CHÂN DUNG & CHÂN TƯỚNG CỦA TÁO QUÂNBác Sĩ Lê Văn Lân (Khoa Hoc.net)
Thứ tư ngày 30 Jan 2008 là ngày 23 tháng chạp, nghĩa là ngày TIỄN ÔNG TÁO! Không biết ở hải ngoại, còn mấy người nhớ đến Ông Táo hay ông Vua Bếp. Lý do là chúng ta bây giờ dùng khí đốt, điện khí, dùng microwave để làm nấu nướng thức ăn, ít khi suy nghĩ lại vấn đề dùng Ngọn Lửa Thiên nhiên đốt bằng củi của bao nhiêu thiên niên kỷ đã mang nhiều biến thiên sắc thái ăn sâu về phong tục văn hóa. Chúng ta bây giờ không còn nhớ đến Cái Bếp cổ truyên dựng trên ba cái đồ rau, cái kiềng sắt 3 chân, cái hỏa lò đất nung, cái lò lớn chính của gia đình. Vả lại vì sinh họat làm lụng, chúng ta bây giờ càng ngày càng bớt nấu nướng ở nhà vì ăn thức ăn chế biến sẵn, ăn tiệm… Vai trò người phụ nữ không còn là người nội trợ, người đầu bếp … Bếp lửa gia đình vô hình chung đã biến mất, và có thể ngọn lửa ân tình trở nên nguội ngắt để rồi dễ đi tới ly tan, vợ chồng con cái không còn tìm lại cái ấm áp của gia đình chăng?
Bây giờ, chúng ta hãy nhân dịp cuối năm trở về sự tích cổ của Á Đông tìm hiểu chân dung và chân tướng của Ông Táo là ai? Để tìm hiểu hoàn cảnh Một Bà Hai Ông của gia đình ông ra sao? Ý nghĩa của vai trò Táo Quân trên mặt văn hóa Cổ Á Đông ra sao?
Theo niềm tin cổ xưa, vũ trụ cũng giống như một triều đình, trên có Vua, dưới có Quan trực tiếp cai quản người dân., nghĩa là trên hết có Ngọc Hòang Thượng Đế trên thiên đinh, ở hạ giới có chư vị thần linh coi sóc nhân gian ở hạ giới nào là thần lửa, thần núi, thần đất, thần sông, thần gió và đương nhiên có ông thần bếp hay còn gọi bằng nhiều tên như là Táo Công ,Táo Quân, mà dân VN gọi nôm na là Vua Bếp.
Theo tin tưởng nguyên thủy của dân Trung Hoa, thì chỉ thờ cúng duy nhất một ông Táo Quân thôi mà họ gọi là Táo Vương Gia hay Tư Mệnh chi thần… Vị này chính là “một đặc sứ tòan quyền” do Ngọc Hòang phái xuống coi sóc và phù trợ cho những người trong mỗi gia đình nên thường được nguời Tầu thờ bằng một bức tranh giấy điều vẽ hình của ông mặt mày hiền phúc dán trong bếp, bên trên ghi 4 chữ Tư Mệnh chi Thần ( thần chăm sóc về mạng sống) . Hai bên ông có hai vị tiên đồng bưng hai cái bình, một bên là bình Thiện, một bên là bình Ác để ông ghi chép hành vi xấu hay tốt rồi bỏ vào đó. Mỗi năm vào ngày 23 tháng Chạp.
Để chứng minh điều trên, tôi xin lấy một bức tranh thờ của Táo Vương Gia từ trong một cuốn biên khảo viết về phong tục tập quán đặc thù chính thống của dân Trung Hoa gọi là The Adventures of Wu (The Life Cycle of a Peking Man), kể ra tỉ mỉ từng chi tiết trong cuộc đời của một người Tầu điển hình từ lúc lọt lòng sanh ra, lớn lên đi học, lấy vợ cho đến lúc già chết, cuộc sống trong gia đình và ngoài xã hội, mọi việc đều mô tả ra và được minh họa bằng tranh vẽ. Cuốn sách này có thể coi như cuốn Trung Hoa Phong Tục về mọi khía cạnh cuộc đời của một người Trung Hoa điển hình.
Trong cuốn này, tôi thấy vai trò của Táo Vương Gia còn quan trọng trong nhiều chuyện khác liên quan đến phúc lợi của những người dân trong nhà, nhất là làm Cố vấn về Hôn Nhân trong sụ dựng vợ gả chồng. Ví dụ như chuyện sau: mỗi khi trai gái chuẩn bị dạm hỏi cưới nhau, thì gia đình đôi bên bèn trao đổi với nhau một tấm thiếp ghi đầy đủ danh tánh, giờ sanh tháng đẻ của hai trẻ, rồi mỗi gia đình nhận lấy rồi để trên bàn thờ Táo Vương Gia trong nhà mình trong ba ngày. Rồi mỗi gia đình chờ xem, trong vòng ba ngày, nếu không có sự gì gây gổ phương hại sự thuận hòa thì mới xúc tiến chuyện hôn nhân.
Khi tiển Táo Vương Gia về Thiên đình, người Tầu cũng thường cúng kẹo nấu bằng mạch nha để ông Táo ngọt giọng mà nói tốt cho gia chủ. Thành ra ngoài vai trò đặc sứ toàn quyền cho mỗi gia đình, ông còn là trạng sư bào chữa cho người ta luôn. Vui quá đi thôi!
Người ta cúng tiễn Táo Vương Gia vào ngày 23/ tháng Chạp lên chầu trời, nhưng sau đó trong thời gian từ ngày 23 Chạp đến 30 Tết thì gia chủ kiêng cữ “động thổ” trong thời gian này cho đến mồng 2 Tết, nếu không kiêng thì vàng bạc tài nguyên trong nhà sẽ thất thóat. Lý do là ông cũng là vị thần cai quản đất đai của mỗi gia đình, Trong chữ Nho, Chữ Thổ 土là đất viết bằng hai vạch ngang như chữ Nhị 二 tượng trưng cho hai lớp đất trên mặt và bên dưới, cùng một gạch thẳng đứng 丨tượng trưng cho cái gì mọc lên . Còn chữ Kim 金 là vàng có chữ Kim bên trên để tượng thanh 今 và bên dưới có chữ Thổ 土 cọng với hai chấm 丶丶là tượng hình cho những vẩy quí kim vàng bạc dưới đất. Cuốc đất đai hay động thỗ mà không có ông ở nhà canh giữ và kiểm sóat thì vàng bạc trong nhà bị thất thóat.
Sở dĩ người ta còn gọi là Táo Công vì chữ Nho thì Táo竈 là cái bếp, cái lò nặn hay đắp bằng đất ( nên còn viết tắt là 灶 gồm chữ Hỏa 火土 và chữ Thổ).
Nhưng lại do đâu lại nảy sinh ra sự tích Hai ông Một Bà về gia đình Táo công như câu ca dao Việt Nam sau : Thế gian một vợ một chồng – Nào như Vua Bếp hai ông một bà?
Tôi thấy sự tích bộ 3 là một điều khá lạ vì Táo Quân hay Thổ Công chỉ là duy nhất một Vua Bếp trong tín ngưỡng của dân Trung Hoa miền bắc , nhưng tại sao có sự tin tưởng rằng trong mổi gia đình có tất cà ba vị Thần: Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ. Phải chăng đây là sự khác biệt nào khác ở miền nam Trung Hoa, địa bàn nguyên thủy của các sắc dân Bách Việt trong đó có Lạc Việt chúng ta? Ba Thần Táo nầy gọi chung là: Định Phúc Táo Quân (Ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức nầy do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà). Không biết tình tiết tin tưởng ra sao thì 3 vị thần mang họ Thổ nhập chung làm thành một gia đình bộ ba như sau và được phân nhiệm vụ như sau:
_ Phạm Lang (chồng sau) làm Thổ Công, trông coi việc bếp.
_ Trọng Cao (chồng trước) làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa.
_ Thị Nhi (vợ) làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa.
Chuyện ban đầu chỉ có một ông sau lại trở thành ba: hai ông một bà! Câu chuyện gia đình thần linh họ Thổ được lưu truyền hậu thế này quả là thú vị như chuyện Tình Bộ Ba của người nhân thế vậy? Tra cứu sách vở, tôi kiếm ra những chứng liệu sau về chuyện gia đình bộ ba của Táo Quân chỉ có ở Việt Nam hay tại các dân tộc thiểu số sinh sống tại mạn ngược nước ta:
1) Truớc hết là tranh vẽ mộc bản để thờ của Việt Nam:
Tranh này lấy từ sách Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Tranh Mộc bản Việt Nam của Nguyễn Khắc Ngữ vẽ một bà ngồi giữa hai ông, dưới một tấm biển ở trên có ba chữ Táo Danh Vị, và hai bên có câu đối mang ý nghĩa chúc tụng Ngày ngày thêm vinh hoa, Năm năm tăng phú quí. Ở dưới là vẽ cảnh cơ ngơi nhà cửa rộng rãi có cối chầy giã gạo, kẻ hầu nước, kẻ bưng cơm, ngòai sân thì đầy đủ lục súc gia cầm.
2) Ở thượng du Bắc Việt như vùng Mường Nia, Mường Nam (Hòa Bình) ông thầy mo thường hát khi cúng gà đề xin ông bà Táo giải tội với câu khấn sau:
Lạy ông thổ công, lậy bà thổ công,
Lạy ông thổ kỳ, lạy bà thổ kỳ
Chẳng có cái chi
Phải nướng con cáy ( gà)
Để mà cúng tội.
Chúng ta phải dẫn giải tình lý một bà hai ông ra sao? Đương nhiên là dựa vào sự tích của nhân gian ở Việt Nam: Nguyên do là ba vị thần họ Thổ này khi còn là người dương thế đã từng có mối liên hệ thân thiết tình cảm lại trái ngang. Nhưng câu chuyện kể lại thì tùy theo những truyền thuyết đại thể thì giống nhau nhưng tình tiết lại khác nhau:
1) Theo Phan Kế Bính ( trong cuốn Việt Nam Phong Tục): Ngày xưa có hai vợ chồng nghèo phải bỏ nhau. Người vợ về sau lấy được người chồng giầu có. Một hôm cúng đốt mã ngoài sân, có một người ăn xin; người đàn bà trông thấy là chồng cũ của mình, động lòng thương cảm, đem cơm gạo tiền bạc ra cho. Người chồng sau biết chuyện, nghi cho vợ. Vợ xấu hổ đâm đầu vào đống lửa mà chết. Người chồng cũ cảm tình ân nghĩa, cũng đâm đầu vào đống lừa chết theo. Người chồng sau thương vợ, cũng nhẩy vào nốt, thế là chết cả ba. Thượng đế thương cho ba người cùng có nghĩa mới phong cho làm vua bếp.
2) Theo Hoàng Trọng Miên (trong Việt Nam Văn Học Toàn Thư): Ngày xưa, có hai vợ chồng chú tiều phu nghèo. Vợ rất thương yêu chồng nhưng chồng lại có tính rượu chè và đánh đập vợ tàn nhẫn luôn luôn, vợ rốt cuộc chịu không nổi phải cam lòng trốn đi. Chị tiều trốn vào rừng, gõ cửa một nguời thợ săn xin ở đậu. Anh thợ săn nghe kể sự tình thì bằng lòng cho ở. Rồi ít lâu sau, hai người lấy nhau, chông rất yêu thương vợ. Còn chú tiều ở nhà, đâm ra hối hận mới quyết đi tìm vợ về, và run rủi sao lại tìm đến túp lều tranh của anh thợ săn khi anh này đi vắng. Chú tiều mới khóc lóc năn nĩ vợ trở về. Người vợ cũng khóc theo tỏ ý mình vẫn thương chồng cũ. Đang lúc ấy, thì người chồng thợ săn trở về ngoài ngõ, người vợ hốt hoảng bảo chồng cũ trốn vào đống rơm. Nguời thợ săn vào đến cửa mới bảo vợ: “Bữa nay, tôi săn được con thỏ, để tôi đốt lửa thiêu thỏ nhé! “ Nói xong là nhóm lửa đốt, ai ngờ lửa bắt vào đống rơm nơi chú tiều ẩn núp khiến chú giẫy giụa chết. Người vợ đau lòng, thương chồng cũ hóa ra giết chồng, bèn nhẩy vào đống lửa đang cháy. Nguời thợ săn thấy vợ chết thương quá, tưởng mình làm điều gì trái nghĩa cũng nhẩy vào lửa chết theo.
Trời cảm vì tình yêu của ba người cho cả ba hóa thành ba ông đầu rau, chụm đầu vào nhau trong bếp lửa hay là cái kiềng bếp ba chân
Chúng ta thấy sự tích này hình như là sự tích trong văn hóa VN hơn là của Trung Quốc, nghe đại thể cũng như tình tiết của chuyện Trầu Cau: hai anh em song sinh họ Lưu cùng yêu một cô gái họ Cao, rồi cùng tìm cái chết như sau!
Theo tôi những tích chuyện trên có lẽ được kể trong giai đọan của thời kỳ người Việt phải bỏ chế độ Mẫu Hệ mà theo Phụ Hệ.
(còn tiếp)