pháp , từ năm 1864 kéo dài đến ngày ký kết Hiệp Định ngừng bắn tại Genève  Ngày 20 / 07 / 1954 , đến đó mới chỉ là chấm dứt một giai đoạn , sau đó là thế lực cuả Hoa kỳ , từ sau 1954 , cho đến năm 1965 khi mà 500000 quân nhân Mỹ đỗ bộ lên  bờ biển Đà Nẵng , để rồi cuộc chiến phải chấm dứt vào năm 1973 . Nhưng chỉ giưả Mỹ ( rút quân trong danh dự ) và Hà Nội , Trở lại miền nam từ sau ngày Đức Quốc Trưỡng Bão Đại bị truất phế ngang nhiên , thể chế Cộng Hoà được thành lập , Đó là thể chế hoàn toàn mới mẽ và xa lạ đối với người dân miền Nam Việt Nam . Khi cơ trời đã chuyển xoay , thì dù có muốn hay không muốn , thì người dân vẩn phải chấp nhận , mà không sao làm ngược lại được . Từ ngày tiến về phương Nam để mở mang bờ cổi , Người dân Miền Nam Việt nam đâu có hèn nhát , đâu có lười biếng , họ thưà thông minh tự sắp đặt thể chế hành chánh khác hơn thể chế quân chủ ở miền Trung dưới thời kỳ Nhà Nguyễn . Miền Nam Việt Nam do Phong Thỗ và môi trường đặc biệt , điều kiện sống có phần được thiên nhiên ưu đãi , nên  phong tục tập quán cuà người dân miến Nam Bộ có phần khác biệt và cỡi mở hơn đời sống cuả người dân miên Trung và người dân miền Bắc Việt Nam . Người viết bài nầy , không cố tình kỳ thị hay gieo tư tưởng phân biệt hai miền Nam Và Bắc Việt Nam .
Khi mà chúng ta đặt ra vấn nạn về đất nước , thì chúng ta mới có thể cùng nhau thão luận về hiện tình cuả đất nước , chỉ có dân tình hai miền Nam và Bắc , là nạn nhân một cổ hai tròng . Bây giờ hảy can đảm tách rời những thành phần cặn bã cuả hai chế độ ( tức là nhửng con người quen  nhận bỗng lộc cuả hai chế độ , không bênh vực bên nầy thì củng bênh vực bên kia , với luận điệu cực đoan cuồng tín như nhau , về bản chất , Như ngày hôm nay , tại Mỹ có người còn manh tâm lập nên đài kỹ niệm  một cá nhân từng bị kết án là độc tài , khi mà chế độ nuôi dưởng đám chó săn mật vụ , giết người , lập ra những trại giam như P 42 ; có người là cộng sãn , còn lại có người bị giam cầm vì từ chối đóng tiền cho chế độ , những thành phần mật vụ đã giết oan uổng bao nhiêu người , con số đó không ai thống kê được ???? Người dân miền nam chỉ biết giử im lặng , họ là đám đông thầm lặng . Người dân Việt Nam vưà thoát khỏi cái nạn nầy , lại vương vào cái nạn khác , có bao giờ người dân hai miền nam bắc được tự do chọn lưạ cuộc sống , được tự do chọn lưạ thể chế theo ý của họ ? Họ đâu có cần bất kỳ một thứ chủ thuyết lai căng nào . Các Chính Đảng quốc gia một thời lại mượn hình thức đảng kỳ cuả Quốc Dân Đảng Tàu làm đãng kỳ ????? Tại sao , do đâu , chúng ta người Việt nam mở nước dựng nước , đến ngày quốc phá gia vong lại nghèo nàn không còn sáng kiến gì nưả ???
Ngay cả đảng cộng sãn Việt Nam lại mượn đảng kỳ cuả Tàu , cái màu cờ đõ sao vàng đâu phải cờ cuả nước Việt Nam , Khi mà sáng kiến không còn , khi mà người lãnh tụ đãng chỉ vay mượn ý tưởng cuà người , thì làm sao lãnh đạo được dân chúng . Hiện thời các chính đãng có tiếng tăm năm xưa , nếu có tồn tại , thì không thể lãnh đạo được dân chúng dể dàng , Hết rồi cái thời ăn hại đái nát mà đói ngồi trên đâu trên cổ dân chúng , khi mà chế độ cộng sãn sụp đổ , thề chế mới ở Vn sẻ là đa nguyên  đa đãng , mọi đảng chính trị đều bình đãng như nhau trước pháp luật . Thời nay , muốn lãnh đạo được người khác ; mình cần phải chứng tỏ là mình có khả năng có tài năng hơn người . Dân Việt Nam hết rồi thời  dốt nát cắm đầu cắm cổ nhắm mắt đi theo nhà lảnh tụ ngu si , cực đoan cuồng tín ;
Thời kỳ sắp đên sè là thời kỳ đất nước mở ra kỷ nguyên  mới  . Ước nguyên  và tiếng nói cuả dân chúng  có giá trị  , nhân phẩm con người phải được tôn trọng . Chúng ta có cho phép những ai manh tâm cỡi đầu cởi cổ nưả hay không ??? Một thể chế DÂN CHŨ XẢ HỘI toàn diện và triệt để , tất cả mọi công dân đều phải được đối xử bình đẵng trước pháp luật .
Một Ngày Muà hạ Năm 2011

Người Việt Trầm Lặng . 
Back to top
 
 
IP Logged
 
tícônương
Full Member
***
Offline



Posts: 110
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #42 - 04. Jul 2011 , 22:20
 


Cho người này gợi nhớ thương người kia


...


Lâu rồi cứ mải miết chuyện Hoàng Sa- Trường Sa, chẳng ghé được qua nhà chị Dương Hà. Hôm nay rảnh mò tới nhà chị, nghe kể chuyện anh Vũ bị giam chung với hai tên tù hình sự, tình trạng anh Vũ yếu, thể chất suy do bị  bệnh tim. Nhưng tinh thần anh mạnh mẽ, vẫn tin tưởng rằng những việc làm của mình là vì đất nước, hoàn toàn có công chứ không có tội. Trước sau những việc làm của anh sẽ được sáng tỏ rõ ràng.

Anh Vũ trong tù luôn tin như vậy, thế nhưng bên ngoài '' người lạ'' lại đi lọ mọ đi phao tin anh về những chuyện cá nhân , xử sự thế này, thế kia với người này, người nọ. Toàn chuyện không hề có thật, nhưng chán cái kiểu cần mẫn đi từng nhà để rủ rỉ như vậy đúng là làm ăn theo kiểu '' trăm bó đuốc vớ được con ếch''. Đánh đằng báo chí như Quý Thanh không ăn thua, giờ chơi trò thủ công đánh tỉa vậy. Làm ăn kiểu đó thì bảo sao giáo sư Châu không chế là '' làm xấu hổ thể diện...'' được.

Ngồi uống trà nói chuyện, bỗng nhà hàng xóm mở nhạc không lời, loại nhạc tiền chiến bài Thu Quyến Rũ. Chị Hà ngưng lời dỏng tai nghe, lát sau rớm nước mắt nói.

- Cứ nghe nhạc này lại nhớ anh Vũ, ở nhà anh hay nghe nhạc loại này lắm.

Rồi loanh quanh, chị nhắc đến bài viết của mình về ông Lộc Vàng. Chị bảo

- Hay là rảnh, chị và em đến ông đó đi, chị nghe về ông ý cũng thương tâm quá.

Hai chị em cơm bụi xong, đến quán Lộc Vàng. Quán vắng teo, sơ sài mái lá, bàn ghế tre, ông chủ quán đang ngồi ngả người trên ghế vẻ ưu tư, mệt mỏi. Trước mặt là bao thuốc với ấm trà. Hình như ông đang suy tư chuyện gì đó không vui lắm.

Ông Lộc Vàng khách sáo mãi , dường như cảnh giác là thói quen của những người từng là nạn nhân trong nhà tù chế độ ưu việt của ta. Nhưng biết chị Hà là vợ anh Vũ, ông ồ lên rồi nói chuyện khác hẳn. Ông kể về nỗi oan khuất mà ông đã phải chịu đến chục năm tù, chỉ vì những bài hát vô hại, người ta quy ông là  hát nhạc của bọn đế quốc, thực dân. Ông vào trại tù họ lập đội văn nghệ của trại, bảo ông tham gia, ông nhất định không tham gia. Cho dù ở đội văn nghệ nhàn nhã, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Chỉ hát hò, tập dượt rồi đến ngày lễ lạt, chào mừng, tuyên dương này nọ hát dăm bài, thế nhưng ông Lộc Vàng đi vác gạch chứ không vào đội ấy.

Sao mà lại tù chứ ? ông Lộc Vàng hỏi đầy u uất. Giờ người ta hát nhạc đó đầy, ti vi phát đầy, cả nước hát đầy. Sao lại bắt tù cơ chứ.? Rõ là tôi bị oan.


...


Ông nghẹn giọng, rồi ông òa khóc. Ông kể về vợ ông lúc ông bị bắt đi tù, vợ ông làm ở đoàn nghệ thuật. Trưởng đoàn nói xấu về ông, vợ ông mắng lại, rồi bỏ làm ngay tức khắc. Về nhà đi ra đường bán hàng rong, một gánh bún đậu, nón lá như bao người bán hàng rong lam lũ khác, rảo đôi quang gánh trên các phố phường. Chắt bóp nuôi con, nuôi chồng đằng đẵng cả chục năm. Ai biết được người phụ nữ trẻ bán bún đậu rong ấy mới hôm nào đó là ca sĩ của một đoàn nghệ thuật, có tem phiếu, chế độ, đãi ngộ mà khối người mơ ước.


...


Câu chuyện của người đàn ông bị đi tù oan khuất kể trong tiếng nấc nghẹn ngào nước mắt. Tôi chưa bao giờ chứng kiến được người đàn ông nào rơi lệ khi nhắc đến vợ mình với vẻ đầy biết ơn, đầy yêu thương như vậy. Những lời kể về năm tháng đọa đầy trong tù ngục mà ông đã chịu chỉ để minh họa cho nỗi khổ đau, vất vả mà người phụ nữ chung thủy giơ đôi vai gầy yếu san sẻ cùng ông.

Tôi cúi xuống xoa mặt mình, tôi nhớ đến mẹ tôi và gánh hàng rong của mẹ trong những năm bố tôi ở tù. Lúc tôi ngẩng lên thấy chị Hà đang dàn dụa nước mắt, chị sụt sịt lấy túi giấy lau dòng lệ.

Thật không biết nói thế nào, ông trời thật trớ trêu. Người phụ nữ đang có chồng oan khuất trong tù, hàng ngày lo lắng, nhớ thương cho chồng quên cả bản thân mình, bỗng lại được nghe một người đàn ông khác cũng từng bị oan khuất trong tù kể về nỗi niềm thương xót người vợ của mình ở nhà tần tảo, lo toan. Cảm xúc dồn nén bật ra trong tiếng nức nở và nước mắt.

Chia tay ông chủ quán Lộc Vàng, trong đầu tôi vang vẳng lời trong nhạc phẩm Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, người nhạc sĩ cũng từng đi tù cải tạo 10 năm.

-...cho người này gợi nhớ thương người kia...

Sao mà đắng cay quá bác Nguyễn Văn Đông ơi, ông Lộc Vàng gợi niềm đau xót cho chị Dương Hà, hay chị Dương Hà gợi niềm đau xót dĩ vãng trở lại trong ông?


Người Buôn Gió



Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI : HẬU QUẢ SAU NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC
Reply #43 - 27. Nov 2011 , 01:44
 
    HẬU QUẢ  SAU NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC .

Hiện nay trên khắp thế giới , nhất là tại một số quốc gia , nơi mà người dân đã từng bị cai trị một cách độc tài , độc đoán như Trung Đông . Sau khi chính quyến độc tài bị lật đổ . Những hệ luỵ vẫn còn tồn tại , Thứ nhất tại các xứ sở đó , người dân quen sống theo mệnh lệnh xuất phát từ tôn giáo và tín ngưỡng . Trí óc người dân đã bị tê liệt , không còn sáng kiến nữa , Khi con người bị quen lệ thuộc vào tín ngưỡng , nhất là Hồi Giáo cực đoan cuồng tín , bản chất của Hồi giáo cực đoan cuồng tín , chính là hình thức của phong kiến quân phiệt  vấn đề còn tồn tại thể hiện qua sự tự do chọn lựa thái độ và hành động ,  tham gia công khai vào hoạt động chính trị của xứ sở . Người dân thành thị tương đối hấp thụ nhanh hơn người dân ở miền quê, người trí thức và có kiến thức rộng rãi lại hiểu biết và chấp nhận mau hơn .

Do đó chúng ta có thể rút kinh nghiệm từ sau thời kỳ những quốc gia Đông Âu theo cộng sản sụp đổ  , và hiện thời xảy ra ở Trung đông . Hiện tại đã có dấu hiệu cho thấy đảng cộng sản Việt Nam sẽ phải sụp đổ , trong một thời gian rất gần . Sự phân hóa trong nội bộ đảng cộng sản VN , các phong trào chống đối lan dần trong dân chúng , diễn ra khằp ba miền đất nước .

Bởi thế nên chúng ta có thể dự liệu về ba thời kỳ . Trước khi VN xảy ra biến loạn , trong lúc biến loạn , và sau đó thể chế chính trị thay đổi sau khi đảng cộng sản tan rã , và chính quyền
sụp đổ , Vấn đề còn lại sau đó sẻ như thế nào , một viễn  ảnh không sáng sủa hơn , khi Tập thể Người Việt Quốc Gia ở ngoại quốc chưa chuẩn  bị , vì đã quen với nếp suy nghĩ phòng thủ thụ động từ bao đời , Khi đã đặt  câu hỏi , tức thị đã có lời giãi đáp . Trước khi đi vào
hoạt động , hành động , ta phải đặt vấn đề từ trong tư tưởng  , ngày xưa gọi là đả thông tư tưởng , chính tư tưởng mới là yếu tố thúc đẩy  hành động Ngay từ lần vừa qua ,sự kiện chợ Géant khu quận 13 thủ đô Paris , khi đối phương treo cờ đỏ sao vàng lên , phe ta mới biết , và
phản ứng cấp thời ;  rõ  ràng là ta thiếu tổ chức tình báo chiến thuật . trong chiến tranh , ta cần nên có tình báo , thiếu tình báo thì không thể chiến thắng được .

Hai sự chuyển  biến quan trong vào thời kỳ 1990 ở đông Âu , và năm 2011 ở Trung đông , đã cho chúng ta kinh nghiệm . vậy thì ngay từ bây giờ tập thể  người Việt Quốc Gia tại ngoại quốc nghĩ gì? làm gì ? Xin dành phần giải đáp cho những bậc cao kiến hơn .

Paris Tiết đông năm 2011 .

Lam Sơn họ lê

http// :mattraquocgia.wordpress.com/ mattranquocgia2011@gmail.com

Bài tiếp theo "


HẬU QUẢ  SAU NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC

Tiếp theo sau bài viết nói trên , Người viết chân thành đón nhận tất cả ý kiến , dù tốt hay xấu , chấp thuận hay phản đối ; người viết sẳn sàng chấp nhận .Người viết xin trình bày thêm , rằng bài viết chĩ là một viển kiến , là giã thuyết , nhưng dù sao đi nửa , vấn đề đảng cộng sản và chính quyền cộng sản sẻ sụp đổ là điều phải xãy ra , không thể có một thứ chính quyền nào có thể dùng quyền lực để đày đọa dân tộc mãi mãi

Bài viết trên đây không phải là được viết từ thiên kiến chủ quan ,mà chính bản thân người viết đã suy nghỉ chín chắn , theo cái lý lẽ bình thường . Bỡi lẽ , đảng cộng sản và chế độ đương quyền , cai trị theo thiên kiến chủ quan , khi nghỉ rằng toàn dân ưa thích chủ nghĩa cộng sản và yêu thích thần tượng Hồ chí Minh , người viết thách thức đảng cộng sản VN dám cả gan tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý , về ý kiến của dân chúng nghỉ và chấp nhận hay bất tín nhiệm " mà không bỏ tù bất cứ ai dám lên tiếng , nói ra sự thật theo ý riêng của mình hay không ?? ai yêu  thích chủ nghĩa cộng sản và yêu thích thần tượng Hồ chí Minh ????? khi mình nói ra điều gì mà người nghe bị bắt buộc phải nghe , khi người nghe im lặng , thì đừng có tưởng rằng người ta im lặng tức là đồng tình đồng ý với mình . Sự im lặng vì sợ hãi , vì muốn khỏi bị bắt bỏ tù " vì tội danh phát ngôn bừa bãi ; Hiện tại người dân VN giử im lặng không có ý kiến , và tìm cách xoay sở để sinh sống , để tồn tại , miễn là mình không bị bắt bỏ tù mà thôi . Vì suy tư theo lý tự nhiên " đương nhiên " cho nên người viết đưa ra ba thời kỳ , hay ba giai đoạn :
Giai đoạn 1/ trước khi đảng cộng sản rối loạn " khi cuộc tổng biễu tình , toàn dân xuống đường " Giai đoạn 2/ trong khi cuộc biến loạn xãy đến " vì bất cứ lý do " có thế do đão chính " , tình hình đất nước vô chủ , đảng cộng sản tan rã , chính thể sụp đỗ .Giai đoạn 3/ giai đoạn sau khi chính quyền cộng sản sụp đổ ? tình trạng hổn loạn vô chính phủ , trộm cắp cướp của , giết người do oán thù cá nhân , lợi dụng cơ hội hỗn loạn để gây ra tội ác . Giai đoạn 4/ Chính phủ  lâm thời chấp chính ban hánh quân luật tái lập trật tự an ninh .

Giai đoạn 1/ là giai đoạn ít nguy hiểm nhất , là vì chính quyền còn tồn tại , còn có lực lượng giử an ninh . Giai đoạn 3 là giai đoạn ngắn , nhưng đó là giai đoạn gian nan nhất . Khi người viết đưa bài viết " HẬU QUẢ  SAU NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC " , đó là có ý muốn đưa ra viển kiến về các sự kiện có khả năng xảy ra trên đất nước VN . người viết mong người trong cuộc và tất cả dân chúng ( bài viết nầy có thể đã được đồng bào ở quốc nội xem qua ) ; mong rằng mọi tầng lớp đồng bào quan tâm đến , chớ đừng nên thờ ơ , lãnh đạm , cứ nghỉ rằng mặc ai làm gì thì làm , miễn là mình bình an vô sự thì thôi , Đừng tránh né sự thật hiên nhiên , chẳng những chúng ta nghỉ và bàn , mà còn phải xoắn tay áo tham gia vào việc giử gìn trật tự an ninh , trong thời kỳ hỗn loạn , và sau đó đóng góp vào công cuộc tái tạo lại cuộc sống yên vui cho mình , cho gia đình , cho  quốc dân đồng bào , Làm được điều khó trong thời khó , tức thị chúng ta đã tự thể hiện về tinh thần làm chủ đất nước .

Chúng ta cần nên biết , việc gì làm trước ta làm trước , việc gì làm về sau thi về sau hẵn làm , Người có đầu óc và có chí hướng làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ , thì cần nên có khã năng tiên liệu nhìn sâu , thấy xa , Tai nghe thật thính , nghe được sự xãy ra ngoài ngàn dậm , mắt nhìn thấy sự kiện từ thật xa , Gọi là mắt sáng , tai thính gọi là nghe suốt  , Tai thính để nghe được tiếng nhân dân oán than , mắt sáng để nhìn thấy sự đau khổ của đồng bào .

Trong khi đang biến loạn ta chưa bàn chuyện trị loạn , mà lại bàn chuyện viễn vong như lập chính phủ , lập quốc hội , đây là công việc trong thời bình , khi tình hình đã vãn hồi an ninh trật tự . Đừng có đặt cái cày đứng trước con trâu .

  Chúng ta không nên mất thời gian để tranh cãi về việc chính quyền cộng sản có sụp đổ hay không ( có thể có ý kiến của những người cán bộ đảng viên đảng cộng sản cố biện luận)  " lập luận của họ nnhư con vẹt , hay cái máy nói " mà thôi . Bài học ngày 30/4/1975 còn đó , ngày đó những thành phần chóp bu của chính quyền nam Việt nam đều biết rỏ thế mất nước đã quá rõ . chỉ có điều thiên hạ dối trên lừa dưới . Nếu bậc chính nhân quân tử trị quốc , thị họ đã nói thật với quốc dân đồng bào , để cả nước với Lòng yêu Nước và Tinh Thần Quốc Gia sẵn có , sẽ đứng lên kháng cự lại giặc cộng sản phương bắc Toàn thể quân dân miền nam không bị hy sinh oan uỗng . Thay vì đã có thể đánh giặc không cần súng Tây , đạn Mỹ . Bỡi thế nên ta thấy khi người cai trị đất nước với tâm địa bất chính , thì đất nước và dân tộc sẻ lâm vào cãnh lầm than cơ cực .

Hạ tầng cơ sỡ cần được vững vàng rồi sau mới đến thượng tầng cấu trúc chính trị . Lời xưa nói " Dân Vi Quý , Quân Vi Khinh ..Thứ chi xã tắc . Vì tính cách cấp thời , nên bài viết nầy được đưa lên trước bài : XEM BINH THƯ , BÀN VIỄC NƯỚC .

Paris , Một ngày mùa đông năm 2011
Lam Sơn họ Lê
Back to top
« Last Edit: 17. Feb 2017 , 17:13 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI NHỮNG MẪU CHUYỆN NGẮN
Reply #44 - 15. Jun 2012 , 14:04
 
NHỮNG NỖI BUỒN

Khuyết Danh

1.      NHỮNG MẪU CHUYỆN NGẮN
2.      
3.      1- Nồi cá bống kho tiêu
Ba mươi tuổi đầu, lận đận chiến chinh, chưa kịp lấy vợ thì trời sập. Đi tù . Mẹ thăm nuôi 6 tháng một lần .Quà chỉ có nồi cá bống kho tiêu và nước mắt thương con. Được 3 năm thấy mẹ già đi, tóc bạc phơ. Thương mẹ, hắn bảo mẹ đừng lên thăm nữa. Nhưng đến kỳ thăm lại đi ra đi vào ,trông ngóng mẹ. Suốt hai năm không thấy mẹ lên thăm.
Được thả, về nhà mới hay khi mẹ về gặp mưa bị cảm nặng trong lần thăm nuôi sau cùng và đã qua đời hai năm rồi. Giỗ mẹ, hắn đi chợ mua cá bống về kho tiêu. Giỗ xong bưng chén cơm và đĩa cá bống kho tiêu cúng mẹ xuống ăn, hình như có vị mặn của nước mắt.

 
2- Tình đầu
Mười tám tuổi, yêu tha thiết, tỏ tình. Nàng chu mỏ: học trò ,nhỏ xíu, bày đặt.
Hai mươi hai ,Thiếu úy Sư Đoàn 18 ,về phép đến thăm ,nàng lạnh lùng: Sợ làm góa phụ lắm.
Hai mươi sáu, Đại úy Trưởng khối CTCT Trung Đoàn, xin bỏ trầu cau Nàng ậm ừ để suy nghĩ lại đã. Tháng 4/75 chạy giặc, lạc mất nhau. Ở tù ra, gặp lại. Nàng đã có chồng, hai con. Buồn và mặc cảm, thôi cứ ở vậy không lấy ai. Ba mươi năm sau , lận đận quê người, gặp lại. Nàng chồng chết, các con trưởng thành ra ở riêng. Mừng rơn, mời nàng đi ăn cơm tối nhà hàng. Tỏ tình. Nàng thẳng thừng: Già rồi bận bịu nhau làm gì, ở một mình cho khỏe.
 

3- Hai chị em
Chị quen anh Hân, trung úy phi công. Anh đến nhà chơi, thấy em gái quấn quýt Hân, chị nhường. Hai người tổ chức đám cưới, chị gom hết tiền để dành tặng đôi vợ chồng mới. Em có thai đứa con đầu lòng được 6 tháng thì Hân đi tù cải tạo. Chi thương em đang có con dại, thay em đi ra Bắc thăm nuôi Hân. Con được hai tuổi, em đi buôn hàng chuyến, lỡ có thai với người tài xế. Chị tiếp tục đi thăm, dối Hân em dẫn con đi vượt biên rồi. Thấy Hân mừng cho tương lai vợ con mình, chị xấu hỗ, tủi thân, âm thầm khóc lặng lẽ trên chuyến tàu lửa từ Hà Nội về lại Sài Gòn. Hân về, biết sự thật. Buồn, dẫn con gái đi vượt biên .Nghe tin hai cha con chết trên biển, chị lập bàn thờ. Lấy tấm hình Hân đứng bên cạnh chiếc máy bay phản lực F5 Hân tặng chị hồi mới quen rọi lớn ra, bỏ vào khung đặt lên bàn thờ, chị khóc gọi Hân ơi…
 

4- Trả hiếu
Thằng Út đói bụng, tìm Lan. Chị ơi nấu cho em gói mì .Từ sáng đến giờ hai chị em chưa ăn gì cả. Nhà hết mì gói ăn liền lại hết cả gạo.Lan dỗ dành, ba đi thồ về thế nào cũng mua bánh mì cho em. Trời tối dần vẫn không thấy ba về, Lan dẫn em ra đầu hẽm nơi anh Tư sửa xe gắn máy, ngồi đợi. Tư và Lan thương nhau đã hơn hai năm. Tư đang cố dành dụm ít tiền để sang năm làm đám cưới. Trời tối hơn, chú Bảy xe thồ chạy về báo tin ba bị xe đụng gãy chân rồi. Bệnh viện đòi 5 triệu mới chịu bó bột. Lan về nhà thay áo, chạy vội ra nhà dì Năm đầu phố. Dì ơi con bằng lòng. Đêm bán trinh cho ông Đài Loan ,Lan khóc lặng lẽ. Anh Tư ơi, cho em xin lỗi…

 
5- Khói thuốc
Năm thứ hai ở Đại học CTCT Đà Lạt, Duy quen Trinh ,học năm thứ nhất ở Đại học Chính Trị Kinh Doanh. Hai đứa yêu nhau tha thiết, thề hẹn sống chết với nhau. Tốt nghiệp, Duy về Sư Đoàn 5 bộ binh, hành quân liên miên Bình Dương, Bình Long, Phước Long. Đêm hành quân giăng võng nằm trong rừng cao su Đồng Xoài, Duy mơ có dịp về phép Đà Lạt, cùng Trinh tay trong tay dạo khắp Thành Phố Sương Mù, rồi vào Cà phê Tùng gọi một gói thuốc Capstan, một tách cà phê sữa, một ly sữa đậu nành nóng, cho ấm. Trinh ra trường về nhà ba mẹ ở Sài Gòn. Duy xin phép thường niên được 7 ngày, ghé thăm. Trinh báo tin ba mẹ gả em cho anh giám đốc Trung Á ngân hàng. Cưới xong chắc em cũng vào làm ở đó luôn cho tiện. Mẹ bảo em hãy quên ông Trung úy đó đi. Hai tháng sau Duy bị thương về nằm Tổng Y Viện Cộng Hòa. Anh lính đơn vị cử đi theo chăm sóc chạy về báo tin hôm nay đám cưới cô Trinh, thấy nhà trai tới với nhiều xe hơi sang trọng lắm. Duy chống nạng ra ngồi trước hiên ,châm điếu thuốc. Thẩm quyền ! bộ ông đang khóc đó hay sao? Không phải đâu, chỉ là khói thuốc lá cay cay làm chảy ra nước mắt…
 

6- Chồng xa
Tin vào chủ trương của lãnh đạo ủy ban nhân dân huyện, cha Hạnh bỏ lúa đổi sang nuôi tôm xuất khẩu .Vay của ngân hàng nhà nước 3 tỷ bạc. Tôm chết trắng ruộng, lỗ nặng. Đến hạn trả nợ, không trả được bị ngân hàng hăm tịch thu nhà. Vịnh, em trai đang học lớp 10 muốn bỏ học đi làm thuê. Hạnh khuyên em cứ tiếp tục học lên đại học, mong sau nầy đổi đời. Nợ nần của gia đình để chị lo. Nuốt nước mắt vào lòng, Hạnh lên Sài Gòn tìm mối lấy chồng Đại Hàn. Được ba tháng chị gọi phôn về thăm Vịnh, dặn dò em cố gắng học và chăm sóc cho cha. Tiếng chị nghèn nghẹn như đang khóc.Thương chị, Vịnh nghẹn ngào hứa vâng theo lời chị dặn dò . Hai tuần sau, tòa lãnh sự Đại Hàn mời gia đình đến
nhận bình đựng tro cốt của Hạnh. Họ giải thích tại chị nhảy lầu tự tử… Trên chuyến xe đò từ Sài Gòn về Long Xuyên, xe chạy qua những cánh đồng lúa bạt ngàn tận chân trời, Vịnh thút thít khóc gọi chị Hai ơi …
Back to top
 
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #45 - 02. Jul 2012 , 21:47
 
HÃY NỔI GIẬN !
’ ‘Indignez-vous!’ hay hiện tượng Hessel ở Pháp.
Tại sao vẫn chưa có « Cách Mạng Mùa Xuân » ở VN ?


Từ Thức

Một hiện tượng bất ngờ trong sinh hoạt văn hoá ở nước Pháp : một cuốn sách mỏng của của Stéphane HESSEL, ‘Indignez-vous!’(Hãy phẫn nộ!) dự tính bán vài trăm bản, đã phá kỷlục ấn hành : trên bốn triệu cuốn và tiếp tục gây tranh luận sôi nổi. Tác giả, một ông già 93 tuổi, hô hào mọi người hãy nổi giận, hãy đứng dậy chống lại tất cả những bất công, những lộng hành của giới thống trị, tài chính hay chính trị đang đè nặng lênđầu mỗi người.


Nổi giận, theo Hessel, là điều kiện tối cần để con người còn là con người, để xã hội khỏi phá sản. Hãy dẹp thói an phận thủ thường, thụ động, hãy đứng dậy cầm vận mệnh mình trong tay ! Người ta áp bức, bóc lột anh bởi vì anh chấp nhận. Khả năng phẫn nộ là điều kiện tối cần để anh trởthành, hay tiếp tục, là người có nhân phẩm và một quốc gia không trở thành một quốc gia chết.

Người Việt có , -hay còn - khảnăng phẫn nộ hay không là câu hỏi và vài suy nghĩ vụn vặt trong bài này. Phải chăng cường độ phẫn nộ của dân Việt không đủ mạnh là một trong những lý do tại sao Việt Nam vẫn chưa có biến chuyển lớn như ở TrungĐông hay Bắc Phi ?

NHU CẦU PHẪN NỘ

Cuốn sách mỏng của S.Hessel, do một nhà xuất bản bỏ túi, Indigènes, ở Montpellier, miền Nam nước Pháp (trong khi sinh hoạt văn hóa tập trung ởParis), không một dòng quảng cáo, mới đầu bán ở những tiệm sách tỉnh lẻ, dần dần nhờ truyền miệng, trởthành một hiện tượng văn hoá xã hội, được dịch trên 30 thứ tiếng.
Hessel từ chối nhận bản quyền, và nhà xuất bản hứa sẽ dùng số tiền bán sách đểin những tác phẩm có thể giúp cải thiện xã hội.

Những tay nhà nghề trong giới ấn loát lắc đầu chịu thua : cuốn sách đứng đầu các danh sách best sellers từ gần một năm nay không phải là tác phẩm của những nhà văn ăn khách như Houellebecq, Jardin, Delerm, không phải là tiểu sử tài tử show biz, không phải sách dạy cách ăn uống cho khỏi mập, không phải là một chuyện tình ướt át, hay một tiết lộ động trời, thật hay bịa, không nói về cuộc đời tình ái náo nhiệt của DSK. Đó là cuốn sách rất khô khan của một ông già gần trăm tuổi hô hào dân chúng nổi giận, hô hào thanh niên đừng thụ động như những ông cụnon.

Hessel không phải là triết gia, không phải là nhà văn, cuốn sách rất mỏng của ông không phải là một tác phẩm lớn, nhưng cuốn“Indignez-vous” bán chạy như bánh mì, vì nó đáp ứng một nhu cầu người ta tưởng là thứ yếu : nhu cầu phẫn nộ .

Người ta mua tặng quà cho nhau nhân ngày Giáng sinh, ngày sinh nhật, trong đó nhiều người chưa hề mua, chưa từng mở một cuốn sách. Những phong trào phẫn nộ (les indignés) đã lan sang nhiều nước Âu Châu, như Hy Lạp, Tây Ban Nha (les indignalos) , hay phong trào Occupy Wall Street ở New-York, trước cửa những ngân hàng thủ phạm của cuộc khủng hoảng kinh tế làm thế giớiđiêu đứng.

Hessel là người suốt đời nổi giận. Sinh năm 1917 ở Đức, gốc Do Thái, quốc tịch Pháp đã tham gia kháng chiến chống phát xítĐức. Bị bắt giam ở nhà tù phát xít nổi tiếng Buchwall, bị kết án tử hình, ông tráo căn cước của một người tù vừa chết bị án nhẹ hơn và vượt ngục. Sau chiến tranh, ông trở thành đại sứcủa Pháp ở Liên Hiệp Quốc và tham dự việc soạn thảo bản Tuyên ngôn Nhân quyền. Về hưu, ông già Hessel là một khuôn mặt quen thuộc trong những cuộc biểu tình cho nhân quyền, biểu tình bênh vực người di dân, bênh vực Palestine mặc dầu ông gốc Do Thái. Ở đâu có phẫn nộ,có bất công, ở đó có ông già Hessel.

Sau khi cuốnIndignez-vous !trở thành một hiện tương xã hội, người ta trách tác giả chỉ xúi thiên hạ nổi giận mà không có đề nghịgì cụ thể, Hessel viết một cuốn sách mỏng khác : Engagez-vous (2) (Hãy tham gia hànhđộng!), trong đó ông đề nghị tranh đấu đòi thành lập Tổ chức Thế giới về môi sinh, và một Chính phủ toàn cầu (gouvernement mondial). Một mơ ước hão huyền ( utopie )? Tất cả những thay đổi lớn trong lịch sử, theo Hessel, đều là những utopiekhi khởi sự.

Cuốn thứ ba, le Chemin de l’Espérence(Con đường của hy vọng) (3), viết chung với nhà xã hội học hàng đầu của Pháp, Edgar Morin, trong đó hai ông già, tổng cộng 184 tuổi vạch ra con đường hy vọng để điđến một tương lai tốt đẹp hơn.

IL FAUT VIVRE INDIGNE

Hessel nối tiếp truyền thống của trí thức Zola, Camus. Emile Zola viết : Il faut vivreindigné !(phải sống phẫn nộ). Từ Zola, trí thức đích thưc là trí thức tham dự sinh hoạt xã hội, chính trị để cải thiện xã hội, không phải chỉ là những người có kiến thức. Ở Việt Nam, ngay cả kiến thức cũng không cần thiết. Trí thức chỉ cần có bằng cấp. Học gạo, học tủ, chong đèn học thuộc lòng, có xong cái bằng là trởthành trí thức, là khuôn vàng thước ngọc. Có bằng vừa vừa là trí thức vừa vừa, có bằng to hơn là đại trí thức… Trí thức vừa vừa được kính trọng vừa vừa, đại trí thức được kính cẩn tối đa.

Albert Camus nói trí thức cũng như mọi người, hơn mọi người chính bởi vì anh là trí thức, phải ghé vai gánh vác như mọi người, phải đổ mồ hôi chèo thuyền như mọi người. Khác hẳn hình ảnh trí thức ‘võng anh đi trước, võng nàng theo sau’ của người VN, có cái bằng bỏ túi là vinh hiển suốt đời, phó mặc chuyện đời cho thiên hạ.

Cuốn sách của Hessel ra đời trước khi cách mạng hoa lài bùng nổ ở Tunisie, mở đầu cho ‘mùa Xuân Ả Rập’ đang quét sạch những chế độ độc tài ở Bắc Phi và Trung Đông. Cùng một lúc, từ Đông sang Tây, thế giới đang chuyển mình, đang tìm một hướng đi mới. Đã tìm ra lối ra chưa, đã thoát khỏiđường hầm chưa là chuyện khác. Bước đầu là ý thức mình có quyền phẫn nộ, có bổn phận phẫn nộ, và sựphẫn nộ có thể thay đổi thời cuộc, có thể và đã lật đổ những chế độ độc tài đã ngự trị từ lâu và tưởng sẽ ngự trị mãi mãi, như ở Ai Cập, Tunisie, Lybie.

Trước đó vài tuần, ai dám tưởng tương Moubarak sẽ bị kết án khổ sai chung thân, ông Ali phải cuốn gói bỏ của chạy lấy người, Khadafi bị bắn chết . Trước đó vài tuần, họ nắm toàn quyền sinh sát, nắm quân đội, cảnh sát, hành pháp, lập pháp, tư pháp, nắm trọn kinh tế, tài chánh trong tay. Cái gì đã quét sạch tất cả: sự phẫn nộ của quần chúng, của những người hàng ngày chỉ biết an phận, cúi đầu .

Các chế độ độc tài không mạnh như người ta tưởng. Chỉ cần sự phẫn nộ của người dân, các lãnh tụ độc tài Trung Đông, Bắc Phi, một sớm một chiều, đã trở thành những con hổ giấy.

TỪ MIẾN ĐIỆN TỚI VN

Tại sao có cách mạng ở TrungĐông, ở Miến Điện mà ở VN chưa có “cách mạng muà Xuân”, mặc dù đã hội tụ đủ mọi điều kiện : bếtắc chính trị, khủng hoảng kinh tế, sa đọa xã hội, và ghê gớm, khẩn cấp hơn nữa, hiểm họa mất nước?

Lấy thí dụ Miến Điện. Tại sao có thay đổi ở Miến Điện? Những yếu tố hiển nhiên: Miến Điện sẽ làm chủ tịch ASEAN 2014, tinh thần quốc gia gần như cực đoan của giới quân phiệt cầm quyền (độc tài, tham nhũng không thua ai, nhưng vẫn yêu nước) thấy hiểm họa Trung Cộng trước mắt. Giới quân phiệt muốn nhích lại với Tây phương, không thểkhông nhượng bộ, không thể tiếp tục giam tại gia bà Aung Suu Kyi, khuôn mặt khả ái, khả kính của nhân quyềnở Miến.

Rất nhiều người VN lên đường chống thực dân vì lòng ái quốc, nhưng đảng Cộng sảnđã đưa VN vào quỹ đạo Nga, Hoa, nhất là Hoa, ngày nay tập đoàn lãnh đạo bắt buộc phải bám vào Trung Cộngđể sống còn, để bảo vệ quyền lợi. Bi đát hơn nữa : có muốn ra khỏi quỹ đạo cũng quá trễ. Cái thòng lọng Tầu đã xiết chặt cổ.

Đó là những yếu tố chính trị.Yếu tố văn hoá : người VN không có truyền thống phản kháng. Văn hóa VN không phải là văn hóa phẫn nộ của Stéphane Hessel. Văn hoá VN là văn hóa “một sự nhịn, chín sự lành”. Cái văn hóa “tránh voi chẳng hổ mặt nào ” giúp con voi càng ngày càng thô bạo.

Cái thói quen chịu đựng, cộng thêm với văn hoá Khổng giáo, đúng hơn là Tống nho, coi vua là con trời, hơn cả cha mẹ, và “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”, đã biến chúng ta thành những người thụ động.

Câu hỏi đặt ra : tại sao cách mạng ở Tunisie và Ai Cập mà vẫn không có biến chuyểnở VN. Hai dân tộc Tunisie và Ai Cập được coi là hai dân tộc thụ động nhất ở Bắc Phi và Trung Đông. Tôi nhớmột buổi trò truyện với một số người Tunisiens sốngở Paris. Tất cả đều có bằng cấp cao, theo con mắt VN,đó là những nhà trí thức. Khi tôi hỏi về tình hình chính trị ở Tunisie, không ai trả lời, lảng sang truyện khác. Sau bữa ăn, khi mọi người ra về, còn lại một người, Ahmed , ông ta cho hay là chính trị xứ ông ta nát bét, dân chủ chỉ là trò bịp, tham nhũng khủng khiếp. Tại sao vừa rồi ông ta không nói gì? Ahmed cười, hơi ngượng, nếu anh nào phát biểu bừa bãi, sẽ có đứa báo cáo tòa đại sứ và hết về nước nghỉ hè. Hai tuần sau, Bouazizi tự thiêu, ngọn lửa phẫn nộ bùng lên, gia đình tổng thống Ali bỏ của chạy lấy người. Ngọn lửa phẫn nộ vượt biên giới, tràn sang Ai Cập và Lybie.

Tại sao những dân tộc được coi là thụ động có cái khả năng phẫn nộ dữ dội nhưvậy, mà ở VN chưa có? Có một hiện tượng tạm gọi là hội chứng (syndrôme) Algérie. Lửa cháy chung quanh, nhưng Algérie chưa động tĩnh gì, vì dân Algérien đã mệt nhoài, cả về thể xác lẫn tinh thần, chỉ muốn được yên thân. Sau khi dành độc lập khỏi tay thực dân Pháp,đất nước rơi vào tay độc tài , tập đoàn của những lãnh tụ kháng chiến cũ, những người kháng chiến vì lý tưởng độc lập, tự do,công bình, nhân ái, khi nắm quyền làm ngược lại, chứng minh công thức “quyền lựcđưa tới tham nhũng. Quyền lực tối đa, tham nhũng tốiđa”. Algérie giống VN một điểm nưã: lực lượng công an cảnh sát hữu hiệu. Ở Alger, sau biến cố Tunisie, nhà nước huy động 35.000 cảnh sát bao vây, giải tán 500 người biểu tình. Một ông phẫn nộ, 70 ông cớm!

Algérie có thêm một đại họa : khủng bố Hồi giáo đã gây kinh hoàng và làm tê liệtđất nước. VN (lạy Chúa, lạy Phật) không có khủng bốHồi giáo, nhưng có đại họa khác làm tiêu tan khả năng phẫn nộ: văn hoá chu di tam tộc. Người Cộng Sản đã khôi phục cái văn hóa của thời man rợ. Anh có tội - sợmất nước là một cái tội, khóc với dân là một cái tội, nghĩ và đòi quyền sống là một cái tội - không phải chỉ có anh lãnh hậu quả, mà cả gia đình vợ con, cha mẹ, gia đình anh bị liên lụy. Anh có can đảm cùng mình, có coi nhẹ tù đầy và cái quý nhất của con người là mạng sống, anh cũng bó thay khi nghĩ tới cái vạ sẽ đổ xuống đầu những người thân. Cái văn hóa chu di tam tộc nó man rợ nhưng hiệu quả. Hiệu quả bởi vì man rợ. Ai có thể tưởng tượng điều đó ở thế kỷ21?

Những kỹ thuật đàn áp ghê rợn, điển hình là cuộc Cải Cách Điền Địa đẫm máu, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, những Toà án Nhân dân (!) , những trại cải tạo sau 75, đã tiêu diệt tinh thần phẫn nộ của người Việt.

SỰ MÒN MỎI CỦA LÒNG TRẮC ẨN

Bà Aung San Suu Kyi, trong bài diễn văn cách đây ít ngày ở Oslo than phiền những đóng góp cho các chương trình nhân đạo càng ngày càng giảm bớt. Bà Kyi nói: sự giảm sút đóng góp là kết quả cuả “sựmòn mỏi cuả lòng trắc ẩn ”. Thế giới sẽ đi về đâu, xã hội sẽ đi về đâu nếu không còn lòng trắcẩn?

Người ta ngỡ ngàng trước cảnh một em bé bị xe nghiến trước sự dửng dưng của mọi người ở bên Tầu. Còn VN? Những chuyện tương tự xẩy ra hang ngày. Một thí dụ, trong những thí dụ : Một bà già bị xe cán, nằm ôm cái chân gẫy, rên rỉ. Nhiều người muốn can thiệp. Người lái xe xuống xe, quát: “Đ.M. Có biết ông là ai không?” Mọi người nín khe, bỏmặc bà già nằm rên rỉ. Người kểchuyện kết luận : chưa chắc gã lái xe là ông lớn hay con cháu ông lớn.

Cònđâu là lòng trắc ẩn? Không còn trắc ẩn, làm sao có phẫn nộ?
Đó chắc chắn là cái di sản ghê rợn nhất của những năm Cộng sản. Biến con người thành thành vô tâm, vô cảm. Bịt tai, bịt mắt, bịt miệng để sống, thờ ơ trước bất công, lãnh đạm trước cái đau khổ của người khác.Những đổ vỡ về chính trị, về kinh tế có thểhàn gắn trong vài chục năm. Sự sa đoạ về con người, băng hoại văn hoá phải nhiều thế hệ mới hy vọng cứu vãn được. Nếu bắt tay cứu vãn trước khi quá trễ.Trước khi bị diệt vong.

THÁI ĐỘ XẤU NHẤT LÀ SỰ THỜ Ơ

Trong bối cảnhđó, phải khâm phục những người dám bày tỏ sự phẫn nộ cuả mình ở trong nước. Những người đấu tranh cho dân chủ, cho nhân quyền, những Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà Vũ, những Hà sĩ Phu, Nguyễn Đan Quế và rất nhiều người khác.

Phải khâm phục những người nông dân mất đất đã tay không đứng dậy. Phải khâm phục những giáo dân, Phật tử đã xả thân đòi tự do tín ngưỡng. Phải khâm phục những bloggers, những nhà báo, những nghệ sĩ đã có can đảm nói lên sự thực. Phải khâm phục những người đã tranh đấu cho công nhân, ở trong nước hay bị bán ra ngoại quốc.

Cái trở ngại cho họ không chắcđã là chính sách đàn áp của người cầm quyền. Cái trở ngại cho họ là sự thờ ơ, thụ động của người chung quanh. Nhiều người tiếc VN không có một người như Aung Suu Kyi. Nhưng nếu bà Kyi là người VN, có bao nhiêu người đứng sau lưng bà như dân Miến. Những Lê thị Công Nhân tranh đấu trong sự cô độc. Cái bản tính thờ ơ, cố chấp, nghi kỵ, ganh ghét của người Việt, ngay cả giữa những người hoạt động cho dân quyền ở VN, đã khiến chúng ta chưa có Aung San Suu Kyi hay Nelson Mandela.

Hessel viết “thái độ xấu nhất là sự thờ ơ” (la plus mauvaise attitude est l’indifférence) và nhắc câu nói của Jean Paul Sartre : mỗi người, với tư cách cá nhân, có trách nhiệm với xã hội ( vous êtes responsables en tant qu’individus).

Sự thờ ơ, với rất nhiều người Việt Nam, đã trở thành một đức tính, một tháiđộ khôn ngoan của những người từng trải. Người ta hãnh diện, khoe khoang cái túi khôn của mình và dè bỉu cái dại dột của người khác. Ở những nước tân tiến, những người dại dột, những người ăn cơm nhà vác ngà voi, là những tác nhân làm cho xã hội tốt đẹp hơn, công bình hơn, làm cho con người đối với nhau còn là con người.

Sống trong sự hoài nghi thường trực, với sự thờ ơ như một nhân sinh quan khả kính, với tính thụ động như một mục tiêu, lòng trắc ẩn mòn mỏi, với sự vắng bóng của phẫn nộ, bao giờ VN có cách mạng muà Xuân như ở Bắc Phi, Trung Đông, thayđổi chính trị như ở Miến Điện?

Stéphane Hessel nói nếu anh sống dửng dưng, hãy tìm một lý do để nổi giận. Lý do để nổi giận không hiếm: sự lộng hành của tài phiệt đã đưa tới khủng hoảng kinh tế, sựbất công xã hội càng ngày càng ghê rợn, môi trường bịphá hoại… Với người VN, khỏi cần tìm kiếm, những lý do để nổi dậy đếm không nổi : độc tài, nhân quyền, tự do bị chà đạp, nhân công bị bán ra nước ngoài,sống như nô lệ, phụ nữ bị gởi đi bán dâm kiếmăn, nông dân bị cướp đất, và hiểm hoạ đất nước sừng sững trước mắt.

VụHoàng Sa, Trường Sa đã gây phẫn uất trong mọi giới. Một cơn gió mới. Hy vọng sự phẫn nộ đó sẽ là động lực đưa đến thay đổi ở VN. Thay đổi hay mất nước. Thay đổi hay là chết.

TỪ THỨC
(Paris, Juin 2012)


( 1 ) INDIGNEZ VOUS. Stéphane Hessel. Ed Les Indigènes, Montpelliers, France. 2010. Phát hành: Harmonia Mundi. Bản tiếng Anh: Time For Outrage. Hardoven Editions.
( 2 ) Engagez-vous. Stéphane Hessel. Editions de l’Aube. France. 2011.
( 3 ) Le Chemin de l’Espérence. S.Hessel § Edgar Morin. Ed Fayard. Paris. France. 2011.
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #46 - 05. Jul 2012 , 09:39
 
Mặc cho sống dưới 1 chế độ bạo tàn, vô nhân, bị nhồi sọ hơn 30 năm, dân Việt vẫn còn có những thiếu nữ vô cùng can đảm như thế nầy.
Hy vọng một ngày không xa nữa, mỗi ngày một đông hơn, dân Việt sẽ dành lại được quyền làm người để được sống thật sự như một con người:


Viết cho tháng Tư

Huỳnh Thục Vy

...
Dòng người chen chúc trên những chiếc trực thăng cuối cùng rời Sài Gòn trước khi thành phố thất thủ. Ảnh minh họa- Google.

Tôi sinh trưởng sau năm 1975 và gia đình tôi không có liên quan gì nhiều đến cả hai phía trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì thế mối tương quan tình cảm của tôi với những sự kiện lịch sử và hoàn cảnh chính trị xã hội trong cuộc chiến hầu như rất ít nếu không muốn nói là không có. Những gì ít ỏi mà tôi  được hiểu biết về nó chỉ đơn thuần là kiến thức. Đứng trong vị thế đó, tôi tạm thời có thể yên tâm rằng lập trường của tôi, và những gì tôi nói ra sau đây sẽ được hiểu một cách thiện chí và không bị gán ghép hay chụp mũ. Tôi không sợ bị chụp mũ, nhưng thiết nghĩ điều đó cùng với những nguỵ biện không có lợi cho sự tiến bộ.

Gần đây, tôi tình cờ đọc được một nhận xét của tướng William Childs Westmoreland- Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam- về tướng Võ Nguyên Giáp của quân đội Bắc Việt như sau: “Of course, he was a formidable adversary…. By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius…”. Xin được tạm dịch là: “Dĩ nhiên, ông ta là một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm….Với sự thừa nhận của chính ông ta, đến đầu năm 1969, tôi nghĩ, ông ta đã mất nửa triệu lính? Ông ta đã báo cáo điều này. Hiện tại, một sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự….”

Dù chúng ta là ai,  đứng bên nào của cuộc chiến, chúng ta cũng phải đồng ý với Westmoreland rằng, một chiến thắng quân sự dựa trên chiến thuật đẫm máu, coi thường sinh mạng binh sĩ chỉ có thể tạo nên một kẻ thù nguy hiểm chứ không tạo nên một thiên tài quân sự như nhiều người vẫn rêu rao. Câu nói này của viên tướng Hoa Kỳ làm tôi suy nghĩ rất nhiều về sự “nguy hiểm” của những người Cộng sản Việt Nam. Họ nguy hiểm bởi họ là những người luôn hành động theo phương châm “mục đích biện minh cho phương tiện”, nghĩa là bất chấp mọi thứ, miễn đạt được mục đích. Đối với tôi, nó không chỉ là lời nhận xét về tướng Giáp mà là một câu nói nêu bật lên bản chất của những người Cộng sản Bắc Việt, và cả chế độ mà họ dựng nên. Và những việc họ đã làm suốt từ những ngày đầu có mặt tại Việt Nam đến nay, từ việc “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” đến gần đây nhất là vụ cướp đất của nông dân đã chứng minh tất cả.

Một kẻ đối địch ghê gớm có thể được hiểu theo hai cách. Thứ nhất, đó là một kẻ thù đáng gờm, là đối thủ khó đánh bại vì có mãnh lực vũ trang, có chiến lược, chiến thuật hành động khôn ngoan… Nhưng khi nhìn xoáy vào chữ “formidable” mà Westmoreland đã dùng, tôi chú ý nhiều đến nghĩa “arousing fear”(gợi nên sự sợ hãi) . Với nghĩa này, nó gần giống với “terrorise” (làm cho sợ hãi). Mà làm cho người khác sợ hãi có nghĩa là “khủng bố”. Chúng ta có thể hiểu theo hai cách về một “đối thủ ghê gớm” như tôi đã tạm phân tích ở trên. Nhưng biết đâu, cách hiểu thứ hai mới là điều mà ông tướng Mỹ kia ngụ ý? Xin hãy cho tôi tiếp tục trình bày mà tạm quên đi những mối thành kiến nào đó có thể đang dâng lên trong lòng quý vị.

Khi căn cứ vào những dữ kiện lịch sử- những điều không thể chối bỏ, những điều đã được trải nghiệm bằng chính xương máu của những người đã kinh qua cuộc chiến ấy- chúng ta sẽ có cái nhìn tường minh hơn. Riêng phần mình, với kiến thức ít ỏi về chiến tranh Việt Nam, tôi đã có thể tìm thấy những hình ảnh có khả năng “làm cho sợ hãi” của quân đội Bắc Việt qua nhiều biến cố như Tết Mậu Thân,  và các “trận đánh” của đội Biệt động Sài Gòn như: “trận đánh” tàu nhà hàng Mỹ Cảnh, “trận đánh” cư xá  Brinks…; và chưa kể đến  những câu chuyện ghê gớm mà tôi từng được nghe những người già kể lại về vô số những “trận đánh” như thế vào trường học, khu dân cư, cầu cống….Đến nỗi, khi nghe nói quân đội Cộng sản Bắc Việt sắp vào đến ngã ba Cai Lang, thành phố Đà Nẵng, những người dân sống ở Đà Nẵng khi đó đã run cầm cập vì nghe tin đồn rằng người Cộng sản mà vào họ sẽ rút hết móng tay móng chân người dân. Đó có thể là điều sợ hãi thái quá, nhưng nó cho chúng ta thấy khả năng gieo rắc sợ hãi đến trình độ đỉnh cao của những người tự xưng là “quân giải phóng”.

Những ai đọc lịch sử, những ai có đủ lương tâm và tầm tri thức trung bình, đều thấy rằng, những cái mà quân đội Bắc Việt và những người “nằm vùng” gọi là “trận đánh” gây nhiều tiếng vang đều không nhằm vào những mục tiêu  trên tiền tuyến, để giành chiến thắng quân sự trực tiếp mà đánh vào những nơi ăn chốn ở cốt để gây sợ hãi. Gây sợ hãi cho người dân nhằm làm xáo trộn xã hội, gây sợ hãi đánh vào tâm lý Quốc hội và dư luận Mỹ…. Ngày nay, ai đi qua đường Hai Bà Trưng, đều nhìn thấy “Bia chiến công trận đánh cư xá Brinks”. Cái mà người ta gọi là trận đánh thực ra là một cuộc đánh bom một nơi ở của cố vấn quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam do hai thành viên Biệt Động Sài Gòn thực hiện. Điều mà họ gọi là “trận đánh” sao tôi thấy nó hao hao giống cách làm của những kẻ khủng bố Hồi giáo cực đoan, chỉ khác một chỗ là họ không tự sát. Đối với thế giới ngày nay, những kẻ đánh bom như thế thật sự là những  kẻ “nguy hiểm”, “ghê gớm” .

Ngoài cái cách thể hiện “formidable” như trên, quân đội Bắc Việt còn khiến người ta sợ hãi hơn gấp bội vì sự coi thường tính mạng binh sĩ của họ. Thông thường, con người sợ hãi những kẻ thù tấn công mình một cách tàn ác, nhưng người ta sẽ kinh hoàng đến rợn người khi biết về những hành động coi tính mạng của người phe mình như cỏ rác, cốt chỉ nhằm đạt được mục đích của kẻ chỉ huy. Người Cộng sản đã lấy chính nghĩa chống giặc ngoại xâm để lừa dối, tuyên truyền, kích động hàng triệu Thanh niên miền Bắc lao vào cuộc chiến như con thiêu thân. Chúng ta được nghe nói rất nhiều về những tấm gương đầy nhiệt huyết và sự hy sinh anh dũng của những người trẻ tuổi mới chập chững vào đời. Đối với những cái chết đó, tôi không có bất cứ tình cảm tích cực nào ngoài sự thương tiếc. Cả một thế hệ người đã bị lừa gạt vì không nhận chân được bản chất của chế độ, của cái chủ thuyết mà nó rêu rao. Âu tất cả cũng chỉ là những sản phẩm lịch sử của một thời đại !

Để rồi sau cái ngày “thống nhất” ấy là những chuyến vượt biên vượt biển của hàng trăm ngàn người, và đã có cả hàng ngàn người phải bỏ xác ngoài biển khơi;  là những năm tháng bao cấp, đói khổ đến cùng cực; đến nay đỡ đói khổ một chút, nhưng dân Việt ta vẫn chưa thoát khỏi thân phận làm thuê, ở đợ cho thiên hạ; đặc biệt vẫn còn cam chịu làm thần dân phục tùng các ông vua Cộng sản. Thế nhưng bất chấp cái thực tế đau buồn ấy, nhiều ngụy biện về thống nhất, về “công lao chống Mỹ cứu nước của Đảng” vẫn tồn tại ngay cả trong lớp người “có học” ở Việt Nam.

Thiết nghĩ một sự hy sinh chỉ nên có và đáng được ngợi ca khi đánh đổi với nó là một giá trị to lớn hơn. Bằng lập trường đề cao cá nhân, tôi cho rằng, mọi ý niệm: thống nhất, giải phóng dân tộc, kẻ thù…phải được đặt trong mối tương quan của chúng với những giá trị an sinh hạnh phúc thực sự của người dân. Suy cho cùng, mọi thứ bao gồm: thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chính trị…chỉ là những phương tiện để đạt đến những giá trị nhân bản, để bảo vệ và phục vụ con người. Mọi định chế, mọi nỗ lực chính trị và xã hội đều nhằm vào cái đích đến quan trọng nhất của nó là CON NGƯỜI. Nếu mục đích cuối cùng ấy không đạt được thì mọi phương tiện kia chỉ là mưu đồ của kẻ lãnh đạo. Thật điên rồ thay cho những kẻ luôn hô hào “mục đích biện minh cho phương tiện”. Chúng ta biết rằng, tính chính đáng của phương tiện phụ thuộc vào sự thích nghi và mối tương quan về bản chất của nó đối với mục tiêu. Nói rõ hơn, chúng ta không thể dùng một phương tiện phi nhân để giành lấy một mục tiêu nhân bản.

Kết quả là, “sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước” đã không khiến Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn, dân tộc ta trở nên kiêu hãnh hơn; mà đơn giản chỉ là biến một miền Nam trước “giải phóng”  hơn hẳn Hàn Quốc, sau gần bốn mươi năm thống nhất, cùng với cả nước lẹt đẹt chạy theo sau cả Thái Lan. Nếu ta lấy cứu cánh là sự phồn thịnh của quốc gia, là an sinh hạnh phúc, là tự do nhân phẩm của mỗi một người dân làm chuẩn thì liệu sự thống nhất ấy có nghĩa lý gì?

Đó là khi vấn đề được đặt dưới lăng kính lý luận. Còn thực tế thì mọi sự đã quá rõ ràng. Cái mà người ta gọi là “kháng chiến chống Mỹ cứu nước” ấy thực chất chỉ là để giúp Trung Quốc “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”. Hay như Lê Duẩn từng nói : “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước XHCN, cho cả nhân loại”. Nói cho rõ ra, đó là cuộc chiến giúp cho chủ nghĩa Cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á theo tinh thần Quốc tế Cộng sản bất chấp tinh thần dân tộc, là giúp cho Trung Cộng dễ dàng Hán hoá một Việt Nam suy yếu sau cuộc chiến tương tàn khốc liệt.

Đã ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày “giải phóng”, giải phóng miền Nam khỏi mối quan hệ đồng minh với Mỹ để trở thành chư hầu hèn mọn của Trung Cộng. Sự thống nhất, sự giải phóng đó mới đau đớn làm sao!  Gần bốn thập niên đã qua đi, dấu vết chiến tranh trên mảnh đất quê hương Việt Nam đã dần phai nhạt, nhưng những tổn thương của lòng người vẫn còn hằn sâu, thậm chí ngày càng sâu hơn. Thống nhất hai vùng địa lý nhưng vẫn vắng bóng một sự Hoà hợp trong tình tự dân tộc.  Vết thương cũ do cuộc tiến chiếm miền Nam chưa kịp lành thì chúng ta lại có thêm những chia cắt mới : chia cắt giữa một bên là một nhóm người cam phận làm tay sai cho ngoại bang, với một bên là những con người yêu nước không khoan nhượng; chia cắt giữa một phía là nhóm người lãnh đạo Quốc gia cùng những kẻ ăn theo cố gắng bám giữ ngôi vị độc tài để tiếp tục nô lệ hoá người dân, với  một phía là những người đấu tranh và chấp nhận hy sinh cho tự do và phẩm giá con người. Tôi vẫn nghĩ rằng, một con người trở nên dũng mãnh nhờ có ý chí. Một dân tộc trở nên hùng mạnh, cũng như vậy, phần nhiều dựa vào tinh thần và khí chất. Nhưng tinh thần và khí chất ấy chẳng thể có được nếu dân tộc ấy chia rẽ. Chính sức mạnh của tinh thần đoàn kết, sự Hoà hợp dân tộc  có thể góp phần giúp chúng ta tạo lập một mãnh lực mới cho dân tộc.

Chỉ e Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục bỏ lỡ những chuyến tàu thời đại nếu trong lòng dân tộc còn có những chia cắt chí mạng như thế. Nhưng thiết tưởng, sự Hoà hợp có khả năng xoá bỏ mọi ngăn cách, hàn gắn mọi vết thương, mang mọi người Việt về trong cùng một chí nguyện chỉ có thể đạt được trên tinh thần Hoà giải thiện chí, trên quyền lợi dân tộc và trên những nguyên tắc hướng thiện chứ không phải là sự thoả hiệp với cái xấu ác. Chỉ e những người Cộng sản Việt Nam quá u mê và tham lam để khởi động một chương trình Hoà hợp, Hoà giải và thay đổi chính trị đầy tham vọng như thế. Chỉ e những người Cộng sản chẳng thể làm nổi những gì mà nhà cầm quyền độc tài Miến Điện đã làm. Chỉ e…. Bởi đến hôm nay, họ vẫn một lòng một dạ coi mối quan hệ với Trung cộng là “chủ trương nhất quán”, là “ưu tiên hàng đầu” như lời Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam đã tuyên bố mới đây tại Bắc Kinh.

Mỗi năm tháng Tư về, bao nhiêu lễ lạt, đình đám vẫn diễn ra bất chấp mối hoài niệm về quá khứ vẫn nặng trĩu trong lòng nhiều người Việt, bất chấp mối ưu tư về tương lai đất nước vẫn canh cánh trong lòng những người có tâm huyết với đất nước. Những con người có lương tâm và tự trọng không bao giờ vui sướng được trong nỗi thống khổ to lớn ấy của dân tộc. Thử hỏi xương máu của hàng triệu con người đã ngã xuống trong cuộc chiến chỉ để tạo nên một Việt Nam thống nhất trong chia rẽ, thống nhất trong sự Hán hoá, thống nhất trong sự mất tự do và quyền làm người hay sao? Ba mươi tháng Tư- xin cầu nguyện cho tự do và nhân phẩm, cho sự Hoà hợp dân tộc và nền công lý.

Sài Gòn, ngày 20 tháng 4 năm 2012

© Huỳnh Thục Vy

© Đàn Chim Việt
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
phuonghue
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3251
Gender: female
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #47 - 06. Jul 2012 , 14:22
 
dacung wrote on 05. Jul 2012 , 09:39:
Mặc cho sống dưới 1 chế độ bạo tàn, vô nhân, bị nhồi sọ hơn 30 năm, dân Việt vẫn còn có những thiếu nữ vô cùng can đảm như thế nầy.
Hy vọng một ngày không xa nữa, mỗi ngày một đông hơn, dân Việt sẽ dành lại được quyền làm người để được sống thật sự như một con người:


Viết cho tháng Tư

Huỳnh Thục Vy

...
Dòng người chen chúc trên những chiếc trực thăng cuối cùng rời Sài Gòn trước khi thành phố thất thủ. Ảnh minh họa- Google.



Cám ơn anh dacung đã đem bài viết của HTV về cho cả nhà đọc. PH rất khâm phục cả gia đình nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn và 3 con.. Đã bao nhiêu lần bị bắt bớ khủng bố mà cả nhà vẫn không sợ hãi hay bỏ cuộc. Những lời lẽ của Thục Vy thật là sâu xa và đanh thép , khó mà tưởng tượng được sự cứng rắn của 1 cô gái nhỏ nhắn xinh đẹp như vậy.. " Thời Thế tạo anh hùng " , tuổi trẻ VN bây giờ đã và đang chứng tỏ cho mọi người thấy khi đã có lý tưởng và chính nghĩa thì không có gì cản trở được sự đấu tranh đòi hỏi tự do và công bằng cho người dân VN.
Cầu mong mọi sự tốt lành đến với gia đình Huỳnh Thục Vy  hong1222 hong1222
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #48 - 14. Feb 2017 , 09:43
 
              VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CUẢ NGƯỜI PHỤ NỬ
                       TRONG TRIẾT LÝ KINH DỊCH


Dịch là những ý niệm triết lý lâu đời nhất của nhân loại, được hệ thống lại từ khi nhân loại chưa có chữ viết. Dịch xây dựng trên ý niệm Âm-Dương. Âm biểu tượng bằng một vạch đứt đoạn (--), và Dương biểu tượng bằng một vạch liên tục (-). Định lý căn bản của dịch là: “nhất âm nhất dương chi vị đạo”, một âm phối hợp với một dương đó là đạo lớn. Hệ luận của “độc dương bất sinh, cô âm bất trưởng”, riêng một mình yếu tố dương thì không thể sinh trưởng được, riêng một mình yết tố âm thì cũng không thể nào lớn lên được.
Và “âm trung chi dương, dương trung cho âm”, trong âm có dương, trong dương có âm.Biểu tượng của dịch được vẽ bằng một vòng tròn tượng trưng cho sự viên mãn tròn đầy của lý tưởng, sự duy nhất chỉ có một chân lý mang tính phổ quát bao trùm cả mọi nơi chốn, ảnh hưởng suốt khắp mọi thời.
Bên trong vòng tròn là hai yếu tố Âm Dương được phân biệt bằng một mầu trắng âm và mầu đen dương, với một chữ S cân xứng làm bằng hai nửa vòng tròn nối tiếp nhau, diễn tả ý “âm dương tương thôi” yếu tố âm và yếu tố dương đun đẩy và bù đắp lẫn cho nhau, tạo nên một thế Thăng Bằng Động của một sự Bình Đẳng Tuyệt Đối trên giá trị bản chất, nhưng khác biệt nhau vì hoàn cảnh: Vị trí và nhiệm vụ.
Sự khác biệt vị trí và nhiệm vụ nói lên tính hợp lý trong việc phân công. Yếu tố dương có một đầu to và một đầu nhỏ, yếu tố âm cũng có một đầu nhỏ và một đầu to. Nếu đầu to tượng trưng cho ưu điểm và đầu nhỏ tượng trưng cho nhược điểm thì với sự phối trí của biểu tượng dịch lý, yếu tố âm và yếu tố dương đã hoàn toàn bổ túc, bù đắp cho nhau để tạo thành một toàn thể có đủ những tính chất: hợp lý, cân xứng, hài hòa.
Còn hai điểm nhỏ, điểm đen nằm ở đầu to yếu tố âm trắng và điểm trắng nằm ở yếu tố dương đen, tượng trưng cho mầm nhân của khả năng biến đổi tiến hóa để thích nghi với hoàn cảnh, phù hợp với nhiệm vụ mới, diễn tả hệ luận biến dịch “Âm trung tri Dương, Dương trung tri Âm”, căn bản của quy luật chân lý tương đối trong môi trường động.

Đặt nền trên những căn bản triết lý trên, người phụ nữ đã có một địa vị xứng đáng và cao trọng trong xã hội Việt Nam đặc biệt là trên tương quan vợ chồng. Vợ chồng là đạo lớn “phu thê chi đại đạo” hay của người quân tử bắt đầu từ mối liên hệ vợ chồng “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”, chỉ là những diễn dịch từ định đề căn bản của dịch “nhất âm nhất dương chi vị đạo” là mối cương thường đứng hàng đầu trước mối liên hệ cha mẹ-con cái và vua tôi, tạo nên ba giềng mối lớn gọi là Tam Cương.
Lấy vợ, sinh con nối dõi vừa là một nhu cầu thuộc bản năng, vừa là một nhiệm vụ trong việc làm người để thành người. Do đó, đời một người được chia làm ba thời kỳ với ba mục tiêu rõ rệt. Tuổi vị thành niên thì lo học hành “Định Học”. Tuổi trưởng thành thì lo lập gia đình “Định Tình”. Sau khi đã yên bề gia thất, vợ con mới lo công danh sự nghiệp “Định Nghiệp”.
Việc lấy vợ còn quan trọng hơn việc thi đỗ. Vì vậy, thi đỗ được coi là tiểu đăng khoa, còn lấy vợ là đại đăng khoa.Khi vợ chồng ăn ở với nhau đã có con cái, người vợ nay thêm bổn phận làm mẹ lại càng được tôn kính nhiều hơn. Chỉ nhìn qua lễ nghi, tang ma thì đủ rõ mục đích biểu lộ lòng nhớ ơn sâu xa của người con đối với công lao sinh dưỡng của người mẹ.
Nào mũ mấn đội đầu tượng trưng cho cái “nhau” lúc ra đời, nào áo sô trắng tượng trưng cho lúc còn nằm trong bụng mẹ. Nào để tang ba năm, khoảng thời gian tối thiểu để đứa bé có thể sống xa mẹ ...
Kể ra khi nhìn vào thực tế xã hội tất cũng nhìn thấy nhiều sự sai lạc và biến đổi không thập phần hoàn hảo như những ước tính hoạch định trên lý thuyết.
Tuy nhiên, đó chỉ là những khuyết điểm về phần nhân sự thực hành mà những người có trách nhiệm cải tạo xã hội phải sửa sai. giáo dục chứ không đập bỏ, phá vỡ một cách vô trách nhiệm. Thái độ phê bình “vơ đũa cả nắm” chỉ chứng tỏ một trình độ hiểu biết nông cạn và phiến diện về đối tượng được phê bình, nếu không muốn nói đó là thái độ thù nghịch.
Không thể lấy con đường 14th ở Washington D.C. để đại diện cho cả thủ đô Hoa Kỳ hay nguy hại hơn nửa cho cả nước Hoa Kỳ rộng lớn. Cũng không thể đọc vài tờ báo như: Penthouse, Playboy, Sirs ... để định mức tình trạng trí thức Hoa Kỳ !

Nếu tin vào sự chính xác của quy luật “tư tưởng hướng dẫn hành động”, thì chỉ ý niệm Âm Dương trong vòng Thái Dịch cũng đủ minh chứng sự “Bình Đẳng Tuyệt Đối” của vợ với chồng trên giá trị bản chất người, Nhân Bản. Và để kết luận, người phụ nữ có một địa vị cao trọng được tôn kính đúng mức ở xã hội Việt Nam, với những chứng tích không thể chối bỏ được trong lịch sử dân tộc.

Vị Trí Người Phụ Nữ Trong Dòng Sinh Mệnh Dân Tộc

Lịch sử Việt là cuốn gia phả của dân tộc Việt cũng đã truy nhận nguồn gốc của nòi giống và xưng tôn mẹ Âu Cơ như Tổ Mẫu. Mở đầu cuốn gia phả là một truyện tích chép rằng: “...Kinh Dương Vương làm vua nước Xích quỷ vào năm 2879 trước Tây Lịch , lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi cha xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ đẻ ra trăm người con, gốc của trăm giòng Việt.
Sau Âu Cơ mang năm mươi con lên núi, Long Quân mang năm mươi con xuống bể ...” Núi và Biển là những vùng đất và vùng biển được Âu Cơ và Long Quân chiếm lĩnh trong việc mở mang bờ cõi coi như không gian sinh tồn của một dân tộc, được gói gọn ý nghĩa trong chữ kép: Giang Sơn, Non Sông, Đất Nước. Âu Cơ cũng đã hoàn tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp so với chồng trong việc mang năm mươi con đi mở mang bờ cõi, dựng nước, giữ nòi. Đó không phải là một sự bình đẳng trước nghĩa vụ hay sao ?!

Gia phả lại chép “... Năm Giáp Ngọ (34 tây lịch), tức năm Kiến Võ thứ mười, vua Quang Võ nhà Hán sai Tô Định làm Thái Thú Quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược làm lắm điều tàn ác, khiến lòng dân oán giận. Năm Canh Tí (40 tây lịch), Tô Định giết Thi Sách. Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định. Tô Định phải trốn về Nam Hải. Hai Bà hạ được 65 thành trì, giành lại độc lập rồi tự xưng là vua, đóng đô ở Mê Linh”.
Đọc sử tất phải xét sử để phân định đúng sai, biện biệt lẽ nên, không. Vì chồng mà trả thù không phải là tình hay sao ? Vì muôn dân mà diệt bạo không phải là đại nghĩa hay sao ? Nhưng tình nghĩa đều là những điều căn bản của bổn phận làm người được quy định bởi Duy Nhân Cương Thường, mà không hoàn tất , tất không thể thành người. Đó cũng không phải là sự bình đẳng không phân biệt trai gái trước nghĩa vụ hay sao ?!

Sử gia Lê Văn Hưu đời nhà Trần khi viết về sự nghiệp của hai Bà có bình luận như sau: “Trưng Trắc và Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh đuổi Tô Định lấy lại được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay.
Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người Tàu mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng?” câu văn kể trên không hề mang ý nghĩa kỳ thị coi rẽ, coi khinh đàn bà như nhiều người ngộ nhận, mà ngược lại là một câu văn khích động, mang tính chất “văn dĩ tải đạo”, văn chương được dùng để truyền bá đạo lý.
Do đó, xấu hổ không vì “người mình” gồm toàn đàn ông sức dài vai rộng, mà vì, “người mình” đã không hoàn tất bổn phận làm con dân đúng nghĩa đối với nước nhà khi bị ngoại bang đô hộ, vì “kiến nghĩa bất vi vô dõng giã”, nghĩa là thấy việc đại nghĩa mà không dám làm là bọn hèn mọn vậy!
Phương ngôn ta có câu: “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để minh chứng quan niệm bình đẳng trong nghĩa vụ sống làm người để thành người trong cương vị làm con, làm dân đối với nước, với nhà. Ơn tổ quốc, ơn cha mẹ là những nghĩa vụ mà đã sống làm người, không phân biệt trai gái, già trẻ không ai mà không phải hoàn tất một cách thành tâm kính cẩn.

Gia phả lại chép: “…Năm Mậu Thìn (248 tây lịch) năm Xích Ô thứ 11 của nhà Đông Ngô, Ngô Chủ sai Lục Dận sang làm thứ sử Giao Châu. Năm ấy ở quận Cửu Chân có người đàn bà tên Triệu Thị Trinh khởi binh giúp anh là Triệu Quốc Đạt đánh nhà Ngô. Quân lính của người anh thấy Bà làm tướng có đủ mọi điều kiện hơn người như: chí khí, sức mạnh và mưu lược bèn tôn bà lên làm minh chủ.
Khi Bà ra trận thường cỡi voi mặc áo giáp vàng xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân. Lục Dận đem quân đánh dẹp, Bà chống cự được năm sáu tháng. Sau vì quân ít thế cô nên bị thua, Bà chạy đến xã Bồ Điền thì tự tử. Bấy giờ Bà mới có 23 tuổi”.Vua Lý Nam Đế (nhà tiền Lý) khen là người trung dũng cho lập miếu thờ, phong Bà là “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân”.
Hậu thế khi đọc lại tiểu sử của Bà không khỏi thầm cảm phục chí khí cang cường của một người quyết tâm chọn con đường cách mạng giải phóng đất nước. Câu nói bất hủ của Bà :“Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh giải đạp đầu sóng dữ, chém cá Tràng Kình ở bể Đông, quét sạch quân Ngô ra khỏi bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, lầm than, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta”.

Nhân tính vẫn thường yêu sống ghét chết, thích an ổn nhàn rỗi, sợ khó khăn gian khổ, chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ trước mắt mà không thấy cái hại lớn sau lưng. Vì vậy, mà trong nội tâm con người luôn luôn có một sự dằn co giữa tình và nghĩa, giữa nước và nhà, giữa cái riêng và cái chung. Vợ đẹp, con khôn, nhà cao cửa rộng dễ gì ai dám bỏ !

* - Chàng từ biệt vợ con thơ dại
* - Lên đường ra quan ải xa xăm
* - Bước đi quay ngắm lại nhà
* - Bên tình bên nghĩa đâu là nặng hơn ?!
Do đó, sống làm người để thành người là chuyện khó. trốn tránh nghĩa vụ là điều thường thấy trong xã hội.
Có vậy mới càng khâm phục chí lớn gan liền của Nhụy Kiều Tướng Quân trong sự lựa chọn lấy nước làm nhà, trong thái độ quyết tâm và dám chết vì đại nghĩa. Chết không phải là hết! Voi chết để Ngà, Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Sát thân thành nhân, còn Bà chết thì thành Thần được tổ quốc ghi công, dân tộc muôn đời chiêm ngưỡng và hậu thế muôn đời tưởng nhớ với khói hương thành kính.
Mười chữ vua Lý Nam Đế sắc phong cho Bà: “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân” đã biểu lộ sự kính phục vô cùng của một tâm hồn đồng điệu, cùng chung chí hướng. Tất cả có thể tóm lược lại là: “Phu nhân là người quyết tâm nêu cao chính nghĩa, dám làm hơn người và dám chết hơn người”, khen một người sống cho sự trường tồn của Dân Tộc và chết cho sự vinh quang của tổ quốc đến thế là hết chữ.
Người đời theo lẽ nhi nữ thì chỉ cần theo chồng cũng đủ khen là tiết liệt, còn Bà theo nước, yêu nước như yêu chồng. Hai chữ Trinh Nhất đó dành cho Bà thật xứng đáng lắm thay.Yêu nước là một tiến trình từ tiềm thức lên ý thức, từ trừu tượng sang cụ thể, từ tư tưởng bước sang hành động.
Do đó, yêu nước không thể chỉ để ngấm ngầm trong lòng, cũng không chỉ phô bày bằng miệng lưỡi. Yêu nước phải được thể hiện bằng hành động cụ thể bởi vì, chỉ có lửa mới thử được vàng, lấy gian nan mới thử được sức người và hành động mới tỏ lộ được mức độ tinh thần. Bản chất của tình yêu là quên mình và tận hiến, là phục vụ và hy sinh.
Do đó, là phải dám hy sinh cho nước. Hy sinh không phải vì xung động nhất thời như lửa với rơm bung lên rồi tắt ngúm, trái lại phải hy sinh với một ý thức cao độ của một kẻ tu đạo tận hiến cuộc đời cho lý tưởng, để nghĩa vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Nói đến kẻ thù, thì có kẻ thù nào đáng sợ và nguy hiểm hơn chính cái Ta. Cái Ta của sự ươn hèn, ỷ lại, của sự cầu an hưởng thụ, của sự phản bội ích kỷ. Từ xưa đến nay tự thắng mình không phải là chuyện dễ làm và mới thấy cái khó khăn của sự tự thắng, khi phải cắn chặt răng để chịu thiệt, đứng vững gót để làm người mới thấy được cái giá trị của sự hy sinh: hy sinh hạnh phúc của đời mình, Nhưng phải chết đi để không ngừng sống lại với sự vinh quang của tổ quốc.Gia phả của dân tộc chép: “Vua Nhân Tông truyền ngôi cho con là Anh Tông còn mình lên làm Thái Thượng Hoàng, sau lại bỏ đi tu.
Năm Tân Sửu (1301) Thượng Hoàng sang Chiêm Thành xem phong cảnh, có ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu, Chế Mân cho người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận. Chế Mân lại xin dâng hai châu Ô và châu Rí để làm sính lễ, bấy giờ Anh Tông mới quyết định thuận gả.
Đến tháng sáu năm Bính Ngọ (1306) vua cho công chúa về Chiêm Thành. Năm sau (1307), vua Anh Tông thu nhận hai châu Ô và châu Rí, đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, rồi sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan giám sát”.Người đời chỉ xét trên khía cạnh cá nhân để oán hận triều đình và cảm thương cho công chúa Huyền Trân, nên cao dao đã có câu:

* - Tiếc thay thân quế giữa rừng
* - Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Mà lại không thấy đó là một cuộc hôn nhân có tính cách chính trị, tạo thế ỷ dốc, lập một liên minh quân sự để giữ an bờ cõi bằng liên hệ tình cảm giữa hai họ xui gia.
Nếu người đời nghĩ rằng trong chiến công vĩ đại hiển hách của dân binh nhà Trần đã đánh thắng quân Nguyên và sự chiến thắng của toàn dân ta có sự đóng góp của dân tộc Chiêm Thành (Chiêm Thành không cho quân Nguyên mượn đất, mượn đường để đánh tập hậu vào sau lưng ta), thì tất cả đã không trách cứ với câu ca dao trên. Vua Trần Nhân Tông đã quyết định đúng, phù hợp với tình nghĩa đồng minh.
Gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân không chỉ là hành động đãi ngộ đề bù mà còn là thái độ ngoại giao khôn khéo, tạo thêm tình thắt chặt giữa hai dân tộc Việt-Chiêm Riêng với Huyền Trân Công Chúa, chỉ kể về giá trị của đồ sính lễ gồm hai châu Ô và châu Rí cũng đủ nói lên công lao đóng góp, mở nước, xây dựng tổ quốc của bà, Huyền Trân không đóng góp bằng xương máu chiến sĩ, nhưng Bà đã cống hiến đời mình bằng những giọt nước mắt tài hoa của một vị công chúa, Bà đã hiến dâng đời mình cho tổ quốc. Trên cương vị lãnh đạo, Nhân Tông đã vì nước mà hy sinh con mình. Trên cương vị là con dân Việt, Huyền Trân đã vì nước quên mình.
Vâng ! Đó là những mệnh lệnh của trách nhiệm và bổn phận, đã là trách nhiệm và bổn phận thì không một ai được chối từ.Ngoài những đóng góp vĩ đại cho tổ quốc như Tổ Mẫu Âu Cơ, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Huyền Trân Công Chúa ...
Lịch sử còn biết bao gương hy sinh cho tổ quốc cần phải nói đến, hay đúng ra là hiện tại trong chúng ta những kẻ hậu sinh, phải nhớ đến những công lao khó nhọc của tiền nhân và đã có biết bao sự hy sinh đóng góp một cách tân tụy và âm thầm của biết bao thế hệ phụ nữ Việt cho nhà, cho nước.
Không ai có thể phủ nhận công ơn của người phụ nữ Việt trong lãnh vực gia đình cũng như ngoài xã hội. Gia đình là nền tảng của xã hội, là thành phần làm nên đoàn thể. Nếu gia đình êm ấm thì xã hội sẽ an định, nếu gia đình tan nát thì xã hội sẽ biến loạn. Sự liên hệ song phương có tính quy luật đó đã được bao hàm trong hai chữ: Quốc Gia hay Nước Nhà.
Trong gia đình, với cương vị làm con, con gái cũng đã làm tròn bổn phận hiếu thảo như con trai và còn hơn con trai nửa ! Có nhiều người đã dựa vào câu Hán Nho: “Nhất Nam viết hữu, thập nữ viết vô” để đã phá nền mống gia đình Việt Nam là kỳ thị phụ nữ. Đó là sự phê phán vội vàng đáng trách, vì trong ngôn ngữ của Việt Nam ta không thiếu gì những câu đề cao vai trò người phụ nữ.
Chẳng hạn: “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng” để tỏ hiệu năng giúp đỡ cha mẹ của người con gái. Tuy nhiên, đối với kinh nghiệm của các bậc mẹ cha thì con nào cũng là con, không phân biệt trai gái mà chỉ phân biệt ngoan, hư, như trong một câu ca dao:

* - Trai mà chi, gái mà chi
* - Con nào có hiếu có nghì thì hơn.
Có hiếu, có nghĩa bao gồm cả những việc làm cho cha mẹ vui lòng. Ở địa vị cha mẹ, chúng ta sẽ nghĩ sao khi đang nóng giận với con gái mà được nghe lời khôn ngoan dịu dàng này:

* - ... Má ơi đừng đánh con đau
* - Để con đi chợ mua cau ăn trầu ...
* - ... Má ơi đừng mắng con hoài
* - Để con đi chợ mua xoài má ăn ...
Ngay từ những ngày còn lên chín lên mười, người con gái đã lớn không hơn con trai và biết giúp đỡ mẹ cha với những công việc trong nhà, kể cả việc săn sóc các em như một người mẹ nhỏ.
Cảnh tượng “Con chị bồng con em” ru cho em ngủ trong một buổi sáng muộn của một ngày mùa, là một cảnh điển hình của làng quê Việt Nam vào những ngày đất nước thanh bình. Trong những gia đình chẳng may người mẹ đau ốm hay chết sớm thì trăm sự chỉ trông vào người con gái để “tay hòm tay khóa” quán xuyến gia đình ...
Có biết bao nhiêu người con gái đã quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha mẹ già, em thơ dại cho tròn đạo hiếu. “Trẻ nhờ cha, già cậy con” là một thực tế xã hội không thể chối bỏ trên cả hai phương diện tình cảm và vật chất.
Với quan niệm khoa học hiện nay coi sinh lý như một nhu cầu căn bản của một cơ thể ở mức độ trưởng thành cần phải thỏa mãn, thì sự quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha mẹ và các em là một sự hy sinh tuyệt vời. Sức mạnh nào đã giúp họ chiến thắng những đòi hỏi ghê gớm của một cơ thể mạnh khỏe, nếu không là tình yêu cha mẹ, anh em, giòng tộc ... trong ý nghĩa yêu là hy sinh, quên mình, sống cho, sống vì kẻ khác !

* - Chắp tay van vái Phật trời
* - Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Trong xã hội Việt Nam cổ truyền, ý niệm người tình gắn liền với ý niệm người vợ. Tình yêu phải tiến tới hôn nhân và yêu nhau với ước mơ được sống trọn kiếp bên nhau trong tình nghĩa vợ chồng. Và vì chuyện vợ chồng là chuyện quan trọng trong đời người, không thể nay lấy mai bỏ như thay một chiếc áo, nên việc kén chọn tất phải cẩn thận qua nhiều mai mối lễ nghi, như ca dao có câu:
* - Chim khôn đậu nóc nhà quan
* - Trai khôn tìm vợ, gái ngoan chọn chồng.

Chuyện tích Sơn Tinh, Thủy Tinh là một điển hình của việc chọn dâu kén rể. Một phong tục tốt đẹp của Việt Nam có từ thời Hùng Vương thứ 18. Đã nói đến kén chọn tất là phải dựa vào một tiêu chuẩn để luận xét, cân nhắc nặng nhẹ, tốt xấu.
Trong chuyện tích, Sơn Tinh cưới được Mỵ Nương vì đến sớm đúng hẹn, còn Thủy Tinh đến chậm, lỡ hẹn nên mất vợ. Xét cho kỹ, câu chuyện có bao hàm một triết lý sâu xa: Thứ nhất, việc đúng hẹn là giữ tròn chữ Tín với một tấm lòng thành. Sơn Tinh đã coi việc lấy vợ là quan trọng nên chuẩn bị chu đáo và quyết tâm làm đúng. Với tấc lòng thành tất cảm được người, với đức Tín tất được người Tin.
Tương quan vợ chồng là một tương quan bình đẳng, đặt nền trên sự thành tín, nghĩa là thành thật với nhau và tin nhau. Thứ hai, Sơn Tinh là thần núi non, núi tượng trưng cho đức Nhân. Thủy Tinh là thần sông biển, tượng trưng cho đức Trí. Chữ có câu: “Trí giả nhạo thủy, Nhân giả nhạo sơn, Trí giả động, Nhân giả tĩnh”, nghĩa là người Trí thích nước, người Nhân thích núi, người Trí thích tính hiếu động, người Nhân thì ưa tĩnh.
So nặng nhẹ thì Nhân là đầu mối sinh ra các đức tính khác, có nhân mới có ái, có lòng đôn hậu bao dung được người. Còn Trí thì dũng lược có thừa, nhưng hiếu động ưa ganh đua, tất phải có điều tàn nhẫn với người. Vua Hùng Vương gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh, người có đức Nhân mà không gả cho Thủy Tinh là người có đức Trí là lý do trên vậy.

Nếu trong thời gian dạm hỏi, xêu tết trước khi cưới xin, được coi như giai đoạn làm người tình (ý trung nhân) thì người con gái cũng đã tỏ ra xứng đáng, trong việc khuyến khích hôn phu tu tỉnh học tập để lo danh phận và tương lai đôi lứa:

* - Anh về học lấy chữ nhu
* - Ba năm em đợi, chín thu em chờ.

Huống hồ trong cương vị một người vợ đưa lưng gánh vác giang sơn nhà chồng thì việc an ủi chồng, khuyến khích chồng và giúp đỡ chồng, chỉ là một sự đương nhiên như một bổn phận không thể thoái thác. Đã có biết bao nhiêu thế hệ, người vợ tảo tần khuya sớm nuôi chồng ăn học để thành danh phận, làm rạng rỡ tông môn và góp công xây dựng tổ quốc ?

* - Canh một dọn cửa dọn nhà
* - Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm
* - Canh tư bước sang canh năm
* - Trình anh dậy học chớ nằm làm chi
* - Một mai Chúa mở khoa thi
* - Bảng vàng chói lọi, kia đề tên anh
* - Bỏ công cha mẹ sinh thành
* - Công em tần tảo nuôi anh học hành.

Nhìn những hàng bia đá ghi danh các vị đại khoa tiến sĩ, tất không thể vô ơn làm lãng quên được những người vợ đáng kính đã tận tụy hy sinh, góp bao công sức để chồng thành công, thành danh và thành người.
Ước mơ “như chim liền cánh, như cây liền cành” là ước mơ chung của tất cả những cặp vợ chồng. Chia ly là một sự đau khổ vô cùng mà Chinh Phụ Ngâm đã phản ảnh trọn vẹn ý tình của người vợ trẻ gánh vác việc nhà khi chồng đi làm nghĩa vụ chinh nhân như:

* - Anh đi em ở lại nhà
* - Chăn tằm dệt lụa, mẹ già em lo.
Nếu hiểu rằng đàn bà là cái “thiên cổ chi mê”, tức nỗi say mê truyền kiếp của đàn ông, và anh hùng dù là mặt sắt cũng ngay vì tình, thì tất hiểu lý do của sự suy sụp của bao triều đại, lý do thân bại danh liệt của những kẻ làm lớn, cũng như làm láo, trốn tránh nhiệm vụ làm người và để từ đó, càng cảm phục thêm tấm lòng cao đẹp của những người chinh phụ đóng của phòng khuê, chờ chồng đi làm nghĩa vụ với non sông, còn mình ở nhà thay chồng làm bổn phận với cha mẹ và con cái. Họ đã ý thức được tương quan nhân quả qua câu quốc phá gia vong, để chấp nhận hy sinh hạnh phúc cá nhân cho tập thể nước nòi (phép công là trọng, niềm tây xá nào) và âm thầm sống làm tròn nhiệm vụ:

* - Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
* - Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
* - Nay một thân nuôi già dạy trẻ
* - Mối quan hoài mang mể biết bao

Có một điều hình như đã thành quy luật là: “Chồng có chung thì vợ mới trinh” tình yêu bao giờ cũng đi đôi với sự kính trọng đặt nền trên tương quan bình đẳng. Chẳng trách nào người xưa thường nói “yêu nhau vì nết, trọng nhau vì tài”. Nết là cái nhân cách, mà nhân cách được thể hiện trong việc chu toàn bổn phận làm người.
Trốn tránh trách nhiệm là hèn nhát, mà đã hèn nhát thì không còn gì để nói nửa ! Đó cũng là lý do để giải thích thái độ quyết liệt của những tiết phụ, liệt nữ, quyết sống xứng đáng với chồng “chàng đi theo nước, thiếp theo chàng” mà lịch sử cận đại có thể nêu danh như cụ bà Phan Bội Châu, nhũ danh Thái Huyên.
Khi cụ Phan bị Pháp bắt giải về Việt Nam do sự chỉ điểm của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau này. Khi đến thăm cụ Phan, Bà cụ chỉ vắn tắt vài lời: “vợ chồng ly biệt hơn hai mươi năm nay được một lần giáp mặt thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ mong cho thầy giữ được lòng xưa. Thầy làm những việc gì mặc thầy, thầy chớ nghĩ đến vợ con”.

Như Cô Giang, người tình và là đồng chí của Nguyễn Thái Học, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng khi tổ chức vỡ, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị Pháp xử chém, cô Giang đã trở về làng của Nguyễn Thái Học và tự sát bằng súng lục trong ý muốn được nhìn nhận và được chôn cất như con dâu họ NguyễnVà còn biết bao nhiêu tiết phụ, liệt nữ khác đã sống và đang sống ở khắp nơi trên quê hương Việt Nam yêu dấu.
Mẹ, vợ, người tình của những chiến sĩ cách mạng đang chiến đấu trên khắp nẽo đường đất nước để tiêu diệt chế độ Công sản tàn bạo. Họ là những vọng phu với niềm tin vô biên vào sức sống của chính mình những ngày tháng trầm luân trong cuộc đời trôi nổi theo vận nước, cả trái tim và tấm lòng, tâm trí hòa vào hồn nước đi theo cùng chồng, những người mẹ, người vợ họ chấp nhận những thua thiệt để chỉ lo cho chồng, cho con và cho gia đình, để mong được chia xẻ ngọt bùi chứa chan tình nghĩa.

Họ là những vọng phụ của thời đại, những người mẹ hiền đáng kính, những người vợ đáng thương, những người tình đáng yêu, họ không quên lời thề hứa, gian khổ cùng chịu, hạnh phúc cùng chia, để cùng nhau sánh bước đi xa hơn cả cuộc đời.

Làm mẹ, làm con, làm vợ, làm người tình, những giai đoạn được khoa học phân ra theo diễn biến tâm lý cơ thể học, thì lại được người Việt Nam nhìn như những bổn phận phải chu toàn trong tiến trình sống Làm Người để Thành Người. Vì được coi là một tiến trình nên bổn phận đã không xung đột nhau mà là kế tiếp, bổ túc cho nhau nối kết thành một xâu chuỗi, một toàn thể.
Sự xung đột quyền lợi giữa cá nhân và gia đình, giữa nhà và nước như nhiều người đã cố chứng minh từ lâu nay, chỉ là biểu lộ một nhân cách không toàn vẹn, một lập trường chao đảo vì thiếu căn bản, thiếu nền móng.
Trái lại với cái nhìn của Đạo Hiếu Duy Nhân Cương Thường thì đó chỉ là những nhiệm vụ xếp theo cấp bậc có tính biện chứng, đi từ thấp lên cao trong một tiến trình hướng thượng, trong cái tinh thần ở địa vị nào phải hoàn tất nhiệm vụ đó như “quân quân, thần thần, tử tử” vậy !
Thấm nhuần truyền thống Đạo Hiếu của dân tộc, người phụ nữ Việt Nam đã làm tròn mọi nghĩa vụ đối với đất nước, đối với nhà một cách trọn vẹn và tuyệt đẹp, cuộc sống đối với người phụ nữ Việt ngoài những trách nhiệm nêu trên còn là cuộc hành trình hoàn mãn của sự chết, chết trong yêu thương, chết nhưng để lại danh thơm cho đời sau.
Họ đã đứng thật thẳng, sống khiêm tốn trong sự giản dị đến khó nghèo, làm biểu tượng cho sự hy sinh cao đẹp của muôn đời, sự hy sinh cao đẹp của một nòi tình đặt lý tưởng Tổ Quốc lên trên hết .
Như đã trình bày ở trên, dân tộc Việt Nam là một nòi tình, quê hương Việt Nam là một quê hương ân sâu nghĩa nặng, đúng hơn là một dân tộc biết yêu, biết ghét. Ý thức được sự yêu, sự ghét với những đối tượng rõ rệt, có lý do biện chứng rõ ràng.
Yêu cái nên yêu và ghét cái đáng ghét làm hai nhân tính, một dân tộc biểu lộ tình cảm của mình qua những khuôn phép của lễ nghĩa được kết tinh trong Đạo Hiếu.Và cũng như đã trình bày ở trên, Đạo Hiếu là một triết lý sống, một phương cách tu thân xử thế, sống Làm Người để Thành Người mà Nhân Chủ là lý tưởng phải đạt tới, như di huấn của tiền nhân đã để lại, truyền đời là bí quyết để giữ nước nòi qua biểu tượng Tiên Rồng.

Định đề căn bản của Đạo Hiếu là Nhân Bản Hồ Tổ, người gốc từ tổ tiên, tức là truy nhận nguồn gốc Người của mình (khác với Bọn người cho rằng người từ khỉ).
Từ định đề căn bản này với việc truy nhận tổ tiên từ xa xưa đã đưa đến hệ luận: Giòng tộc, nước nòi là một thực thể, sống động bất khả phân ly, ở đó quá khứ với những thế hệ đã qua, hiện tại với những thế hệ đang sống còn và tương lai với những thế hệ sẽ nối tiếp để Tiến-Hóa chỉ là Một, một giòng sinh mệnh như ngàn vạn con suối nhỏ đi ra sông và từ ngàn vạn con sông kia lại cuồn cuộn cuốn trôi về biển Đông.
Trong giòng sinh mệnh dân tộc ấy người phụ nữ Việt Nam, như những thành phần làm nên toàn thể, trong cương vị làm con, làm người tình, làm vợ, làm mẹ trong gia đình và cương vị làm dân trong phạm vi đất nước, cũng đã hoàn tất những bổn phận được giao phó một cách thập phần hoàn hảo, để làm cho dân tộc được trường tồn và tổ quốc thêm vinh quang ./.

Trần Chính Trung
     

Back to top
« Last Edit: 17. Feb 2017 , 17:15 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
tuy-van
Gold Member
*****
Offline


Thành viên xuất sắc
2015

Posts: 10734
Thung lủng hoa vàng
Gender: female
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #49 - 16. Feb 2017 , 09:32
 
...

  Em vui và cám ơn , khi thấy anh Lam Sơn trở lại sân trường nầy , và chia xẽ những tài liệu trân quý.

  Em không biết làm thơ , xin phép post vào đây những câu thơ , của thi sỉ Đổ Công Luận trong nhóm PV , thay lời chúc Tết 2017 đến anh và cả nhà.

Em TvMs
Back to top
 

hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #50 - 16. Feb 2017 , 11:36
 
Cảm ơn Tuý Vân về những dòng thơ ( tuy không phải Tuý Vân là tác giả ). Từ thời còn đi học , mình vốn không có khiếu làm thơ , hay là có sẵn , nhưng không phát triển được.
Cảm ơn nhiều lắm.. còn đang soạn thêm , cái gì để poste lên ( hình như anh bạn Đổ Công Luận là người Biên Hoà , hình như em trai của anh bạn già Đổ Công Trường )

Có bài mới đây Tuy Vân ,

Đổi cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười

Mẹ và Quê Hương
Một danh ngôn mà chúng ta thường nghe “thế giới có rất nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất vẫn là trái tim người mẹ”. Thật vậy, bao nhiêu thơ viết về mẹ cũng không đủ, bao nhiêu nhạc hát về mẹ cũng không vừa. Biển Thái Bình bao la, nước sông Hằng cuồn cuộn nhưng không sao có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ.
Bản nhạc nào viết về mẹ cũng hay, bài thơ nào viết về mẹ cũng cảm động bởi vì ngôn ngữ dành cho mẹ là ngôn ngữ của trái tim.Mẹ là biểu tượng trọn vẹn và tuyết đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một người để chúng ta có thể san sẻ  những điều thầm kín, riêng tư nhất, thì người đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ.
Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ đầu tiên của một ngày, thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để  nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ hay thậm chí chỉ  để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và hạnh phúc.

Mẹ là người mang ta đến cuộc đời, và cũng là nơi ta trở về.  Người đàn bà chân mang đôi dép ngược, khoát chiếc mền rách, như trong một câu chuyện thiền mà chúng ta có thể đã từng nghe kể, dù bao mùa mưa nắng vẫn không than van, không oán trách, vẫn chờ đơi ngày về của đứa con mãi mê trên đường đi tìm chân lý.
Nếu chân lý mà chàng trai trẻ kia đi tìm là tình thương và sự  thật thì chân lý sẽ không ở đâu xa mà trái lại vô cùng gần gũi. Trong tấm thân gầy yếu nhỏ nhoi của người mẹ chứa đựng cả một đại dương của hy vọng, tình yêu, sự  thật và lòng vị tha sâu thẳm. Hơn mười năm trước, tôi có viết một bài thơ về mẹ, trong đó có hai câu đã trở thành quen thuộc:
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để  tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Bài thơ đơn giản và dễ hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả chỉ để  nói lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa cành, mười năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài sáu mươi tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng, Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống tám năm.
Nhớ lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về chào mẹ. Trời mưa lớn.  Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những lo âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn ngoài ba tiếng “con đi nghe”. Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ của chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13 tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn về phía nam, tôi biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình. Đời tôi từ nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở về nguồn cội.

Nếu có một quốc gia mà những người dân của quốc gia đó đã phải từ chối chính đất nước mình, từ chối nơi đã chôn nhau cắt rốn của mình, tôi nghĩ, đất nước đó không còn bao nhiêu hy vọng. Việt Nam sau 1975 là một đất nước sống trong tuyệt vọng. Dân tộc Việt Nam những năm sau 1975 là một dân tộc sống trong tâm trạng những kẻ sắp ra đi. Sài Gòn giống như một sân ga.
Chào nhau như chào nhau lần cuối và mỗi ngày là một cuộc chia ly. Bắt tay một người quen, ai cũng muốn giữ lâu hơn một chút vì biết có còn dịp bắt tay nhau lần nữa hay không.  Gặp người thân nào cũng chỉ để hỏi “Bao giờ anh đi, bao giờ chị đi”, và lời chúc nhau quen thuộc nhất mà chúng thường nghe trong những ngày đó vẫn là “Lên đường bình an nhé.”

Đất nước tuy hòa bình, quê hương không còn tiếng súng nhưng lòng người còn ly tán hơn cả  trong thời chiến tranh. Đêm cuối ở  Sài Gòn lòng tôi ngổn ngang khi nghĩ đến ngày mai. Ngày mai sẽ ra sao? Nếu bị  bắt tôi sẽ ở tù như lần trước nhưng nếu đi được thì sẽ trôi dạt về đâu?

Suốt sáu năm ở lại Sài Gòn, tôi chỉ nghĩ đến việc duy nhất là ra đi. Khi chiếc ghe nhỏ bị mắc cạn trong một con lạch ở  Hải Sơn buổi sáng ngày 11 tháng 6 năm 1981, trời đã sáng, nhiều người, kể cả một trong hai người chủ ghe, cũng bỏ ra về, nhưng tôi thì không. Tôi phải đi dù đi giữa ban ngày. Tôi phải tìm cho được tự do dù phải bị bắt và ngay cả phải trả giá bằng cái chết.
Tự do đầu tiên, biết đâu cũng sẽ là cuối cùng và vĩnh viễn.  Nhưng hai ngày sau, khi đứng trên boong tàu Mỹ, tôi biết mình vừa mất một cái gì còn lớn hơn ngay cả mạng sống của mình.  Đó là đất nước, quê hương, bè bạn, con đường, tà áo, cơn mưa chiều, cơn nắng sớm, và trên tất cả, hình ảnh mẹ. Không phải những người ra đi là những người quên đất nước hay người ở lại bám lấy quê hương mới chính là người yêu nước. Không. Càng đi xa, càng nhớ thương đất nước, càng thấm thía được ý nghĩa của hai chữ quê hương. Không ai hiểu được tâm trạng người ra đi nếu không chính mình là kẻ ra đi.

Nói như thế không có nghĩa là tôi hối hận cho việc ra đi. Không, tôi phải đi. Nhưng chọn lựa nào mà chẳng kèm theo những hy sinh đau đớn. Bài hát Sài Gòn vĩnh biệt, tôi thỉnh thoảng nghe trên đài VOA khi còn ở  Việt Nam như những mũi kim đâm sâu vào tâm thức. Bao nhiêu điều hai ngày trước tôi không hề nghĩ đến đã bừng bừng sống dậy.
Bao nhiêu kỷ niệm tưởng đã chìm sâu trong ký ức đã lần lượt trở về. Tự  do, vâng, tôi cuối cùng đã tìm được tự do nhưng đó chỉ  là tự  do cho chính bản thân mình. Những gì tôi đánh mất còn lớn hơn thế nữa.
Nhớ lại đêm thứ hai trên biển, khi biết chiếc ghe chiều dài vỏn vẹn mười mét rưỡi nhưng chứa đến 82 người của chúng tôi vừa cặp vào thành tàu chiến của Mỹ thay vì Ba Lan hay Liên Xô như mọi người trên ghe lo sợ, ai cũng hân hoan mừng rỡ.
Đám bạn tôi, có đứa thậm chí còn hô lớn “USA, USA” và ôm chầm lấy những người lính hải quân Mỹ đang dang tay đỡ từng người bước lên khỏi chiếc cầu dây đang đong đưa trên sóng.  Tôi cũng vui mừng, biết ơn và cảm động nhưng không ôm chầm hay hô lớn. Lòng tôi, trái lại, chợt dâng lên niềm tủi thẹn của một người tỵ nạn.
Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm, trở thành chiếc cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa có quê hương và thiếu quê hương. Tôi nghĩ thầm, cuối cùng, tôi cũng như nhiều người Việt Nam khác, lần lượt bỏ đất nước ra đi mà thôi. Dù biện minh bằng bất cứ lý do gì, tôi cũng là người có lỗi với quê hương.

Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.

Trong tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng hai mươi cây số phía Nam thị trấn Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái tên rất đẹp, khu Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều chỉ hơn mười mét do những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng lên, nối nhau dọc theo cánh rừng hoang.

Tôi kính yêu me. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này.

Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị  em.

Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở  làng Mã Châu, quận Duy Xuyên.  Đêm đêm nằm nghe cha kể  chuyện thời trai trẻ  buồn nhiều hơn vui của đời ông.  Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha mẹ tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly nước vối  chua chua  thay cho chén rượu tân hôn nồng thắm.

Dù sao, bên khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ đã cùng nhau dệt  một ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng tre già, mặt trăng rồi sẽ tròn bên kia giòng sông Thu Bồn, những ngày chiến tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi nhường bước cho hòa bình sẽ đến.

Nhưng rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi.  Năm tôi 13 tuổi, chiến tranh đã cướp đi cha tôi, người thân yêu cuối cùng của tôi.  Chiến tranh lan tràn đến làng Mã Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa vàng thân quen để  làm người du mục trên quê hương đổ nát của mình. Từ đó tôi ra đi.
Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con hẻm 220  Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa Hưng, trại tỵ nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên trong hành trình tỵ nạn của tôi hàng vạn dặm.

Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mã Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và về thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi. Tại sao tôi chỉ  có một mình?
Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi?  Nếu mai mốt ba tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai?  Lớn lên tôi sẽ làm gì? Tại sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông là ai?  Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để  lòng tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi còn rất nhỏ tôi đã linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố.
Tôi đã nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết những buồn đau, u uất của tôi.  Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuổi ngày ưu tư và chờ đợi một điều gì sắp đến.

Mẹ tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có ngay cả  một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng không thể  tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người thân còn sống.

Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối.  Khi nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến dòng sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung, hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.

Tôi về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm nom đừng nói gì chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi nơi tôi đã từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời chìm nổi của mình.
Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi. Tôi cầu mong mẹ phò hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an trong những ngày sóng gió sắp xảy ra.

Ôi đời mẹ như một vầng trăng khuyết
Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.
Vâng, vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như trước nữa.

Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ, không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng của hàng triệu bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang đến cả hòa bình.

Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ Việt Nam. Trong lúc tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam khác hơn nhiều.

Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho tất cả những nét đẹp của quê hương, đất nước, tình thương, còn là những hình ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan, khổ cực không thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần trên biển.
Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng dưới gốc me già trên góc phố Sài Gòn vào một ngày mưa bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô đơn trong chiếc thuyền chài nghèo nàn. Tất cả hình ảnh đau thương đó đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nổi, dù viết về bất cứ chủ đề gì, thể loại gì, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về với hình ảnh mẹ.
Mỗi bước chân tôi đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn còn nghe vọng lại tiếng khóc của những người phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa bình, khóc trong bàn tay hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.

Mơ ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước không còn hận thù, rẻ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc.

“Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của tôi, của anh chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến sinh mệnh của dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước mình.  Quá nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ Việt Nam.
Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như trở về với chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm rằm tháng Bảy này, xin hãy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và khai phóng đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm lịch sử.
Đời tôi là những cơn mưa dài.
Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong đêm đầu tiên trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi.  Nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là hố thẳm. Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường mới. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa hoàn cảnh của chính mình.

Trong cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng đã giúp vực tôi dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong cả tâm hồn. Tôi mang ơn xã hội nhiều đến nỗi  biết mình sẽ không bao giờ trả hết. Tôi biết ơn những người đã che chở tôi và cũng cám ơn cả  những người đã dạy tôi hiểu giá trị của gian lao, thử thách.
Cám ơn đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ Duy Xuyên mang tôi đến thế gian nầy, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi trong những ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa Viên Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng.
Nếu một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm của một lần ghé lại.
© Trần Trung Đạo
https://youtu.be/G2dbMya9OJw

Back to top
« Last Edit: 01. Dec 2017 , 10:08 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #51 - 07. Dec 2017 , 12:44
 
Hoài niệm xe đò

Nguồn: AnhxuaVN

Xe không chạy trên sông sao gọi xe đò? Có lần tôi hỏi nhà văn Sơn Nam khi gặp ông ở quán cà phê vỉa hè trước Nhà Văn hóa quận Gò Vấp cách nay hai mươi năm. Trong chiếc áo sơ mi cụt tay, khuôn mặt ốm nhăn nheo màu bánh ít, mắt đăm chiêu sau cặp kiếng dày, ông thủng thỉnh trả lời theo kiến giải của mình. Đồng bằng Nam bộ sông nước chằng chịt, ngày xưa phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò ghe, cho đến thập niên ba mươi, người Pháp thành lập vài hãng xe chở khách đi miền Tây. Thời ấy đường bộ chưa phát triển, xe đến bến khách phải chuyển tiếp bằng đò ghe nên người ta gọi là xe đò cho tiện.
Nghe vậy thôi, sau này tôi tìm hiểu thêm chút ít, biết rằng người Bắc gọi xe đò là xe khách hoặc xe ca, còn người Trung lại gọi xe đò giống như người Nam. Một số người giải thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi miền Trung là người Sài Gòn nên “xe đò” trở thành phương ngữ chung cho tiện. Và rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi nhà văn nhắc tới kỷ niệm thời học sinh trung học từng đi xe đò từ Rạch Giá về Cần Thơ mà ông có nhắc lại trong tập “Hồi ký Sơn Nam”: “…Tiền xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi như tôi chỉ tốn có 6 cắc. Tôi lên xe ngồi để người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho gọn, khép nép, chung quanh xe là nhiều người rao hàng để hành khách ăn buổi sáng vì buổi trưa mới đến bến Cần Thơ. Tôi còn nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc, rất tủi thân vì trong khi ấy gia đình khá giả dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành cho trẻ con rộng rãi hơn) lại dành cho con một cái bánh bao to để ăn dọc đường. Xe khách bóp kèn inh ỏi, chạy vòng quanh để tìm kiếm khách…”.

Nhưng điều thú vị nhất là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò do người Pháp làm chủ toàn là loại xe nhỏ chở khách chừng hơn hai mươi người. Nhưng chỉ một thập niên sau, người Việt mình giàu có tham gia mở công ty lập hãng, nhập cảng máy, khung gầm từ châu Âu châu Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại lớn chở hơn năm chục hành khách, cạnh tranh ác liệt trong giai đoạn đường bộ được mở rộng và phát triển ở các tỉnh miền Tây và Ðông Nam Bộ. Giao thông kết nối khắp nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều, tạo thành thời vàng son của xe đò. Chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm miền Nam, xăng dầu khan hiếm, bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số hãng xe hoạt động cầm chừng và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động. Sơn Nam kể: “Xe ô tô chở khách phải dùng “ga”, hiểu là than củi tràm, bỏ vào cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau. Trước khi cho xe nổ máy thì quạt cho than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe chạy, gọi “Autogène”, theo mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài Gòn”.

Hình ảnh chiếc xe đò nhỏ chạy bằng than đốt trong cái thùng phía sau xe được lặp lại từ năm 1975 đến 1985, chắc người Sài Gòn tuổi trung niên trở lên đều biết rõ. Tôi từng đi loại xe sử dụng nhiên liệu này, mỗi lần chui vào cửa xe phía sau là đều phải cẩn thận với cái thùng than cháy nóng được treo dính ở đuôi xe. Thường thì người ta chỉ cải tiến xe đò lỡ – tức là loại xe Renault cũ xì từ giữa thập niên 50. Tuy giới lái xe gọi đó là xe đò hỏa tiễn nhưng nó chạy chậm hơn xe chạy xăng hoặc dầu. Có lúc xe chạy ì à ì ạch khi than cháy không hết, lơ xe phải dùng thanh sắt mở lò đốt cời than. Hoặc thỉnh thoảng gặp đường vồng xóc, than văng ra khỏi cửa thông không khí, rớt xuống đường cháy đỏ rực. Vô phúc cho chiếc xe đạp nào chạy phía sau tránh không kịp, cán phải cháy lốp xe. Xe đò hỏa tiễn chạy những đường ngắn như Sài Gòn – Long Khánh, Chợ Lớn – Cần Giuộc – Gò Công, Sài Gòn – Long An, còn xe đò dài vẫn chạy bằng xăng dầu, nhưng không còn nhiều như trước. Trên mui phía đầu xe thường có thùng phuy nước dùng để làm nguội máy, kế tiếp là nơi chở hàng hóa, xe gắn máy, xe đạp cho khách buôn chuyến và khách đi tỉnh xa.
Tôi còn nhớ mãi lần đầu được đi xe lô về quê bên ngoại ở Càn Long, Trà Vinh. Năm đó tôi chín tuổi, đi cùng với người anh bà con. Xe lô có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và Bến Chương Dương. Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe đò khác khắp nơi trong thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường phố. Phòng vé là một cái quầy hay cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe, chạy lộ trình nào. Riêng xe lô không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống cứ lên, đủ người thì bác tài chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn màu đen, kiểu xe ô tô chở chừng bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành khách. Xe lô chạy nhanh hơn xe đò vì không bắt khách dọc đường, không lên xuống hàng hóa cồng kềnh, lại có khi qua cầu tạm không cần bắt hành khách xuống cuốc bộ. Ðể gió lùa vào cho hỉ hả đám hành khách ngồi chật cứng như nêm, lại thêm giỏ xách túi bị, va li lỉnh kỉnh, bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt lại, người ngồi phía sau ngó ra phố phường. Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh tươi hai bên đường, lòng cảm thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông trở cẳng vì bị ngồi bó gối.
Nói là đi xe lô thì hành khách không cần xuống bộ qua cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải xuống cuốc bộ như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có mà “lô ca chân” theo lời hát của một tuồng cải lương trên truyền hình. Sau năm 1968, cuộc chiến ngày càng ác liệt, cầu đường nhiều nơi bị “mấy ổng” gài mìn phá hủy, có nơi phải dựng cầu tạm, đầu cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh hay cảnh sát. Ðường về Trà Vinh chỉ hơn 160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ Thuận. Ði xe lô cho được nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ, huống hồ chi hành khách đi miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón đò về nhà ở vùng U Minh, Miệt Thứ mất cả ngày đường. Chỉ có xe thư tức là xe đò làm nhiệm vụ giao nhận thư từ bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu tiên, không phải lụy phà hay bị cảnh sát xét hỏi. Bây giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh, ghế nằm thoải mái cho khách đường xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe, lại còn tặng thêm nước uống, khăn ướt lau mặt. Xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai con sông Tiền và sông Hậu, tôi ngồi xe Mai Linh chạy một lèo về tới chợ Cà Mau chỉ mất sáu tiếng đồng hồ. Nếu không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì xe đò là phương tiện đi đường xa tương đối rẻ tiền.

Bến xe đò Petrus Ký năm 1950 – Nguồn: AnhxuaVN
Trước năm 1975, Xa cảng miền Tây là bến tập trung các xe đò về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần Giuộc, Gò Công, Lý Nhơn, về sau bến xe này gộp lại với Xa cảng miền Tây mở rộng thành Bến xe miền Tây nằm trên đường Kinh Dương Vương quận Bình Tân. Còn bến Miền Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung và phía Bắc trên đường Petrus Ký trước kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao nguyên và Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài năm chuyển về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng yên vị tại Bến xe miền Ðông trên đường Ðinh Bộ Lĩnh hiện nay. Nhưng nghe đâu hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên Q. 9 để có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho nhu cầu ngày càng tăng. Sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến Bến xe An Sương, bến này đúng ra có xe đi Tây Ninh – Bình Phước – Bù Ðăng, Bù Ðốp vùng Tây Trường Sơn, nhưng cũng có xe đi vài tỉnh thành của cả ba miền, do hai bến xe miền Ðông và miền Tây nhỏ hẹp.
Bến xe đò trên đường Nguyễn Cư Trinh trước 1975- Nguồn: Anhxuavn
Ai cũng có kỷ niệm lần đầu đi xe đò. Mỗi chuyến xe chuyên chở nỗi niềm hoài niệm. Có người nhớ chuyện tiền vé như nhà văn Sơn Nam. Có người lòng phơi phới nhìn thấy phong cảnh đồng lúa xanh tươi chạy dài bên quốc lộ như tôi. Cũng có người nhớ mùi mồ hôi, mùi xăng dầu giữa nắng gió miền Trung. Nhớ bến bãi ồn ào í ới ngày xưa. Và cũng có người tuổi đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe lửa Bến Lức, Tân An thuở xa lắc xa lơ.
ST

Back to top
« Last Edit: 07. Dec 2017 , 12:45 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #52 - 10. Dec 2017 , 00:26
 
Hành phương nam

Không biết tên tác giả

Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây

Câu thơ trên tôi bắt gặp ở nhà anh bạn không thân quen cho mấy trước 75.
        Ừ thì hãy đảo qua anh bạn quen nhưng không thân này một chút, số là gặp anh ở quán xá và chỉ biết anh học Sư phạm ban Sử địa. Anh người Nam giuộc, tôi Bắc kỳ đặc, gần nhau qua nhang đèn khói thuốc vậy thôi. Vậy mà gặp buổi mây chiều gió sớm, một ngày cận Tết, ghé nhà anh cuối con ngõ cụt để nói chuyện gì đó, Vừa ngồi xuống, từ bàn học nhìn ra sân có mấy chậu mai vàng đang nở rộ, vướng víu vào mắt là một xấp giấy và hai câu thơ ngay trang đầu. Chưa kịp vén miệng búi bấn, anh giấu biến xấp bản thảo vào ngăn kéo rồi giục giặc là đang xuôi dòng sử Việt với những cuộc di dân vào miền Nam. Sau đấy không biết nói chuyện gì ngoài chuyện giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây là rủ anh ra quán. 

       ***
       Một chút ngày cũ, một thoáng cảnh xưa, ấy vậy mà đã 30 năm có hơn. Một chiều cuối năm, nghe người bạn sử qua đây làm một chuyến dối già. Tôi đến đón anh. Cớ sự gì đến đón anh ư? Ừ thì hãy lực đực qua…”cái tôi” một tí. Chuyện là những năm tháng ở bậc trung học, tôi lậm với hai bộ môn sử ký, địa dư. Nay đất khách quê người cùng bóng ngả đường chiều, thiên cổ chi mê tôi lại ngụp lặn trong một cõi u u minh minh của nghìn năm mây bay với Lý, Trần, Lê, Nguyễn, cùng những nơi chốn khuất nẻo…
     Nhớ lại câu thơ ngày nào năm ấy mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự với mắc chứng gì “ông” ở lại? Tôi lái xe và hỏi. Vừa rồi tôi đổi danh xưng, vì anh có mái tóc đã hoa râm hay hơn tôi ba, bốn tuổi chả biết nữa nên tôi buộc chỉ chân voi gọi là…ông chăng. Mái tóc thưa dài của ông quay sang tôi và lặng lờ:
       - Tôi ở lại để làm nhân chứng cho một khúc quanh lịch sử.
       Mệt ông này quá, tôi nhủ thầm vậy. Qua khuôn mặt phẳng lặng, hẻo mọn và ông lọ mọ tiếp…Ông lại có lối nói chuyện có hơi rối, hơi ngúc ngắc:
       - Sông có bến đục bến trong, bên bồi bên lở. Dòng sông cứ miệt mài lở bên này bồi bên kia. Muốn đổi dòng phải đợi ba trăm năm. Dòng sông Gianh vơi chiều dài của lịch sử cũng bằng những năm tháng ấy. Sông miệt mài chẩy từ thuở khai thiên lập địa, đã chứng kiến, đã chuyên chở bao số phận của con người, của đất trời.
       Yên ba giang thượng sử nhân sầu xong, ông châm thuốc lá. Khi rày người tôi cứ thủng ra về chuyện một dòng sông. Chuyện khỉ ho cò gáy gì đâu chả biết nữa, khi không tôi lưỡi đá miệng một đoạn văn sử mà tôi hong hanh nhớ được với nhà Nguyễn qua một địa danh khuất nẻo. Chả là theo ai đấy nơi chốn phân chia đất của Trịnh-Nguyễn là thung lũng sông Gianh (1) chứ không phải sông Gianh. Vì ranh giới từ sông Gianh trở ra đèo Ngang thuộc Đàng Ngoài. Khi Nguyễn Hoàng gần đất xa trời đã dặn dò con: “Phía bắc có sông Linh Giang (sông Gianh) nhỏ hẹp, nếu thế lực không địch được thì cố thủ để giữ đất đai”. Nên sau các nhà chúa đã cố giữ vùng đất từ sông Gianh trở vào tới sông Nhật Lệ thuộc Đàng Trong. Đào Duy Từ xin chúa Tiên đánh Đồng Hới để lấy Đèo Ngang làm ranh giớimới. Vì thế mới có Lũy Đồng Hới, dân tình gọi là “Lũy Thầy” vì xem ông như bậc thầy.
       Chuyện đâu vẫn còn đó vì có “ông thầy” đang ngồi cạnh ngay đây, lát nữa tính sau. Bỗng ông hỏi tôi hút thuốc không, tôi trả lời tôi mua chiếc xe thổ tả này để…hun khói. Ông cười dín. Sợi râu miệng ông rung rinh, tan loãng theo khói thuốc nổi trôi với chiều thứ sáu vừa tan sở làm về, cái đầu chầy giành tôi bơ bả đến một cái quán nào đó.

       Trở lại chuyện ông chọn ở lại để làm nhân chứng cho một khúc quanh lịch sử mà bây giờ có mặt ở nơi chốn này, và đang đứng bên lề lịch sử. Mà cứ theo sử gia Fustel de Coulanges với “Lịch sử là gì?”. Câu trả lời ngắn gọn: “Lịch sử là chuyện kể của kẻ chiến thắng!”. Lại nữa, nghe hơi nồi chõ ông ra Hà Nội “làm việc” một thời gian với sử gia, nhà khảo cổ Trần Quốc Vượng nên tôi mượn dịp hỏi ông chuyện khảo sử này kia kia nọ…
      Khói…Khuôn mặt ông hững hờ xa xôi hẳn. Qua khuôn mặt ngập khói của môi trường điền dã, bia đá, gạch ngói, một thế giới ngựa xe, lời thơ, giá sách. Tôi quay cửa kính xuống một khe nhỏ. Ánh mắt ông cắt ngang vùng đất “Hòa Bình, Đông Sơn”. Ông chép miệng tách một cái thật nhỏ: “Khó nói lắm, thưa anh”. Đang nhìn đường lái xe, nhưng mắt tôi vẫn bạ vào ông. Khóe mắt ấy cho tôi biết môi ông còn lay động sau câu nói. Tôi nói với ông đi tìm một quán rượu hay một tiệm ăn cho dễ nói chuyện. “Tiệm ăn đi”. Ông cười, mắt cười theo. Cung cách ấy như thân quen từ lâu, mà thật ra chỉ mới gần nửa giờ. Tôi chọn bàn hai người gần lò sưởi để đốt lò hương cũ những chuyện vừa rồi. Nhìn cái lò sưởi, ông bậm bạm ắt hẳn là “cái bếp tủ” để nướng…”bò lụi”, Hiểu ý ông nhưng tôi cũng lậu bậu: “Lửa và củi đều giả cả đấy, thưa ông”. Dường như ông tảng lờ, người bạn sử miền Nam thân già vác dùi nặng với…khúc củi giả tới…bốn ngàn năm có hơn:
      - Với sử gia ta thi Tàu là gương mẫu, vì họ cố công đào bới đẩy lùi lịch sử từ nhà Thương, nhà Ân ngược lên vài thế kỷ nữa. Sau Genève, các sử gia và nhà khảo cổ miền Bắc được đào tạo từ Liên Xô, và Tàu, với các chuyên viên đàn anh viện trợ, họ lục lọi trong các tầng đất để lập ra một chuỗi tiền sử có tên là Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun cho phù hợp với 4000 năm văn hiến. Và nhiều khi còn hơn nữa…tới 5000 năm, thưa anh.

      Vừa lúc người nữ tiếp viên mắt xanh tóc vàng mang ra chai Beaujolais và nghiêng chai rượu để ông thẩm định, ông nói câu gì đó rồi gật đầu, rượu mở, nâng ly. Người bạn sử miền Nam, mắt ông vẫn cắt ngang ở lằn ngang không gian “Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun” nhưng vẫn gật gù: “Hết ý” rồi dàng dênh:
      - Khoa khảo cổ học và sử học đã biến thành công cụ tuyên truyền để gây lòng tự tín dân tộc. Họ chỉ làm theo định hướng, nghĩa là thời Hùng vương phải rực rỡ, trong chuỗi tiến trình tiến hóa lịch sử qua những khám phá đào sới.
      Cầm ly vang lắc lắc cho nó…thở, ông thở ra, và nhấp một ngụm. Đụn lại trong tôi những địa danh hoang sơ, hoang địa mãi tận miền Bắc xa xôi…Nhìn bình hoa giữa bàn mầu vàng như muốn giãy nảy lên vì hơi rượu, khói thuốc. Tôi trang trải với ông bôn ba sang đây nhiều năm, mỗi lần thấy hoa đào nở trên báo Tết, tôi lại nhớ cánh mai vàng của miền Nam hai mùa nắng mưa rộ cả một góc sân nhà ông năm nào. Người bạn sử miền Nam hết nhìn tôi, nhìn hoa và ông cười, mắt cũng cười theo.
      Như miền Nam mưa đấy cũng nắng ngay đấy, ông nắng với mưa:
      - Vâng. Nhưng không phải tôi hay ai. Chuyện là chuyện của lịch sử và đất nước. Về sử học, mình phải nghiêm chỉnh hơn. Trước sau gì cũng phải có một “dự kiến lịch sử”.
      Tôi chưa kịp hiểu ông định nói gì. Nhấp thêm ngụm vang, ông…dự kiến thế này đây:
      - Để tồn tại, người Việt phải mở đường Nam tiến xuống phía nam theo bờ biển qua dãy Hoành Sơn. Đó là điều kiện sống còn của dân tộc, và đó cũng là vận mệnh lịch sử từ thế kỷ thứ X cho đến nay trải qua triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn.
       Ở miền Trung nước ta ngày nay, Chiêm tộc xây dựng đất nước, khởi thủy quốc hiệu là Lâm Ấp. Vì đất nước một bên núi, một bên biển, thiếu đất cày cấy, cho nên họ ngó lên các châu phương Bắc như Giao Châu, Nhật Nam, không ngớt đem quân lên xâm lấn và họ đã chiếm huyện Thọ Linh nay là Thừa Thiên. Sau bị nhà Đường đem quân xuống tấn công, người Chiêm lui vào Quảng Nam bây giờ, đổi quốc hiệu là Chiêm Thành từ đấy.
      Người bạn sử miền Nam lụi đụi ngược dòng lịch sử…
      Nhà Tiền Lê với Lê Đại Hành lên ngôi sai sứ sang giao hảo bị vua Chiêm bắt giam sứ nên manh quân đánh báo thù. Dọc theo dẫy Hoành Sơn, Lê Đại Hành chiếm được Quảng Bình đến Đèo Ngang, rồi rút quân về. Nhà Lý, Chiêm Thành sang quấy rối ven bể, Lý Thường Kiệt mang quân vào sâu đất Chiêm Thành, tới tận Quảng Trị và ngừng chân ở đây. Và cũng như nhà Tiền Lê, nhà Lý cũng không nghĩ đến việc mở mang bờ cõi.
      Nhà Trần, Chiêm Thành đem chiến thuyền xâm nhập vào vùng biển. Trần Thái Tông thân chinh đi đánh, chiếm đất Thừa Thiên đến đèo Hải Vân. Sau vua Trần gã công chúa Huyền Trân cho Chế Mân để kết thân, Chế Mân dâng sính lễ là hai châu Ô, châu Rí (3).
     Người bạn sử miền Nam đào xới đất đai để vật lên phong thổ chí…                                                      
     Nhà Hồ đem quân đánh Chiêm Thành, vua Chiêm phải dâng đất Quảng Nam (4) để bãi binh. Như vậy theo dãy Hoành Sơn (Đèo Ngang) vào đến Quảng Nam, người Việt đã mở rộng lãnh thổ của mình xuống 3/5 lãnh thổ Chiêm Thành. Chính sách di dân của người Việt ta chỉ thật sự bắt đầu với họ Hồ. Hồ Hán Thương cho làm con đường thiên lý từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa, như thế đủ thấy về sự khai khẩn quốc thổ của nhà Hồ.
     Nhà Hậu Lê, Chiêm Thành lợi dụng nước ta trải qua chiến trận với nhà Minh nên đem quân đánh phá. Lê Thánh Tông sắp đặt một trận đại quy mô để Chiêm Thành kiệt quệ. Thắng trận Đồ Bàn (Bình Định) (5) kinh đô của Chiêm Thành, và chiếm Quy Nhơn



Quảng Bình….Hoành Sơn….Phan Rang

Công cuộc Nam tiến được tiếp nối với nhà Nguyễn, từ nhà Lê, người Việt đã chiếm được 4/5 đất đai. Nhà Nguyễn chỉ dành chiếm phần còn lại của họ từ Tuy Hòa đến Phan Rang, mảnh đất cuối cùng của Chiêm Thành thuộc Bình Thuận ngày nay, thưa anh.

      ***
      Đợi tôi rót thêm ly vang. Mặt ông đỏ cay đỏ cợt. Mắt vắt qua khung cửa sổ ngoài kia, bóng tối và trời đất đang lùng nhùng. Ông cười hậc một cái và ngầy ngà:
      - Gần đây trong sách vở họ hay dùng thuật ngữ ‘’sử gia duy vật biện chứng tiến bộ Mác Lê’’ và ‘’sử gia phong kiến’’ (Việt Nam). Họ dùng duy vật biện chứng để dựng sử Việt, nhưng họ không biết Phong kiến gồm hai chữ "phong tước" tức ban quan tước và "kiến địa" tức ban đất đai. Phong kiến chỉ chế độ vua phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất để lập lãnh địa, với quân lính, luật lệ và thuế má riêng. Thể chế này có thời nhà Chu bên Tàu, ở Việt ta không có chế độ phong kiến mà chỉ có chế độ quân chủ.
     Địa là đất, tôi đang to hó với lãnh địa, kiến địa thì đổng đểnh thế nào chả biết nữa mắt ông vắt qua…hòn giả sơn mãi tận ở Hải Dương, đất khởi nghiệp của nhà Mạc:
      - Như anh biết đấy, bằng vào giai thoại cụ “An Nam lý học hữu Trình truyền” giữa họ Mạc đối đầu với họ Trịnh. Mạc Mậu đến hỏi cụ ở khoảnh sân có hòn non bộ, cụ nói "Cao Bằng tuy thiểu, khả năng sổ thế", ý là Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dung thân được mấy đờị.
      Cóc lại đòi đi guốc, tôi nhai văn nhá chữ với ông ít lâu sau, cụ Trạng cũng chống gậy ra khoảnh sân ấy, cũng ngắm hòn giả sơn đó, nhìn đàn kiến đang "leo núi" có cây tùng, cây bách bé con con và bầy kế cho Nguyễn Hoàng: Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân(2). Nhà chúa hiểu ý bèn xin Trịnh Kiểm vào trấn thủ Thuận Hóa bắt đầu cuộc hành trình về phương Nam xa vạn thẳm. Trong cơn đồng thiếp với chữ nghĩa, tôi vấy vá với ông là thay vì Mạc Mậu, cụ Trạng…lỡ dại xúi Nguyễn Hoàng ngược lên Cao Bằng thì lịch sử đã rẽ qua một khúc quanh khác, thì ông và tôi đã không lêu bêu ở miền Nam sáng nắng chiều mưa…
      Làm như không nghe tôi đang theo bước chân phù lãng nhân trong cõi ngu lạc trường, ngón tay khẽ gõ lên mặt bàn, đầu ông gật gù…
      - Vâng, theo tôi Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nghi vấn của lịch sử. Vì sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, Nguyễn Kim đi tìm con út vua Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, tức chúa Chổm, tôn làm vua. Để mưu đồ đại sự, Nguyễn Kim thu nạp Trịnh Kiểm. Khi ấy nước nhà chia làm hai: từ Nam Định trở ra của nhà Mạc, tức Bắc triều. Từ Thanh Hóa trở vào thuộc nhà Lê, tức Nam triều. Theo sử cũ sau khi Nguyễn Kim mất, để lại hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng. Trịnh Kiểm sợ cả hai sau này có thể tranh dành địa vị với mình, vì thế Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ bị Trịnh Kiểm giết. Nguyễn Hoàng sợ đến lượt mình, nhờ người tới hỏi trạng Trình như các sử gia vừa…“diễn sử” ở trên.
      Vẫn chưa hết chuyện trạng Trình, trạng Bùng Phùng Khắc Khoan không biết nên theo Nam triều, hay ở lại với Bắc triều. Họ Phùng tìm Nguyễn Bỉnh Khiêm hỏi han sự thể thế sự thăng trầm quân mạc vấn này nọ, Nguyễn Bỉnh Khiêm dậy: "Lê tồn, Trịnh tại; Lê bại, Trịnh vong". Trạng Bùng ngầm hiểu ý tôn sư đã đến lúc phải vào xứ Thanh với nhà Lê. Người sau chê trách trạng Trình bấm độn biết nhà Mạc soán ngôi nhà Lê, lại không tồn tại mà vẫn làm quan với nhà Mạc. Sau đấy lại đẩy đưa học trò thay mình phò Lê.
      Nghe thủng xong, tôi ngẫm ngợi há lại có cái lý ấy sao? Mà hỏi làm gì cho rách cuyện! Vì từ Thăng Long mò xuống Hải Duơng đi bộ, cáng võng cũng nhiêu khê lắm chứ bộ. Lại nữa, chắc gì thơi cụ Trạng đã có…hòn non bộ với ngư tiều canh độc. Bèn nói dám với ông:
      - Vậy thì những giai thoại của cụ Trạng…
      Ông lại gục gặc đầu, mắt ngầy ngật như mắt thầy bói, ngón tay lại gõ lên bàn…
      - Thì anh cứ cho là như…“Sấm Trạng Trình” vậy, thưa anh.
      Đang rối loạn tiền đình với giai thoại Nợ như chúa Chổm để Thăng Long có ngõ Cấm Chỉ gần sịt ngõ Trạng Trình, làm như ăn mày cầm tinh bị gậy ông dẫn dắt tôi…lạc đường vào lịch sử. Người bạn sử miền Nam rẽ ràng…
     Sử kiện Trịnh Kiểm ám hại Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa theo tôi cũng là nghi án của lịch sử. Bởi lẽ không như các sử gia viết sử…”liệt truyện”.
      Sử nhà Nguyễn không nói chi tiết việc tranh chấp quyền hành và cho là: Trịnh Kiểm tranh đoạt quyền hành nên ám hại ông. Viết như thế chẳng hợp lý chút nào! Vì khi ấy, Nguyễn Uông mới chỉ hai mươi, nào có quyền hành gì để Trịnh Kiểm tranh chấp? Tại sao Nguyễn Uông bị giết quan trọng như thế lại được chính sử nhà Nguyễn ghi là “khuyết sử”? Vì vậy, ta chỉ có thể kết luận cái chết của Nguyễn Uông không rõ ràng, thiếu chứng cớ mà nhẽ ra phải có. Vì vậy ta nên xem sự kiện ấy là một nghi án lịch sử mà thôi.
      Người bạn sử miền Nam chung chiêng chống chếnh…
      Còn tại sao Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa? Câu hỏi này không khó trả lời: Vì sau cái chết của Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng cầm quân chống nhà Mạc, lập được chiến công, được thăng Đoan Quận công. Sau khi Nguyễn Uông chết, ta không có chứng từ gì việc Nguyễn Hoàng ở vào tình thế khó khăn để phải "tìm chỗ dung thân". Chuyến đi của Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa không phải là chuyến đi lánh nạn của một người cùng đường. Vì Trịnh Kiểm tỏ ra không phải là người nhỏ nhen, nên đã cho phép thân bằng quyến thuộc theo vị tân trấn thủ vào Nam. Ấy là chưa kể đồng tình cho hai quan trấn thủ hai trấn Thanh Hóa và Nghệ An mang quân lính theo vào Thuận Hóa tới hơn một ngàn người. Việc sau này Nguyễn Hoàng trở ra Đông Đô gả con gái út Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, cháu nội của Trịnh Kiểm. Tiếp đến việc con thứ Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên được vào trấn thủ Quảng Nam thì mới có…miền Nam như anh vừa…“dự kiến lịch sử”, thưa anh.
Rút điếu Craven “A” mang từ bên nhà qua để đó, mắt ông vắt ngang cái đàn dương cầm, một nhạc công ngồi đấy đang chơi nhạc. Ông nói nhạc Jazz của người da đen nghe ai oán Nam Ai, Nam Bình như dân Chàm mất nước, theo Vương Hồng Sển nào khác gì vọng cổ với Dạ cổ hoài lang. Ấy vậy mà phán quan Tố Hữu đã xuống câu sề “tắt đèn” cải lương, hát bội của những người miền Nam. Thế là tỏi rồi! Tôi thầm nghĩ vậy và bẻm mép hỏi khi ra Hà Nội…“hành sử” ông có dậy cóc đi guốc, dậy khỉ leo cây chăng. Người bạn sử miền Nam lừ đừ như ông từ vào đền, với năm tàn tháng lụn, ông dắt trâu chui qua hàng rào:
     - Họ đặt cái cầy trước mũi con trâu, các nhà khảo cổ đã lập ra chuỗi tiền sử Phùng Nguyên, Đồng Đậu phù hợp với một thời Hùng Vương rực rỡ rồi. Nay đến phiên sử gia dựa vào “trường phái Marxist”, sử gia miền Bắc theo trường phái này chủ đích là: Biện chứng sự hình thành xã hội, phân tích vai trò của giai cấp để tạo nên lịch sử.
      Tôi im thin thít như thịt nấu đông bởi những nhà biên khảo, sử học trong nước hiện nay đang vặc nhau như mổ bỏ vì văn hóa Phùng Nguyên chưa được giải quyết thoả đáng, vì họ chỉ nhắc đến nó như một giả thuyết đã từng có và của ai đó. Họ dựa vào học giả Nhật Nitta Ejji, nhà khảo cổ học Ý Rispoli dẫn chứng: Những di chỉ ở Vân Nam cùng có hoa văn “chấm-vạch dài” và gợi ý văn hóa Phùng Nguyên có thể có nguồn gốc từ bên…Tàu.
      Như không hay biết những gì tôi đang bối rối như sư đẻ, lấy hộp quẹt diêm cầm tay...
       - Với giai cấp để tạo nên lịch sử như Lê Lợi với giai cấp nông dân, họ đề cao Nguyễn Huệ gốc anh hùng áo vải nên được coi như là quốc sách. Bởi thế có đến 1620 công trình viết về nhà Tây Sơn. Vì họ đánh lận con đen ông Hồ cùng gốc gác với Hồ Quý Ly. Với họ thì: ”Việc Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, việc giành lấy ngôi vua một triều đại phong kiến đã suy tàn là hợp quy luật”.
Làm một hơi xong, ông hững hờ nhìn ra ngoài cửa sổ và thở ra khói...
       - Không những thế, những nhà dựng sử miền Bắc không tiếc lời chê trách nhà Nguyễn là tay sai cho thực dân Pháp nên họ cấm viết về sử nhà Nguyễn từ năm 1956 đến 1958. Đến Phan Thanh Giản và sử gia miền Nam còn bị vạ lây, Viện trưởng Viện Sử học là Trần Huy Liệu đã bôi nhọ trí thức nói chung và sử gia miền Nam nói riêng: Tất nhiên khi chép về sử kiện Phan Thanh Giản cắt đất dâng cho xâm lược Pháp thì trí thức và sử gia miền Nam đã vô liêm sỉ coi đó không phải là chuyện phản quốc.

Học thói sử gia Fustel de Coulanges: “Sự thật của lịch sử là gì? Sự thật của lịch sử là quả cầu tròn, mỗi người chỉ nhìn được một phía”. Nói dại chứ! Chứ thiên cổ chi mê tôi chả dại đứng về một phía sử gia Mác-Lê hợm chữ chửi người vắng mặt như mắng người chết như vậy. Thảng như lời lẽ nặng nề, mạt sát, thiếu hẳn phong cách của người viết sử, thảng như: “Tối tăm, cực kỳ phản động, hủ lậu, mục nát, mù quáng, cực kỳ ngu xuẩn, v…v...”.
  Tôi đang động tình đến đây, ông động não tiếp…
     Người muốn tìm hiểu sử học nghiêm túc, khi viết một điều gì không phải chỉ cho người cầm bút mà còn phải viết cho người đọc. Viết sử không chỉ là việc sắp xếp các sự kiện lịch sử suốt cả ngàn năm như sử biên niên mà phải đưa ra những sai trái của tiền nhân, ngay cả với các sử quan. Nếu không, người đọc sử riết rồi bị uốn nắn, thuần hóa vào quan điểm của sử quan. Vì sử quan, sử gia trở thành người viết sử cung đình bóp méo lịch sử tạo nên chính sử, hay viết sử để xây dựng thể chế, chế độ. Nay cũng thế, như trong lần phát biểu tại Paris năm 1988, Nguyễn Văn Tạo, Viện trưởng Viện Sử học tuyên bố: Chúng tôi không viết sử để làm công trình sử học mà là để góp phần xây dựng chế độ mới. Vì vậy, sử trở thành sử phong thần, vì với nhà Nguyễn với chính sử, hay miền Bắc với sử phong thần chỉ có hai loại người là minh quân, ’’bác Hồ vĩ đại’’ và đối nghịc là ngụy quân, ngụy quyên.
      Người bạn sử miền Nam cười. Ông cười bằng mắt…
      Ấy vậy mà để xây dựng chế độ họ ’’bài bản’’ theo triều đại phong kiến nhà Nguyễn cũng đốt sách tàn dư của ngụy quyền. Theo một nhà biên khảo nào đó thì: ’’Nào có khác gì nguyên mẫu của bản sao Gia Long vì nhà Nguyễn có tha gì mà không đốt sạch dấu vết nhà Tây Sơn còn sót lại được gọi là Nguỵ tây”. Ngoài ra theo Đại Nam chính biên liệt truyện, chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát dành vùng Thủy Xá và Hỏa Xá để ‘’cải cách’’ và ‘’tạo dựng’’ nơi ăn chố cho người Chiêm Thành mất đất. Vì vậy ngay cả hai chữ...cải tạo họ cũng vay mựợn từ thời…’’phong kiến’’. Nhưng lịch sử là một chuỗi móc xích tiếp nối, để không khỏi không nhắc đến sử kiện Minh Mạng sai Trương Minh Giảng đánh Cao Miên. Nhà Nguyễn bắt nữ vương Ang Mey đưa về Gia Định quản thúc, sau đó bầu đoàn thê tử cận thần quan lại của Cao Miên bị đưa ra Bắc tập trung cho tuyệt hậu hoạn, thưa anh.
Lúc này tôi cứ u mê ám chướng những gì vừa rồi ông sắm nắm: ’’người viết sử không phải chỉ cho người cầm bút mà còn cho người đọc’’. Chả là chăn trâu nhân thể dắt nghé, tôi lây lất qua một nhà sử học miền Nam nặng lòng với sử Việt có câu Cô vọng ngôn chi mà tác giả diễn giải là: Hình như lời người viết sử nói chuyện với…ma. Tác giả tiếp: Hóa ra khi đọc sách, người ta chỉ đọc những gì muốn thấy. Khoan nói tới nhưng gì phía sau các dòng chữ ấy. Vừa lúc nghe câu ’’Nhà Nguyễn bắt nữ vương Ang Mey quản thúc’’. Là người đọc, thiên cổ chi mê tôi cũng muốn đẽo chữ chặt câu…nhưng gì muốn thấy phía sau các dòng chữ ấy. Vì vậy kịp khi ông thông sử như thông khói xong, tôi cô vọng ngôn chi với ông…
      Ừ thì với lịch sử là một cuộc tái diễn không ngừng với 140 năm sau, đoàn người thất trận từ phương Nam ngược về phương Bắc, nơi sơn lam chướng khí bên dẫy núi Hoàng Liên Sơn để bị quản thúc. Nơi mà thân bằng quyến thuộc của Nặc Ông anh, Nặc Ông em đã bị tập trung ở đấy từ bao thế kỷ trước. Để rồi lịch sử sang trang với cuộc chiến Nam Bắc, cũng ở nơi đây với tù binh là ngụy quân, ngụy quyền bỏ xác bên sườn núi đìu hiu hoang vắng. Được thể tôi lùi nhùi qua cuộc nội chiến Nam Bắc của người Hoa Kỳ, tại làng Appomattox, tướng Robert E, Lee tới để bàn thảo việc đầu hàng, tướng Ulysses S, Grant đưa ra bản thảo ngắn gọn như hàng binh không bị bắt làm tù binh. Sau đó điền trang của tướng Lee trở thành nghĩa trang Arlington, nơi chôn cất chung của tử sĩ hai miền Bắc Nam.
      Mưa không ướt đất nắng không ấm đầu, khi không tôi chầu văn hầu bóng với người thơ Lá hoa cồn hay “Trung niên thi sĩ” họ Bùi:
      Sử lịch sai trang
      Chạy quàng
      Là lịch sử…
Đợi tôi ngập ngụa trong cõi mụ mị đâu vào đấy rồi, ông…như thị ngã văn:
     - Vâng, lịch sử đã sai trang, với những gì vừa rồi mà tôi vừa bương bả được phần nào hay phần ấy, chỉ là tương đối thôi, thưa anh.
      Lại vẫn khuôn mặt phẳng lặng, hẻo mọn, ngập khói môi trường điền dã, bia đá, gạch ngói, dường như ông đang quay quả trở về một thế giới ngựa xe, lời thơ, giá sách. Chợt ánh mắt ông cắt ngang không gian “dẫy núi Hoàng Liên Sơn tới Thuận Hóa”…
      Nguyễn Hoàng đặt chân tới vùng đất Thuận Hóa có thế đất "Nhất hổ trục quần dương - Tiên vi tướng, hậu vi vương" hy vọng mạng đế vương muốn được truyền tử lưu tôn đời đời kế thế. Vì thế nhà chúa lấy một phần đất Chiêm Thành lập ra tỉnh Tuy Hòa (phủ Phú Yên). Chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát chiếm thêm đất Phan Rang (phủ Bình Thuận). Từ đấy nước Chiêm Thành mất hẳn. Nhưng công việc Nam tiến của nhà Nguyễn vẫn chưa xong, vì thế chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã kết thân với vua Chân Lạp bằng cách gả công chúa Ngọc Vạn (6) cho Chey Chetta II. Chúa Nguyễn xin cho dân Việt được làm ruộng và buôn bán trên vùng đất mà ngày nay là Sài Gòn.
      Và ông cổ lỗ rị mọ:
      - Bây giờ tên Sài Gòn đã đi vào …cổ sử rồi, cũng…lịch sử lắm chứ nhỉ, thưa anh.
Người bạn sử miền Nam vừa nói, ánh mắt vừa như cắt ngang những đường phố Sài Gòn của một thời một thưở, ở một nơi chốn nào đó có con đường Nguyễn Hoàng khuất vắng, hẻo lánh và dường như ông đang hòa nhập về một vùng hoang vu thái cổ…

                                     ***      
      Dụi điếu thuốc, người bạn sử miền Nam thấm giọng chút rượu, ông ve vé mắt quanh chỗ ngồi. Lúc này tôi mới buông tuồng ngoài cái công khai phá, khẩn hoang ra tiệm ăn được…“hút thuốc lá” này. Ông gà gưỡng: “Hết ý” và cười cười.
      Nhưng sau cặp kính, mắt ông không cười. Sợi râu bạc rung rung...
      - Nghĩ đến hành trạng dựng nghiệp và dấu tích của Nguyễn Hoàng (7) đến cửa Việt, Quảng Trị, Ái Tử đúng năm 34 tuổi. Chúa Tiên ở đất này 59 năm, dân cảm ân mến đức vì chợ không hai giá, không có ăn trộm, cửa không phải đóng. Thuyền buôn ngoại quốc đều đến buông bán, quân lệnh nghiêm túc, vì vậy dân trong xứ đều được an cư lạc nghiệp.
     Trong khi tôi đang ngồi hổng người ra vì bây giờ tên Sài Gòn đã đi vào quá vãng, từ nghĩa trang Arlington tôi định vất vưởng qua nghĩa trang Biên Hoà đang hoang phế với cỏ cây. Làm như có đồng cảm, nhìn cái lò sưởi đốt củi “gas” đang chập chờn những tia lửa xanh, vàng như nhìn miếu đền xưa cũ. Trong một thoáng giây, ông dáng người thiên cổ thế đấy, nhưng lúc này thần thái gồ ghề như biến đi đầu mất cả, ông tha ma mộ địa…
      Với dấu tích trên đất Quảng Trị không thể không nhắc đến ngôi miếu do cư dân ghi ơn lập nên ở xã Gio An, huyện Gio Linh (7), sau khi nhà chúa qua đời. Thành thử, khi đi điền dã, cụ Trần Quốc Vượng quàng vai cái máy xén cỏ để chuẩn bị phát cây, dọn dẹp lối vào. Đi tìm dấu tích xưa với tâm thức của những người về nguồn, như vào đất Thục.
     Đường vào đất thờ chúa Tiên chạy xuyên qua vỉa tầng văn hóa trầm tích. Tôi liên tưởng đến những công quả của chúa Tiên dành cho Gio Linh. Trước khi đi vào Thục địa ở đây, tôi có linh cảm mách bảo rằng nơi này dù hoang phế nhưng vẫn còn những di tích hiếm hoi còn lưu lại, chẳng hạn như những gạch cũ. Quả vậy, với cầi máy xén cỏ của cụ Vượng rà rà hiện ra một trụ đá ăn sâu vào nền đất, mặt trụ hình tròn.
Back to top
« Last Edit: 10. Dec 2017 , 00:27 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI / TÀI LIỆU XÂM LĂNG VĂN HOÁ
Reply #53 - 16. Dec 2017 , 09:24
 

Tài Liệu liên quan đến chiến lược xâm lăng văn hóa

"Mất đất có thể lấy lại được nhưng mất văn hóa là mất tất cả" Lời Cổ Nhân.
Bài đọc suy gẫm: Bá quyền Văn Hóa kiểu Trung Quốc, tác gỉa Đoan Trang, Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa. Hình dưới: Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, một trong 4 tiểu thuyết nổi tiếng của người Trung Hoa được dựng thành phim với những tài tử thượng thặng như Lưu Đức Hòa của Hồng Kông...đặc biệt, trong phim có sự hợp tác của Lý Mỹ Kỳ, cô đào đang ăn khách, nổi tiếng của Holywood có mẹ ruột là người Việt Nam.
Nhìn vào độ chiếm sóng của phim Trung Quốc trên các đài truyền hình ở Việt Nam, nhiều người lo ngại về khả năng Việt Nam bị “đồng hóa” bởi anh bạn láng giềng. Khả năng đó có thật, và nó là biểu hiện của một hình thức bá quyền tinh vi: bá quyền văn hóa - một phần quan trọng trong chính sách bá quyền của nước lớn, một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ.
* "Giai điệu chủ"
Câu chuyện bắt đầu từ năm 1987...
Tháng 3-1987, Bộ Phát thanh - Truyền hình Trung Quốc triệu tập một hội nghị gồm đại diện của tất cả các đơn vị sản xuất truyền hình khắp cả nước. Tại đây, Bộ cảnh báo về xu hướng "giải trí hóa" phim ảnh trên sóng truyền hình, đồng thời đưa ra chính sách mới: tích cực, chủ động dồn lực sản xuất những bộ phim "giai điệu chủ" nhằm mục đích truyền bá lịch sử, văn hóa, tư tưởng và thẩm mỹ của Trung Hoa tới mỗi người dân Trung Quốc và thế giới.
Chính sách này phân loại phim truyền hình thành một số thể loại chính, nằm trong một khái niệm chung mà Chủ tịch Giang Trạch Dân gọi là "giai điệu chủ":
• Dòng phim về những đề tài mang tính thực tiễn, ca ngợi người tốt việc tốt - gọi chung là phim "thần tượng tuổi trẻ"hoado
• Dòng phim cổ trang, gồm phim lịch sử ("Tam Quốc Diễn Nghĩa", "Vương triều Ung Chính", "Khang Hy", "Thái Bình Thiên Quốc"…), dã sử ("Tể tướng Lưu Gù", "Hoàn Châu Cách Cách"...)
• Dòng phim gia tộc luân lý ("Mùa quít chín", "Gia tộc Kim Phần"…)
• Dòng phim cách mạng, dựng lại ngữ cảnh thời xưa ("Khát vọng", "Câu chuyện Thượng Hải"…) hoặc tái hiện chân dung những nhân vật nổi tiếng (Tôn Trung Sơn, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình…)
• Dòng phim hình sự, chống tham nhũng ("Xứng danh anh hùng", "Khống chế tuyệt đối"…)
Những phim này được Nhà nước hỗ trợ nhiều mặt, chẳng hạn ưu tiên chiếu ở các đài địa phương lớn vào giờ vàng.
Đặc biệt, chúng nằm trong kế hoạch tuyên truyền của Nhà nước: Tất cả các phim, chỉ trừ dòng hình sự, chống tham nhũng, đều được hỗ trợ xuất khẩu, nhằm mục đích cao nhất là phổ biến "giá trị Trung Hoa" tới các quốc gia trong khu vực.
Trong số những nước mà Trung Quốc hướng tới, Việt Nam nổi lên như một tiền đồn, bởi "đây là nước Đông Nam Á duy nhất chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc thay vì văn hóa Ấn
Độ", như lời tác giả Hạo Kiện viết trong cuốn "Phim truyền hình Trung Quốc - nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu loại hình" (NXB Điện ảnh Trung Quốc, 2008).
Phần lớn các phim "giai điệu chủ" đã được giới thiệu ở Việt Nam, khán giả nước ta chẳng xa lạ gì với chúng. Các phim đều được xuất khấu với giá hết sức ưu đãi sang Việt Nam, thậm chí một số phim cho không (như "Khát vọng", "Tây du ký", "Vương triều Ung Chính") theo thỏa thuận hợp tác giữa các đài truyền hình hai nước.
* Ồ ạt "xâm lăng văn hóa"
Song song với việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa, nhất là phim truyền hình, sang các nước trong khu vực mà đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc cũng tiến hành "Trung Hoa hóa" các sản phẩm của những nước này.
Bất chấp việc giới truyền thông Việt Nam đưa tin đậm về những phim hợp tác giữa hai nước như "Hà Nội Hà Nội" hay "Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong", các bộ phim này chưa bao giờ được ưu tiên chiếu giờ vàng trên sóng truyền hình của bất cứ đài nào ở Trung Quốc. Ví dụ, "Hà Nội Hà Nội" chỉ được phát trên đài tỉnh Quảng Tây, Nam Ninh vào lúc… đêm khuya thanh vắng. Với nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình nổi tiếng đến từ các nước khác, Trung Quốc thực hiện làm mờ tính nước ngoài của chúng. "Vua Kungfu" (Forbidden Kingdom) dù là phim của Mỹ và từ đạo diễn đến quay phim, phục trang đều là người Mỹ, nhưng khi đến đại lục, phim mặc nhiên được giới truyền thông nhào nặn thành sản phẩm Trung Hoa.
Các ngôi sao châu Á của Hollywood cũng bị "Trung Hoa hóa" tương tự. Khán giả Trung Quốc nói riêng và châu Á nói chung dễ lầm tưởng rằng Dương Tử Quỳnh (Michelle Yeoh, sinh tại Malaysia, học ở Anh, thành danh trên đất Hong Kong, Maggie Q. (Lý Mỹ Kỳ - mẹ là người Việt Nam) là người đại lục.
Trung Quốc cũng khéo léo lờ đi chuyện quốc tịch của nhiều diễn viên nổi tiếng trong nước họ: Hầu như rất ít người biết rằng ngôi sao Trương Thiết Lâm mang quốc tịch Anh, Tư Cầm Cao Oa là người Thụy Sĩ, Ninh Tĩnh là người Pháp, còn mỹ nhân Chương Tử Di gốc gác Hong Kong.
(Ngoài lề: Một vụ việc đặc biệt có liên quan đến Việt Nam, nhưng không thuộc lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, là cuốn "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" của Giáo sư Đài Loan Hồ Tuấn Hùng, phát hành tháng 11-2008. Trong cuốn sách, tác giả cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh chính danh là Hồ Tập Chương, nguyên là một người Khách Gia [Hakka, tiếng Việt gọi là người Hẹ], tức thuộc Hán tộc.)
* Điều gì nằm sau chiến lược xuất khẩu văn hóa của Trung Quốc?
Một nước lớn với dân số hùng hậu như Trung Quốc khó mà chấp nhận tầm ảnh hưởng ít ỏi ở thế giới. Và trên con đường "trỗi dậy hòa bình" để trở thành bá quyền ít nhất là trong khu vực, Trung Quốc mau chóng nhận thấy sức mạnh của văn hóa - thứ "quyền lực mềm" đầy quyến rũ.
Chẳng riêng Trung Quốc biết điều đó. Như một nhà nghiên cứu người Hungary, Márkus Péter, đã viết: Trong lịch sử quan hệ quốc tế, thoạt tiên, khi không có sự khác biệt đáng kể trong kỹ thuật, sức mạnh chân tay - quân sự thô kệch còn chiếm vai trò chế ngự. Thế kỷ 16-
19, những mối quan hệ kỹ thuật - kinh tế từng bước chiếm ưu thế. Từ thế kỷ 20, văn hóa và truyền thông bắt đầu lên ngôi.
Bên cạnh kinh tế và quân sự, các quốc gia sẽ thực hiện cả tham vọng gây ảnh hưởng và lấn át các nước khác trên bình diện văn hóa, tư tưởng. Sau Chiến tranh Lạnh, ở châu Âu, bên cạnh ngoại giao về chính trị và kinh tế, thì ngoại giao văn hóa ngày càng nở rộ, và dần dần sẽ trở thành hình thức bá quyền chủ yếu.
Pháp và Đức là hai quốc gia rất chú trọng tới vấn đề "bá quyền văn hóa" này. Các hoạt động “xuất khẩu văn hóa” của họ được tiến hành mạnh mẽ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó ngay tại Việt Nam: Chương trình hoạt động thường niên của Trung tâm Văn hóa Pháp (L’Espace) và Viện Goethe sôi nổi hơn hẳn so với Hội đồng Anh (British Council) hay Viện Cervantes của Tây Ban Nha.
Và đến đây thì chúng ta cũng có thể nhận thấy những hình thức ngoại giao văn hóa mà Trung Quốc đang tiến hành đối với Việt Nam, trong nhiều ví dụ thực tế. Phim truyền hình Trung Quốc chiếm sóng các đài ở Việt Nam, cả trung ương lẫn địa phương. Khán giả thuộc sử Trung Quốc hơn sử Việt Nam. Các ca sĩ thời thượng rành rẽ về trang phục của đời Thanh và chắc chắn là sẽ không trả lời được câu hỏi vua chúa nhà Nguyễn ngày xưa ăn mặc như thế nào.
Ngay trong giới trí thức, tâm lý sùng bái văn hóa Trung Hoa đã rất nặng. Một số đông trí thức Việt Nam có thể dễ dàng trích dẫn các điển tích, điển cố của Trung Hoa thay vì của phương Tây hay thậm chí của chính nước mình. Nói tới văn hóa Trung Hoa là nói tới một nền văn học với những tác phẩm vĩ đại, tới triết học thâm sâu, tới sân khấu kinh kịch có sức sống trường tồn, tới điện ảnh với những nhân tài mà ngay cả Hollywood cũng phải kiêng nể.
Điều này không sai, tuy nhiên, cái đáng nói ở đây là nhiều trí thức Việt Nam luôn vị nể quá mức thay vì đặt văn hóa Trung Hoa vào tương quan đúng mực với các nền văn hóa khác trên thế giới - cũng rực rỡ và vĩ đại như thế.
Khái niệm bá quyền văn hóa - tư tưởng mãi tới thập niên 30 của thế kỷ 20 mới ra đời (1). Trên thực tế, Trung Quốc đã thực hiện bá quyền văn hóa - tư tưởng với láng giềng Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Ngày nay, với sự phát triển của truyền thông, dường như cuộc "xâm lăng văn hóa" này diễn ra một cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn bao giờ hết.
* Vấn đề đến từ phía những kẻ "bị xâm lăng"
Bá quyền không đơn thuần là sức mạnh bạo lực, vì vậy, để có được bá quyền, không thể thiếu được cách cư xử mang tính đồng thuận, chấp nhận và góp phần của những kẻ bị bá quyền.
Riêng trên địa hạt văn hóa - tư tưởng, các học giả nghiên cứu về bá quyền văn hóa đều cho rằng bá quyền văn hóa, nếu được thực hiện, không thể thiếu sự đồng thuận một phần hoặc toàn thể của kẻ bị bá quyền.
Như thế, việc Trung Quốc tiến hành bá quyền văn hóa thành công còn phụ thuộc cả vào cách cư xử của nước bị bá quyền, ở đây là Việt Nam.
Điều đó nghĩa là Việt Nam cần có thái độ và ứng xử phù hợp. Chẳng hạn, nên có sự trao đổi văn hóa song phương với Trung Quốc một cách tương xứng.
Việt Nam có thể thỏa thuận các chương trình trao đổi văn hóa với Trung Quốc, theo đó, đồng thời với việc nhập khẩu các sản phẩm văn hóa của nước láng giềng, Việt Nam sẽ xuất khẩu văn hóa theo hướng ngược lại, xuất bản sách, tổ chức những ngày văn hóa, tuần văn hóa Việt Nam... tại Trung Quốc.
Theo một thống kê (3) được công bố trên tờ "China Daily", năm 2004, Trung Quốc nhập khẩu 4.000 đầu sách từ Mỹ, nhưng chỉ xuất khẩu 14 đầu sách sang nước này; nhập 2.000 đầu sách từ Anh, nhưng chỉ xuất sang đây 16 đầu sách. Từ năm 1999 đến năm 2002, hơn 280 đoàn nghệ thuật Nga biểu diễn ở Trung Quốc, trong khi chỉ có 30 đoàn nghệ thuật Trung Quốc sang biểu diễn tại Nga. Giai đoạn 2000-2004, Trung Quốc nhập khẩu trên 4.000 phim và chương trình truyền hình, nhưng xuất khẩu không đáng kể. Dòng phim "giai điệu chủ" hầu hết chỉ tiêu thụ được ở khu vực Đông Nam Á mà trong đó Việt Nam là "tiền đồn".
Đã đành Nga, Mỹ và Anh là ba nước lớn nên Trung Quốc không dễ tiến hành bá quyền văn hóa như với Việt Nam. Nhưng ngay cả một quốc gia nhỏ bé ở Đông Âu là Hungary - diện tích chỉ bằng một phần ba Việt Nam, dân số 10 triệu - thì cũng từng tổ chức Năm Văn hóa Hungary tại Trung Quốc (2007-2008), và dựng tượng đại thi hào dân tộc Petőfi Sándor ở Thượng Hải.
Những thông tin này có gợi cho chúng ta một suy nghĩ gì chăng?
Đoan Trang
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #54 - 16. Dec 2017 , 09:26
 
HÁN HÓA

Từ Thức
16 / 12 /2017

Đang viết một bài về hiện tượng Hán hoá ở VN. Nhưng bối rối : nhiều dữ kiện quá, nhiều chuyện quá, không biết lựa dữ kiện gì.
VN đang trở thành Tàu, người Việt đang dần dần biến thành người Tàu mà không hay. Hoặc, tệ hơn nữa, hay nhưng nhắm mắt, chép miệng nhìn nơi khác.
Trung Quốc đang Hán hoá VN trên mọi mặt. Với sự đồng lõa của nhà nước. Trước sư thờ ơ của chúng ta.
Văn hóa, với những Hội Khổng Học, những hội hữu nghị văn hoá, với sách báo , phim ảnh.
Kinh tế, với hàng hoá tràn lan, những hợp đồng dành độc quyền cho Tàu. Một ‘’ coup de grâce ‘’( đòn kết liễu ): Jack Ma sẽ tiêu diệt những gì còn lại là thương mại thảm thương của VN .
Lãnh thổ, với những vùng, những tỉnh, những khu đã trở thành Tàu. Biên giới, càng ngày càng co lại, với những đoàn người, hàng hoá Tàu tự do ra vào như chỗ không người. Nhiều nơi, người Việt nói tiếng Tàu, dùng tiền Tàu để buôn bán, để sống còn.
Hành chánh. Chính quyền đã ký những hiệp ước đào tạo cán bộ lãnh đạo song phương. Nghiã là Trung Quốc sẽ lựa chọn, sẽ huấn luyện những quan thái thú cai trị VN. Bởi vì chuyện VN huấn luyện cán bộ lãnh đạo nước Tàu là chuyện khôi hài, không biết nên cười hay khóc.
VN đã tự Hán hóa trước khi bị xâm chiếm.
Trước khi viết bài, muốn hỏi đó có phải là cảm tưởng của các bạn, hay chỉ có trong trí tưởng tượng của tôi ? Nhất là các bạn sống trong nước : bạn có cảm tưởng mình, nước mình , đang dần dần tự biến thành Tàu ?
Chờ ý kiến, nhất là những điều mắt thấy tai nghe của bạn
Back to top
« Last Edit: 16. Dec 2017 , 09:27 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #55 - 16. Dec 2017 , 09:28
 
KHÔNG PHẢI LÀ CHUYỆN ĐÙA
Việt Nhân
Phạm Ngọc Thanh lấy cớ nơi y đang làm phó sở giáo dục là thành phố phát triển với số lượng người nước ngoài, cư trú làm việc và học tập nhiều nhất so cả nước, rất nhiều người trong số đó mong muốn được học tiếng Việt, để sinh sống và làm việc được thuận tiện, nên thành Hồ của y sẵn sàng là thí điểm giảng dạy Tiếq Viêt. Nói là để cho người nước ngoài dễ học mà thay đổi, chắc chắn không ai tin mồm mép thằng vịt cộng này!

Còn Bùi Hiền, không là thần kinh, không là dốt, mà đây là làm theo chỉ thị xóa sổ Quốc ngữ của đảng An Nam cộng, trong chủ trương cướp nước và Hán hóa dân tộc Việt. Thời điểm bắt tay vào nghiên cứu là từ ba mươi năm trước, đó cũng là lúc mật ước Thành Đô (1990) được ký kết. Lại thêm cái ồn ào bênh vực cho thấy chúng là số đông (PGS.TS Lê Đức Luận, TS Nghiêm Thúy Hằng, TSKH Đoàn Hương), chúng dựng Bùi Hiền như là ông thánh đáng tôn trọng!

Chúng chửi những ai ném đá việc ‘cải tiến’, Đoàn Hương nói: Không thể đem việc ấy ra hỏi ‘cái đám quần chúng thiếu hiểu biết ấy được’ (VTV3 28/11/2017). Cho thấy rồi đây chúng sẽ làm! Đảng Ba Đình vẫn thế, năm 2011 dân phản đối chuyện đem chữ Tầu vào dạy học sinh bốn tiết một tuần, và hôm nay chúng đã làm xong, trẻ nhỏ đang bị ép học tiếng Tầu… Lũ Ba Đình khi tung ra một vấn đề gì đó, không là để đón nhận ý kiến, mà là chúng tập cho dư luận quen với vấn đề, còn chúng vẫn cứ việc đã định mà làm, thừa biết dư luận sẽ mệt mỏi rồi buông tay.

Chữ viết của dân Việt đã một lần thay đổi, từ ban đầu những sách vở tài liệu Văn học sử được viết bằng chữ Hán hay Nôm đã được chuyển qua chữ Quốc ngữ của hơn ba trăm năm trước khi các Giáo sĩ Công giáo đến nước ta. Công việc phiên âm tiếng Nôm bằng các âm thể của mẫu tự Latinh, trong đó Alexandre De Rhodes là công đầu trong việc tạo dựng chữ Quốc Ngữ mà hôm nay chúng ta đang dùng, kết quả lần đầu tiên là cuốn Tự Điển Việt-Bồ Đào-Latinh, được Giáo sĩ Alexandre De Rhodes biên soạn, và cho xuất bản vào năm 1651.

Tiếp theo sau đó, cách viết Quốc ngữ vẫn được tiếp tục hoàn chỉnh, cùng với những cải cách của Pineau de Behaine mà cuốn Từ điển Việt-Bồ-La được xuất bản năm 1772, cứ thế Quốc ngữ tiếp tục hoàn chỉnh, sự trong sáng đã theo thời gian ngày càng hơn cho tới hôm nay. Vào thời điểm sự ra đời của chữ Quốc ngữ, cái may mắn của dân Việt là song hành trong việc hoàn chỉnh chữ Quốc ngữ, các học giả người Việt chúng ta nối tiếp nhau đã làm tốt công việc chuyển đổi, khá nhiều những tài liệu Văn hóa Lịch sử dân tộc, cả từ chữ Hán lẫn Nôm sang Quốc ngữ.

Sau khi Quốc ngữ được phổ biến, Chinh Phụ Ngâm Khúc (征婦吟曲) tác phẩm văn vần của Đặng Trần Côn ra đời trong khoảng năm 1741 (thời Cảnh Hưng), đã được dịch ra thơ Nôm, và bản chúng ta đọc hôm nay, là nó đã được một lần nữa chuyển sang Quốc ngữ. Cũng tương tự một cách ấy là Truyện Kiều (chữ Nôm: 傳翹), tức Đoạn Trường Tân Thanh, truyện thơ thể lục bát của Danh nhân Văn hóa thế giới Nguyễn Du (1766-1820), đã được Pétrus Trương Vĩnh Ký năm 1875 in bằng Quốc ngữ, để rồi sau đó được địch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài khác.

Và còn nhiều nữa… Tuy vậy không là dễ để chuyển hết, có rất nhiều di cảo hàng ngàn năm, viết bằng Hán lẫn Nôm của cha ông, phải đành mai một đó là điều không thể tránh khỏi sau một sự đổi thay lớn, cũng như người đọc được chữ Nôm nay đã vắng dần. Lần đầu chuyển từ Hán Nôm sang Quốc ngữ, với tâm huyết gìn giữ gia sản văn hóa ông cha, mà cũng bị mất mát, thì lần này nếu thay đổi xảy ra, chắc chắn Văn hóa Việt sẽ không còn nữa. Nguyên do lũ An Nam cộng sẽ cấm không cho chuyển dịch, đơn giản là chúng muốn xóa sổ Văn hóa Việt!

Người Việt sẽ học cách viết mới, đương nhiên chỉ để đọc những gì đảng cho lưu hành, phương tiện in ấn trong tay đảng, chỉ cho phép xuất bản những gì là của đảng, mọi tài liệu văn hóa lịch sử cũ tự nhiên rụi tàn, đó là điều chắc chắn. Chuyện đã xảy ra, rập khuôn như miền Bắc chỉ được phép lưu hành những gì là của đảng, mà tất cả sách vở giáo dục, tài liệu văn hóa bao đời của ông cha, được trân quý giữ gìn bởi người miền Nam, đã bị đem đốt ngay sau Tháng Tư Đen, chỉ vì nó không là của đảng mà mang tội văn hóa đồi trụy, nhiều sách quý nay đã không còn vết.

Thay đổi cách viết lần này không như lần trước từ Hán Nôm, vì sẽ không có chuyện chuyển dịch bất cứ một tài liệu văn hóa nào, xét thấy không có lợi cho đảng, kể cả những gì lịch sử dù là thật nhưng nhạy cảm, những trang chính sử ghi lại các cuộc chống quân xâm lược truyền kiếp phương Bắc, cần phải xóa để cho hai nước sáp nhập vào làm một. Đã có rồi vì sợ phiền lòng quan thầy phương Bắc, mà bia ghi công Vua Quang Trung trên núi Dũng Quyết (Nghệ Tĩnh), hay những bia ghi lại chứng tích các trận chiến 1979 nơi sáu tỉnh biên giới đã bị đảng đục bỏ.

Cái gọi là ‘cải tiến’ cách viết, cho thấy đây là đốt sách không cần lửa, những sách mà đảng gọi là phản động theo thời gian sẽ rụi tàn, không khác gì trường hợp những tài liệu ghi bằng chữ Nôm, và người đọc được những sách đó đã không còn mấy. Rồi đây dân xã nghĩa được học Tiêq Việt, và chỉ đọc được những gì đảng phổ biến vì nó in theo lối mới, để mà biết Hai Bà Trưng đã dâng kiếm chuộc lỗi trước đền Mã Viện, và gọi Lý Thường Kiệt đánh Tống là hỗn. Dân Việt được dạy Hồ là cha già dân tộc, cội nguồn Việt từ giống Hán mà ra!

Không đọc được Chính Sử dân Việt (chống Tầu), chỉ đọc mỗi sử xã nghĩa! Những tài liệu tố cáo tên tội đồ bịp bợm Hồ chí Minh, hay cái đảng bán nước An Nam cộng, lúc đó vô dụng không đọc được thì không biết thế thôi… Không đọc được ‘Một cơn gió bụi’ thì sao biết được Hồ có một đứa con gái với Đỗ Thị Lạc, các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, không cần tịch thu, không cần cấm, không cần đốt, có ai biết đọc đâu mà lo, còn có đem đến cho, thì họ cũng đem bán ve chai để gói xôi, không biết đọc thì đâu biết giá trị, chuyện trân quý là cái không có.

Xin đừng coi chuyện đảng Ba Đình, đang thực hiện ‘cải tiến’ cách viết tiếng Việt là chuyện nhỏ, nó không hề nhỏ, đừng thấy cái ngố của Bùi Hiền mà cười, không cười được đâu, đây là chúng muốn xóa sổ cả một nền Văn hóa dân tộc, lý do chúng đưa ra rất ngô nghê, việc làm của chúng vụng về của loài ngu dốt, nhưng lại rất tai hại, cái mới được đưa ra, cái cũ lui vào bóng tối, thì chuyện tự rụi tàn của cái cũ xảy ra là lẽ tự nhiên thôi.

Xin mọi người hãy nhìn rõ đây là âm mưu cướp nước Việt, Hán hóa dân Việt của lũ giặc phương Bắc, với sự tiếp tay của đảng An Nam cộng, dùng cái gọi là cải tiến cách viết tiếng Việt để che dấu ý đồ xóa chữ Việt, hầu xóa luôn lịch sử lẫn nền văn học sử đất nước. Đến nước này không còn chần chờ được nữa, chần chờ là chết!

Xin nhớ cho họa diệt vong của dân tộc gần kề, mà đảng và nhà nước Ba Đình chính là kẻ nội thù, đang cố đẩy đất nước và dân tộc Việt đi đến chỗ diệt vong, phải chung tay đập tan đảng Ba Đình bán nước!

VIỆT NHÂN (HNPĐ)
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #56 - 14. Jan 2018 , 08:04
 
NGƯỜI VIỆT ĐÁNG YÊU
Từ Thức
T.
T là người khó tính. Kêu một tô phở ở tiệm ăn, đòi ớt hiểm, giá sống, hành trần, đòi thêm nước phở thật nóng, thật béo. Chê bánh phở vữa quá, hay dai quá, thịt bò không đủ tái hay không đủ chín, rau thơm không thơm, chanh không chua.

Cô hầu bàn không tươi cười ( mình có ra hầu toà đâu ? ), hay quá thân mật ( mình có phải là bạn của họ đâu ? ) . Ăn xong, không để một xu tiền ‘’ tip ‘’, phủi đít đi, hiên ngang.
Vào một tiệm ăn Mỹ, T nín khe. Kêu thịt bò tái, nó nghe loạng quạng, mang thịt chín, cháy đen. Chép miệng : ‘’ thôi, không sao’’.

Vui vẻ ăn, khen ngon. Muốn hạt tiêu, lọ muối, ngần ngừ, không dám kêu, sợ làm phiền. Không sao, tiêu, muối báu gì, chỉ hại sức khỏe, tăng áp huyết.. Ăn xong, để lại tiền tip, sộp hơn 15 % như thông lệ ở Mỹ . Cho nó nể mình.
H.

Hẹn với H . H viết một bài báo rất hay về thói hay đi trễ, tới trễ của người Việt. Dưới mọi góc cạnh văn hoá, xã hội, kinh tế..Và kết luận : nếu người Việt giữ thói đó, sẽ không khá được, vì làm ăn ở xã hội văn minh không thể lè phè như xã hội đồng ruộng.

Hẹn 9 giờ. Mười giờ rưỡi, H tới. Tươi cười, ung dung, không xin lỗi, không giải thích. Hỏi, ân cần : khoẻ không ?

A,B,C

Đưa một số thân hữu của những người bị nhà nước VN làm khó dễ lên gặp các tổ chức nhân quyền của Pháp : Reporters Sans Frontières, Amnesty International, Human Rights Watch vv..Họ tận tình giúp, hết lòng, hết sức.

Dặn đi dăn lại, khi về, việc đầu tiên là viết vài chữ cám ơn họ. Nếu không quen viết tiếng Pháp, tiếng Anh, cứ viết tiếng Việt, sẽ có người dịch.
Viết cám ơn, vì đó là một sự lễ phép tối thiểu. Và họ rất cần những thư cám ơn, để chứng minh hoạt động của họ.
Ai cũng hứa. Chưa thấy mặt mũi một nửa chữ cám ơn. Các hội đoàn nhận được thư cám ơn từ khắp nơi, nhưng từ VN, rất hiếm. Nghĩa là không hề có.
N
Ngồi lai rai với N. Chợt N. giật nẩy, hốt hoảng : chết mẹ, quên vụ ra mắt sách của thằng L. Nói quên thì đã sao, cả nước in sách, ngày nào không có chuyện ra mắt sách. N trả lời : khổ một cái tui là vedette américaine ( tài tử chính ), người giới thiệu sách.

Hối hả trèo lên xe. Tới nơi, hỏi : ông đã soạn bài giới thiệu chưa ? N nói : bận tâm làm gì cái vặt ấy, sẽ ứng khẩu. Hỏi : sách nó nói về cái gì ? Đáp : bố ai biết, nó cho một cuốn, đã mở ra đâu. Thì giờ đâu đọc ba cái đồ quỷ đó

Ban tổ chức thấy N, mừng quá : chỉ chờ ông thôi.
N trịnh trọng lên diễn đàn, ca ngợi cuốn sách. Viết rất công phu, văn phong rất độc đáo, đóng góp lớn cho văn hoá hải ngoại nói riêng, văn hoá VN nói chung.     ( quên mất văn hóa thế giới ).

Tác giả thỏa mãn, xúc động ra mặt. Tự hứa sẽ về viết vài cuốn nữa. Cử tọa hoan nghênh nhiệt liệt, vì bài nói chuyện rất kêu, bay bướm. Với những chữ, những câu rất văn hoa. Có thể dùng cho bất cứ một buổi ra mắt nào, bất cứ cuốn sách nào. Hôm sau, báo địa phương khen : buổi ra mắt sách thành công mỹ mãn

( trích bài CHÂN DUNG NGƯỜI VIỆT, đang viết dở )

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #57 - 14. Jan 2018 , 08:09
 
Chuyện thật ở thủ đô Hà Nội 

Vũ Xuân Tráng

Tôi đi Hà Nội một tháng, gặp một số chuyện “độc” chỉ có ở thủ đô, mang về làm quà kể cho bạn nghe. Kể từng chuyện nhé. 

* Niềm tin & quốc tịch
  Chồng chị là đảng viên. Chị cũng đảng viên, cả hai đều là đảng viên thứ gộc. Họ làm ăn rất tài và phất rất nhanh. Hết mua bán đất đến mua bán nhà, rồi mua bán chung cư, rồi đến chơi chứng khoán. Đầu tư quả nào trúng ngay quả đó.

Một hôm, chị nói với tôi rằng, “Chị vừa mua thêm căn hộ ở Singapore, em ạ.” Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chị nói như thế. Trước đây, tôi có nghe kể rằng chị đã mua một ngôi nhà ở Australia và một ngôi nhà nữa ở Mỹ, bang Cali hẳn hoi. Nghĩa là cho con đi du học ở xứ nào thì chị mua nhà cho chúng ở xứ đó. Trước để khỏi phải tốn tiền thuê nhà, khi học xong thì cũng vừa trả xong tiền nợ, và giá trị căn nhà cũng tăng đủ để sinh lời. Tuy vậy, tôi hỏi thêm cho rõ, “Nhưng chị đã có nhà ở Úc và ở Mỹ rồi thì mua thêm ở Sing làm gì?”

Chị bình thản chia sẻ thật với tôi, “Chị đầu tư mà em. Vả lại vốn vay tại Singapore cực rẻ. Chị sẽ chuyển toàn bộ tài sản ra nước ngoài luôn. Cái quy chế có chừng nửa triệu đô thì được nhập tịch ở Canada rất thoáng, nhà chị đang lo. Như thế sẽ an toàn hơn. Ở mình, giờ nhìn đâu cũng thấy bóng dáng thần chết. Từ thực phẩm cho đến xe cộ, sơ sảy chút là không toàn mạng. Thậm chí, tháng nào bọn chị cũng bay qua Singapore mua thực phẩm rồi đem về Hà Nội sử dụng dần dần. Mấy cái siêu thị ở đây cũng không thể tin được. Làm sao mà biết chắc rằng chúng không bán hàng đểu cho mình. Ăn bậy vào nếu không ngộ độc thì cũng ung thư.”

Chị lại khuyên, “Mấy đứa nhỏ ở nhà ráng lo cho chúng đi du học hết đi. Ngày xưa thì hết tị nạn chính trị đến tị nạn kinh tế, còn bây giờ thì phải kể thêm tị nạn giáo dục nữa. Mà thật ra thì thời buổi này, ở cái đất nước này, mọi chuyện đều phải tính hết, không thể ù lì chờ nước tới chân mới nhảy. Em cố gắng mà chạy cho được thêm cái quốc tịch. Dù sao có hai cái quốc tịch vẫn hơn. Lỡ có chuyện gì... thì... bay hơn 1 tiếng đã đến Singapore.”

Trời ơi, cỡ làng nhàng dân ngu khu đen như tôi thì làm sao mà… chạy thêm cái quốc tịch? Quốc tịch chứ có phải là mớ rau ế mua ở chợ chiều đâu mà dễ chạy vậy ta? Làm sao mà sống tiếp đây? Chẳng lẽ, cái xứ này đến hồi vận mạt rồi sao?

Tôi tình thật hỏi tiếp luôn, “Vậy anh chị nghĩ sao về cái vụ đảng viên của mình chứ? Đảng viên mà còn tính như thế thì dân đen như em phải làm sao? Niềm tin đặt vào chỗ nào đây?”

Chị đáp, “Chị có còn sinh hoạt đảng gì nữa đâu, có cái thẻ thì giữ cho có để khỏi bị chúng hà hiếp. Ngó tới thêm nhục! Còn ông ấy thì phải giữ vì còn phải làm việc trong bộ. Rồi cũng tới lúc phải vất thôi. Chị còn nghe thằng bé nhà chị ở Mỹ nó nói là, ở nước ngoài các chính phủ họ căng với đảng viên lắm. Thậm chí khi thi quốc tịch ở Mỹ nó còn hỏi người ta khai ra có phải là đảng viên Phát-xít và Cộng sản hay không, nếu có là phăng-teo luôn.”

Tôi thầm nghĩ, trời ơi, làm sao mà sống tiếp đây? Các đại gia, các nhà tư sản đỏ mới có điều kiện để trở thành người tiêu dùng thông thái, nhà đầu tư thông minh như thế. Ai ai cũng thủ thế và chuẩn bị bài chuồn để bảo toàn mạng sống và của cải.Thường thường bậc trung như mình, nghĩ thì cũng nghĩ tới đấy nhưng chẳng thể làm được. Thôi thì có chết thì chết chung với nhau, chết chùm cả nước, chứ có riêng gì mình. Lỡ có chuyện gì thì làm ơn… lỡ sớm sớm giùm một chút.

* Cái gì cũng “đéo”

Ngày nay hầu như ở Hà Nội người ta không còn, hay rất hiếm, nói từ “không”, mà thay bằng từ “đéo”. Ra phố thì cái gì cũng “đéo”. Từ già cho tới trẻ, nam hay nữ gì cũng vậy, cũng nói “đéo” thay cho “không”. Thậm chí, có khi bạn còn nghe “đéo” trong các môi trường lẽ ra rất lành mạnh như nhà trường. Cái gì cũng “đéo”. Nghĩa là, “đéo có cái gì mà không đéo”. Giả dụ, ở sạp báo, bạn hỏi, “Ông ơi, có báo Nhân Dân không?” / “Đéo có Nhân Dân, chỉ có Hà Lội Mới thôi!”. Kinh!

* Thịt heo tự nuôi, cho nó lành!

Xem ti-vi, thấy một chị tre trẻ ở Hà Nội đặt họ hàng ở quê nuôi heo để ăn dần cho nó an toàn, bảo đảm là heo nuôi với nguồn thực phẩm tự nhiên, không có chất “tạo nạc”.. Ai muốn ăn thịt heo thì phải ghi tên trước 8 tháng. Nhà đài VTV tường thuật như thể chị chàng kia thông minh lắm, như muốn khuyến khích mọi người theo cái gương đấy. Mình nghĩ, không chừng chắc rồi cũng tới cái lúc dân ta quay lại như thời bao cấp, cái thời nhà nhà nuôi heo, tự cung tự cấp, ủn ỉn ụt ịt trong mọi nhà, trên mọi hành lang chung cư, cho nó lành.

* “Sĩ”

Ra đây một thời gian ngắn tôi nhận ra được cái tính “sĩ” của dân thủ đô. Tôi gặp một số người cho rằng mình là người Hà Nội chính gốc, có tổ tiên hằng bao nhiêu đời làm quan của triều nhà Hồ, nhà Lê. Những người này có niềm kiêu hãnh về dòng dõi của mình, và họ khinh đám dân nhập cư từ Nghệ An, Thanh Hóa, hay các xứ khác đến sống ở Hà Nội ra mặt.
Nếu không khinh ra mặt được thì họ cũng ngấm ngầm tự hào về cái khả năng không nói ngọng nghịu, lẫn lộn hai âm “nờ” và“lờ”, và tự hào về cái giọng thanh tao (nhưng tôi nghe thì có khi chua lét) của họ, chứ không nặng chình chịch và quê mùa của người nhập cư. Họ cho rằng như thế mình mới là “sĩ”, là “kẻ sĩ”; nghĩa là, có thể nghèo, nhưng vẫn sang trọng, một cách nào đó, trong nhân cách thừa kế được từ dòng dõi nhiều đời trước

Vũ Xuân Tráng
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #58 - 04. Jun 2018 , 02:34
 
ĐẺ BỌC ĐIỀU

Coi xong truyện này, ngẫm nghĩ lại, quả là chúng ta đẻ bọc điều thật, không kể gì giàu nghèo, cứ không "bị" sống dưới chế độ Cộng Sản là đẻ bọc điều rồi.

Bạn thân mến,

Một người bạn của tôi ở Pháp vừa đi Việt-Nam về. Anh kể tôi nghe câu chuyện khôi hài... đen trong xã hội... đỏ, nghe buồn cười như chuyện... tếu! Bây giờ tôi lại mượn lời của Anh, kể lại cho Bạn nghe, để Tạp Ký tuần này được viết dưới thể văn... truyện cười ra nước mắt!

Hôm đó, anh đang bận đi dạo phố ở Hà-Nội để mua vài thứ quà lưu niệm. Xe thông tin đi khắp thủ đô quảng cáo cuốn phim “Nguyễn-Ái-Quốc ở Hông-Kông” đang chiếu tại các rạp. Tò mò, anh muốn biết dân Hà-Hội thưởng thức nghệ thuật thứ bẩy như thế nào? Anh bảo bác tài xế tắc-xi chở anh đến rạp hát sang trọng của thủ đô Hà-Nội là rạp Fansland. Xe dừng trước rạp, anh mới biết là mình lầm lẫn, vì rạp vắng như Chùa Bà Đanh. Phim nói về Hồ-Chí-Minh Nguyễn-Ái-Quốc mà người dân thủ đô Hà-Nội thờ ơ hay sao? Cụt hứng, anh vội quay lui, tìm người tài xế tắc-xi thì thấy bác ta đang đậu bên kia đường, mỉm cười rất hiền, bác bảo anh “Tôi biết thế nào ông cũng quay về. Cuốn phim đó có gì mà xem? Hôm đầu tiên chỉ bán được 24 vé. Ngày hôm sau, chỉ bán được độc nhất 1 vé, nên chủ rạp đã phải trả 1 vé này lại và không chiếu nữa.” Ngạc nhiên, anh hỏi “Dân Hà-Nội không thích xem phim nói về lãnh tụ của họ hay sao?” Bác tài đáp “Còn phải hỏi! Nếu gặp phim hay, rạp đông, chen chân không lọt.” Tò mò, anh lại hỏi “Thế rạp chứa được bao nhiêu người một suất?” Bác tài xế cười thành tiếng “Những 250 ghế cơ. Do đó, với số khách 24 người mà chiếu, cũng đủ chết chủ rạp rồi. Huống chi chỉ có 1 người.”

Trên đoạn đường về, bác tài xế nói chuyện nổ như bắp rang. Nào là nhà làm phim phen này bị lỗ nặng, vì đã bỏ ra một số vốn đầu tư với Tàu cộng sản xuất cuốn phim. Nào là phim đã quay ròng rã hai tháng liên tục ở Quảng-Đông. Nào là tên phim ban đầu được đặt là “Thoát hiểm ở Hồng-Kông” cho có vẻ ly kỳ... xã hội đen để hấp dẫn khán giả. Nhưng khi vào Việt-Nam, mấy tay cán bộ đỏ tưởng bở rằng Bác vẫn còn hấp dẫn trong quần... chúng thủ đô Hà-Nội, nên cho đổi tên phim thành “Nguyễn-Ái-Quốc ở Hồng-Kông”. Không ngờ sáng kiến này lại trở thành... ác kiến, khi người dân Hà-Nội chỉ cần nghe đến tên “Cáo già vừa dẻo vừa dai. Buôn dân bán nước cắt hai sơn hà”, đã vội đóng cửa bảo nhau tẩy chay cuốn phim. Báo hại chủ rạp Fansland tốn công, tốn của quảng cáo rầm rộ cho cuốn phim, mà không có ma nào vào xem. Trong khi trước đó cứ mừng hụt, tưởng phen này đưa tên tuổi bác ra, sẽ hốt bạc. Không ngờ chỉ cần nghe tên thây ma HCM, người dân Hà Thành đã chạy có cờ, sợ rằng lại bị chậm chân như năm 1954 thì khốn đốn!

Đến đây, anh bạn bắt chước giọng Hà-Nội của bác tài xế tắc-xi cười cười, nói “Ông biết không? Bây giờ mà có cuộc di cư như năm 1954, dân Hà-Nội sẽ đạp nhau vãi c... vãi đái ra mà lên tàu bay hay xuống tàu thủy ra nước ngoài. Dạo ấy tôi còn bé, chưa biết gì. Thế nhưng sau 1975, có ông bác vào Nam, cứ đay nghiến họ hàng trong Nam rằng “Cơ khổ! Sao bây giờ còn ở đây? Tôi tưởng vào đây sẽ không gặp một ai sất cả! Làm sao mà không chịu đi Mỹ nhỉ? Ở lại làm gì cho khổ một đời cha, ba đời con như chúng tôi đây? Các ông bà rõ thật là... dại dột hết sức!”

Anh bạn thấm thía câu chuyện của bác tài xế, lặng thinh không góp lời nào. Xuống xe, anh trao cho bác tài xế hết những đồng tiền anh vét trong hai túi quần. Gấp đôi hay gấp ba giá tiền phải trả. Bác tài xế cảm ơn và còn nói “Tôi với ông chắc cả đời chỉ gặp nhau một lần này, nhưng tôi xin nói ngay là các ông ở bên Âu Mỹ ấy, chắc kiếp trước được đẻ bọc điều. Thoát khỏi làm dân Việt-Nam cộng sản cũng như được tái sinh một kiếp khác đấy! Cố gắng làm việc phúc đức để con cháu được nhờ.”

Câu chuyện đến đây là hết. Nhưng cái “hậu” của nó còn vương mãi trong trí tôi. A ha! Bạn và tôi đang ở Mỹ, vậy thì - theo lời bác tài xế – Bạn và tôi cũng đã được đẻ bọc điều nhỉ? Điều này phải hỏi lại Mẹ tôi đã. Nhưng hỏi chuyện đời xưa với một bà cụ đã 84 tuổi, đôi tai điếc lác thì thật là khó khăn. Thôi vậy. Cứ xem như Bạn và tôi đã được đẻ bọc điều.

Thế nhưng, có nhiều kẻ sống ở hải ngoại từ lâu, mà không dám nhận là mình đẻ bọc điều đấy, Bạn ạ!

Thân mến chào Bạn,
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #59 - 04. Jun 2018 , 02:48
 
Hình như họ đã quên Gia Định?
PLO14/08/16 01:00 GMT+71 liên quanGốc
Gia Định đâu phải là nơi nào xa lắc mà nó chính là một vùng đất rộng lớn bao gồm cả Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần của Định Tường xưa, tên gọi Phiên Trấn Dinh.
Lúc ấy, tên gọi Gia định được gọi kèm với địa danh Đồng Nai: Nhà Bè nước chảy chia hai/ Ai vào Gia Định Đồng Nai thì vào.
Theo tác giả Huỳnh Minh, từ năm 1698, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh, vị kinh lược đầu tiên ở miền Nam, đã chia Phiên Trấn Dinh thành phủ Gia Định và huyện Tân Bình. Phủ Gia Định bao gồm cả vùng đất đặt dinh Phiên Trấn. Đến năm 1790, sau khi thu hồi đất Gia Định, Nguyễn Ánh cho xây thành và mệnh danh nơi này là Gia Định Kinh.
“Địa vị” và “cấp hàm” của Gia Định thay đổi theo thời thịnh trị của vua Gia Long và chiến sự. Năm 1802, sau khi công thành danh toại, vua Gia Long hạ cấp còn “Gia Định trấn” rồi xuống cấp dần dần chỉ còn “Gia Định thành”, “tỉnh Gia Định”. Từ năm 1866, Pháp bỏ tên tỉnh Gia Định mà gọi là tỉnh Sài Gòn cũng là địa bàn cũ của tỉnh Gia Định nhưng không chia thành phủ, huyện mà chia thành bảy hạt tham biện, trong đó có hạt Sài Gòn. Đến năm 1885, Pháp đổi hạt Sài Gòn thành hạt Gia Định để phân biệt với TP Sài Gòn. Và không biết buồn tình chi nữa, từ năm 1889, hạt Gia Định có tên là tỉnh Gia Định - một trong 20 tỉnh của Nam Kỳ lục tỉnh cũ.

Trường Trung học Trang trí mỹ thuật Gia Định (nay là Trường ĐH Mỹ thuật) đào tạo bao thế hệ họa sĩ miền Nam.
Dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, tỉnh Gia Định như “ôm” Đô thành Sài Gòn trong lòng - rộng 1.499 km 2 với 1.282.000 dân, chia ra tám quận là Bình Chánh, Cần Giờ, Hóc Môn, Nhà Bè, Quảng Xuyên, Tân Bình và Thủ Đức. Những thị trấn quan trọng là Bà Chiểu (xã Bình Hòa), thị trấn Phú Nhuận (xã Phú Nhuận, quận Tân Bình), thị trấn Thị Nghè (xã Thạnh Mỹ Tây)… Tòa Hành chính tỉnh Gia Định đặt tại Bà Chiểu (nay là trụ sở UBND quận Bình Thạnh). Thời đó, tỉnh Gia Định có những di tích lịch sử - văn hóa quan trọng như Lăng Ông Bà Chiểu, lăng và miếu thờ Khâm sai Nguyễn Văn Học, lăng Phú Thành và đền thờ Trương Tấn Bửu, lăng và đền thờ Quận công Võ Tánh. Và thời ấy, nữ sinh trung học Lê Văn Duyệt (nay là Trường Võ Thị Sáu) cũng nổi tiếng là học giỏi khắp vùng Gia Định, Trường Trung học Trang trí mỹ thuật Gia Định (nay là Trường ĐH Mỹ thuật) đào tạo bao thế hệ họa sĩ miền Nam, BV Nguyễn Văn Học là bệnh viện lớn nhất của tỉnh Gia Định, là nơi các bác sĩ y khoa tương lai của Sài Gòn - Gia Định đến thực tập… Cho đến năm 1976, tỉnh Gia Định hợp nhất vào Đô thành Sài Gòn để trở thành TP.HCM…
Vài dòng như vậy để thấy rằng hai chữ Gia Định đã gắn liền với lịch sử thành lập Sài Gòn và con người Sài Gòn. Dân Gia Định xưa không ai không nghe danh Gia Định Tam Gia Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh và Trịnh Hoài Đức - người đã “vẽ” lại lịch sử Gia Định - Sài Gòn qua quyển Gia Định thành thông chí, nhờ vậy người Sài Gòn -  hôm nay mới biết rõ tường tận vùng đất Nam Bộ và Sài Gòn ngày nay. Cả ba người đều là học trò cũ của một bậc túc nho tài danh Gia Định xử sĩ Sùng Đức tiên sinh Võ Trường Toản.
Đất Gia Định cũng từng là bãi chiến trường tô thắm máu đào của hai dòng họ Nguyễn đối đầu, nồi da xáo thịt. Nơi đây cũng từng là chiến tuyến oai hùng của nhân dân miền Nam chống lại giặc Pháp xâm lược. Hai chữ Gia Định suốt 300 năm qua cũng đã hằn sâu vào ký ức bao nhiêu thế hệ.
Nhưng tiếc thay, khi sáp nhập vào Sài Gòn trở thành Thành Phố như hiện nay, tên Gia Định đã mất đi và không được các cấp hàm văn hóa và lịch sử nhắc đến. Hình như họ đã quên Gia Định? May thay, người ta còn biết đến hai chữ Gia Định là nhờ rạp hát Gia Định (Cao Đồng Hưng cũ), BV Nhân dân Gia Định (BV Nguyễn Văn Học cũ) nhưng tôi cũng không hiểu tại sao lại bỏ tên Nguyễn Văn Học). Dầu sao cũng xin cám ơn ai đã để lại tên cho hai công trình thuộc loại văn hóa và y tế này.
Nên chăng trong những lúc đặt thêm tên đường, tên hẻm hay là một số công trình văn hóa gì đó, mong rằng các vị có trách nhiệm, dù không phải là người sinh ra nơi Sài Gòn hay Gia định này, xin hãy một lần nhớ đến hai chữ Gia Định cho khỏi phụ lòng đức Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh!
LÊ VĂN NGHĨA onggiaun@yahoo.com

Back to top
 
 
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11589
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #60 - 04. Jun 2018 , 08:20
 
LAM_SON wrote on 04. Jun 2018 , 02:48:
Hình như họ đã quên Gia Định?

PLO14/08/16 01:00 GMT+71
Liên quan Gốc Gia Định đâu phải là nơi nào xa lắc mà nó chính là một vùng đất rộng lớn bao gồm cả Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần của Định Tường xưa, tên gọi Phiên Trấn Dinh.
Lúc ấy, tên gọi Gia định được gọi kèm với địa danh Đồng Nai: Nhà Bè nước chảy chia hai/ Ai vào Gia Định Đồng Nai thì vào.
........

Nên chăng trong những lúc đặt thêm tên đường, tên hẻm hay là một số công trình văn hóa gì đó, mong rằng các vị có trách nhiệm, dù không phải là người sinh ra nơi Sài Gòn hay Gia định này, xin hãy một lần nhớ đến hai chữ Gia Định cho khỏi phụ lòng đức Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh!
LÊ VĂN NGHĨA onggiaun@yahoo.com



Xin cảm ơn anh Lam Sơn  smflower

Back to top
 

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #61 - 18. Sep 2018 , 00:53
 
Hôm nay , nhân ngày hơi rãnh một chút , dạo chơi ( cỡi ngựa xem hoa ) trên internet... thấy có bài viết nầy , đem về trình làng ( Xả Bình Hoà , Quận Gò Vấp , ) và chị em trong sân trường Lê Văn Duyệt , chớ không phải là trường mang cái tên lạ quắc lạ quơ như Võ Thị Sáu gì đó nhe. Bài viết nói đến việc phá bỏ cây Cầu Bông  năm xưa , mà bà con ta thuờng qua lại thường ngày.

https://dantri.com.vn/xa-hoi/sap-thao-do-cau-bong-cay-cau-lich-su-cua-sai-gon

Cầu Bông bắc qua rạch Thị Nghè là 1 trong những cây cầu đầu tiên ở vùng đất Sài Gòn - Gia Định, nay là TPHCM. Cây cầu này mang đậm dấu ấn của vùng đất Sài Gòn, đã đi vào lịch sử và thơ ca như 1 địa danh nổi tiếng.
Theo cố nhà văn Sơn Nam, cầu Bông được xây dựng vào khoảng thế kỷ 18, có sách ghi chính xác là xây dựng vào năm 1771. Trong sách Thành phố bất khuất (NXB TPHCM in năm 1984), phần đầu tiên nói về khu Đất Hộ (Đakao), tác giả Nguyên Thanh ghi lại: “Nối liền 2 vùng Đakao và Bà Chiểu là cây cầu Bông nổi tiếng. Lúc mới xây cất năm 1771, cây cầu này mang tên cầu Cao Miên, vì do một Phó vương Cao Miên lúc đó đang xin tá túc tại Bến Nghé, cho bắt qua sông để tiện việc đi lại”.

Về cái tên cầu Bông có nhiều giả thiết, nhưng giả thuyết được nhiều nhà nghiên cứu vùng đất Sài Gòn nói đến nhất là sau khi Tả quân Lê Văn Duyệt xây dựng 1 vườn hoa xinh đẹp gần cầu này thì dân gian bắt đầu gọi là cầu Hoa. Sau này, người dân phải đọc trại thành cầu Huê vì kiêng tên bà Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị (triều Nguyễn). Sau cùng, người dân Sài Gòn đổi hẳn tên cây cầu này là cầu Bông (bông là hoa theo cách gọi của người miền Nam) cho đến nay.

Ban đầu cầu này được làm bằng gỗ, nhỏ và ngắn nhưng khá nổi tiếng của đất Sài Gòn - Gia Định. Thế nên trong tập Cổ Gia Định vịnh có câu: “Cây Da thằng mọi, coi bán đủ thuốc xiêm cau mứt/ Cái cầu Cao Miên, thấy làm nguyên cột vắp ván trai”. Tác giả Vương Hồng Sển trong tập sách Sài Gòn năm xưa cũng khẳng định vùng đất quanh cầu Bông xưa có khá nhiều người Miên (Khơme) cư ngụ và người dân từng đào gặp đồ đất nung đặt sắc của người Miên dùng tại đây.
Kể từ khi giặc Pháp chiếm thành Gia Định, cầu Bông lại nhiều lần đi vào lịch sử cùng với chiến tích đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ của người dân vùng đất Đakao. Trong những ngày đầu Nam bộ kháng chiến, cầu Bông là 1 trong những chiến lũy vững chắc để bao vây quân Pháp trong nội đô Sài Gòn, không cho mở rộng chúng chiếm lĩnh ra ngoại ô.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cầu Bông là nơi diễn ra nhiều vụ biểu tình phản chiến của nhân dân vùng Đakao. Đây cũng là nơi diễn ra nhiều trận đánh du kích ác liệt giữa ta và địch.

Trải qua hơn 200 năm lịch sử, mấy cuộc binh đao, cầu Bông nhiều lần bị phá hủy, đánh sập nhưng nó vẫn được xây mới ngay tại vị trí này. Bởi đây là cây cầu huyết mạch nối liền 2 vùng thị tứ của vùng đất Sài Gòn xưa kia. Trước 1975, cầu Bông là cây cầu trọng yếu nhất nối liền vùng Đakao của đô thành Sài Gòn với trung tâm tỉnh Gia Định (đóng tại khu vực chợ Bà Chiểu ngày nay).
Đến nay, khi TPHCM phát triển mạnh mẽ, mở rộng ra tất cả các hướng thì cầu Bông không còn là con đường thông thương trọng yếu nhất nữa nhưng nó vẫn giữ một vai trò quan trọng nối liền trung tâm thành phố với các quận ngoại thành như Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp…

Theo Sở Giao thông Vận tải TPHCM, cầu Bông hiện nay đã có tuổi thọ trên 50 năm, đang xuống cấp trầm trọng, các mố trụ có tình trạng nứt vỡ ảnh hưởng đến kết cấu công trình cầu, tải trọng khai thác của cầu thấp hơn tải trọng khai thác đường (không đồng bộ) nên ảnh hưởng đến việc khai thác các tuyến đường. Do đó, thành phố đã chấp thuận cho xây mới cầu Bông ngay tại vị trí cũ.

Từ ngày 26/10, cầu Bông đã được đóng cửa, chờ tháo dỡ xây mới. Theo ông Vương Hoàng Thanh, Phó giám đốc Ban quản lý đầu tư xây dựng công trình nâng cấp đô thị TPHCM (chủ đầu tư công trình xây mới cầu Bông) thì tối thiểu sau 7 ngày đóng cầu, đơn vị thi công sẽ bắt đầu tháo dỡ cầu cũ; tức là rơi vào khoảng ngày 2 – 3 tháng 11. Vậy là, không còn bao lâu nữa, cây cầu lịch sử của thành phố sẽ được tháo dỡ để xây dựng 1 cây cầu mới hơn, cao đẹp hơn.

Lời bàn của Mao Tôn Cương thời hiện đại  : bỏ cây cầu cũ xây cầu mới dĩ nhiên đẹp hơn tốt hơn , nhưng vấn đề là di tích lịch sử , cũng giống như Sài Gòn đang được chĩnh trang để mất hết dấu vết lịch sử , đây là vô tình hay cố ý

Lam Sơn




Back to top
« Last Edit: 18. Sep 2018 , 00:55 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #62 - 21. Nov 2018 , 05:40
 
TẠI SAO NGÀY 20 THÁNG 11 ĐƯỢC GỌI LÀ NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM ?

Bài viết nhận được trên net , không thấy ghi tên tác giả

Hơn một tuần nữa, trong nước, các thầy, các cô và cả học sinh sẽ “nhiệt liệt chào mừng” Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20 tháng 11. Nhưng nếu ai đó hỏi, tại sao lại tổ chức vào ngày 20 tháng 11 mà không là ngày khác, chắc không phải thầy cô nào cũng trả lời được.

Đó là ngày do Liên Hiệp Quốc đề ra? Không phải.

Đó là ngày các bậc tôn sư đáng kính trong lịch sử Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại? Không phải.

Đó là ngày do một biến cố có ý nghĩa nào đã xảy ra tại Việt Nam? Không phải.

Ngày 20 tháng 11 là ngày do Đệ Tam Quốc Tế CS chọn năm 1946 dựa theo ngày ra đời của “Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo viên” (FISE) một tổ chức ngoại vi của Đệ Tam CS Quốc Tế.

Hiện nay, CSVN là nước duy nhất trên thế giới vẫn còn dùng như là “ngày nhà giáo” mặc dù không chỉ Đệ Tam Quốc Tế CS chết từ đời nào mà cả phong trào CS thế giới cũng đã sụp đổ.

Sau khi LHQ công bố ngày quốc tế nhà giáo ngày 5 tháng 10, nhiều quốc gia trong đó có những nước cựu CS như Nga, Azerbaijan, Bulgaria, Lithuania, Serbia v.v.. đều đổi sang ngày do LHQ công bố.

Riêng tại VN, đảng CS vẫn dẫn dắt các thầy, các cô trên con đường mòn, lạc hậu và đầy bóng tối của hồn ma Đệ Tam Quốc Tế CS.

Người viết tin rằng phần lớn những người làm nghề giáo tại Việt Nam không biết ý nghĩa thật sự của Ngày Nhà Giáo. Với họ đó chỉ là ngày truyền thống, ngày để được tặng hoa, được nghe lời cám ơn, ca ngợi rỗng.

Thật khó trách, sống trong guồng máy, cuốn theo guồng máy, dần dần yêu nó và lấy đó làm nguồn hạnh phúc. Nguồn “hạnh phúc” đó không đến từ trái tim, từ tình cảm chân thành, từ cho đi và nhận lại mà đến từ thói quen. Tuy nhiên, lịch sử văn minh nhân loại không chuyển động theo thói quen mà theo lẽ phải.

Cây cối còn biết hướng về phía có ánh sáng để sống và vươn lên nói chi là con người, hãy tập sống theo lẽ phải./.
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #63 - 16. Jun 2019 , 01:48
 
Mời anh chị em xem lại bài viết của người lính Thuỷ Quân Lục Chiến , Trung Tá Nguyễn Minh Châu một niên trưởng , cựu Quận Trưởng Dĩ An Biên Hòa

TẤM THẺ BÀI CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH

Nguyễn Minh Châu

TÐ 3 Sói Biển – Cựu Quận Trưởng Quận Dĩ An, Biên Hòa

(Trích trong hồi ký “Cuộc Ðời Ðổi Thay”)

Trong bài viết này tôi xin chia sẻ cùng quý vị một câu chuyện ngắn về “Tấm thẻ bài” và kể lại tình trạng hấp hối của những chiến binh Quân Lực VNCH bị thương nặng ngoài trận tuyến. Ðây là một câu chuyện của muôn ngàn chiến sĩ đã phải chịu đựng sự đớn đau cả thể xác lẫn tinh thần khi bị thương nặng trong hoàn cảnh thập tử nhứt sinh ngoài chiến trường xa.
Chúng ta thường đọc những bài viết kể lại những trận chiến thắng oanh liệt và hào hùng của các đơn vị trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong thời chinh chiến. Nhưng sau những trận chiến đó, có biết bao chiến sĩ đã trở về với đôi “Nạng Gỗ,” nhiều người trở về trên chiếc “Xe Lăn” và những chiến sĩ bất hạnh hơn đã về trong chiếc “Hòm Gỗ” trên phủ lá Quốc kỳ.
Những kỷ niệm đau thương đã để lại cho vợ con hay người thân là “Vành khăn sô với tấm thẻ bài.” Quí vị cũng thừa hiểu là tỷ lệ thương vong của hàng binh sĩ luôn luôn là cao hơn cấp chỉ huy nhiều lắm. Binh thư có câu: “Nhứt Tướng công thành vạn cốt khô.” Tôi xin trích ghi vài dòng đơn giản trong bài thơ ”Tạ Ơn Chiến Sĩ“ của vợ tôi để ghi ơn những anh hùng đã hy sinh vì tổ quốc:
Rất thương những trẻ còn thơ
Cha chưa thấy mặt con đà để tang
Rất thương cô gái tóc thề
Tình thương chưa thỏa tóc đà quấn khăn
Rất thương anh lính thương binh
Góp phần thân thể điểm tô nước nhà
Rất thương anh chết chiến trường
Ðôi khi mất cả dù là mảnh xương
Hay anh trở lại quê nhà
Thân trong hòm gỗ, phủ trên Quốc kỳ.
(TN)
Nhưng rồi vận nước đổi thay, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, những người thương binh ấy bị bỏ rơi lại quê nhà phải chịu sự ngược đãi bạo tàn của bọn Cộng Sản cầm quyền. Ngay sáng ngày hôm ấy, bọn chúng đã tàn nhẫn xua đuổi tất cả thương binh của QLVNCH ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa và bịnh viện Lê Hữu Sanh mà tôi được biết rõ và còn rất nhiều bịnh viện khác nữa trên toàn cõi miền Nam mà nơi đó các thương binh cũng cùng chung một số phận bất hạnh này.
Thật là tội nghiệp cho những anh em thương binh chân tay bị cưa cắt chưa lành mà phải cố lê lết, dìu dắt hoặc cõng nhau rời bịnh viện. Những thương binh với vết mổ còn rỉ máu cũng phài ứa nước mắt ra đi về với gia đình, nhưng rồi ai sẽ chữa những vết thương đó cho họ nay!?… Các y sĩ và y tá của các bệnh viện phải đành bó tay và ngậm ngùi rơi lệ khi nhìn anh em thương bị xua đuổi ra đi. Thật là vô nhân đạo, thật là man rợ với hành động ra tay đánh người ngã ngựa của lũ người Cộng Sản. Lúc trước ngoài chiến trường bọn thương binh Cộng Sản đã được chúng ta băng bó và được trực thăng tải thương về bịnh viện của chúng ta để điều trị tiếp. Bây giờ anh em chiến sĩ chúng mình bị bắt buộc phải thua trận chiến mà chúng nó đối xử hèn hạ như thế này. Thật là một sự khốn khổ vô cùng do bọn dã nhân Cộng Sản đê hèn gây ra.
Tôi ngẫm nghĩ rằng: Nếu thế cờ quốc tế đảo ngược lại, Miền Nam chiến thắng và chế độ Cộng Sản miền Bắc sụp đổ thì chúng ta sẽ đối xử chúng với khí thế đại trượng phu. Miền Bắc sẽ không phải là một trại tù khổng lồ như miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ngay trong lúc còn chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc, tại nơi mà tôi đã làm việc từ cơ quan hành chánh đến quân đội chúng tôi không bao giờ khuấy nhiễu cuộc sống hay khủng bố tinh thần của các thân nhân bọn Việt Cộng địa phương đang nằm trong bàn tay quyền lực của chúng tôi. Tôi còn nhớ có một bà vợ bé của một tên tướng Việt Cộng tập kết vẫn được chúng tôi để sống rất bình yên tại ngôi nhà phía trước Bộ Chỉ Huy Quận của chúng tôi. Trong khi đó, ngay từ lúc chế độ miền Nam bị Cộng Sản thống trị, bọn chúng trả thù dã man những người của chế độ cũ và cả thân nhân của chúng mình cũng bị ảnh hưởng vì sự ngược đài tàn tệ. Chỉ có bọn man ri mọi rợ mới hèn và vô liêm sỉ như thế.
Tìm hiểu về tấm thẻ bài:

Trước năm 1975, bài ca “Tấm Thẻ Bài” do tiếng hát truyền cảm và rất hay của Thanh Thúy đã gây nhiều xúc động trong quần chúng và mãi đến bây giờ mỗi lần được nghe lại bài hát này hoặc là nhìn thấy lại hình tấm thẻ bài chúng ta càng thấy ngậm ngùi và thương tiếc những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến chống Cộng Sản xâm lược đã gây ra chiến tranh tàn ác.
Mỗi quân nhân đều bắt buộc phải mang hai tấm thẻ bài làm bằng kim loại không rỉ sét. Mỗi tấm được ghi khắc họ tên và số quân để trường hợp người chiến sĩ tử trận nếu không nhận dạng được thi thể đơn vị hành quân cũng có thể biết tên tuổi, số quân để biết người tử trận là ai. Trên tấm thẻ cũng có ghi loại máu để khi cần tiếp máu biết ngay là máu loại gì? Khi người chiến sĩ tử trận thì đơn vị hành quân sẽ giữ lấy một tấm để làm tài liệu báo cáo.
Và mỗi lần tôi nhìn thấy hình ảnh tấm thẻ bài hay nghe bản nhạc này, tôi nhớ ngay đến tấm thẻ bài của tôi luôn được cài vào túi áo trận và cũng không bao giờ quên được câu chuyện tấm thẻ bài của tôi tẩm đầy máu trong những lần bị thương nặng.
Mỗi khi lên đường hành quân là vợ tôi luôn luôn nhắc nhở tôi mang sợi dây thẻ bài vào cổ và tự tay vợ tôi cài kỷ lưỡng hai tấm thẻ và cái túi vải nhỏ vào túi áo ngụy trang.
Ðây là vật kỷ niệm vô cùng quí giá của đời quân ngũ mà tôi rất tiếc là đã mất nó, vì tấm thẻ bài đó đã theo tôi suốt đời binh nghiệp hai mươi mốt năm. Bây giờ tôi vẫn còn luyến tiếc mãi vì tôi đã không nghe lời vợ tôi cất giấu thay vì tôi ném bỏ nó đi.
Sau lịnh đầu hàng, tinh thần tôi quá thất vọng và chán nản mà tôi nghĩ rằng mọi người lính đều cũng mang một tâm trạng nhục nhã và đau đớn như tôi, nên chẳng còn tha thiết muốn giữ lại bất cứ thứ gì của đời binh nghiệp. Ðất nước mất là mất tất cả rồi! Hơn nữa ai cũng đều sợ bọn quỉ đỏ với bản chất hèn hạ và nhỏ mọn, sẽ thấy những thứ đó rồi hãm hại cá nhân mình, và vợ con mình cũng sẽ bị liên lụy.
Lịnh trên buông súng rã hàng
Xé tan đời lính vạn người khổ đau!!!
(Thơ TN)
Bị thương nặng và câu chuyện tấm thẻ bài:
Sợi dây thẻ bài và “cái túi vải” lúc nào đã được đeo vào người tôi trong suốt thời gian hành quân khắp bốn miền chiến thuật. Trong túi có tượng Ðức Mẹ Maria của chị tôi thỉnh nơi nhà thờ Fatima, tượng Phật do vợ tôi thỉnh ở chùa và một nanh heo rừng rất quí của Thượng Sĩ Dương Khuol tặng tôi. Thượng sĩ Khuol sau lên trung úy, ông chiến đấu rất gan dạ, ông đã đụng nhiều trận sanh tử mà chưa bao giờ bị thương. Ðiều này làm cho tôi có lòng tin, nên tôi xem hai tấm thẻ bài và cái túi vải này như “vật bất ly thân.”
Vào khoảng cuối năm 1966, Tiểu Ðoàn 3 Sói Biển có tham dự cuộc hành quân phối hợp với một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại vùng rừng núi Ashau phía Nam Khe Sanh. Ðơn vị của chúng tôi bị pháo của lực lượng Cộng Sản Bắc Việt gây cho một số chiến sĩ tử trận và bị thương. Một số bị thương rất nặng mà trong đó có tôi. Vì bị quá nhiều mảnh đạn nên chiếc áo trận của tôi bị loan lổ và tẩm đầy máu.
Tôi thường nghe nói khi một người gần chết sẽ cảm thấy lạnh từ đôi chân lên tới trên rồi sẽ đi. Vì bị thương quá nặng, máu ra lênh láng nên đôi chân tôi bắt đầu lạnh. Tôi nói thầm: “Em và các con ơi! Chắc anh chết mất!” Trong khi Bác Sĩ Chẩn đang băng bó vết thương, tôi chợt nhớ sợi dây thẻ bài và cái túi vải được cài trong trong túi áo trận. Tôi liền nhờ ông lấy ra mang vào cổ và lấy tấm thẻ và cái túi vải để lên ngực tôi. Tôi cầu nguyện các đấng thiêng liêng và mẹ tôi cứu độ cho tôi qua cơn nguy biến.
Sau khi sợi dây thẻ bài được mang vào người và với vài câu khấn vái tự nhiên tôi thấy toàn thân ấm trở lại. Có phải những điều này giúp tôi có đức tin để hy vọng vượt qua được cơn nguy biến chăng? Sau đó không bao lâu, theo yêu cầu của niên trưởng, cựu Ðại Tá Nguyễn Năng Bảo, TÐT/TÐ3 Sói Biển, trực thăng đến tải thương một số anh em chiến sĩ và tôi vào bịnh viện của đồn Mang Cá tại Huế. Lúc bấy giờ tôi là tiểu đoàn phó của ông.
Trên đường bay đến Huế các anh em thương binh chúng tôi nằm chen chúc nhau trong một chiếc thăng nặc nồng mùi máu và khói súng làm anh em chúng tôi muốn tắt thở vì ngộp và đã quá kiệt sức rồi. Tội nghiệp cho một số chiến sĩ của tôi bị thương quá nặng cũng như tôi, anh em bị đau đớn nên rên la rất thảm thiết. Có một chiến sĩ nằm bên cạnh mà tôi nghĩ là ông bị thương rất trầm trọng và có lẽ sắp chết, ông ta rên xiết dữ dội và đạp đá loạn xạ đôi chân của ông tứ tung và trúng vào mặt tôi, hình như ông đang giãy chết. Vào lúc ấy tay chân tôi đã hoàn toàn không cử động được nên không thể tránh né và phải lãnh đủ một trận đòn đau điếng và nhừ tử trong khi toàn thân tôi cũng đau nhức dữ dội do những vết thương đầy người. Rồi sau đó tôi bất tỉnh lúc nào không biết. Mấy ngày sau tôi tỉnh lại BS bịnh viện Ðồn Mang Cá tại Huế cho biết là tôi đã mất quá nhiều máu mà kiệt sức và bất tỉnh.
Lúc đó vợ tôi đang gần ngày sanh cháu gái út nên không thể ra thăm nuôi tôi được. Tôi nghĩ rằng những đồng đội của tôi cũng rất đau đớn thể xác và tinh thần vì không biết liệu có đủ sức qua cơn nguy biến này để về gặp mặt vợ con không? trong khi chúng tôi nằm cô đơn hiu quạnh trên giường bịnh không có một người thân bên cạnh chăm sóc. Ðây là tâm trạng đau khổ nhứt của người thương binh trong cơn hấp hối.
Sau lần bị thương này tôi đã bị tàn phế vì mảnh đạn chạm vào tủy xương sống sau ót, lúc tôi mới vừa được ba mươi ba tuổi đời. Cũng vì cái miểng đạn oan nghiệt này mà bịnh stroke gây ảnh hưởng hệ thống thần kinh tủy sống, nên tôi phải ngồi xe lăn đã sáu năm hơn. Ðây là hậu quả của chiến tranh làm cho cuộc đời quá nghiệt ngã cũng như với biết bao chiến sĩ khác.
Quê hương tôi bị chia đôi ngả
Chiến tranh điêu tàn phá nát thân tôi!
Trong khi anh em đồng đội cùng tôi nằm chờ đợi tải thương trong cơn đau đớn và tuyệt vọng thì nghe văng vẳng tiếng máy trục thăng từ hướng Huế tới. Lúc bấy giờ chúng tôi rất vui mừng và tưởng chừng như những vị thiên thần sắp hạ xuồng trần thế để cứu giúp chúng tôi đang gặp cơn nguy biến.
Tôi rất cảm phục sự can đảm của những anh hùng Không Quân đã từng yểm trợ các đơn vị của chúng tôi trong các trận chiến khắp bốn miền Chiến thuật. Tôi không bao giờ quên hình ảnh những cánh chim Ðại bàng không ngại ngùng lao mình vào lửa đạn của địch quân để ném những quả bom và xạ kích chính xác vào đầu bọn chúng. Những anh hùng trực thăng tải thương cũng rất anh dũng, chẳng ngại hiểm nguy đáp xuống ngay chiến trường để tải thương binh. Họ thật sự là những thiên thần của thương binh ngoài chiến trận.
Vợ chồng chúng tôi luôn mang ơn Hạ Sĩ I Nguyễn Văn Liễn đã theo tôi và chăm sóc rất tận tình trong thời gian tôi nằm mê man trên giường bịnh ở Huế. Sau đó vài năm, ông Liễn đã được BTL Sư Ðoàn TQLC cho đi học khóa Hạ Sĩ Quan rồi ra trường với cấp bực trung sĩ. Ông cũng đã bị tử trận tại Bồng Sơn năm 1969. Vợ chồng chúng tôi vô cùng thương tiếc. Sau ngày quân đội bị rã hàng, kẻ đi tù người về xứ, chúng tôi mất liên lạc và không biết hoàn cảnh gia đình ông và gia đình các đồng đội ra sao ra sao?
Tôi xin đốt một nén hương để tưởng niệm những đồng đội của tôi đã anh dũng hy sinh cho đất nước Việt Nam trong cuộc chiến dai dẳng và tàn khốc. Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/ccb-tam-bai/
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #64 - 06. Jul 2019 , 00:48
 

QUÁN CƠM XÃ HỘI

Ngày xưa thời Quốc Gia , ở đâu thì không biết , nhưng ở Thành Phố Biên Hòa , cạnh bên Ty Thông Tin , có một nơi mở ra QUÁN CƠM XẢ HỘI . Tên gọi như vậy , rất đông khách , nhất là những người buôn bán nặng nhọc , thành phần có thu nhập hết sức khiêm tốn , bửa ăn gồm có ba món , món canh , món xào , và món mặn , thức ăn thì có chừng , nhưng nước mắm ớt làm sẵn và cơm trắng thì ăn bao nhiêu cũng được . Mỗi bữa ăn với giá tượng trưng 5 đồng . thời tuổi nhỏ cũngc ó lúc đi bụi đời , có lúc ghe vô ăn bửa cơm ngon mà chỉ trả có 5 đồng , hình như trà đá biếu không . Nghe đâu , quán cơm xả hội do Bộ Xả Hội bỏ ra một số tiền để thực hiện chương trình dảnh cho người nghèo
Cũng giống như chương trình : Người Cày Có Ruộng , Thương Phế Binh Có Nhà , Người Nghèo có xe Lambro

Lam Sơn ,



Facbook Le Van Quy
19 h
Ở một góc phố nhỏ ồn ào, xung quanh là những cửa hàng buôn bán tấp nập, đông đúc… có một tiệm cơm bình dân nhỏ mang đầy hơi ấm của tình người.

Một hôm, chàng sinh viên bước vào tiệm cơm nói: “Cháu muốn mua một bát cơm trắng!”

Vợ chồng người chủ quán thấy chàng trai không gọi đồ ăn, lấy làm khó hiểu, nhưng vẫn đơm một bát cơm đầy cho cậu ta. Khi trả tiền, chàng trai còn ngại ngùng: “Có thể rưới một chút nước canh lên cho cháu không ạ?”

Bà chủ vui vẻ tươi cười nói: “Tất nhiên là được, cái này miễn phí.”

Chàng thanh niên ăn được một nửa, nghĩ đến bà chủ nói nước canh không cần trả tiền thì gọi thêm một bát cơm nữa.

“Một bát không đủ no à? Để tôi lấy thêm cho cậu chút nữa!”, bà chủ quán nhiệt tình nói.

Chàng trai đáp lại: “Không phải, cháu muốn mang về để mai mang đến trường ăn trưa!”

Ông chủ nghĩ, chàng sinh viên này có lẽ xuất thân trong một gia đình nghèo khó, nên đã lặng lẽ xúc một thìa thịt và thêm một miếng trứng xuống đáy hộp, sau đó mới đơm đầy cơm lên phía trên.

Bà chủ thấy vậy cũng biết chồng muốn giúp đỡ chàng thanh niên, nhưng lại không hiểu: “Sao ông không đường hoàng để thịt và trứng ở trên cơm trắng mà lại để dưới cùng?”

Sau đó ông chủ có nói riêng với vợ: “Nếu cậu ta vừa nhìn đã thấy trứng với thịt, sẽ cho rằng chúng ta thương hại cậu ta. Như vậy vô tình đã làm tổn thương lòng tự trọng của cậu ấy, cậu ấy sẽ không đến quán chúng ta nữa. Nhưng nếu cứ để cậu ấy ăn cơm trắng không, thì làm sao có sức mà học hành?”

Bà chủ rất tán thành cách làm của chồng: “Ông thật là một người tốt bụng, đã giúp người lại còn nghĩ cách giữ thể diện cho người ta nữa!”

“Cảm ơn cô chú, cháu ăn xong rồi. Tạm biệt hai người!”, chàng sinh viên đứng dậy rời đi, không quên nhìn lại vợ chồng người chủ quán.

Vợ chồng ông chủ quay ra cười niềm nở: “Cố lên chàng trai, mai gặp lại!”

Bước ra đến cửa, hai má người thanh niên nóng bừng vì vừa thấy xấu hổ vừa cảm động, nhưng cố giấu kín không để vợ chồng chủ quán nhìn thấy. Thực ra chàng trai đã nhìn thấy hành động của ông chủ tiệm muốn giúp mình nhưng không dám nói ra. Trong lòng chàng sinh viên xúc động chỉ biết nói lời cảm ơn nhưng trong sâu thẳm là một ý nghĩ rằng mình phải cố gắng học hành cho tốt để sau này báo đáp lại sự giúp đỡ này…

Từ đó, suốt hai năm, gần như ngày nào chàng sinh viên cũng đến quán cơm vào lúc tối muộn. Lần nào anh cũng gọi 2 bát cơm trắng, 1 bát ăn tại quán còn 1 bát đem về. Và tất nhiên, dưới đáy bát cơm mang về, ngày nào cũng ẩn giấu những “bí mật” khác nhau.

Đến khi chàng sinh viên tốt nghiệp ra trường, thời gian thấm thoắt trôi đi, quán cơm không còn trông thấy bóng dáng chàng sinh viên nghèo lui tới…

20 năm sau, quán cơm tự chọn ngày xưa nhận được thông báo cưỡng chế di dời của chính phủ thành phố. Đối mặt với việc thất nghiệp lúc tuổi trung niên, ông bà chủ không ngừng lo lắng, đau khổ.

Đúng lúc này, giám đốc một công ty lớn tìm đến: “Tổng giám đốc của chúng tôi muốn mời hai người mở nhà ăn tự chọn tại tòa nhà trụ sở công ty. Mọi trang thiết bị, đồ dùng cũng như thực phẩm đều được cung cấp đầy đủ, hai người chỉ cần phụ trách nấu nướng, lợi nhuận sẽ chia đôi.”

“Tổng giám đốc của anh là ai? Tại sao lại tốt với chúng tôi như vậy?”, hai vợ chồng chủ quán vừa mừng vừa lo, hỏi với vẻ nghi hoặc.

Anh giám đốc tiếp lời: “Hai người là ân nhân của tổng giám đốc, ngài ấy đặc biệt rất thích ăn món trứng và thịt ở cửa hàng của các vị, những cái khác đợi gặp mặt rồi nói được không ạ?”

Ngày hôm sau, hai vợ chồng ông bà chủ được mời đến công ty của vị giám đốc để xem tình hình công việc sẽ được sắp xếp ra sao. Khi tới đây, hai vợ chồng đã cảm thấy người đàn ông này rất quen thuộc, nhưng họ không thể nhớ ra đó là ai. Cuộc trò chuyện kết thúc, khi vợ chồng chủ quán cơm đúng dậy chào ra về, vị tổng giám đốc công ty bất ngờ đứng dậy, cung kính gập người cúi xuống: “Cô chú cố gắng lên! Ngày mai gặp lại!”

Hai vợ chồng thấy lạ, lúc này mới dám ngẩng đầu lên để nhìn thẳng vào mắt vị tổng giám đốc. Câu nói kia dường như xuyên thấu vào tim gan ông bà, cộng thêm hành động cung kính cúi đầu của vị tổng giám đốc, ký ức của vị chủ tiệm ăn năm nao thoáng hiện về…

Thì ra cách đây vài tuần, vị tổng giám đốc nghe được tin khu vực buôn bán gần trường xưa chuẩn bị bị cưỡng chế di dời. Anh liền cho người đi tìm hiểu tình hình và biết được tiệm cơm của ông bà thuộc diện bị giải tỏa. Anh liền nghĩ ra cách này để giúp họ.

Hai người đang lặng đứng người thì vị tổng giám đốc nói tiếp: “Tất cả những gì hôm nay cháu có được phải nhờ ân đức của hai bác. Nếu như không có sự giúp đỡ của hai bác thì chàng sinh viên ngày xưa khó mà có nổi tấm bằng Đại học trên tay. Sau 20 năm vật lộn với cuộc sống để lập nghiệp, hôm nay cháu đã gây dựng được sự nghiệp của riêng mình. Trong quá trình ấy, mỗi khi cảm thấy đuối sức, cháu lại nhớ đến nụ cười niềm nở cùng lời động viên của hai bác: “Cố gắng lên nhé, ngày mai gặp lại!” cháu lại có thêm động lực cố gắng cho mình. Cháu cám ơn hai bác! Quán cơm của hai bác đúng là một quán cơm mang đậm tình người”.

Nói rồi nước mắt 3 người đều chảy xuống, vị giám đốc lúc này như một đứa trẻ, anh ôm choàng lấy cả hai người. Cảnh tượng khi ấy tràn đầy hơi ấm của tình thân, tình người làm bất cứ ai cũng xúc động nghẹn ngào…
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: ĐẤT NƯỚC TÔI
Reply #65 - 06. Jul 2019 , 01:04
 
BỐ TÔI, NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA 

Bài viết nầy gởi đến cho những cô nhi tữ sỉ
    
Hãi Lê

Tôi có một người cha già, lại tàn tật, cụt một chân. Khi tôi sinh ra đời bố tôi cũng đã gần 50 tuổi. Trong một thời gian dài, bố tôi đóng vai trò của một người mẹ, tuy di chuyển khó khăn, nhưng ông lo lắng cho tôi không còn thiếu một thứ gì. Bạn bè thường gọi là “Ông nội trợ” và khen là đàn ông mà bố tôi có đầy đủ các đức tính của người phụ nữ Á đông “công, dung, ngôn, hạnh”, nuôi con khéo léo không ai bằng.

Hồi còn bé, tôi không hiểu được, vì sao không phải mẹ tôi, mà bố tôi luôn luôn ở nhà chăm sóc cho tôi. Từ từ tôi mới nhận ra, trong đám bạn bè, tôi là người duy nhất luôn luôn có người bố bên cạnh. Thiếu tình mẹ, tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi, mình là người rất may mắn, còn hơn nhiều đứa trẻ thiếu cả tình thương của cha lẫn mẹ. Sau này tìm hiểu thì tôi biết, bố tôi là một lính VNCH, bị thương trên chiến trường, được mẹ tôi bảo lãnh theo diện đoàn tụ, bà lo cho ông hưởng tiền trợ cấp tàn phế. Lúc tôi được hơn 3 tuổi, bố tôi và mẹ tôi ly dị, bà đã lập gia đình với một người đàn ông khác, nhường tôi lại cho bố tôi nuôi. Trong ký ức trẻ thơ, tôi có hình dung được hình ảnh của mẹ tôi một vài lần, khi bà đến thăm, nhưng rất xa lạ, vì luôn luôn bà đi với một người đàn ông nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng.
Tôi có tí mặc cảm về địa vị bố tôi ngoài xã hội, so với bố của những đứa trẻ khác, tuy nhiên việc chăm sóc tôi thì hoàn hảo, ông chăm lo cho tôi từ việc lớn đến việc nhỏ, không phải đụng tay vào bất cứ thứ gì. Trong suốt thời gian tôi học tiểu học, ông còn thuyết phục ông tài xế xe bus đón tôi đi học ngay tại cửa nhà, thay vì ở trạm xe , cách xa nhà tôi 4 dãy phố. Khi tôi bước vào nhà, lúc nào bố tôi cũng chuẩn bị sẵn thức ăn trưa, nào cá kho, thịt kho, rau xào và có cả canh nữa. Lâu lâu cũng có thức ăn Mỹ, sandwich, hamburger, bơ đậu phộng, và còn thay đổi theo mùa. Giáng Sinh bánh có viền xanh hình cây thông, Valentine có hình trái tim..vv…

Khi tôi lớn hơn một chút, vào năm đầu tiên trung học, tôi lại thích sống độc lập, tôi muốn thoát ra những cử chỉ yêu thương dành cho con nít của bố, vì sợ chúng bạn trêu chọc. Nhưng chẳng bao giờ bố buông tha tôi cả, một đôi khi tôi rất bực mình.  Cấp trung học, tôi không thể về nhà ăn cơm được nữa, phải bắt đầu tập tự lo cho mình. Nhưng bố tôi lại thức dậy sớm hơn thường lệ để chuẩn bị bữa ăn trưa cho tôi. Ông cẩn thận ghi cả tên tôi bên ngoài túi giấy đựng đồ ăn. Lật dưới đít bao giấy, luôn luôn có một vài hình vẽ nhỏ, khi thì căn nhà, khi thì dòng  suối, ngọn núi, chim cá và hình trái tim với dòng chữ “I Love You Tammy!” Nào hết đâu, bên trong những chiếc khăn giấy cũng có những dòng chữ triều mến “Bố thương con nhiều”. Ông luôn viết, hay có những câu nói bông đùa như thế để nhắc nhở là ông yêu thương tôi nhiều, và muốn làm cho tôi vui.

Tôi thường lén ăn trưa một mình để không ai thấy được cái túi giấy và khăn ăn. Nhưng cũng chẳng giấu được lâu. Một hôm, một đứa bạn tình cờ thấy khăn ăn của tôi, nó chộp lấy la lên và chuyền đi khắp căn phòng cho mọi người xem. Mặt tôi nóng bừng, bối rối, mắc cỡ muốn chui đầu xuống đất.  Bữa hôm đó tôi về, đã làm mặt giận với bố tôi và “cấm” ông ấy không được viết, vẽ “bậy bạ” trên khăn giấy nữa, để bạn bè không coi tôi như đứa con nít lúc nào cũng cần người lớn chăm sóc. Lần đầu tiên tôi thấy bố tôi buồn, lặng lẽ vào phòng đóng cửa.
Ngày hôm sau, tôi vô cùng ngạc nhiên vì tất cả bạn bè bu chung quanh tôi, chờ để được xem chiếc khăn ăn, nhưng lần này thì trống trơn, không có dòng chữ hay hình vẽ gì cả. Nhìn mặt bọn chúng thất vọng, hụt hẫng, tôi mới hiểu ra, tất cả chúng nó đều mong ước có một ai đó biểu lộ tình thương yêu ngọt ngào giống vậy đối với chúng. Lúc đó lòng tôi len lén cảm thấy vui vui, dâng lên niềm tự hào về bố. Tôi vội về làm lành với bố, và những giòng chữ, những hình vẽ yêu thương lại tiếp tục. Những năm còn lại trong trường trung học, tôi vẫn đều đều có những chiếc khăn đặc biệt ấy. Và từ đó, tôi giữ lại, chứa trong một cái hộp riêng, giấu kín. Chưa hết, khi vào đại học, tôi phải rời xa bố, tôi nghĩ thông điệp xưa kia của bố sẽ phải chấm dứt. Nhưng tôi và bạn bè rất vui sướng vì những cử chỉ biểu lộ tình cảm của bố tôi vẫn tiếp tục qua hình thức khác.

Ở cấp đại học, dĩ nhiên không còn thấy bố tôi đứng chờ khi tan học, vì thế, tôi hay gọi điện thoại cho ông, chi phí điện thoại khá cao, nhưng không sao, tôi chỉ muốn nghe được giọng nói của ông mà thôi. Suốt năm học đầu tiên, chúng tôi quen lối nói chuyện như thế và sau đó kéo dài một năm. Thường thì sau khi tôi nói lời tạm biệt, câu cuối cùng không bao giờ thiếu.
“Này Tammy”
Tôi thường trả lời “Dạ, gì thế bố?”
“Bố thương con nhiều.”
“Con cũng thế. I Love You!”
Hình như bố tôi nhận ra chi phí mắc mỏ cho những cuộc điện đàm, từ đó, tôi bắt đầu nhận thư mỗi thứ sáu. Ban thường trực phát thư của trường đều biết ai là người thường gửi lá thư này, mặc dù địa chỉ hồi âm luôn luôn ghi là KBC 1678. (Sau này tôi khám phá ra, KBC viết tắc là Khu Bưu Chính, địa chỉ trong quân đội ngày trước nơi bố tôi phục vụ. Còn số 1678 dễ quá, là số nhà tôi hiện tại.)

Nhiều lúc bên ngoài bì thư, địa chỉ được viết bằng bút chì và tiếp theo đó là những lá thư có hình con mèo và con chó của gia đình tôi, có vẽ những hình tháp nhiều từng, hình cây cầu nhiều nhịp in trên sóng nước. Hè năm đó, bố tôi và tôi du lịch về Việt Nam, lúc đó tôi mới biết là Chùa Một Cột, Chùa Thiên Mụ, Cầu Tràng Tiền v.v…
Sau chuyến du lịch ấy, tôi tìm hiểu về Việt nam nhiều hơn, nhất là cuộc chiến tranh trước 75, tôi bắt đầu thấy thương bố nhiều, ông là người lính bại trận, nhưng quân lực ấy đã chiến đấu dũng cảm cho tự do, cho hạnh phúc của người dân miền Nam trong suốt 20 năm. Nếu không bị đồng minh bán đứng, cuộc chiến chưa chắc ai thắng ai.

Thư đến và được phát mỗi ngày sau buổi ăn trưa. Tôi thường đi nhận thư và mang theo mỗi khi đi uống cà phê. Tôi nhận thấy chẳng cần phải giấu giếm làm gì nữa, bởi bạn cùng phòng tôi là những đứa bạn hồi còn trung học, chúng nó biết rất rõ về những chiếc bao giấy, khăn ăn. Và rồi trở thành như một tập tục, tôi đọc thư, còn bì thư và hình vẽ thì được chuyển khắp bạn bè, thư từ bố tôi thành niềm vui của cả phòng.
Trong năm cuối cùng đại học, bố tôi bị căn bịnh ung thư hành hạ. Mỗi khi tôi không nhận được thư vào ngày thứ sáu, tôi biết ông ốm nặng, không thể viết được. Ông thường thức dậy lúc 4 giờ sáng để có thể ngồi trong nhà yên tĩnh nắn nót viết những lá thư. Nếu không kịp cho đợt phát thư vào thứ sáu, thì chỉ sau đó, một hai ngày, thế nào rồi thư cũng đến. Bạn bè tôi bình bầu ông là “Người cha thương con nhất trên thế giới này!”

Ngày lễ cha, Father’s Day, chúng nó gởi một tấm thiệp phong tặng ông danh hiệu đó và tất cả đều ký tên trên tấm thiệp. Tôi tin rằng ông đã dạy cho tất cả chúng tôi về tình phụ tử, bạn bè tôi bắt đầu nhận những tấm khăn ăn giống như tôi từ gia đình chúng nó, với những lời để lại ấn tượng mà sẽ thôi thúc họ hãy biểu hiện tình thương của họ với con cái sau này.
Suốt thời gian đại học, những lá thư và những cú điện thoại như một chu kỳ đều đặn.
Ngày ra trường, tôi quyết định chọn công việc làm gần nhà, để được ở cạnh bố tôi, vì căn bệnh bố càng ngày càng nặng. Thời gian được ở gần bố không còn bao nhiêu lâu nữa.
Đó là những giây phút khó khăn, đau khổ nhất cuộc đời tôi phải trải qua.
Tôi ở bên cạnh bố tôi một vài ngày trong bệnh viện trước khi ông mất. Vài giờ trước khi hấp hối, ông nắm tay tôi bảo “Bố nhờ con một điều, con về nhà lấy cho bố cái hộp gỗ mà bố để trên đầu tủ, đây là hộp chứa đựng những kỷ niệm đời lính mà bố yêu thương nhất. Bố muốn nhìn nó lại một lần.”

Tôi lái xe về nhà, và cũng tìm ra ngay chiếc hộp phủ đầy bụi thời gian. Có gì bên trong? Tôi tò mò mở nắp hộp. Mắt tôi bắt đầu cay cay nhòa lệ, khi nhìn thấy những tấm hình của bố tôi còn trẻ, trong những bộ quân phục thật oai phong. Có những tấm cầm súng đằng sau chiến trường còn bốc mùi lửa khói. Lật ra đàng sau, những ngày tháng cũ, 68, 70, 71, 72… với những địa danh xa lạ: An Lộc, Bình Long, Đồng Xoài, Khe Sanh… Dưới đáy hộp là căn cước quân nhân, giấy giải ngũ và những tấm huy chương, bộ lon gắn trên cổ áo khi ông mặc những bộ quân phục.

Bây giờ thì tôi mới hiểu hết, không còn mặc cảm hình ảnh có ông bố tàn tật chỉ biết lo việc “nội trợ”, ngược lại là đàng khác, Bố tôi đã một thời là một người lính chiến oai hùng, đổ máu hy sinh một phần thân thể mình cho một cuộc chiến đầy chính nghĩa, bảo vệ quê hương.
Rõ ràng bố tôi chăm sóc tôi, vui vẻ làm những việc của người phụ nữ bao nhiêu năm nay, chỉ vì tình thương con mà thôi. Ông thật là người cha tuyệt vời
Tôi ôm cái hộp, chạy gấp lại bệnh viện, định nói lời xin lỗi với người cha thân yêu của mình, nhưng đã trễ! Người y tá trực cho biết, bố tôi vừa trút hơi thở cuối cùng. Rồi người y tá trao cho tôi chiếc khăn giấy nhà thương, với giòng chữ cuối cùng run rẩy của một người cha dành cho con “Tammy, ba thương con nhiều! Vĩnh biệt!”

Nước mắt tôi trào ra như suối, cầm tấm khăn giấy trong tay áp vào ngực, tấm khăn giấy cuối cùng, mà cả cuộc đời mãi mãi không còn nhận được nữa.
Lúc liệm xác, tôi bỏ theo chiếc hộp kỷ niệm đời lính vào hòm cho bố, còn những chiếc khăn giấy tôi sẽ giữ mãi bên cạnh cả cuộc đời tôi.
Bây giờ thì những chiếc khăn giấy đã đổi màu vàng khè, nhưng tình tôi dành cho người bố càng ngày càng thấm thiết, bất diệt, muôn đời không thay đổi.
Happy Father’s Day
Mừng Ngày  Của Bố
Mừng ngày Quân Lực 19/6/2011
 
Hải Lê
Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 
Send Topic In ra