Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Trầu Cau Qua Ca Dao Viêt Nam  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra
Trầu Cau Qua Ca Dao Viêt Nam (Read 6970 times)
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Trầu Cau Qua Ca Dao Viêt Nam
Reply #30 - 24. Feb 2012 , 20:05
 
Trâu Cau qua Thi Ca



Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh
Duyên anh sánh với tình anh tuyệt vời



Ngày xưa người Việt thường có thói quen ăn trầu trở thành phong tục, chuyện cổ tích Trầu Cau (truyền tụng qua dân gian nêu lý do tại sao có tục ăn trầu). Thời đó đàn ông hay đàn bà thường có mang theo túi trầu, trong nhà có giỏ trầu cau, bình vôi bằng sứ hay bằng sành, con dao nhỏ để bổ cau, rọc trầu, cái khay gỗ hình vuông cẩn ốc xa cừ để dĩa trầu mời khách.

Qua thi ca trầu cau liên quan đến tình duyên, về hôn nhân đôi khi không đòi hỏi mâm cao cổ đầy, bạc vàng châu báu, nhưng tuyệt đối phải có trầu cau, các vùng thôn quê đôi khi hai gia đình nhận lễ vật trầu cau, chai rượu trở thành sui gia. Mặc dù ngày nay, con người đã tiến xa hơn trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hóa, nhưng đây là một phong tục đẹp, thể hiện bản sắc riêng, lưu lại mỹ tục đó, trầu cau làm sính lễ tăng thêm phần long trọng, nhà gái nhận lễ vật tặng bà con, hàng xóm gói trà, cái bánh, trái cau lá trầu, dù ít người còn ăn trầu chẳng ai từ chối.

Tuy nhiên đời sống tại Việt Nam các vùng quê ít người lớn tuổi còn ăn trầu có hàm răng đen. Các quốc gia Âu châu không trồng trầu cau, như Việt Nam và các nước Tích Lan, Lào, Cambodia, Thái Lan, còn tục ăn trầu và trồng trầu cau. Nguồn gốc cây cau dây trầu ở Mã Lai, được ảnh hưởng nhiều người sinh sống vùng bán đảo Đông Nam Á, từ đó du nhập vào Việt Nam. Các nước Cambodia, Mã Lai, Indonesia, Ấn Độ còn ăn trầu. Tôi phỏng vấn một số sinh viên du học từ các nước trên, được biết ở vùng quê của họ còn tục lệ ăn trầu. Tích Lan (Srilanka) ngày nay mọi nghi lễ đều dùng trầu; ngay cả việc dâng cau trầu lên cúng Phật.

Sự tích Trầu Cau của Việt Nam có thể hoang đường? Câu chuyện ấy dù sáng tạo nhưng khuyên người đời sống phải thủy chung, đạo đức gia đình luôn được đề cao, phong tục thời xa xưa đàn bà dù không ăn trầu nhưng phải nhộm răng đen "bỏ công trang điểm má hồng răng đen". Dù giàu hay nghèo tại thôn quê đều có trồng trầu cau. Qua ca dao hay các hội hè đình đám, xướng họa nhiều đề tài về trầu cau, được các nhạc sĩ phổ thành những ca khúc bất hủ. Ca dao phản ảnh tình cảm, gia đình và xã hội. Hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, thi ca phát xuất tận đáy lòng đơn sơ, bóng bẩy, ấm áp như ánh nắng ban mai, mát mẽ như ngọn gió chiều dịu dàng như ánh trăng non.

Trầu cau không phải thứ đắt tiền, dùng nó làm lễ vật hôn nhân như là giao ước giữa hai họ. Trong vườn miền quê thường trồng cau ngay hàng thẳng lối, thân cây cau có dây trầu leo quanh. Từ Sài Gòn theo quốc lộ 1 về phía Tây Bắc khoảng 10km, qua cầu Tham Lương, rẽ trái một đoạn vào tỉnh lộ 14 là đến địa danh 18 thôn Vườn Trầu (còn gọi là Thập Bát Lưu Viên) Hóc Môn - Bà Điểm.

Em về, anh gởi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy


Lịch sử ghi lại vua Lê Đại Hành ngồi trên mình ngựa mời sứ giả nhà Tống cùng ăn trầu, đó cũng là nghi lễ ngoại giao.Trầu cau giúp cho nhiều người nên vợ chồng. Ngày xưa quan niệm hôn nhân cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Cha mẹ hai bên quyết định rồi con cái không thể cãi lại. Chàng yêu nàng tha thiết “tình trong như đã mặt ngoài còn e". Cha mẹ nàng nhận lễ vật trầu cau qua lễ hứa hôn của người khác. Chàng trách nàng sao vội lấy chồng, để chàng chờ đợi biết mặn nồng cùng ai? Nhưng nàng nhẹ nhàng giải thích:

Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thưở nào ra


Tục lệ trao trầu cau là một trong những nghi lễ không thể bỏ qua trong việc biểu lộ tình yêu của thanh niên nam nữ. Đó cũng là một trong những lệ làng được quy định trước khi đôi trai gái tiến đến hôn nhân. Trầu cau làm sính lễ, người con gái băn khoăn muốn từ chối ngay từ lúc đầu trong lễ cầu hôn:

Ai bưng cau trầu đến đó
Xin chịu khó mang về ,
Em đang theo chân thầy gót mẹ
ÿể cho trọn bề hiếu trung


Miếng trầu là đầu câu chuyện, gặp nhau thường mời trầu, để dễ dàng gợi chuyện thăm hỏi:

Tiện đây mời ăn miếng trầu
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là?
Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm


Nhưng người con gái khi đã yêu đôi lúc giấu cha giấu mẹ, têm trầu đưa cho bạn trai ngầm nói với bạn trai khi vào nhà, biết cách cư xử:

Miếng trầu có bốn chữ tòng
Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà
Nào là chào mẹ chào cha
Cậu cô chú bác... mời ra xơi trầu

Vườn quê thơm mùi hoa của những buồng hoa cau đang nở rộ dưới nắng ấm đôi trai tài gái sắc qua một lần gặp gỡ, để rồi nhớ rồi thương tình yêu chân thành thiết tha:

Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu
Trầu này têm những vôi Tàu
Ở giữa đệm quế, đôi đầu thơm cay
Mời anh sơi miếng trầu này
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù mồng
Dù chẳng nên đạo vợ chồng
Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương


Khi bước vào tuổi trưởng thành, con trai, con gái được tự do trong tình yêu đôi lứa. Họ biết nhau rồi quen nhau nhờ các buổi làm nương rẫy hay những lần gặp nhau trong dịp lễ hội của làng, và miếng trầu đã làm môi giới cho tình yêu của họ để rồi hứa hẹn mơ ước tương lai tươi sáng, hay để rồi tuyệt vọng ngẩn ngơ:

Cho anh một miếng trầu vàng
Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm
Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên
Mai sau trăm họ lớn lên
Cau kia ra trái làm nên cửa nhà.


Tùy theo phong tục mỗi địa phương sính lễ thường khác nhau, tuy nhiên không thể thiếu được buồng cau, anh chàng kín đáo với nghệ thuật tán gái tinh tế hoặc với giọng bông lơn như chuyện nhờ khâu áo nhờ khâu hộ chỉ đường tà để khi nào lấy chồng sẽ trả công, người tình nguyện giúp từ lễ nghi cho đến việc ăn ở chiếu nằm, chăn đắp... chàng không nói rõ mà người con gái đó thừa hiểu chú rể là chàng rồi:

Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp đôi tằm em đeo.
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau


Nếu chẳng may tình duyên không thành mà tình cảm còn nguyên vẹn, lời chàng cũng xót xa đưa:

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay

Các bà mẹ thường răn dạy con gái lúc trưởng thành, phải có những đức tính: công - dung - ngôn - hạnh, không nên vội vàng lẳng lơ nhận trầu cau của người khác, luân lý gia đình được xem là một nền tảng vững chắc:

Đi đâu cho đổ mồ hôi
Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người


Có thể nàng từ chối miếng trầu, cũng có nghĩa từ chối sự tiếp xúc để tiến đến tình yêu với thái độ dè dặt, kín đáo nghi kỵ:

Sáng nay tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu
Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người


Trầu cau dù gói đẹp xanh tươi hấp dẫn, nhưng cần cẩn thận, khi ăn phải kín đáo mở ra xem có nhiều vôi hay bùa mê thuốc độc trong đó chăng?

Ăn trầu thì mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi
Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn
Miếng trầu ăn chẳng là bao
Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn


Người nghiện trầu đôi khi run tay dù đói no phải ăn một miếng trầu cau. Nhưng với tình yêu mời nhau ăn trầu có những băn khoăn thương nhớ đợi chờ? Có khi lời nói thì bình tĩnh nhưng không che giấu mối cảm tình nồng nhiệt đang như chìm xuống để thấu tâm can nàng. Miếng trầu như là một phương tiện mở đầu, là chất keo cố kết những tình cảm thiêng liêng, thầm kín mà cả đôi bên không thể nói bằng lời. Miếng trầu quả cau sẽ là "người mối" nói hộ tình yêu cho họ.

Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu
Trầu này têm những vôi Tầu


Giữa thêm cái cánh hai đầu quế cay (Dị bản: Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay)

Trầu này ăn thật là say
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng
Dù chẳng nên vợ nên chồng
Xơi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương
Trầu bọc khăn trắng cau tươi
Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh
Ăn cho nó thỏa tấm lòng
Ăn nó thỏa sự mình sự ta
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu
Một thương hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.


Những giao tiếp giữa nam nữ thời phong kiến thường bị giới hạn, tình yêu trai gái tưởng như xa xôi rời rạc... nhưng tình yêu chân thành và nồng nhiệt tương tư:

Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ, quên cha
Làm cho quên cửa, quên nhà
Làm cho quên cả đường ra, lối vào
Làm cho quên cá dưới áo
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời


Con gái xa gia đình về nhà chồng làm dâu, ngày xưa thường va chạm sinh hoạt gia đình "mẹ chồng nàng dâu", hoặc bị ép buộc lấy nhau để rồi đêm nằm cạnh chồng thở than cuộc tình:

Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không?

Người đời thường nói “thương nhau bỏ chím làm mười", hay "thương nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau trái bồ hòn cũng méo“, trái cau cũng được phân chia cho sự ghét thương:

Thương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười
Yêu nhau trầu vỏ cũng say
Ghét nhau cau đậu đầu khay chẳng màng

Các hội hè đình đám trai tài gái sắc dùng đề tài trầu cau hát đối nhau hồn nhiên trong sáng, lời hát đối đáp ngọt ngào trong lễ giáo gia đình không sàm sỡ, nhưng vượt qua ảnh hưởng lâu đời của nho giáo "Nam nữ thụ thụ bất thân".

Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào
Miếng trầu đã nặng là bao
Muốn cho đông liễu tây đào là hơn!
Miếng trầu kể hết nguồn cơn
Muốn cho đây đấy duyên nào hợp duyên


Hay là:

Trầu này trầu quế, trầu hầu
Trầu loan trầu phượng, trầu tôi lấy mình
Trầu này, trầu nghĩa, trầu mình lấy nhau
Trầu này têm tối hôm qua
Giấu cha giấu mẹ đem ra cho chàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn
Hay là chê khó chê khăn
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.


Nữ sĩ Hồ Xuân Hương lận đận tình duyên, đời sống tình cảm kém may mắn, làm cho bà nghi ngờ màu xanh của lá trầu, màu trắng của vôi (lạt như ốc bạc như vôi).

Quả cau nho nhỏ miếng trầu ôi
Này của Xuân Hương đã quẹt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi


Tiếng hát ru con của mẹ hiền, đề cập đến trầu cau nhu cầu không thể thiếu trong những lần đi chợ:

Ru con con thét cho muồi
ÿể mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam phổ mua trầu chợ Dinh

(Tùy theo mỗi điạ phương có thể thay đổi tên chợ )

Các cụ bà nhai trầu khó khăn, nên dùng cối đá nhỏ giã trầu, hay cái ống ngoáy bằng đồng, có chìa dài phần dưới có 3 cái răng nhỏ, bỏ trầu cau vào đó ngoáy nhỏ. Ăn trầu cũng có nghệ thuật, chọn lựa cau tươi vỏ mỏng ruột nhiều, trầu tươi kèm theo quế hay vỏ của loại cây chay, ăn kèm với cục thuốc lá nhỏ, vôi phải màu hồng... Trần Tú Xương thi hỏng mãi, bất mãn với đời nghe người ta chúc Tết sống lâu hưởng phước lộc cho đến đầu bạc răng long... làm thơ trào phúng:

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen nầy ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu

Ngày xưa đàn ông hay đàn bà thường bới tóc, họ quan niệm “cái răng cái tóc là vóc con người", thời ấy hàm răng đen tuyền thì sang trọng quý phái. Nhưng vào thế kỷ thứ 19. Văn hóa Tây phương du nhập vào Việt Nam, đời sống văn minh thay đổi. Phong trào Duy Tân phát xuất từ Quảng Nam (1905 - 1908) khởi đầu cuộc cách mạng khai trí dân sinh đả phá các hủ tục, kêu gọi đàn ông hớt tóc ngắn, cắt móng tay dài lá răm, mặc âu phục… Mỹ phẩm nhập vào Việt Nam như son, phấn dầu thơm... giúp đàn bà trang đìểm cho nét đẹp, sống ở thành phố phần nhiều bỏ hẳn tục nhộm răng đen ăn trầu... Bởi vậy khuynh hướng thay đổi qua thi ca:

Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen

ÿời sống thay đổi đàn ông ít mặc áo dài khăn đóng, hay khăn nhiễu bịt đầu được thay thế bộ Âu phục gọn gàng, khăn điều vắt vai đôi guốc gỗ từ từ biến mất thay vào đó đôi giày da, thêm chiếc cà-vạt xinh đẹp. Hàm răng của các nàng trắng đẹp như hạt bắp, môi son đỏ tươi nở nụ cười đẹp như hoa. Làm cho các chàng say đắm nên hỏi nàng rằng:

Người về có nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng người cười

Ca dao được ca tụng qua dân gian, hiện hữu trong đời sống của người dân Việt. Chúng ta rời quê hương, khó tìm được lại kỷ niệm như những ngày sống tại quê nhà trong những buổi trưa hè, đêm trăng thanh gió mát mùi hương cau từ những buồng non mới nứt thơm ngát, nghe tiếng hát ru con của mẹ hiền với những câu ca dao quen thuộc len lỏi vào hồn.

Nguyễn Quý Đại, Munich, Germany, 05.05.2005

Nguồn :http://www.daovien.net/t3220-topic
Back to top
« Last Edit: 24. Feb 2012 , 20:06 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
Phuong_Tran
Gold Member
*****
Offline


Thành Viên Hoạt Động
Tích Cực *Năm 2011*

Posts: 10574
Gender: female
Re: Trầu Cau Qua Ca Dao Viêt Nam
Reply #31 - 16. Mar 2012 , 23:50
 
Chị Tuyết Lan thân mến ,

Em rất cám ơn chị đã chịu khó sưu tầm những bài ca dao về trầu cau cho cả nhà xem, kể cả  Chinh Phụ Ngâm Khúc ,rất tuyệt !!!  pinkrose pinkrose pinkrose

Em xin đưa thêm vô trang này những bài ca dao về Con Cò trích từ quyển Tuyển Tập Văn Chương Nhi Đồng , xin mời chị và cả nhà cùng đọc

Tí PTr

Back to top
 
 
IP Logged
 
Phuong_Tran
Gold Member
*****
Offline


Thành Viên Hoạt Động
Tích Cực *Năm 2011*

Posts: 10574
Gender: female
Re: Trầu Cau Qua Ca Dao Viêt Nam
Reply #32 - 16. Mar 2012 , 23:51
 
...




CON CÒ TRONG CA DAO

84. CÁI CÒ ĐI ĐÓN CƠN MƯA
Cái cò đi đón cơn mưa,
Tối tăm mờ mịt ai đưa cò về.
Cò về đến gốc cây đề,
Giương cung anh bắn, cò về làm chi.
Cò về thăm bá, thăm dì,
Thăm cô xứ Bắc, thăm dì xứ Đông.

85. CÁI CÒ CHẾT TỐI HÔM QUA
Cái cò chết tối hôm qua,
Có hai hạt gạo với ba đồng tiền.
Một đồng mua trống, mua kèn,
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong.
Một đồng mua mớ rau rong,
Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.

86. CÁI CÒ LÀ CÁI CÒ VÀNG
Cái cò là cái cò vàng,
Mẹ đi đắp đàng, con ở với ai?
Con ở với bà, bà không có vú,
Con ở với chú, chú là đàn ông.

87. CÁI CÒ LÀ CÁI CÒ CON
Cái cò là cái cò con,
Mẹ nó yêu nó, nó còn làm thơ. *
Cái cò bay lửng bay lơ,
Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng.
Đem về nàng nấu, nàng rang,
Nàng ăn có giẻo, thời nàng lấy anh.

(*) Làm thơ : đây có nghĩa là làm nũng như thói quen của các em còn non nhỏ.

88. CÁI CÒ TRẮNG BẠCH NHƯ VÔI
Cái cò trắng bạch như vôi,
Cô kia lấy lẽ chú tôi thì về.
Chú tôi chẳng mắng, chẳng chê,
Thím tôi móc mắt, mổ mề xem gan.

89. CÁI CỐC MÀY LẶN AO CHÀ
Cái cốc mày lặn ao chà*,
Bay lên rủ cánh làm nhà chị nương.
Yếm thắm mà nhuộm hoa nương,
Cái răng hạt đỗ làm tương anh đồ.
Yếm thắm mà vã nước hồ,
Vã đi vã lại anh đồ yêu đương.

(*) Chà : những cành tre hay cành cây thả xuống chuôm ao để cho cá ở hay để rào đường lối : Thả chà xuống ao; cắm chà ở ngoài bờ lũy.

90. NƯỚC NON LẬN ĐẬN MỘT MÌNH
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ai kia cạn cho gầy cò con.

91. CÁI CÒ LẶN LỘI BỜ SÔNG
Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trẩy *, nước non Cao Bằng.
Chân đi đá lại dùng dằng,
Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con.

(*) Trẩy : Cất mình đi xa : quân trẩy, trẩy hội, trẩy thủy.

92. CÁI CÒ LÀ CÁI CÒ KỲ
Cái cò là cái cò kỳ,
Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chửa đi đến chợ đã lo ăn quà.
Hàng bánh, hàng bún bày ra,
Củ từ, khoai nước cùng là cháo kê.
Ăn rồi cắp đít ra về,
Thấy hàng chả chó lại lê trôn vào.
Chả này bà bán làm sao ?
Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng mua.
Nói dối là mua cho chồng,
Đem đến quãng đồng, ngả nón ra ăn.
Thoạt là đau bụng lăm răm,
Về nhà đau quẳn đau quăn dạ dày.
Đem tiền đi bói ông thầy,
Bói ra quẻ này, những chả cùng nem.
Cô nàng nói dối đã quen,
Nào tôi ăn chả ăn nem bao giờ.

93. CON CÒ CON VẠC CON NÔNG
Con cò con vạc con nông,
Ba con cũng béo vặt lông con nào ?
Vặt lông con vạc cho tao,
Hành răm nước mắm bỏ vào mà thuôn.

94. CON CÒ MÀ ĐI ĂN ĐÊM
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy sáo măng.
Có sáo thì sáo nước trong,
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con.

95. CON CÒ LÀ CON CÒ QUĂM
Con cò là con cò quăm,
Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
Có đánh thì đánh sớm mai,
Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm.

96. CÁI CÒ CÁI VẠC CÁI NÔNG
Cái cò cái vạc cái nông,
Sao mày dẵm lúa nhà ông hỡi cò.
Không, không, tôi đứng trên bờ,
Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tôi.
Chẳng tin thì ông đi đôi,
Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.

97. CÁI CÒ LẶN LỘI BỜ AO
Cái cò lặn lội bờ ao,
Hỡi cô yếm đào, lấy chú tôi chăng ?
Chú tôi hay tửu, hay tăm,
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì những muốn trời mưa,
Đêm thì những muốn đêm thừa trống canh.

98. CÁI CÒ LÀ CÁI CÒ CON
Cái cò là cái cò con,
Mẹ đi xúc tép để con ở nhà.
Mẹ đi một quãng đường xa,
Mẹ sà chân xuống phải mà con lươn.
Ông kia có cái thuyền nan,
Chở vào ao rậm xem lươn bắt cò.
Ông kia chống gậy lò dò,
Con lươn thụt xuống, con cò bay lên.

99. CÁI CÒ CHẾT RŨ TRÊN CÂY
Cái cò chết rũ trên cây,
Cò con mở sách xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra chia phần.


CA DAO NHI ĐỒNG

DOÃN QUỐC SỸ
Sưu tập

Back to top
« Last Edit: 18. Mar 2012 , 16:47 by Phuong_Tran »  
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Trầu Cau Qua Ca Dao Viêt Nam
Reply #33 - 17. Mar 2012 , 16:56
 
Sư Tich Trau Cau



Back to top
 
 
IP Logged
 
thule
Gold Member
*****
Offline


Thành Viên Xuất Sắc
*Năm 2010*

Posts: 3836
Re: Trầu Cau Qua Ca Dao Viêt Nam
Reply #34 - 18. Mar 2012 , 06:57
 
Phuong_Tran wrote on 16. Mar 2012 , 23:51:
...




CON CÒ TRONG CA DAO

84. CÁI CÒ ĐI ĐÓN CƠN MƯA
Cái cò đi đón cơn mưa,
Tối tăm mờ mịt ai đưa cò về.
Cò về đến gốc cây đề,
Giương cung anh bắn, cò về làm chi.
Cò về thăm bá, thăm dì,
Thăm cô xứ Bắc, thăm dì xứ Đông.

85. CÁI CÒ CHẾT TỐI HÔM QUA
Cái cò chết tối hôm qua,
Có hai hạt gạo với ba đồng tiền.
Một đồng mua trống, mua kèn,
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong.
Một đồng mua mớ rau rong,
Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.

86. CÁI CÒ LÀ CÁI CÒ VÀNG
Cái cò là cái cò vàng,
Mẹ đi đắp đàng, con ở với ai?
Con ở với bà, bà không có vú,
Con ở với chú, chú là đàn ông.

87. CÁI CÒ LÀ CÁI CÒ CON
Cái cò là cái cò con,
Mẹ nó yêu nó, nó còn làm thơ. *
Cái cò bay lửng bay lơ,
Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng.
Đem về nàng nấu, nàng rang,
Nàng ăn có giẻo, thời nàng lấy anh.

(*) Làm thơ : đây có nghĩa là làm nũng như thói quen của các em còn non nhỏ.

88. CÁI CÒ TRẮNG BẠCH NHƯ VÔI
Cái cò trắng bạch như vôi,
Cô kia lấy lẽ chú tôi thì về.
Chú tôi chẳng mắng, chẳng chê,
Thím tôi móc mắt, mổ mề xem gan.

89. CÁI CỐC MÀY LẶN AO CHÀ
Cái cốc mày lặn ao chà*,
Bay lên rủ cánh làm nhà chị nương.
Yếm thắm mà nhuộm hoa nương,
Cái răng hạt đỗ làm tương anh đồ.
Yếm thắm mà vã nước hồ,
Vã đi vã lại anh đồ yêu đương.

(*) Chà : những cành tre hay cành cây thả xuống chuôm ao để cho cá ở hay để rào đường lối : Thả chà xuống ao; cắm chà ở ngoài bờ lũy.

90. NƯỚC NON LẬN ĐẬN MỘT MÌNH
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ai kia cạn cho gầy cò con.

91. CÁI CÒ LẶN LỘI BỜ SÔNG
Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trẩy *, nước non Cao Bằng.
Chân đi đá lại dùng dằng,
Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con.

(*) Trẩy : Cất mình đi xa : quân trẩy, trẩy hội, trẩy thủy.

92. CÁI CÒ LÀ CÁI CÒ KỲ
Cái cò là cái cò kỳ,
Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chửa đi đến chợ đã lo ăn quà.
Hàng bánh, hàng bún bày ra,
Củ từ, khoai nước cùng là cháo kê.
Ăn rồi cắp đít ra về,
Thấy hàng chả chó lại lê trôn vào.
Chả này bà bán làm sao ?
Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng mua.
Nói dối là mua cho chồng,
Đem đến quãng đồng, ngả nón ra ăn.
Thoạt là đau bụng lăm răm,
Về nhà đau quẳn đau quăn dạ dày.
Đem tiền đi bói ông thầy,
Bói ra quẻ này, những chả cùng nem.
Cô nàng nói dối đã quen,
Nào tôi ăn chả ăn nem bao giờ.

93. CON CÒ CON VẠC CON NÔNG
Con cò con vạc con nông,
Ba con cũng béo vặt lông con nào ?
Vặt lông con vạc cho tao,
Hành răm nước mắm bỏ vào mà thuôn.

94. CON CÒ MÀ ĐI ĂN ĐÊM
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy sáo măng.
Có sáo thì sáo nước trong,
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con.

95. CON CÒ LÀ CON CÒ QUĂM
Con cò là con cò quăm,
Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
Có đánh thì đánh sớm mai,
Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm.

96. CÁI CÒ CÁI VẠC CÁI NÔNG
Cái cò cái vạc cái nông,
Sao mày dẵm lúa nhà ông hỡi cò.
Không, không, tôi đứng trên bờ,
Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tôi.
Chẳng tin thì ông đi đôi,
Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.

97. CÁI CÒ LẶN LỘI BỜ AO
Cái cò lặn lội bờ ao,
Hỡi cô yếm đào, lấy chú tôi chăng ?
Chú tôi hay tửu, hay tăm,
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì những muốn trời mưa,
Đêm thì những muốn đêm thừa trống canh.

98. CÁI CÒ LÀ CÁI CÒ CON
Cái cò là cái cò con,
Mẹ đi xúc tép để con ở nhà.
Mẹ đi một quãng đường xa,
Mẹ sà chân xuống phải mà con lươn.
Ông kia có cái thuyền nan,
Chở vào ao rậm xem lươn bắt cò.
Ông kia chống gậy lò dò,
Con lươn thụt xuống, con cò bay lên.

99. CÁI CÒ CHẾT RŨ TRÊN CÂY
Cái cò chết rũ trên cây,
Cò con mở sách xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra chia phần.


CA DAO NHI ĐỒNG

DOÃN QUỐC SỸ
Sưu tập




Hay quá, các em thiệt giỏi, thoắt một cái là tìm thấy cả ...họ nhà cò.  Cô phải in cái bài này ra cho lớn Quyên đọc vào tối Grandma Day mí được . Rất tiếc cô chỉ có mỗi một đứa cháu mà bây giờ lớn mất rồi , huhuhu ..

Back to top
 
 
IP Logged
 
tuy-van
Gold Member
*****
Offline


Thành viên xuất sắc
2015

Posts: 10734
Thung lủng hoa vàng
Gender: female
Re: Trầu Cau Qua Ca Dao Viêt Nam
Reply #35 - 18. Mar 2012 , 07:20
 
Cô Thu đừng lo , tuy có 1 cháu cưng là Quyên , bn Thu còn bao nhiêu " cháu nuôi " nửa cơ.... , như cháu của anh chị Lan Đàm , AC Thu Ca , cháu cô Mai....và 2 nhóc Alex và Brandon đấy ạ.
Cám ơn bạn hiền TL , Tí cưng...đã cho cả nhà những câu ca dao , chuyện cổ tích...thật trân quý nhé.

  EM TVMS
Back to top
 

:: Have a great day::
:: Have a great day::
:: Have a great day::
:: Have a great day::
 
IP Logged
 
hoangkybactien
Junior Member
**
Offline


Mưa qua biển Bắc!

Posts: 53
Re: Trầu Cau Qua Ca Dao Viêt Nam
Reply #36 - 28. Dec 2012 , 22:52
 
Ghi chú: Những dòng sau đây là của hoangkybactien nhân đọc bài "Hình ảnh con tằm trong thơ lục bát":

Tác giả bài này biết đi sưu tầm những câu ca dao, câu thơ trong văn chương cổ để viết bài, mà dường như là không biết rằng mình đang dùng ngôn ngữ của Việt cộng để viết.  Cao Bá Quát, Hàn Thuyên, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, cho tới Khái Hưng Thạch Lam,..., đâu có vị nào dùng "lao động", "phát hiện", "kinh tế canh nông của ngành nông nghiệp!" đâu!? May mà chưa có "bức xúc", "hoành tráng", "vô cảm", "ấn tượng" trong này.

Mong rằng tác giả tìm lại sách vở của VNCH mà học lại lề lối tiếng Việt của cha ông truyền lại.  Còn ngôn ngữ của Việt cộng thì hãy để họ xài. Cứ nhắm mắt mà xài chỉ tổ làm mình thêm vô duyên mà thôi!

Cụ Hàn Phi Tử nói biết mà không nói thì không tốt. Cho nên cực chẵng đã mới phải nói!
Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra