Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Sổ Tay Thường Dân  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Page Index Toggle Pages: 1
Send Topic In ra
Sổ Tay Thường Dân (Read 896 times)
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Sổ Tay Thường Dân
13. Feb 2008 , 07:24
 
Nguyễn Thị Hoài Thanh


Tưởng Năng Tiến
24-06-2007    


Trong những phụ nữ thuộc thế hệ chị và mẹ của mình, tôi rất thương chị Thanh và dì Bẩy. Khi còn đôi tám, người ta thường gọi dì là con Bẩy.

"Giọng hát của con Bẩy đưa đò khi cất lên cao thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả dòng sông, chuyển rung mặt nuớc.”
(Sơn Nam. "Con Bẩy Đưa Đò". Hương Rừng Cà Mau. 51-52).(*)

Tài sắc, cũng như đức hạnh, không mấy khi mang lại hạnh phúc và may mắn cho những kẻ sống trong thời ly loạn. Cuộc đời cô Bẩy (rất) không may và (hoàn toàn) không hạnh phúc.

Ở tuổi thanh xuân, cổ gặp (và yêu) một người trên sông Cái Lớn. Chàng từ Bình Thủy xuống, đẹp trai, lịch thiệp, và hò hát cũng rất hay. Chỉ có điều đáng tiếc là người ta không phải thường dân, nên không chịu cùng cô Bẩy kết duyên đôi lứa, và sống an phận thủ thường - như những đám lục bình trôi, nơi ao hồ sông rạch. Chàng quyết chí đi theo tiếng gọi của non sông.

“Nghe qua con Bẩy bùi nghùi tấc dạ; từ chỗ kính mến đến chỗ yêu thương chàng trai đó cũng không xa mấy. Con Bẩy nhìn vầng trăng khuyết vừa hé lên khỏi ngọn bần.

- Bao giờ chàng trở lại em xin chờ.

Chàng cười mà đáp:
- Cảm ơn.

- Lời em hứa là chắc. Hay là chàng không tin nơi lời nguyền của gái đưa đò.

- Đâu phải vậy. Chỉ sợ tôi không giữ đúng lời hứa ... Chí trai bốn biển là nhà…

Dứt lời chàng đứng dậy cất mái chèo. Con Bẩy xúc động rưng rưng nước mắt.  Duyên may một đời chưa chắc gặp hai lần.

- Vậy thì xin chàng dậy cho em một hai câu hò để em nhớ đời.

- Cô hò đã hay mà lại có duyên. Tôi còn biết gì mà dậy thêm. Họa chăng chỉ có một tấm lòng này...

Một tấm lòng! Con Bẩy mãi suy nghĩ về ba tiếng đó, chừng giựt mình nhìn lại thì chàng đã khuất dạng trong lớp sương khuya"
(Sơn N. sđd, trang 57).

Con Bẩy chờ hoài, chờ hủy nhưng người xưa không bao giờ trở về bến cũ. Thời gian thì đâu có chịu đợi ai. Tuổi đời khiến con Bẩy Đưa Đò phải chuyển nghề bán thịt, ở chợ Vàm, bên sông Cái Lớn. Thịt heo luộc của dì Bẩy nổi tiếng là "ngon hết biết" luôn.

Một hôm, có người năn nỉ xin chỉ cho cách luộc thịt. Dì Bẩy thoáng ngậm ngùi:

- Cái việc hò hát cũng như cái việc luộc thịt heo vậy. Ai làm cũng được. Cách thức dễ ợt. Nhưng mà công phu lắm.

- Công phu là thế nào dì Bẩy?

- Ở đây, hồi đó có người nói là cần "một tấm lòng”
(Sơn N. sđd trang 59).

Chao ơi (là) một tấm lòng! Sống không có nó (ngó) cũng kỳ mà có thì phiền lắm và (đôi khi) phiền lớn. Cũng như dì Bẩy, chị Thanh lao đao lận đận - suốt cả cuộc đời - cũng chỉ vì một tấm lòng thủy chung, và đôn hậu của mình.

Bà Nguyễn Thị Thêu, một người bạn ấu thời của chị, kể lại rằng:

”Sau hiệp định Geneve chia đôi đất nước, gia đình tôi ra Hải Phòng để chờ ngày di cư vào Nam. Hoài Thanh vốn là người Hải Phòng nên ba tháng hè chúng tôi thường xuyên gặp nhau. Tôi rủ Hoài Thanh di cư vào Sài Gòn nhiều lần, nhưng Hoài Thanh bảo:

- Tao chờ anh Trúc ở ngoài kháng chiến về.”
(Nguyễn Thị Hoài Thanh. “Luyến Tiếc”. Hoa Phượng. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2007. 121**).

Thành phố Hải Phòng của Việt Nam, hồi đầu thập niên 1950, cũng như thủ đô Lisbon của Bồ Đào Nha (vào cuối những năm 1940) là ngưỡng cửa của sự tử sinh. Nhiều người dân Âu Châu liều mình (và đã bỏ mạng) để đến được Lisbon, bến cảng mà người ta có thể từ đó vượt thoát khỏi sự săn đuổi chủ nghĩa phát xít. Tương tự: nhiều người Việt cũng đã bỏ ruộng vườn, tài sản, mổ mả ông bà chạy đến Hải Phòng - để có thể lên tầu di cư vào Nam, trốn chạy hiểm họa cộng sản. Riêng chị Thanh thì khác. Chị ở lại (chỉ) để chờ một người về.

Không một ai trở lại, như chị Thanh và dì Bẩy đã ngong ngóng đợi mong. Người đời rồi cũng dần lãng quên cái giọng hát “khi cất lên cao thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh” của cô gái đưa đò (xuân sắc) năm xưa. Và thời gian thì để mặc cho dì Bẩy sống hết đời mình, trong cô đơn và lặng lẽ, ven một bến sông êm đềm, ở miền Nam.

Chị Thanh, tiếc thay, đã không có được sự “may mắn” tương tự như dì Bẩy – hai muơi năm trước. Cái giá mà chị phải trả cho tấm lòng trung hậu của mình không rẻ vậy đâu. Ở miền Bắc, nơi mà (“miếng thịt lợn chao ơi là vĩ đại”) thịt thà không phải là thực phẩm thường dùng nên chị Thanh bán than:

Em lội giữa đống than như con cá mắc cạn
Cố vẫy vùng cho vượt khỏi gian truân…

(Chu Tất Tiến. “Viết Về Một Người Mang Tên Nguyễn Thị Hoài Thanh.” Hoa Phượng. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2007. 153).

Sống “giữa lòng cách mạng,” muốn “vượt khỏi gian truân” e hơi (bị) khó. Lý lịch trích ngang của Nguyễn Thị Hoài Thanh được Bùi Ngọc Tấn tóm tắt, như sau:

“Có việc gì mà không trải qua.

Hãy kể những việc chính: Công nhân xi măng, thợ điện Hải Phòng điện khí, thợ điện công ty xây lắp, công nhân bóc lạc công ty xuất nhập khẩu, đứng máy bào cuốn xí nghiệp gỗ Trương Công Định, công nhân công ty xếp dỡ, cấp dưỡng công ty vật liệu kiến thiết, súc sạc ắc qui Công Ty Quốc Doanh Đánh Cá Hạ long…

Đó là chưa kể còn đi giao bánh rán, bánh mì, kẹo lạc, làm và bán nước mắm … Đồng luơng không đủ nuôi mình mà còn phải nuôi con …
(Bùi Ngọc Tấn. “Một Mơ Ước Về Kiếp Sau.” Viết Về Bè Bạn. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2005. 105***).

Chưa hết, còn có “huyền thoại” là chị Thanh có hai ông anh đã di cư: Nguyễn Xuân Vinh và Nguyễn Cao Kỳ. Cả hai đều (từng) là tư lệnh không quân của miền Nam. Huyền thoại này chỉ đúng năm chục phần trăm. Quả thực, chị là em của ông Nguyễn Xuân Vinh. Ở miền Bắc, có một ông anh cỡ đó cũng đủ chết (mẹ) rồi. Đâu cần đến cả hai.

“Dường như biết rằng có những dư luận bất lợi cho mình và mọi người nhìn mình bằng con mắt nghi kỵ xa lánh nên chị không chủ động thân thiết gần gũi với một ai.”
(Bùi N.T. sđd, trang 99).

Chị sống thui thủi một mình là phải:

Sau hổi kẻng tan ca
Tôi ngã vào vòng tay lạnh lẽo của mùa đông.

Chị Thanh có một người em, cùng ở lại miền Bắc, tên Nguyễn Xuân Đăng. Ông mất sớm và được an táng ở Ninh Hải. Từ thành phố Hải Phòng, phải đi qua chợ Cầu Rào mới tới nghĩa trang này. Vì thế, trong tập Hoa Phượng, có một bài thơ thắm thiết tựa là “Chợ Cầu Rào”:

Em nằm bên kia sông
Chợ Cầu Rào chiều hôm nắng tái
Qua chợ dùng dằng
nửa muốn đi nửa toan ghé lại
Định mua quà cho em nhưng nào biết mua chi
Em nằm bên kia
Bên đây chợ lao xao kẻ mua người bán
Chỉ một thứ chẳng ai cần bán mua là nước mắt
Em mặc cả với đời mang nó đi theo …

Đời sống của cái gia đình nhỏ bé, riêng của chị Thanh, lại là thảm kịch khác. “Thời con gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được cả hai. Nhưng hồng nhan đa truân. Hai lần kết hôn, hai lần ly dị. Vẻ đẹp của tuổi ba muơi đang chín. Cái sắc đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao nhiêu khó khăn, nhiều khi cả nguy hiểm nữa…”

“Hình như Nguyễn Thị Hoài Thanh sinh ra là để gặp rắc rối và vuợt qua những rắc rối khó khăn. Chịu đựng và vượt qua một cách thản nhiên bình tĩnh, không kêu ca như cuộc đời vốn như vậy”
(Bùi N.T. sđd, trang 101 -104).

Thì quả có “như vậy” thật nhưng sao, đôi lúc, tôi vẫn mơ hồ nghe như có tiếng chị thở dài - dù (rất) khẽ:

Sông Cấm ơi! Sông như người bạn mới quen
Thân thiết thế mà sao không hiểu được
Chiều tan ca tôi đi bên dòng nước
Sông với tôi, với bóng là ba
Bóng tôi nghiêng với bao la
Sông mang về biển
Bóng tôi còn nguyên vẹn không sông?

Sông Cấm, đã có lúc, mang “nguyên vẹn” hình bóng của người thơ ra biển. Nhưng chính chị Thanh đã không giữ được nguyên vẹn hình hài, cho chính mình, như thế mãi.

“Tai nạn xẩy ra ngay ngã Sáu, gần nhà tôi. Chị nằm ngất trên đường mưa dầm ngày tết, mặt đường sền sệt một thứ nước bùn hoa. Cánh tay dập nát, xương gẫy… Chị bảo người nhà xin cho người tài xế đã gây ra tai nạn vì người ta không cố ý, người ta cũng khổ như mình”
(Bùi N.T. sđd, trang 111-112).

Sau đó, sau khi bị thương tật - ở tuổi sáu muơi - chị Thanh sẽ không bao giờ còn được “khổ như” nhiều người dân Việt (trung bình) khác nữa. Có lẽ, chỉ còn có cách ăn xin để sống còn - như chị đã từng nghĩ thế.

Nhưng lòng tự trọng quá lớn đã không cho phép chị Thanh làm như vậy. Loay hoay một thời gian rồi chị cũng nghĩ ra một cách sinh nhai khác, lịch sự hơn. Chị vào Nam đi … mót!

Với dân Việt thì gặt lúa, bẻ bắp, rỡ khoai, rỡ lạc là những sinh hoạt quen thuộc hàng ngày. Mót lúa, mót bắp, mót khoai, mót lạc …cũng là những sinh hoạt quen thuộc khác - với những nông dân khốn khó hơn, như trường hợp của chị Thanh.

Có chiều, ở Đồng Xoài, trong khi chờ người ta thu hoạch lạc xong để mót, chị đang ngồi chơi vẩn vơ đùa nghịch với những cây hoa mắc cở thì ý thơ chợt đến:

Chiều lặng ngồi trên cây xấu hổ
Lá thẹn thò sau đám cỏ rối bời
Hãy ngoảnh mặt lại đây
Có gì đâu mà mắc cở
Chỉ mình ta bầu bạn với ta thôi.

Có gì đâu mà mắc cở? Vậy mà tôi cứ xấu hổ mãi, sau khi đọc xong tập thơ Hoa Phượng - nhất là những bài chị Thanh viết về Di Linh, Đức Trọng, Tùng Nghĩa … Đó là những nơi tôi cũng đã sống qua, một cách rất vô tình, và đã đành đoạn bỏ đi - cũng vô tình không kém!

Chị Thanh thì khác. Từ Bắc vào Nam, không một người thân quyến, chị không đi để “nhận họ nhận hàng” với bất cứ ai. Chị đi qua từng vùng đất xa lạ của quê hương, với tấm lòng phơi phới:

Khi ta đến Di Linh chiều rất trẻ
Tiếng nắng về dát bạc dưới lòng thung…

Chị Thanh của tôi đến với tất cả chân thành và thiết tha, khi chia tay cũng thiết tha và chân thành - không kém:

Tạm biệt nhé Di Linh thôi chào nhé
Ở chưa quen đã vội vã ra về …

Trong chị Thanh chỉ có một tấm lòng, chứ tuyệt nhiên không có “những bức tường lòng” phân cách Bắc/ Nam - như rất nhiều người Việt khác. Tình cảm của chị tinh khiết, trong veo, như con suối nhỏ - len lách, róch rách - xuyên suốt cả ba miền đất nước…

Nhưng (thôi) đó lại là chuyện khác. Mà đêm thì sắp tàn rồi. Tôi “hứa” sẽ trở lại chuyện Bắc/Nam và chị Nguyễn Thị Hoài Thanh, trong những trang sổ tay kế tiếp, cũng trên diễn đàn này, khi có dịp.

© DCVOnline


--------------------------------------------------------------------------------


Ghi chú:
(*) Sách được in lại (và in lậu) tại hải ngoại, tuyệt nhiên không có ghi một chi tiết nào về nhà xuất bản hay năm xuất bản.
(**) Tác phẩm Hoa Phượng của Nguyễn Thị Hoài Thanh, ấn phí và bưu phí 12 U.S.A dollars. Sách có thê đặt mua trực tiếp từ nhà xuất bản qua địa chỉ: uyenthao1@juno.com, hoặc Tủ Sách Tiếng Quê Hương P.O.Box 4653 Falls Church, VA 22044.
(***) Tác phẩm Viết Về Bè Bạn của Bùi Ngọc Tấn, ấn phí và bưu phí 20.00 U.S.A dollars, địa chỉ liên lạc như trên.

--------------------------------------------------------------------------------


   Ý kiến Bạn đọc
   (DCVOnline không chịu trách nhiệm về nội dung của những ý kiến đóng góp từ bạn đọc)

--------------------------------------------------------------------------------

 
Đọc Báo VẸM - Reading Viet Commie Newspaper
2007-06-24 02:09:04

Pham Duy Thoai


Đây là 1 chương trình của đài SBTN bình luận báo chí của VC, đặc biệt là tờ báo Công An. Muốn xem tất cả chương trình thì:

1. vào trang www.youtube.com
2. trong mục search đánh vào doc bao vem - bấm search
3. tất cả chương trình sẽ hiện ra, số 1 là số đầu tiên, số mới nhất là 12

youtube.com hiện nay chưa bị cản bởi bức tường lửa ở VN. Cám ơn youtube, cám ơn SBTN cho người xem hiểu thêm về hiện tình báo chí hiện nay ở VN.

Và cám ơn ĐCV đừng xóa thông tin này, nếu được tôi đăng lại trong những bài viết khác nhau, để nhiều người khi vào ĐCV có thể biết đến chương trình này. Đa tạ


Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Sổ Tay Thường Dân
Reply #1 - 08. Sep 2011 , 08:46
 
Những Cọng Rêu Dưới Đáy Ao

(08/22/2011) (Xem: 1603)
Tưởng Năng Tiến

...
Bìa sách “Cọng Rêu Dưới Đáy Ao.”

Lúc nhỏ, có lần, tôi nghe học giả Nguyễn Hiến Lê khuyên là nên tập thói quen viết nhật ký. Nghe thì cũng thấy hay hay nhưng thử làm mới biết là không dễ. Tôi loay hoay mãi cũng không thấy có điều gì cần phải ghi lại cho bản thân (hay cho ... hậu thế!) về cuộc sống vô cùng nhạt nhẽo, hay lạt lẽo, của mình.
Chỉ đôi khi, khi chịu hết nổi sự tẻ nhạt thường nhật, tôi mới (lén) làm một hai câu thơ – cho nó đỡ buồn:

Xưa mộng kình ngư tung bể sóng.
Bây giờ mương rạch kiếp lòng tong!

Trời, nói gì nghe … thấy thương quá vậy – cha nội?

Thì cũng nói (đại) vậy cho nó đỡ kỳ, chút đỉnh, chớ hồi giờ –  nói nào ngay, ngay cả lúc mộng mơ hết cỡ – tôi cũng chưa bao giờ dám nghĩ gì đến những hình ảnh (thấy ghê) cỡ như “kình ngư” hay “bể sóng.”

Còn chuyện “mương rạch kiếp lòng tong” – có lẽ – là thân phận chung của phần lớn thiên hạ, chớ đâu phải là bi kịch của riêng ai, đúng không? Tôi nói vậy đã tưởng buồn (thảm thiết)  ông Võ Văn Trực lại còn nghĩ ra một cách ví von (nghe) thảm sầu hơn nữa.

Nhà văn của chúng ta ví von phận người như những “Cọng Rêu Dưới Đáy Ao.” Kiếp rong rêu vốn đã lặng lờ; đã vậy, lại còn nằm chìm lỉm tuốt luốt dưới đáy ao nữa thì (ôi thôi) kể như an bình tới phát ớn luôn. Ai cũng tưởng vậy nhưng không phải vậy. Sự bình an nơi cái ao Việt Nam (chắc) chỉ có thể tìm được nơi những trang sách giáo khoa:

“Cơm nước xong, trời vừa tối. Ngọn đèn treo, thắp giữa nhà. Cha ngồi đọc nhật báo. Anh đang ngồi cúi xuống xem sách hay làm bài. Mẹ và chị, kim chỉ vá may. Ở bên cạnh, hai đứa em nhỏ đang nghe bà kể câu chuyện cổ tích, thỉnh thoảng lại khúc khích cười với nhau rất vui vẻ.”
[Tối Ở Nhà. Quốc Văn Giáo Khoa Toàn Thư (Trần Trọng Kim, et al) Việt Nam Tiểu Học Tùng Thư Xuất Bản, ấn bản đầu tiên năm 1935]

Trước đó không lâu, vào năm 1930, mười ba công dân ưu tú của nước Việt đã bị thực dân Pháp hành hình chỉ vì họ không cam chịu sống trong vòng nô lệ. Hình ảnh một  buổi tối gia đình quây quần vui vẻ, được mô tả năm năm sau đó, dưới chế độ thuộc địa (e) hơi gượng gạo. 

Nhiều người dân Việt không lấy gì làm “vui vẻ” trong cảnh sống an bình giả tạo như thế. Trong số này có ông Võ Quang Hiền. Theo lời nhà văn Võ Văn Trực, bào đệ của ông, ngay từ lúc thiếu thời ông Hiền đã hăng hái tham gia vào cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam.

Sổ tay của ông “trang nào cũng dán vài tấm ảnh. Những tấm ảnh thiêng liêng: Các Mác, Ăng- ghen, Lê-nin, Mao Trạch Đông, Sta-lin, Ăng-ve Hốt-gia, Lâm Bưu, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Gốt-van, Ti-tô, Vô-rô-si-lốp, Đi-mi-tơ-rốp, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt…” (Võ Văn Trực. Cọng Rêu Dưới Đáy Ao. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty Văn Hoá & Truyền Thông Võ Thị, 2007. Bản điện tử do talawas chủ nhật thực hiện).

Lòng nhiệt tình của Võ Quang Hiền với cuộc cách mạng vô sản chỉ (chợt) nguội, sau khi ông tham dự vào Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Đất ngay tại làng quê của mình. Từ đây, sổ tay của ông bắt đầu xuất hiện những dòng chữ đậm nét băn khoăn: “Ông Thìn làm giáo học mà cũng địa chủ, bà Mến biết cái cóc gì mà cũng thường vụ Quốc dân Đảng, địa chủ cả nút thế này thì lấy ai làm nông dân… Chúng nó kích bà con nông dân tố nhau lộn nhào lộn nhút…”

Sự gian xảo và tàn ác của “chúng nó” khiến ông dần dần thay đổi thái độ: “Con đường tham gia công tác xã hội của anh xuống từng nấc thang: sĩ quan quân đội, cải cách ruộng đất, cán bộ thông tin xóm, Đảng viên trơn… và cuối cùng là phó thường dân! Tưởng là ‘dứt bỏ đường công danh’, vui thú điền viên tham gia việc làng việc xóm cho vui, đến bây giờ anh mới nhận thức ra rằng việc làng việc xóm cũng là việc xã hội, mà làm ‘việc xã hội’ là thế nào cũng bị va chạm, xô xát. Anh hoàn toàn giành thì giờ lo việc gia đình nhưng vẫn bị Đảng uỷ để ý, cho là ‘phần tử bất mãn’, là ‘cố ý chống đối’… Thì ra cái ‘cọng rêu dưới đáy ao’ mà anh tưởng là ‘yên thân’ như các nhà nho ngày trước, có ngờ đâu cái cọng rêu ấy trong thời buổi này cũng phải đối mặt với mọi biến động của xã hội...”

Những “va chạm xô xát” của cọng rêu Võ văn Hiền, dưới đáy ao, tuy không mạnh bạo gì cho lắm nhưng cũng đủ khiến cho nó trở nên xơ xác:

“Không có một cuộc họp chính thức nào của các ông lãnh đạo xã và thôn cấm chỉ anh Hiền dạy tiếng Pháp hoặc cấm mở lớp dạy học. Nhưng người ta xì xào bàn tán rất nhiều về lớp học của anh. Sao thằng Pháp cai trị ta tám mươi năm, bây giờ lại dạy tiếng của nó? Sao ông Hiền đi đánh Pháp chín năm, bây giờ thắng nó rồi, lại đem tiếng của nó ra mà dạy? Ông Hiền dạy tiếng Pháp làm gì nhỉ, đào tạo bồi cho Tây à? Đào tạo thông ngôn cho Tây à?”
...
“Cả sáu học trò lần lượt bỏ học. Gian nhà trở lại hai tấm phản với hai chiếc ghế dài, ảnh ông Khổng Tử với câu ‘Tiên học lễ hậu học văn’, và một… thầy đồ tân thời mặt buồn rười rượi.”

Qúi vị lãnh đạo cách mạng nơi làng Hậu Luật, xã Diễn Bình, huyện Diễn Châu (tỉnh Nghệ An) đã lần lượt đẩy ông Võ Quang Hiền từ nỗi buồn này, sang nỗi buồn khác. Chung cuộc, ông chết dần mòn trong bệnh tật và nghèo đói:

“Tôi đặt lên ngôi mộ tấm ảnh của anh - không phải tấm ảnh gày gò của ông lão sáu mươi, mà là tấm ảnh người thanh niên cường tráng những năm tháng hào hùng ở Việt Bắc: mặc áo trấn thủ, đội mũ lưới đính quân hiệu. Hàng trăm cặp mắt chăm chăm nhìn vào tấm ảnh, chợt thức dậy trong tiềm thức của họ những kỷ niệm về anh và về làng xóm thuở Cách mạng sơ khai.”

Nhà văn Võ Văn Trực quả là khéo nói, hay khéo lách, chớ cách mạng thưở nào - “sơ khai” hay “thoái trào” - cũng đều tạo ra vô số những cọng rêu (bầm dập te tua) dưới đáy ao đục ngầu của nó. Ông Vi Đức Hồi - nguyên trưởng ban tuyên giáo, giám đốc trường đảng, thường vụ huyện ủy huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn - là nhân vật điển hình cho loại rong rêu (muộn màng) này.

Vi Đức Hồi thuộc thế hệ người sinh trưởng trong lòng cách mạng. Theo lời ông, ngay khi vừa mở mắt chào đời, bé Hồi đã được ru (ngủ) bằng những câu của thời đại mới:

“Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Bác Hồ hơn mẹ, hơn cha...”

Chả trách, chương mở đầu cuốn hồi ký (Đối Mặt) của ông ghi đầy những dòng chữ hồ hởi (và phấn khởi) như sau:

“Nhớ lại hồi khi tôi mới lớn lên và bắt đầu tìm hiểu về đảng, tôi nhận thấy đúng là ‘đảng là ngôi sao sáng, sáng nhất trong muôn vì sao’, tôi yêu đảng, tôi mến mộ đảng đến tột độ và chỉ mong ước mình sớm được đứng trong hàng ngũ của đảng để được cống hiến sức mình cho đất nước, cho dân tộc đó là nghĩa cử cao đẹp của mỗi công dân yêu nước bình thường. Khi tôi đọc cương lĩnh đầu tiên của đảng năm 1930, tôi thật sung sướng vì đảng chỉ ra rằng: Khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công, đảng đưa cả nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Xã hội mà đảng hướng tới là một xã hội đỉnh cao của sự văn minh nhân loại, ở đó sẽ không còn chế độ người bóc lột người, mọi người sống với nhau bình đẳng bác ái, nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân, đảng bao gồm những người tiên tiến nhất, tiên phong nhất, là những người công bộc của dân, vì nhân dân mà phục, đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc... “

Càng qua những chương sau, Vi Đức Hồi càng hay lập đi lập lại những câu “đảng nói không biết ngượng, đảng nói một đàng làm một nẻo, đảng nói như hát hay...” Ông dần dần xa lánh đảng, rồi trở nên “đối mặt” với nó, và bị khai trừ.

Sau đó - cũng như trường hợp của ông Võ Quang Hiền, hồi đầu thế kỷ - Vi Đức Hồi cũng quyết định biến mình thành một “cọng rêu dưới đáy ao,” nơi làng quê khốn khó của mình:

“Quê tôi, một trong những Xã nghèo nhất Nước ta, là một trong 9 Xã cuả Tỉnh Lạng sơn và là một trong hai Xã duy nhất của Huyện Hữu lũng chưa có bóng dáng điện lưới quốc gia; là Xã vùng sâu,vùng xa, Xã đặc biệt khó khăn ...”

“Tuy vậy, người dân quê tôi sống trọn nghĩa, trọn tình. Ở đâu đó tình người có những lúc đầy vơi, nhưng người dân quê tôi thì cho dù thời cuộc có những biến đổi đến đâu, nhưng lòng người thì vẫn một mực thuỷ chung, son sắt.”

“Thế nên tôi cố tìm cách để tỏ lòng biết ơn, thể hiện tấm lòng của mình đối với những người láng giềng xung quanh tôi, tạo thêm sự gắn bó, sự mật thiết tình làng, nghĩa xóm. Tôi mạnh dạn trao đổi với mấy người bạn của tôi, đề nghị họ giúp và thế là tôi có được ít tiền của bạn bè cho vay, cộng với chút ít của tôi giành dụm. Tôi mua được một chục cặp lợn con, giúp cho 10 hộ nghèo nhất ở làng tôi để họ chăn  nuôi, khi nào lợn xuất chuồng bán thì hoàn trả gốc cho tôi, để tôi chuyển cho hộ khác. Nhiều người phấn khởi, nhận lợn và cảm ơn.”

“Tin này Xã báo cáo Huyện... Thường trực Huyện uỷ triệu tập cuộc họp cán bộ chủ chốt ở xã Tân lập (quê tôi) để nghe cơ sở báo cáo tình hình. Huyện uỷ quán triệt: đây là một trong những âm mưu rất nguy hiểm của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta, hơn lúc nào hết, chúng ta phải nêu cao cảnh giác cách mạng, chặn đứng mọi hành động nhằm lôi kéo quần chúng nhân dân, gây mất ổn định an ninh chính trị. Ngay lập tức phải họp toàn dân quán triệt về những thủ đoạn, ‘âm mưu diễn biến hoà bình’ của bọn chúng, kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của Vi đức Hồi.”

Ông bị cô lập ngay tại quê nhà, rồi bị bắt giam. Cuối cùng, ông cũng trở thành một cọng rêu nhưng  không nằm dưới đáy ao mà nằm trong lòng nhà tù cách mạng.
Cọng rêu mới được phát hiện là một thanh niên – có tên là Nguyễn Chí Đức – vừa  được công luận biết đến, sau khi anh bị công an Hà Nội đạp vào mặt giữa lòng “thủ đô của lương tâm nhân loại.” Sự kiện này đã được nhà văn Nguyên Ngọc ghi nhận như sau:

“Trong việc này còn có một điều rất đáng chú ý: Qua tất cả vụ việc, qua những ứng xử của Nguyễn Chí Đức từ khi tên anh được nhắc đến, ta có thể thấy rõ đó là một con người hết sức bình thường, rất an phận, không hề không muốn làm bất cứ điều gì để khác dù chỉ một chút những người chung quanh, một công dân lầm lũi và tội nghiệp, ngay cả khi bị hại nặng nề cũng sẵn sàng cho qua, quên đi, ‘không muốn đi quá sự việc’ như anh nhiều lần nói khi có người quan tâm đến anh và vụ của anh. Một người tuyệt đối trung thành và tin tưởng ở đảng, trong bất cứ tình huống nào, ngay cả lúc bị hại khi mình đấu tranh vì đảng, vì nước…, vâng một người  như vậy đấy ..., một người vô cùng nhỏ bé và vô danh, luôn muốn thu mình lại đến mức nhỏ bé nhất để sống yên thân…, con người tội nghiệp ấy bây giờ sau tuyên bố bình thản của ông Nguyên Đức Nhanh, đã phải đau đớn nói rằng anh đã bị đẩy đến đường cùng...  khi những người ở tận đáy xã hội, nhỏ bé nhất trong xã hội, suốt đời chỉ mong được yên phận như Nguyễn Chí Đức và bố mẹ anh đã thấy bị đẩy đến đường cùng, đã thấy xã hội này là không còn sống được đối với họ nữa, thì là chuyện khác hẳn rồi đấy. Là báo động đỏ!Vụ Nguyễn Chí Đức không hề nhỏ đâu, đặc biệt sau tuyên bố phủi tay của ông Nguyễn Đức Nhanh. Có gì như là dấu hiệu của sự tận cùng.”

Đã ba thế hệ người Việt bị liên tiếp xô đẩy đến “tận cùng” như thế. Và vẫn theo lời nhà văn Nguyên Ngọc thì “xã hội này không còn sống được nữa.” Nó đã đến mức “báo động đỏ” rồi.

Tôi chỉ là một thường dân, một cọng rêu phiêu bạt. Sống bên ngoài nỗi đau mà cả dân tộc đang phải chịu đựng nên tôi không đủ tư cách thể phát biểu những lời lẽ khí khái (và hừng hực lửa) như nhà văn Nguyên Ngọc. Những sự kiện vừa nêu – về ba cọng rêu dưới đáy ao của dất nước – chỉ khiến tôi thốt nhớ đến lời phát biểu của nhà văn Nguyễn Trọng Tân, trong buổi toạ đàm về tác phẩm Ba Người Khác (của Tô Hoài) vào hôm 22 tháng 12 năm 2006, tại Hà Nội:

“Đội cải cách ruộng đất về làng như một cơn gió độc, cuốn lộn tùng phèo mấy chục nóc nhà giống như mấy chục cái đụn rạ của thôn tôi lên.”

Chủ nghĩa cộng sản cũng đến Việt Nam theo cùng một cách. Nó cũng như một cơn gió độc, cuốn lộn tùng phèo cuộc đời của (mấy thế hệ) người dân ở đất nước tôi lên. 

Tưởng Năng Tiến
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Sổ Tay Thường Dân
Reply #2 - 02. Jul 2012 , 22:41
 
Bác Kiệt

Mon, 06/04/2012 - 09:11 — tuongnangtien


...


Tôi sinh ra trong một cái xóm rất nghèo, và (tất nhiên) rất đông trẻ nhỏ. Cùng lứa với tôi, có cả tá nhi đồng mà tên gọi đều bắt đầu bằng chữ út: Út lé, Út lác, Út lồi, Út lùn, Út hô, Út còi, Út ghẻ, Út mập, Út sún, Út sứt, Út méo, Út hô, Út đen, Út ruồi, Út xẹo, Út trọc …

Cứ theo cách thấy mặt đặt tên như vậy, người ta có thể nhận dạng và biết được thứ tự của đứa bé trong gia đình mà khỏi phải giới thiệu (lôi thôi) kiểu cách, theo kiểu Âu Tây:

- Còn đây là thằng út, nó tên là Út rỗ. Vùa lọt lòng thì cháu rơi ngay vào một cái … thùng đinh!

Riêng trường hợp của tôi thì hơi (bị) khác. Tôi tên Út khùng. Lý do: khi mới chập chững biết đi, tôi té giếng. Khi tìm ra con, nắm tóc kéo lên, thấy thằng nhỏ mặt mày tím ngắt, chân tay xụi lơ, bụng chương xình, má tôi chỉ kêu lên được một tiếng “rồi” và lăn ra bất tỉnh.

Thực ra thì “chưa” đâu. Tôi chưa bỏ mạng nhưng cuộc đời của tôi, kể từ giờ phút đó, cũng kể như … “rồi” – theo như chẩn đoán của những vị bác sĩ lo việc chữa trị cho tôi hồi đó:

-Thằng nhỏ ở dưới giếng cả buổi, thiếu oxy nên một số tế bào não đã đi đong . Mà loại tế bào này thì không tái tạo. Bởi vậy, cháu sẽ hơi bị… tửng và khó nuôi chút xíu nhưng ông bà ráng nuôi chắc cũng sống được chớ không đến nỗi nào đâu.

Dù đã được trấn an như vậy, ba má tui rõ ràng (và hoàn toàn) không an tâm gì cho lắm về cái khoản “hơi bị … tửng và khó nuôi chút xíu” như vậy. Ông bà hẳn cũng khổ tâm lắm vì cái tên gọi, nghe hâm thấy rõ, của đứa con … cầu tự!

Họ quyết định di chuyển đi nơi khác – nơi mà không ai biết là tôi đã từng bị té giếng, và té lầu (không lâu) sau đó. Bố mẹ tôi quyết tâm tạo cơ hội cho con có một cái lý lịch mới, trắng tinh, để làm lại cuộc đời.

Gia đình tôi dọn từ dưới đường Phan Đình Phùng lên tuốt đường Duy Tân, một con đường dốc, ngay trung tâm của thành phố Đà Lạt. Giữa đường là cửa hiệu chuyên bán vật liệu xây cất nhà cửa, tên Lưu Hội Ký, lúc nào cũng có một chiếc xe ba gác trước cửa.

Trò chơi mà đám trẻ con chúng tôi thích nhất là đợi cho đến lúc tối khuya – đường vắng – leo lên xe, thả cho chạy xuống đến cuối dốc. Xong, cả lũ lại hè nhau hì hục đẩy xe lên lại. Tôi nhỏ bé và ốm yếu nên thường được cho ngồi trên yên cầm lái. Bao giờ cũng chỉ được một phần ba khoảng đường là cả bọn đều mệt bá thở, phải ngừng lại để nghỉ.

Một hôm, bỗng dưng, có thằng nổi quạu:

- Biểu thằng Tiến xuống đẩy luôn đi, chớ nó ngồi không như cha người ta vậy chỉ thêm nặng thôi, chớ đâu có ích lợi gì.

Tôi vênh váo:

- Đ… má, bộ  tưởng tao ngồi chơi chắc. Dốc cao thấy mẹ, tao phải bóp thắng không ngừng xe mới khỏi bị tụt lại, chớ không làm sao tụi mày đẩy được lên tuốt tới tận đây!

Tôi có cái tên mới, Tiến khùng – thay cho Út khùng – kể từ bữa đó.

Khùng, kể ra, cũng khoẻ. Điều đáng tiếc là tuy tôi khùng thiệt nhưng không (được) khùng lâu. Ngày ba muơi tháng tư năm 1975, cách mạng về giải phóng miền Nam. Từ đây, vùng đất này có vài chuyện đổi thay nhỏ: nhạc sĩ Văn Vĩ đang mù bỗng sáng, không ít nguời dân miền Nam cũng vậy, còn (riêng) tui thì đang khùng bỗng … tỉnh! Sống với cách mạng mà không tỉnh (chắc) không xong.

Tui tỉnh rụi và tỉnh lâu rồi. 2011 – 1975: hơn ba mươi năm đã trôi qua, cả đống nước mưa (cũng như nước mắt) đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống.  Sở dĩ tôi nhớ (và nhắc lại) chuyện xưa vì mới đây, nhân ngày giỗ của ông Võ Văn Kiệt, trên Tuần Việt Nam Net, có “giới thiệu một loạt bài viết của những nhân sĩ trí thức” về nhân vật này – với lời dẫn nhập như sau:

“Vậy là đã tròn một năm ngày cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đi về chốn vĩnh hằng. Thời gian trôi đi càng nhận ra sự trống vắng này, cuộc đời càng nhớ Ông, một bộ óc lớn, một trái tim lớn đã góp phần tạo nên những bước đột phá có ý nghĩa lớn trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Cũng chính vì thế, tư tưởng của Ông, hình bóng của Ông sống mãi trong trái tim của nhân dân.”

Tui đang rảnh nên cũng muốn thử coi chơi “tư tưởng của Ông” ra sao mà thiên hạ cứ nằng nặc là “sẽ sống mãi trong trái tim của nhân dân” như vậy?

Trong một cuộc phỏng vấn(Việt Weekly – VOL. IV, NO.50 – phát hành từ Garden Grove, California, số ra ngày 7 tháng 12 năm 2006) ông  đã tuyên bố:

“Cả quá trình đấu tranh của người cộng sản là vì đất nước, vì dân tộc là trên hết. Vì thế họ mới chịu hy sinh. Nói công bằng, cuộc chiến đấu của Việt Nam do Đảng cộng sản, do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, vì lợi ích của dân tộc nhiều hơn hay vì thiên hạ nhiều hơn? Họ đã hy sinh cho đất nước, cho dân tộc này chứ! Vậy thì ít nhất phải để cho ba triệu đảng viên phải có chỗ đứng yêu nước trong dân tộc chứ, nếu phủ nhận, thật là quá đáng.”

Sao tui nghi là hồi nhỏ ông Kiệt (cũng) bị té giếng quá hà. Ổng làm tôi nhớ đến cái lúc mình khi ngồi rà thắng xe ba gác, trong khi bạn bè nhễ nhại mồ hôi hì hục đẩy thấy mẹ luôn. Đã vậy mà còn vênh váo:

-  Đ… má, không nhờ tao bóp thắng (liên tục) để xe khỏi bị tụt dốc thì làm sao tụi bay đẩy xe lên được tuốt tận đây!

Thiệt nghe mà muốn ứa gan, và ứa …nuớc mắt!

Cứ theo như lời của ông Võ Văn Kiệt thì người ngoại cuộc dám tưởng rằng hiện tại (ở Việt Nam) có hàng trăm đảng phái đang tham chính – chỉ riêng có Đảng Cộng Sản là bị cấm cửa, không được phép hoạt động gì ráo trọi, nên ông ấy phải năn nỉ xin cho họ  “một chỗ … đứng” chơi – kẻo tội. Sự thực, ai mà không biết là nửa thế kỷ qua cái đảng (thổ tả) của ông Kiệt có lúc nào mà không ngồi trên đầu trên cổ toàn dân. Và rõ ràng là họ “định” ngồi luôn,  nếu không có gì trở ngại, như  ông Kiệt đã khẳng định -  trong phỏng vấn dẫn thượng:

“Việt Weekly: Trong điều 4 của Hiến pháp quy định chỉ có đảng cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo quốc gia. Như ông đã nói, quốc gia là quốc gia chung của 80 triệu người, vậy quy định như vậy có nghịch lý không?”

“Ông Võ Văn Kiệt: Mong muốn lớn nhất của toàn xã hội là làm sao đất nước tiếp tục ổn định để tiếp tục đổi mới và phát triển, để không xảy ra rối rắm như nhiều nước khác. Điều này cũng đòi hỏi tập hợp được sức mạnh của dân tộc, phải đại đoàn kết dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam đã có vai trò đối với lịch sử của đất nước. Đảng vì dân tộc, vì đoàn kết của dân tộc, tất cả thể chế đều dựa vào dân và phục vụ nhân dân. Nếu như đảng cộng sản làm đầy đủ mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, mà đây là một đòi hỏi hết sức chính đáng, nếu đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục giữ được vai trò này, được sự đồng thuận của dân tộc Việt Nam, tôi nghĩ rằng đảng cầm quyền như đảng Cộng sản Việt Nam là tin cậy được…”

So với cái kiểu sỗ sàng của ông Nguyễn Minh Triết (“bỏ điều 4 hiến pháp là tự sát”) thì cách nói của ông Võ Văn Kiệt nghe có vẻ … tế nhị  hơn - chút xíu. Chỉ có điều đáng tiếc là ông ấy quên nêu danh những quốc gia đã “xẩy ra nhiều rối rắm” vì không được ĐCS lãnh đạo. Còn ban biên tập Việt Weekly (cũng) quên hỏi coi băng đảng của ông Kiệt “được sự đồng thuận” và “tin cậy” của dân tộc Việt Nam” để tiếp tục vai trò (lãnh đạo) hồi nào vậy?

Tui chưa gặp ông Kiệt lần nào, điện thoại, email (qua lại) hay kết bạn tâm thư cũng không luôn. Sau khi cái nghị định 31 C/P nổi tiếng  (do ông Kiệt ký) ra đời, tư thất của tôi cũng không (bỗng) trở thành lao thất như trường hợp của Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự… Nói tóm lại là tui không có “vấn đề” hay “mâu thuẫn” gì ráo (trọi) với cá nhân ông Kiệt.

Đã vậy, ông còn không phải là loại người bị than phiền là đã gây ra “nỗi ngán ngẩm thường ngày” cho thiên hạ. Nói nào ngay, hình ảnh quen thuộc , cùng với cử chỉ thân thiện và  bình dị của ông Kiệt cũng để lại trong tôi ít nhiều thiện cảm. Dù khó tính tới đâu người ta vẫn phải nhìn nhận rằng: ông Võ Văn Kiệt là người đàng hoàng nhứt trong đám… lộn xộn!

Giới báo chí ở Việt Nam hay mô tả ông Kiệt như “kiến trúc sư của công trình đổi mới.” Tuơng tự, họ cũng thường đề cập đến cái gọi là “sự quyết tâm và dũng cảm của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước” – vào cuối thập niên 1980.

Theo như cách nói của blogger Đinh Tấn Lực thì đây chỉ là hiện tượng “đảng hoá các ý niệm đổi mới của nhân dân.” Ông Lực quả là người khéo ví von và … khéo nói.  Chứ nói trắng (phớ) ra là nhờ chạy theo những bước chân (phá rào) của toàn dân mà toàn Đảng đã thoát chết (đói) đợt rồi.

Trong vụ “bỏ của (và bỏ cộng) chạy lấy người” này, ông Võ Văn Kiệt chính là kẻ tiên phong. Không có ông thì đám dân mù ở làng Ba Đình chắc chết, chết chắc. Ông đã nổi bật lên như là kẻ chột giữa một đám mù.

Và có lẽ vì thế nên cùng với chữ Bác, chữ Người, chữ Ông – trước tên Võ Văn Kiệt  – cũng đang được giới truyền thông  Việt Nam trân trọng (và đồng loạt) thần thánh hoá bằng cách viết hoa. Làm lãnh tụ ở xứ sở này (vốn) dễ. Trở thành vĩ nhân (ngó bộ) cũng không khó khăn gì.
Ngoài cả đống (đủ kiểu và đủ cỡ) anh hùng và liệt sĩ ra, nửa thế kỷ qua “cách mạng” VN đã sản xuất được một ông Thánh và một ông Á Thánh:

Bác Hồ cùng với Bác Tôn
Cả hai cùng thích ôm hôn nhi đồng…

Nhiêu đó cũng đủ (mệt) ứ hơi rồi. Ráng thêm một Bác Sáu Dân nữa thì e là  sẽ quá tải và… quá mệt!
Dân tộc này chưa xét đến công/tội của ĐCSVN. Chuyện đâu còn có đó. Không nên cứ lật đật phong thánh cho nhau, và cầm đèn chạy trước ô tô, như thế. Nó cán cho chết mẹ.

Chúng ta sẽ có gì để lại cho những thế hệ mai sau ngoài một di sản đạo đức băng hoại, một đất nước khiếm khuyết về diện tích, tan hoang về môi trường, và cạn kiệt về tài nguyên. Bộ như vậy chưa đủ (và chưa “đã” ) sao mà qúi vị còn muốn tung thêm một mớ rác ruởi hay hoả mù vào lịch sử nữa.


    tuongnangtien's blog
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
Page Index Toggle Pages: 1
Send Topic In ra