Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Phiếm Luận  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra
Phiếm Luận (Read 2828 times)
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Phiếm Luận
17. Jan 2008 , 06:18
 
Oan cho dân ta quá!


Bút Phím


Thỉnh thoảng, cứ nghe thông tin rằng “dân oan” ở các tỉnh lại kéo về Sài gòn khiếu kiện, trưa nay, lại nghe “dân oan” ở khu Kim Liên Hà nội đòi tự thiêu nếu công an đến giải tán họ, tôi tự hỏi: “Sao lại gọi là dân oan nhỉ?”

À, hẳn là họ bị chính quyền sở tại đối xử không công bằng, bị kẻ có chức quyền ức hiếp… Nghĩ cũng oan thật! Đất đai nhà cửa là mồ hôi nước mắt làm lụng từ đời này sang đời khác, bỗng dưng biến mất mà chỉ nhận được một số tiền không tương xứng thì ai không khỏi kêu gào oan khuất.

Bất giác sờ tay lên gáy: - Thế mình có phải là dân oan không nhỉ? Đất đai nhà cửa không bị giải tỏa, nhưng cứ có cảm giác rằng lâu nay mình vẫn phải mang trên đầu, trên cổ một cái gì đó rất nặng nề. Vẫn chưa thể lý giải nó là cái gì.

Thôi, dẹp sang bên lo viết cái đơn xin chuyển trường cho thằng nhóc đã! Vừa vào MsWord mở cái file “Don.doc” có lưu sẵn tiêu đề:

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

tôi bỗng lạnh toát cả người, như thể có một luồng điện chạy dọc suốt sống lưng. Trời đất, mình cũng là dân oan, hơn 80 triệu dân Việt hiện nay đều là dân oan cả!

Vâng, chính xác và hoàn toàn chính xác!

Đây nhé, cái gọi là Chủ nghĩa xã hội đã mang lại được gì cho dân ta ngoài cái thời bao cấp, cấm chợ ngăn sông, xếp hàng ăn độn, đói rách bần cùng... Ai nghĩ đến cái thời ấy mà không rùng mình sởn tóc gáy? Thế mà nó cứ chễm chệ nằm trên đầu trên cổ chúng ta trong mọi văn bản pháp quy, trên những cái cổng chào cao ngất, cứ như thể rằng mấy chục triệu dân Việt Nam đều phải đội ơn cái Chủ nghĩa xã hội này vậy. Oan cho dân ta quá, oan quá còn gì.

Tiếp đến là cái tiêu đề phụ “Độc lập…”.

Tôi tự hỏi hiện nay chúng ta đang sử dụng danh từ này theo nghĩa nào? Tự điển nào có thể định nghĩa được từ “độc lập” này khi Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Tự điển nào cắt nghĩa cho cái từ “độc lập” này khi Bắc Kinh lệnh cho Hà Nội phải dẹp biểu tình, cấm dân chúng không được biểu lộ lòng yêu nước bằng thái độ ôn hòa? Có ai chỉ giúp tôi cuốn tự điển ấy không? Giá nào tôi cũng mua, nếu không có thì oan cho dân ta quá, oan quá còn gì.

“…Tự do…”, ôi hai tiếng này như tắc nghẹn lại trong cổ họng tôi khi tôi hình dung cảnh hàng trăm ngàn người cùng da vàng máu đỏ, phải bỏ xác giữa biển khơi để đánh đổi cái “tự do” này lấy cái Tự Do bên kia bờ Thái Bình Dương. Đêm đêm tôi vẫn gào thét trong giấc mơ hai từ “tự do”, rồi sáng dậy loay hoay vượt tường lửa vào đọc tin tức từ thế giới Tự Do. Oan cho dân ta quá, cho cả những linh hồn đã chết oan lẫn những người còn đang sống.

Với “độc lập” ấy, với “tự do” kiểu ấy, xin nhường quyền bình luận từ “hạnh phúc” cho quý vị độc giả.

Tôi vẫn chỉ có một câu: Oan cho dân ta quá, oan quá còn gì!

Mới chỉ là dòng tiêu đề của lá đơn, tôi đã thấy oan khuất chất chồng. Chợt khám phá ra một điều thú vị: những cái gì hào nhoáng, bóng bẩy trong cái xã hội giả dối này đều chứa đựng điều bất ổn. Quên bẵng lá đơn với cái tiêu đề đáng sợ, tôi bắt đầu việc tìm kiếm các “mỹ từ” khác.

Và đây: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Nhân dân ta làm chủ cái gì? Đất nước này ư?

Không. Ông chủ gì mà đầy tớ tự quyền cắt đất, nhượng biển vẫn không hề hay biết. Đến khi biết được thì cấm “ông chủ” không được hé răng kêu ca. Làm chủ kiểu gì khi một bác sĩ dịch bài viết “Thế nào là dân chủ” từ Anh sang Việt ngữ và phổ biến cho mọi người thì ông ta lập tức bị bắt bỏ tù. Oan cho nhân dân ta quá, oan quá trời ơi!

Rồi đây nữa: “…nhà nước của dân, do dân và vì dân”.

Thế à? “Của dân” là thế nào khi các thỏa hiệp về biên giới, lãnh hải được ký kết mà không qua một cuộc trưng cầu dân ý. Ngược lại, người dân muốn lên tiếng xác nhận chủ quyền lãnh thổ quốc gia lại phải xin phép đảng. Oan quá dân ta ơi!

“Do dân” là thế nào khi người dân không có quyền bầu lên những người họ tín nhiệm, đại diện cho quyền lợi của họ.

Cuối cùng, ai cũng thấy rõ những gì đảng và nhà nước này làm có thực sự “vì dân” không, hay chỉ vì lợi ích cá nhân của mấy triệu con người có gương mặt sắt máu, có trái tim đá sạn, có linh hồn đã bán rẻ cho quỷ dữ.

Rồi lịch sử sẽ phán xét công bằng, tội đồ dân tộc sẽ nhận đúng tội danh. Vận mệnh nước nhà chưa đến, hơn 80 triệu dân Việt có nhận thức được nỗi oan khiên mà mình đang gồng gánh suốt mấy chục năm qua không?

Đừng để những người dân mất đất, mất nhà phải cô đơn trong hai tiếng “dân oan”. Hãy chia sẻ, hãy đồng cảm cùng với họ, dân Việt ta ơi!


© DCVOnline
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #1 - 29. Feb 2008 , 09:31
 
Cuối năm nói chuyện với đầu gối


Tưởng Năng Tiến


Đi hỏi già, về hỏi trẻ

Tục ngữ VN


Tôi sinh ra trong một cái xóm rất nghèo, và (tất nhiên) rất đông con nít. Cùng lứa với tôi, có chừng vài chục đứa tên bắt đầu bằng chữ út: Út Lé, Út Lác, Út Lồi, Út Hô, Út Còi, Út Ghẻ, Út Mập, Út Sún, Út Sứt, Út Méo, Út Hô, Út Đen, Út Ruồi, Út Xẹo, Út Trọc … Cứ theo cách thấy mặt đặt tên như vậy, người ta có thể nhận dạng và biết được thứ tự của đứa bé trong gia đình mà khỏi phải giới thiệu - lôi thôi - theo như kiểu cách trong xã hội Âu Mỹ:

- Còn đây là thằng út, nó tên là Út Rỗ. Chả là ngay sau khi lọt lòng, cháu bị rơi vào một cái … thùng đinh!

Riêng trường hợp của tôi thì hơi (bị) khác. Tôi tên Út Khùng. Nếu nhìn mặt mà bắt hình dong thì khó ai có thể biết được là tôi bị khủng. Bây giờ thì (than ôi) tôi trông tàn tạ và héo úa lắm rồi, chớ hồi nhỏ - nói thiệt nha - cả xóm ai cũng phải công nhận là Út Khùng ngó đẹp trai và coi dễ thương hết biết.

...
Đà Lạt
Nguồn: vietnamparadisetravel.com

Chỉ có cái kẹt là lúc mới biết đi, tôi bi rơi xuống giếng. Khi tìm ra con, nắm tóc kéo lên, thấy thằng nhỏ chân tay xụi lơ, bụng chương xình, mặt mày tím ngắt, má tôi chỉ kêu lên được một tiếng “rồi” và lăn ra bất tỉnh.

Thực ra thì “chưa.” Tôi chưa bỏ mạng nhưng cuộc đời của tôi, kể từ giờ phút đó, là kể như … rồi – theo như lời chẩn đoán của những vị bác sĩ lo việc chữa trị cho tôi lúc ấy:

- Thằng nhỏ ở dưới giếng cả buổi, thiếu oxy nên một số tế bào não đã đi đoong rồi. Nó sẽ hơi khó nuôi và cũng sẽ hơi khác người chút xíu, nhưng hy vọng cũng sống (được) chớ không đến nỗi nào đâu.

Dù đã nghe trấn an như vậy, ba má tui rõ ràng (và hoàn toàn) không yên tâm tí nào về cái chỗ “hơi khác người chút xíu” như thế. Ông bà hẳn cũng khổ tâm vì cái tên gọi, nghe hâm thấy rõ, của đứa con … cầu tự!

Cả hai quyết định dọn nhà đi nơi khác – nơi mà không ai biết là tôi đã từng bị té giếng, và té lầu (không lâu) sau đó. Bố mẹ tôi quyết tâm tạo cơ hội cho con có một cái lý lịch mới, trắng tinh, để làm lại cuộc đời. Đây thực là một cố gắng phi thường, rất đáng qúi nhưng (tiếc thay) hoàn toàn … vô vọng!

Gia đình tôi dọn từ dưới đường Phan Đình Phùng lên tuốt đường Duy Tân, một con đường dốc, ngay trung tâm của thành phố Đà Lạt. Giữa đường là cửa hiệu chuyên bán vật liệu xây cất nhà cửa, tên Lưu Hội Ký, nên lúc nào cũng có một chiếc xe ba gác trước cửa tiệm.

Trò chơi mà đám trẻ con chúng tôi thích nhất là ban đêm nhẩy lên xe, thả cho chạy từ đầu xuống đến cuối dốc. Xong, cả lũ lại hè nhau hì hục đẩy xe lên lại. Tôi nhỏ bé và ốm yếu nên thường được ngồi trên yên cầm lái. Bao giờ cũng chỉ được một phần ba khoảng đường là cả bọn đều mệt bá thở, phải ngừng lại để nghỉ.

Có lần, một đứa nổi quạu:

- Biểu thằng Tiến xuống đẩy luôn đi, chớ nó ngồi không như cha người ta vậy chỉ thêm nặng thôi, chớ đâu có ích lợi gì.

Tôi vênh váo:

- Đ…má, bộ mày tưởng tao ngồi chơi chắc. Dốc cao thấy mẹ, tao phải bóp thắng không ngừng xe mới khỏi bị tụt lại, chớ không làm sao tụi mày đẩy được lên tới tận đây!

Tôi có cái tên mới, Tiến Khùng, thay cho Út Khùng, kể từ bữa đó.

Và từ bữa đó, cho đến bữa nay, đã gần nửa thế kỷ qua. Chiều nay, tôi bỗng nhớ lại những kỷ niệm vào thuở ấu thời, sau khi đọc tờ Việt Weekly - VOL. IV, NO.50 - phát hành từ Garden Grove, California, ngày 7 tháng 12 năm 2006. Số báo này có đăng lại bài tường thuật về cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa ban biên tập Việt Weekly với ông Võ Văn Kiệt, trong thời gian họ trở về nước để làm tin về hội nghị APEC 16.

Vào dịp này, cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt của nước CHXHCNVN - một nhân vật tuy đã “out” nhưng chưa “down”- tuyên bố:

“Ít nhất phải để cho ba triệu đảng viên phải có chỗ đứng yêu nước trong dân tộc chứ, nếu phủ nhận, thực là quá đáng.” Và cũng chính ông Võ Văn Kiệt, ngay sau đó, bầy tỏ sự lo âu rằng: “Nguy cơ lớn nhất của Việt Nam là tụt hậu, nghèo nàn. Chúng ta phải làm sao bắt kịp thế giới.”

Cũng như phần lớn những người cộng sản khác, ông Kiệt thường hay nói chữ, và nói … khá ngu! Việt Nam là một trong những quốc gia đã được xếp vào hạng lạc hậu, độc tài và nghèo nàn nhất thế giới từ lâu lắm rồi - chớ còn có “nguy cơ” hay “cơ nguy” (khỉ khô) gì nữa, cha nội!

...
Xu 20 tuổi, người Ja-rai, Xu chưa vợ, 1 tháng làm rẫy, thu nhập được 20 ngàn. Xu nói với khách du lịch “mình thích có 5 ngàn để mua cái thuốc lá mà hút”!
Nguồn/Ảnh: static.flickr.com/mrnhatrang

Ông Kiệt, hồi nhỏ dám (cũng) bị té giếng lắm nha. Thằng chả làm tôi nhớ đến cảnh mình ngồi rà thắng, trong khi bạn bè nhễ nhại mồ hôi đẩy cái xe ba gác lên dốc Duy Tân, ở Đà Lạt. Đã vậy mà còn lớn tiếng kể công:

- Đ… má, không nhờ tao bóp thắng (liên tục) để xe khỏi bị tụt dốc thì làm sao tụi bay đẩy xe lên được tuốt tận đây!

Thiệt nghe mà muốn ứa gan, và ứa …nuớc mắt! Những kẻ chủ trương yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa - cái chủ nghĩa (thổ tả) đã kềm hãm cả nước VN trong tối tăm, nghèo đói, cùng quẫn, áp bức, dốt nát, bênh tật, lạc hậu … hơn nửa thế kỷ qua – nay đang lớn tiếng đòi hỏi mọi người không được “phủ nhận” chỗ đứng của họ trong lòng dân tộc!

Có lần một sĩ phu Bắc Hà nói (nhỏ) với tôi rằng: “Người cộng sản giống như những kẻ lữ hành không biết dùng bản đồ nên hay bị sa xuống hố. Cứ mỗi lần như thế, sau khi lóp ngóp bò lên lại được mặt đất, họ lại tung hô chiến thắng.”

Nghe thiệt là ớn chè đậu. Chứng kiến cái thái độ “hơn hớn tự đắc” của những người cộng sản VN, khi mới chập chững bước chân vào WTO, khiến tôi thốt nhớ đến nhận xét vừa nêu và - không dưng - muốn ói.

Nếu cứ nghe theo như miệng lưỡi của ông Võ Văn Kiệt thì người ngoại cuộc dám tưởng rằng hiện tại, ở VN, có hàng trăm đảng phái đang tham chính - chỉ riêng có Đảng Cộng Sản là bị cấm cửa, không cho hoạt động, nên họ mới có chuyện đòi hỏi tội nghiệp xin một chỗ để … đứng (xớ rớ) cho vui. Sự thực, ai cũng biết, người cộng sản không chỉ “đứng” mà còn giành ngồi (độc quyền) trên đầu trên cổ của dân tộc Việt từ hơn nửa thế kỷ nay. Ông Võ Văn Kiệt còn “thẳng thắn” cho biết là họ sẽ … ngồi luôn như vậy, nếu thấy không có gì trở ngại!

Đây là nguyên văn câu hỏi của ban biên tập Việt Weekly“Trong điều 4 của Hiến pháp quy định chỉ có đảng cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo quốc gia. Như ông đã nói, quốc gia là quốc gia chung của 80 triệu người, vậy quy định như vậy có nghịch lý không?”

Và ông Võ Văn Kiệt đã trả lời (lòng vòng) như sau:

“Đảng cộng sản Việt Nam đã có vai trò đối với lịch sử của đất nước. Đảng vì dân tộc, vì đoàn kết của dân tộc, tất cả thể chế đều dựa vào dân và phục vụ nhân dân. Nếu như đảng cộng sản làm đầy đủ mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, mà đây là một đòi hỏi hết sức chính đáng, nếu đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục giữ được vai trò này, được sự đồng thuận của dân tộc Việt Nam, tôi nghĩ rằng đảng cầm quyền như đảng Cộng sản Việt Nam là tin cậy được … Mong muốn lớn nhất của toàn xã hội là làm sao đất nước tiếp tục ổn định để tiếp tục đổi mới và phát triển, để không xảy ra rối rắm như nhiều nước khác.”

“Nhiều nước (nào) khác” đã “xẩy ra rối rắm” vì theo chính sách đa nguyên và đa đảng thì không nghe ông Võ Văn Kiệt nói (ra), và cũng không thấy ban biên tập Việt Weekly hỏi (tới). Đang xớ rớ ở Việt Nam mà biết giữ mồm giữ miệng như vậy là phải (giá). Hỏi han, ăn nói lạng quạng dám bị đụng xe hay … lỡ bị mà kẹt luôn thì chết (mẹ).

Tôi không có gì phàn nàn ban biên tập Việt Weekly về sự dè dặt như thế. Tôi chỉ lấy làm tiếc là anh em đã không có cơ may để thực hiện lời khuyên của ông bà chúng ta để lại: “Đi hỏi già, về hỏi trẻ.”

Khi rời khỏi VN, anh em đều còn rất trẻ nên đã đi theo gia đình, hoặc theo lời khuyên của những bậc trưởng thượng (trong gia đình) mình để … vuợt biên. Khi trở về, lẽ ra, nếu hoàn cảnh cho phép, anh em nên hỏi chuyện nước non với những người trẻ tuổi như Lê Chí Quang, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn, Bạch Ngọc Dương, Lê Trí Tuệ, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Xuân Đài … Xuất lộ của VN, hy vọng, có thể bắt đầu từ những con người quả cảm và ưu tú như thế. Chớ mất thời giờ với những ông già gần đất xa trời nhưng vẫn đĩ miệng và láu cá (như cái thứ ông Võ Văn Kiệt) làm chi. Quyền lợi đã khiến cho những người cộng sản VN trở nên … khùng hết trơn rồi.

Lâu nay, họ vẫn kể công là “nhờ sự quyết tâm và dũng cảm đổi mới của Đảng” nên cả nước mới thoát khỏi cảnh cơ hàn, đói rách. Còn ai gây ra thảm cảnh này thì những người cộng sản đã (làm bộ) quên mất tiêu rồi.

Cứ theo giọng điệu tráo trở như thế, không chừng, những nạn nhân thoát chết sau vụ Cải Cách Ruộng Đất ở VN - hồi đầu thập niên 50 - rồi cũng phải ghi nhớ công ơn của Đảng luôn. Chính Đảng đã phát động Chiến Dịch Sửa Sai (sau khi đã sát hại vài trăm ngàn người) chớ còn ai khác.

Tương tự, có lẽ những cộng đồng người Việt ở hải ngoại (kể cả những phụ nữ đang đi làm thuê làm mướn hay làm nô lệ tình dục ở Đài Loan, và những em bé đang sống trong những nhà thổ ở Cao Miên) cũng đều phải ghi nhận “chỗ đứng” của người cộng sản - như là những ân nhân - chớ phủ nhận sạch trơn sao được. Nếu không nhờ vào những chính sách bất nhơn, ngu xuẩn, và sự hà khắc của Đảng (đến độ cái cột đèn - nếu có chân - cũng phải bỏ chạy) thì làm sao mấy triệu người Việt Nam có “cơ hội” xuất ngoại, đúng không?

Trong thư toà soạn, của số báo thượng dẫn, ban biên tập Việt Weekly đã nêu lên một chủ trương đứng đắn và hợp lý: “Chúng ta là những người đã từng can đảm cầm súng chiến đấu cho niềm tin của mình. Đã từng can đảm giăng buồm đi vào biển xanh âm u cho niềm tin của mình. Thì chúng ta phải có đủ can đảm nhìn thẳng vào niềm tin của mình, nhìn thẳng vào đối phương, để tìm ra tương lai. Tương lai không phải cho riêng ai, mà cho cả dân tộc.”

Tôi xin cảm ơn anh em đã tạo cơ hội cho nhiều người “nhìn thẳng vào đối phương” (thêm một lần nữa) để nhận ra rằng CS là loại người vô phương đối thoại, nếu không có súng để dí súng vào đầu của họ!

...
Huỳnh Việt Lang và Nguyễn Hoàng Long (đã) bị họ bắt giam rồi.
Nguồn/Ảnh: DCVOnline

Từ trong nước, nhà báo Huỳnh Việt Lang - người sinh năm 1968, cùng thế hệ với anh em chủ trương tuần báo Việt Weekly – đã khẳng định như thế, trước đây, vào ngày 30 tháng 10 năm 2005: “Tập đoàn cầm quyền phản động Hà nội đã khước từ cơ may đối thoại... chúng tôi sẽ tranh đấu đến cùng, hoặc toàn bộ chúng tôi bị giết, hoặc chế độ cộng sản đểu cáng vô nhân tính tại Việt Nam này phải bị đánh sập”.

Mười hai tháng sau, “chế độ cộng sản đểu cáng vô nhân tính tại Việt Nam (chưa) bị đánh sập” thì Huỳnh Việt Lang (đã) bị họ bắt giam rồi. Chúng ta đang ở tình trạng đánh không nổi, hoà không xong, và đàm cũng không được nốt. Chuyện tìm ra tương lai cho cả dân tộc, theo như sự quan tâm và cách nói của anh em Việt Weekly, xem chừng, còn nhiều chông gai lắm.

Copyright © 2006 DCVOnline
Back to top
« Last Edit: 27. Mar 2008 , 05:18 by dacung »  

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #2 - 31. Mar 2008 , 20:52
 
Nhàn đàm về hai chữ “Nhân dân”


Hoàng Cúc


Có lúc chợt nghĩ đến từ nhân dân, tôi mới tự hỏi mình rằng không biết có nơi đâu trong thế giới này, từ “nhân dân” được dùng nhiều như ở Việt Nam, và không biết có nơi đâu nhân dân phải chịu khổ sở và oan khiên hơn dân Việt Nam hay không?

Để trả lời cho câu hỏi này, thiết nghĩ cần phải có những công trình nghiên cứu đồ sộ với phạm vi rất lớn. Tôi tài hèn sức mọn chắc chẳng bao giờ có thể làm được chuyện quá lớn lao đó, nên chỉ đành đưa ra vài ba câu chữ nhàn đàm về “nhân dân”.
Người chăm chỉ đọc báo Nhân dân hẳn còn nhớ trước đây, dưới tiêu đề Nhân dân to tướng, có dòng chữ nhỏ hơn: “Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có lẽ vì thế mà người ta quen gọi báo Nhân dân là báo đảng?

Ngày nay dòng chữ này đã được thay thế bằng một dòng dài hơn: “Cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam – tiếng nói của Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam”. Dường như chính những người đã tạo ra tờ báo này cũng thấy rằng để đảng đứng trơ trọi ở đây xem ra quá lố bịch và kệch cỡm, nên nhà nước và nhân dân liền được lôi vào. Vậy hoá ra cái yếu chỉ cho ngón võ đã luyện tới bậc thượng thừa (tôi xin mượn chữ của Kim Dung để gọi nó bằng “lăng ba vi bộ”) nó nằm ở đây: đảng đã dùng công phu luồn lách và chui vào bộ áo nhân dân để tác oai tác quái.

Biết được yếu chỉ này rồi, dường như ta có thể hiểu cơ cấu vận hành xã hội Việt Nam một cách dễ dàng hơn. Việc thật đơn giản, ta thử đọc lại tất cả các khẩu hiệu, các câu nói có chữ “nhân dân” được 700 tờ báo ra rả nhắc đi nhắc lại hàng ngày, rồi thay “dân” hoặc “nhân dân” bằng “đảng” xem điều gì sẽ xảy ra.

Chúng ta cùng thử nhé. Nào là quân đội nhân dân, công an nhân dân, nhà nước của dân, do dân và vì dân, rồi dân chủ… và còn biết bao nhiêu khẩu hiệu khác. Phép hoán vị này cũng chẳng có gì lạ, và cũng đã có người bàn luận về nó rồi. Điều thú vị là ở chỗ, thay đảng vào những chỗ có dân hay nhân dân, ta mới chợt nhận ra, à thì ra ý nghĩa của nó là vậy.

Ví như mới đây có vị cán bộ của một cơ quan trung ương trả lời phỏng vấn của đài BBC rằng không có chuyện trả lại cơ sở này nọ vì “Từ khi có Luật đất đai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý”. Luật đất đai ở Việt Nam qui định như thế mà, nhưng “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” quả thực là một câu khiến cho các luật sư chắc cũng phải đầu óc quay cuồng may ra mới hiểu được về cái kiểu sở hữu có một không hai trên thế giới này. Chuyện giải quyết thật đơn giản, yếu chỉ trên đây sẽ cho ta hiểu ý nghĩa thực chất của câu này. Và nếu bây giờ ta đem kiểm kê một cách công khai và minh bạch về “quĩ đất” do gần 4 triệu đảng viên cộng sản “quản lí”, ta sẽ thấy thực chất của câu luật trên đây là thế nào và được áp dụng ra sao.

Tôi cũng từng suy nghĩ về câu nói “cán bộ là đầy tớ của nhân dân”.

Đã có lúc, tôi lẩm bẩm nói và tự cười một mình rằng cái chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thật quá ưu việt, vì ta cứ thử tìm hiểu lịch sử khắp nơi trên thế giới từ thời thượng cổ xem có bao giờ người ta đua nhau tiêu tốn tiền bạc, thời gian và sức khoẻ để giành giật nhau chức đầy tớ, và có nơi đâu trên hành tinh này bọn đầy tớ sung sướng như ở Việt Nam ta không. Nhưng khi dùng câu yếu chỉ của món “lăng ba vi bộ”, ta sẽ hiểu ngay tại sao lại có hiện tượng ưu việt kia, trong cái xã hội ưu việt nọ.

Cái đầu óc bông lông của tôi lại nhắc tới một câu khác cũng không kém phần quen thuộc “chủ nghĩa xã hội là con đường mà Bác Hồ và nhân dân Việt Nam đã chọn”.

Lúc còn nhỏ tôi đã hỏi ông bà tôi rằng phải chăng Bác Hồ và thế hệ ông bà đã chọn chủ nghĩa xã hội. Ông tôi trừng mắt trả lời: tao nào biết cái chủ nghĩa xã hội nó mồm ngang mũi dọc thế nào mà chọn. Hỏi tới cha mẹ tôi, hai ông bà cũng chỉ thở dài mà nói rằng: các anh các chị được ăn học bao nhiêu năm cũng còn chẳng biết nữa là chúng tôi! Tôi lại tự hỏi mình là không biết có khi nào vì lơ đễnh hay đãng trí mà mình, và những người cùng thế hệ với mình, đã điền vội vào một bảng câu hỏi trắc nghiệm nào đó, để đến nỗi chủ nghĩa xã hội trở thành lựa chọn của nhân dân Việt Nam.

Điều đó quyết không thể xảy ra được, vì từ khi bắt đầu hiểu tiếng Việt, tôi đã nghe câu nói trên không biết bao nhiêu lần. Như vậy dĩ nhiên lỗi không phải ở thế hệ trẻ chúng tôi rồi.

Khoảng những năm 2000, giới trí thức Hà Nội và Sài Gòn có chuyền tay nhau một bài viết của tác giả Hai Cù Nèo về những chuyện động trời trong cung đình Hà Nội. Bài viết khá dài, tôi chỉ nhớ đại khái một câu tác giả nói rằng: “tôi là thằng ít học, nào hiểu cái chủ nghĩa xã hội mặt mũi nó ra làm sao, các vị cứ lôi xềnh xệch chúng tôi lên chủ nghĩa xã hội, chứ chúng tôi nào có biết gì!”. Thật ra, cứ truy hỏi nữa, chẳng chóng thì chày, người hỏi sẽ rơi vào một kiểu trận đồ bát quái khó có đường ra. Giải pháp thật đơn giản là đưa câu yếu chỉ vào câu nói kia, mọi chuyện sẽ sáng tỏ.

Khi hiểu được yếu chỉ này, ta cũng sẽ trả lời được câu hỏi mà nhiều người đặt ra: tại sao cái đám công an và quân đội “hiếu với dân” lại đi trấn áp dân oan biểu tình ở Quỳnh Lưu, Thái Bình, Sài Gòn… Công an và quân đội ấy chỉ có hiếu với dân (đã được đánh tráo), chứ dân oan làm gì có chỗ trong lòng hiếu thảo của họ.

Tôi lại nghĩ tới bài viết ngày nào của Dương Thu Hương, trong đó có đoạn:

“Lãnh đạo tập thể, làm chủ tập thể và tập thể làm chủ. Thật đúng là trò chơi chữ, đánh tráo khái niệm của kẻ gian manh. Người dân Việt Nam hẳn đã quá đủ trải nghiệm để hiểu rằng: tập thể làm chủ có nghĩa rằng không ai làm chủ thực sự hết, không một cá nhân nào chịu trách nhiệm thực sự trước toàn thể dân chúng cũng như trước lịch sử mai sau. Bởi thế, người ta có thể nhân danh làm chủ tập thể để tàn phá tài sản quốc gia, để bán đất đai mồ mả của xứ sở, để đẻ ra những công trình vô hiệu lực nhằm hớt lấy những món tiền khổng lồ rót vào những tài khoản riêng ở các ngân hàng ngoài nước. Rồi sau đó, để cho cái tập thể làm chủ kia chịu hầu toà. Nhưng cả cái làm chủ tập thể lẫn cái tập thể làm chủ kia đều vô danh vô tính vô dạng vô hình. Chúng chỉ là thứ trò chơi chữ để đánh tráo các khái niệm, tạo ra một thứ mê cung để hù doạ đám người có chữ và lừa mị dân đen”.

Ôi, hoá ra cái đại hoạ của dân tộc tôi là ở chỗ mấy chục năm qua, “nhân dân” đã bị đảng dùng thuật nhiếp hồn để trở thành bộ da lay lắt, rồi đảng chui vào như một loài cua người ta thường thấy trên các bãi biển: vỏ là ốc, nhưng ruột ốc đã bị chú cua xơi tái.

...
Nhân dân
Nguồn: Ipicasaweb.google.com/Ảnh: linda.ujihara


Ngày nay cái xác nhân dân còm cõi đã không còn có thể mang trên mình một đảng đã trở nên quá cồng kềnh với không biết bao nhiêu những dị tật kinh khủng. Cái công phu “lăng ba vi bộ” mà Dương Thu Hương gọi bằng “trò chơi chữ để đánh tráo các khái niệm” của đảng Cộng sản Việt Nam quả là “cao thâm khôn trắc” vậy.

Đã đến lúc nhân dân (nhân dân với nghĩa chính xác, không bị đưa qua phép tráo đổi gian manh) cần phải giành lấy chỗ đứng và vị trí của mình trong một nền dân chủ thực sự. Nơi đó người dân được nói lên tiếng nói của mình, chứ không còn bị ai đó gạt gẫm rồi cứ đổ sống đổ chết cho nhân dân. Hãy nhớ rằng Nguyễn Trãi từng nói “thuyền bị lật mới biết sức dân như nước”.

© DCVOnline

--------------------------------------------------------------------------------


(1) Lời ông Nguyễn Thế Doanh, trưởng ban tôn giáo, trả lời phỏng vấn BBC ngày 3/01/2008.
(2) Bài viết Những tên tôi tớ cho ngoại bang
(3) Câu thứ ba trong bài thất ngôn bát cú có tựa đề Quan Hải, nguyên văn chữ Hán: “phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ”.
Back to top
« Last Edit: 31. Mar 2008 , 20:53 by dacung »  

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #3 - 01. Apr 2008 , 06:23
 
Bước sang năm thứ 33


Việt Tâm


Nếu lấy mốc dương lịch thì người Việt đã bước sang năm thứ ba mươi ba từ hơn một tháng rồi. Còn nếu ai khư khư quyết giữ lấy thời gian theo âm lịch thì cũng chỉ còn một hai hôm nữa cái năm thứ ba mươi ba sẽ đến nốt.

Ba mươi ba năm đổi thay cuộc sống, ba mươi ba năm làm thân xa xứ, người Việt trong và ngoài nước làm gì, nghĩ gì và ước định gì trong năm mới con Chuột sắp đến?

Giờ đây, bên nhà, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn thì ai cũng đang bấn lên vì cái Tết đang dần tới. Vật giá leo thang, đồng tiền khó kiếm, người ăn không hết kẻ lần chẳng ra. Những bữa tiệc hàng nghìn Mỹ kim mỗi tối, trong khi ở ngay trước cửa các tụ điểm ăn chơi có những người đang chạy thất điên bát đảo mà vẫn không ra đồng tiền mua thức ăn, thuốc uống hay thực tế là mua tấm bánh, đồng quà cho con.

Ba mươi ba năm, số tiền từ các nơi rót về cưu mang người nhà còn kẹt lại năm sau càng cao hơn năm trước, giờ đã lên tới 10 tỉ USD/năm. Đó là chưa kể những món lận lưng hay chuyển ngân không văn bản hay qua trăm ngàn ngõ ngách luồn lách mà chẳng ông nhà nước nào mò ra nổi.

Ba mươi ba năm vật đổi sao dời. Người nào tin vào hòa hợp hòa giải thì đã hân hoan về đầu tư trong nước, từ nhà hàng, khách sạn, sòng bạc, áp phe, hợp pháp hay bất hợp pháp, dựa dẫm hay không dựa dẫm vào bất cứ thế lực nào. Đồng tiền nộp ở các trung tâm nhận gửi tiền cứ nằm nguyên tại chỗ, trong khi chỉ cần chuyển qua internet là bên nhà chung cho người nhận ngay.

Sinh hoạt giao dịch đổi thay tùy theo mỗi nơi mà sự cạnh tranh làm bát nháo bát nhào cả lên, mù tịt chẳng sao mò ra đầu ra đũa. Cũng món tiền mà chi phí đổi thay dù cùng thuộc một tiểu bang, người gửi tiền cảm thấy đau hơn hoạn vì chỉ cách nhau vài trăm dặm đã bị “gọt” gấp đôi choáng váng.

Nhiều người hồ hởi gom tiền về mua đất, mua nhà ở quê. Chẳng rõ hư thực ra sao nhưng đọc bài trên DCVOnline bỗng nghe như mình đang mơ ngủ hoặc đang nghe huyền thoại.

Một thầy còn khăng khăng là học trò lẫn bạn bè đã vung ra hàng bao nhiêu đơn vị 100 mới cứng để mua hàng dãy đất bên quê nhà. Thậm chí đến cả các ông quan Nhảy Dù, Lính Thủy Đánh Bộ ác ôn cũng nhanh nhảu hòa giải ôm tiền về mua bán rất vui, dù thầy cẩn thận cũng làm ra vẻ phê phán công bằng là có thể gặp rủi ro, nhưng có hề chi vì dám làm thì mới được “nổi”.

Ba mươi ba năm rồi, người Việt đã bao phen xiểng liểng vì những mẩu huyền thoại mông lung, đã thất điên bát đảo đến mấy lần bỏ của chạy lấy người. Thê thảm đến nỗi cỡ như ông Phó Tông Tông mà cũng chỉ kịp quàng vội cái xà lỏn chạy ra hạm đội để rồi anh nhà báo Mỹ xỏ lá chộp được ảnh gửi về quê hương giữa những ngày đầu tháng 04/1975 để thóa mạ, chì chiết cho thỏa.

Vậy mà ngày nay huyền thoại đó đã thành hai bên cúc cung lẫn nhau, kẻ lạy người bái, cười mím chi cọp, xem ra con một nhà, vui ra phết.

Những anh chị đã từng đi tù sau ngày thất cơ lỡ vận hẳn còn nhớ những lời rì rầm truyền cho nhau khi cùng nằm trong vòng rào trại cải tạo. Nào là vì Bác mất nên mọi người mới phải trình diện đi học, chứ nếu Bác còn thì chẳng ai phải vào trại làm chi. Ôi cái ngây thơ chết người, cũng tỷ như cụ Diệm chót tin vào Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn hay cụ Thiệu tin vào Huỳnh Văn Trọng v.v...

Chỉ đến khi các anh chị được nhà nước cho học hàng năm, bảy năm để thấm nhuần đường lối, vắt sức lao động ra mà đói dài dài, hoặc làm ra của cải để các bố đem bán, nói là trả nợ có tội với nhân dân thì xem ra huyền thoại về Bác mới lung lay, sứt mẻ.

Lại nói về Cộng sản, đã là chủ nghĩa thì dù ở đâu cũng không có gì khác. Thế mà cũng thời gian nhập nhòa đó, nhiều cụ ông cụ bà đi tù vẫn cứ tin là Cộng sản An Nam ta “bảnh” hơn thiên hạ nhiều. Nga giam tù hàng chục năm ở Xi Bê Ri, các trại goulag, Tàu thì dài dẳng đến 9 năm, còn Cộng sản ta với nhau thì “ai học xong hiểu sớm là về”. Nghe thiết tha y hệt cha con, chồng vợ, anh em ruột thịt.

Nhưng dần dà, lóng ngóng nghe từ tướng Giáp, tướng Dũng vô thăm cháu đều ủi an thằng “phải gió” cố học cho trọn, đừng mơ chuyện can thiệp cho về. Rồi tiếp theo lắm cụ chôn chân hết trại này đến trại khác cả mười năm. Có cụ chán cuộc chơi, chọn nằm luôn tại chỗ, đếch muốn về gặp lại gia đình, vì bệnh hoạn và ốm đói… Lúc đấy thì mới thấy Cộng sản ở đâu cũng “xêm xêm” nhau hết.

Còn lắm ông tin vào Bác, nghe theo Bác bỏ cả bằng lẫn việc, bò về phụng sự dân tộc như các cụ TĐT, TĐN (Trần Dức Thảo, Trần Đại Nghĩa) thì ông lao đao, lận đận, ông cũng ển ển xìu xìu và khi trút hơi cuối cùng cũng vẫn còn tin là mình đang nằm mộng. Trong Nam thì các cụ NHT, HTP, LVT, TĐH, NTB, TNT (Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình, Trương Như Tảng, Ngô Bá Thành, v.v...) hoặc là được giao cho cái chức làng nhàng, có danh không vị, để rồi khi qua đời cũng nằm cô quạnh trong xó nghĩa trang thế thôi.

Nói chi cỡ LQC, LCT, NCĐ hay VH (Vũ Hạnh), NTV (Nguyễn Trọng Văn), NBT thi cũng không qua khỏi nuốt hận hay ngậm hờn với cái nhà hàng con con cho đến ngày dứt bóng.

Nào đã hết, huyền thoại còn khuyên mọi người hãy dẹp đi hận thù để cùng nhau xăn tay xây dựng đất nước. Nghe sao mùi hơn cô Bạch Tuyết xuống câu vọng cổ. Nhưng mà nói vậy không phải vậy. Cứ nhìn họ đối đãi với nhau, gạt ra ngoài mọi định kiến, cường điệu, ta thấy đâu phải họ đều tốt với nhau cả đâu.

Người lính cũ bị thương tàn phế vẫn phải tự lực cánh sinh bằng cách kéo xe lăn đi gào bán vé số hay hát dạo, đau có vào nhà thương “thí” thì cũng chẳng ai đoái nhìn đến gia ơn. Con bỏ học, vợ gầy gò, chồng nay đau mai yếu chỉ biết gào kêu sự trợ giúp ở mãi tận đâu đâu. Thế nhưng huyền thoại sao chỉ đề cập đến rặt những bà con “khúc ruột ngàn dặm” có tí tiền.

Cho dù đồng tiền của “bà con Việt kiều” ngày nay chẳng đáng là gì so với “tài phiệt quốc nội” nhưng có còn hơn không, may ra gom nhặt được thêm, chớ còn ba tay TPB, những người bị kẹt lại thì có gì mà vồ vập, ve vuốt.

Cái ông nhạc sĩ đã kêu rống lên năm 53 bỏ Hà Nội, năm 75 bỏ Saigon, ông ổng lo nếu lần nữa phải bỏ đi thì xuống biển hay về đâu. Thế rồi cũng òn ỉ xin về cúc cung ca tụng, già không nên nết, để cho xú danh hẳn còn lưu lại dài dài.

Ba mươi ba năm, xem ra người Việt vẫn còn thích nghe ngọt, vẫn còn tin vào ba mớ huyền thoại tầm phào. Có người gần đây nghe hải ngoại lên án việc chiếm Hoàng Sa và Trường Sa vẫn ngây thơ suy nghĩ, trách đồng hương sao lên tiếng đòi hỏi làm gì, ta chọn sống như dân Hồng Kông hay Ma Cao chẳng sướng hơn làm dân Việt hay sao.

Chao ôi, nỡ nào lại có người kém thông minh đến thế, Hồng Kông và Ma Cao sở dĩ “chưa” bị cạo trọc đầu vì còn có tí ti ràng buộc với chính quyền ngày trước (Anh hay Bồ Đào Nha), chứ thả ra thì cứ coi gương Tây Tạng sẽ biết rõ người “anh em sông liền sông, núi liền núi” tàn bạo cỡ nào.

Ngố tôi xin các vị, đừng ép chúng tôi phải tin vào huyền thoại nữa. Chúng tôi sợ lắm lắm rồi.

Quí vị có “tin” họ thì Ngố tôi mong quí vị nhanh chóng đem tiền, đem của, đem cả vợ con về muốn làm gì tùy thích. Nhưng phải là chính các vị đấy nhé, đừng xúi dại người khác, rồi không dưng nêu ra anh này, chị nọ, những người đã từng bị vần đến trọc đầu để dụ khị đưa họ vào tròng thì tội lắm. Nhất là xin Thầy chớ khuyên đám học trò thơ dại, lỡ ra có đồng nào họ bốc đồng đem về rồi “trắng máu” ra cả lũ thì tội cho họ lắm.

Cỡ Thầy mà về, đem nghề và tiền bạc về may ra phất lớn. Hiện nay Mặt trận Tổ quốc đang dự trù nới rộng thành phần ngoài Đảng, Thầy về chắc được họ vời ngay, giao cho một chức Bộ này Bộ nọ thì hãnh diện cho tụi bên này biết bao. Lúc đó, nghe tin Thầy quyết định “về nhà”, dù Ngố có túng đến mấy cũng ráng mua bó hoa hồng bò ra tận phi trường tặng Thầy với lời chúc thượng lộ bình an.

Mong lắm thay. Nhưng đến ngày nào thì sẽ có huyền thoại Thầy về bên nhà nhỉ?

© DCVOnline
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #4 - 04. Apr 2008 , 05:53
 
Thứ Sáu, 04/04/2008

"Con đường nào ta đi..."



TTO - Rất nhiều bạn đọc gửi thư về Tuổi Trẻ Online chia sẻ nỗi bức bối lẫn thất vọng của mình: tránh kẹt xe ở đường này lại gặp ở đường khác, tránh giờ này lại gặp giờ khác, không cách gì thoát ra được. Riêng bạn đọc P.NGUYEN gửi hẳn một... bài nhạc phóng tác từ bài Con đường tình ta đi của nhạc sĩ Phạm Duy, với chú thích "xin tạ lỗi nhạc sĩ Phạm Duy".

Vì ý kiến bạn đọc rất nhiều, ở đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu nỗi bức xúc mang tên "Con đường nào ta đi" của bạn P.NGUYEN, "thay lời muốn nói" của hàng ngàn bạn đọc khác:

"Con đường nào ta đi..."

Con đường nào ta đi cũng đào lên đào xuống.
Con đường chiều thành đô, con đường bụi mịt mù...

Con đường giờ tan ca, công trình che bít lối.
Xe kẹt dài lên hè - con đường nào ta đi????

Con đường mà khi mưa, nước tràn như dòng suối.
Ta dùng xuồng ta đi, nên nhìn còn thẹn thùng.

Con đường nào ta đi - tới nhà hay vào lớp…
Con đường làm công trình, con đường đầy gian nan.

Thế rồi đường vào nhà, cũng tìm hoài không ra.
Đi lạc vòng quanh phố, không đường vào.
Đứng ở ngoài đầu đường. Giống ở đầu con sông.
Trông về con đường cũ, mênh mông, mênh mông…

Hỡi nhà thầu làm đường, hãy làm giùm mau mau!!!!
Ít người làm như thế, trên đường dài.
Có vài người cào cào, biết giờ nào cho xong?
Trả về con đường cũ như xưa, như xưa…

P.NGUYEN
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #5 - 09. May 2008 , 10:20
 
Vẫn (cứ) theo gương Bác


Tưởng Năng Tiến


Sau nhiều năm lưu lạc, khi trở lại cố hương, ông Cao Ngọc Quỳnh bùi ngùi kể lại: ”Tôi cô đơn lạc giữa dòng người, dòng hoa, dòng đèn và dòng… khẩu hiệu. Vẫn những khẩu hiệu ấy của nhiều chục năm về trước với những sắc màu rực rỡ hơn trong sự mầu nhiệm của nền kinh tế thị trường.”

Họ Cao khiến tôi nhớ đến “những dòng khẩu hiệu ấy của nhiều chục năm về trước,” cùng với một tiếng thở dài - cố nén:

- Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh Muôn Năm.
- Chủ Nghĩa Mac Xít Lê Nin Nít Bách Chiến Bách Thắng Vô địch Muôn Năm.
- Hồ Chủ Tịch Sống Mãi Trong Sự Nghiệp Của Chúng Ta.
- …

Suốt đời phải sống giữa cả đống “ Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc - Bách Chiến - Bách Thắng - Vĩ Đại - Quang Vinh - Muôn Năm ” … giăng mắc ở khắp nơi như thế, nếu không bị loạn thị, người dân Việt (ít nhiều) chắc đều trở thành mụ mị. Do đó, “Tổ Quốc (nếu được) Nhìn Từ Xa” trông có vẻ lại rõ nét hơn:

“Xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày
Xứ sở nhân tình sao thật lắm thương binh
Đi kiếm ăn đủ kiểu
Nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng …
Xứ sở thông minh sao lắm trẻ em thất học
Lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương…
Xứ sở thiêng liêng sao lắm đình chùa làm kho hợp tác…”
Nguyễn Duy (Tổ Quốc Nhìn Từ Xa - 1988)

Hai mươi năm sau, năm 2008, một công dân khác - ông Phạm Đình Trọng - từ Ấn Độ cũng vẫn lại nhìn về Việt Nam với nỗi niềm ray rứt, trăn trở và bất an (y trang) như trước:

“Ấn Độ là đất nước của thần linh ...Việt Nam cũng là đất nước của thần linh… Nhưng chỉ vài chục năm cách mạng vô sản, nhiều đình chùa có tự ngàn xưa bị san phẳng, thần linh bị báng bổ… Những thần linh giả được đôn lên. Thần tài được tôn thờ…”

” Những ngày ở xứ sở của thần linh, tôi cứ tiếc nuối, cứ ngẩn ngơ nhớ đến cụ Phan Chu Trinh, một thần linh lớn lao, cao cả của chúng ta mà chúng ta chưa nhận thức đầy đủ.”

”Cùng thời với Gandhi, chúng ta có Phan Chu Trinh. Cùng tư tưởng, cùng cách lựa chọn như Gandhi, Phan Chu Trinh cũng chủ trương không dùng bạo lực, không đẩy người dân tay không ra đối đầu với súng đạn thực dân, mà phải trước hết nâng cao dân trí cho họ. Dân trí cao, người dân sẽ ý thức được quyền con người, quyền dân tộc mà bền bỉ đấu tranh chính trị, đấu tranh nghị trường giành độc lập. Gandhi đã thực hiện điều đó. Ấn Ðộ đã giành độc lập theo cách đó và đã thắng lợi!”

”Ðịnh mệnh trớ trêu đưa đẩy, chúng ta đã chọn con đường cách mạnh vô sản!” Ðó là cái giá chúng ta phải trả cho con đường cách mạng vô sản mà chúng ta đã chọn!”

Nói là “Tổ Quốc Nhìn Từ Xa” nghe cho nó có vẻ giang hồ (vặt) và kiểu (cọ) chút đỉnh, chứ thực ra thì cũng không cần lê la xa xôi gì cho mệt, chỉ cần sống trên cao chút xíu - nhiều công dân Việt Nam - cũng có thể nhìn ra được rõ ràng thực trạng (phũ phàng) của đất nước mình.

Từ cao nguyên Lâm Viên, ông Mai Thái Lĩnh, một biên tập viên của tạp chí Lang Biang (tờ báo đã bị đóng cửa vào tháng 5 năm 1988) cũng đã trình bầy những quan điểm tương đồng như ông Phạm Đình Trọng, qua một loạt bài viết công phu – “Tìm Hiểu Quan Niệm chính Trị Của Phan Châu Trinh” - đọc được trên talawas vào những ngày 24 tháng 2, 26 tháng 2, và 24 tháng 3 năm 2007, xin trích dẫn một đoạn ngăn ngắn:

“Nếu quân chủ (quân trị) là chế độ mà một ông vua hay một dòng họ (hoàng gia) làm chủ, nếu dân chủ (dân trị) là chế độ mà toàn dân làm chủ, thì chế độ độc đảng toàn trị (đảng trị) chính là chế độ trong đó một đảng làm chủ. Chế độ đó thực chất chỉ là một chế độ quân chủ kiểu mới, một chế độ quân chủ trá hình.”

”Như vậy, chế độ độc đảng toàn trị chỉ là một chế độ dân chủ giả hiệu, không phải là một chế độ dân chủ đích thực. Vì thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu như tất cả, hay hầu hết những gì Phan Châu Trinh nhận xét về chế độ quân chủ đều có thể áp dụng cho chế độ độc đảng toàn trị (đảng trị), tức là một chế độ trong đó một đảng làm chủ. Dù có thay một ông “vua cá nhân” bằng một ông “vua tập thể” thì những nét tương đồng vẫn có thể tìm thấy dễ dàng, nếu như mỗi chúng ta không bị những thứ chữ nghĩa “biện chứng” làm cho mờ mắt, hoặc bị những giáo điều của “tôn giáo mới” làm cho đầu óc khờ khạo, u mê.”

”Và cũng từ đó, chúng ta càng hiểu một cách sâu sắc tại sao hàng loạt các nhà nghiên cứu dựa trên quan điểm Marx - Lenin đã và đang luôn luôn tìm mọi cách để bưng bít, xuyên tạc quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh, một trong những nhà dân chủ đầu tiên và có thể là nhà dân chủ lớn nhất của nước ta trong thế kỷ 20.”

Quan điểm của ông Mai Thái Lĩnh được ông Hà Sĩ Phu (một cư dân khác, cũng sống hơi cao, trên cao nguyên Lâm Viên) tận tình chia sẻ - qua một loạt những bài viết khác: “Tư Tưởng Và Dân Trí Là Nền Móng Xã Hội” - đọc được trên Thông Luận vào những ngày 15 tháng 5, 17 tháng 5 và 1 tháng 6 năm 2007. Xin trích dẫn một đoạn ngắn:

”Nếu đoàn tàu Việt Nam thuở ấy rẽ vào đường ray Phan Chu Trinh, nhằm hướng xã hội dân chủ như Na Uy, Thuỵ Điển bây giờ thì sao nhỉ? “

”Nếu nương vào Pháp để đi lên thành công, không thành cộng sản, thì giản ước được bao nhiêu thứ:

• không có cuộc đánh Pháp 9 năm
• không có cuộc “Nam Bắc phân tranh lần thứ 2” dẫn đến cuộc đánh Mỹ
• không phải tham chiến ở Căm-pu-chia
• không tranh giành gì để phải đánh Tàu năm 1979
• không có lý do gì phải tiến hành cuộc “đổi mới hay là chết”
• không có lý do gì để xuất hiện làn sóng đòi dân chủ-nhân quyền, dẫn đến hài kịch bịt miệng bị cáo trước toà cho thiên hạ xem, vân vân… “

“Nghĩa là tiết kiệm được bao nhiêu thời gian, bao nhiêu gương anh hùng, bao nhiêu nạn nhân, bao nhiêu máu xương, bao nhiêu hận thù… và tăng thêm được bao nhiêu là hạnh phúc… “

”Nhưng bất hạnh thay, lịch sử đã không chọn Phan Chu Trinh. Không, đừng nói lịch sử, phải nói: dân tộc này đã không chọn Phan Chu Trinh.”

Bộ thiệt vậy sao, Trời? Ông Phạm Đình Trọng thì nằng nặc cho là vì “định mệnh trớ trêu đưa đẩy chúng ta đã chọn con đường cách mạng vô sản!” Còn ông ông Hà Sĩ Phu thì nhất định nói rằng “dân tộc này đã không chọn Phan Châu Trinh.” Nói cách khác, theo hai ông, là “chúng ta” hay “dân tộc này” đã lựa ông Hồ Chí Minh - đúng không?

Nếu đúng vậy thì xin thưa (trước) là trong số những người mà ông Phạm Đình Trọng gọi là “chúng ta,” và ông ông Hà Sĩ Phu tóm gọn thành cả “dân tộc này” (kể như) không có … “em” đâu đó nha.

Ít nhất cũng có tới nửa phần dân tộc Việt - trong hơn một phần tư thế kỷ - đã chiến đấu không ngừng, đã chấp nhận hy sinh hàng triệu mạng sống, chỉ để cố giữ cho nửa phần quê hương VN không bị rơi vào thảm hoạ vô sản hoá và bần cùng hoá.

Mà nói vậy - không lẽ - nửa phần dân tộc Việt còn lại đều đã đồng lòng cắm cúi bước theo con đường (“kách mệnh”) mà “Bác kính yêu đã chọn” hay sao? Vơ đũa cả nắm như vậy (e) còn trật dữ nữa.

Cả dân này Việt - nói tình ngay - chưa bao giờ có cái may mắn được lựa chọn bất cứ chuyện gì. Họ chỉ bị huyễn hoặc (hay được lãnh đạo) để lao vào những cuộc chiến rất “thần thánh” nhưng hoàn toàn không cần thiết - thay vì kiên trì nghe theo lời kêu gọi thống thiết “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” của cụ Phan - thế thôi.

Nếu nói theo kiểu của ông Bùi Tín, họ sống giữa “thế kỷ mây mù” mà. Và ông Hồ Chí Minh là nhân vật mù mờ, đáng ngờ nhất của thế kỷ này. Chỉ cái tên gọi, ngày sinh, ngày tử, và chuyện tình ái (lăng nhăng) của ông ấy không thôi cũng đủ cho toàn dân … phát mệt, và khiến cho không ít kẻ phải mất việc hay mất mạng!

Sống và hoạt động “kách mệnh” cùng thời với ông Hồ mà không bị bán đứng, không bị ám sát, không bị hãm hại, không bị thủ tiêu… là may mắn và phước đức lắm rồi. Còn chuyện bị xuyên tạc, bị cái bóng đen và dàn loa tuyên truyền của Đảng ông ấy che khuất lấp (như trường hợp của cụ Phan Châu Trinh) thì kể như là chuyện nhỏ.

Sở dĩ ông Hồ Chí Minh gạt được nhiều người, trong nhiều năm, và có thể trở thành một thứ “thần tượng giả được đôn lên” (nếu nói theo cách của nhà văn Phạm Đình Trọng) vì ông ta có được sự đồng lõa của cả một băng đảng chuyên môn làm bạc giả - Ðảng Cộng Sản Việt Nam.

Nửa thế kỷ trước, không ít những người thuộc thế hệ cha anh của tôi chưa bao giờ may mắn có được cái độ lùi cần thiết để nhìn rõ về chân dung của ông Hồ (nói riêng) và cuộc cách mạng vô sản (nói chung) một cách rõ ràng như thế. Thực không có gì ngạc nhiên là họ đã… trao duyên lầm tướng cướp, và cũng không có gì đáng trách vì họ đã cầm nhầm tiền giả.

Có đáng trách chăng là cho mãi đến hôm nay, sau khi cả dân tộc đã bị đẩy đi đến tận cùng sự bi đát (theo con đường Bác đi) mà Tuổi Trẻ Online vẫn thản nhiên rầm rộ cổ động “bạn đọc tham gia viết bài Hoạt Động Theo Gương Của Bác.” Ông Nguyễn Văn Hùng, một độc giả, đã “tham gia” với bài viết “Chiếc Gối Thần Của Bà Tôi” – có đoạn – như sau:

“Bà tôi không theo đạo bà bảo chiếc gối bông là ‘chiếc bùa hộ mệnh’ của bà. Tôi để ý mỗi khi có việc gì hệ trọng thì bà lại lần giở chiếc gối, lấy ra một tờ giấy ố vàng đưa lên áp vào ngực và lẩm nhẩm khấn vái như người ta đọc kinh…”

“Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước rợp cờ hoa mừng giải phóng, bà tôi lặng lẽ làm mâm cơm thắp hương lên bàn thờ Bác. Khác với mọi lần, bà tôi kính cẩn khấn vái rất lâu, nước mắt bà chảy dài làm tôi cũng muốn khóc theo. Khấn vái xong bà gọi tôi đến lấy cho bà chiếc gối. Tôi hồi hộp nhìn theo tay bà lần giở từng lớp bông gòn lấy ra một túi nilông đựng một tấm ảnh Bác Hồ đen trắng được bà cắt ra từ tờ báo Quân đội Nhân dân cũ và một tờ giấy ố vàng hơi nhàu, đó là bản Di chúc của Bác (3).“

Giữ “lề bên phải,” cho nó an toàn, là điều có thể thông cảm được trong hoàn nghiệt ngã đối với những người đang sinh sống bằng nghể truyền thông - ở Việt Nam. Tuy nhiên, tiếp tục cổ võ cho chính sách ngu dân của nhưng kẻ đang cầm quyền ở xứ sở này thì lại là chuyện khác. Một chuyện bất nhân, ác tâm và ngu xuẩn.

Copyright © DCVOnline
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
DoQuan
Gold Member
*****
Offline


Boycott Red China

Posts: 681
Re: Phiếm Luận
Reply #6 - 20. May 2008 , 16:37
 
Giải thoát khỏi cái đói

Thursday, May 08, 2008 

Ngô Nhân Dụng

Ðầu thập niên 1980, tôi tham dự một nhóm công dân người Canada tranh đấu cho nhân quyền, họ đang vận động chính phủ Canada can thiệp đòi Cộng Sản trả tự do cho nhà văn Doãn Quốc Sĩ ở Việt Nam. Tôi đã kể chuyện về Doãn Quốc Sĩ cho những bạn trẻ này nghe, về con người, về các sáng tác của ông.

Một người trong nhóm yêu cầu tôi giới thiệu một tác phẩm ngắn của Doãn Quốc Sĩ để giúp anh hiểu thêm về con người mà anh đã vận động, tranh đấu đòi trả tự do từ mấy năm qua. Tôi đã chọn truyện ngắn “Chiếc chiếu hoa cạp điều.” Người Việt nào mà không biết truyện này? Cảnh chạy loạn trong đó là cảnh mà tôi đã sống qua khi còn nhỏ. Nhân vật người mẹ trong đó có đủ những sức mạnh và những lúc mềm yếu không khác gì mẹ tôi. Anh bạn người Canada gốc Bỉ, nói tiếng Pháp, ngồi nghe tôi dịch từng câu trong truyện ngắn đó. Ðến một chỗ anh tỏ vẻ không hài lòng.

Ðó là chỗ nhà giáo Doãn Quốc Sĩ bàn về chính trị. Ông nói đại ý là người ta đang sống giữa một cuộc tranh chấp giữa hai ý thức hệ, tư bản và Cộng Sản, mà ông thấy cả hai đều hỏng. Tư bản thì chỉ vụ lợi, lấy cái lợi để nhử con người. Cộng Sản thì tìm cách kiểm soát con người bằng mọi phương tiện. Câu văn của Doãn Quốc Sĩ khiến anh bạn tôi không tin là khi nhà văn nói chế độ Cộng Sản đưa con người vào cảnh đói khát để dễ kiểm soát người ta hơn. Anh Warrot không thể tin là có một chế độ đưa con người vào cảnh đói khổ. Giống như phần lớn các thanh niên cấp tiến Tây phương, anh biết chế độ Cộng Sản là độc tài, đàn áp dân, xâm phạm nhân quyền, nhưng anh vẫn cho là họ chỉ lầm lẫn về chính sách cai trị chứ không dùng kinh tế nghèo đói làm lợi khí cai trị. Tôi chỉ có thể giải thích với anh rằng Doãn Quốc Sĩ chỉ viết theo kinh nghiệm sống của ông. Mà tôi biết, Doãn Quốc Sĩ là một người hiền hòa, chính trực, không bao giờ bịa đặt để nói xấu người khác.

Trong lúc chúng tôi đang bàn cãi nhau về văn chương như vậy, thì nhà văn Doãn Quốc Sĩ hay nhà báo Như Phong ở trong trại cải tạo đang ngồi thiền và nhịn đói. Trong những cái nhà tù đó, quả thật người ta dùng cái đói, cái thiếu thốn, thèm khát kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, để biến con người thành nô lệ cho những nhu cầu căn bản của thân xác: ăn, ngủ. Hơn thế nữa, họ muốn giản lược hóa con người vào tình trạng như muông thú chỉ biết sống theo bản năng sinh tồn. Những người như Doãn Quốc Sĩ, Như Phong, Thanh Tâm Tuyền, Hà Thượng Nhân, vẫn sống thản nhiên, đĩnh đạc, giữ vững tư cách của bậc đại trượng phu “bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” vì nhờ họ đã được giáo dục trong nền nếp đạo lý truyền thống của ông bà từ nhiều thế hệ trước.

Những ông Stalin, ông Mao Trạch Ðông, và đệ tử của họ là ông Hồ Chí Minh dùng chế độ hộ khẩu, tem phiếu để kiểm soát miếng ăn của người dân bị trị, họ biết đó là một phương pháp kiểm soát con người rất có hiệu quả. Khi miếng ăn đã là mối quan tâm hàng ngày lớn nhất, khi mọi người phấn đấu suốt ngày đêm, suốt cuộc đời để được ăn một miếng thịt nhiều hơn nhà hàng xóm, thì “bảo quỳ nó sẽ quỳ, bảo bò nó sẽ bò,” như lời một anh quản giáo nói. Người dân bị trị sẽ không ngần ngại hô to các khẩu hiệu “tiến tới xã hội xã hội chủ nghĩa” hay là “yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội” miễn là được thưởng một miếng thịt. Vừa được ăn thịt, lại vừa tin tưởng rằng mình đang xây dựng một thiên đường cho cả nhân loại, ai chẳng sẵn sàng hy sinh và hết lòng tuân phục theo lãnh đạo? Giống như con chó thuần phục ông bà chủ cho mình miếng xương, những con người phải nhịn đói lâu ngày cũng biết ơn những kẻ đã cho mình được ăn no bụng. Nhờ ơn Bác, nhờ ơn Ðảng mới có mớ rau muống, mới có miếng thịt gà!

Ngày xưa Machiavelli dậy các ông hoàng hai phương pháp trị dân: Hoặc làm cho chúng nó sợ, hoặc làm sao được chúng nó yêu. Cách thứ nhất dễ hơn và hiệu quả chắc chắn hơn. Các lãnh tụ Cộng Sản sáng tạo thêm một phương pháp thứ ba: Ðể cho chúng nó đói. Ðó là cách chắc chắn nhất. Nếu không sống trong chế độ như vậy thì khó tin đó là sự thật.

Trong đám cộng sản ở Á Châu, chỉ còn ông Kim Chính Nhật vẫn trung thành với Stalin, Mao Trạch Ðông. Guồng máy cai trị của bố con ông Kim là kiểu mẫu hoàn hảo, đưa phương pháp của Xít và Mao đến mức tuyệt kỹ. Hồ Chí Minh hay Pol Pot cũng không tài như vậy.

Nhưng ông Xít cũng như ông Mao không ngờ phương pháp trị dân của họ còn tạo được hậu quả lâu dài, chính nó giúp các đảng Cộng Sản Á Châu bảo vệ được quyền hành ngay cả khi chính cán bộ Cộng Sản không còn tin ở chủ nghĩa của họ nữa. Có ông bà nào trong Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam còn tin ở Chủ Nghĩa Xã Hội hay không? Họ không tin, nhưng vẫn nhân danh các khẩu hiệu cũ nát đó để cai trị. Và điều thần tình là ngay cả khi họ tháo gỡ guồng máy kiểm soát bằng tem phiếu rồi, dân bắt đầu được tự do kiếm miếng ăn ngoài biên chế, nhưng nhiều người vẫn cúi đầu chấp nhận sống như con thú nuôi trong chuồng! Guồng máy cai trị đã được thiết lập kiên cố, người dân được tập sống trong đó quen rồi, họ được tự do kiếm miếng thịt ăn thì chỉ biết cắm cúi lo ăn cho sướng. Sau khi đã phải nhịn đói cả đời, được ăn là thỏa mãn, ai còn muốn suy nghĩ đến những vấn đề khác? Thói quen thần phục nó giam giữ con người, bỏ ngay không được, giống như những con gà được nuôi trong chuồng đã quen, cứ đến tối lại tìm về nằm trong chuồng vậy.

Các chế độ Cộng Sản Á Châu vẫn tồn tại được sau khi đã thay đổi guồng máy kinh tế chỉ huy từ hai chục năm nay, cũng là nhờ chính sách cai trị kiểu Xít và Mao đã tập cho dân thói quen vâng lời, giống như những con thú đã được thuần hóa. Cho nên, mối đe dọa duy nhất cho các chế độ này là những người dân còn trẻ quá, từ lúc lớn lên không được nuôi nấng theo phương pháp cũ. Thế hệ trẻ này bắt đầu “hư” vì suy nghĩ theo lối khác với cha anh họ.

Hồi đầu thập niên 1990, khi qua các nước Ðông Âu, tôi vẫn còn gặp những thanh niên suy nghĩ theo lối “gà về chuồng.” Có những chị sinh viên 30 tuổi được đảng và nhà nước cho du học hay đi làm lao động ở nước ngoài thì coi đó là một ân huệ mà đảng và nhà nước dành cho mình. Nhờ cha mẹ mình và chính mình “phấn đấu” cho nên được tưởng thưởng xứng đáng. Họ thấy những sinh viên hay thanh niên lao động khác có ý tưởng khác với chính sách của đảng thì họ coi đó là những phường bội bạc! Có những người chỉ trích Hà Sĩ Phu, coi là một người phản bội vì anh tuyên bố chia tay với chủ nghĩa Mác! Anh đã được đảng cho đi du học, trở về nước không chịu chui vào guồng máy phục vụ đảng! Ðã được đảng đãi ngộ tốt đến thế mà còn chống lại đảng, đúng là bất hiếu bất mục! Ðến bây giờ vẫn còn một số người nói như thế, đặc biệt là nhân viên sứ quán, để khuyên nhủ các người Việt ở Ðông Âu.

Nhưng từ dăm năm qua, khi gặp những người bạn trẻ ở Ðông Âu, tôi thấy họ bắt đầu suy nghĩ khác. Họ đã bắt đầu suy nghĩ tự do, không sợ hãi. Tự do bao giờ cũng đi đôi với quyết định. Khi quyết định, dù chỉ quyết định nêu ý kiến, tức là phải đối phó với những hậu quả của điều mình quyết định. Suy nghĩ là chọn tự do và chọn rủi ro!

Nhiều người còn trung thành với chế độ Cộng Sản là vì họ từ chối, không muốn suy nghĩ, không muốn tự chuốc lấy mối rủi ro vì suy nghĩ mà phải gánh. Còn đa số các bạn trẻ người Việt, ở trong nước cũng như ở ngoài, họ chọn con đường suy nghĩ độc lập. Nhiễm thói quen suy nghĩ độc lập rồi, điều đầu tiên họ cảm thấy là họ không nợ nần gì đảng và nhà nước Cộng Sản cả. Kinh tế thị trường, dù chưa đủ tự do, cũng giải thoát con người khỏi mối lo sợ vì đói, mất nỗi ám ảnh về đói mà thế hệ trước ở Việt Nam còn phải chịu. Khi một người dân được ăn no, mà nghĩ rằng chính họ, cha mẹ, gia đình họ đã dùng sức mình kiếm được miếng ăn, thì không còn ai nghĩ theo kiểu “Nhờ ơn bác, nhờ ơn đảng” theo lối kinh nhật tụng ngày xưa nữa. Con người được giải phóng khi cái bao tử được giải phóng! Một thanh niên khi được anh chị khuyên nên phấn đấu để được kết nạp vào đảng,đã phát biểu rất hồn nhiên: Em “đ...” cần vào đảng em cũng có tiền!

Khi bắt đầu được tự mưu sinh, tập sống độc lập, suy nghĩ độc lập, thì điều đầu tiên người ta khám phá ra là họ không nhờ vả gì những người ngồi trên đầu trên cổ họ cả. Không phải chịu ơn bác và đảng nào cả. Trái lại, người ta ý thức được rằng chính guồng máy cai trị đó được mình nuôi, ý thức rằng “người dân đóng thuế” là những người nuôi các ông công an, các ông cán bộ, chứ không phải chịu ơn các ông đó.

Ðảng Cộng Sản đang lo một điều mà trước đây họ không bao giờ phải lo, là người dân Việt Nam, bắt đầu với thanh niên, đòi nhà nước phải thỏa mãn những quyền lợi mà họ ý thức là họ được hưởng. Thí dụ, nhà nước phải ngăn ngừa lạm phát. Phải tránh cảnh thóc cao gạo kém, ngăn không cho nạn đói xẩy ra. Trước đây 20 năm, dân Việt Nam không dám nói đến quyền lợi, mà lúc nào cũng được nhà nước nhắc nhở phải làm bổn phận. Giới thanh niên đã thay đổi thái độ, và họ sẽ kích thích, lôi kéo cả xã hội thay đổi theo.

Những phong trào phản kháng gần đây ở trong nước đang thu hút những người trẻ. Họ đã đặt ra những vấn đề mới khác hẳn thế hệ trước. Chính vì họ đã được giải thoát khỏi mối lo bị đói. Họ đã được giải thoát, không còn giữ trong ký ức riêng và ký ức tập thể những ám ảnh về đói, không còn mang ơn guồng máy cai trị phát cơm cho ăn nữa. Từ đó, nẩy sinh ra ý thức về quyền công dân, quyền của những người đóng thuế nuôi hệ thống nhà nước. Họ bắt đầu đặt những câu hỏi mới. Khi bớt lo bị đói, người ta sẽ đặt những câu hỏi mới.

Mươi năm trước, những ông Trần Ðộ, Hà Sĩ Phu, Phan Ðình Diệu đặt những câu hỏi về chủ nghĩa, về hệ thống xã hội. Ngày nay, các thanh niên hỏi: “Ðảng Cộng Sản Việt Nam lấy tiền đâu ra mà nuôi cả guồng kềnh càng máy đảng?” “Có phải đó cũng là tiền do người dân đóng thuế hay không?” Ðó là những điều mà ngày xưa cha mẹ họ không nghĩ tới, không ai dám hỏi. Nhưng đó là những câu hỏi ai cũng hiểu được, ai cũng thấy là cần phải hỏi.

Cho nên, khi các đảng Cộng Sản ở Á Châu bắt đầu thay đổi guồng máy kinh tế, chúng ta biết sẽ có những hậu quả chính trị. Thế hệ trẻ biết giá trị của họ, với tư cách những công dân biết suy nghĩ và dám suy nghĩ. Không sớm thì muộn, chế độ sẽ phải thay đổi về chính trị.

Back to top
 

1) Không mua hàng Made in China&&2) Không du lịch hay travel bằng hàng không China&&3) Không giao dịch và mua bán với China
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #7 - 21. May 2008 , 03:47
 
Con Ơ Miền Nam Ra Thăm Lăng Bác
 

TƯỞNG NĂNG TIẾN . Việt Báo Chủ Nhật, 5/18/2008, 12:02:00 AM


Trong quyển “Lịch Sử Tây Nam Bộ 30 Năm Kháng Chiến”, có đoạn ghi rằng: “Mùng 2 Tết Nguyên Đán năm Ất Mùi (1955), trong buổi chúc tết Bác Hồ tại Phủ Chủ Tịch, đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh thay mặt đồng bào Nam Bộ dâng tặng Bác cây vú sữa.”“Bác đã xúc động đến ngấn lệ khi biết đây là cây vú sữa của đồng bào vùng tận cùng của Tổ quốc. Cũng từ đó, cây vú sữa đã trở thành biểu tượng tấm lòng Bác Hồ đối với miền Nam và của miền Nam đối với Bác Hồ. Nhưng ai là người trực tiếp gửi tặng Bác cây vú sữa, nguồn gốc cây vú sữa là ở đâu?”

Ý chà, hỏi khó dữ à nha! Hồi đó, miền Nam có cả đống người ái mộ Bác Hồ chớ đâu phải một hay hai. Làm sao mà biết chính xác “ai là người trực tiếp gửi tặng Bác cây vú sữa” cho được, mấy cha?

Vậy mà hai phóng viên Hồ Văn và Phương Nguyên, nhân dịp kỷ niệm năm mươi năm những chuyến tầu tập kết, đã thực hiện được kỳ tích đó. Hai người lặn lội tuốt xuống xã Trí Phải, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau để làm một thiên phóng sự về vụ này. Bài viết của họ, có tựa là Ai Gửi Tặng Bác Hồ Cây Vú Sữa Miền Nam - tuy có vẻ hoang đường nhưng hấp dẫn - được đăng trên tuần báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 3 tháng 2 năm 2005: “Chúng tôi thuê tắc ráng xuôi kinh 10 tới thẳng nhà ông Nguyễn Văn Phận - một nhân chứng của những ngày tập kết lịch sử. Ngày trước ông là tổ trưởng tổ Đảng ấp 10, xã Trí Phải. Trong những ngày tháng tập kết đầy xúc động ấy, ông là người đón, đưa bộ đội về xã, về Vàm Chắc Băng chuẩn bị lên đường ra Bắc.”

Ông kể: “Khi lễ tiễn đưa sắp kết thúc, mẹ Tư hai tay ôm cây vú sữa nhỏ bước tới đưa cho anh Ba Kiên (khi đó là đại đội trưởng đại đội pháo của tiểu đoàn 307), nhắn gửi tặng Cụ Hồ. Ai nói gì thì nói, riêng tôi và nhiều người nữa ở xã này biết rõ cây vú sữa ấy là do mẹ Tư gửi tặng Bác Hồ. Nó được cô Bảy (con gái mẹ Tư, hiện còn sống ở kinh 9) bứng từ nhà ông Năm Đươn, cha nuôi của mẹ Tư hồi xưa”
Hồi đó, cô Bảy chỉ mới 14 tuổi. Cô kể: “Khi các chú với tía mang balô lên Vàm Chắc Băng tập kết, mẹ gọi tôi vào nói: Tụi nó đi mà không có gì gửi cho Cụ Hồ. Mày chạy xuống nhà ngoại bứng về cho má cây vú sữa gửi cho Cụ nhanh lên!”
“Chẳng ai trả lời được câu hỏi tại sao mẹ Tư lại tặng cây vú sữa mà không là cây khác.”

Cô Bảy kể lại: “khi đã ở cái tuổi “gần đất xa trời”, mẹ cô nói với con cháu rằng muốn được một lần ra thăm lăng Bác để coi lại cây vú sữa bà tặng Cụ Hồ bây giờ ra sao. Nhưng mong ước chưa thực hiện vì không có điều kiện thì mẹ đã ra đi mãi mãi. Bây giờ mộ mẹ nằm đó, bên cạnh mộ chồng. Còn cô Bảy, khi kể chuyện thỉnh thoảng lại hỏi chúng tôi: ‘Đã ra thăm lăng Bác lần nào chưa? Kể cho cô nghe với. Lăng có đẹp không? Vô đó có nhìn thấy Bác không? Cây vú sữa có sai quả không?’ Cô hỏi mà chúng tôi không kịp trả lời, mà cũng chẳng trả lời nổi. Họ là vậy đó, vẫn một lòng hướng về với Bác, với đồng bào miền Bắc như cái thời đất nước còn chia cách!” Ông Nguyễn Hữu Thành - phó Ban tuyên giáo tỉnh Cà Mau - cho biết do có quá nhiều ý kiến xung quanh sự kiện “Cây vú sữa miền Nam” nên Tỉnh ủy và UBND tỉnh Cà Mau đã tổ chức cho thẩm tra, và kết luận: “Cây vú sữa miền Nam gửi tặng Bác Hồ năm 1954 là do gia đình bà Lê Thị Sảnh (thường gọi là mẹ Tư) đại diện nhân dân miền Nam gửi tặng Bác Hồ’. UBND tỉnh cũng đã chấp thuận cho xây dựng bia kỷ niệm ‘Cây vú sữa miền Nam với Bác Hồ’ tại nhà bà Sảnh để kỷ niệm 50 năm những chuyến tàu tập kết”

Thiệt đọc mà muốn ứa nước mắt. Câu chuyện dù khó tin nhưng vẫn (cứ) vô cùng cảm động. Trên suốt đoạn đường, đi ròng rã cả năm, từ Cà Mau ra Hà Nội, chắc anh Ba Kiên ăn không ngon ngủ không yên vì phải lo chăm sóc cây vú sữa. Không chừng, dám có lúc, anh bỏ uống luôn để lấy nước nuôi cây. Chớ không lẽ cây vú sữa mà mẹ Tư đại diện nhân dân miền Nam dâng Bác mà lại tưới bằng nước đái.
Chỉ có cái quyết định của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Cà Mau, về chuyện “cho xây bia tưởng niệm cây vú sữa miền Nam với bác Hồ”, là có vẻ hơi nặng phần trình diễn. Tưởng gì chớ mộ bia, và bằng khen thì “những gia đình có công với cách mạng” - Bắc cũng như Nam - đâu có thiếu. Nhà nào mà sau vườn không ngổn ngang bia mộ liệt sĩ, và trên tường không treo (tá lả) cả đống bằng khen thưởng.

Thay vì xây bia, để tiền cho cô Bẩy ra ngoài Bắc chơi một chuyến có phải đã hơn không? Hồi 1954, cô Bẩy 14 tuổi. Bây giờ, cổ sắp bước vào tuổi thất tuần. Sợ rồi cô Bẩy (cũng như mẹ Tư) sẽ qua đời với ít nhiều ân hận là chưa được dịp đi tham quan lăng Bác, và coi lại cây vú sữa.

Đất nước đã thống nhất hơn ba chục năm, và đã hơn hai muơi năm kể từ khi Đảng cương quyết (và dũng cảm) có quyết định đổi mới để đưa đất nước đi lên, không lẽ Nhà Nước ta không chi nổi một cái vé tầu Thống Nhất để đền ơn đáp nghĩa sao? Thôi bỏ đi Tiến à! Đừng có tưởng vậy. Tưởng vậy là tưởng năng thối. Người ta không tạo cơ hội cho cô Bẩy ra Hà Nội đâu phải vì thiếu tiền mà chỉ vì sợ rằng - sau khi tham quan lăng Bác - con mẹ không chịu đi về thôi.

Chớ ở lại ngoài đó làm gì?Tham gia biểu tình, đòi lại đất đã bị cướp chớ làm gì!Ý Trời, có vụ đó nữa sao? Chớ sao không, ngay bây giờ đây nè - giữa vườn hoa Chí Linh - có người đang đi vòng vòng, tay cầm một tấm bảng nhỏ, ghi dòng chữ như sau: “KHA VĂN CHẦU, CÁN BỘ LÃO THÀNH, MỘT THƯƠNG BỆNH BINH, GIA ĐÌNH LIỆT SĨ CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG, KIỆN NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN BA LẦN CƯỚP ĐẤT.”
Ủa, cha nội này là ai vậy cà?Ổng là người cùng quê, và cũng cùng thế hệ (chống Mỹ cứu nước) với cô Bẩy đó, chớ ai. Hồi đó, ông Kha Văn Chầu gia nhập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, được kết nạp vô Đảng vào đúng ngày sinh nhật của Bác (19 tháng 5 năm 63) tại chiến trường Cà Mau, thuộc quân khu IX. Còn ổng bỏ Đảng hồi nào thì chỉ có Trời mới biết.Mà không phải mình ên ông Kha Văn Chầu kỳ cục (dữ) như vậy đâu nha. Không tin, ghé qua vườn hoa Mai Xuân Thưởng mà coi. Từ nhiều năm nay, biết bao nhiêu người dân miền Nam kéo ra Hà Nội khiếu kiện theo kiểu đó. Trong số này thiếu gì những bà “Mẹ Việt Nam Anh Hùng” (như mẹ Tư) và những người thuộc diện “gia đình có công với cách mạng” (như cô Bẩy).

Riêng bây giờ thì ngoài ông Kha Văn Chầu, còn có thêm rất nhiều người khác nữa đã cùng ký tên vào thư Thư ủng hộ Tuyên ngôn Dân Chủ ngày 8/4/2006 và Lời kêu gọi Đại Đoàn kết Dân tộc xây dựng lại đất nước ngày 15/4/2006 – theo như bản tin của ĐCV Online, đọc được vào ngày 26 tháng 7 năm 2006, với nội dung như sau:

“Chúng tôi gồm có 483 công dân của 3 tỉnh: tỉnh Kiên Giang, An Giang và Cần Thơ. Trong số những người này gồm có nhiều thành phần trong xã hội, có người là quân đội thuộc Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền nam Việt Nam trước năm 1975, là dân kháng chiến qua 2 thời kỳ cũng như những gia đình nuôi chứa cán bộ cơ sở quân đội Việt Cộng miền Nam trước 30-4-1975 cùng nhiều gia đình truyền thống cách mạng CS VN có công, là thân nhân các liệt sỹ và cùng nhiều bà con nông dân quê mùa ngu dốt, chân lấm tay bùn quanh năm chỉ biết đến ruộng lúa bờ khoai, đầu tắt mặt tối lấy đồng ruộng làm nguồn vui làm lẽ sống”.

“Sau ngày gọi là “giải phóng miền Nam” chúng tôi rời đơn vị cùng trở về quê hương, người thì bị thương tật, người thì lớn tuổi sức khoẻ kém đã nghỉ việc về sống với gia đình, đoàn tụ gia đình thân nhân họ hàng quyến thuộc tại miền Nam VN. Trước năm 1975, cuộc sống của gia đình người thân chúng tôi tuy sống dưới chế độ cũ Việt Nam Cộng hoà nhưng cuộc sống rất êm đềm và sung túc, cảnh làng quê và 2 bờ kênh rạch trù phú. Các gia đình chúng tôi đất đai ruộng vườn tược rất nhiều, có từ hàng chục đến hàng trăm công ruộng”.

“Nhưng đến năm 1976, các địa phương chúng tôi ở miền Tây Nam bộ đã bị các cán bộ của ĐCS, Nhà nước VN là những kẻ ỷ chức, ỷ quyền mượn danh nghĩa quân đội quốc phòng + cảnh sát, chính quyền thuộc bộ, ngành các cấp từ ấp, xã, huyện, tỉnh, thành phố Hồ Chí Minh đến Trung ương. Những kẻ này đã tổ chức cướp đất đai, nhà cửa, vườn ruộng, san ủi cả mồ mả tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ chúng tôi để bán cho các công ty kinh doanh, cưỡng chế người dân chúng tôi lấy đất ruộng, lập nông trường, kẻ thì lấy đất để thuê người làm nhằm trục lợi, kẻ thì cướp được đất bán cho người khác lấy tiền đút túi, chúng chia chác đất đai tứ tung coi như của riêng của chúng, mà không trả tiền đền bù thoả thuận gì hết cho người nông dân chúng tôi”.

“Chúng mượn danh Luật Đất đai của Nhà nước CSVN được ghi trong điều 1 là: “Đất đai là công thổ của toàn dân” và Điều 4 của Hiến pháp CS VN qui định: “Đảng CSVN là đại biểu quyền lợi cho dân tộc VN, lãnh đạo trực tiếp, toàn diện tuyệt đối nhân dân VN…” để hợp pháp hoá việc cướp đoạt đất đai của nhân dân Việt Nam mà chúng tôi cũng là một nạn nhân trong những vụ cướp này. Cán bộ Nhà nước Cộng Sản Việt Nam ra lệnh là ai trong số chúng tôi mà không giao đất, nhà cửa cho chúng, là bị chúng chụp mũ liệt người đó thuộc vào đối tượng chống lại chính quyền cộng sản cách mạng, sẽ bị công an, cơ động cảnh sát điều tra, bắt bớ đánh bằng roi điện, súng điện, có cả toà án, viện kiểm sát do bọn chúng lập ra dựa vào Hiến pháp, Luật pháp của Nhà nước CS VN kết án bỏ tù oan sai”.

“Dân lành chúng tôi đã phải chịu đựng hơn 30 năm nay: nào là mất đất đai, mất tài sản, trắng tay hơn 30 năm qua mà không biết kêu ai. Đơn Yêu cầu khiếu tố của chúng tôi gửi từ địa phương cho đến Trung ương ở Hà nội, chẳng được một ai, hoặc được một cơ quan nào giải quyết mà hậu quả là người đưa đơn bị cảnh sát bắt bớ, tù đày, tra tấn và đánh đập dã man để chúng tôi không còn một ai dám ló đầu đi thưa kiện những kẻ cướp đất của mình…”.

Trong quyển Lịch Sử Tây Nam Bộ 30 Năm Kháng Chiến, có đoạn ghi rằng: “mùng 2 Tết Nguyên Đán năm Ất Mùi (1955), trong buổi chúc tết bác Hồ tại Phủ Chủ Tịch. đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh thay mặt đồng bào Nam Bộ dâng tặng Bác cây vú sữa.”“Bác đã xúc động đến ngấn lệ khi biết đây là cây vú sữa của đồng bào vùng tận cùng của Tổ quốc. Cũng từ đó, cây vú sữa đã trở thành biểu tượng tấm lòng Bác Hồ đối với miền Nam và của miền Nam đối với Bác Hồ “.

Tình cảm của những đồng bào ở những “vùng tận cùng của tổ quốc” (rõ ràng) đã đổi. Cây vú sữa ở Phủ Chủ Tịch – ngoài Hà Nội – không biết có còn sống hay không chớ tấm lòng của dân miền Nam đối với Bác, Đảng và Nhà Nước thì đã chết - và chết từ lâu rồi. Cuốn Lịch Sử Tây Nam Bộ 30 Năm Kháng Chiến chắc phải viết lại, và sắp sang trang.

TƯỞNG NĂNG TIẾN
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #8 - 11. Jul 2008 , 10:19
 
Mẹ và em


Tưởng Năng Tiến Đăng ngày 04.22.08


Phần lớn người Việt đều mơ ước, sau một đêm dài, khi mở mắt dậy, thấy mình đang lơn tơn - đi trong nắng sớm - giữa một thành phố (rực rỡ) hoa đào. Tôi chưa bao giờ có thứ ước mơ… tào lao cỡ đó. Ông Bùi Minh Quốc cũng vậy. Lý do, giản dị, chỉ vì chúng tôi vốn đã là những người dân Đà Lạt - thế thôi. Trong những trang sổ tay trước, tôi cũng đã để cập đến chuyện này rồi. Nay, xin được tóm gọn lại - như sau:

Ngày đầu tiên lò dò đến thành phố Ðà Lạt, bác sĩ Yersin hết hồn hết vía - mặt mũi xanh lè, cắt không còn giọt máu - khi thấy tôi và ông Bùi Minh Quốc đang ngồi uống ruợu và cãi lộn (um xùm) trên bờ hồ Xuân Hương.

Bữa đó, nhà thơ xỉn. Ổng cao hứng ngâm bài “Mẹ Đâu Ngờ”:

Sau lưng mẹ là tổ quốc mình trong khổ nạn
Là những đứa con nằm vùng mẹ nuôi giấu ngày đêm
Có những lúc mẹ chưa kịp nhìn rõ mặt biết tên
Chỉ biết nó là cách mạng.
Mẹ đâu ngờ …
Có thằng con thoát chết vụ khui hầm
Trở về ngồi chễm trệ…
Có người mẹ tóc bạc chân trần oằn lưng
Dưới chồng đơn khiếu nại
Nặng hơn dẫy Trường Sơn

Tui cũng xỉn (thấy mẹ) luôn nên nằng nặc đòi sửa thơ của con người ta, cho bằng được:

Sau lưng mẹ là tổ quốc mình trong khổ nạn
Là những đứa con nằm vùng mẹ nuôi giấu ngày đêm
Có những lúc mẹ chưa kịp nhìn rõ mặt biết tên
Chỉ tưởng nó là cách mạng.
Mẹ đâu ngờ…

Ổng không chịu như vậy, lấy cớ rằng tui đòi đổi “biết” thành ra “ tưởng” chỉ vì là tui họ… Tưởng mà thôi!

- Ý Trời! Đừng có “tưởng tầm bậy” nha, cha nội! Mích lòng à. Đ…mẹ, tui đâu phải là cái thứ cà chớn dữ như vậy …

Ðúng lúc này thì Alexander Yersin xuất hiện. Nếu không nhờ chúng tôi lớn tiếng thì chưa chắc thằng chả đã tìm ra Ðà Lạt, vào chiều hôm đó.

Lịch sử của thành phố này, nay mai, rồi sẽ phải viết lại cho nó đàng hoàng (và rõ ràng) như thế. Làm gì có cái vụ bác sĩ Yersin là người đầu tiên đã đến Đà Lạt, mấy cha. Khi ổng tới đó thì tui và Bùi Minh Quốc đã ngồi nhậu (sương sương) ở bờ hồ Xuân Hương, cả chục ly rồi.

Nhưng đó là chuyện của lịch sử, trong tương lai. Bây giờ, xin được trở lại với bài thơ “Mẹ Đâu Ngờ” (cho xong nợ) cái đã.

Theo tôi thì thi sĩ Bùi Minh Quốc đã tự ái (hơi) quá đáng. Ở “ta” thì những đấng hiền mẫu, thuộc diện “Mẹ Đâu Ngờ”, có mặt ở khắp ba miền - và đã có từ lâu - chớ phải riêng chi ở miền Nam, vào thời “chống Mỹ cứu nước.”

Trước đó, hồi đầu thế kỷ XX, cụ thân sinh của nhà văn Võ Văn Trực cũng đã từng ngây thơ như thế - hay (dám) hơn thế nữa. Sự nhầm lẫn của bà (về cách mạng) rất dễ thương, cảm động và tội nghiệp vô cùng.

Trong cuốn Chuyện Làng Ngày Ấy (*) – tác phẩm đã bị cấm lưu hành ở Việt Nam, được in lại năm 2006 trên Tạp Chí Văn Học ở California – nhà văn kể lại về cuộc sống của bà như sau, sau khi đã “phải lòng” cách mạng:

Mẹ tôi vất vả hơn trước, tất tưởi hơn trưóc. Hết việc đồng áng lại lo việc nhà. Hết việc nhà lại lo việc hội họp. Chẳng mấy lúc mẹ đươc ngơi tay. Cán bộ thôn, xã và cả cán bộ cấp trên nữa thường xuyên vào nhà tôi, lúc một vài người, lúc dăm bẩy người. Có lần vào nghỉ một chốc rồi đi. Có lần vào làm việc rồi ngủ lại đêm. Hầu như ngày nào cũng có khách ăn cơm trong nhà tôi. Đang làm ngoài đồng, hễ tôi ra báo tin nhà mình có khách là mẹ về ngay. Thỉnh thoảng mẹ tham dự vào cuộc họp với các ông cán bộ. Nhưng công việc chính của mẹ là nấu cơm cho cán bộ ăn, lấy gạo nhà, thức ăn nhà, chẳng ai bận tâm đóng góp tiền nong… Mẹ tôi trang phục hoàn toàn khác hẳn, không ăn bận bình thường như trước nữa: mặc quần đùi, cắt tóc ngắn, đi dép cao su…

Đó là ‘phong trào cắt tóc thực hiện nếp sống mới.’ Mãi về sau, tôi mới biết mấy ông lãnh đạo đọc nhầm hai chữ ‘cấp tốc’ thành ‘cắt tóc’… (sđd 23 -26)

Mất đi mái tóc vì sự nhầm lẫn của các đồng chí lãnh đạo, tất nhiên, chỉ là chuyện nhỏ. Với thời gian, sự mất mát của mẹ mỗi lúc một lớn lao và khủng khiếp hơn nhiều

Sau mái tóc, đến tài sản.

Theo lời ông Chi Hội Trưởng Nông Hội địa phương thì bà con phát giác ra rằng gia đình của mẹ thuộc diện phải đóng thuế khả năng: Ba tạ thóc!

Mẹ tôi đứng dậy, giọng nói run run: ’Xin bà con dân làng xét cho thấu đáo. Cả nhà tôi chỉ còn hơn mười cân thóc với vài chục cân khoai khô…’ Chú Văn mắt toét cắt ngang:’Ba tạ! Ba tạ! Vấn để là bà phải gương mẫu’. Giọng nói của mẹ tôi như nhúng trong nuớc mắt: 'Từ khi cách mạng dành được chính quyền đến nay, tôi chấp hành nghiêm chỉnh mọi chính sách của nhà nước, của Nông Hội. Nhưng bây giờ thì quả là tôi không còn một chút khả năng để nộp thuế nữa. Không tin, mời Nông Hội vào nhà tôi khám ngay bây giờ… ". Vừa nói xong, mẹ tôi ngồi thụp xuống, ôm mặt khóc. Chú Văn mắt toét cười gằn: "Không còn thóc thì bà gỡ sân gạch bán mà nộp thuế. Vấn đề là khối người còn đói hơn bà. Vấn để là bà còn giầu gấp vạn nhà tôi…. Bà không đóng thì thế này này ' – chú nắm chặt hai nắm tay, nắm này đấm vào nắm kia - 'cứ chầy vồ mà nện từ trên sọ nện xuống cho đến khi mồm ợ ra thóc mới thôi (sđd 102 -103).

Kế tiếp là mạng sống của những người thân.

Cuộc đấu tranh ác nghiệt này đã bén lửa vào mái nhà yên ấm của tôi.

Cậu Quế là em thứ ba của mẹ… Mấy năm vừa rồi, người ta phá sạch đền chùa, cậu Quế lại lập bàn thờ Phật trong nhà. Người ta nghi là cậu chống lại chính quyền nên mới lập bàn thờ Phật. Bị dân quân bắt ra đình cho dân làng Quảng Trạch đấu. Tra khảo cậu, cậu không khai – vì có biết gì đâu mà khai. Càng không khai cậu càng nếm đủ món đòn tra tấn: treo ngược lên xà nhà, trói vào gốc cây, hắt nước bẩn vào mặt. Nhục nhất là cậu bị mấy mụ đàn bà tốc váy trùm lên đầu. Hàng tháng trời cậu bị giam, không được về nhà. Đêm hôm ấy cậu xin phép người dân quân gác cho đi ỉa. Người dân quân ngủ quên, sáng dậy không thấy cậu đâu cả, chợt mở chuồng xí thì thân hình cậu đã cứng đơ treo lủng lẳng bởi sợi dây thừng… (sđd 140- 142).

Cho mãi đến lúc cuối đời, ở tuổi tám mươi ba, mẹ mới gửi lại những lời trăn trối rằng “mẹ không ngờ” như vậy:

Mẹ không đủ sức để lắc đầu nữa. Mẹ vẫn im lặng nhìn tôi, vừa đượm chút xót xa, vừa đượm chút ân hận. Nước mắt mẹ ứa ra và lăn xuống da nhăn nheo như quả thị héo…Mẹ ra hiệu cho tôi cúi sát đầu xuống để mẹ nói một điều bí mật:’ Hằng năm ngày giỗ mẹ, con cúng đúng ngày mẹ mất, đừng cúng theo ngày qui định của hợp tác xã. Con chớ làm mâm cỗ, chi bộ biết sẽ phê bình, con chỉ cần múc chén nước trắng và thắp hương cho mẹ đúng ngày mẹ mất…’ Lúc sống thì mẹ tuân theo nghị quyết của chi bộ, lúc nằm xuống mồ mẹ mới dám chống lại nghị quyết.” (sđd 154).

Chuyện những bà mẹ mà cuộc đời “cách mạng” bầm dập và te tua (như thế) được giấu kín như bưng, ở miền Bắc. Do đó - khi vào Nam - Bùi Minh Quốc vẫn được bảo bọc bởi những bà “Mẹ Việt Nam Anh Hùng” khác:

… những đứa con nằm vùng mẹ nuôi giấu ngày đêm
Có những lúc mẹ chưa kịp nhìn rõ mặt biết tên
Chỉ (“tưởng”) nó là cách mạng.
Mẹ đâu ngờ …

Khi mẹ (biết) ngờ thì… đã muộn! Cả hai miền Bắc/Nam đã được “giải phóng” xong! Từ đây, cả nuớc lại phải bắt đầu một cuộc kháng chiến mới. Mẹ đã mất, hoặc đã quá già để có thể dự phần. Mẹ còn đủ sức để đi thăm nuôi con ở trong tù đã là chuyện may mắn lắm rồi – như mẹ của anh Lê Nguyên Sang đã tâm sự với phóng viên của RFA, vào hôm 10 tháng 5 năm 2007:

Tôi năm nay tuổi già sức yếu, tôi đã ngoài 70 tuổi, tai một bên điếc, mắt thì mờ không thấy đường, chân thì đau… nhà thì không có. Mỗi tháng đi tiếp tế cho con tôi hai lần, cũng chẳng biết nương nhờ vào ai.

Và đã đến lúc các em vào cuộc:

… tôi xin khẳng định bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm và tình cảm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam là tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn một mình tôi để đấu tranh, trước hết là giành lấy nhân quyền cho chính mình, và giành lấy nhân quyền, dân chủ và tự do cho người Việt Nam. Và Cộng sản Việt Nam đừng có mong chờ bất kỳ một điều gì là thỏa hiệp, chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi.

Từ Hà Nội – giữa lòng cách mạng – em Lê Thị Công Nhân đã khẳng khái tuyên bố như trên, vào ngày 26 tháng 2 năm 2007. Em đã bị bắt sau đó, không lâu, và bị kết án tù vào ngày 11 tháng năm 2007.

Và điều này cũng đã được chính em dự liệu:

Tôi không nói mình là một tấm gương, nhưng tôi nghĩ rằng nếu như tôi có thể tạm thời nhận một nhiệm sở mới hết sức bất đắc dĩ đó là nhà tù thì tôi mong rằng tại nhiệm sở bên ngoài tức là xã hội sẽ có nhiều những người con Việt Nam tiếp tục những công việc mà tôi còn đang làm.

--------------------------------------------------------------------------------


Ghi chú:
(*) Chuyện Làng Ngày Ấy do NXB Lao Động ấn hành tháng 6 năm 1993. Nhà văn Xuân Cang chịu trách nhiệm xuất bản. Nhà văn Ma Văn Kháng chịu trách nhiệm bản thảo. Tác phẩm chưa ra khỏi nhà in đã bị thu hồi và cấm phát hành. Ở hải ngoại, có thể đặt mua tác phẩm này theo địa chỉ email: tapchivanhoc@yahoo.com.
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #9 - 25. Jul 2008 , 04:45
 
Xăng dầu quanh quẩn ký
 


Tác Giả: Trần Khải Thanh Thủy


Tại cây xăng, hay bất cứ ...cây cột đèn, cây bàng đầu ngõ, hay các loại cây  xanh lớn nhỏ trong vườn, trong công viên...đến các cây cột nhà... nghĩa là  ở  bất cứ ngóc ngách nào, từ mặt đất đến...màn hình inter nét, câu cửa miệng của người dân   cũng là " xăng lên giá, chết cha rồi "

Tính từ thời điểm 5 năm lại đây (2004-2008) chưa khi nào xăng tăng giá đến  mức kỷ lục như vậy. Thời điểm  tháng 1-2004, giá xăng là 5.600 VND một lít. Sang năm 2005 là 7.000 VND, rồi lên 8.800 đồng (cuối 2005) rồi 10.000 đồng năm  2006. Tiếp đó là 14.5000 đồng cuối năm  2007. Hiện tại, ngày 21-7-2008 xăng trèo lên 19.000 đồng /lít. Quả là ...kỷ lục ghi nét của ngành xăng dầu Việt Nam, tăng một lúc cả 31%, tăng cấp tập, quyết  liệt luôn. Hệt như lối đánh của ...quân đội ta anh hùng với kẻ thù xâm lược, mà khẩu hiệu hào hùng của một thời là: Túm lấy thắt lưng địch mà đánh, hoặc  "Tấn công tiêu diệt gọn. Hạ gục dứt điểm "quyết không để một tên xâm lược nào trên  bờ cõi nước ta".

Nhờ sự lãnh đạo tài tình của đảng, mà 10 giờ trưa ngày 21/7/2008, nhà nước Việt Nam đã chỉ đạo cho ngành xăng dầu túm lấy thắt lưng người tiêu dùng mà đánh, đánh tơi bời, dứt điểm, chết gục luôn, cho họ không thể ngóc cổ lên làm tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường được nữa. Thói quen tâm lý của người Hà Nội còn tồn tại vô vàn bất cập, từ văn hoá giao thông, văn hoá giao tiếp, văn hoá ẩm thực...đã được thay đổi căn bản, không còn cảnh tắc đường, ùn xe, do lưu lượng người đi lại qúa đông, cũng không lo cánh trẻ lạng lách, đánh võng thót tim, chóng mặt nữa, vì xăng nhảy chồm chộp như vậy, bố mẹ chúng lấy đâu ra tiền mà...ném qua cửa sổ, quẳng xuống mặt đường như thế? 

Chỉ vài ngày trước đó, những người già, vốn đầy vinh dự và sự tự hào, vì đã được  trưởng thành trong  nôi cách mạng, cũng phải ngậm ngùi kêu lên:

      Ngủ thì ai cũng như lương thiện
      Tỉnh dạy sinh ra kẻ... cướp đường

Bất kể ai, dù trung niên, thanh niên, phụ nữ, hễ vác xe ra đường là trở thành...kẻ cướp. Không một khoảng trống trước mặt, sau lưng, xung quanh nào mà không bị tận dụng, lấn tới, khiến cảnh ùn tắc do đường hẹp, đường xấu, xe đông, càng thêm nghiêm trọng, đặc biệt vào những giờ cao điểm, khi cán bộ đi làm và con em đi học.

Khẩu hiệu của một thời binh lửa, gươm đao tưởng đã vĩnh viễn bị đào sâu chôn chặt trong qúa  khứ, không ngờ vào những ngày xăng lên này lại trở thành có giá, được người dân tấm tắc nhắc đi nhắc lại: "Giữ xe như con, quý xăng như máu". Với cái giá  19.000 đồng một lít  thì giá xăng đúng là giá máu thật, bà con ạ"

Không gì bằng nói có sách mách có chứng, tôi xin ghi lại vài mẩu đối thoại sau:

1. Trên  từng cây số

Dừng lại trước cây xăng ven đường Ngô Gia Tự, bên này cầu Chương Dương,  thuộc địa bàn Phường Đức Giang, Gia Lâm,  tôi hỏi một người đàn ông trung niên vừa dắt xe ra khỏi cây xăng, mặt còn tần ngần như mất cắp, lóng ngóng   mãi không đậy được nắp hộp xăng:

      - Chào anh, Nhà nước đột ngột  tăng giá xăng như vậy, anh có cảm tưởng, nhân xét gì không?

      - Giời ạ! Người đàn ông  thở như hắt ra, ném cái nhìn nảy lửa vào mặt tôi , như thể... tôi là nguyên nhân của sự...bốc cháy...quỹ  tiền của anh ta vậy:

      - Xăng lên, dầu lên, cái gì cũng lên, trong  khi lương trả chậm, thưởng không có, còn cảm, còn nghĩ cái gì được nữa?  Hả? Chị có thấy những người suốt đời làm nô lệ cho "giá áo túi cơm" không xong, sẽ nghĩ được cái gì hay ho không? ngoài sự đau khổ, oán hận ?

Biết gặp phải bảng hiệu "nguy hiểm chết người" tôi đành lủi thủi dắt xe đến điểm  bán xăng trước mặt, cách đó vài trăm mét...

Gặp một người phụ nữ gương mặt buồn rầu, phúc hậu, tôi liều mạng đánh tiếng:

      - Chào chị. Xăng lên giá mới rồi, thật sự chị có bị xốc không?

Nhìn tôi như thể vật thể lạ lẫm, rơi từ  hành tinh khác đến, chị  trả lời:

      - Chả lẽ lại quẳng xe máy đi hả cô, phụ nữ chúng mình suốt đời nhét chật đời mình  trong vòng vây của cuốn sổ chi tiêu gia đình chật hẹp. Nào gạo, nào tiền ăn, tiền điện, sinh  hoạt, tiền học của con cái, tiền khóc cười cùng thiên hạ, không còn khoản tiền nào dư nổi trong tháng. Thậm chí đám cưới, đám ma, còn phải xin kiếu, đáng ăn mà chỉ dám uống, hoặc hứa đại, hứa xuông cho xong, để mỗi tháng khỏi mất câm mất ngầm vài trăm nghìn. Bây giờ xăng lên giá như thế này, đến  phải chuyển sang đi xe đạp thôi cô ạ.

      - Thì... tôi cố uốn lưỡi theo giọng đảng:-Nhà nước muốn lành mạnh hoá môi trưởng  xăng dầu mà, sẽ  không có chuyện buôn lậu xăng qua biên giới nữa.

      - Dào ôi, người bên cạnh nghe thủng câu chuyện của chúng tôi, gay gắt cắt ngang:

      - Xăng lên giá nghĩa là mọi thứ sẽ lên theo. Phải chăng những người làm công ăn lương như chúng tôi sẽ chết trước? Ông Vũ Văn Ninh có tiên liệu được tình thế này không? Tại sao cứ viện lấy lý do chống buôn lậu...để bào chữa cho hành động tuỳ tiện này? Trong khi thu nhập từ xuất khẩu dầu thô của nước ta cũng nhiều hơn trước cơ mà? Hơn nữa  nếu coi việc tăng giá xăng là để chống buôn lậu, sao nhà nước không giảm giá các mặt hàng đang nhập khẩu và nhập lậu về ?. 

Như một phản ứng dây chuyền, tất cả cùng xúm lại quây lấy 3 chúng tôi, mỗi người một câu, một ý. Quả thực, nếu là lãnh đạo, hẳn tôi sẽ không còn lỗ nẻ nào mà chui nữa, không bao giờ dám ...vi hành nữa, kể cả có đem theo cả tấn mo nang che mặt cũng vậy. Cho dù mắt không nhìn, nhưng  tai vẫn phải nghe:

      - Trong hoàn cảnh Thế giới hiện nay, việc tăng giá xăng dầu là tất yếu, nhưng lần này  tăng liền 4.5000 VND, trong khi lương lậu quá thấp, thì đó chính  là chỉ dấu không bình thường, khiến người dân phải đặt câu hỏi về những vấn đề trong nội bộ của giới lãnh đạo?

      - Ô hay  nội bộ lãnh đạo  thì có liên quan gì đến đây?

      - Sao lại không liên quan. Chúng nó tham nhũng, ăn bẩn, tranh giành, đoạt chức, tiếm quyền, chỉ vì ghế mà hành dân, vì muốn bóc lột dân mà tăng giá lên,  chứ tình trạng giá dầu trên thế giới vừa mới giảm cơ mà, đâu phải vì chịu ảnh hưởng từ giá dầu thế giới? Làm con dân thì phải chịu, còn họ dù quyết định thế  nào cũng vẫn là "hết lòng vì dân" thôi ! Thắc mắc gì, thắc mắc với ai? Thà thắc mắc với cái đầu gối mình còn hơn.

      - Đúng quá còn gì, vài tuần trước, chính phủ còn cam kết không tăng giá  trong  năm nay, nhưng đùng một cái tăng tới hơn 30% thì ai mà chẳng sốc, chẳng oán? Các bố cứ thích lấy lý do bù lỗ để tăng giá ngất ngểu...vậy thì ai bù lỗ cho những người làm công ăn lương chúng tôi? Trong khi các bố đi ra  khỏi cổng là xe công, còn chúng tôi thì sao? Làm  thế này  khác nào bóp cổ dân? Các bố lo cho dân "chu đáo" quá đấy, lo luôn cả hậu sự  đi cho rồi.

      - Tại sao chính phủ lại có thể tăng một cách bất hợp lý như vậy? Lương của một cán bộ công nhân viên chức trong thời buổi này phải chi hết 3 phần cho xăng,  chưa kể giá xăng tăng thì các loại khác đều tăng? Vậy lấy gì mà ăn? Làm  sao đội ngũ cán bộ công chức dành toàn tâm toàn ý cho công việc được ? Tính chi ly lương tôi, sau 20 năm cống hiến được 2.340.000 đồng một tháng. Nhà cách trường 13 km, ngày nào cũng đưa đón hai con đi học, đi làm, hết 50 km cả đi lẫn về. Tiền xăng chi hết 700000/tháng, tiền ăn sáng của 3 bố con bỏ rẻ cũng hết một triệu đồng nữa. Vậy còn tiền nhà, tiền điện, tiền nước, tiền học và trăm thứ bà rằn khác, xin chính phủ cho biết tôi phải mua gì? Ăn gì với vẻn vẹn 700.000 còn lại?

Quả là  đã phẫn thì phải phát. Nếu xổ băng ghi âm ra mà ghi hết những  "lời vàng ý ngọc" của những con người cần cù, mẫn cán này dành cho đảng và nhà nước thì in ra cả một tập dày ( hơn cả chước tác Hồ Chí Minh) ... tôi lúng túng dắt xe ra khỏi đám người đang phẫn, phát để trở về.   

2. Trên từng blog:

Vừa vào đến nhà, trong  khi ông xã thả dài lưng đo nỗi chán chường vì lo lượng tiền bốc hơi theo hơi dầu hơi xăng, thì hai cô con gái chụm đầu cười hi hí trên  gác xép, thấy  tôi phờ phạc dắt xe vào, cô lớn  khoe:
      - Con cho mẹ xem cái này, tụi bạn con vừa gửi đấy. Đúng là "chưa có bao giờ ...buồn  như hôm nay, tăng giá xăng dầu, bạn bè than van. Xăng lên, lòng ta buồn sao buồn thế, những đứa bạn ta từ nay... sợ hãi "là là lá la là là ...Nó nhại lời  nhạc sĩ Cao Việt Bách,  khe khẽ hát ...

Quên cả thay quần áo ở nhà, tôi ngồi thụp xuống xem, không khỏi bần thần theo từng  tâm trạng con chữ, dòng  thơ;

      Sao em không về xem bão giá
      Từ mấy ngày qua chới với luôn.
      Tiền lương vừa lãnh cầm đi chợ,
      Bão giá quây quanh mặt xanh dờn.

      Giá theo lối giá,  lương đường lương,
      Đời sống hôm nay thật thảm thương.
      Tiền lương, tiền thưởng như chiếc lá,
      Có trụ qua mùa bão giá không?

      Mơ đến ngày nao, đến ngày nao
      Lương mình được lãnh tăng thật cao.
      Điện, nước, xăng, dầu -ồ chuyện nhỏ.
      Cuối tháng lãnh lương thở cái phào.

Ngay cả  đầu  đề  của  Bài thơ : "Đây thôn Vĩ Dạ" cũng được  tác giả  không chuyên  đổi thành : "Đây thời lạm phát"  đầy ấn tượng,  còn  cái tên Hàn Mặc Tử quen thuộc  đã thay bằng  tên mới : Hàn Mặc...   Cảm(!)

Viễn cảnh tương lai được  một bloger trẻ vẽ ra:

      Tôi lại đạp xe đèo em đến lớp
      Xích lô đi về trong lễ đón dâu
      Chị chạy bộ ra siêu thị  mua rau
      Công an nghỉ ngồi thương cho đèn đỏ   

      Mũ bảo hiểm bỗng nhiên vứt xó
      Chó chạy tung tăng trên phố  thưa người 
      Mẹ tôi rồ xe đạp điện ra ga
      Cụ hàng xóm trượt patanh đi chợ 

      Ôi cuộc sống thời tiết kiệm nhiên liệu
      Mới "bình dị" và "thơ mộng" biết bao ?

Nhịn ăn để mua xăng, hội nhập với cơ chế, con người trong thiên đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ như thế này đây


3."Yêu cầu Thủ tướng từ chức"

Đó chính  là nỗi lòng của người dân Việt Nam hiện tại khi nhận định về  sự lừa mị của chính phủ lần này, sau bao nhiêu những cú lừa ngoạn mục trước đó. Nào một chính  phủ  "cho dân" và "vì dân". Nào "Dân biết,  dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ" ...

Theo Nghị định 75/2008/CP thì 14 mặt hàng sẽ được Chính Phủ bình ổn giá, trong đó có xăng, dầu, thép, điện, nước...vậy mà nghị định chưa kịp ráo mực, chính phủ đã cho tăng giá xăng, dầu lên 31 % , mặc con dân đau xót,  hẫng hụt.  Chính vì vậy, người dân nô nức đặt câu hỏi: Không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đợt tăng giá này? Chính  phủ hay là chú phỉnh đây? Thói đời đã hứa là nợ, mà đã nợ thì phải trả, nợ mà không trả có nghĩa là quỵt nợ. Thử hỏi từ khi đời dân có đảng đến nay, đảng đã bao nhiêu lần quỵt nợ của con dân rồi ? Cứ lừa  mãi, thử hỏi đất nước  sẽ đi về đâu? Thủ tướng có dám lên ngồi cung trăng, chăn trâu cắt cỏ gọi...Nguyễn chí Thanh ời ời không? 

Dù thế nào, Chính phủ nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam   không thể đưa ra những nguyên nhân khách quan như giá xăng dầu tăng theo giá thế giới  để biện hộ cho những việc làm tuỳ tiện, áp đặt  do sự  hạn chế, dốt nát, độc ác của mình mãi được. Ai cũng biết mức sống của Việt Nam thấp gần bét so với thế giới, đứng thứ 170 trong tổng số 200 nước trên thế giới, chỉ hơn vài hòn đảo  hoang mạc và các nước đói nghèo Châu Phi. Mức thu nhập bình quân của mỗi người dân Việt Nam là 790 USD/ năm, thì chỉ bằng thu nhập của một công dân mỹ trong  vòng 1 tuần, thậm chí 2 đến 3 ngày. Vậy tại sao đã ăn lương cộng sản và xã hội chủ nghĩa trả, lại cứ phải  trả theo giá tư bản giàu sụ? Trong khi điện thoại, nhà ở, xăng dầu, ô tô đều  đắt ngang hoặc đắt hơn nhiều nước trên thế giới ? Hơn cả Mỹ.

Nguyên nhân từ đâu đẻ ra lạm phát? Trách nhiệm này thuộc về ai, là điều bộ chính trị phải chỉ rõ và sửa sai để cứu dân, chứ không thể cứ đưa dân ra mà "trảm" như vậy được. Nhà nước có khuyết điểm mà không dám nhận thì niềm tin của dân chỉ còn nước tọt vào...xăng (quan tài) mà thôi.

Cuối cùng để cả nước không phải quay về thời bao cấp khổ sở đói nghèo, trước 1985, và mức độ lạm phát không còn tăng với tốc độ siêu mã ( từ 31 đến 50%. ) xin ông Nguyễn Tán Dóc ( tức Tấn Dũng) từ chức...

Hà Nội 24-7-2008
Trần Khải Thanh Thuỷ
(hội viên hội văn bút quốc tế)

© www.danchimviet.com
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #10 - 25. Jul 2008 , 09:42
 
Những người bại não


Tưởng Năng Tiến


Tôi biết Bill, Kite, và Lang khi còn đi học. Cả ba không may đều bị bại não. Lúc mới chập chững biết đi Bill té xuống hồ bơi và chìm nghỉm một hồi, thời gian đủ lâu để về sau y trở thành một gã dở hơi - nếu nói theo kiểu Việt Nam. Kite thì đẻ ngược và gặp bà mụ chậm tay nên tế bào não bị chết một mớ trước khi hắn cất tiếng khóc chào đời. Kite rồi ra cũng trở nên ... dở người, nếu vẫn cứ theo kiểu Việt Nam mà nói. Tương tự, khi hai tuổi, Lang bị sốt ác tính. Thuở ấy nước Mỹ chắc chưa có số điện thoại cấp cứu 911, và những xe cứu thương trang bị bình oxygen như bây giờ, nên khi đến được nhà thương thì tế bào não của y đã đi đong một ít. Tất nhiên là Lang bị "retarded" (chậm trí), nếu nói theo tiếng Mỹ.

Chậm trí có nhiều mức độ, phân chia tùy theo thương số thông minh của nạn nhân. Trong nỗi bất hạnh chung của ba nhân vật này họ có cùng một điều may mắn. Thương số thông minh của cả ba đều thấp nhưng không thấp lắm, nghĩa là cỡ chừng từ 50 - 55 đến cỡ gần 70. Cả ba, theo hồ sơ, cùng được chẩn bệnh là "Mild Mental Retardation" (bệnh chậm trí hạng nhẹ) - mức độ được coi là nhẹ nhất. Chính ở điểm chung đó tôi mới có cơ hội biết được cả ba người cùng một lúc. Họ đều là bệnh nhân lâu năm của của nhà thương X., nơi mà tôi được trường gửi đi thực tập, và đều đang ở giai đoạn chuẩn bị để cho xuất viện.

Tôi thực tập mỗi tuần ba ngày. Hơn phân nửa thời gian dùng để học nghề "cạo giấy"hoado phần còn lại, tôi được giao nhiêm vụ làm "group therapy" cho Bill, Kite và Lang. Gọi là "nhóm trị liệu", như theo chữ dùng của đời thường, chứ thực sự thưở ấy (và ngay cả bây giờ nữa) tôi không có khả năng chữa trị bệnh tật gì cho bất cứ ai và cũng chưa bao giờ tôi có tham vọng ấy. Tôi chỉ cố chỉ cho Bill, Kite và Lang một số những hiểu biết căn bản để sinh sống ở xã hội bên ngoài (basic skills to survive in the community), nếu nói nguyên văn bằng tiếng Anh qua sách vở.

Có sáng tôi đang chuẩn bị đến đón ba người ở "unit" của họ thì được báo tin cả ba đều biến mất. Bệnh nhân bỏ trốn là chuyện... bình thường, và sẽ bị bắt lại (không bao lâu sau đó) là chuyện bình thuờng không kém nên không có gì phải bận tâm. Tự nhiên có một buổi sáng rảnh rỗi nên tôi nghĩ ngay đến chuyện kiếm cớ chạy ra phố, kiếm một ly cà phê pha theo kiểu Việt Nam và một tờ báo tiếng Việt để đọc chơi. Vừa lái xe ra khỏi cổng vài trăm mét, tôi đã thấy Bill, Kite và Lang đứng lớ ngớ ở một góc đường, trước một cửa tiệm tạp hóa bán hàng đa dụng -Seven Eleven.

Tôi tắp xe vô, chưa kịp mở cửa thì Bill, Kite và Lang đã chạy nhào tới, tranh nhau nói, nói không kịp thở:

- We're in deep shit, man !

- We got big trouble, man !

- We're cold and hungry, man!

Tôi làm bộ như không biết chuyện gì xảy ra :

- Ủa, chớ tụi bay làm gì ở đây vậy cà ?

- Tụi tao chôm chìa khóa đi chơi tính gần sáng về ...

- Tụi tao làm mấy lần rồi, đâu có sao, đêm hôm qua xui quá...

- Xui làm sao ?

- Thằng cha gác gian nó quên khóa cổng nên tụi tao vô không được.

Tôi sợ mình nghe không rành tiếng Mỹ nên hỏi gặn:

- Nó quên khóa cửa tại sao lại không vô được ?

- Thì đã nói là tụi tao có chìa khóa mà. Cửa phải khóa mới mở được chớ.

Cố nén một tiếng thở dài, tôi chỉ tay về phía bệnh viện, cổng đang mở toác hoác, ráng nói vớt vát:

- O.K., còn mai giờ thì sao ? Cổng mở từ sáng sớm mà.

Cùng lượt, cả ba đều nổi nóng:

- Trời, đã nói là tụi tao có chìa khóa mà. Cổng nó mở tanh banh như vậy thì làm sao xài chìa khoá ! Mà mày có thuốc hút không, tụi tao thèm thuốc quá rồi.

Trong một thoáng, tôi chợt thấy chán chường và nghi ngại cho khả năng của mình nói riêng và của ngành tâm thần học nói chung. Trước khi gặp tôi, "chưa được tôi áp dụng tâm lý trị liệu", ba cha nội này cũng đã điên từ lâu, và điên dữ dội, nhưng chắc không điên... đến cỡ này.

Tôi mời ba người ăn "donut", uống cà phê, chìa cho họ bao thuốc Marlboro rồi gọi điện thoại về bệnh viện. Tôi tóm tắt sự việc, trấn an mọi giới chức hữu trách bằng tất cả những tĩnh từ Anh ngữ tốt lành nhất mà mình biết được khi nói về hiện trạng của Bill, Kite và Lang - đại loại là "they are cool, calm, logic, coherent, relevant, friendly, and very cooperative..." Tôi cố thuyết phục để họ đồng ý cho tôi đưa mấy chả về bằng xe của mình, khỏi phiền tới cảnh sát, xe cứu thương, xe cứu hỏa... Và tất nhiên tôi lờ tít vụ cái chìa khóa cổng.

Rồi chuyện cũng đâu vào đó. Cuối cùng, cả ba ông bạn của tôi rồi cũng đều được phép rời bệnh viện, hòa nhập với đời sống bên ngoài. Bill về ở với gia đình bà dì ở Bloomington, tiểu bang Illinois. Kite và Lang thì không có thân nhân nên được sắp xếp để sống ở nhà trọ dành riêng cho người bệnh (Board and Care Home) ở thành phố San Jose, miền Bắc California.

Tôi thì học xong ra trường, đi làm, có vợ, có con, có nhà, có cửa, có mèo, có chó... Cuộc sống của tôi chỉ khác Bill, Kite và Lang ở những cái có vớ vẩn và chưa chắc đã cần thiết đó. Ngoài ra, chúng tôi đều chia chung với nhau một cuộc đời thường, rất tầm thường và hơi tẻ nhạt - nếu nói một cách lịch sự là như thế. Ðiều an ủi là chúng tôi đều có cơm ăn ba bữa, quần áo mặc cả ngày, được chăm sóc đàng hoàng về y tế khi cần, và đều có những quyền tự do tối thiểu của một con người.

Tôi không nhớ gì đến Bill, Kite và Lang nữa cho mãi đến mấy tháng gần đây. Gần đây, nơi quê hương tôi xuất hiện ba nhân vật lãnh đạo mới của đảng cộng sản Việt Nam: ông Lê Khả Phiêu, ông Nguyễn Ðức Lương và ông Phan Văn Khải. Theo dõi tình hình đất nước cùng với hoạt động của ba nhân vật này tự nhiên khiến tôi nhớ đến Bill, Kite, và Lang đến muốn... rơi nước mắt!

Qua báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Việt nam, số ra ngày 3 tháng 4 vừa rồi ông tổng bí thư Lê Khả Phiêu tuyên bố nguyên văn như sau :"Không nơi nào thiên hạ tự động đóng cửa. Nếu cửa đóng, nó sẽ tự mở ra và tại Việt Nam cũng vậy. Trong tình thế hiện tại, đóng cửa để hiện đại hóa và kỹ nghệ hóa chỉ là ...ảo tưởng."  Tôi có được xem qua tiểu sử của ông Phiêu, không thấy có nói đến chuyện ông bị ngọng nghịu hay khả năng tiếng Việt hạn chế vì lai Tàu hay lai Miên gì cả. Ông ấy ăn nói lòng vòng tối nghĩa như thế chả qua vì bối rối, thế thôi. Thái độ của ông thủ tướng Phan Văn Khải và ông chủ tịch nước Trần Ðức Lương cũng y như vậy.

Họ làm tôi liên tưởng đến cái đêm mà Bill, Kite và Lang đứng lóng ngóng ngoài cổng bệnh viện chỉ vì người gác gian quên... khóa cửa. Bức màn sắt, bức màn tre, hay cánh cửa Việt Nam... (muốn gọi tên gì cũng được) đã hỏng từ lâu và không đóng lại được nữa. Tuy thế ba ông Phiêu, Khải, Lương vẫn cứ lúng túng không thể bước chân ra được bên ngoài. Lý do chỉ vì họ còn kẹt trong túi cái chìa khóa... xã hội chủ nghĩa, nhất định phải dùng, thế thôi.

Cả ba ông, trong mấy tháng qua, đều nhiều lần khẳng định là Việt Nam sẽ tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa. Cho hợp thời trang, họ thêm rằng sẽ chủ trương "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Tôi đã có dịp nhìn thấy con "lama" ở Nam Mỹ - tiếng Việt có thể dịch là con "đà mã" vì nó trông y như con lạc đà nhưng không có bướu ở lưng và chỉ thấp bằng con ngựa nhỏ. Tôi cũng có nghe nói đến một giống vật nửa dơi nửa chuột nhưng không thể hình dung được thực sự trông nó ra sao. Vì nhu cầu hiếu tri, tôi ước ao trước khi nhắm mắt được nhìn thấy loài thú lạ này và được ai đó giảng cho nghe hoặc chỉ cho biết thế nào là kinh tế thị trường theo định hướng... chủ nghĩa xã hội!

May mắn cho tôi, hôm 24 tháng 3 năm 98, ông Phan Văn Khải đã "thuyết minh" điều này trong một cuộc họp báo tại Hà Nội là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội của Việt Nam sẽ giống như Trung Quốc. Ah, thì ra thế, giống như Trung Cộng. Có thể nói (mà không sợ mang tiếng cường điệu) rằng lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam chỉ là sự lập lại, một cách máy móc và dại dột, tất cả những lầm lẫn của đảng cộng sản Trung Hoa. Xin đơn cử vài thí dụ : cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, vụ Nhân Văn, vụ án xét lại...

Bây giờ ba ông Lương, Khải, Phiêu lại tiếp tục đi theo... Trung Cộng. Trí nhớ của họ thiệt là ngắn, ngắn hơn của Bill, của Kite và của Lang nhiều. Họ dám bị "Severe Mental Retardation" (bệnh chậm trí nặng), nghĩa là thương số thông minh chỉ cỡ chừng từ 20 -25 đến 35 - 40 thôi, nếu nói theo DSM IV (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorder, Fourth Edition. Washington, DC, American Psychiatric Association, 1994).

Vẫn cứ theo DSM IV thì ngoài trí nhớ ngắn ra, những người chậm trí còn có những thuộc tính chung khác như thụ động và hay nhờ vả (passive and dependent). Khả năng sử dụng ngôn ngữ của họ cũng giới hạn nên hay có khuynh hướng sử dụng bạo lực. (Lack of communication skills may pre- dispose to disruptive and aggressive behaviors that substitute for communicative language - sách đã dẫn trang 43).

Tất cả những hội chứng kể trên ba ông Phiêu, Lương, Khải đều có đủ. Họ vô cùng thụ động và sợ thay đổi. Nói một cách ví von, ba ông giống như những người đạp phải cứt nhưng nhất định không chịu thay giầy; đã thế, họ sẵn sàng bỏ tù bất cứ ai đứng kế bên mà mở miệng kêu hôi hay đưa tay bịt mũi. Tôi thực lấy làm tiếc vì đã ví von như thế, đã thiếu thanh nhã lại hoàn toàn không cân xứng. Cứt còn có chỗ khả dụng chứ chủ nghĩa cộng sản thì không và so với chủ nghĩa cộng sản thì cứt cũng đâu đã lấy gì làm thối.

Họ thích nhờ vả vào thiên hạ. Chỉ trong vài tháng cầm quyền ba ông đã rủ nhau đi ăn mày ở khắp mọi nơi, từ Âu sang Á. Trong lịch sử đảng CSVN, hiếm khi có những đồng chí lãnh đạo sẵn sàng và vội vàng đi công du nước ngoài "để vận động hợp tác kinh tế" như ba ông Phiêu, Khải và Lương.

Họ ngại chuyện đối thoại và thích dùng bạo lực. Những lời kêu gọi cải cách của những phần tử cấp tiến trong nước, dù được trình bầy rất là nhũn nhặn, đều bị ba ông Lương, Khải, Phiêu đáp lại bằng một thái độ rất kém... ôn hòa, nếu không muốn nói là vô cùng đe dọa. Thêm một thí dụ nữa: trong vòng mấy tháng cầm quyền, thượng tướng Lê Khả Phiêu đã thăng chức cho cỡ đâu... 15 ông tuớng công an và bộ đội. Nếu không biết rằng những người bại não rất "sính" bạo lực, người ta đã ngỡ là đồng chí bí thư đang chuẩn bị để Việt Nam sẵn sàng bước vào... Thế Chiến Thứ Ba.

Lời cuối, để thay phần kết luận, tôi xin chân thành gửi lời tạ lỗi đến những người bị bệnh bại não vì đã có đôi lời khiếm nhã xúc phạm đến nỗi bất hạnh của họ - dù những gì tôi viết chỉ là ghi lại những dữ kiện khách quan. Không phải mọi người bị bệnh bại não đều thụ động như ông Lương, hay cầu cạnh như ông Khải hoặc cùng ưa bạo lực như ông Phiêu. Chậm trí, nghĩ cho cùng, cũng chỉ là một chứng bệnh - như trăm ngàn loại bệnh khác trong tiến trình sinh lão bệnh tử của kiếp người. Vấn đề chỉ là sự may rủi của mỗi cá nhân thôi. Khi để những người bại não lãnh đạo một quốc gia thì vấn đề mới trở thành sự may rủi của cả một dân tộc. Dân tộc Việt Nam thiệt... rủi, thế thôi !

Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Phiếm Luận
Reply #11 - 24. Aug 2008 , 11:55
 
Nhật ký Bắc Kinh, kỳ 15:

Cấm Thành


Nguyễn Khanh gửi về từ Bắc Kinh
2008-08-23


Tôi đang đứng ở Cấm Thành và bỗng dưng nhớ về cả Sài Gòn lẫn Hà Nội. Tôi nhớ đến Sài Gòn vì ở đó tôi có một ông Thầy cũ. Tôi nhớ về Hà Nội vì ở đó có một ông nhà văn... Bây giờ đứng đây giữa Cấm Thành của Trung Quốc tôi mới hiểu hết là ở quê hương tôi cũng có… Cấm Thành.
...
Photo courtesy of wikimapia

Tử Cấm Thành.

1.-

Bắc Kinh có quá nhiều địa điểm để đi thăm và nên đi thăm. Có người bảo đã đến đây không trèo lên Vạn Lý Trường Thành khi về chết… khó nhắm mắt.

Cũng có người nói phải chụp bằng được tấm hình đứng ở Thiên An Môn để còn khoe với bạn bè đã đặt chân đến một địa điểm ghi đậm chứng tích lịch sử cận đại.

Cũng có người nhận xét Trung Quốc bây giờ đã đổi mới, phải đến khu Phố Tây - nơi được ví như Time Square của Hoa Kỳ - để chứng kiến hình ảnh một Hoa Lục đang chuyển mình.

Ai nói cũng đúng, đúng nhất vẫn là lời cô bạn vàng Filomena của Ðài Truyền Hình Italia: “Có ở Bắc Kinh cả tháng vẫn chưa thể đi hết những chỗ cần đi”.  (nguyên văn câu này được mở đầu bằng ba chữ “hai đứa mình…”; nhưng thấy không quan trọng, nên không viết ra đây).

“Ði đâu thì đi, ghé nơi nào thì ghé, không thể quên ghé Cấm Thành”, anh bạn nhà báo đóng đô ngay tại Trung Quốc dặn tôi như vậy.

Anh bạn nói tiếng Hoa thạo chẳng kém gì tiếng mẹ đẻ kể cho tôi nghe cứ năm bảy phim được quay và chiếu tại Hoa Lục “ít nhất ba bốn phim có cảnh Cấm Thành”.

Biết tôi là người thuộc diện không mê chuyện chưởng chẳng thích phim Tàu, anh thao thao bất tuyệt về lịch sử Cấm Thành, đồng thời tỏ ý tiếc tôi “đã bỏ lỡ một cơ hội học hỏi quá lớn” vì nói đến văn minh thế giới mà chẳng biết tí gì về xứ sở của ông Khổng Tử là… vứt đi, là… chưa trưởng thành!!!

Thấy dẫn giải lẫn chê bai vẫn chưa đủ làm tôi nao núng, hai ngày sau anh dí vào tay tôi cái CD thu lại cuốn phim “Vị Hoàng Ðế Cuối Cùng” (The Last Emperor) kèm theo lời khuyên “bố ạ, tối nay bố bỏ ra chừng 3 tiếng đồng hồ xem cuốn phim này cho con nhờ”. Lý do: phải xem để biết chút ít về lịch sử Trung Quốc, biết ông Phổ Nghi là ông nào và “phải biết Cấm Thành để về Mỹ còn có chuyện tán phét với mọi người”.

Những đề nghị đó đã khiến tôi phải nghĩ đến Cấm Thành, thấy có bổn phận phải tìm hiểu về Cấm Thành.


2.-


Tôi đang có mặt ở Cấm Thành. Trước mặt tôi con đường dẫn vào Vận Ðộng Trường Tổ Chim với tấm bảng lớn viết bằng tiếng Hoa và tiếng Anh ghi rõ tất cả những gì người dân lẫn khách du lịch phương xa đến Bắc Kinh dự khán Thế Vận Hội 2008 phải tuân thủ.


...
Tử Cấm Thành của Trung Quốc. Photo courtesy of wikimapia

Tấm bảng viết “Những hành động sau đây được xem là không phù hợp và sẽ bị cấm đoán ở tất cả các sân vận động” kèm theo hướng dẫn từ “không được mang biểu hiệu quảng cáo cho bất cứ điều gì, những người đi chung một nhóm không được mặc đồng phục, không được mặc quần áo có mầu sắc mang ý nghĩa quảng cáo cho bất cứ điều gì”, không được có “những hành động cổ vũ cho tôn giáo, chính trị” và ngay cả “những hành động mang ý nghĩa cổ vũ cho các chương trình bảo vệ môi sinh và bảo vệ súc vật” cũng không được phép thực hiện.

Sợ chưa đủ để mọi người hiểu các điều không được làm, tấm bảng ghi thêm “không được chụp hình, không được tham gia các hoạt động trái phép, phải tuân theo chỉ dẫn của nhân viên trách nhiệm” và “không được có những hành động gây phiền hà cho người khác”.

Ðây không phải là tấm bảng duy nhất. Tổng cộng có 27 địa điểm tranh tài ở Bắc Kinh, chưa kể 4 sân vận động địa phương dành cho môn bóng đá và cuộc thi cưỡi ngựa biểu diễn được tổ chức ở Hồng Kông. Nơi nào cũng có những tấm bảng tương tự.

Ngay trên các đường phố có đông người qua lại cũng có những tấm bảng dặn dò như thế, hàm chứa ý đây là  xứ  tự  do “tất cả mọi người đều được quyền làm những gì muốn làm” miễn hành động đó nằm trong khuôn khổ “những điều nhà nước cho phép làm”.

3.-

Tôi đang có mặt tại Cấm Thành. Trước mặt tôi là một trong 3 chỗ được nhà nước Trung Quốc chọn làm nơi dành riêng cho “người dân biểu tình bày tỏ quan điểm” với điều kiện “phải xin phép và được chấp thuận”.

Ðịa điểm thể hiện tinh thần dân chủ này vắng bóng người, ngoại trừ nhân viên bảo vệ canh gác 24/24 “để giữ an ninh, trật tự cho những người biểu tình” theo như lời ông phát ngôn viên Khổng Quan của nhà nước Trung Quốc nói với báo chí.

Cũng phải nói thêm về ông này: nhìn thông minh, trông sáng sủa, lịch thiệp lắm, có vẻ là một ông thày giáo nhiều hơn một ông đang làm công tác chính phủ.

Ông thông minh đến độ chính cánh nhà báo phải “nhiệt liệt ngợi khen” khi nghe đưa ra phát biểu với nội dung như sau: “Ở tất cả nước luật pháp được tôn trọng, người dân đều phải xin phép mới được tổ chức hay tham gia biểu tình. Trung Quốc là nơi người dân phải nộp đơn xin phép biểu tình, do đó Trung Quốc là quốc gia luật pháp được tôn trọng”.

Ông Khổng Quan – cháu ông Khổng Tử??? - cũng bảo có nhiều người làm đơn xin biểu tình, nhưng “tất cả đều được giải quyết thỏa đáng” nên “chính người dân thấy không cần phải đến những khu được dành riêng để biểu tình làm gì nữa”.

4.-

Tôi vẫn đang đứng ở Cấm Thành. Trước mặt tôi là Văn Phòng Khiếu Kiện nằm ở phía Nam của Bắc Kinh, được dịch ra tiếng Anh là “State Bureau of Letters and Visits”, nơi ngày nào cũng có khoảng 200 ông tuổi trung niên đang uống trà, hút thuốc.

Có ông mặc đồng phục công an, có ông mặc quần áo như người dân bình thường, tất cả đều ngồi trên những chiếc ghế xếp bằng sắt, mỗi ông một ghế đang nói chuyện huyên thuyên. Một số ông khác đứng ngay trạm xe buýt gần đó và mắt ngó láo liên vào những chiếc xe vừa ngừng.

Những ông có vóc dáng vạm vỡ này giữ nhiệm vụ “dẫn người về quê”. Người các ông dẫn về có thể là một bà cụ già lên thủ đô để khiếu kiện có đứa con trai bị tù oan, cũng có thể là một cô thiếu nữ nhất định phải đến Bắc Kinh khiếu nại vì gia đình bị các ông bà lớn địa phương chiếm đất đuổi nhà.

Các ông làm việc rất “khéo”, thấy người vừa xuống xe là chạy tới, câu hỏi đầu tiên “thế bác ở tỉnh nào đến, lên đây có việc gì, cần chúng tôi giúp đỡ gì không”. Người được hỏi có ngay cảm nghĩ được nhà nước chăm sóc, bèn xưng tên họ, nơi cư trú và trình bày nỗi oan khiên.

Vừa nói xong là chuyện “chăm sóc” tận tình diễn ra: ông Quảng Ðông “lo” cho người Quảng Ðông, ông Thượng Hải có “trách nhiệm” với người Thượng Hải, đưa ngay ra bến xe bắt phải về quê, kèm theo lời răn đe “cấm không được trở lại thủ đô làm phiền trung ương”. Nếu không nghe lời, “biện pháp kế tiếp là tù lao cải”.

Ở xứ luật pháp được tôn trọng của ông Khổng Quan, công an có quyền lấy cớ bị làm phiền để cho dân đi lao cải một năm sau đó “hạ hồi phân xử”.

Và để cổ võ cho tinh thần thượng tôn luật pháp, chính quyền địa phương quyết định ngoài đồng lương lãnh hàng tháng, các ông đang làm công tác “dẫn người về quê” được hưởng thêm trợ cấp ăn ở, và tiền thưởng đặc biệt “tính theo số đầu người dẫn về”.

5.-

Tôi vẫn còn đứng ở Cấm Thành và bỗng dưng nhớ về cả Sài Gòn lẫn Hà Nội. Tôi nhớ đến Sài Gòn vì ở đó tôi có một ông Thày cũ. Thày tôi tên tục là Đặng Phúc Tuệ thì ít người biết, nhưng khi xuất gia Thày mang tên Thích Quảng Ðộ thì cả thế giới đều hay.

...

Thày là người cũng từng nhiều năm lao cải, cũng bao nhiêu lần bị mấy ông công an bắt dẫn về Chùa. Nhiều đến độ đã có lần Thày bảo với tôi “thời gian tôi ở tù nhiều bằng thời gian tôi ngồi tụng kinh niệm Phật”.

Nhớ mãi có lần nghe tin Thày vừa được “tha”, tôi vội vã gọi điện về mừng Thày thoát nạn. Thày thật vui khi nghe tiếng tôi, nhưng bảo ngay “có gì mà mừng hả con. Thày mới thoát một nhà tù nhỏ, bây giờ sống ở một nhà tù lớn hơn”.

Bây giờ đứng đây mới hiểu hết ý Thày, mới biết ở quê hương tôi cũng có… Cấm Thành.

Tôi nhớ về Hà Nội vì ở đó có một ông nhà văn tên Nguyễn Huy Thiệp. Trong một truyện ngắn được nhiều người đọc, ông này có viết câu đời nhà Nguyễn để lại “nhiều lăng”.

Các vua đời Nguyễn ở Việt Nam và mấy ông vua nhà Tống, nhà Ðường gì đó ở bên Trung Quốc giống y hệt nhau: một bên có “lăng” làm gương cho hậu thế, một bên có “Cấm Thành” để nhắc nhở con cháu đừng quên phận làm dân.

Có thể bạn là người khó tính không hài lòng với nỗi nhớ “cục bộ” thường mang tính địa phương của tôi, bảo “cả nước đâu phải chỉ có Sài Gòn hay Hà Nội, cả Trung Quốc đâu phải chỉ có mỗi mình Bắc Kinh”.

Nếu vậy thì bạn cùng tôi đi xa hơn nhé: “anh ở đầu sông em cuối sông, uống chung giòng nước…”. Ông nhà nước Trung Quốc là ông anh, ông nhà nước Việt Nam là ông em. Hai anh em nhà ông này đều uống chung một giòng nước!!! Dẫn bạn đi như vậy đủ xa chưa???

6.-

Tôi đã đến Cấm Thành, vẫn tiếp tục đứng ở Cấm Thành và đang sống ở giữa Cấm Thành. To lắm, rộng lắm bạn ạ, không phải cái Cấm Thành nhỏ bé của ông Phổ Nghi mà bạn xem trong phim đâu!!! Kỳ này về có dịp ngồi ăn bát phở, uống y cà phê với nhau, tôi hứa sẽ kể thêm cho bạn nghe. Có đủ dữ kiện để “tán phét” rồi.

Nhưng trước khi chia tay, phải chia sẻ với bạn một thắc mắc nhỏ. Nghe bảo bên nhà bây giờ đi tour Bắc Kinh rẻ lắm, ai ai cũng muốn đi, cũng có thể đi, và bao giờ cũng được dẫn đến Cấm Thành để chụp hình, không biết có đúng không.

Nếu đúng thì lạ quá!!! Phải mất tiền, mất thì giờ xếp hàng qua thủ tục an ninh để lên máy bay, phải đi bao nhiêu chặng đường mới được xem Cấm Thành.

Ở nhà xem chưa đủ hay sao???

Back to top
« Last Edit: 24. Aug 2008 , 12:00 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Phiếm Luận
Reply #12 - 19. Jan 2009 , 07:33
 
CUỐI NĂM NÓI CHUYỆN VỚI HỒN THIÊNG SÔNG NÚI


Việt Báo Thứ Bảy, 1/17/2009, 12:00:00 AM

Đời vẫn vốn không nương người thất thế. (Nguyễn Tất Nhiên)

Người Việt sính thơ, và hay sáng tác những bài thơ (rất) vụng. Ngoài cái tật hay làm thơ ra, dân Việt còn có một cái thói xấu (lớn) khác nữa là thích bắt người khác phải nghe hay đọc những thơ ngô nghê của mình. Nếu bạn không tin như vậy, cứ thử vào xem nhiều website sẽ thấy. Trên những diễn đàn này, trong phần góp ý, bên dưới những bài chủ, bao giờ cũng xuất hiện năm bẩy bài thơ lảng xẹt.

Tôi cũng là người Việt, nên cũng thích làm thơ, cũng chuyên môn sản xuất ra loại thơ (rất) vụng, và cũng không từ bỏ một cơ hội nào để gởi thơ lên net. Bài thơ đỡ dở nhất - tôi viết vào mùa Hè năm 1980, tên Chiều Vọng Các,sau khi leo rào từ một trại tị nạn ở Thái Lan ra Bankok chơi - có những đoạn (hơi) sến, như sau:

Chiều về trên xứ lạ
Cười nụ cười Anglais
Buồn qua hơi thuốc Thái
Thèm một phin cà phê
*
Chiều về trên xứ lạ
Execuse me
I'm sorry nói mãi
Thương một câu chửi thề
*
Chiều về trên xứ lạ
Ngỡ ngàng Chinatown.
Đây rượu nồng thịt béo
Mà bạn bè nơi nao
*
Dừng chân nơi quán lạ
Thèm cơm chiều hương quê
Mẹ cha ơi đừng đợi
Chiều nay con không về
(Chị ơi thôi đừng đợi
Chiều nay em chưa về)

Thơ thẩn cỡ đó, nếu đem dự thi chắc rớt (rớt chắc) nhưng mang gửi về Việt Nam cho gia đình cho ông bà già chơi thì họ phê hết biết luôn. Má tui đọc xong, khóc ròng cả tháng. Bả lu loa, mếu máo kể lể với mọi người:

- Coi: thằng út tui là dân nhậu. Trên tay nếu không cầm ly thì cũng cầm chai. Nó sinh ra để uống. Bỏ uống là... chết mẹ. Nó rất thích cảnh cơm hàng - cháo chợ, và thấy rượu thịt là vui mừng như lân thấy pháo. Vậy mà (Trời ơi) bây giờ thằng nhỏ bước vô quán như cái xác không hồn, thẫn thờ nhớ mẹ nhớ cha, nhớ bạn nhớ bè tới đắng miệng, ruợu uống không vô! Sao mà khổ thân dữ vậy con ơi? Vì ai mà con tui phải lìa xa gia đình, quê hương và lưu lạc nơi xứ lạ quê người như vậy, hả mấy ông cách mạng?

Ở thời điểm này, không riêng chi má tui đâu nha, ít nhứt cũng nửa nước Việt Nam đã ngộ nhận về thiện chí của nhà cầm quyền như thế. Người dân tưởng rằng chế độ bao cấp, chính sách hộ khẩu, tem phiếu, kinh tế mới, cải tạo công thương nghiệp, đổi tiền … đều chỉ là những phương thức cào bằng, bần cùng hoá cả xã hội, và tha hoá con người nên hè nhau bỏ chạy.

Còn về phiá nhà nước, khi thấy thiện chí xây dựng một xã hội công bằng, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc bị người dân cương quyết khước từ - bằng cách liều mạng bỏ phiếu bằng chân - nên nổi giận, và đã (có) nặng lời chút đỉnh: “đồ cặn bã, ma cô, đĩ điếm Tất cả chỉ là những ngộ nhận nhất thời, và thời đó đã qua. Bây giờ là một thời khác hẳn. Những kẻ (lỡ) bỏ đi, vẫn thường được phép trở về. Và khi về, đều được Đảng và Nhà Nước hân hoan chào đón.

Năm 2004, có 19 người Việt ở hải ngoại được vinh danh tại Văn Miếu, Hà Nội (1). Năm 2005, thêm 19 người khác tiếp tục được nhận lãnh cái vinh dự (to lớn) tương tự (2).
Nhận xét về tổ chức Lễ Vinh danh nước Việt, ông Nguyễn Chơn Trung - Chủ nhiệm Uỷ ban Người Việt Nam ở nước ngoài TP.HCM đánh giá cao chương trình mà Báo Điện tử Vietnamnet đã thực hiện và thành công như mong đợi. Ông Trung cho rằng, Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị với nhiều chính sách đổi mới ngày càng thông thoáng hơn và tạo điều kiện cho bà con kiều bào ngày càng gần với quê hương, đất nước.

Thật vô cùng xúc động khi những người con Việt ở xa Tổ quốc hội tụ về đây, cùng lắng nghe tiếng gọi của non sông hào hùng từ ngàn xưa vọng về. Họ đại diện cho gần 3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, mang trong người dòng máu Lạc Hồng đã có những đóng góp trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Họ xứng đáng là 'Những sứ giả Lạc Hồng', là chiếc cầu nối giữa người Việt trong nước và ngoài nước, giữa Việt Nam và cộng đồng Quốc tế.

Nhà báo Nguyệt Quế đã viết những dòng chữ (vô cùng) thắm thiết như trên, trong bài báo có tựa là Khi Hồn Thiêng Sông Núi Gọi Về tại chuyên san Người Viễn Xứ, ngày 6 tháng 2 năm 2006

Tui in bài báo này, gửi dìa nhà cho ông bà già coi chơi. Ba má tui sẽ hãnh diện và sung sướng (muốn chết) khi biết rằng nhờ sự thông thoáng của NQ 36, thằng con đã được chuyển từ diện cặn bã xã hội, chạy theo bơ thừa sữa cặnqua thành những sứ giả Lạc Hồng rồi! (Tui viết rõ ràng là Lạc Hồng, đừng có đánh máy hay đọc lộn thành Lạc Hồn nha, mấy cha). Hậu vận của tui, rõ ràng, quá tốt. Tui quả là người (cực kỳ) may mắn.
Không phải ai tha phương cầu thực cũng đều có cái may mắn đó đâu. Bà Tạ Thị Giám là một người, không may, như thế.

Trong một bài bào có tên Taiwan Shelter Helps Abused Vietnamese Workers, đọc được trên nhật báo Mercury News - số ra ngày 12 tháng 12 năm 2006 - ký giả K. Oanh Ha đã mô tả hiện cảnh của bà Giám, như sau:

Tạ Thị Giám, một người phụ nữ Việt Nam, đã bị hấp dẫn bởi lời hứa hẹn về số tiền luơng 500 Mỹ Kim mỗi tháng. Bà rời nhà nơi làng quê nghèo nàn ở ngoại thành Hà Nội để lao động cật lực trong một viện dưỡng lão tại Đài Loan, với hi vọng có tiền cho con đi học. Ngược lại, bà Giám cho biết, bà đã bị biến thành nô lệ cho người chủ Đài Loan, bị chủ đánh đập, không cho ăn, và buộc phải làm việc cho đến khi gục ngã. 'Họ đối xử với chúng tôi như một con vật, chứ không phải là một con người vì biết rằng chúng tôi đã lâm đến bước đường cùng, không còn nương tựa vào ai được nữa'. Bà Giám, 36 tuổi, đã nói như thế.

Tưởng như thế” đã đủ nát lòng, vậy mà nhiều cảnh đời lưu lạc còn truân chuyên hơn thế nữa. Những nạn nhân trong cuộc - theo tường thuật của Tuần báo Viet Tide, qua bài phóng sự Người Việt Trên Đất Đài: Lời Kêu Cứu Của Những Phận Người Bị Chà Đạp, phát hành từ California ngày 20/05/2005 - đều xin được giấu tên:

- N. nói: Quê tôi ở Việt Trì... Làng tôi nghèo lắm khó kiếm được công ăn việc lam. Tôi sang Đài Loan ngày 18 tháng Giêng năm 2005. Theo hợp đồng với công ty môi giới tại Việt Nam, tôi sẽ chăm sóc một ông già bị liệt toàn thân. Khi đi tôi đã vay gần 20 triệu tiền Việt Nam để giao cho công ty môi giới... Tôi bị cưỡng hiếp nhiều lần trong suốt thời gian bị cầm giữ trong nhà tay chủ môi giới này.

- M. nói: Làng quê của em ở Tây Ninh, nghèo lắm. Bọn em chưa hề biết Sài Gòn là gì, vậy mà bay giờ luân lạc sang tận Đài Loan. Lúc ra đi, bọn em chỉ mong lấy được tấm chồng, rồi kiếm việc làm để gửi tiền về giúp cha mẹ cất mái nhà ở. Không ngờ thân bọn em bị ô nhục đến thế.

- T. khóc: Vừa đặt chân đến phi trường Đài Bắc, tên môi giới hôn nhân cùng đồng bọn giữ hết giấy tờ hộ chiếu rồi đưa chị em em lên xe chở thẳng đến một căn nhà 16 tầng. Ở đó, bọn em bị canh giữ ngày đêm. Bọn em bị cưỡng bức phải tiếp khách. Suốt 21 ngày, thân xác bọn em bị khách chơi hành hạ ... Tương lai ra sao, về nước hay ở lại, bọn em cũng không biết, mà cũng không dám nghĩ tới ... Cứu bọn em các anh chị ơi.

Không hiểu con đường khổ nạn của những người lưu lạc (như bà Giám, bà M., bà N., bà T) ở Đài Loan còn bao xa nữa nhưng đối với một số phụ nữ Việt Nam khác - vừa có mặt ở Mã Lai - thì họ mới chỉ bắt đầu cuộc hành trình (không may) tương tự. Theo nhật báo International Herald Tribune - số ra ngày 19 tháng 12 năm 2006 - hiện có hàng chục thiếu nữ VN đang được trưng bầy tại các quán cà phê ở Mã Lai, để chờ được mua về làm vợ. Sự kiện này khiến cho người dân bản xứ cảm thấy bất an. Họ mô tả đó là một việc làm “bệnh hoạn và vô luân (The pratice has been described as "sickening and immoral")

Những người phụ nữ đã sa chân lỡ bước này, nếu (cũng) được hồn thiêng sông núi gọi về thì thiệt là đỡ khổ cho họ (và cũng đỡ tủi cho toàn dân Việt Nam) biết mấy. Những đưá bé thơ tên Xuân, tên Yến - đang bán thân nuôi miệng - ở Cao Miên cũng vậy. Hoàn cảnh của các em khiến mọi người đều phải xót xa, mà sao “hồn thiêng sông núi (cứ) tỉnh queo như vậy cà?

Cách gọi của hồn thiêng sông núi, dường như, có cái gì không ổn. Tui rà xoát lại chuyện này chút đỉnh và biết thêm rằng chuyện vinh danh hàng năm là do báo điện tử Vietnamnet tổ chức, còn gọi ai về để vinh danh lại là chuyện (riêng) của Mặt Trận Tổ Quốc!
Nói cách khác, giản dị và dễ hiểu hơn, là thông qua Mặt Trận Tổ Quốc, Đảng đang lãnh đạo và chỉ đạo luôn cả hồn thiêng sông núi nữa. Thiệt là quá đã (và quá đáng)!

Mà Đảng (ta) thì làm gì mà không có tính toán. Và toàn là những toan tính bẩn thỉu, ti tiện, và đểu cáng. Chỗ nào thấy không có lợi, và ai không có tiền thì Đảng làm lơ, chớ gọi (về) làm chi - cho chật chỗ?

Toàn thể nhân loại đều biết chuyện phụ nữ VN bị bầy bán trong những quán cà phê ở Mã Lai nhưng cả toà đại sứ VN ở Mã Lai thì không một ai biết là có chuyện (đáng tiếc) này - theo như tường thuật của phái viên AP, vào ngày 19 tháng 12 năm 2006: Vietnam's ambassador to Malaysia, Nguyen Quoc Dung, said officials were not aware of such incidents Đại sứ Việt Nam ở Mã Lai, Nguyễn Quốc Dũng, nói rằng giới chức có thẩm quyền không hề biết có những sự cố như vậy.

Và như vậy - trong những đợt vinh danh tới - những người như bà Tạ Thị Giám, cũng như những cô gái Việt đang ngồi phơi mặt trong những quán cà phê ở Mã Lai (chắc chắn) sẽ không được hồn thiêng sông núi gọi về đâu. Ủa, sao kỳ vậy, cùng là Việt Kiều hết trơn mà?

Coi: ông đại sứ Việt Nam ở Mã Lai mà còn không biết là họ có mặt bên xứ đó thì hồn thiêng sông núi làm sao có danh sách (để) gọi về chớ. Hơn nữa Văn Miếu - Quốc Tử Giám (ở Hà Nội) là chỗ linh thiêng, chỉ có loại ma cô đĩ điếm đã được chuyển diện thành “sứ giả Lạc Hồng mới xứng đáng được mời về để vinh danh thôi. Chớ còn cái thứ đang bán thân nuôi miệng, và bán với cái rất bèo, ở mấy xứ Á Châu thì khỏi!

Đời vẫn vốn không nương người thất thế. Đảng cũng vậy thôi à. Nhưng nói vậy, e chưa hết lẽ. Cũng có lúc Đảng nương (vào) người thất thế đó chớ. Nếu không, lấy đâu ra lý do để làm cách mạng và cướp chính quyền.

Tưởng Năng Tiến

Ghi chú:

(1) Ông Vũ Gỉan, Thụy Sĩ ; tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng, Vương quốc Bỉ; tiến sĩ Lương Văn Hy, Canada; tiến sĩ Nguyễn Chánh Khê, Việt Nam; viện sĩ Trần Văn Khê, Paris; tiến sĩ Đặng Lương Mô , Việt Nam; ông Nguyễn Ngọc Mỹ, Việt Nam; tiến sĩ Ngô Thanh Nhàn, Hoa Kỳ; ông Lê Phi Phi, Việt Nam; tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong, Hoa Kỳ; tiến sĩ Nguyễn Công Phú, Pháp; tiến sĩ Nguyễn Quang Riệu, Pháp; nghệ sĩ Đăng Thái Sơn, Canada; ông Bùi Kiến Thành, Hoa Kỳ; tiến sĩ Trần Văn Thọ, Nhật; tiến sĩ Trịnh Xuân Thuận, Hoa Kỳ ; tiến sĩ Võ Văn Tới, Hoa Kỳ; kiến trúc sư Hồ Thiệu Trị, Pháp; tiến sĩ Trần Thanh Vân, Pháp
Nguồn: Người Viễn Xứ.

(2) TS. Nguyễn Quốc Bình (VK Canada); TS. Nguyễn Trọng Bình (VK Mỹ); PGS, TS. Nguyễn Lương Dũng (VK Đức); TS. Nguyễn Trí Dũng (VK Nhật); Họa sĩ Lê Bá Đảng (VK Pháp); GS,TS. Nguyễn Quý Đạo (VK Pháp); Nhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo (VK Pháp); Bác sĩ Bùi Minh Đức (VK Mỹ); TS. Lê Phước Hùng (VK Mỹ); ThS. Phạm Đức Trung Kiên (VK Mỹ); GS,TS. Đoàn Kim Sơn (VK Pháp); GS Toán học Lê Tự Quốc Thắng (VK Mỹ); Ông Phan Thành - Chủ tịch HĐQT HHNVNONN TPHCM (VK Canada); GS,TS Nguyễn Văn Tuấn (VK Úc) và GS,TS Nguyễn Lân Tuất, VK Nga Nguồn: Người Viễn Xứ.
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11591
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re: Phiếm Luận
Reply #13 - 14. Nov 2011 , 05:32
 

...


BỘ MẶT THẬT CỦA VIỆT CỘNG.


- Dân Chì -
 

   Chuyện tàu Bình Minh chưa hết bàn tán, nay vụ tàu hải quân Cộng Sản Việt Nam cả gan dám tấn kích tàu hải giám của Trung Cộng, càng gây xôn xao trong dư luận trong nước và ngoài nước.

    Cả hai vụ tàu va chạm với Trung Cộng ngoài khơi vùng biển của Việt Nam làm chủ, đảng Cộng Sản quản lý, nhưng dưới sự lãnh đạo của Trung Cộng….nhằm chứng minh là vùng biển Đông trong hải phận Việt Nam, nhưng bên trong đã bàn giao cho Tàu Cộng từ lâu. Tuy nhiên đảng CSVN cố tình giấu diếm nhân dân, sợ bị kết án là bán nước, hại dân, thái thú cho Tàu, đưa đến nguy cơ dân chúng đứng dậy để giành lại độc lập, tự do, dân chủ.

    Kẻ gian manh Cộng Sản Việt Nam, sau khi bán nước cho Tàu Cộng, nhưng không đủ can đảm để nói thật với nhân dân, tai hại vô cùng, khi dân đánh cá lầm tưởng là vùng biển nhà, ra đánh cá và bị Hải Quân Tàu Cộng bắt giữ, cướp của, đòi tiền chuộc, giết hại. Những sự kiện đã xảy ta từ nhiều năm qua, nhưng đảng Cộng Sản ít khi phản ứng và nếu có, cũng không hề lên tiếng mạnh, chỉ phản ứng lấy lệ trong ngôn từ ngoại giao, phù hợp với 16 chữ vàng và bốn tốt, được cấp trên, trung ương đi đêm, cam kết và công nhận biển nhà là của Tàu, họ bán biển, đất, đảo, không cần thông qua ý kiến dân và cũng không dám báo cáo cho dân biết. Không có gì gian trá bằng kẻ bán nước, nhưng vẫn không công nhận, ngoài ra còn tự cho là yêu nước để đánh lạc hướng.

    Từ trước đến nay, theo thông lệ, dù dàn cảnh, nhưng Trung Cộng muốn tung hỏa mù để lừa bịp dân chúng, tưởng hệ thống đảng và nhà nước Việt Nam là độc lập, tự do, không nô thuộc Tàu. Những phản ứng chiếu lệ, mị dân trong các vụ ngư dân Việt Nam bị cướp trong vùng biển nhà, thường được Trung Cộng đáp lại bằng công hàm, phát biểu của giới chức ngoại giao, đại diện đảng Cộng Sản Tàu.

    Vụ tàu Bình Minh 2 cũng có lời qua tiếng lại chiếu lệ, để giữ vững chế độ đại diện của Bắc Kinh ở Việt Nam. Chính những phản ứng dàn dựng nầy, tạo được không khí yêu nước, do đảng Cộng Sản trong nước và ở nước ngoài có tập đoàn băng đảng Việt Tân, lái mũi dùi căm hờn của dân chúng sang chống Bắc Kinh, để cho tay sai Việt Nam tránh được làn gió dân chủ, trở thành trận cuồng phong quét vào Trung Đông, Bắc Phi, là nổi lo sợ của tất cả các chế độ độc tài còn tồn đọng trên thế giới.

     Tuy nhiên vụ tàu hải quân của đảng Cộng Sản Việt Nam dám tấn công, sắn vào tàu hải giám Tàu, đến nay không thấy Trung Cộng phản ứng, dù bằng lời nói. Như vậy, vụ biểu lộ lòng yêu nước của đảng bán nước đã trở thành: gian mà không ngoan, hải quân Việt Nam tấn công tàu Trung Cộng còn nghiêm trọng hơn cả những tàu ngư dân bị cướp, va chạm tàu Bình Minh 2…nhưng Trung Cộng không lên tiếng, đây là điều khó che dấu được nhận xét của dân chúng trong và ngoài nước, thời đại văn minh, truyền thông nhanh chóng.

    Hai chiếc tàu có trọng tải lớn, muốn đụng tàu kia, phải chạy với tốc độ nhanh để gây thiệt hại, nhưng không nghe tổn thất nặng, tróc sơn hay có thể làm rớt những rong rêu bám vào thành tàu hai bên, là chuyện khó tin nhưng được thổi phồng như có thật.

    Trung Cộng không lên tiếng, có thể đây là cảnh dàn dựng của hải quân Việt Nam, hai chiếc tàu phe Hà Nội cùng nhau giả vờ cặp ké với nhau, xong là quay phim, đưa lên màn ảnh, tuyên truyền là Việt Nam đâu có hèn nhát, dám đụng cả Trung Cộng trên biển Đông, bảo vệ chủ quyền như lối tuyên truyền bịp-láo từ trước: đánh thắng Phát Xít Nhật, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ…nay đảng nhân dân anh hùng tiếp nối truyền thống giữ nước theo gương bác hồ vĩ đại, tấn công tàu Trung Cộng và rượt nà trên biển đông.

    Nhưng đây là màn dàn cảnh tệ hại, khi Trung Cộng vẫn không lên tiếng, mà chỉ có Việt Nam tung tin, làm cho người Việt trong và ngoài nước phấn khởi, tin đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn yêu nước, đánh thắng nhiều thế lực, dù đây chỉ là thắng lợi do thời cơ, ma lanh, chứ họ không thắng ai cả.

     Sự im hơi lặng tiếng của Trung Cộng trong vụ tàu hải quân Việt Nam anh hùng rượt tàu Trung Cộng chạy xịt khói, không thể lừa được dân chúng Việt Nam, màn tuyên truyền bịp nầy đã lạc hậu.


     Đảng Cộng Sản Việt Nam có quá trình và truyền thông dàn dựng chuyện giả thành thật, thời Hồ Chí Minh trong trận Điện Biên Phủ, có hai tấm gương giả, người giả nhưng nói như thật là hai bộ đội cụ hồ tên Bế Văn Đàng và Phan Đình Giót, dùng thân mình để làm vật cản cho khẩu pháo khỏi rớt xuống vực sâu. Anh hùng giả Lê Văn Tám, được ca tụng là can trường trong chiến địa, dùng thân mình tẩm xăng, đốt thành ngọn đuốc để soi sáng cho quân tiến công, anh hùng Tám trở thành biểu tượng, tấm gương hy sinh, được đảng dùng để dạy cho các mầm non suốt từ mấy mươi năm qua…còn nhiều chuyện giả khác trong lịch sử lừa bịp của đảng.

   
Dàn dựng tàu hải quan Việt Nam rượt tàu Trung Cộng chạy xịt khói, nhưng không nghe, thấy Tàu phản ứng, là chuyện đảng tự vẽ ra để đánh lừa
. Trong tương lai, đảng có thể áp dụng xảo thuật điện ảnh tân kỳ Hollywood để dàn dựng cảnh tàu hải quân Việt Nam bắn chìm cả hạm đội, hàng không mẫu hạm mới của Tàu, được đưa lên mạng internet, cũng không nằm ngoài bản chất: đừng nghe cộng sản nói, hãy nhìn kỷ cộng sản làm./.


Dân Chì
12.11.2011
Back to top
 

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11591
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re: Phiếm Luận
Reply #14 - 16. Nov 2011 , 05:56
 

Ai biểu cho CS vay!


Những ai chơi với CS đã ngu rồi, mà còn cho CS mượn $ nữa thì là “Ðại Ngu” (xin đừng nói lái). (“Tập đoàn Vinashin bị chủ nợ kiện,” báo Người Việt 10 tháng 11.)

Bây giờ không biết nghĩ sao mà còn đứng ra kiện cái đám ăn cướp có trống có kèn nầy nữa, tụi nó cười cho mà thúi đít luôn (vốn đã thúi sẵn rồi).
Giả dụ như nếu thắng kiện thì làm cái gì tụi nó đây? Dám wính hông? Hiệp định Paris 1973 là hiệp ước quốc tế gồm 8/9 nước ký tên mà tụi nó còn xé một cái rẹt, quốc tế quốc tiếc, Liên Hiệp Quốc gì đó (đâu hết rồi) sao không làm gì chúng nó xem, thì những khế ước khác đều là chuyện nhỏ.

Ông bà mình nói:

“già rồi mà còn dại,
có cháu ngoại rồi mà còn ngu,
có ba đồng xu mà cũng làm mất”

Huỳnh Bảy
Back to top
« Last Edit: 16. Nov 2011 , 05:59 by Dau Do »  

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra