Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Anh Hùng Thời Đại  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 
Send Topic In ra
Anh Hùng Thời Đại (Read 19405 times)
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Anh Hùng Thời Đại
20. Jan 2009 , 21:25
 
VIỆT NAM CỘNG HÒA

NHẤT và NHẤT



Hoàng Hải Thuỷ


Chín, mười giờ một đêm cuối năm, trời Sài Gòn lạnh lạnh, tôi ngồi ôm eo ếch ông bạn trên chiếc xe Bridgestone chạy trên đường Trần Quốc Toản. Thành phố vắng tanh, tối đen. Đêm ấy, tôi không nhớ là một đêm năm 1981 hay năm 1982, năm 1983, không phải chỉ "xa lộ không đèn" như trong bộ phim xi-nê của Đạo Diễn Thi Sĩ Hoàng Anh Tuấn, mà cả thành phố Sài Gòn không có điện.

Trước đấy mấy năm, những năm 1972, 1973, người Sài Gòn nào chạy chiếc Bridgestone này bị coi như là rách, nhưng nay trong lòng Sài Gòn tả tơi, hoang tàn, ảm đạm, tối tăm, tuyệt vọng, người chạy xe Bridgestone hách hơn người ngồi xe Mercedes năm xưa. Ông bạn tôi, như mọi người Sài Gòn thất thủ, bị mất nhiều thứ nhưng ông giữ được cái xe này. Khi có tiền, ông đổ một lít xăng gốc cây vệ đường, đến chở tôi đi chơi một vòng. Đi lạng quạng cho đỡ buồn, đi mà không cần biết là đi đâu, đi cho đỡ nhớ những ngày đã qua, đi để quên những ngày đen tối hôm nay trong vài tiếng đồng hồ.

Không nhớ lúc đó xe đang chạy trên đường Trần Quốc Toản, vừa qua trước Viện Hóa Đạo, sắp đến Chợ Cá, chúng tôi đang nói với nhau chuyện gì, những ngày như lá, tháng như mây, qua 40 năm, tôi nhớ tối ấy ông bạn tôi nói:

- Thằng nào giỏi chửi nó ở ngay đây này. Sang Tây, sang Mỹ, thằng nào chửi nó mà không được.

"Nó" đây là thằng Cộng sản. Lời nói của ông bạn làm tôi vừa bùi ngùi vừa hổ thẹn, vừa đau lòng. Tôi nghĩ: " Ông nói đúng. Thằng nào giỏi thì chửi Cộng ngay ở đây, sang Tây, sang Mỹ ai chửi Cộng mà không được. Nhưng mà làm sao có thể chửi Cộng ở ngay Sài Gòn đầy cờ đỏ? Chưa chửi nó nó đã bắt rồi, nó đã cho đi tù mút chỉ cà tha. Ở đấy mà chửi nó!"

Lời nói của ông bạn tôi ám ảnh tôi mãi. Sau đó tôi nghĩ sống trong cùm kẹp cuả bọn Cộng sản mà chửi Cộng là không được cái gì cả, chửi hay chống, chửi nó là chống nó, người chửi, người chống chỉ khổ thân, chỉ làm khổ vợ con, đau nhất là còn bị bạn hữu, người thân chê là "ngu". Như trường hơp tù đày của Ký giả Văn Chi, tục danh là Chi Lùn. Anh có khổ người không được cao nên anh có xước hiệu là Chi Lùn.

Việc làm chính của Văn Chi là nhân viên Bộ Thông Tin, anh hay lui tới đưa tin cho các tòa báo nên anh được coi là ký giả. Năm 1966, hay 1967, có hai anh giáo viên người Pháp được Trung Tâm Văn Hóa Pháp ở Sài Gòn mướn sang Sài Gòn dạy Pháp Văn ở trường của Trung Tâm. Hai anh này mang cờ Mặt Trận Giải Phóng đến treo dưới tượng Chiến Sĩ Việt Nam ở Công Trường Lam Sơn, đường Tự Do, trước Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa. Văn Chi đang ở trong văn phòng của Sở Thông Tin Đô Thành trong tòa nhà bên cạnh công trường. Nghe bên ngoài lao xao, nhốn nháo, anh chạy ra xem. Thấy hai anh Mũi Lõ hỗn láo treo cờ bọn tay sai Bắc Cộng bị cảnh sát bắt đứng xớ rớ ở đó, Văn Chi nóng mắt xông đến đấm cho mỗi tên mấy quả. Một tên bị anh cho lỗ mũi ăn trầu, tức bị anh đấm trúng gĩữa mặt, sặc máu ra hai lỗ mũi lõ.

Một triệu quân, một triệu tay súng, máy bay, xe tăng, tầu chiến, Mỹ đứng sau lưng, mà đánh không lại nó, mà mạnh thằng nào thằng ấy chạy, năm, bẩy mạng uất ức, thấy bọn Cộng hèn, thấy chúng đểu, ngu, ác nên thù, nên khinh chúng nó, họp lại thành đảng, toan lật đổ cái gọi là Bàn Thờ Bác Hồ của chúng nó. Làm sao được! Chỉ chết rục xương trong tù thôi. Chừng ba tháng sau Ngày 30 Tháng Tư, Văn Chi bị bọn Sở Công An Thành Hồ đến nhà bắt đi. Nhà anh ở khu Ngã Ba Ông Tạ, đường Thánh Mẫu,ï gần Nhà Thờ Chí Hòa. Tháng Năm 1975 anh mở tiệm Phở ở ngay Ngã Ba Ông Tạ, phở Văn Chi khá ngon.

Văn Chi bị bắt, một hôm có anh quen tôi đến nhà tôi. Anh này có viết vài cái truyện ngắn nên cũng là văn nghệ sĩ. Anh hỏi thăm Văn Chi, hỏi bị bắt bao lâu rồi, làm gì mà bị bắt? Đang rầu thúi ruột lại bị gã vô duyên đến hỏi vớ vẩn, tôi nói:

- Nó làm gì tao đâu có biết. Nó đâu có kể việc nó làm với tao. Nghe nói nó in truyền đơn, đem rải trong sân Nhà Thờ Chí Hòa với ở chợ Ông Tạ.

Gã dzô dzang phang:

- Thằng Văn Chi là thằng ngu.

Cơn hờn giận của tôi nổ ra, tôi nói:

- Nó là thằng ngu còn mày là thằng hèn.

Nhiều người Việt biết Chống Cộng trong nước sau năm 1975 là không thể được, là từ chết đến chết, là tù đày, là đi tù không có ngày về, là một ra đi không bao giờ thấy lại mặt vợ con, nhưng biết như thế mà nhiều người Việt thế hệ tôi vẫn cứ chống Cộng ở giữa lòng Sài Gòn đầy cờ đỏ với ảnh Già Hồ.

Vì vậy, tôi có quyền nói: Người Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa là những người chống Cộng sản mạnh nhất, nhiều nhất, dai nhất thế giới. Liều nhất, can đảm nhất nữa. Họ liều mạng sống của họ để chống Cộng. Họ không hy vọng cuộc chống Cộng của họ thành công, họ chống Cộng vì họ là người, vì họ không chống Cộng họ không sống được. Từ ngày loài người chịu tai họa nạn công sản, không có dân tộc nào chống Cộng mạnh như dân tộc Việt Nam .

Hôm nay, một ngày đầu năm 2007, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi vinh danh Những Người Việt Nam Chống Cộng Sản, tôi kết án bọn Cộng Sản Việt có tội với Dân Tộc Việt Nam. Trước khi vinh danh, tôi kể tội bọn Cộng Sản Việt Nam . Nhiều tên Cộng Sản Việt Nam là những tên Cộng bẩn nhất trong số những tên Cộng bẩn trên thế giới.

Như Hồ chí Minh, "Bác Hồ muôn kính, ngàn yêu" của bọn Cộng Việt. Hồ là lãnh tụ Cộng duy nhất làm cái trò tự cắm ống đu đủ vào lỗ đít mình và ngậm mồm vào đầu ống mà thổi. Hồ lấy tên giả là Trần Dân Tiên viết về đời làm cách mạng của Hồ, tức y tự viết về y, tự tâng bốc y, tự cho y có những đức tính thật đẹp, y lừa gạt cả nước. Chỉ riêng việc làm thô bỉ ấy đã đủ để ta gọi Hồ là Lãnh Tụ Cộng Lưu Manh Nhất Thế Giới.

Tố Hữu là tên Cộng sản Việt làm thơ ca tụng Stalin đốn mạt nhất thế giới Cộng sản. Không có tên Cộng sản làm thơ nào ca tụng Stalin quá cỡ như Tố Hữu. Dưới Tố Hữu là Chế Lan Viên, rồi đến Nguyễn Tuân ca tụng Lenin. Từ những tên gọi là văn nghệ sĩ đầu xỏ này đến cả lũ, tất cả, bọn làm thơ, viết truyện ở Hà Nội Đỏ là những thằng hèn, là những tên không biết nhục, không biết xấu hổ – Nhất Thế Giới – Trong bao nhiêu năm chúng bị bọn Cộng Sản cấm viết, cấm nói, chúng như những con chó bị chủ nhà buộc rọ mõm, xích cổ. Không phải ai xa lạ mà chính là anh Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh đảng chúng, những năm 1987, 1988, bị bắt buộc phải đi theo bọn Nga Cộng, nói ra câu: "Nay Đảng cởi trói cho văn nghệ sĩ.." Vì không biết nhục, không biết xấu hổ, những tên văn nghệ sĩ bị rọ mõm Bắc Cộng vẫn cứ sống nhơn nhơn, vẫn nhìn mặt nhau, vẫn í oẳng chửi nhau về văn nghệ, văn gừng. Tôi thấy trong các nước chẳng may bị bọn Cộng nắm quyền không có bọn văn nghệ sĩ nào hèn, không biết nhục như bọn văn nghệ sĩ Bắc Việt Cộng.

Trong ngàn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam nhiều lần bị bọn ngoại nhân vào chiếm nước, giết người, nhưng không bọn giết người Việt nào tàn ác như bọn Việt Cộng, không một ngoại nhân nào giết nhiều người Việt bằng bọn Việt Cộng. Với dân tộc Việt Nam, bọn Việt Cộng là bọn tàn ác nhất thế giới.

Nhiều người trên thế giới, trong nhiều năm, cứ ví Stalin ác như Hitler, Stalin giết người như Hitler giết người. Nhưng người ta không để ý đến chỗ khác nhau của hai tên ác quỉ: Hitler là người Đức, y giết người Do Thái, người Ba Lan, y đề cao, y quí báu dân tộc Đức của y, Stalin là người Nga nhưng y giết người Nga, y coi người Nga rẻ hơn, tệ mạt hơn loài vật. Một đặc tính quỉ ma của bọn Cộng Sản toàn thế giới là chúng chuyên giết những người cùng dân tộc với chúng. Tất cả. Không bọn Cộng nước nào là không phạm cái tội cùng hung, cực ác đó. Bọn Nga Cộng giết người Nga, bọn Tàu Cộng giết người Tàu, bọn Việt Cộng giết người Việt, bọn Miên Cộng giết người Miên.

Năm 1985 tôi gặp nhóm Chống Cộng Lê Công Minh trong Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, năm 1987,1988, tôi cùng sống với những người trong nhóm Lê Công Minh ở Nhà Tù Chí Hòa. Khi ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, Lê Công Minh nằm sà-lim số 9 cạnh sà-lim tôi nằm số 10. Có lần nói với nhau được vài câu qua ô cửa gió, Lê Công Minh bảo tôi:

- Trước ngày bị bắt, chúng tôi có quyển Tầng Đầu Địa Ngucï do anh dịch. Chúng tôi truyền tay nhau đọc. Quyển ấy giúp chúng tôi đỡ khổ nhiều lắm trong những ngày tù này.

Năm 1988 Tổ Chức Lê Công Minh bị đưa ra tòa. Luật Sư Phạm Quang Cảnh đứng đầu tổ chức bị tử hình, kỹ sự Lê Công Minh đứng thứ hai lãnh án khổ sai chung thân, giáo sư Nguyễn Quốc Sủng đứng thứ ba lãnh án chung thân khổ sai. Nhiều người trong tổ chức lãnh án từ 20 năm tù khổ sai đến nhẹ nhất là 10 năm.

Trước ngày bọn Nga Cộng bị dân Nga lôi cổ ra trước chợ, nhổ vào mặt, đánh cho mỗi thằng năm, bẩy cái bạt tai, đuổi đi, trước ngày Tượng Lenin, Tượng Stalin, Thánh Tổ, Ông Nội của bọn Việt Cộng, bị dân Nga kéo đổ, lôi ra bãi rác, đái lên, bọn Việt Cộng say máu chiến thắng, đàn áp thẳng tay những người Việt Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, chúng giết người VNCH không chút ghê tay.

Hôm nay, Ngày 30 Tháng Giêng, 2007, tôi kết tội: bọn Việt Cộng là bọn giết người Việt tàn ác nhất, hung bạo nhất, nhiều nhất trong lịch sử.

Tù chính trị Chống Cộng biết bọn gọi là chánh án ngồi xử họ chỉ là những tên tay sai. Bọn Cộng có cái gọi là Ủy Ban Luận Tội. Thành viên uỷ ban là 3 tên: Công An, Viện Kiểm Sát, Tòa Án. Ba tên nhưng chỉ là một tên. Ba tên này xét tội của người bị chúng đưa ra tòa, định số năm tù, giao cho bọn chánh án. Bọn chánh án đầy tớ láp nháp xử, hỏi vài câu vớ vẩn cho có chuyện, rồi tuyên cái án được định trước.

Khi tuyên án xong, tên chánh án cắc cớ, ngứa mồm, hỏi Lê Công Minh:

- Trước đây 4 năm, anh viết trong Tuyên Ngôn: Nhất định không sống chung với Cộng Sản. Bây giờ anh nghĩ thế nào?

Ngườu Tù Chống Cộng Khổ Sai Chung Thân Lê Công Minh trả lời:

- Bây giờ tôi vẫn nghĩ như thế.

Lập tức tên chánh án nâng án phạt Người Tù Lê Công Minh từ khổ sai chung thân lên tử hình. Theo luậït khi án đã tuyên, bọn chánh án không thể sửa án ngay boong bằng một câu nói như thế. Nhưng bọn Cộng sản cần gì luật, chúng săng phú cả luât của chính chúng.

Luật sư Phạm Quang Cảnh, Kỹ sư Lê Công Minh bị đưa vào Khám Tử Hình Chí Hòa. Sau đó chúng giảm án tử hình của Lê Công Minh xuống án khổ sai chung thân.

Ba, bốn giờ sáng trời Sài Gòn còn tối mịt, bọn Cai Tù Chí Hòa vào Khu Tử Hình, chúng bịt mắt, còng tay, còng chân, nhét giẻ rách vào miệng người tử tù Phạm Quang Cảnh, đưa ông lên bắn ở bãi bắn Thủ Đức.

Năm 1989 tôi gặp Lê Công Minh ở Trại Tù Khổ Sai Z 30 A. Tôi có dịp nói chuyện nhiều với Lê Công Minh. Anh kể:

- Trong Tuyên Ngôn của chúng tôi có câu: " Bọn Cộng Sản chuyên đàn áp, bóc lột, giết tróc nhân dân của chính chúng."

Tôi lặng người khi tôi nghe Lê Công Minh nói câu đó. Từ bao lâu tôi từng đọc, từng nghe nhiều lời kết tội bọn Cộng Sản, chưa bao giờ tôi được nghe Lời Kết Tội Bọn Cộng Ác Ôn Đúng đến như thế. Đây là lần thứ nhất tôi nghe, tôi thấy, quả thực bọn Cộng chuyên giết nhân dân của chúng. Tôi nghe Lời Kết Tội ấy từ một người Việt Nam cùng thế hệ với tôi, cùng chịu tù đày như tôi.

Tôi bùi ngùi:

- Các anh kết tội chúng nó đúng như thế, chúng nó phải giết các anh thôi.

Lê Công Minh chịu tù 18 năm, anh ở lại Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Quốc Sủng khi bị bắt đã 80 tuổi, từ trần ở Trại Tù Khổ Sai Z 30 A.

Tôi vinh danh Lê Công Minh là Người Tù Chống Cộng Anh Dũng Nhất Thế Giới.

Phật Tử Việt Nam , Ky tô hữu Việt Nam có những tu sĩ chống Cộng trực diện, kiên cường nhất thế giới. Không nước nào bị Cộng chiếm quyền có hai Tu sĩ Phật Giáo bị án tử hình như Việt Nam . Hai tu sĩ ấy là Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương. Tổ chức được anh em tù chính trị gọi là Tổ Chức Già Lam rất đông người, gồm người Phật Giáo, người Công Giáo. Tổ chức mua súng, định lập chiến khu, dùng võ lực đánh Cộng sản. Bị bắt năm 1983, lần khân mãi, cứ giam kíu mãi đến năm 1988 bọn Cộng mới đưa Tổ Chức Già Lam ra tòa. Biết rằng xử xong thể nào những cộng đồng Phật Giáo trong nước, hải ngoại, cũng xôn xao yêu cầu giảm án cho các tù nhân, bọn Cộng dùng chiêu "dơ cao, đánh khẽ". Chúng xử tử hình hai tu sĩ để khi có lời xin chúng sẽ giảm án.

Tất cả các vụ án sau khi xử, nếu tù nhân chống án, tù nhân phải nằm phơi rốn trong Khu FG Chí Hòa ít nhất là một năm, vụ Già Lam chỉ 45 ngày sau là được đưa ra xử lại. Hai tử tù Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương chỉ phải nằm trong Khám Tử Hình, bị còng một chân vào cây sắt suốt ngày đêm, suốt ngày đêm ở trần, quần sà-lỏn, có 45 ngày đêm. Ra tòa lần hai hai ông được giảm án từ tử hình xuống 20 năm tù khổ sai, bỏ qua án chung thân. Theo lụật Cộng, án tử hình phải xuống án chung thân, nhưng như đã viết: bọn Cộng "săng phú", tức bỏ qua, bất chấp cả luật của chính chúng.

Tôi tuyên dương Tu Sĩ Phật Giáo Việt Nam là giới có nhiều người chống Cộng nhất thế giới.

Tôi vinh danh Chiến Sĩ Lý Tống là Chiến Sĩ Chống Cộng Anh Dũng Nhất Thế Giới.

Tôi vinh danh Chiến Sĩ Võ Đại Tôn là Chiến Sĩ Chống Cộng Anh Dũng Nhất Thế Giới.

Tôi vinh danh Thi Sĩ Nguyễn Chí Thịện là Thi Sĩ Chống Cộng Anh Dũng Nhất Thế Giới.

Trước năm 1975 tôi, như nhiều người Sài Gòn, không một lần mất thì giờ nghe hai Đài Phát Thanh VOA, BBC. Không những chỉ không nghe hai đài phát thanh Âu Mỹ đó, chúng tôi còn không nghe bất cứ một đài phát thanh nào trên thế giới, kể cả đài của nước chúng tôi là Đài Phát Thanh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà. Sau năm 1975 chúng tôi đói tin, chúng tôi rất chăm nghe hai Đài VOA, BBC. Tin thời sự VOA do nhân viên người Mỹ chọn, đưa cho nhân viên Việt ở VOA dịch, đọc trong giờ VOA Tiếng Việt. Toàn chuyện người ta, nghe chán chết. Nhiều năm sau 1975 Mỹ VOA tránh loan tin về Việt Nam Đỏ Máu nên chúng tôi, bọn đẻ bọc than gà què kẹt giỏ gà mắc dây thung sống vất vưởng, khổ nhục, cay đắng, ê chề, tuyệt vọng ở Sài Gòn Đỏ Máu, chúng tôi chỉ mong được nghe những tin xấu về bọn Cộng Sản, chúng tôi chỉ mong người thế giới nhắc, nhớ đến chúng tôi, thương xót chúng tôi, chúng tôi muốn nghe người thế giới chửi rủa bọn Cộng chiếm nước chúng tôi; những tin như thế hoàn toàn không có trên Đài VOA, chúng tôi thất vọng với tin tức của VOA. Nhưng VOA mỗi tuần có 30 phút, hay một giờ phát thanh gọi là Âm Nhạc Việt Nam Hải Ngoại. Chương Trình này những năm xưa ấy do ông Lê Văn chủ biên, trình diễn toàn những Nhạc Chống Cộng do người Việt di tản mới sáng tác ở Hoa Kỳ. Người Sài Gòøn nhức tim khi nghe lời ca buồn từ bên kia biển lớn bay về: " ..Sài Gòn ơi..Tôi đã mất Người trong cuộc đời…..Sài Gòn ơi.. Tôi đã mất thời gian tuyệt vời..", người Sài Gòn ứa nước mắt khi nghe lời người bên kia biển dặn dò: "..Gửi mấy thước vải về Cha may áo mặc đi ra pháp trường. Gửi cho Em mấy chỉ vàng, Em tìm đường vượt biên...', người Sài Gòn tấm tắc, hãnh diện bảo nhau : " Ở Mỹ có Nữ ca sĩ Nguỵệt Ánh khi hát mặc áo dài có cờ Quốc Gia.."

Kể như vậy để nói rằng những năm 1980 nhiều người Sài Gòn chăm chăm đón nghe giờ phát thanh Âm Nhạc Việt Nam Hải Ngoại của Đài VOA, nhiều người Sài Gòn chăm chăm đón nghe giờ phát thanh của Đài BBC. Nhân viên người Anh Đài BBC không có mặc cảm bại trận nên không e ngại gì trong việc loan những tin xấu về bọn Việt Cộng. Mỗi tuần BBC có một lần Chương Trình Tạp Chí Đông Nam A, vào lúc 9 giờ tối, giờ Sài Gòn, ngày Thứ Năm. Tạp Chí Đông Nam Á chỉ có trong 15 phút, loan toàn những tin liên can đến Việt Nam. Nhiều người Sài Gòn, trong số có tôi, tối Thứ Năm nào cũng chầu chực bên cái radio để nghe Tạp Chí Đông Nam Á BiBiXi.

Một tối như thế, nằm rã rời bên cái radio cũ, trong căn gác tối vo ve tiếng muỗi, tôi nghe tin một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa đi đường bộ từ Việt Nam qua Miên, qua Thái Lan, đến Mã Lai, bơi qua eo biển sang Singapore, vào Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tị nạn chính trị. Sĩ quan nào mà hay quá dzậy? Tôi nghe chuyện ông và thán phục ông quá đỗi. Sĩ quan ấy là ông Lý Tống.

Những ngày như lá, tháng như mây theo nhau qua. Những năm 1990 cũng qua những đài phát thanh Âu Mỹ, tôi được tin Chiến Sĩ Lý Tống từ Hoa Kỳ về Thái Lan, lên phi cơ chở khách, ép phi công cho máy bay bay qua Sài Gòn, ông thả truyền đơn kêu gọi nhân dân Việt Nam nổi dậy. Rồi từ máy bay, ông nhẩy dù xuống Sài Gòn, ông bị bọn Cộng bắt sống. Tôi nghĩ thế là xong, Người Hùng Lý Tống sẽ chết trong ngục tù Cộng sản. Nhưng kỳ lạ thay, Người Hùng không chết. Bọn Cộng phải thả ông ra. Trở về Mỹ, Lý Tống lên máy bay bay sang Cuba thả truyền đơn chống Castro, rồi ông lại về Thái Lan, mướn phi cơ bay sang Việt Nam thả truyền đơn lần thứ hai. Ông bị nhà cầm quyền Thái bắt vì tội không tặc. Từ mấy năm nay đến bây giờ Người Hùng Lý Tống nằm trong Nhà Tù Thái Lan.

Người Chống Cộng nào dám làm và có thể làm được như Lý Tống? Trước sau không ai cả. Tôi tuyên dương ông, tôi vinh danh ông: Chiến Sĩ Lý Tống là Chiến Sĩ Chống Cộng Anh Dũng Nhất Thế Giới.

Chiến Sĩ Võ Đại Tôn từ nước ngoài về nước để mưu đồ đánh đưổi bọn Cộng cướp nước. Ông bị bọn Cộng bắt. Tôi từng đọc những bài báo bọn Cộng Bồi Bút viết mạ lỵ ông. Nhiều năm sau tôi nghe chuyện bọn Cộng Hà Nội đưa ông ra trước cuộc họp báo có một số thông tín viên quốc tế để ông nhận tội, để ông nói lời ăn năn, để ông ca tụng chính sách khoan hồng với tù nhân chính trị của bọn Cộng, để ông nói lời cám ơn chúng đã đối xử tốt với ông, chúng đã để cho ông được sống. Nhưng khi ra trước cuộc hội bào, Người Tù Chống Cộng Võ Đại Tôn nói:

- Tôi chiến đấu cho hạnh phúc của đồng bào tôi. Tôi chết không ân hận.

Chiến Sĩ Chống Cộng của dân tộc nào trên thế giới làm được như Chiến Sĩ Võ Đại Tôn của Việt Nam ? Không một ai. Tôi vinh danh ông: Chiến Sĩ Võ Đại Tôi là Người Tù Chống Cộng Anh Dũng Nhất Thế Giới.

Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện sau cả chục năm tù đày cực khổ, vẫn không ngán sợ tù đày, không sợ bọn Cộng sản, Thi sĩ yêu quí Thơ của ông hơn cả mạng sống của ông. Một buổi ông mang Tập Thơ của ông vào Toà Đạị Sứ Anh Quốc ở Hà Nội, nhờ nhân viên Sứ Quán chuyển dùm Thi phẩm của ông ra nước ngoài. Biết rõ hơn ai hết là làm thế ông sẽ bị bắt, ông sẽ bị bọn Cộng cay cú, giam tù đến chết, Thi Sĩ cứ làm, vẫn làm. Thi Sĩ chống Cộng từ năm 1960, Thi Sĩ là Nhà Thơ Việt Nam duy nhất dám chửi cha Hồ Chí Minh trong Thơ. Ông không chửi bố Hồ chí Minh ở đâu xa, ông chửi Hồ ở ngay Hà Nội. Không chờ đến ngày bọn Cộng Sản bị nhân dân thế giới khinh bỉ, chửi rủa, tượng Lenin, Stalin bi kéo đổ, bị lôi ra bãi rác, mới chửi Cộng, mới chống Cộng, Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện của nước tôi chửi Cộng, chống Cộng ngày từø năm 1960. Tôi vinh danh ông: Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện là Người Chống Cộng Anh Dũng Nhất Thế Giới.

Người chống Cộng nước nào dám từ nước ngoài trở về nước mình để đánh Cộng Sản và để chết như các ông Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Hoàng Cơ Minh? Không nước nào có những người chống Cộng anh dũng như nước tôi, Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.

Tôi trang trọng Vinh Danh và Trao Giải Nhất Đồng Hạng đến ba ông: Lý Tống, Võ Đại Tôn, Nguyễn Chí Thiện. Ba Chiến Sĩ, mỗi người một vẻ, mỗi người một hoàn cảnh, đã làm cho Dân Tộc Việt Nam nổi danh, làm cho dân tộc Việt Nam hơn hẳn những dân tộc khác trong Cuộc Chống Cộng Sản của Loài Người.

Tôi cám ơn những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã chết trong Cuộc Chống Cộng Sản Tàn Ác để cho tôi được sống mà không hổ thẹn.

Còn sống, tôi còn vinh danh Các Vị.

Mãi mãi.

Back to top
« Last Edit: 20. Jan 2009 , 21:28 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
CoiChay
Gold Member
*****
Offline


Cối Chày of the Year
2006-2009

Posts: 2263
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #1 - 20. Jan 2009 , 23:19
 
Chị Mỹ nếu sau khi đăng bài này mà có đau tay thì cái đau tay đó cũng đáng ! Cám ơn chị Mỹ.

ĐS
Back to top
 
 
IP Logged
 
N.Trinh
Full Member
***
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 249
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #2 - 21. Jan 2009 , 02:19
 
Cám ơn Đặng Mỹ, hay quá
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #3 - 21. Jan 2009 , 18:23
 
N.Trinh wrote on 21. Jan 2009 , 02:19:
Cám ơn Đặng Mỹ, hay quá


Chị Trinh ơi,
Chị ghi danh cả nửa năm, hôm nay mới vào viết, em phải cám ơn bài trên của ông Hoàng Hải Thuỷ  Cheesy
Mỗi lần em đọc đưỢc những bài viết như thế em cứ nghĩ mình phải vinh danh, bày tỏ sự tri ân của mình bằng cách này hay cách khác trong lúc những anh hùng này còn sống.  Cách nhỏ nhoi, dễ dàng nhất của em là mở mục này để thu thập những bài viết như thế cho mọi người cùng đọc.
Tên Chị trong danh sách  là LVD 70,  chị cùng lớp với chị Đậu Đỏ hay chị Bích Hợp không chị? 



Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #4 - 21. Jan 2009 , 18:29
 
CoiChay wrote on 20. Jan 2009 , 23:19:
Chị Mỹ nếu sau khi đăng bài này mà có đau tay thì cái đau tay đó cũng đáng ! Cám ơn chị Mỹ.

ĐS


Anh Đại San ơi,

My copy rồi dán thôi mà anh. My nhận được bài cả tuần, mà không biết sao chỉ mở mục ra rồi quên không dán bài   Embarrassed
My mong mục này sẽ thu thập được nhiều bài vở, tài liệu.
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #5 - 04. Feb 2009 , 20:56
 
"26 Năm Lưu Đày” của Thượng tọa Thích Thiện Minh


Trần Việt Hải
 
Tôi hân hạnh được cô Trâm Oanh bên Đức Quốc gửi biếu cuốn "26 Năm Lưu Đày" của Thượng tọa Thích Thiện Minh. Tôi như bị thôi miên nhìn vào cái đề tựa. Hai mươi sáu năm là một khoảng thời gian quá dài, thời gian mà vị tu sĩ chịu đựng bao nhiêu nỗi nhục nhằn bị tra tấn, những cực hình lên tinh thần và thể xác. Tôi đọc 12 chương sách hay xuyên suốt 270 trang giấy, mà mỗi chương chuyên chở tiếng lòng bất khuất của vị tù nhân lương tâm đáng kính này.

Thượng Tọa Thích Thiện Minh có thế danh là Huỳnh Văn Ba, sinh trưởng tại tỉnh Bạc Liêu. Trong chương 1 của sách, ngài cho biết là thân phụ là một tín hữu Cao Đài: "Cha tôi có tấm lòng nhân hậu, tính tình rộng rãi hay giúp người. Mẹ tôi là một người đàn bà hiền thục, mẫu mực vất vả quanh năm vì chồnng con.” (Tr. 8) Có lúc gia đình phải tha hương cầu thực tại Vĩnh Bình (Trà Vinh). Chính tại nơi đây cậu bé Hùynh Văn Ba đã có duyên với cửa Thiền và được cha mẹ cho phép xuất gia. Năm 17 tuổi (1972) tác giả thọ giới Sa Di và năm 22 tuổi (1977) thọ Cụ Túc Giới do Hòa Thượng Thích Trí Thủ, rồi sau này được cử về trụ trì tại một ngôi chùa tại Vĩnh Bình và đã được đồng bào Phật tử tại đây gọi thân mật bằng các tên “ông đạo, huynh, cậu và thậm chí bằng con, bằng cháu nữa""

Chương 2 kể về biến cố đau thương 30 Tháng 4 xảy đến như một cơn đại hồng thủy mà dùng hai cụm từ ngữ là "Ách Vận Đại Biến" hay "Hắc Ám Nhật Tử" (Ngày Đen Tối). Sự hống hách của các cán bộ Việt Cộng sau khi xâm chiếm miền Nam, với tinh thần Tam vô chủ nghĩa: vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo. Tên cán bộ Hai Thổ,  xã đội trưởng du kích, ngang ngược chỉ vào tượng Đức Phật Đản Sinh, cười khinh khỉnh tuyên bố xấc xượt: "Thằng Phật nhỏ xíu này nó không có công làm cách mạng để đánh đuổi Đế Quốc, tại sao phải thờ nó? Nó ngồi một chỗ, để chờ người ta đem quà lại dâng cúng. Nó là thành phần giai cấp bóc lột mà!”. Đoạn y bước lên Chánh Điện lấy tay sờ vào tượng Phật Thích Ca Mâu Ni và nói: "Thằng Phật nầy ăn gì mà mập quá vậy!". Một lần khác sau khi Thượng Tọa bị bắt, Hai Thồ vào chùa chỉ tay tượng Phật nói: "Thằng Thiện Minh đã bị bắt giam rồi, còn mấy thằng Phật xi măng nầy cũng sẽ áp giải đi luôn". Theo chủ trương tiêu diệt ảnh hưởng của tôn giáo bằng cách khống chế và tịch thu mọi phương và tài sản của các tôn giáo, ngôi chùa Vĩnh Bình của ngài bị chiếm cứ bởi bạo lực của giới cầm quyền, mà đến nay Cộng Sản vẫn chưa trả lại tài sản này cho ngài.

Chương 3 và 4 thầy Thiện Minh mô tả cảnh tù tội. Thầy có kiến thức về thuốc nam cũng như châm cứu và biết võ thiếu lâm. Thầy làm công tác từ thiện, phụ trách mở thêm một phòng thuốc nam, châm cứu từ thiện tại chùa Từ Quang, ngoài phòng thuốc tại chùa Vĩnh Bình, khi gặp một đứa bé đau nặng gần chết vì cơn bệnh hô hấp, thầy ra tay cứu chữa cho bé. Đứa bé khỏi bệnh, người cha đến cám ơn thầy. Anh này là một kháng chiến quân phục quốc. Duyên thời cuộc đưa đẩy thầy vào Mặt Trận Nghĩa Quân Cứu quốc, Việt Nam Dân quốc. Khi bị bại lộ, thầy đứng ra nhận tội chỉ huy để tình nguyện hy sinh, vì càc anh em khác có vợ con. Thời buổi ban đầu khi CS chiếm được miền Nam, họ cai trị bằng nanh vuốt độc ác. Tội chống phá "Cách Mạng" lãnh án tử hình dễ dàng.
Tác giả của sách "26 Năm Lưu Dày" rất thích văn thơ, bằng chứng là nhiều trang sách đã được đăng thơ. Bốn câu thơ sau đây cho thấy tâm hồn thích thi phú của thầy:
"Tu sĩ quyết chùa am bế cửa
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha
Đền xong nợ nước thù nhà
Thiền môn trở gót phật đà Nam Mô..."
Tác giả thuật lại vì tin người nên âm mưu trốn trại tù bị bại lộ, đưa tới một số người bị bắt, trong đó có người em ruột của thầy, Huỳnh Hữu Thọ, vì mang theo vũ khí yểm trợ cho cuộc vượt ngục tại trại giam huyện Vĩnh Lợi. Thầy Minh và các đồng chí được chuyển sang trại tù Minh Hải. Đây là nơi giam giữ những người mới bị bắt với nhiều tội trạng khác nhau, giam vào đây là để điều tra khai thác vì nơi này có đủ mọi biện pháp được áp dụng khắt khe trong công tác tra hỏi. Tại đây, từ việc đánh đập bằng tay chân, bằng gậy gộc, bằng dùi cui, bằng báng súng cho đến cùm, quyện, giam vào phòng giam riêng là điều xảy ra hàng giờ hàng buổi. Trại giam có đủ mọi cán bộ, công an từ Bắc vào Nam, kể cả kháng chiến lâu năm cho đến những tên công an loại mới vào ngành mà dân gian thừơng gọi là bọn “công an 30/4”.
Họ đều có những ngón nghề độc đáo để điều tra, nào là đánh túi bụi, đánh kiểu trên đao dưới búa, còng tay đứng, còng chéo tay sau lưng, còng ngồi đan chéo hai tay. Họ dùng nhục hình để điều tra, bản thân thầy khi giam giữ tại đây, cũng không tránh khỏi những nhục hình này. Hàng ngày hai chân thầy luôn ở trong cùm, bị cùm suốt ngày đêm, suốt tháng quanh năm. Hai chân bị cùm quyện tại chỗ, không thể đứng thẳng được nên dần dần bị tê liệt. Còn tiểu tiện thì trong một cái hũ, mỗi khi đi vệ sinh phải nhờ người khiêng hũ lại dùm. Hũ vệ sinh vừa có phân, vừa có nước tiểu. Mỗi ngày công an cho người đem đổ. Có khi đến 2-3 ngày mới đổ nên phân và nước tiểu tràn ra ngoài ướt cả chỗ nằm bốc mùi hôi thối! Sau khi đổ hũ, công an ra lệnh tù nhân phải vào ngay thật nhanh cho nên chiếc hũ chỉ rửa sơ sài, sau đó họ múc nước ngay chỗ rửa hũ mang vào cho những người đang bị cùm trong quyện như thầy để tắm. Mỗi người trong cùm chỉ được vài ca nước. Ca múc nước tắm cũng là ca đựng cơm ăn hàng bữa…Chiếc hũ luôn luôn còn sót lại phân người, nhất là phân cao lương loại lương thực rất cứng ăn vào khó tiêu, loại này dùng để ăn độn thay thế cơm. Khi tắm phân dính cả vào mặt, vào đầu đó là chuyện thường ngày. Phòng giam kỷ luật rất chật hẹp khoảng hơn 3m2 mà nhốt có khi lên đến 20 người, chỉ ngồi cũng không đủ chỗ làm gì có khoảng trống để nằm. 
Trong vòng lao lý tác giả xót xa cho gia đình, nghĩ về hoàn cảnh của mình, là người anh lớn vì thời cuộc oan khiên: "Vì hoàn cảnh quá khổ nghèo do thảm trạng xã hội, nên gia đình thầy gồm: Em thứ 7 của thầy tên Nghĩa phải nghỉ học để đi bán bánh mì dạo nuôi gia đình. Em thứ 6 tên Nhiều phải đạp xe vua, loại xe phải đạp bằng 2 chân, phía sau có gắn cái thùng  để chở thêm được vài người. -Em thứ 5 mới lập gia đình hơn 1 năm, vừa sinh được một bé gái, bị nghi ngờ có liên quan vụ án nên đã bị tù . Em gái thứ Tư bán mía, khoai, cóc, ổi,...trước nhà. Hãy đọc tiếp:
“Mẹ tôi tuổi cao sức yếu lại bị bệnh thường xuyên vóc người mỗi ngày một gầy mòn, thân hình tiều tuỵ lo buồn vì chồng, vì con, tức cha tôi vừa qua đời cách đây mấy tháng, nay đến tôi và đứa em trai thứ Năm đều bị tù tội. Một điều xót xa là các em tôi còn thơ ngây nhỏ dại đang trong lứa tuổi cắp sách đến trường, tuổi chỉ biết ăn, biết học, biết chơi. Nay đành từ giã mái trường để tìm kế sinh nhai, vừa nuôi mẹ già đang đau yếu, vừa dành dụm ít tiền hàng tháng để đi thăm nuôi 2 người anh đang ở tù tận mũi Cà Mau... Em trai tôi là một học sinh hiền lành ngoan ngoãn, học rất giỏi, không những lễ phép với thầy cô mà còn rất có tình có nghĩa với bạn học cùng lớp và rất mực hiếu thảo với mẹ cha. Em học luôn đứng nhất, nhì trong lớp lại được bầu làm trưởng lớp nữa! Nhưng vì hoàn cảnh… nên lỡ dỡ việc học hành. Có những buổi đi bán bánh mì ngang qua trường cũ, em cố đi qua thật nhanh, và kéo chiếc nón sụp khỏi vành tai để cho các bạn đừng nhìn thấy. Thật ra trong lòng em rất tiếc nuối và rạo rực trào dâng một nỗi niềm nữa vui nữa buồn khôn tả. Em hình dung lại hình ảnh của thầy cô, của bạn bè … đôi chân em dường như muốn chùn lại, nước mắt lưng tròng."

Văn phong của tác giả trung thực trong nỗi chua xót trong tâm can của tôi. Là một tăng sĩ, một sĩ phu không khuất phục bạo lực. Tôi đọc đoạn thầy đấu khẩu với tên Nguyễn Ngọc Cơ tự là Sáu Búa, Viện trưởng viện kiểm sat nhân dân tỉnh Minh Hải. Lý do mà ông ta có biệt danh là Sáu Búa vì thời kỳ còn hoạt động trong rừng rú ông này phụ trách thi hành án tử hình. Một hôm nọ, tòa án xử tử hình một bà lão trên 70 tuổi, tuổi đã gần đất xa trời, cụ bà bị khép vào tội "làm điềm" tức là chỉ điểm viên cho quân đội VNCH. Đáng lý ra ông ta thi hành án xử tử bằng mã tấu, nhưng đây là phiên tòa nhân dân lưu động đặc biệt, nên khi xử xong là thi hành án ngay. Hôm đó ông không đem theo mã tấu bên mình, nên đành tạm mượn 1 chiếc búa của dân làng. Ông phải vất vã đập đầu bà cụ đúng 6 nhát búa thì bà mới tắt thở. Người chứng kiến sự kiện man rợ trên cho rằng cụ bà bị hàm oan nên khi chết đôi mắt cứ mở trao tráo, mà không chịu nhắm nghiền lại.
Ra tòa xét xử, thầy Thiện Minh bị Sáu Búa hỏi vặn như răn đe:
- Anh có sợ chết không?
Thầy trả lời: "Mọi người trên đời này chỉ chết có một lần, nhưng ai ai cũng muốn sống, và cũng chẳng có ai sống mãi trên đời, nhưng sống hay chết như thế nào để có ý nghĩa, có ích cho đời đó mới là điều quan trọng bởi vì "Tử đắc kỳ sở". Tôi làm việc này để đồng bào được sống đúng ý nghĩa của con người, đúng với Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền theo nghị quyết 217A ngày 10-12-1948".
Sáu Búa hỏi tiếp:
- Sống đúng với ý nghĩa của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là như thế nào ?
Thầy trả lời: "Phải có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Dân quyền không bị tước đoạt, giá trị nhân phẩm của con người không bị chà đạp, mưu cầu hạnh phúc bằng sự chân chính chứ không phải tóm thâu của kẻ khác đem về cho mình làm chủ"
Ông ta lại nói tiếp:
- Nhưng, nếu chúng tôi đem anh xét xử với tội chết thì anh nghĩ thế nào ?
Thầy trả lời:
- Nếu cần phải sống cho sự nghiệp và lý tưởng được sống mãi ta phải cố sống và nếu cần phải chết cho sự nghiệp và lý tưởng được sống mãi, đôi lúc ta cũng vui vẻ chết, đó là sự dũng cãm hy sinh để trở thành bất tử, đối với nhà tu là thánh hóa linh hồn.
Sáu Búa lắng nghe. Thầy tiếp lời:
- Vả lại ông biết rồi đạo Phật chúng tôi chết là giải thoát.
Ông ta nói:
- Thôi đừng giảng đạo ở đây nữa, chừng nào về chùa cứ mà giảng đạo, sợ không chịu nổi nửa mức án, chứ làm gì có thể về chùa.
Thời gian "làm việc" hơn nửa giờ đồng hồ, hai bên cứ đấu lý qua lại vẫn chưa đi đến đâu. Sáu Búa lườm nguýt tỏ vẻ khó chịu và hỏi thẳng vào nguyên nhân "làm loạn, phản động":
- Anh cho biết ai là người đứng đầu tổ chức Trung ương của anh ?
Thầy Minh trả lời:
- Ở Trung ương có Thượng Tướng Trần Văn Trà và Bà Nguyễn Thị Bình.
Ông ta đổi sắc mặt lấy tay đập bàn và nói một cách hằn hộc:
- Tại sao anh lại dám khai hai đồng chí cao cấp của tôi, trong khi hai đồng chí này có mấy chục năm tuổi Đảng, đã đóng góp nhiều cho cách mạng để đem đến sự thành công vẻ vang như ngày hôm nay, mà anh cho rằng phản động như anh vậy à! Tại Sao anh không khai cả tôi luôn đi, tôi tên là Nguyễn Ngọc Cơ tức Sáu Búa nè !
Khi nghe xong câu thách đố, thầy tỏ thái độ khó chịu và nhìn Sáu Búa nói thêm:
- Xin lỗi ông tôi không phải là quan, chứ nếu tôi là quan thì tướng mạo của ông xin làm lính tôi, tôi cũng không nhận, thì khai ông làm gì?
Có lẽ bị cú sốc bất ngờ như xối gáo nước lạnh vào mặt, Sáu Búa nổi nóng liền vói tay chụp lấy cái bình trà để trên bàn và dự định ném vào người thầy. Theo sự tường thuật, thầy điềm nhiên phát biểu:
- Tư cách một ông Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, mà có hành vi thất sách đối với người tù chính trị tôn giáo như tôi à!
Sáu Búa bỗng dừng tay lại và quát to:
- Đồ ngoan cố, mầy là tên phản động, chuyên khuấy đục và bôi bẩn Đảng, mầy về đi!
 
Chúng ta thấy rằng giới luật pháp tuân lệnh Đảng CS u mê chỉ là bọn vô lại, côn đố tiếp tay cho tội ác để đàn áp nhân dân mà thôi.
Một trường hợp thương tâm khác khi thầy kể lại trong chương 5 là:
"Tôi còn nhớ chỉ sau ngày 30-4-1975 vài hôm, thì ông xã trưởng chính quyền cũ thường được gọi là ( ông xã Điểm) ông xã này trước kia thường bắt nhiều Việt Cộng ban đêm bò ra gài mìn phá đường, phá lộ giựt sập cầu và rãi truyền đơn v.v… Đến khi Sài Gòn đổi chủ, Việt Cộng tiếp quản chính quyền thì ông xã Điểm bị đem xử tử tại xã. Trước khi xử bắn họ tập họp dân lại để kể tội ông, dân theo Việt Cộng dùng cây, kẻ dùng đá, đòn gánh đánh đập túi bụi, đầu cổ ông bị giập nát, mình đầy máu me, máu tuôn chảy đầm đìa lênh láng mà họ còn không buông tha. Trong khi hai tay bị trói chặt, miệng nhét đầy giẻ và thêm một trái chanh rồi bịt miệng bằng một chiếc khăn đen, đã vậy mà hai ba người còn dùng mấy cục đá thật to chạy đến đập vào đầu ông xã Điểm một lần nữa, trước khi lôi kéo thân ông đến một gốc cây họ buộc thật chặt và bắn ba phát súng. Khi nạn nhân ngã qụy tên trưởng toán đến bên xác nắm tóc lên và nả vào màng tang một viên đạn gọi là “ân huệ sau cùng” trước khi kéo xác lấp vào hố."
Khi được chuyển sang trại cải tạo Cây Gừa lại âm mưu vượt trại và rồi bị thất bại. Năm bạn đồng tù toa rập đào lổ thoát thân, khi nội vụ bất thành, một người bị xử tử, bốn người còn lại bị đày ra miền trung, giam vào trại tù Xuân Phước, nằm trong một thung lủng tử thần, nơi rừng thiên nước độc. Nơi đây tác giả sau cùng lại gặp nhiều tù nhân của càc tôn giáo được giải về đây. Xuân Phước khét tiếng với khu kỷ luật gồm 3 loại cùm, loại khoen tròn, loại khoen chữ V và loại khoen chữ V có khía hình răng cưa. Tùy theo thái độ của người tù mà họ ứng xử, hoặc phát cơm chan ngập nước muối, ăn vào mặn đắng không tài nào nuốt nổi. Đặc biệt trại tù xử dụng những tên gọi là Trật tự để trù dập, đánh đập, bớt nước uống, bớt cơm của tù nhân. Ở trại K1 có tên Tân mang tội hình sự là bộ đội CS, đã từng ăn gan người ở Campuchia, nên đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trông phát khiếp. Tại nhà tù Xuân Phước sự ngược đãi tù nhân rất tàn tệ, người tù sống trong cảnh thiếu thốn mọi bề, vô cùng nghiệt ngã. Nhiều tù nhân bị kiệt sức vì bị cưỡng bức lao động khổ sai hoặc bị đánh đập tàn bạo man rợ, tính trung bình thì tháng nào cũng có vài người chết. Có khi chết liên tục một tháng 3 đến 5 người, đây là chuyện thường xảy ra và thầy đã ra câu thơ:
«Trông thấy người khác chết
Trong lòng rất xót xa
Nửa thương xót kẻ chết
Nửa nghĩ tới phiên ta...! »
Ở hoàn cảnh cùng kẹt không lối thoát người tù đâm ra ù lì liều lĩnh. Một khi chí đã quyết nên phải ra tay, từ đó thầy Thiện Minh cùng với một số bạn đồng tù thân quen trong trại đứng ra tổ chức cướp trại giải thoát cho tù nhân bạn, âm mưu là định giải cứu đem đi 700 người trong số hơn 1000 người của trại. Tất cả sẽ cùng nhau hoạt động trong rừng và hợp tác đấu tranh. Nhưng sự việc bị bại lộ cho nên tù nhân nổi loạn bị bắt và bị cùm quyện tay chân ngày đêm hơn 3 năm.
Trong thời gian điều tra thầy bị đánh đập dã man, đặc biệt những trận đòn hội đồng, bị đánh tập thể gồm có các tên cán bộ an ninh của trung tâm. Chúng đánh bằng báng súng, bằng tay chân và 100 roi điện. Trong một buổi điều tra để khai thác cung để bắt thêm người, các tên đao phủ an ninh trại đánh thầy bằng tay chân tới tấp vào thân thể, đầu, mặt. Phía sau có một tên cán bộ khác dùng họng súng dài, thúc mạnh vào lưng trúng ngay lá phổi làm thầy bị trọng thương té ngất xỉu, máu tuôn ướt đẫm cả áo quần. Sau khi tỉnh dậy, những tên hung thần nầy không cho thầy thay quần áo, thầy đành mặc áo dính máu luôn cho đến khi rách nát. Hậu quả, vết thương lá phổi của thầy đến giờ này cũng còn dây dưa chưa dứt hẳn, nó thường đau buốt và ho liên tục mỗi khi trái gió trở trời. Đánh đấm bằng chân tay và bá súng chưa đủ, chúng đánh tiếp thầy 99 roi điện chỉ vì đếm lộn một roi. Đến khi kết thúc điều tra vụ án trốn trại các tên nầy lập hồ sơ quy kết thầy tổ chức “chống phá trại giam".
Một bài thơ kỷ niệm được thầy cảm tác như sau:
«TU TÙ...!
Thêm dấu chữ Tu biến chữ Tù
Chung thân hai án ở thiên thu
Tay còng, chân quyện nơi u tối
Cửa sắt, tường cao chốn mịt mù
 
Thân thể hình hài trông yếu kém
Tinh thần, trí tuệ sáng trăng thu
Thiên đàng, địa ngục phân hai nẻo
Nửa kiếp thầy tu nữa kiếp tù...!
Nửa kiếp Thầy tu nửa kiếp tù
Thiền môn giã biệt bước chân du
Từ bi trí tuệ tình thương gọi
Bác ái nghĩa nhân xóa hận thù...
 
Y chiến ngày đêm luôn mặc giữ
Nâu sòng kinh kệ gác công phu
Nước non đáp trả tròn xong nợ
Tín, Hạnh, Nguyện, thành vẹn kiếp tu...!”
Trong trại tù thầy gặp những bạn đồng tù của các tôn giáo bạn như: Ông Phan Đức Trọng, 72 tuổi, là Giáo hội trưởng giáo hội "Hòa bình chung sống" ở Tây Ninh, ông là con nuôi của Trung tướng Trần Quang Vinh, Tổng Tư lệnh quân đội Cao Đài. Ông Trần Văn Nhành, một tín đồ thuần thành của đạo Hòa Hảo thuần tuý. Quý Linh Mục Nguyễn Văn Vàng thuộc dòng Chúa Cứu Thế, Linh Mục Nguyễn Quang Minh thuộc nhà thờ Vinh Sơn, Linh Mục Nguyễn Luân, thuộc giáo xứ Phan Rang, Linh Mục Nguyễn Tấn Chức, và nhiều nữa. Sống trong trại, tù nhân bị bạc đãi, quần áo bị mục nát, quần đùi không còn đủ để che thân. Linh Mục Vàng bị ghẻ mủ khắp thân thể, ngoại trừ trên mặt thì không có, ghẻ mủ dầy như dề cơm cháy khét đen, còn Linh Mục Nguyễn Quang Minh thì bị đánh trọng thương, đánh ho ra hộc máu miệng, và cả hậu môn, chỉ vì đem vào trại vài chiếc bánh “thánh" để rồi qua đời sau đó mấy ngày. Riêng Linh Mục Nguyễn Luân bị bệnh phổi nặng, vì chứng ung thư phổi. Do nhiều năm trong kỷ luật bị tra tấn, đánh đập, thầy Thiện Minh bị chứng viêm phổi nặng. Những lúc gần đây tôi được biết thầy thường ho ra máu.
 
Tình cảm liên tôn khi Phật giáo và Công giáo chia sẻ những khổ đau vì tai ách giặc Cộng. Cha Nguyễn Luân có biệt hiệu là ông Ba Không. Lý do những tên giám ngục thấy giam hãm ngài nơi kỷ luật quá lâu nên mời ngài lên "làm việc". Họ chỉ cần yêu cầu Linh Mục viết tiêu đề là:
"Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"
và ký tên vào thôi! thì chúng sẽ cho Ngài ra khỏi hình phạt kỷ luật ngay. Thế nhưng Linh mục Luân lúc nào cũng viết như sau:
"Cộng Hoà Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam
Không độc lập - Không tự do - Không hạnh phúc".
Những tâm tình giữa Thượng Tọa Thích Thiện Minh và Linh Mục Nguyễn Luân "Ba Không" là khi xứ sở thật sự có tự do nhân quyền, thì một ngôi Chùa và một ngôi Giáo đường được xây kế bên nhau để lễ Giáng Sinh hay lễ Vu Lan thì Con chiên bên Công giáo và Phật tử được thong thả viêng thăm nhau như tinh thần hòa đồng tôn giáo, một ý niệm vô cùng cao đẹp, nhưng nay Linh mục Nguyễn Luân không còn nữa.
Thượng Tọa Thích Thiện Minh trong những chương cuối đế cập những gặp gỡ hay những kỷ niệm khi liên lạc với các bạn đồng tù của chế độ CSVN như Thượng Tọa Thích Không Tánh. Năm 1998, hai thầy gặp nhau trong dịp tiếp kiến phái đoàn Nhân Quyền của LHQ do Ông Abdel Rattah Amor hướng dẫn sang Viêt Nam. CS khuyến khích quý thầy sang Pháp định cư. Tuy nhiên, thầy Thiện Minh khẳng khái đề nghị 4 điểm với phái đoàn LHQ là CS phải:
- Thả tất cả tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm, tôn giáo đang bị giam giữ trong nhà tù CS vô điều kiện.
- Đòi trả lại tài sản của các tôn giáo và phục hồi quyền tự do tôn giáo một cách hoàn toàn trong đó có việc phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN.
- Xóa bỏ điều 4 hiến pháp của nước CHXHCNVN để thực hiện một chế độ đa đảng, đa nguyên và bình đẳng giữa các đảng phái.
- Tổng tuyển cử tự do với sự giám sát của LHQ, đôi bên đồng bộ chủ trương tình thương nhân đạo và hóa giải hận thù.
 
Trong nhà tù CS, thầy Thiện Minh có dịp Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, một nhân vật bất đồng chính kiến chế độ CSVN, và là Chủ Tịch của Cao Trào Nhân Bản Việt Nam, ông chia sẻ những viên thuốc bổ, thức ăn chay được nhét vào lổ thông hơi như tiếp tế cho sức khoẻ của thầy, ông thể hiện những tình cảm tốt của người bạn đồng tù. Vì thức ăn chay làm giống món thịt như thức ăn mặn nên thầy trả lại qua lổ thông hơi suýt bị bọn cai tù bắt được. Khi BS Quế được phóng thích nhưng ông vẫn cương quyết giữ tinh thần bất khuất và chủ trương dứt khoát đòi hỏi tự do và nhân quyền cho Việt Nam, điều này khiến thầy dành nhiều thiện cảm với vị bác sĩ này.
Một tù nhân đặc biệt khác là GS Doãn Quốc Sỹ, ông bị bắt vì đã gởi ra hải ngoại những truyện đả phá chế độ CS. Hậu quả GS Sỹ bị bắt trong vụ án nổi danh là "Biệt Kích Cầm Bút" và ông được xem như thủ lãnh củs nhóm nhà văn "phản động". Gặp nhau tại khám Chí Hòa, GS Sỹ sáng tác bài thơ ngắn kỷ niệm để tặng thầy, đại ý bài thơ về chú gà mổ những hạt gạo rơi vung vãi dưới đất (trang 223):
“Chú gà mà đi ăn đêm
Thấy hạt cơm mềm vung vãi đâu đây
Đêm khuya tội nghiệp cho mầy
Vất vả cành chầy một bóng thành hai.”
 
Tôi có nhắc GS Sỹ về bài thơ này ngày xưa, ông nói trong những ngày bị đọa đầy như vậy, những tù nhân nuôi lý tưởng khao khát tự do, họ trao đổi những chuyện trong tù và ngoài đời. GS Sỹ cũng nói thầy Minh có tính cương trực và thẳng thắn, rất đáng quý.
Tác giả kể tên nhiều vị gặp trong tù nữa. phần kết luận ở chương 12. Thầy Thiện Minh xác nhận mình là một thành viên của GHPGVNTN, đã bị chế độ CS giam cầm liên tục 26 năm, so với chiều dài lịch sử của dân tộc không là bao, nhưng so với một đời người quả là khủng khiếp. Thầy dành những lời đầy ân tình như khi GHPGVNTN được lãnh đạo bởi Đại Lão Hòa Thượng Tăng Thống Thích Huyền Quang và Hòa Thượng Viện Trưởng Thích Quảng Độ.
Thầy xác định lập trường của Giáo Hội là phục vụ dân tộc và chúng sanh. Do đó, dù ở đâu hay trong hoàn cảnh nào, Phật Giáo Việt Nam muôn đời vẫn là Phật Giáo Việt Nam, và muôn đời vẫn là của dân tộc Vịêt Nam. Đề cập về Hòa Thượng Viện Trưởng Thích Quảng Độ khi phát biểu về thái độ chính trị phải có của một công dân. Trên phạm vi tu hành, sự tham gia vào đời sống chính trị không có nghĩa là ra tranh chức vụ thế quyền, như ứng cử chức vụ dân biểu, hoặc lập đảng phái này nọ, mà là ý thức được trách nhiệm của mình đối với Tổ Quốc. Cho nên khi mọi người dân có quyền suy nghĩ về chính trị, phát biểu về chính trị và hành xử về chính trị thì đó là chúng ta biết xử dụng quyền công dân. Hãy cân nhắc lá phiếu của mình để chọn người xứng đáng đại diện cho mình hay bầu người cầm vận mệnh quốc gia thì dù muốn dù không cũng đã tham dự vào đời sống chính trị rồi.
Tôi nghe thầy nói trên đài phát thanh về Linh Mục Nguyễn Luân của xứ đạo Phan Rang đã có những khát vọng riêng tư trước khi mất. Ngài tâm sự là:
"Nếu được ra tù hai anh em mình cải cách mối liên hệ tôn giáo theo hướng mới chẳng hạn như: trước nhà thờ, hay bên cạnh Thánh đường thờ Chúa, có ngôi Chùa thờ Phật. Tín đồ Phật tử đi lễ nhà thờ cầu nguyện Chúa và ngược lại Con chiên của Chúa đến Chùa lạy Phật ngày Rằm, bởi các đấng xuất thế luôn chủ trương yêu thương mà người đời thường hay cố chấp. Một khi tinh thần hòa hợp chung thì thể chất mới kết hợp được cho nên nếu các Tôn giáo Đại đoàn kết tạo thành một khối vững chắc đi đầu, thì các tổ chức xã hội mới noi gương... Tôn giáo và nhân quyền là sức mạnh chính làm chuyển hóa chế độ bạo quyền này".
 
Tôi xót xa khi nghe thầy Thiện Minh nói on air về cái chết của Linh Mục Nguyễn Luân, tôi ngậm ngùi khi đọc những khát vọng của một cha xứ đáng kính nơi cuối trang 243 của sách "26 Năm Lưu Đày".   
 
Như GS Doãn Quốc Sỹ nhận xét về sự cương trực và thẳng thắn của Thượng Tọa Thiện Minh, ngài đã trả một cái giá rất đắt là 26 năm tù tội chỉ vì muốn sống đúng với nhân vị, ngài không chùn bước trước bạo lực. 26 năm tù tội để tranh đấu cho quyền làm người. Nhà tranh đấu cho nhân quyền nổi tiếng tại Nam Phi là Nelson Mandela đã lớn tiếng phê phán, chỉ trích nạn kỳ thị màu da khi nhà cầm quyền thiểu số người da trắng đã bóc lột và đè đầu cởi cổ dân đa số dân da đen, để rồi Nelson Mandela chịu đựng 27 năm tù, loại tù chung thân biệt giam tại hòn đảo Robben Island, họ đánh đập trả thù cá tính ươn ngạnh bất phục tùng của ông. Thượng Tọa Thiện Minh không càch xa người lãnh giải Nobel hòa bình này của năm 1993 là bao, vì cả hai chấp nhận ngồi tù gần 3 thập niên cho giá trị cao quý của quyền làm người, cái quyền bẩm sinh của trời đất, nhân quyền không thể van nài hay xin xỏ để được ban phát mới có được.

Văn hào Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn được biết nhiều qua những tác phẩm nổi danh như Tầng Đầu Địa Ngục (The First Circle, truyện kể về trại tù khắt nghiệt Marfino, ngoại ô của Moskova) và Một Ngày trong Đời của Ivan Denisovich (One Day in the Life of Ivan Denisovich), và The Gulag Archipelago (Quần Đảo Ngục Tù), được tuyên bố trúng giải Nobel năm 1970 vì quá khứ cho thấy ông chống báng kịch liệt chế độ độc tài của Liên Sô. Tháng 7 năm 1945 ông bị kết án tù 8 năm tại các trại lao động khổ sai như là gulags cộng thêm 4 năm lưu đày sau đó, vì một bức thư ông viết gửi các bạn bày tỏ quan điểm chống lại chủ nghĩa áp bức người dân của hung thần Josef Stalin. Năm 1965 các tác phẩm của ông bị cấm lưu hành ở Liên Sô. Được phiên dịch và xuất bản ở nước ngoài, các tác phẩm này lại khiến ông bị bắt giữ năm 1974, bị tước bỏ quyền công dân và bị trục xuất ra xứ ngoài. Tác phẩm của Solzhenitsyn là những bản cáo trạng tố cáo tội lỗi của đảng CS Liên Sô, "26 Năm Lưu Đày" của Thượng Tọa Thiện Minh cũng đã trình bày những nỗi ô nhục, những vết nhơ đày đọa nhân dânViệt Nam, thử tượng cảnh tên Sáu Búa đập đầu bà lão đến chết bằng búa, chỉ vì nghi ngờ bà làm điềm chỉ viên cho bên quân đội VNCH. Bao nỗi oan khiên cho dân tộc Việt Nam phải hứng chịu ách Cộng Sản cai trị quê hương oan khiên của chúng ta.
Đọc tác phẩn "26 Năm Lưu Đày" để thấu hiểu những chuổi ngày dài tù tội, để cảm thông với tác giả về những kinh hoàng trên thân xác, những đọa dày về tinh thần. Đọc tác phẩn "26 Năm Lưu Đày" để hiểu rằng những khổ đau của thế giới từ Nelson Mandela đến Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn, tôi xin đề nghị hãy kể thêm những khổ đau của tăng sĩ Thích Thiện Minh hay kẻ sĩ Huỳnh Văn Ba. Tôi cho là vậy: Người chiến sĩ nhân quyền thật đáng kính trọng.
 
Trần Việt Hải
Mùa Xuân 2008.
 
   

Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #6 - 15. Feb 2009 , 05:37
 
CHÂN DUNG NGƯỜI CHIẾN SĨ : TRẬN ĐÁNH ĐỨC HUỆ
      
15/02/2009

...



Những năm tháng cuối của cuộc chiến, mặc dù gặp muôn ngàn khó khăn về yểm trợ và tiếp vận, quân lực chúng ta vẫn chiến đấu bền bĩ kiên cường làm cho Bộ trưởng Ngoại giao Kissinger có lúc mất bình tĩnh phải thốt ra: "Sao bọn chúng chưa chết phứt đi cho rồi". Chẳng những quân lực chúng ta không chết đi, mà còn đánh trả quân xâm lược những đòn chí tử cho đến phút chót.


CHÂN DUNG NGƯỜI CHIẾN SĨ

THIẾT GIÁP KỴ BINH VÀ BIỆT ĐỘNG QUÂN

TRONG HAI NĂM CUỐI

CỦA CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM (1974-1975)

TRẬN ĐÁNH ĐỨC HUỆ

[center]...


Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi
Tư lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh

" Il n’y a pas de gloire achevée sans la gloire des armes"

Vauvenargues


Lời Mở Đầu:

Thưa quý vị,

Sau khi Mỹ đơn phương ký kết Hiệp Định Paris với CSVN, đầu năm 1973 rút quân bỏ rơi chúng ta, báo chí truyền thông Mỹ mở chiến dịch rầm rộ bôi nhọ quân lực chúng ta. Quân CSBV nắm lấy thời cơ không ngừng vi phạm Hiệp Định Paris, tấn công chúng ta liên tục ở MNVN. Đồng thời Quốc Hội Hoa Kỳ cắt đứt viện trợ quân sư. Quân Lực VNCH buộc phải chiến đấu tự vệ trong thiếu thốn kinh khủng về trang bị quân dụng, đạn dược, xăng dầu.

Lúc bấy giờ ở Vùng 1 Chiến Thuật trên tuyến đầu của Tổ Quốc ở các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, các đơn vị tổng trừ bị thiện chiến Dù , TQLC, BĐQ cùng với SĐ1, SĐ2, SD3BB và các đơn vị NQ-ĐPQ của quân lực chúng ta phải chiến đấu ngày đêm vô cùng gian khổ giành nhau từng thước đất với quân thù CSBV.

Dân chúng MNVN bị tuyên truyền xảo quyệt của báo chí truyền thông Mỹ và CSBV, nên đa số hiểu sai khả năng thật sự của quân lực chúng ta. Có biết bao anh hùng tử sĩ đã hi sinh để bảo vệ MNVN thân yêu của chúng ta.

Những năm tháng cuối của cuộc chiến, mặc dù gặp muôn ngàn khó khăn về yểm trợ và tiếp vận, quân lực chúng ta vẫnn chiến đấu bền bĩ kiên cường làm cho Bộ trưởng Ngoại giao Kissinger có lúc mất bình tĩnh phải thốt ra: "Sao bọn chúng chưa chết phứt đi cho rồi". Chẳng những quân lực chúng ta không chết đi, mà còn đánh trả quân xâm lược những đòn chí tử cho đến phút chót.

Nhân Xuân Tha Hương nhớ người chiến sĩ VNCH, nhớ anh thương phế binh sống tủi nhục đau đớn ở quê nhà, tôi xin đăng lại một chiến tích xuất sắc đáng được hãnh diện về quân lực của chúng ta

Trần Quang Khôi


TB: Bài CHÂN DUNG NGƯỜI CHIẾN SĨ cũng đã được dịch ra Anh ngữ sẽ đăng trên trang nhà của TGB và sẽ được phổ biến rộng rãi trong dân chúng Mỹ. Đã gởi các copy đi:

    - TS Sorley

    - Nhà văn Jay Veith

    - Giáo sư TS Louis Leresche

    - Đại tá Raymond Battreall

    - Một số người Mỹ bạn của VNCH
...


1. Tình hình chung ở Vùng 3 Chiến Thuật

Sau khi ký kết Hiệp Định Paris, đầu năm 1973, Quân đội Mỹ ở Miền Nam Việt Nam (MNVN) bắt đầu rút quân về nước. Các đơn vị chủ lực của CSVN ở Vùng 3 Chiến Thuật gồm có 3 Sư Đoàn Bộ binh: 5, 7, 9 và các đơn vị đặc công ém quân bên kia biên giới Việt Miên thường xuyên xâm nhập vào lãnh thổ nước ta quấy nhiễu hoặc bao vây tấn công các đồn biên phòng của chúng ta dọc theo biên giới ở các tỉnh Hậu Nghĩa, Tây Ninh, Bình Long và Phước Long. Chủ lực của Quân Đoàn III gồm có 3 Sư Đoàn Bộ Binh 5, 18, 25 và Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh được sự yểm trợ trực tiếp của Tiểu Đoàn 46 Pháo Binh 155 ly, Tiểu Đoàn 61 PB 105 ly và Liên Đoàn 30 Công Binh dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, một mặt phải lo dàn mỏng quân ra thay thế Lực lượng II Dã chiến Hoa Kỳ để bảo vệ lãnh thổ chống lại chủ trương "dành dân lấn đất" của Cộng Sản sau khi Hiệp Định Paris ra đời; mặt khác, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Quân Đoàn III phạm sai lầm rất lớn về tổ chức và sử dụng lực lượng là giải tán Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III và phân tán nát Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh ra từng mảnh nhỏ sau khi tôi rời Lữ Đoàn đi du học ở Hoa Kỳ năm 1972. Hai sự kiện đó làm cho Quân Đoàn III bị suy yếu trầm trọng và hoàn toàn bị mất đi tính di động. Vì thế mà Lộc Ninh bị địch chiếm và các đồn biên phòng ở Tây Ninh lần lượt bị lọt vào tay địch. Tháng 7 năm 1973 tôi từ Mỹ trở về nước. Trung Tướng Phạm Quốc Thuần cũng vừa thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Minh đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân Đoàn III. Ông nghe tiếng tôi đã từng chỉ huy Chiến Đoàn 318 và Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh đánh thắng nhiều trận lớn trên chiến trường Campuchia từ thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí trong 2 năm 1970-1971, nên vận động xin tôi về trở lại Quân Đoàn III với ông. Ngày 7 tháng 11 năm 1973, tôi nhận quyền chỉ huy Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh ở Biên Hòa.

Việc đầu tiên là tôi gom các đơn vị Thiết Giáp bị phân tán về lại Lữ Đoàn và trình Trung Tướng Thuần gấp rút tổ chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III (LLXKQĐIII) theo mô hình tổ chức của Đại Tướng Đỗ Cao Trí. Ông cho tôi toàn quyền hành động.

Tình hình quân sự ngày càng nặng sau khi quân Mỹ rút đi. Trong "Mùa Hè Đỏ Lửa" 1972, nhiều chiến xa T-54 địch xuất hiện lần đầu tiên ở miền Nam trên chiến trường ở An Lộc, nên tôi tiên đoán chiến trường tương lai chiến xa địch có thể xuất hiện ở Biên Hòa; tôi xin Quân Đoàn trang bị cho tất cả các đơn vị Địa Phương Quân ở Biên Hòa súng phóng hỏa tiễn M72 chống chiến xa, được phép huấn luyện họ sử dụng loại vũ khí này và huấn luyện họ phối hợp tác chiến với Thiết Giáp, đồng thời tích cực tổ chức địa thế chống chiến xa địch chung quanh thành phố Biên Hòa. Các đường xâm nhập vào thành phố đều được thiết kế đặt mìn chống chiến xa và hầm hào chống chiến xa địch. Chính nhờ nỗ lực này của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh mà sau này trong "Chiến Dịch Hồ Chí Minh" năm 1975 của Cộng Sản Bắc Việt, Quân Đoàn 4 CS đã thất bại trong kế hoạch đánh chiếm tỉnh Biên Hòa và Sư Đoàn 341 CS bị quân ta đánh bại ở Biên Hòa trong ngày 30-4-1975.

Tôi ra sức cải tổ lại Lữ Đoàn 3 KB cho phù hợp với địa thế Việt Nam. Mỗi chi đội chiến xa có 3 chiến xa M48 thay vì 5 chiếc. Tôi cơ động hóa Pháo Binh bằng cách dùng xe xích M548 biến cải chở pháo 105 ly. Tôi tổ chức LLXKQĐIII thành một đại đơn vị liên binh Thiết Giáp - Biệt Động Quân - Pháo Binh - Công Binh hoàn toàn cơ động gồm 3 Chiến Đoàn : 315, 318 và 322. Tôi gấp rút huấn luyện tác chiến liên binh thuần thục và thường xuyên làm công tác tư tưởng để mọi quân nhân hiểu rõ địch, hiểu rõ nhiệm vụ và mục tiêu chiến đấu của chúng ta, nhất là để mọi chiến sĩ dưới quyền có niềm tin ở sự chỉ huy của tôi. Đến hạ tuần tháng ba, 1974, LLXKQĐIII đã trở thành một đại đơn vị cơ động tinh nhuệ sẵn sàng lên đường chiến đấu.

2. Tình hình đặc biệt :


Cuộc chiến đấu anh hùng của Tiểu Đoàn 83 Biệt Động Quân Căn Cứ Đức Huệ nằm khoảng 56 km hướng Tây Bắc Sài Gòn gần biên giới Việt Miên thuộc quận Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa do Tiểu Đoàn 83 BĐQ Biên phòng trấn giữ với quân số trên dưới 420 người cùng với gia đình vợ con binh sĩ vào khoảng 80 người sống trong căn cứ nguyên là một trại Lực lượng Đặc biệt của Mỹ để lại (xem hình 1) . Tiểu Đoàn trưởng là Thiếu Tá Hoa Văn Hạnh. Khi xảy ra trận chiến thì Thiếu Tá Hạnh đi nghỉ phép vắng mặt. Thiếu Tá Nguyễn Văn Bảo, Tiểu Đoàn phó thay thế chỉ huy.

Tiểu Đoàn 83 BĐQ có 4 Đại Đội tác chiến và 1 Đại Đội Chỉ huy và Công vụ:

- Trung Úy Thạch Thông chỉ huy Đại Đội 1,
- Trung Úy Hiền chỉ huy Đại Đội 2,
- Trung Úy Thất chỉ huy Đại Đội 3,
- Trung Úy Tuội chỉ huy Đại Đội 4 và
- Thiếu Úy Vạng chỉ huy Đại Đội Chỉ huy và Công vụ.

Được tin tình báo VC sẽ đến đánh căn cứ, Thiếu Tá Nguyễn Văn Bảo cho 3 Đại Đội tác chiến ra ngoài căn cứ: 1 Đại Đội bố trí các tiền đồn an ninh xa và 2 Đại Đội hành quân tìm và diệt địch ngoài xa căn cứ. Còn lại một Đại Đội tác chiến trừ bị bố phòng trong căn cứ.

(1) Đêm 27- 3 -1974, một đaị đội Đặc Công CS xâm nhập được vào bên trong Căn Cứ Đức Huệ; vào lúc 02:00 giờ sáng ngày 28-3-1974, chúng chiếm được một góc trong căn cứ. Ngay từ những phát súng nổ đầu tiên, Thiếu Tá Bảo bị thương ở chân, gọi được 3 Đại Đội tác chiến bên ngoài gấp rút trở về. Tiểu Đoàn tập trung lại phản công quyết liệt. Bên ngoài căn cứ, Sư Đoàn 5 CS (Công Trường 5) bao vây chặt; pháo binh địch tập trung hỏa lực pháo kích vào căn cứ rất dữ dội. Bên trong căn cứ Biệt Động Quân và Đặc Công CS cận chiến giành nhau từng vị trí một, đánh nhau bằng lưỡi lê và lựu đạn. Đến sáng thì đại đội Đặc công CS bị quân ta tiêu diệt hết.

Tiểu Đoàn 83 BĐQ làm chủ tình hình bên trong căn cứ, tổ chức lại phòng thủ chặt chẽ và sử dụng Pháo Binh của Tiểu Khu Hậu Nghĩa bắn yểm trợ hỏa lực chung quanh căn cứ. Trong khi đó, các Đại Đội tác chiến BĐQ bố phòng bên trong chặn đứng các đợt xung phong bên ngoài của các đơn vị bộ bnh Sư Đoàn 5 CS. Hai bên giao chiến ác liệt ngày đêm không ngừng nghỉ.
...


Tiểu Đoàn 36 BĐQ do Thiếu Tá Lê Quang Giai chỉ huy, tăng phái cho Tiểu Khu Hậu Nghĩa, vượt sông Vàm Cỏ Đông ở Đức Hòa tiến về hướng Căn Cứ Đức Huệ bị phục binh của các đơn vị thuộc Sư Đoàn 5 CS ở Giồng Thổ Địa thuộc xã Đức Huệ tấn công buộc Tiểu Đoàn phải thối lui lại gần bờ sông Vàm Cỏ.

(2) Bộ Tư lệnh Quân Đoàn III liền điều động Bộ Chỉ huy Liên Đoàn 33 BĐQ do Trung Tá Lê Tất Biên phụ trách sang Đức Hòa cùng với Tiểu Đoàn 64 BĐQ do Thiếu Tá Nguyễn Chiêu Minh chỉ huy. Ngày 31-3-1974, Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 64 BĐQ (khoảng 50 người) do Trung Úy Anh chỉ huy được trực thăng vận xuống Căn Cứ Đức Huệ tăng cường cho Tiểu Đoàn 83 BĐQ, đồng thời Tiểu Đoàn 64 BĐQ (-) vượt sông Vàm Cỏ Đông ở gần nhà máy đường Hiệp Hòa, nhập với Tiểu Đoàn 36 BĐQ làm 2 cánh quân tiến song song về hướng Căn Cứ Đức Huệ ở cách đó chừng 10 cây số đường chim bay về hướng Tây. Tiến được chừng 2 cây số, khoảng hơn 1 trung đoàn Bộ Binh thuộc Sư Đoàn 5 CS từ những vị trí hầm hào đào sẵn, xông lên tấn công mạnh, đồng thời pháo binh địch tập trung hỏa lực bắn xối xả vào đội hình của hai cánh quân này gây tổn thất nặng. Cuối cùng Tiểu Đoàn 64 BĐQ (-) và Tiểu Đoàn 36 BĐQ buộc phải gom quân rút lui về lại bên này bờ sông Vàm Cỏ (xem hình 1).
...

(3) Sư Đoàn 25 BB hành quân giải tỏa. Tiếp theo, Bộ Tư lệnh QĐIII giao nhiệm vụ cho Sư Đoàn 25 BB do Đại Tá Nguyễn Hữu Toán chỉ huy, tổ chức hành quân giải tỏa Căn Cứ Đức Huệ. Đại Tá Toán liền điều động các đơn vị thuộc Sư Đoàn đang hành quân trong vùng lân cận biên giới từ phía Bắc đến giải tỏa (xem hình 1). Một căn cứ hỏa lực được thành lập tại làng Phước Chỉ thuộc tỉnh Tây Ninh. Căn cứ này nằm cách biên giới khoảng 2 Km về phía Nam đồn biên giới An Hòa và cách Căn Cứ Đức Huệ khoảng 13 Km về phía Bắc. Ngoài Tiểu Đoàn Pháo Binh 105 ly cơ hữu Sư Đoàn phối trí trong căn cứ Phước Chỉ, còn có Trung đoàn 46/SĐ25 BB được tăng cường Chi đoàn 3/10 Thiết kỵ. Chi đoàn trưởng Chi đoàn này là Đại Úy Trần Văn Hiền. Tất cả lực lượng liên binh này được đặt dưới quyền điều động của Trung Tá Cao Xuân Nhuận, trung đoàn trưởng Trung đoàn 46 BB và được giám sát chỉ huy bởi Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 25 BB ở Củ Chi.

Để đối phó với đoàn quân giải tỏa của Sư Đoàn 25 BB, quân địch đã chủ động tổ chức địa thế, bố trí quân kín đáo chờ đánh quân tiếp viện. Chúng đặt các chốt chặn trên trục tiến quân của ta không vượt qua được, đồng thời Pháo Binh tầm xa của chúng nằm sâu bên kia biên giới mở những trận địa pháo chính xác, liên tục và ác liệt gây nhiều thương vong cho Trung đoàn 46 BB, làm tê liệt các cánh quân không điều động được, nên kế hoạch giải tỏa của Sư Đoàn 25 BB thất bại. Một phi cơ quan sát L19 bị phòng không địch bắn rơi gần đó, Trung đoàn cũng không tiếp cứu nổi phi hành đoàn. Sau đó quân địch pháo kích tập trung hỏa lực thẳng vào căn cứ Phước Chỉ bằng hỏa tiễn 107 ly và 122 ly khiến Trung Tá Cao Xuân Nhuận, trung đoàn trưởng Trung đoàn 46/SĐ25 BB bị tử thương. Trong suốt thời gian gần một tháng trời, quân bạn không đem lại một kết quả khả quan nào, hàng ngày vẫn bị pháo kích dồn dập, trực thăng tản thương và tiếp tế bị bắn rớt ngay trong căn cứ, 1 khu trục cơ Skyraider yểm trợ hành quân và 1 phi cơ DC3 thả dù tiếp tế bị hỏa tiễn SA 7 bắn rớt; những cánh dù mang lương thực và đạn dược cho Căn Cứ Đức Huệ thường bay ra ngoài vòng rào và lọt vào tay quân địch. Như vậy là cả hai nỗ lực từ phía sông Vàm Cỏ Đông của BĐQ qua và từ phía Bắc của Sư Đoàn 25 BB xuống đều bị thất bại trong việc tiếp cứu Tiểu Đoàn 83 BĐQ (xem hình 1).

(4) Những "Anh hùng Alamo Việt Nam". Bên trong căn cứ, trong lúc đó, các chiến sĩ Tiểu Đoàn 83 BĐQ và Đại Đội 3 của Trung Úy Anh thuộc Tiểu Đoàn 64 BĐQ dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Văn Bảo chiến đấu vô cùng dũng mãnh, càng đánh càng hăng từ lúc đầu cận chiến với đặc công địch bằng lưỡi lê và lựu đạn bên trong căn cứ cho đến về sau này phải chiến đấu đẩy lui các đợt xung phong của địch ngày đêm không ngừng nghỉ. Cuối cùng lương thực và đạn dược bắt đầu cạn, căn cứ bị cô lập không được tiếp tế, không tản thương được, nhưng không vì thế mà tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ BĐQ bị suy giảm. Họ thề quyết tử chiến với quân thù. Gia đình vợ con của các chiến sĩ BĐQ trong căn cứ cũng tích cực tham gia chiến đấu bên cạnh chồng cha họ. Họ cổ võ, họ giúp tản thương, cứu thương, tiếp tế đạn dược và lo cơm nước. Có người còn cầm súng chiến đấu vô cùng dũng cảm. Mặc dù tỷ lệ quân số giữa ta và địch quá chênh lệch, quân địch không sao dứt điểm được. Xác địch chồng chất ngổn ngang bên trong và bên ngoài Căn Cứ Đức Huệ.

So sánh sự tử thủ nổi tiếng của quân đội Mỹ ở đồn binh "Alamo" năm 1836 do Trung Tá William Barret Travis chỉ huy với quân số 189 người chống lại sự bao vây và tấn công của hơn 2,000 quân Mễ với tỷ lệ quân số hai bên là 1/11. Sau 13 ngày đêm tử chiến, đồn binh bị quân địch tràn ngập ngày 6-3-1836. Tất cả 189 chiến sĩ trong đồn binh đều tử trận, chỉ còn sống sót 14 người là đàn bà và trẻ con. Khoảng 1,600 quân Mễ bị giết.

Hoặc so sánh sự tử thủ nổi tiếng của quân Lê-Dương Pháp ở làng "Camerone" ngày 30-4-1863 với 65 chiến sĩ do Đại Úy Danjou chỉ huy chống lại sự bao vây và tấn công của 2,000 quân Mễ với tỷ lệ quân số hai bên là 1/34. Sau 11 giờ tử chiến, quân Lê-Dương Pháp giết hơn 300 quân Mễ, vị trí phòng thủ bị tràn ngập, 62 quân Lê-Dương Pháp bị giết, chỉ còn sống sót 3 người bị trọng thương.

Tiểu Đoàn 83 BĐQ phòng thủ trong Căn Cứ Đức Huệ với quân số khoảng 420 người được tăng cường 50 người của Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 64 BĐQ. Tổng cộng quân số là 470 người chống lại sự bao vây và tấn công của hơn 6,500 quân của Sư Đoàn 5 CS với tỷ lệ quân số đôi bên là 1/13. Sau hơn 1 tháng chiến đấu quyết liệt từ ngày 27-3-1974 đến ngày 28-4-1974, giữ vững vị trí phòng thủ, giết hơn 200 quân địch và gây thương tích cho khoảng 500 tên khác. Tổn thất bên BĐQ là 24 chết và hơn 100 người bị thương.

Mặc dù thời đại có khác nhau, mẫu số chung của những anh hùng ở Alamo, Camerone và Đức Huệ là sự quyết tâm tử thủ bằng mọi giá. Với tỷ lệ quân số đôi bên chênh lệch như thế, họ vẫn hiên ngang chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, đến hơi thở cuối cùng. Có thể nói không quá đáng là những chiến sĩ Biệt Động Quân chiến đấu ở Căn Cứ Đức Huệ đích thật là những "Anh hùng Alamo Việt Nam".

Sự chiến đấu kiên cường và dũng cảm của BĐQ ở Căn Cứ Đức Huệ còn chứng minh hùng hồn cho thế giới thấy rằng tinh thần và khả năng chiến đấu của quân lực chúng ta không thua bất cứ quân đội tân tiến nào trên thế giới. Một số người thiển cận và một số dư luận báo chí kỳ thị của Mỹ cho rằng khi Quân đội Mỹ rút đi khỏi Miền Nam Việt Nam thì Quân Lực VNCH thiếu tinh thần chiến đấu đưa đến việc mất Miền Nam Việt Nam. Nhận định này là vô lý và hoàn toàn sai sự thật. Mất Miền Nam Việt Nam rõ ràng là vì quân ta thiếu phương tiện chiến đấu chứ không phải thiếu tinh thần chiến đấu.

3. Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh - Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III Xuất Trận :

Vấn đề vô cùng khẩn trương lúc đó là việc tản thương, cứu thương và tiếp tế lương thực, nước uống, đạn dược cho Căn Cứ Đức Huệ trong lúc mọi đường giao thông liên lạc vào căn cứ đều bị Sư Đoàn 5 CS hoàn toàn cắt đứt nhiều ngày. Căn cứ bị cô lập và bị bao vây chặt. Tình hình bên trong căn cứ rất căng thẳng.

(1) Ngày 17-4-1974, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần, tư lệnh Quân Đoàn III, cho gọi tôi. Lúc bấy giờ tôi đang chỉ huy Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh hành quân thám sát "Khu Tam Giác Sắt" và "Vùng Hố Bò", sau khi Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Dư Ngọc Thanh đập tan Tiểu Đoàn Tây Sơn thuộc Trung đoàn 101 Địa phương Việt Cộng giải tỏa áp lực địch chung quanh đồn Bò Cạp và đồn Chà Rày thuộc Chi Khu Trảng Bàng của tỉnh Tây Ninh.

Tôi lên trực thăng chỉ huy bay về Biên Hòa trình diện Trung Tướng Tư lệnh Quân Đoàn. Ông tiếp tôi và cho tôi biết qua tình hình địch và bạn và tình trạng hiện nay bên trong Căn Cứ Đức Huệ. Sau đó Trung Tướng ra lệnh cho tôi lấy trực thăng bay qua Đức Hòa xem xét tình hình chiến sự bên đó rồi về trình cho ông biết ý kiến.

Tôi liền lên trực thăng bay qua Đức Hòa. Trên đường bay, tôi mải mê lo nghĩ phải làm gì để đối phó với Sư Đoàn 5 CS đây? Linh tính cho tôi biết có thể tôi sẽ được Bộ Tư lệnh Quân Đoàn chỉ định giải quyết tình trạng nguy kịch ở Căn Cứ Đức Huệ. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn. Cách đánh của quân địch từ trước tới nay vẫn là "Công Đồn Đả Viện". Địch chủ động tổ chức chiến trường nhiều ngày chờ ta đến. Pháo binh tầm xa của chúng bố trí an toàn bên kia biên giới và sẵn sàng mở những trận địa pháo chính xác và ác liệt khó lọt qua được. Địch lại nắm ưu thế về quân số và địa thế. Ta có lực lượng Thiết Giáp hùng hậu, ta làm chủ không phận và có không lực yểm trợ mạnh mẽ. Nhưng gần đây, quân địch được trang bị nhiều vũ khí tối tân của Liên Sô như hỏa tiễn phòng không tầm nhiệt SA7 đã gây cho Không Lực ta nhiều tổn thất đáng kể, và hỏa tiễn chống chiến xa AT3, một loại hỏa tiễn lợi hại có bộ phận điều khiển giống hỏa tiễn TOW chống xe tăng của Mỹ. Tôi đã từng gặp hỏa tiễn AT3 này một lần trên chiến trường Campuchia. Mải mê suy nghĩ, trực thăng đáp xuống sân bay Đức Hòa lúc nào không biết khi một loạt đạn pháo kích của địch nổ chát chúa chung quanh trực thăng làm tôi giật mình bừng tỉnh. Tôi cầm bản đồ phóng nhanh xuống đất và ra dấu cho trực thăng bay đi. Tôi vội lên xe Jeep đang chờ và cho tài xế chạy nhanh đến nhà máy đường Hiệp Hòa là nơi Bộ Chỉ huy Liên Đoàn 33 BĐQ đang tạm đóng. Tôi leo lên tầng cao nhất của nhà máy. Ở đây nhìn ra ngoài, ta thấy con sông Vàm Cỏ Đông uốn khúc bên dưới. Bên kia sông là một dãy đất trải dài xa tắp đến tận biên giới Việt Miên. Trung Tá Lê Tất Biên, Liên Đoàn trưởng Liên Đoàn 33 BĐQ, tiếp tôi và thuyết trình cho tôi rõ tình hình của cánh quân BĐQ ở phía Đông Căn Cứ Đức Huệ. Sau khi vượt sông Vàm Cỏ Đông thất bại, Tiểu Đoàn 36 BĐQ và Tiểu Đoàn 64 BĐQ đang tổ chức lại hàng ngũ, bổ sung quân số và chờ lệnh mới của Bộ Tư lệnh Quân Đoàn (xem hình 1).

(2) Kế hoạch hành quân của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh.

...



Rời Bộ Chỉ huy của Liên Đoàn 33 BĐQ, tôi lên trực thăng bay về hướng biên giới. Tôi cho trực thăng bay thật cao để có cái nhìn tổng quát bên dưới và cũng để đề phòng phòng không của địch bố trí dày đặc ở bên dưới. Bay qua khỏi sông Vàm Cỏ Đông là đến vùng biên giới Việt Miên. Bên này biên giới là một dãy đất bằng phẳng sình lầy, chi chít những kinh lạch gần giống như vùng Đồng Tháp Mười ở Miền Tây. Xa xa trên đất Miên là những làng mạc rải rác vắng vẻ. Nằm xa tít về hướng Nam là Căn Cứ Đức Huệ lẻ loi, cô độc. Tôi cho trực thăng bay sâu vào đất Miên. Thị trấn ChiPu của Campuchia xuất hiện ở phía trước. Về phía Nam một chút, có một khu rừng chừng 10 mẫu Tây gây sự chú ý của tôi. Tôi chợt nhớ lại cách đó 4 năm, trong cuộc hành quân "Toàn Thắng 42" cuối tháng 4-1970, tôi có đi qua khu rừng này và tôi có biết rất rõ địa thế phía Nam của Thị trấn ChiPu.

Trong chớp mắt, tôi thấy ngay là phải hành động như thế nào để đánh bại Sư Đoàn 5 CS, cứu Tiểu Đoàn 83 BĐQ ở Căn Cứ Đức Huệ. Quả thật giản dị đúng như Napoléon nói: "La guerre est un art simple et tout d'exécution" (Chiến tranh là một nghệ thuật giản dị và tất cả là cách thực hiện trên chiến trường). Trong đầu tôi hiện ra cách thực hiện một kế hoạch hành quân giản dị trong đó hành động táo bạo, nhanh chóng và hoàn toàn bất ngờ là chìa khóa của thắng lợi. Lòng tôi cảm thấy nhẹ nhỏm.

Trở về hậu cứ của Lữ Đoàn ở Biên Hòa, tôi liền tự tay phác họa ra kế hoạch phản công trong vòng 20 phút. Đặc điểm của kế hoạch này là sự giản dị tối đa và bất ngờ hoàn toàn: Toàn bộ LLXKQĐIII sẽ cùng tôi vượt biên đêm và bí mật tiến sâu vô lãnh thổ Campuchia về hướng ChiPu. Nỗ lực chính là đột kích đêm vào hậu tuyến của Sư Đoàn 5 CS từ hướng Nam ChiPu. Phải hết sức giữ bí mật và hành động thật nhanh, tập trung toàn bộ sức mạnh của Thiết Giáp, khai thác tối đa tốc độ và "Shock Action" trên trận địa, không cho địch trở tay kịp (xem hình 2).

Tôi cầm kế hoạch trong tay đi lên Bộ Tư lệnh Quân Đoàn gặp Trung Tướng Phạm Quốc Thuần. Ông tiếp tôi và tôi xin được trình bày. Tôi trải tấm bản đồ 1/50,000 ra bàn. Ông chăm chú lắng nghe tôi nói: "Sáng nay, theo lệnh Trung Tướng, tôi đã bay đi thám sát mặt trận ở Đức Hòa Đức Huệ. Tình hình rất xấu, chúng ta phải hành động ngay, sợ không kịp vì Căn Cứ Đức Huệ bị vây hãm từ 27-3 đến nay hơn 20 ngày. Tiếp tế và tản thương cho Căn Cứ Đức Huệ bị địch cắt đứt hoàn toàn. Tôi xin đề nghị lên Trung Tướng: Sử dụng LLXKQĐIII phản công ở Căn Cứ Đức Huệ. Kế hoạch phản công của tôi có 2 giai đoạn.

- Giai đoạn 1: Hành quân lừa địch: Từ ngày N-6 đến ngày N: Rút LLXKQĐIII đang hành quân thám sát trong tỉnh Tây Ninh về khu Comi ở Lái Thiêu (Thủ Đầu Một). Tôi sẽ tung tin là LLXKQĐIII sẽ di chuyển lên Xuân Lộc (Long Khánh). Mục đích của cuộc điều quân này là làm cho quân địch tưởng là lực lượng Thiết Giáp sẽ rút đi đến một nơi khác.

- Giai đoạn 2: Hành quân phản công: Từ ngày N: Xuất quân đêm, trở lên Gò Dầu Hạ, vượt biên giới tiến sâu vào lãnh thổ Campuchia về hướng ChiPu. Sau đó chuyển sang hướng Nam ChiPu, dựa vào đêm tối tấn công toàn lực vào hậu tuyến của Sư Đoàn 5 CS bố trí ở phía Tây Căn Cứ Đức Huệ " (xem hình 2).

Sau khi tôi trình bày xong, Trung Tướng có vẻ băn khoăn lo lắng. Ông suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Tôi lo kế hoạch này của anh sẽ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về chính trị. Vì như thế là chúng ta xâm phạm vào lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền. Chính phủ Campuchia sẽ có phản ứng và Liên Hiệp Quốc chắc chắn sẽ lên tiếng phản đối. Tôi sẽ gặp khó khăn.

- Nhưng thưa Trung Tướng, CSBV đâu có tôn trọng chủ quyền của Campuchia. Chúng đang sử dụng lãnh thổ của Campuchia để tấn công chúng ta. Tôi đáp lại.

- Đúng vậy, nhưng đây là một vấn đề rất tế nhị. Anh có thể làm một kế hoạch khác được không? Ông hỏi tôi.

Tôi liền đáp:

- Thưa Trung Tướng, tôi đã xem xét kỹ tình hình và địa thế, tôi nghĩ chỉ có kế hoạch này chúng ta mới đánh bại Sư Đoàn 5 CS, cứu Tiểu Đoàn 83 BĐQ ở Căn Cứ Đức Huệ.

Ông trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Thôi được, tôi sẽ trình kế hoạch này của anh lên Tổng Thống để ông quyết định .Nếu được chấp thuận, anh sẽ chỉ huy cuộc hành quân này. Hãy về chuẩn bị lực lượng.

Tôi nhận lệnh, đứng nghiêm chào rồi lui ra. Trên đường về Lữ Đoàn, tôi nghĩ chắc rồi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ chấp thuận vì chúng ta không thể vì lo ngại Liên Hiệp Quốc mà hy sinh sinh mạng của hơn 500 chiến sĩ BĐQ và gia đình họ ở Căn Cứ Đức Huệ.

Trong lòng tôi rất vui mừng và biết ơn được vị tư lệnh Quân Đoàn tín nhiệm. Đây là lần đầu tiên tôi có trong tay sự tập trung một lực lượng Thiết Giáp lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam và cũng là lần đầu tiên tôi được cho toàn quyền hành động để đương đầu trực diện với một Sư Đoàn CS kể từ khi Hiệp Định Paris ra đời.

Tôi vừa được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp tướng một sao cùng với các anh Nguyễn Văn Điềm Sư Đoàn 1 BB, Phạm Ngọc Sang Không quân, Hoàng Cơ Minh Hải quân. . . Đây là dịp tôi muốn chứng tỏ khả năng chỉ huy của mình và muốn chứng tỏ một đại đơn vị Thiết Giáp biết sử dụng tập trung là một vũ khí lợi hại có thể đánh bại các đại đơn vị CS trong thế công cũng như trong thế thủ.

Ngày 20-4-1974, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận Kế hoạch Hành quân của tôi, đồng thời ra lệnh cho Không lực VNCH trực tiếp yểm trợ tác chiến cho Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh 120 phi xuất (Tactical Air Support) từ ngày N đến ngày N+3 theo yêu cầu của tôi.

Tôi chọn ngày N là ngày 28-4-1974.

(3) Công tác chuẩn bị

Ngày 21-4-1974, Bộ Tư lệnh Quân Đoàn III triệu tập buổi họp hành quân ở Biên Hòa do Trung Tướng Phạm Quốc Thuần, tư lệnh Quân Đoàn III chủ tọa. Có mặt Bộ Tham Mưu Quân Đoàn, Bộ Chỉ huy 3 Tiếp Vận và 3 tư lệnh Sư Đoàn 5, 18, 25: Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và Đại Tá Nguyễn Hữu Toán. Sau khi Bộ Tham Mưu trình bày tình hình chung ở Vùng 3 Chiến thuật và tình hình đặc biệt ở Căn Cứ Đức Huệ, Trung Tướng tư lệnh Quân Đoàn tuyên bố chỉ định tôi thay thế tư lệnh Sư Đoàn 25 Bộ binh chỉ huy mặt trận Đức Hòa - Đức Huệ và sử dụng LLXKQĐIII phản công, giải vây Căn Cứ Đức Huệ. Tôi đứng lên trình bày ngắn gọn trước hội nghị Kế hoạch Hành quân vượt biên đêm của LLXKQĐIII ở Gò Dầu Hạ và Hành quân Phản công của LLXKQĐIII trên lãnh thổ Campuchia (Hình 2).

Theo nhu cầu hành quân của tôi, các đơn vị sau đây được Trung Tướng tư lệnh Quân Đoàn III chỉ định tăng phái cho Lữ Đoàn 3 KB đễ nằm trong tổ chức của LLXKQĐIII:

- Tiểu Đoàn 64 BĐQ đi với Thiết Đoàn 15 KB, thành phần nòng cốt của Chiến Đoàn 315 do Trung Tá Dư Ngọc Thanh chỉ huy;

- Tiểu Đoàn 36 BĐQ đi với Thiết Đoàn 18 KB, thành phần nòng cốt của Chiến Đoàn 318 do Trung Tá Phan Văn Sĩ chỉ huy;

- 1 Đại Đội Bộ binh thuộc Tiểu Đoàn 1/43 (Sư Đoàn 18 BB) đi với Thiết Đoàn 22 Chiến xa, thành phần nòng cốt của Chiến Đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy;

- Thiết Đoàn 10 KB (Sư Đoàn 25 BB) + Tiểu Đoàn 1/43 BB (-) (Sư Đoàn 18 BB) + 1 Chi đội Chiến xa M48 thuộc Thiết Đoàn 22 Chiến xa do Trung Tá Trần Văn Nhuận chỉ huy;

- Tiểu Đoàn 61 Pháo Binh 105 ly + 1 Pháo đội 155 ly thuộc Tiểu Đoàn 46 Pháo Binh do Thiếu Tá Hoa Vạn Thọ chỉ huy;

- Tiểu Đoàn 302 thuộc Liên Đoàn 30 Công binh do Thiếu Tá L?m Hồng Sơn chỉ huy; một Trung đội Điện tử (Quân Đoàn) do Thiếu Tá Hiển, Trưởng phòng 2 Lữ Đoàn kiểm soát;

- 1 Trung đội Truyền Tin Siêu tần số (Quân Đoàn) do Trung Úy Bùi Đình Lộ Trưởng phòng Truyền tin Lữ Đoàn giám sát;

- 1 Đại Đội yểm trợ Tiếp Vận thuộc Bộ chỉ huy 3 Tiếp vận do thượng sĩ Nhất Phan Thanh Nhàn (Quân cụ) chỉ huy.

Ngoài ra Trung Tướng còn ra lệnh cho 3 tư lệnh Sư Đoàn Bộ Bbinh cho tôi mượn 6 giàn hỏa tiễn chống xe tăng TOW để phân phối cho mỗi Chiến Đoàn Thiết Giáp vượt biên 2 giàn hỏa tiễn TOW gắn trên xe Thiết vận xa M113 đề phòng trường hợp có chiến xa T 54 của địch xuất hiện trên chiến trường Campuchia.

Trước khi kết thúc buổi họp, Trung Tướng tư lệnh Quân Đoàn chúc tôi thành công trong nhiệm vụ giao phó. Tôi đứng lên đáp lời cám ơn Trung Tướng. Lúc đó trong lòng tôi có một sự tin tưởng mãnh liệt vào chiến thắng của cuộc hành quân này, nên tự nhiên tôi buột miệng thốt ra:

- Thưa Trung Tướng, chúng tôi sẽ đánh bại Sư Đoàn 5 Cộng Sản!

Trên đường về Lữ Đoàn, tôi giật mình khi nghĩ lại những lời mình vừa nói. Tại sao tôi dám liều lĩnh khẳng định trước hội nghị là sẽ đánh bại Sư Đoàn 5 Cộng Sản? Mặc dù tôi có trong tay LLXKQĐIII là một lực lượng chiến đấu tinh nhuệ chưa từng bị thất trận và mặc dù tôi đã nắm chặt trong tay những yếu tố có tính cách quyết định thắng lợi, nhưng vẫn còn 2 yếu tố khác ngoài tầm tay của tôi có thể làm tôi bị thất bại trong cuộc hành quân này. Đó là thời tiết và kế hoạch hành quân bị bại lộ. Thật vậy, nếu đến ngày N là ngày xuất quân trời đổ mưa trong vùng hành quân, địa thế trở nên lầy lội, tôi sẽ không thể điều động lực lượng Thiết Giáp như ý muốn được, hoặc kế hoạch hành quân của tôi được trình lên phủ Tổng Thống để xin quyết định, nếu bị tiết lộ ra ngoài, chắc chắn sẽ đưa tôi đến thảm bại. Cứ nghĩ đến 2 yếu tố này là tôi không ăn ngủ được. Tôi thấy hối tiếc đã thốt ra những lời khẳng định trước là sẽ đánh thắng quân địch. Lời khẳng định này cứ ám ảnh tôi ngày đêm. Cuối cùng tôi tự nhủ: phải giữ đúng lời hứa; bằng mọi cách, mọi giá, phải đánh thắng Sư Đoàn 5 Cộng Sản.

Ngày 22-4-1974, tôi ra lệnh cho toàn bộ LLXKQĐIII đang hành quân thám sát trong Chi Khu Khiêm Hanh thuộc tỉnh Tây Ninh rút quân về đóng ở Khu Còmi thuộc quận Lái Thiêu tỉnh Bình Dương (Thủ Đầu Một). Tôi cho phao tin là LLXKQĐIII sẽ di chuyển qua Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh. Mục đích của cuộc rút quân này là để đánh lừa địch, làm cho chúng tưởng là quân Thiết Giáp sẽ rút đi luôn không trở lại. Tôi cho trung đội điện tử thường xuyên nghe lén và theo dõi địch trao đổi tin tức với nhau. Khi LLXKQĐIII vừa rút đi khỏi Gò Dầu Hạ về Lái Thiêu thì đài tình báo của địch ở An Hòa Gò Dầu lên tiếng báo cáo:

"Quân Thiết Giáp đã rút đi". Tôi biết chắc là chúng đã bị mắc lừa.

Từ ngày 22-4-74 đến ngày 28-4-74, trong 6 ngày này đóng quân ở Khu Còmi quận Lái Thiêu, các Chiến Đoàn 315, 318 và 322 theo lệnh tôi ra sức ôn tập hợp đồng tác chiến giữa Thiết Giáp - Biệt Động Quân - Pháo Binh từ cấp Trung đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn, Chiến Đoàn thật nhuần nhuyễn. Riêng tôi trong 6 ngày đó, tôi tích cực không ngừng làm công tác tư tưởng. Karl Max nói: "Nếu tư tưởng được đả thông, mọi người đều giác ngộ thì sức mạnh vật chất sẽ tăng lên gấp đôi." Kinh nghiệm chiến trường cho tôi thấy tinh thần hăng say làm tăng sức mạnh của đơn vị lên gấp bội. Khơi dậy được sự chiến đấu của toàn quân là yếu tố số một của thắng lợi. Tôi lần lượt đi xuống họp với các cấp chỉ huy Trung đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn của các binh chủng và với các Chiến Đoàn trưởng, nói rõ tình hình của ta và địch, nói rõ nhiệm vụ và cách đánh của LLXKQĐIII để mọi người đều thông suốt và tin tưởng sự tất thắng của chúng ta. Tôi thuyết phục họ tin ở sự chỉ huy của tôi và nói rõ sự quyết tâm của tôi là phải chiến thắng bằng mọi giá. Tôi thúc đẩy họ, tôi nói đến tình đồng đội: Chúng ta không thể bỏ rơi đồng đội của mình đang bị địch bao vây và mong chờ chúng ta đến cứu họ. Tôi nhắc đến những chiến thắng vẻ vang năm xưa thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí:

- Chúng ta đã từng gặp nhiều trận khó khăn gây cấn hơn trận này, chúng ta đều chiến thắng, đều vượt qua.

Mỗi lần nói chuyện với các sĩ quan thuộc cấp tôi đều kết luận:

- Kỳ này nhất định phải chiến thắng, tôi sẽ cùng đi với các anh, kỳ này nếu thất bại thì tất cả chúng ta kể cả tôi, sẽ không một ai trở về Việt Nam.

Ý của tôi, quyết tâm của tôi đã rõ ràng: một là chiến thắng trở về, hai là chết trên đất Miên. Không có con đường nào khác.

4. Veni, Vidi, Vici
...


(1) Ngày N đã đến. Đó là ngày 28-4-1974. Chiều ngày 28-4-1974, Công Binh đã sẵn sàng; Thiếu Tá Lâm Hồng Sơn, Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 302 CB, theo lệnh tôi đã kín đáo cho bố trí từ chiều tối ngày hôm trước ở hai bên bờ sông Gò Dầu Hạ, gần cầu, các phà cao su để đưa chiến xa M48 qua sông. Lúc 20:00 giờ, tôi cải trang đích thân đến tận 2 bờ sông Gò Dầu Hạ kiểm tra Công Bbinh làm công tác chuẩn bị cho chiến xa vượt sông.

Đúng 22:00 giờ đêm, toàn bộ LLXKQĐIII gồm 3 Chiến Đoàn 315, 318 và 322 cùng Bộ Chỉ huy nhẹ Lữ Đoàn và Pháo Binh Lữ Đoàn bắt đầu rời vùng tập trung ở Lái Thiêu (Thủ Đầu Một) di chuyển bằng đèn mắt mèo và im lặng truyền tin trực chỉ Gò Dầu Hạ.

(2) Ngày 29-4-1974, lúc 00:00 giờ, các chiến xa M48 bắt đầu xuống phà qua sông Gò Dầu Hạ. Các loại xe xích khác và xe chạy bánh qua cầu Gò Dầu Hạ theo Quốc lộ 1 trực chỉ ra hướng biên giới Việt Miên.

Từ 01:00 giờ sáng đếnn 03:00 giờ sáng, các Chiến Đoàn, Bộ Chỉ huy nhẹ Lữ Đoàn và Pháo Binh Lữ Đoàn lần lượt vượt biên sang lãnh thổ Campuchia và vào vùng tập trung nằm sâu trong đất Miên về hướng Đông Nam thị trấn Chipu (Xem hình 2 và 3).

Đến 03:15 giờ, tất cả các đơn vị đã bố trí xong, trong vùng tập trung, sẵn sàng chờ lệnh xuất phát. Trung đội điện tử theo dõi nghe địch, không thấy chỉ dấu gì chúng nghi ngờ.

Đúng 03:30 giờ, tôi ra lệnh cho hai Chiến Đoàn 315 và 318 vượt tuyến xuất phát, tấn công song song tiến xuống phía Nam, Chiến Đoàn 315 bên phải, Chiến Đoàn 318 bên trái, Bộ Chỉ huy của tôi theo sau Chiến Đoàn 315; Chiến Đoàn 322 trừ bị, bố trí phía Nam Quốc lộ 1 chờ lệnh (Xem hình 3).

Đúng 04:30 giờ, Pháo Binh Lữ Đoàn bắt đầu khai hỏa, tác xạ đồng loạt tập trung vào các mục tiêu của địch nằm phía Tây Căn Cứ Đức Huệ, đồng thời Thiết Đoàn 10 Kỵ Binh và Tiểu Đoàn 1/43 BB(-) vượt tuyến xuất phát mở đường từ căn cứ Phước Chỉ xuống Căn Cứ Đức Huệ. (Xem hình 3).

Đến 05:00 giờ sáng ngày 29-4-74, các cánh quân của Chiến Đoàn 315 và 318 báo cáo chạm địch. Quân ta liền điều động bao vây, chia cắt, tấn công liên tục. Quân địch bị đánh bất ngờ tháo chạy, quân ta truy đuổi chặn bắt. Các Bộ Chỉ huy Trung đoàn, Sư Đoàn, Bộ Chỉ huy Hậu cần và các căn cứ Pháo Binh của quân địch bị quân ta tràn ngập và lần lượt bị quyét sạch. Nhiều dàn pháo các loại 4 ống, 8 ống và 12 ống, và hàng ngàn hỏa tiễn 107 ly và 122 ly bị quân ta tịch thu và tiêu hủy tại chỗ . Đặc biệt hơn cả có hơn 30 hỏa tiễn chống xe tăng AT 3 của Liên Xô nằm trên giàn phóng, chưa kịp khai hỏa bị quân ta chiếm đoạt.

Đến 08:00 giờ sáng, Không Quân Chiến Thuật lên vùng; Đại Tá Trần Văn Thoàn, tư lệnh phó Lữ Đoàn bay trực thăng chỉ huy, điều khiển Không Lực liên tục oanh kích và oanh tạc địch từ sáng đến chiều tối. Đến 19:00 giờ ngày 29 4 74, đại quân của Sư Đoàn 5 CS bị đánh tan rã rút chạy về hướng Mộc Hóa thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Tôi liền tung cả ba Chiến Đoàn đồng loạt truy đuổi địch và cho Không Quân Chiến Thuật tập trung truy kích chúng sâu trong lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật. Hàng ngàn quân địch bị giết và bị thương và hàng trăm tên bị quân ta bắt sống.

(3) Sáng ngày 30-4-74, các đơn vị địch còn kẹt lại chung quanh Căn Cứ Đức Huệ chống trả yếu ớt, lần lượt bị quân ta tiêu diệt gần hết. Đến trưa, một cánh quân của Thiết Đoàn 10 đã bắt tay được với Biệt Động Quân trong Căn Cứ Đức Huệ và đến chiều toàn bộ Sư Đoàn 5 CS hoàn toàn bị quân ta quét sạch.

Bộ Chỉ huy của tôi nằm sâu trong lãnh thổ Campuchia về phía Đông Nam Chipu trong một làng nhỏ hoang vắng. Tin chiến thắng làm nức lòng mọi người. Màn đêm xuống, tiếng súng im bặt. Đêm hôm đó thật êm ả, trời trong vắt, đầy sao, lòng tôi tràn ngập một niềm sung sướng khó tả. Có lẽ đây là một đêm đẹp nhất trong đời tôi. Tôi đã khẳng định trước với Quân Đoàn là chúng tôi sẽ đánh bại Sư Đoàn 5 CS và bây giờ chúng tôi đã đánh bại chúng. Tôi đã nói trước khi xuất quân với thuộc cấp là nếu thất bại thì sẽ không một ai được trở về Việt Nam và bây giờ chúng tôi đã chiến thắng có thể trở về. Đối với tôi cũng giống như một canh bạc mà tôi đã lấy mạng sống của tôi ra đánh và bây giờ tôi đã thắng. Cho tới ngày hôm đó trong đời tôi, thật không có một niềm hạnh phúc nào lớn hơn được.

Chưa bao giờ trong lịch sử của hai cuộc chiến tranh Việt Nam có một trận vận động chiến nào mà quân ta hoặc quân Đồng Minh đã chiến thắng một đại đơn vị CS nhanh chóng như thế, triệt để như thế. Tôi chợt nhớ đến cung cách và những lời của Julius Ceasar trong chiến dịch thần tốc ở Zela vùng Tiểu Á báo cáo chiến thắng về La Mã "Veni, Vidi, Vici : "Tôi đến, Tôi thấy, Tôi chiến thắng", tôi liền lấy một mẫu giấy nhỏ, tự tay thảo ngay bức công điện ngắn báo cáo chiến thắng về Bộ Tư lệnh Quân Đoàn III.

    Trân trọng báo cáo:

    - Ngày 28-4-74: Xuất quân

    - Ngày 29-4-74: Phản công

    - Ngày 30-4-74: Tiêu diệt địch

    - Ngày 1-5-74: Hoàn thành nhiệm vụ.


(4) Ngày 2-5-1974, tại Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Lữ Đoàn ở Gò Dầu Hạ, phóng viên đài VOA phỏng vấn hỏi tôi:

- Có phải Thiếu Tướng đã đưa quân sang lãnh thổ Campuchia không?

Tôi liền đáp ngay:

- Không, tôi hành quân dọc theo biên giới trong lãnh thổ của Việt Nam. Chính Cộng Sản Việt Nam mới có quân trên lãnh thổ Campuchia.

Tối đến, đài VOA và đài BBC loan tin chiến thắng của Quân Lc ta ở Căn Cứ Đức Huệ. Riêng đài BBC nói thêm:

- Tướng Trần Quang Khôi nói không có đưa quân sang lãnh thổ Campuchia, nhưng theo tin tức của chúng tôi nhận được thì Quân lực VNCH có truy đuổi quân Cộng Sản Bắc Việt trên lãnh thổ Campuchia.
...


(5) Ngày 3-5-1974, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đi trực thăng đến Gò Dầu Hạ thị sát chiến trường. Trung Tướng Phạm Quốc Thuần và tôi tiếp đón Tổng Thống. Ông vui vẻ bắt tay chúng tôi rồi đi đến xem chiến lợi phẩm tịch thu của quân địch: Rất nhiều vũ khí cộng đồng các loại. Nổi bật là các giàn phóng hỏa tiễn 4 ống, 8 ống và 12 ống cùng hàng trăm hỏa tiễn 107 và 122 ly. Đặc biệt hơn cả là hơn 30 hỏa tiễn AT-3, loại mới nhất của Liên Sô có hệ thống điều khiển chống tăng, lần đầu tiên bị quân ta tịch thu trên chiến trường miền Nam. Các tùy viên quân sự Tây phương mỗi người xin một quả nói để đem về nước nghiên cứu. Nhìn số vũ khí khổng lồ của địch bị quân ta tịch thu mới hiểu được sự tàn phá khủng khiếp trong Căn Cứ Đức Huệ và sự chiến đấu anh hùng của Tiểu Đoàn 83 BĐQ. Tiếp đến, Tổng Thống đi thăm Bộ Tham Mưu Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và các đơn vị trưởng của các binh chủng trong tổ chức LLXKQĐIII, ông bắt tay khen ngợi từng người và gắn cấp bậc Đại Tá cho Trung Tá Thiết Giáp Dư Ngọc Thanh, Chiến Đoàn trưởng Chiến Đoàn 315. Sau đó Tổng Thống lên trực thăng chỉ huy của tôi cùng tôi bay đến Đức Huệ. Các trực thăng của Trung Tướng Phạm Quốc Thuần và phái đoàn Phủ Tổng Thống bay theo sau.

Trên đường bay, Tổng Thống bắt chuyện với tôi:

- Tôi rất thích tính táo bạo liều lĩnh trong kế hoạch hành quân của anh.

- Thưa Tổng Thống, đây là sự liều lĩnh có tính toán. Tôi đáp lại.

Thấy Tổng Thống vui vẻ, sự hân hoan hiện trên nét mặt, tôi nói đùa một câu tiếng Pháp với Tổng Thống: La chance sourit toujours aux audacieux. (Sự may mắn luôn luôn "cười" với những kẻ liều lĩnh).

Ông gật gù cười có vẻ đắc ý lắm.
...


Trực thăng đáp xuống Căn Cứ Đức Huệ. Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 83 BĐQ và Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 64 BĐQ hân hoan tiếp đón Tổng Thống. Ông đi bộ một vòng viếng thăm, ủy lạo và ban thưởng. Doanh trại trong căn cứ bị Pháo Binh địch tàn phá đổ sập gần hết, nhưng sự hãnh diện giữ vững được đồn hiện ra trong đôi mắt của mỗi chiến sĩ BĐQ.
...


Một chuẩn úy BĐQ còn rất trẻ đi đến tôi, đứng nghiêm chào, rồi thình lình anh bước tới gần tôi, hai tay nắm chặt lấy tay tôi bật khóc và nói:

- Cám ơn Thiếu tướng đã cứu mạng chúng em.

Tôi cảm động ôn tồn đáp lại:

- Chính anh phải cám ơn các em mới đúng. Sự chiến đấu vô cùng dũng cảm của các em là một tấm gương sáng chói, là niềm hãnh diện chung của Quân lực chúng ta. Chúng em mới thật sự là những anh hùng của Quân đội mà mọi người Việt Nam Tự do phải mang ơn các em.

(6) Một tuần sau tôi nhận được một thư của DAO (Defense Attaché Office) trong đó tướng Homer Smith chuyển lời khen ngợi của đại sứ Graham Martin đến tôi: Đây là lần đầu tiên kể từ khi ký kết Hòa Đàm Paris, một kế hoạch hành quân được thiết kế tuyệt hảo và được thực hiện tuyệt hảo(1).

Hai tuần sau, tôi nhận được một thư của Đại Tá Raymond Battreall nguyên Cố Vấn Trưởng của Bộ Chỉ huy Thiết Giáp Binh QLVNCH. Battreall cho rằng đây là một chiến thắng ngoạn mục và xuất sắc nhất trong Chiến tranh Việt Nam. Cuối thư ông viết bằng chữ Việt Nam: Kỵ Binh Việt Nam Muôn Năm.

5. Kết luận :

...


Đúng một năm sau, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân Đoàn 4 CSBV do Thượng tướng Hoàng Cầm chỉ huy đã thất bại trong kế hoạch đánh chiếm tỉnh Biên Hòa, và Sư Đoàn 341 CSBV bị LLXKQĐIII đánh bại ở Biên Hòa buộc phải rút đi sau khi chịu nhiều tổn thất to lớn (2).

Ngay sau đó, LLXKQĐIII kéo quân về tiếp cứu Thủ Đô Sài Gòn thì được lệnh buông vũ khí đầu hàng lúc 10:25 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ai là người chịu trách nhiệm làm mất MNVN? Ai là thủ phạm đưa QLVNCH đến chỗ thua trận?

Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh kể từ ngày thành lập 7-11-1970 đến ngày 30-4-1975 do tôi chỉ huy, luôn luôn chiến thắng hết trận này đến trận khác cho đến phút chót. Không một ai trong chúng tôi lùi bước trước quân thù. Không một ai trong chúng tôi bỏ trốn ra nước ngoài. Tất cả ở tại hàng và chấp nhận định mệnh không than van kêu khóc.

Trong tác phẩm Servitude et Grandeur Militaires, thi sĩ Pháp Alfred De Vigny (1810 1857) nói "Danh Dự và Trách Nhiệm đôi khi kết thúc một cách bi thảm. Cho nên, đứng trước một định mệnh tàn khốc, con người phải biết thân phận của mình mà chấp nhận nó một cách can đảm".

Tháng Giêng 2009
Trần Quang Khôi

Ghi chú

(1) GEN Homer Smith wrote: "On behalf of the Honorable Graham Martin, the Ambassador of the United States and myself, I wish to express our felicitations upon the brilliant success of your recent operation.
This was the first time since the Paris Peace Agreement, a plan of operation has been so well planned and so well executed…"

(2) Xin đọc:

    - "Danh Dự và Tổ Quốc", 1995, CT Trần Quang Khôi "Fighting to the Finish", BG Tran Quang Khoi, p.19 25, ARMOR, March April 1996.

    - Hồi Ký "Chặng Đường Mười Nghìn Ngày”, Thượng Tướng Hoàng Cầm.



Lời giới thiệu tác giả :

    * TRẦN QUANG KHÔI xuất thân từ khóa 6 TVBQG Đà Lạt 1952 .

    * Tốt nghiệp:
    - Trường KỵBinh SAUMUR, Pháp 1955.
    - Trường Thiết Giáp Lục Quân Hoa Kỳ FORT KNOX, Kentucky 1959.
    - Trường Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Lục Quân Hoa Kỳ FORT LEAVENWORTH, Kansas 1973.

    * Cấp bậc và chức vụ sau cùng: Chuẩn Tướng, tư lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh thuộc Quân Đoàn III/QLVNCH.

    * Sau chiến tranh Việt Nam, tướng Khôi bị tù Cộng Sản 17 năm.

    * Định cư tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ năm 1993.

    * Tốt nghiệp Trường Đại Học George Mason University, Hoa Kỳ với cấp bằng MA Văn Chương Pháp 1998.
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #7 - 19. Feb 2009 , 17:05
 
Video:
Trận Khe Sanh
      


...


Chiến tranh tại vùng địa đầu giới tuyến này thường rất nặng. Bắc quân luôn luôn chủ động chiến trường và cũng như trận Hạ Lào đầu năm 1971 Họ nắm ưu thế tuyệt đối về pháo binh.  Các khẩu pháo 130 ly,152 ly, hoả tiễn 122 ly... đặt từ Bắc Vĩ tuyến và các loại sơn pháo 75 ly, cối 82ly... tại chiến trường do hướng dẫn của những toán đề-lô đã bắn rất chính xác vào những nơi đồn trú đóng quân cố định của Mỹ và VNCH.
Trích:
...dù sao... Điện Biên Phủ thứ hai này đụng phải hỏa lực vô tận của Mỹ!!
-- Khe Sanh được giữ vững, quả thật do những thảm bom B52 trải dữ dội ngày đêm chung quanh
vòng đai căn cứ, trên đầu các vòng vây của quân CSBV!!
Chiến tranh tại vùng địa đầu giới tuyến này thường rất nặng. Bắc quân luôn luôn chủ động chiến
trường và cũng như trận Hạ Lào đầu năm 1971 Họ nắm ưu thế tuyệt đối về pháo binh.
Các khẩu pháo 130 ly,152 ly, hoả tiễn 122 ly... đặt từ Bắc Vĩ tuyến và các loại sơn pháo 75 ly,
cối 82ly... tại chiến trường do hướng dẫn của những toán đề-lô đã bắn rất chính xác vào những
nơi đồn trú đóng quân cố định của Mỹ và VNCH.

Lợi dụng ưu thế này, Bắc quân đã thực hiện thường xuyên nhiều trận địa pháo chiến! Thiệt hại chính
của Bắc quân là do B52, tương tự thiệt hại về phía đồng minh và VNCH do pháo binh của CS!

Có lẽ để cho danh chính ngôn thuận, HK đã yêu cầu VN tăng phái cho họ TĐ37 BĐQ do đại úy
Hồ Hạc làm TĐTrưởng ( sau đó TĐTr. là đại uý  Vũ Thược, mãi đến năm 1970 Thiếu Tá Trần văn
Nghênh mới về làm TĐTr.) Cũng như khi đại tướng Wesmoreland thị sát Khe Sanh, nếu để ý  khi phái
đoàn xuống trực thăng người ta sẽ thoáng thấy khuôn mặt của  tướng "mặt trăng" HXL tháp tùng!
Sau trận này, các BĐQ được TT HK tưởng thưởng huy chương  Nixon! Tuy TQLC HK đã giữ được
điểm chiến lược Khe Sanh nhưng vì tổn thất  do áp lực nặng nề nên cũng phải bỏ...         
Chú thích: địa danh Khe Sanh có thể bắt nguồn từ một thác nước xanh  từ trên núi cao đổ xuống tạo
thành một giòng suối lớn chảy xuyên qua  thung lũng này(!) Cảnh vật nơi đây rất đẹp, cỏ cây chen
đá lá chen  hoa, đất đai phì nhiêu mầu mỡ... Dấu vết nền móng, cột gạch các  villa đồn điền  Pháp
vẫn còn hiện hữu...
    Đây là một nhận xét hoàn toàn cá nhân của một quân nhân từng có mặt  tại KS, HL và 37BĐQ!!
Mời quý vị coi video Trận Đánh Khe Sanh do Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thực hiện:



In retrospect The battle of Khe sanh.                  
   *_TheBattleOfKheSanh__**1*   
<http://www.youtube.com/v/08p_B_n0-1U&hl=en&fs=1>;
   *http://www.youtube.com/v/08p_B_n0-1U&hl=en&fs=1* ;  
<http://www.youtube.com/v/08p_B_n0-1U&hl=en&fs=1>;
    _TheBattleOfKheSanh_**_2*  *   
<http://www.youtube.com/v/xn0cKflBW0s&hl=en&fs=1>;
   *http://www.youtube.com/v/xn0cKflBW0s&hl=en&fs=1* ;  
<http://www.youtube.com/v/xn0cKflBW0s&hl=en&fs=1>;
       *_TheBattleOfKheSanh_**_3*    
<http://www.youtube.com/v/9Lz6DtaZeDU&hl=en&fs=1> ;  
*http://www.youtube.com/v/9Lz6DtaZeDU&hl=en&fs=1* ;  
<http://www.youtube.com/v/9Lz6DtaZeDU&hl=en&fs=1>;


Bài do niên trưởng Nguyễn Hữu Hùng chuyển



Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4029
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #8 - 02. Oct 2009 , 17:37
 
Một câu chuyện cảm động




Để câu truyện thêm rõ ràng, tưởng cũng cần nói thêm là mấy lúc sau nầy, trong mục đích cạnh tranh giảm tiền vé tối đa, các hảng hàng không không còn serve thức ăn trên tàu cho hành khách economy class ( trừ business class hay first class và những chuyến oversea long haul) mà thay vào đó chỉ bán sandwich, snack dưới hình thức BOB (buy on board) những bao đồ ăn trưa.




NHỮNG NGƯỜI LÍNH




Tôi đặt hành lý vào hộc ở trên đầu  rồi ngồi xuống ghế. Đây là chuyến bay dài làm tôi ước gì mình có một quyển sách hay để đọc trên phi trình. Có lẽ tôi cũng cần chợp mắt một chút.
Vừa lúc trước khi máy bay cất cánh, một nhóm 10 người lính trẻ men theo lối đi và ngồi hết vào các chỗ trống rải rác còn lại. Chẳng có gì để làm, tôi bắt đầu gợi chuyện người lính ngồi gần  nhất:
- Các cậu đi tới đâu vậy?
- Petawawa. Chúng tôi sẽ ở đó hai tuần để thụ huấn một chương trình huấn luyện đặc biệt rồi sau đó sẽ bổ sung tới A Phú Hản.
Sau khi máy bay cất cánh độ một tiếng thì tiếng loa thông báo là trên máy bay có bán thức ăn nhẹ đựng trong bao giá 5 mỹ kim.
Cũng còn lâu lắm chuyến bay mới tới phía Đông nên tôi quyết định mua một bao đồ ăn để vừa ăn vừa giết thì giờ.. Khi tôi móc bóp lấy tiền thì chợt nghe một người lính hỏi bạn mình là có muốn mua thức ăn không.
- Không! Có vẻ như mắc quá đó.. Bao lunch gì mà tới 5$.
Thôi tao ráng đợi tới căn cứ hẳn hay.      
Và anh lính trẻ gật gù đồng ý với bạn.
Tôi đảo mắt nhìn chung quanh thì thấy mấy người lính khác cũng không có ý định mua gì cả mặc dù lúc đó cũng đã tới giờ ăn trưa rồi. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, tôi gọi người nữ tiếp viên tới đưa cho bà ta 50$ và nói:
- Xin  bà vui lòng lấy thức ăn cho những người lính nầy.      
Người tiếp viên ngạc nhiên nắm chặt lấy tay tôi, qua đôi mắt long lanh ngấn lệ vì xúc động, bà ngõ lới cám ơn tôi và nghẹn ngào:
- Con trai tôi cũng là một quân nhân đang chiến đấu tại Iraq . Nghĩa cử nầy của ông như đang dành cho nó vậy.  Rồi bà xăng xái đi lấy 10 bịch đồ ăn trao cho tất cả các người lính trên tàu. Sau đó bà dừng lại chỗ tôi hỏi:
- Thưa ông dùng gì ạ?  Bò, gà rất hảo hạng.
-  Xin cho tôi gà
Tôi trả lời bà ta trong một thoáng ngạc nhiên vì theo tôi biết hạng economy bây giờ chỉ có BOB  thôi mà.
Người nữ tiếp viên đi về phía trước của máy bay độ một phút sau trở lại với nguyên khay thức ăn nóng hổi dành cho hành khách vé hạng nhất, bà trịnh trọng nói với tôi:
- Đây là tấm lòng tri ân nho nhỏ của những người trên chuyến bay nầy đối với  ông
Sau khi ăn xong với tâm trạng sảng khoái nhẹ nhàng, tôi bước tới phòng vệ sinh ở phía sau cùng. Trên đường đi, một người đàn ông thình lình đứng lên chận tôi lại nói:
- Tôi rất cảm phục việc ông làm, xin ông cho tôi được chia phần mà vui lòng nhận cho.
Nói xong, ông ta dúi vào tay tôi 25 mỹ kim.
Sau đó không lâu, viên phi công trưởng rời buồng lái vừa đi vừa nhìn số ghế ghi trên hộc hành lý, linh cảm khiến tôi thầm mong ông ta đừng kiếm tôi nhưng Chúa ơi! Ông ta dừng lại ngay hàng ghế của tôi rồi cười thật tươi và chìa tay ra nói:
- Tôi muốn được bắt tay ông
Cực chẳng đã, tôi mở dây an toàn đứng dậy bắt tay viên phi công trưởng.
Với giọng hân hoan, ông ta nói lớn như để mọi người cùng nghe:
- Tôi cũng đã từng là một quân nhân và cũng là phi công chiến đấu. Có một lần có người cũng mua cho tôi thức ăn. Điều đó thực sự thể hiện cả một tấm lòng tốt đẹp mà tôi không bao giờ quên.
Cả một tràng pháo tay tán thưởng vang dội làm tôi đỏ bừng mặt vì mắc cở.
Chỉ với một hành động nhỏ nhặt tầm thường của tôi mà đánh động lương tâm con người đến thế sao?
Vì chuyến bay quá dài nên có một lúc, tôi phải đi bộ về phía trước để rản gân cốt thì bỗng nhiên có một nam hành khách ngồi trên tôi độ sáu dãy đưa tay ra bắt và để lại trong tay tôi cũng 25 mỹ kim.
Bầu không khí trên chuyến bay thật nhẹ nhàng và chan hoà tình người cho tới khi máy bay hạ cánh. Tôi lấy hành lý và bắt đầu bước ra khi vừa tới cửa máy bay thì một người đàn ông chận tôi lại và nhét nhanh vào túi áo tôi một thứ gì đó xong ông ta vội vả bước đi mà không nói một lời. Lại thêm 25$ nữa.
Nếu tính ra, tôi chỉ chi có 50$ mà bây giờ thu lại tới 75$. Kiếm được 25$ dễ dàng đến thế sao! À ! Quên! Còn bữa ăn thiệt ngon miệng nữa chứ.
Đúng là khi ta làm phải thì không bao giờ lỗ lã cả.
Tôi vui vẻ bước nhanh vào cửa phi trường thì thấy mấy người lính trẻ kiểm điểm nhân số để chuẩn bị về căn cứ. Tôi  tiến tới trao cho họ 75 mỹ kim và nói:
-  Từ phi trường về tới trại phải khá xa. Mà bây giờ cũng đã tới giờ để dằn bụng một cái sandwich chứ. Chúa sẽ ban ơn cho các cậu.
Mười người lính trẻ trong ngày hôm đó chắc đã rời chuyến bay trong tâm trạng yêu thương và kính mến những hành khách đồng hành. Tôi hăng hái bước tới xe với lời thì thầm nguyện cầu cho tất cả sẽ được trở về trong an bình.
Những chàng trai nầy đã hy sinh tất cả cho quê hương mà tôi chỉ biếu họ có một vài phần ăn. Thật là quá ít ỏi nếu không muốn nói là chỉ trong muôn một.   
Nghĩ xa hơn nữa, người cựu chiến binh đã từng đánh đổi cả cuộc đời khi viết lên chi phiếu trắng đề tên người nhận là “Hiệp Chủng Quốc” mà số tiền có thể lên đến chính sinh mạng của họ.
Đó là một vinh dự tối cao lẽ ra cả đất nước phải dành cho họ nhưng than ôi! Có nhiều người đã không cần biết tới và bỏ quên họ.
Xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho bạn chuyển tiếp câu chuyện nầy tới bạn bè quen biết.
Riêng tôi thì đã làm xong.

Toronto Sept 4,2009
Nguyên Trần








__._,_.___

.

__,_._,___



Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4029
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #9 - 11. Nov 2009 , 14:23
 
 
Trung Tá VÕ PHI SƠN



...

Ba mươi lăm năm sau ngày Quốc Hận 30-4-1975….Có ai ngờ những em bé ngày nào bám chéo áo mẹ, hốt hoảng và ngơ ngác trước cơn bão táp đen tối đang ập vào miền Nam thân yêu, nay đang trưởng thành trên quê người với nhiều thành tích đáng nể.

Gần như mỗi ngày, mỗi tháng, chúng ta đều nghe đến một vài tên tuổi mà sự thành đạt của họ trên các lãnh vực đã làm cho gia đình và cộng đồng hãnh diện. Họ đã làm cho người bản xứ thay đổi cách nhìn về người tị nạn VN. Và cũng chính họ, sẽ đánh bật hình ảnh của những kẻ phản bội Brian Đoàn, Ysa Le, Trâm Lê…

Các em xứng đáng là tương lai Việt Nam. Nhất là các em mà trong lòng luôn ấp ủ hình ảnh quê hương quá lá Quốc Kỳ màu vàng ba sọc đỏ, các em biết nói lời biết ơn với sự hy sinh của các thế hệ cha anh.


Hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu một hậu duệ của Quân lực VNCH. Đó là tân Trung tá Võ Phi Sơn ở Miami, Florida.

Võ Phi Sơn vừa được vinh thăng Trung Tá vào ngày 1 tháng 3 năm nay 2009 và đang đảm trách việc cố vấn, huấn luyện cho một nước Ả Rập.


Là con của cựu Trung tá Phi công Võ Phi Hổ, khóa 17 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Sơn cùng gia đình may mắn thoát được khỏi Việt Nam vào những ngày tang thương cuối tháng 4 năm 1975. Sơn đến Hoa Kỳ khi mới lên 5 tuổi, hoàn toàn bở ngỡ trước cuộc sống mới xa lạ. Trung tá Hổ đã may mắn đoàn tụ gia đình tại đảo Guam, và được đưa về định cư tại Miami, Florida từ cuối tháng 5, 1975.


Nhờ truyền thống gia đình và theo gương bố, là một hoa tiêu khu trục phản lực lỗi lạc của Phi Đoàn 534 thuộc Không Đoàn 92 Chiến Thuật ở Phan Rang, Sơn và các bốn anh chị em lớn lên, học hành thành đạt nơi quê hương mới.


Từ lớp 9, Sơn đã giữ vai trò Chủ tịch của National Honor Society và Science Society tại trường Trung Học. Năm 1985, Sơn đỗ thủ khoa tại W.R. Thomas Junior High với nhiều giải thưởng lớn của liên bang như: Award of Honor do The National Leadership Organization trao tặng; The American Legion School Award do The American Legion trao tặng.


Tiếp theo những năm chót trung học, việc học của Sơn thăng tiến mạnh hơn. Sơn còn là một boyscout với các cấp hiệu cao nhất. Sơn đoạt đai nâu Karate khi vừa học xong trung học. Sơn chơi Trumpet rất xuất sắc, đoạt nhiểu giải tại địa phương và cấp tiểu bang Đặc biệt, Sơn cũng là một cầu thủ football giỏi như đoạt các giải Football School Athlete of the Year 1988, giải Outstanding in Football Performance, Academic Achievement and School Leadership. Sơn từng đem giải nhất cho trường về môn chạy bộ.


Ngoài thể lực, Sơn còn giỏi về việc học, nhất là môn toán.


Sơn đã tốt nghiệp Tối Ưu trên tổng số 597 học sinh của lớp 1988; đoạt giải The Best Student of the Year và Outstanding Math Student Award cùng rất nhiều giải khác với nhiều hiện kim.

Noi theo gương bố, Sơn tình nguyện vào quân đội và được các Nghị sĩ giới thiệu theo học trường Võ Bị West Point khoá 92. Khi trả lời phỏng vấn của đài truyền hình và báo chí địa phương, Sơn đã nói đến sự trả ơn của mình cho quê hương đã rộng lòng dung nạp gia đình: “Khi tôi bắt đầu hiểu biết, tôi được nghe nói rằng xứ sở này có nhiều cơ hội cho tài năng phát triển nên tôi đã cố gắng học hành, và nhờ những cơ hội này, tôi đã có ngày nay. Tôi nghĩ đây là lúc tôi có chút cơ hội đền đáp lại.”


Ra trường, Thiếu Úy Võ Phi Sơn lần lượt phục vụ tại nhiều đơn vị như Sư đoàn 2 Thiết Giáp, Sư đoàn 4 Bộ Binh, Sư đoàn 82 Nhảy Dù. Anh lái các phi cơ trực thăng OH-58 AC, Apache tham chiến tại chiến trường Afghanistan. Lần lượt từ cấp Trung đội trưởng, đại đội trưởng, Phụ tá ban 3, Ban 1 cấp Trung đoàn. Hiện Trung tá Võ Phi Sơn là Cố vấn phụ trách huấn luyện Trực thăng cho quân đội các nước Ả Rập đồng minh.


Võ Phi Sơn đã được báo The Miami News giới thiệu với nhiều lời ca ngợi về sự thành công của gia đình nói chung và cá nhân anh nói riêng .


Đặc biệt, tuy hành quân xa xôi, lúc nào Sơn cũng mang theo trong người lá cờ vàng thân yêu của Tổ quốc Việt Nam (xem ảnh). Bên cạnh những người con ưu tú thế hệ 2 như Đại Tá Lữ đoàn trưởng Dù Lương Xuân Việt, Đại Úy Phi công F-18 Elizabeth Phạm, Đại Úy Phi công Michelle Vũ, Nhà văn Minh Trần Huy (Giải văn học Gironde Pháp), Philipp Roesler (Bộ trưởng Kinh Tế Đức),Bomb Lady Duong-nguyet-Anh, Phi hành gia Eugene Trịnh, Trung tá Hạm trưởng Lê Bá Hùng, Võ sĩ Phan Nam,Le Cung, Trung tá Bác sĩ Paul Đoàn (Y sĩ trưởng Đoàn Quân Y Viễn Chinh 379 tại Tây Nam Á)…, Võ Phi Sơn đang làm rạng danh người Việt tại quê người. 


Chúng ta vinh danh các em, các cháu, không chỉ vì những thành tựu rực rỡ, mà chính vì tấm lòng các em, các cháu luôn hướng về cội nguồn; không như những kẻ hợm hĩnh chim chưa đủ lông đủ cánh đã vội vã quay lưng với cha anh và phủ nhận quá khứ.


Chúng tôi chúc mừng Trung tá Võ Phi Sơn. Cầu mong sẽ có ngày nghe đến nhiều vị tướng tài ba mang các họ Việt Nam trong quân đội Hoa Kỳ.



Back to top
« Last Edit: 11. Nov 2009 , 14:43 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Jasmine
Senior Member
****
Offline



Posts: 316
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #10 - 11. Nov 2009 , 19:54
 
Một niềm hãnh diện cho cộng đồng tị nạn Việt Nam:
Nữ Đại úy không quân Elizabeth Pham.
(Source Asia DVD 58 "Những lá thư từ chiến truờng")




Vietnamese Pride - Elizabeth Pham (Vietnamese American)



Lieutenant Elizabeth Pham the 1st ever female 2 flight F18



Elizabeth Pham - Female Pilot F18


Back to top
 

hoahong.gif...hoahong.gif...hoahong.gif
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #11 - 07. Jan 2010 , 20:58
 
Nhìn lại cuộc Đấu tranh kiên cường của Linh mục Nguyễn Văn Lý: "Tự do Tôn giáo hay là Chết".


Nguyễn An Quý,

Hôm nay, mùa Giáng Sinh về và những ngày cuối năm 2009, từ thành phố Seattle nhìn về quê hương đau buồn, nhìn về thân phận người tù nhân lương tâm Linh mục Nguyễn Văn Lý nơi trại giam Nam Hà, mặc dù sức tàn, lực kiệt qua cơn tai biến mạch máu nảo, cũng như qua bao năm tháng bị đọa đày trong chốn lao tù công sản , nhưng người tù nhân lương tâm này vẫn hiên ngang với ý chí kiên cường, và luôn khẳng định rằng: “tôi không phải là phạm nhân, tôi là tù nhân lương tâm”. Xin hãy cùng nhau nhìn lại cuộc đấu tranh kiên cường của người tù nhân lương tâm này.

...


“CHÚNG TÔI CẦN TỰ DO TÔN GIÁO” và “ TỰ DO TÔN GIÁO HAY LÀ CHẾT”, là hai khẩu hiệu được treo ngay tại nhà thờ của Giáo xứ bé nhỏ Nguyệt Biều thuộc Giáo phận Huế vào Mùa Giáng Sinh năm 2000 mà linh mục Thađêô Nguyễn Văn Lý bắt đầu khởi sự cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo tại Việt Nam.
Linh mục Nguyễn Văn Lý, là một tù nhân lương tâm, ngài dấn thân vào cuộc đấu tranh đòi Tự do Tôn giáo, đòi Tự do Dân chủ và Nhân quyền cho Việt Nam một cách ôn hòa, bất bạo động tại Giáo phận Huế. Huế là nơi được xây đắp bởi ngọn lửa đấu tranh từ tinh thần đấu tranh bất khuất của TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền, là vị Giám mục mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công nhận là vị Giám mục anh dũng của Giáo Hội Công giáo Việt Nam. Noi theo tinh thần dấn thân, bất chấp nguy hiểm vì lợi ích con người của vị Chủ Chăn Huế, nên Huế đã có nhóm linh mục không sợ tù tội, không sợ bị trù dập, không an phận trong thiên chức linh mục. Những vị này thường lên tiếng đòi hỏi vì Giáo hội bị mất quyền tự chủ, lên tiếng vì con người bị chà đạp nhân phẩm và mất hết mọi quyền để được sống đúng với phẩm giá con người, đó là Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Xin tóm lược về cuộc đời hoạt động đấu tranh của Lm Nguyễn Văn Lý, là một thành viên của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền.
Linh mục Nguyễn Văn Lý sinh ngày 31-8-1947 thuộc giáo xứ Ba Ngoạt, Phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng trị. Lm Lý vào học tại Tiểu chủng viện Hoan Thiện Huế năm 1963, và vào Đại Chủng viện Xuân Bích Huế năm 1966, thụ phong linh mục ngày 30 tháng 4 năm 1974 qua sự đặt tay của Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài được cử vào Sài Gòn phụ trách Cộng Đoàn Thừa Sai ở Gò vấp từ ngày 17-4-1974 đến hạ tuần tháng 3 năm 1975. Vào những ngày cuối của trung tuần tháng 3 năm 1975, hầu hết người dân Huế vội vã lên đường chạy trốn cộng sản, đoàn người ào ạt nối đuôi nhau di tản từ Huế vào Nam vì có tin thành phố Huế sẽ bị VC tấn công. Từ Sài Gòn linh mục Nguyễn Văn Lý lại tìm mọi cách và dùng nhiều phương tiện lội ngược dòng người đang di tản để về lại Huế theo lời kêu gọi của vị Chủ chăn. Ngày 25-3-1975 Lm Lý có mặt tại Huế, và ngày 26-3-1975, Huế lọt vào tay cộng sản Bắc Việt. Đức TGM Nguyễn Kim Điền bổ nhiệm ngài giữ chức vụ thư ký Toà Giám mục, ngài làm việc tại Toà Giám mục từ ngày 10-4-1975 cho đến ngày 7-9-1977 thì bị bắt. Lý do bị bắt vì tội đã phổ biến 2 bài phát biểu của TGM Nguyễn Kim Điền. Được biết, ngày 15-4- 1977 và ngày 22-4-1977, TGM Nguyễn Kim Điền được Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên mời họp, Ngài đã phát biểu tại các buổi hội nghị này có sự hiện diện của Thượng Tọa Thích Thanh Trí, với lời xác quyết rằng: “không có tự do tôn giáo”, Ngài nhấn mạnh: Có sự phân biệt đối xử đối với người công giáo và nhà nước luôn chủ trương rằng: “Người công giáo là công dân hạng hai “, lời phát biểu có chứng minh rất cụ thể. Lm Nguyễn Văn Lý với sự hợp tác của Lm Hồ Văn Quý đã phổ biến 2 bài phát biểu này khắp nơi và cũng đã tìm cách chuyển ra nước ngoài lúc bấy giờ, nên cha Lý đã bị bắt 7-9-1977. Ngày 24-12-1977 cha Lý được thả ra có lẻ nằm trong thời điểm mà nhà nước csVN đang vận động để xin vào làm thành viên của Liên Hiệp Quốc, ngài bị quản chế tại Nhà Chung cho đến năm 1978. Sau đó, ngài được thuyên chuyển về giáo xứ Đốc Sơ, cách Huế khoảng 5 cây số về hướng Bắc. Tại Đốc Sơ, cha Lý lại bị quản chế từ năm 1981 đến 1983.
Tháng 8 năm 1981, nhân ngày Hành hương La Vang vào dịp lễ Đức Mẹ lên Trời, cha Lý và một số thanh niên giáo dân Đốc Sơ đi hành hương, lúc gần đến Mỹ chánh thì công an chận lại, có cả một số nữ tu và giáo dân đi trên xe hành khách cũng bị mời xuống xe, cha Lý liền yêu cầu đoàn người hành hương quỳ xuống đất, mặt hướng về Thánh địa Lavang để cầu nguyện. Tiếng hát “Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam” vang dội, khiến một số người qua đường, tò mò dừng lại, nên chẳng bao lâu lượng người trên Quốc lộ I càng lúc càng đông. Thấy bất ổn vì xe cộ càng lúc càng nhiều, giao thông bị kẹt, nên công an đành để đoàn hành hương tiếp tục đi La vang.
Nên nhớ rằng, từ khi cộng sản chiếm miền Nam, thì nhà cầm quyền tỉnh Bình Trị Thiên tuyệt đối cấm mọi cuộc Hành hương về Thánh địa La Vang kể cả việc cấm cha Nguyễn Vinh Gioang là cha chánh xứ nơi đây, cũng không được cử hành Thánh lễ tại La Vang. Sau chuyến hành hương về, một số chủng sinh tại giáo xứ Phủ Cam, nhân ngày lễ Bổn mạng của nhóm chủng sinh Hoan Thiện, có trình diễn một hoạt cảnh trong Thánh đường Phủ Cam, mô tả lại cảnh công an chận đoàn hành hương trên Quốc lộ I với đề tài “Dâng con cho Mẹ”. Kết quả công an đã biết được và bắt giam các chủng sinh diễn hoạt cảnh này. Tất cả bị đưa đi lao động khổ sai tại trại tù Bình Điền Huế, trong đó có Lm Phan Văn Lợi.
Qua vụ hành hương này, cha Lý bị răn đe và công an thường xuyên theo dõi nghiêm ngặt. Công an đã nhiều lần ngăn cấm việc cha dạy giáo lý cho các em thanh thiếu niên trong giáo xứ, nhưng cha vẫn thản nhiên thi hành nhiệm vụ của người người mục tử, nên từ sáng sớm ngày 18 tháng 5 năm 1983 công an đã xông vào nhà xứ Đốc Sơ bắt ngài đi biệt tích và sau đó mở phiên xử kết án ngài 10 năm tù ở , 4 năm quản chế. Nhiều người kể lại trong phiên toà cha Lý đã dõng dạc tố cáo âm mưu bất chính của nhà nước cộng sản muốn triệt hạ các tôn giáo, nhiều người tham dự phiên xử án đã vỗ tay tán thưởng.
Ngày 31 tháng 7 năm 1992, cha L ý được thả ra với lệnh quản chế tại Nhà Chung Huế và bị cấm làm nhiệm vụ của một linh mục.
Trong thời gian còn bị giam giữ trong tù, khi hay tin Cố TGM Nguyễn Kim Điền chết vào ngày 8-6-1988, Lm Lý rất búc xúc, nên khi ra khỏi tù vào năm 1992, mặc dù đang bị quản chế tại Nhà chung Huế nghiêm ngặt, Lm Lý cũng đã tìm mọi cách vào Sài Gòn, để tìm hiểu sự thật về cái chết của TGM Nguyễn Kim Điền và sau đó Lm Lý đã viết Lời chứng về cái chết của Đức TGM Nguyễn Kim Điền. Lm Lý sau khi ra khỏi nhà tù thì bị quản chế tại Nhà Chung Huế từ năm 1992 đến năm 1995, sau đó, cộng sản lại đưa ngài về Quản chế tại giáo xứ Nguyệt Biều. Khi còn bị quản chế tại Nhà Chung nhân ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 24-11-1994, ngài phổ biến bản Tuyên Ngôn 10 điểm nói về thực trạng Tôn giáo tại Việt Nam, ngài bị công an quấy nhiễu suốt hai tháng trời nhưng ngài vẫn giữ vững lập trường. Cuối năm 2000, bản Tuyên Ngôn này lại một lần nữa được chuyển tải khắp nơi khi hệ thống siêu xa lộ thông tin được sử dụng trên toàn thế giới và bản Tuyên Ngôn được dùng làm kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh quyết liệt đầy cam go.
Ngày 26-12-2000 ngày Lễ Thánh Stêphanô tử đạo tiên khởi, LM Lý đã đến viếng mộ Cố TGM Nguyễn Kim Điền và ngài đã nằm sấp trên nền mộ mà cầu nguyện khá lâu, ngài kêu xin Đức Tổng phù trợ cho công việc đấu tranh đòi tự do tôn giáo của một nhóm linh mục Huế được thành công theo ý Chúa. Cuộc đấu tranh khởi đầu tại Nguyệt Biều bằng việc đòi lại đám đất trước nhà thờ Nguyệt Biều bị nhà nước chiếm dụng, nhưng khi giáo dân bị nhà cầm quyền đàn áp nên cha Lý đã vì đàn chiên mà đi đến giai đoạn quyết liệt với khẩu hiệu : “Tự do tôn giáo hay là chết”. Nhà cầm quyền tại Huế đã ra tay đàn áp Lm Lý và các giáo dân ủng hộ ngài tại Nguyệt Biều một cách khốc liệt.
Vào hạ tuần tháng 1 năm 2001, Lm Lý lại nhận được Bài Sai của Toà Giám Mục Huế, thuyên chuyển ngài về Giáo xứ An Truyền. Ngày 2-2-2001, TGM Nguyễn Như Thể đã về tại giáo xứ An Truyền để cử hành nghi thức giao chìa khóa Nhà thờ Giáo xứ An Truyền cho Cha Lý với nghi thức rất trọng thể, có cả các Cha Quản hạt thuộc TGP Huế tham dự. Khi về đến An Truyền, Lm Lý tiếp tục lên tiếng đòi Tự do Tôn giáo một cách mạnh mẽ và quyết liệt hơn, nơi đây lại có sự hỗ trợ của Lm Nguyễn Hữu Giải làm quản hạt Hương Phú mà An truyền nằm trong Giáo Hạt của Cha Giải. Ngày 26-02-2001 nhà cầm quyền Thừa Thiên Huế ra Quyết định số 401 ban hành lệnh quản chế và cấm Cha Lý không được làm lễ.Trong khoảng thời gian xuất phát cuộc đấu tranh từ Nguyệt Biều đến An Truyền, Lm Lý đã viết 9 Lời kêu gọi cho cuộc đấu tranh và được loan truyền khắp nơi trên thê giới, trong đó tôi thấy nổi bật là “Lời kêu gọi số 6: Hỡi các giáo sư, giáo viên, sinh viên, học sinh Việt Nam, đừng dạy, đừng học chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, và lý lịch của đảng cộng sản Việt Nam nữa”. Lời kêu gọi này, là một sự xác quyết về nổi đau của cả Dân tộc Việt Nam đã và đang gánh chịu vì phải học, phải dạy cái chủ thuyết bất nhân của chủ nghĩa cộng sản. Toàn dân Việt Nam đang sống trong một trạng thái bất an bởi chế độ công an trị, người dân mất hết mọi thứ tự do là do đảng csVN áp đặt chủ nghĩa cộng sản vào đất nước ta. Mục tiêu của ông Hồ và đảng csVN là quyết đưa đất nước Việt Nam vào quỹ đạo của Đệ tam Quốc tế cộng sản, cho nên chúng đã nhồi nhét và bắt toàn dân phải học chủ thuyết Mác-Lê, ngay cả trong các Đại chủng viện hiện nay, nhà nước cộng sản cũng bắt các chủng sinh phải học chủ thuyết Mác-Lê. Đảng csVN đã ngang ngược bắt người dân “Yêu nước là phải yêu chủ nghĩa xã hội”. Đây là học thuyết phản lại Dân tộc, phản lại các Tôn giáo, nhất đi ngược lại tín lý của Giáo hội Công giáo. Chính chủ nghiã cộng sản này mà đảng csVN đã độc ác ra tay giết hại người Việt qua cuộc đấu tố cải cách ruộng đất, giết hại những nhà trí thức qua vụ án Văn Nhân giai phẩm, giết hại dân lành trong biến cố Tết Mậu thân mà Huế Đô có gần 6 ngàn dân vô tội bị chết thảm, giết hại và đày ải những người phục vụ miền Nam trong các trại tù cải tạo. Tệ hại nhất là cảnh đẩy hàng hàng, lớp lớp thanh niên nam nữ vào chỗ chết với khẩu hiệu “Sinh Bắc tử Nam” và đã tạo nên cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn với chiêu bài bịp bợm “Giải phóng miền Nam”. Bởi vậy, Lm Lý đã kêu gọi đừng dạy, đừng học chủ nghĩa Mác –Lê, mới mong loại bỏ được tận gốc nọc độc của sự độc ác, mới mong đưa đất nước đến nền Tự do Dân chủ thật sự. Lời kêu gọi này thật phù hợp với việc Nghị Viện Quốc hội Âu Châu lên án Cộng sản là tội ác của nhân loại, qua Nghi quyết 1481 ký ngày 25-01-2006.
Đầu tháng 5 năm 2001 Ủy Ban Quốc tế tự do tôn giáo của Quốc hội Hoa kỳ đã gởi thư mời Lm Lý điều trần tại Quốc hội ngày 13-5-2001 về “Thực trạng tự do tôn giáo Việt Nam”. Lm Lý đã gởi Bản Điều trần tới Uỷ Ban này vì không đi được.
Ngày 17-5-2001, một lực lượng hùng hậu gồm 600 công an do một tướng công an từ Hà nội vào chỉ huy cuộc vây bắt Lm Lý. Từ sáng sớm công an đã đến bao vây Giáo xứ An truyền. Trong lúc công an bao vây Giáo xứ thì Lm Lý đang nói chuyện điện thoại với người nhà ở Quãng Biên vì mẹ ngài đang hấp hối và Cụ Bà đã vĩnh biệt trần thế khi con mình vào tù, nên chẳng đưọc gặp mặt lần cuối. Ngày 19-10-2001, một phiên toà vội vã đã xử tại Thành Phố Huế để kết án Lm Lý 15 năm tù ở và 5 năm quản chế với tội danh : “Phá hoại khối đoàn kết toàn dân”. Trước vành móng ngựa, Lm Lý đã nhắm nghiền đối mắt, và im lặng để phản đối. Sau phiên xử, công an Huế lập tức đưa Lm Lý về giam giữ tại Nam Hà.
Trước áp lực của Quốc tế càng ngày càng quyết liệt, nhất là việc Việt Nam đã bị Hoa Kỳ đưa vào danh sách các nước đặc biệt cần quan tâm(CPC). Trong khi đó, Việt Nam rất mong muốn được vào WTO, nhưng con đường tiến vào ngưỡng cửa WTO luôn luôn bị Mỹ ngăn chận. Lại thêm việc phái đoàn TNS Sam Browback tìm đến thăm LM Lý tại trại giam Nam Hà là một vấn đề phiền toái cho Bắc Bộ phủ. Trước tình thế khó khăn và đầy phức tạp này, Bắc Bộ phủ đã nghĩ ra một kế sách đổi chác với Mỹ để có những lợi ích thiết thực cho đảng csVN. Linh Mục Nguyễn Văn Lý mà Hoa Kỳ đang chú tâm là vị tù nhân lương tâm tại Việt Nam, là bài toán được Bắc Bộ Phủ nghĩ đến trong việc trao đổi.
Quả nhiên, đầu tháng 2 năm 2005, Lm Lý được thả ra khỏi trại giam Nam Hà và công an Hà nội đã chở Lm Lý về Nhà Chung Toà giám Mục Huế với án lệnh: “Quản chế”. Công an Huế thường xuyên bám sát và theo dõi Lm Lý ngày đêm một cách chặt chẽ trong thời gian bị quản chế.
...

Lm Lý vốn được hấp thụ bởi truyền thống đấu tranh không biết mệt mỏi theo tinh thần của cố TGM Nguyễn Kim Điền và với ý chí cương quyết trên con đường đấu tranh vì Dân tộc. Sau khi ra khỏi tù năm 2005, Lm Lý đã chuyển hướng cuộc đấu tranh ra khỏi phạm vi Tôn giáo để nhắm đến hướng đấu tranh chung cho cả nước, đó là cuộc đấu tranh đòi: Tự do Dân Chủ cho Việt Nam. Từ tháng 5 năm 2005, Lm Lý bắt đầu tìm mọi cách để liên lạc với một số nhân vật trong nước có tư tưởng tự do dân chủ, muốn đất nước sớm được thoát khỏi sự kềm kẹp của cộng sản. Trong dịp tiễn đưa các người cháu của ngài đi Mỹ vào tháng 9 năm 2005, Lm Lý đã tìm gặp nhiều nhà có xu hướng dân chủ tại Sài Gòn. Ngày 22-11-2005, Lm Lý viết bài “Tẩy Chay bầu cử Quốc hội năm 2007”, kêu gọi toàn dân tẩy chay cuộc bầu cử theo lối đảng cử dân bầu do csVN chủ trương xưa nay. Dựa vào Hiến pháp Việt Nam năm 1992, dựa vào các điều qui định trong Công Ước Quốc tế về Quyền Dân sự Chính trị, ngày 23-2-2006 Nhóm LM Nguyễn Kim Điền ra “Tuyên Bố về Quyền Thông tin, Tự do Ngôn luận”. Để hướng đến việc xây dựng nền dân chủ thật sự, cần phải thực hiện được nguyên tắc đa đảng và có sự tự do tham chính của toàn dân, nên ngày 6-4- 2006 Nhóm đã công bố “Lời kêu gọi cho Quyền thành lập và hoạt động đảng phái”. Điểm nổi bật nhất của cuộc đấu tranh trực diện với đảng csVN là một cuộc vận động tại Quốc nội và đã liên kết được nhiều thành phần trí thức trẻ, cũng như mọi giới, khắp cả Trung Nam Bắc nên ngày 8-4-2006, trước ngày họp Đại hội X của đảng csVN, từ trong nước đã công bố Bản: “Tuyên Ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam năm 2006” với 118 vị cùng đứng tên trong bản Tuyên Ngôn này. Bản Tuyên Ngôn đã được thế giới ủng hộ, cũng như đa số người Việt từ quốc nội đến hải ngoại tham gia đứng tên chung, nên từ đó trở thành KHÔI 8406, kết tụ mọi thành phần yêu chuộng tự do, cùng một lập trường chung: “giải thể chế độ cộng sản độc tài”. Ngày 15-4-2006, trước ngày đảng csVN họp Đại hội X, tờ báo Bán Nguyệt san Tự Do Ngôn luận được ra đời trong nước, cho đến khi công an lục soát và tịch thu toàn bộ các phương tiện làm việc của Lm Lý tại Nhà Chung thì tờ báo đã phát hành số 21 và đến nay vẫn còn tiếp tục phát hành trong nước. Đây là tờ báo được phổ biến tại nhiều tỉnh lỵ trong nước, được giới sinh viên, học sinh tiếp tay, nhiều cán bộ đảng cũng đã tìm đọc. Trong thời gian phát động cao trào đòi dân chủ cho Việt Nam, các đảng phái bắt đầu hoạt động, trong đó gần nhất là Liên đảng Lạc Hồng công bố sẽ ra mắt vào Dịp Tết Đinh Hợi.

Những hoạt động của cao trào dân chủ trong nước trong năm 2006, có tính cách công khai, nổi bật là cách vận động của linh mục Nguyễn Văn Lý khá qui mô, nhưng Hà nội chưa ra tay đàn áp vì muốn chứng tỏ để thế giới lầm tưởng rằng: Việt Nam đã có chiều hướng tốt trong việc cải thiện tự do dân chủ, đi đôi với phát triển kinh tế.
Thật vậy, khi đảng csVN đã đạt được mục đích cứu đảng như: được Mỹ rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, được hưởng Qui chế tối huệ quốc của Mỹ PNTR ban cho, được Mỹ mở cửa cho vào WTO, nhất là được triều yết vị Giáo chủ của Giáo hội Công giáo, để tạo uy thế. Tất cả những gì cần thiết để cứu đảng thì đảng cộng sản đã dùng mọi mưu kế để lừa bịp thế giới được rồi, công việc nín thở để qua sông coi như đã được yên hàn vô sự rồi, bấy giờ là chuyện lật lọng, là chuyện tấn công đàn áp các nhà dân chủ.
Chiến dịch đàn áp được khởi đầu trong ngày Tết Đinh Hợi năm 2007, đó là việc bao vây Nhà Chung Huế, lục soát và bắt linh mục Nguyễn Văn Lý giam tại giáo xứ Bến Củi. Mặc cho ai nói gì thì nói, ai lên án thì cứ lên án. Hà nội cứ theo lối cải cối, cải chày để qui chụp các nhà dân chủ với tội danh : “Tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCN/VN”.
Cuộc đấu tranh của Lm Lý đã được Hà nội lái sang chuyện lên án linh mục mà làm chính trị, tức:vi phạm giáo luật. Khi phái đoàn Toà thánh đến VN, Đức ông Pietro Parolin, trưởng phái đoàn có đề cập đến vấn đề Lm Nguyễn Văn Lý thì ông Nguyễn thế Doanh đã mách rằng: “ông này lập đảng chống nhà nước”(sic), tức có ý đứng về phía Giáo hội để lên án Lm Lý làm chính trị. Trong phạm vi bài này, tôi không bàn đến việc làm của Lm Lý có vi phạm giáo luật hay không, vì từ Huế lúc bấy giờ, nhóm linh mục Nguyễn Kim Điền, ngày 2-3-2007 đã gởi đi Lời Minh Định về việc làm này, Lời Minh Định quá rõ ràng để phản bát lại lối quen thói vu khống của csVN, xin trích một đoạn:” Là những linh mục Công giáo, chúng tôi không được phép, cũng chẳng muốn làm chính trị, nghĩa là không thành lập hoặc tham gia quân đội để tranh đấu vũ trang hay thành lập nhóm hoặc tham gia một đảng phái để đấu tranh nghị trường với bất cứ một tổ chức chính trị nào, nhằm điều hành hoặc cộng tác với bộ máy công quyền. Nhưng chúng tôi thấy cần phải nói lên một thái độ chính trị rõ ràng dứt khoát, do đòi hỏi của Phẩm giá con người. Trách nhiệm công dân và Thiên chức linh mục, trước đại Quốc nạn hầu như vô phương cứu chữa này, chúng tôi phải làm…”
Song song với Lời Minh Định , tôi lại liên tưởng đến câu chuyện về Đức Giáo hoàng Gioan Phaolồ II. Thật vậy khi chế độ cộng sản Liên Sô và khối Đông Âu sụp đỗ, nhiều người cho rằng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II là vị đóng vai trò quan trọng không nhỏ trong việc giải thể chế độ cộng sản. Xin đơn cử một đoạn phỏng vấn Đức Gioan Phaolo II của Tờ báo nổi tiếng ở nước Ý là tờ nhật báo La Stampa ngày 4-3-1991: Kính lạy Đức Thánh Cha, người ta đồn rằng Đức Thánh Cha có “làm chính trị” Đức Thánh Cha nghĩ sao?
Đức Thánh Cha trả lời:” Tôi nghĩ rằng không thể hiểu chính trị theo nghĩa hẹp. Nhiệm vụ của Giáo hoàng là rao giảng Phúc Âm, nhưng trong Phúc Âm có con người. Sự tôn trọng đối với con người, tức là Nhân quyền, sự tự do lương tâm và tất cả những gì thuộc về con người. Nếu tất cả những điều đó có một giá trị chính trị, thì đúng Giáo hoàng có làm chính trị. Giáo Hoàng luôn luôn đề cập đến con ngưòi. Giáo hoàng bênh vực con người”.
Như vậy, đứng trước đại quốc nạn về vấn đề nhân phẩm của người Việt Nam đã và đang bị nhà nước csVN chà đạp, thì việc làm của Lm Lý và các thân hữu như Lm Chân Tín, Nguyễn Hữu Giải, Phan Văn Lợi là hoàn toàn hợp lý, và không hề bị giáo luật cấm. Trên thực tế, những linh mục đang cộng tác với chế độ cộng sản như tham gia đại biểu quốc hội bù nhìn, tham gia Uỷ ban Đoàn kết công giáo, có vị là đảng viên và những chức sắc đang cộng tác, cỗ vũ, đánh bóng cho chế độ tàn bạo này, mới là chuyện vi phạm giáo luật. Hình ảnh Giáo hội ba Lan là một điển hình.
Việc công an bao vây Toà Giám mục trong những ngày Tết, bao vây phòng ở Lm Lý, rồi dùng quyền lực khống chế cả vị chủ chăn của Giáo phận Huế, áp tải Lm Lý về giam giữ tại chái nhà thờ Bến củi, là một hành động ngang ngược, man rợ chưa có nhà nước nào trên thế giới dám làm. Việc nhà nước dùng nhà thờ làm nhà tù để giam giữ Lm Lý, dùng nơi thờ phụng để thẩm vấn Lm Lý, khi giáo dân đến đọc kinh, thì công an khóa cửa chái nhà thờ lại, để không cho Lm Lý ra cầu nguyện với giáo dân, là một nhà nước thế nào, xin hãy nói cho thế thế giới biết? Chính Lm Lê Dình Du, cha sở coi giáo xứ Bến củi, đã phản đối cấm công an không được vào nơi thờ tự này để thẩm vấn Lm Lý, Cha Du nói với công an: “các ông muốn thẩm vấn thì đem cha Lý đi nơi khác, đây là nhà của tôi”
Từ ngày bị công an lục soát phòng ở, bị tịch thu các phương tiện làm việc, phong tỏa Toà Giám mục, Lm Lý đã tuyệt thực từ chiều 18-2-2007 để phản đối việc làm phi pháp này của Nhà cầm quyền Huế, nhưng khi nhóm thân hữu bàn thảo và yêu cầu, Lm Lý đã ngưng tuyệt thực từ chiều 5-3-2007 và tuyên bố sẽ tuyệt thực mỗi tháng 10 hoặc 14 ngày để phản đổi việc đàn áp các nhà dân chủ, nhất là sẽ tuyệt thực vào dịp kỹ niệm một năm tờ Tự Do Ngôn Luận được xuất hiện trong nước vào 15-4-2007.
Ngày 13-3-2007, công an áp tải Lm Lý đến thôn Bến củi để nghe đọc cái gọi là Văn Bản Kết luận điều tra, có sự hiện diện của công an thành phố, đại diện Viện Kiểm sát và 2 nhân chứng. Đọc xong, công an bắt Lm Lý ký biên bản, ngài không ký và tuyên bố: “bao lâu tôi còn trong tay cộng sản thì tôi không ký bất cứ giấy tờ gì, tôi sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh chính nghĩa cho đến hơi thở cuối cùng”.
Ngày 15-3, công an lại áp tải Lm Lý ra thôn Bến củi để nghe đại diện Viện kiểm sát Thừa thiên đọc Bản Cáo trạng, có sự hiện diện của thiếu tá công an tỉnh, một người quay phim, 7 công an, 2 người địa phương, đọc xong cũng lại bắt Lm Lý ký vào Bản cáo trạng, ngài không ký và tuyên bố: Tôi bắt đầu tuyệt thực lại từ hôm nay cho đến ngày ra tòa để phản đối Bản cáo trạng, phi pháp, gian dối, ngụy biện của các ông và để tiếp tục nuôi dưỡng cao trào đòi Tự do Tôn giáo, Tự do ngôn luận”. Cả hai lần bị áp tải ra thôn Bến củi Lm Lý đều mặc áo dòng đen.( Bản tin FNA từ Huế 16-3-2007).
Ngày 29 -3-2007 công an đến Bến Củi bắt linh mục Lý về trại giam và ngày 30 tháng 3 năm 2007 ngài bị điệu ra toà trong phiên xử án đầy man rợ tại thành phố Huế với bản án 8 năm tù ở. Hình ảnh làm thế giới kinh hoàng nhất, đó là hình ảnh linh mục Nguyễn Văn Lý bị tên công an Nguyễn Văn Tân thuộc PA 34 Sở công an Thừa Thiên Huế đưa bàn tay hộ pháp bịt miệng cha Lý khi ngài hô to”Đá đảo cộng sản Việt Nam” trong phòng xử án. Chỉ trong vài giây, tấm hình bịt miệng độc đáo này được loan truyền khắp thế giới.
Sau phiên xử án man rợ, linh mục Nguyễn Văn Lý lại bị đưa ra giam giữ tại Ba Sao Nam Hà. Ngày 14 tháng 11 năm 2009 vừa qua, ngài bị đột quỵ nặng nên ngày 15-11-2009 công an trại giam đã đưa ngài đến điều trị tại Bệnh Viện Công an ở Hà Nội. Mặc dù đau yếu, nhưng ngài vẫn còn giữ được khí thế bất khuất khi nhìn thấy các y tá mang thuốc đến cho ngài có ghi chữ phạm nhân Nguyễn Văn Lý, ngài đã cự tuyệt và tuyên bố: tôi không phải là “phạm nhân”, tôi là tù nhân lương tâm, nếu các vị cho tôi là “phạm nhân” tôi sẽ từ chối việc điều trị. Các y tá đã phải gạch bỏ chữ phạm nhân, ngài mới chịu nhận thuốc uống.
Chiều ngày 11-12-2009, đúng vào thời điểm Nguyễn Minh Triết gặp Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16 tại Vatican, thì công an đã đưa linh mục Nguyễn Văn Lý về lại trại giam Nam Hà, mặc dù ngài còn đang chưa đi đứng một mình vững, cũng như chưa tự ăn uống một mình được.
Nhìn lại cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo cũng như đòi tự do dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam đầy cam go của linh mục Nguyễn Văn Lý được phát động từ năm 2000, chẳng khác nào cuộc đấu tranh mà Thái Hà, Toà Khâm Sứ, Tam Toà, Loan Lý, Vĩnh Long và nhiều nơi khác đã và đang đương đầu với bạo quyền hiện nay.
Lời mà Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã nói với Uỷ Ban Thành Phố Hà Nội hôm 20-9-2008 : “Tự do tôn giáo là cái quyền chứ không phải là ân huệ của nhà nước ban cho…”đúng với tinh thần mà linh mục Nguyễn Văn Lý đã lên tiếng bằng nhiều cách trong suốt cả một thời gian khá dài trong cuộc đấu tranh của ngài kể từ năm 2000.

Nguyễn An Quý
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #12 - 01. Feb 2010 , 23:54
 
My cứ muốn tìm bài về những tù nhân lương tâm như LS. Lê thị Công Nhân, LS. Lê Công Định, ... đăng vào đây mà cứ hết bịnh lại bận. Xin cả nhà để ý thấy những bài vở về những anh hùng này, mang vào đây dùm nhé
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #13 - 13. Feb 2010 , 22:12
 
Mùa xuân nghĩ về những người tù.



Lê Trần Luật




Mùa xuân là mùa của cảm xúc. Mùa xuân là mùa của tình yêu. Mùa xuân là mùa của đoàn tụ và xum họp. Mùa xuân là mùa của hy vọng về tương lai.

Có những người đón mùa xuân trong tâm trạng ngập tràn niềm vui. Có những người đón mùa xuân trong nổi cô đơn buồn tủi. Có những người không biết mùa xuân đến từ bao giờ.

Không biết có ai nghĩ về những người dấn thân cho công lý đang đón mùa xuân ở trong chốn lao tù hay không. Họ đã hy sinh nhiều mùa xuân của mình để hy vọng dân tộc thực sự có một Mùa Xuân. Tôi đã nghĩ về họ theo trật tự thời gian trong những trải nghiệm của mình.

...


Người tù số một- blogger Điếu Cày.


Tôi chưa từng gặp anh bao giờ, nhưng anh là khởi sự đầu tiên của tôi cho cuộc đấu tranh vì công lý. Tôi ngưỡng mộ lòng yêu nước của anh. Dù không được là luật sư cho anh nhưng tôi luôn tin chắc rằng anh vô tội. Hoàng sa, Trường sa mãi mãi là của anh, của mỗi người dân Việt chúng ta. Hết mùa xuân này anh sẽ trở về trong vòng tay thương yêu và kính trọng của mọi người.

...


Người tù số hai- ký giả Trương Minh Đức


Tôi là luật sư của anh. Tôi được nói chuyện nhiều lần với anh ở trại giam Cầu ván- Kiên giang. Anh có đôi mắt đầy kiên quyết. Một mình anh 3h sáng đi rải tryền đơn từ cầu Bình triệu đến cầu Khánh hội. Anh viết phóng sự về những vụ án oan sai ở Kiên giang. Anh giúp dân oan làm đơn khiếu kiện. Anh đã gọi Tòa án là “Tà án”, Viện kiểm sát nhân dân là “Viện cố sát nhân dân”. Tại tòa anh đã mạnh dạn hô to: “ Đả đảo cộng sản”. Hình ảnh anh bị lôi lên xe cảnh sát cho đến bây giờ vẫn ám ảnh tôi. Tôi nghiệm ra rằng đấu tranh cần có những người kiên cường như anh. Trong trại giam Cầu ván anh đã giúp một người bạn tù tên Vượng thoát khỏi bản án oan sai đến 15 năm. Người đó bây giờ được tự do vẫn hay gửi quà thăm nuôi “bố Đức”. Anh bị kết án 5 Mùa xuân.

...


Người tù số ba- kỹ sư Phạm Bá Hải


Tôi gặp anh ở trại giam B34- Bộ Công an. Tóc anh đã điểm bạc nhưng đôi mắt vẫn toát lên sự thông minh sáng ngời. Tôi nói với anh: “ Anh phải thấy hành động của anh là không phạm tội thì tôi mới làm luật sư cho anh được”. Anh nói:“ Đúng, đúng, tôi đang cần một luật sư như vậy”. Hai hôm sau tôi trở lại trại giam để bàn với anh về bài bào chữa của tôi. Anh tỏ ra là một nhà lý luận khá sắc sảo. Anh là người phân tích cho tôi thấy đa nguyên đa đảng đơn thuần chỉ là một khoa học về chính trị. Anh phải hy sinh 5 mùa xuân cho cái gọi là khoa học về chính trị.

...


Người tù số bốn- dân oan Lương Văn Sinh


Tôi gặp anh vào một ngày nắng gắt ở trại giam Hàm tân. Anh thấp người nhưng rắn chắc. Anh bị chuyển từ tội danh : “ Lợi dụng các quyền tự do dân chủ” sang tội “ Gây rối trật tự công cộng”. Anh nói anh bị lừa nhận tội và bị đe dọa nếu kháng cáo sẻ tăng hình phạt. Tại tòa anh đưa ra hình ảnh hết sức sinh động: “ Con chim bị phá tổ còn kêu la thảm thiết huống chi tôi là con người bị mất hết nhà cửa, đất đai mà bảo tôi đừng khiếu nại, hay biểu tình”.  Tòa lạnh lùng đáp: “ Người không được so sánh như chim”. Kết quả anh bị tuyên 2 mùa xuân, không biết khi về anh có tổ ấm nào để nương thân không.

Người tù số năm- người tù đặc biệt Phan Văn Sào


Sở dĩ tôi nghĩ anh là người đặc biệt vì không biết gọi anh như thế nào. Anh không phải là những nhà đấu tranh, cũng không phải là dân oan. Anh khiếu kiện vì một mảnh đất của một người hảo tâm hiến tặng cho Nhà Nước để làm Trường mẫu giáo. Một phần mảnh đất này bị một gia đình chức sắc địa phương chiếm làm của riêng- vị bí thư xã. Anh cực kỳ thông minh và sắc sảo trong lập luận dù anh ít học.  Do sợ bị phát hiện, nên anh đã đo chiều dài của mảnh đất bị chiếm dụng bằng cách chạy xe từ đầu này sang đầu kia của mảnh đất. Sau đó tính vòng quay của bánh xe và nhân với chu vi. Tại Tòa anh đã làm cho Viện kiểm sát nhiều lần“ bí” vì khả năng lập luận hết sức lo-gich của mình. Trước khi bị kết tội “ Vu khống” anh bị cho là “có dấu hiệu tâm thần” và buộc phải  “chữa bệnh”. Đây là mùa xuân thứ hai anh không được về với vợ con mình.

...


Người tù số sáu – Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa


Tôi gặp anh trong vụ kiện biểu tình. Anh trầm ngâm và hay suy tư. Suốt chặng đường đi cùng anh từ Hải Phòng đến Hà Nội, anh chỉ nói đôi câu. Anh bảo sau này anh sẻ viết một tác phẩm văn học để nói lên “thực trạng” xã hội hiện nay (xin thay đổi chữ dùng của anh ). Sau đó anh bảo phải hành động cụ thể chứ viết lách không ăn thua gì. Vâng! Anh đã hành động rất cụ thể bằng cách treo biểu ngữ trên cầu Lạch tray và cầu Lai cách. Anh bị mất 5 mùa xuân cho hành động cụ thể của mình.

...


Người tù số bảy- sinh viên Ngô Quỳnh


Khi hay tin em được trả tự do sau chín ngày bị giam giữ. Tôi lập tức có mặt ở Hà Nội để gặp em. Em gầy, đẹp trai và rất thư sinh. Em kể tôi nghe sự việc và những ngày trong tù. Tôi lại nhận định sai lầm là Quỳnh sẻ không bị khởi tố. Tối hôm đó em ngủ lại khách sạn với tôi. Chiều hôm sau tôi hay tin an ninh của Bộ Công an đang xét nhà và đọc lệnh khởi tố em. Đó là lần đầu cũng như lần sau cùng tôi nhìn thấy em- tác giả của những chiếc bong bóng nhân quyền cho Việt Nam.  Đã hai mùa xuân rồi em không sum họp cùng gia đình.


...


Người tù số tám- nữ chiến sỹ can trường Phạm Thanh Nghiên.


Có quá nhiều kỷ niệm với con người này, tôi không biết phải viết gì. Nghe nói Viện kiểm sát đã rút lại một phần cáo trạng truy tố về hành vi tọa kháng tại nhà của em, nhưng nếu đúng như thế thì chắc chắn phiên phúc thẩm sắp tới sẽ có nhiều điều thú vị. Em bị mất bốn mùa xuân nhưng em mãi mãi là mùa xuân trong lòng mọi người.

...


Người tù số chín- thiên tài Trần Huỳnh Duy Thức.


Tôi nói với bạn tôi: “Anh Thức có dấu hiệu của một thiên tài” . Bạn tôi bảo: “ Đó thật sự là một thiên tài rồi chứ còn dấu hiệu gì nửa”. Anh phải mất mười sáu mùa xuân cho hành động kiên cường không nhận tội của mình. Nhưng nếu đúng như nhận định của anh về “năm tận” “năm vong” thì tôi hy vọng anh chỉ mất chưa đến một nửa trong số đó.

...


Người tù số mười- người tù vĩ đại nhất của lịch sử hiện đại Việt Nam- linh mục Nguyễn Văn Lý


Chẳng biết Cha đã mất bao nhiêu mùa xuân rồi nữa. Chỉ thầm cầu nguyện cho Cha được bình an trong chốn lao tù.

Còn biết bao nhiêu người đấu tranh đang đón mùa xuân trong bốn bức tường , tôi chợt nhớ đến câu:
“Mỗi người dân Việt Nam là một người tù hờ”.
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #14 - 21. Feb 2010 , 00:12
 


Tự Do cho Thủy - Nhân - Nghiên


Chiến dịch Tự Do cho Thủy – Nhân - Nghiên

...

Các bạn thân mến,

Ngày 8 tháng Ba sắp tới đây là Ngày Phụ Nữ Quốc Tế, ngày kỷ niệm những thành tựu trong quá khứ, hiện tại, và tương lai của phụ nữ khắp nơi trên thế giới.

Tiếc thay, 3 trong số các phụ nữ cao quý nhất của Việt Nam hiện thì vẫn còn đang bị giam cầm trong chốn lao tù Cộng Sản. Và tội của họ là gì? Chủ trương đấu tranh bất bạo động, chống lại những bất công xã hội.

Xin các bạn hãy cùng tham gia với Việt Tân trong chiến dịch vận động toàn thế giới nhằm đòi hỏi việc trả tự do vô điều kiện và ngay lập tức cho 3 nhà đấu tranh dân chủ và nhân quyền: Trần Khải Thanh Thủy, Lê Thị Công Nhân, và Phạm Thanh Nghiên.

Trần Khải Thanh Thủy, một nhà văn kiêm blogger 49 tuổi và cũng là một thành viên danh dự của tổ chức Văn Bút Quốc Tế (PEN). Bà Thủy là một trong những quán quân đấu tranh chống tham nhũng. Hiện nay, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy đang chịu bản án 3 năm rưỡi tù giam sau khi bị bắt vào tháng 10 năm 2009 trên đường đến dự phiên tòa xét xử các nhà bất đồng chính kiến khác. Bà đã bị bọn côn đồ bảo hộ bởi công an nhà nước hành hung nhưng rồi lại bị xử oan ức tội cố tình gây thương tích cho người khác.

Chị Lê Thị Công Nhân, là một luật sư 31 tuổi, đã bị cầm tù kể từ tháng 3 năm 2007 vì đã phổ biến tài liệu “tuyên truyền” chống nhà nước. Các bài viết của cô chỉ đơn thuần chỉ trích lối hành xử độc tài mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã sử dụng để bịt miệng các nhà bất đồng chính kiến ôn hòa. Cô hiện đang chịu án tù giam 3 năm kèm theo 3 năm quản chế tại gia tiếp nối.

Cô Phạm Thanh Nghiên là một nhà tranh đấu cho nhân quyền 33 tuổi, người đã từng vận động chống tham nhũng trên mạng Internet. Cô Nghiên bị bắt vào tháng 9 năm 2008 sau khi phê bình chỉ trích chính sách nhà nước và đề đơn yêu cầu được tổ chức biểu tình một cách ôn hòa. Cô Nghiên hiện đang chịu án tù giam 4 năm và 3 năm quản chế.

Không ai trong số những người phụ nữ can đảm này đáng bị giam cầm hoặc đối diện với những năm tù treo tiếp nối. Họ là những nhân tài có tiềm năng đóng góp rất nhiều cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

Chúng ta hãy cùng nhau hợp lực để đòi hỏi Tự Do Cho Thủy-Nhân-Nghiên!

Để biết thêm chi tiết cũng như để tìm hiểu xem bạn có thể đóng góp được gì cho chiến dịch này, xin quý bạn hãy ghé đến trang mạng www.viettan.org/TuDoCho-Thuy-Nhan-Nghien.



Xin chân thành cám ơn.

Đỗ Hoàng Điềm
Chủ tịch Đảng Việt Tân

Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #15 - 28. Feb 2010 , 21:34
 
 
Vận động tự do cho Người Tù Lương Tâm Linh  Mục Nguyễn Văn Lý

...

Kính gửi:

-          Chính phủ và Quốc Hội các quốc gia dân chủ.

-          Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon,

-          Hội Đồng Nhân Quyền LHQ

-          Các tổ chức nhân quyền quốc tế



Kính thưa Quí Vị,

phiên tòa do nhà cầm quyền cộng sản dàn dựng tại Huế ngày 30.07.2007 đã kết án LM Nguyễn văn Lý 8 (tám) năm tù giam với tội danh “tuyên truyền chống đối nhà nước CHXNCN Việt Nam” theo điều 88 bộ luật hình sự. Từ đó Ngài bị giam biệt lập trong trại tù Ba Sao thuộc tỉnh Hà Nam. Cho đến nay linh mục Nguyễn Văn Lý đã bị giam cầm tổng cộng 17 năm trong lao tù cộng sản Việt Nam, được International Amnesty nhiều lần nêu danh là “Tù nhân Lương tâm” và được nhiều giải thưởng nhân quyền như Hellman/Hammett, Salom vv...

Trong  cuộc khảo sát định kỳ phổ quát của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (UPR) vào ngày 08.05.2009 Việt Nam được đề nghị sửa đổi nhiều điều luật, trong đó có điều 88 bộ luật hình sự. Vì các điều luật này không những vi phạm Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, vi phạm Công Ước Quốc Tế các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà còn vi phạm ngay chính Hiến Pháp của nước CHXHCN Việt Nam.

Linh mục Nguyễn văn Lý đã phải chịu 3 cơn tai biến mạch máu não trong năm 2009. Cơn tai biến thứ ba xảy ra vào tháng 11 năm 2009 làm linh mục Lý hôn mê, tê liệt nửa người và công an trại giam đã đưa Ngài vào bịnh viện công an 198 tại Hà Nội để chữa trị. Tại đây linh mục Lý vẫn bị giam biệt lập với công an canh gác ngày đêm không cho ai ra vào. Sau gần một tháng chữa bịnh, tuy chưa được thuyên giảm nhưng công an đã bắt đưa Ngài về lại trại giam Ba Sao. Ngày 1.2.2010 vừa qua, chị của LM Lý, bà Nguyễn thị Hiểu đi thăm ông và đã cho biết như sau: “Lần này đến thấy Linh Mục Lý không thể viết được vì tay bị liệt, chân đi khó khăn phải chống nạng, và phải có người dìu đi. Linh mục Lý không uống thuốc do trại tù cho mà chỉ uống thuốc gia đình gửi vào. Ông cũng nói là nếu bị ngã bệnh nữa sẽ không đi cấp cứu như lần trước. Ông mong gia đình đến thăm nhiều hơn nữa.”.

Do tình trạng sức khỏe rất đáng lo ngại hiện nay Linh Mục Nguyễn Văn Lý không còn khả năng chịu đựng được điều kiện giam cầm trong nhà tù CSVN, đặc biệt trong tù biệt giam. Chúng tôi khẩn khoản đề nghị Quí Vị yêu cầu nhà nước CHXHCN Việt Nam trả tự do tức khắc và vô điều kiện cho người tù lương tâm Nguyễn Văn Lý để ông tự kiếm bác sĩ độc lập điều trị cơn bịnh vô cùng ngặt nghèo hiện nay.



Kính chào

1. Câu Lạc Bộ Người Việt Tự Do tại Pháp (ông Trần Nghĩa Hiệp, Đại diện),

2. Chi Hội Phật Tử tại Frankfurt và vùng phụ cận (bà Hùynh Các Đằng, Đại diện), 

3. Compassion-Vietnam thanks.gifháp (BS Phan Minh Hiển , Chủ Tịch),

4. Đảng Thăng Tiến Việt Nam tại Pháp (ông Nguyễn Sơn Hà, Đại diện),

5. Hội Quang Trung (ông Nguyễn Quốc Gia Bảo, Đại diện),

6. Hội Hải Quân Hàng Hải VNCH tại Pháp (ông Đặng Vũ Lợi, Hội trưởng)

7. Hội Người Việt Tỵ Nạn tại Mönchengladbach và vùng phụ cận (ông Đặng Phú Hiệp, Đại diện)

8. Hội Pháp Việt Tương Trợ AFVE  (ông Bùi Xuân Quang, Hội trưởng)

9. Hội Phụ Nữ Việt Nam Tự Do tại CHLB Đức (bà Phạm thị Bích Thủy, đại diện),

10. Hội Thanh Niên Việt Nam Ty Nạn tại Pháp (ông Nguyễn Ngọc Liêm, Hội trưởng)

11. Hội Thanh Thiếu Niên tại Pháp (Đào Duy Bạch Liên, Đại diện),

12. Hội Thăng Tiến Việt Nam (ông Nguyễn Ngọc Hùng, đại diện),

13. Hội Văn Hoá Người Việt Tự Do (ông Đình Lâm Thanh, Đại diện),

14. Liên Hội Người Việt Tỵ Nạn tại CHLB Đức (ông Lưu Văn Nghiã, Chủ tịch),

15. Liên Minh Dân Chủ Âu Châu (BS Nguyễn Quốc Nam, Đại diện),

16. Tồ Chức Sinh Hoạt Người Việt Tỵ Nạn tại CHLB Đức (ông Phạm Công Hoàng, Chủ tịch),

17. Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động tại Pháp (bà Ngô Thị Ngoan, Đại diện),

18. Ủy Ban Điều Hợp Công tác Đấu Tranh của Cộng đồng Người Việt tại CHLB Đức (ông Nguyễn Thanh Văn, Chủ tịch)

19. Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng (ông Nguyễn Ngoc Bảo, Đại diện)



--------------------------------------------------



Quí Đồng Hương kính mến,


Chúng tôi tha thiết kêu gọi Quí Vị, những người yêu chuộng tự do, công lý và nhân quyền hãy cùng ký tên tham gia cuộc vận động tự do cho người tù lương tâm Linh Mục Nguyễn Văn Lý:
"Do tình trạng sức khỏe rất đáng lo ngại hiện nay Linh Mục Nguyễn Văn Lý không còn khả năng chịu đựng được điều kiện giam cầm trong nhà tù CSVN, đặc biệt trong tù biệt giam. Chúng tôi khẩn khoản đề nghị Quí Vị yêu cầu nhà nước CHXHCN Việt Nam trả tự do tức khắc và vô điều kiện cho người tù lương tâm Nguyễn Văn Lý để ông tự kiếm bác sĩ độc lập điều trị cơn bịnh vô cùng ngặt nghèo hiện nay."
Thỉnh nguyện thư này sẽ gửi đến các chính phủ và quốc hội các quốc gia dân chủ, đến Tổng Thư Ký và Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc cũng như đến các Tổ Chức Nhân Quyền quốc tế.

Trân trọng kính chào và cám ơn sự quan tâm của Quí Đồng Hương.



Ký tên tham gia cuộc vận động tự do cho người tù lương tâm Linh Mục Nguyễn Văn Lý

http://www.gopetition.com/online/34231.html



Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #16 - 04. Mar 2010 , 19:44
 
Một Chữ Ký Cho Phạm Thanh Nghiên       


...


Kính Qúy Anh Chị,Xin qúy anh chị gíúp một tay. Các nữ Dân Biểu Hoa Kỳ còn tha thiết với người dân thấp cổ, bé miệng của mình, chẳng nhẽ chúng ta lại quay mặt, làm ngơ với chính con em nước Vịêt được sao ạ? Một chữ ký là một vòng xích của em được gỡ mở !Chỉ chưa đầy một phút là xong, xin qúy anh chị bấm thử vào link dưới đây mà xem:

http://www.petition2congress.com/2/2908/justice-pham-thanh-nghien/

Sau khi ký xong, anh chị sẽ cảm nhận được một niềm hỷ lạc vô biên... nhất là trong dịp này cả bên đạo Công Giáo lẫn bên đạo Phật Giáo đều là những ngày Đại Thiện Hạnh, nên công đức này của qúy anh chị sẽ còn được tăng trưởng gấp vạn lần.

Cũng xin qúy anh chị giúp gửi tiếp kêu gọi bạn bè, người thân Làm Một Cử Chỉ Đẹp Cho Người Con Gái Việt đang bị cầm tù. We count on YOU !

Rất biết ơn,
Hạnh-Giao
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #17 - 05. Mar 2010 , 22:29
 

MẸ NẤM VIẾT CHO LÊ THỊ CÔNG NHÂN



  Bạn thân mến,
Mình viết những dòng này để chúc mừng bạn trở lại với không gian đầy nắng, đầy gió và khoảng trời xanh bên ngoài.
Chỉ hai ngày nữa thôi bạn ạ!
Mình không chúc mừng bạn được trả tự do, bởi vì bạn, mình, và hàng triệu người khác nữa chưa bao giờ có được tự do đúng nghĩa. Nếu chúc mừng bạn được trả tự do, thì hóa ra chúng mình thừa nhận việc tranh đấu vì tự do của mình là sai lầm? Và thừa nhận thứ tự do giả cầy mà người ta đang rêu rao với thế giới trên đất nước mình là có thật hay sao.

Mình chúc mừng bạn được trở về trong vòng tay của mẹ, người luôn tin tưởng và ủng hộ bạn trên mọi nẻo đường. Thật lòng mình rất kính trọng mẹ của bạn cũng như mẹ của mình.Họ là những người mẹ vĩ đại, bạn à!

Bạn thân mến, chúng ta cùng tuổi, và mình thật sự ngưỡng mộ bạn, ngưỡng mộ con đường bạn theo đuổi, và cả quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường bạn đã chọn.
Bạn không lựa chọn sự thỏa hiệp, cho dù đến hơi thở cuối cùng. Đó là điều khiến mình trăn trở rất lâu, khi lần đầu tiên được đọc tin tức về bạn.

Sinh năm 1979 - chúng ta bằng tuổi, và những lời phát biểu của bạn đã khiến rất nhiều người phải giật mình thức tỉnh, trong số đó có mình.
Chúng ta, lẽ ra theo lời khuyên, lời nhắn, và cả lời dọa dẫm của những người "nhân danh lòng yêu nước" sẽ chỉ nên chăm chú đi làm, kiếm tiền, chăm chút sắc đẹp, lo cho cuộc sống gia đình... Lẽ ra chỉ có như thế, hẳn là cuộc sống của bạn đã tươi đẹp biết bao. Nhưng bạn đã chọn một con đường không chỉ có hoa hồng, và quyết tâm theo đuổi nó đến cùng. Mình thực sự rất ngưỡng mộ bạn.

Sinh năm 1979 - năm sinh của chúng ta đánh dấu sự kiện đầy biến động trong mối quan hệ "Việt -Trung" - sự kiện mà chúng ta không được học đến trong lịch sử, để rồi cả tôi và bạn đều ngỡ ngàng và xót xa trước cái gọi là "tình hữu nghị đời đời" với kẻ thù của dân tộc mình.
Họ - "những người nhân danh lòng yêu nước" - không nói, không lên tiếng, nhưng điều đó đâu có nghĩa là họ có quyền cấm cản chúng ta tìm hiểu và bày tỏ thái độ của mình.
Họ - đã từng giận dữ khi tôi bảo họ "Hèn".
Mà không hèn sao được, khi họ bắt bạn, bắt tôi chỉ vì chúng ta không cam chịu?
Những người sinh năm 1979, hẳn là những người rắc rối bạn nhỉ?? Thực lòng tôi đã thấy rất vui khi họ nói với tôi điều này trong "những ngày J".

Bạn thân mến, cuộc sống với nhiều biến động đang đợi bạn ngoài kia, niềm vui xum họp gia đình hẳn sẽ là động lực lớn lao nhất với bạn trong những ngày sắp tới.
Cho tôi được xiết chặt tay bạn, với một lời chúc bình an và thật khôn ngoan tỉnh táo trong những tháng ngày sắp đến bạn nhé.
Xung quanh chúng ta là những người tốt - tôi muốn bạn tin vào điều đó để thấy cuộc sống này còn lắm mến thương.
Và quan trọng nhất là - xung quanh ta không thiếu những người giả vờ tốt - bởi nhiệm vụ và sự sinh tồn của họ buộc họ phải thế bạn à. Hẳn bạn hiểu điều này để lựa chọn cho mình một đôi giày thật hoàn hảo để "khiêu vũ giữa bầy sói" nhé bạn!

Mừng bạn trở về - một ngày trời thật xanh, nhiều gió và nhiều nắng, bạn nhé!

Mẹ Nấm
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #18 - 08. Mar 2010 , 08:32
 
LÊ THỊ CÔNG-NHÂN

Người con gái phi thường


 

* Nguyễn Triệu Việt

 

Giữa cao điểm của chế độ toàn trị CSVN hôm nay có một người con gái phi thường vượt khỏi mọi sợ hãi, đã dám đứng lên đương đầu với cả hệ thống bạo lực, người con gái có tên rất gần gũi với những người VN cùng khổ: đó là cô Lê Thị Công Nhân, 31 tuổi.

Chúng tôi xin được tổng hợp câu chuyện của nữ luật sư trẻ tuổi Lê Thị Công Nhân tại VN qua các bài viết của một số tác giả tên tuổi trong thời gian gần đây để chúng ta cùng có một niềm tin sắt son về một ngày mai tươi sáng của tuổi trẻ VN cũng như dân tộc VN. Trước hết chúng tôi xin giới thiệu bài viết của tác giả Trần Phong Vũ có tựa đề "Lê Thị Công Nhân - Người con cưng của Thượng Đế".

 

Cho đến hôm nay, Lê Thị Công-Nhân đã trở thành một tên tuổi lớn. Không phải lớn vì cô là một luật sư trẻ tuổi, tài ba. Cũng không phải lớn vì cô đã được cả thế giới biết đến, nhưng chính cái nhân cách phi thường ẩn giấu đàng sau vóc dáng mảnh mai, yếu đuối một trái tim nhân hậu, một thái độ can đảm, một ý chí kiên cường, bất khuất của một con người có niềm tin son sắt nơi Thượng Đế, đã khiến cho tên tuổi của cô trở nên vĩ đại, lẫy lừng và sáng chói. Tên Công-Nhân của cô được ghép lại bởi hai từ: Công-Bằng và Nhân-Ái.

 

Cái tên đã được nói ra từ cửa miệng của người Mẹ đã cưu mang Lê Thị Công-Nhân,

Khi có kẻ tò mò muốn rõ vì sao một thiếu nữ trí thức có nhân dáng thanh cao, trong suốt và một vẻ đẹp hồn nhiên như thiên thần lại có tên là Công-Nhân, bà Trần Thị Lệ cho biết: vì sống dưới một xã hội lưu manh, gian dối, bất công và độc ác bà kỳ vọng sau này con gái bà ý thức được bổn phận và trách nhiệm của mình nên đã rút gọn hai từ  Công-Bằng & Nhân-Ái để đặt tên cho cô là “Công-Nhân”. Từ đấy cái tên định mệnh này đã chi phối trọn vẹn cuộc đời cô bé. 

 
    Ra đời năm 1979 tại Tiền Giang, phần đất của miền nam nước Việt, năm nay cô  vừa tròn 31 tuổi. Như vậy là trong ngót ba thập niên đầu đời, Lê Thị Công Nhân đã sống và lớn lên trong lòng chế độ cộng sản độc tài, độc đảng, phi nhân và tàn ác. Nhưng giống như bông sen, cô sống “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Được như thế chính là nhờ nhân cách và công lao dưỡng dục của một bà mẹ đạo đức từng thừa hưởng môi trường tự do, dân chủ, phóng khoáng trong suốt nửa đời trước, khi may mắn sống và được giáo dục dưới chế độ miền Nam trước tháng tư năm 1975.
 

    Từ tiểu học đến hết trung và đại học, cô Công Nhân có dịp học ở Hà nội. Ước vọng của cô là trở thành một luật sư giỏi để mai này mang sở học và tâm huyết của mình bên vực giới công nhân, lao động cùng khổ. Cô tốt nghiệp Cử nhân Luật khóa K22 (1997-2001) và sau hai năm chuyên ngành cô trở thành luật sư thực thụ, hành nghề tại Văn Phòng luật sư Thiên Ân (Ơn Trời) của luật sư Nguyễn Văn Đài. Từ đấy, lý tưởng tranh đấu cho một xã hội công bằng và nhân ái đã trở thành niềm đam mê âm thầm nhưng mãnh liệt trong trái tim nhân hậu của người nữ trí thức trẻ.

    Trong suốt mấy năm đầu, khi linh mục Nguyễn Văn Lý tái phát động cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo, cho nhân quyền, nhân phẩm Việt Nam, cùng với luật sư Nguyễn Văn Đài và nhiều nhà dân chủ khác, Lê Thị Công-Nhân bắt đầu viết những bài tham luận trực diện chỉ trích chế độ độc tài cộng sản về những hành vi xâm phạm quyền sống, quyền làm người của giới lao động trong nước. Cô kịch liệt tố cáo tổ chức Tổng Công Đoàn Việt Nam , một cơ cấu do đảng và nhà nước bảo trợ để ngầm kiểm soát và khống chế công nhân. Những bài viết của cô đã được loan truyền rộng rãi trên các mạng lưới thông tin toàn cầu cùng với những cuộc phỏng vấn của các đài phát thanh quốc tế dành cho cô. Sự kiện này đã chọc giận chế độ. Và giọt nước cuối cùng đã làm tràn ly: cô chính thức gia nhập Khối 8406 do linh mục Nguyễn Văn Lý khởi xướng, công khai nhận làm phát ngôn nhân đảng Thăng Tiến, được mời qua Ba Lan tham dự hội nghị thành lập tổ chức yểm trợ phong trào bảo vệ người lao động Việt Nam1. Mạng lưới công an, mật vụ bắt đầu khép chặt gọng kìm giám sát quanh cô. Tất cả mọi đường đi nước bước của luật sư Lê Thị Công-Nhân đều được con mắt của đảng và nhà nước cộng sản bám sát từng phút giây. Từ đó, những buổi gọi là “làm việc” với cơ quan an ninh Hà Nội ngày càng nhiều.

 
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính những cơn phong ba, bão tố đổ xuống liên tiếp trên thân phận người thiếu nữ nhỏ bé, yếu đuối như cánh hoa trước gió này đã chứng nghiệm giá trị câu tục ngữ trên đây của tiền nhân. Trước những lời vừa phủ dụ vừa hăm dọa của người thẩm vấn tại Sở Công An Hà nội hay trước câu hỏi của phái viên các đài RFI, BBC, VOA, RFA, câu trả lời của người nữ luật sư trẻ Lê Thị Công-Nhân vẫn không hề thay đổi về nội dung cũng như âm sắc. Trầm tĩnh, gan dạ, minh bạch và dứt khoát. Đó là cái gan dạ, minh bạch, dứt khoát phát xuất từ một lập trường quốc gia dân tộc chuyên nhất: nhất quyết không lùi bước trước cường quyền bạo lực, không lý tới sự an toàn sinh mạng của bản thân.
 

    3 giờ 40 phút sáng (giờ Việt Nam) ngày 26-2-2007, nhờ các tổ chức đấu tranh hải ngoại nối mạng, cùng với nhà dân chủ Nguyễn Khắc Toàn, người nữ trí thức trẻ tuổi họ Lê đã có dịp cất lên tiếng nói kiên cường, quả cảm nhưng đầy ắp tình người của cô trong một cuộc biểu tình của đồng hương tại nam California, Hoa Kỳ. Với cách phát ngôn nghiêm trang, chậm rãi như để cân nhắc từng chữ, từng lời khiến người nghe cảm nhận được đến tận cùng nỗi xúc cảm dâng đầy trong tâm hồn người nói, cô cho hay:
 

    “Chỉ còn hơn 3 tiếng đồng hồ nữa thì tôi sẽ bị công an thẩm vấn tại số 87 đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội là trụ sở của công an tại đây. Đây là lần công an Hà Nội gửi giấy triệu tập lần thứ bốn so với lần triệu tập gần đây nhất mà tôi đã kiên quyết khước từ không đi, và rất có thể ngày mai họ sẽ đến áp giải tôi đi thẩm vấn…”

 
    Ở một đoạn khác, Lê Thị Công-Nhân phát biểu tiếp:

 
    “Tôi là thành viên cuối cùng trong 4 thành viên công khai của Đảng Thăng Tiến Việt Nam được công an triệu tập làm việc chính thức, tính từ sau Tết âm lịch cho đến nay. Và thật sự tôi cũng không đoán trước được cụ thể những việc gì có thể xảy ra với tôi. Nhưng tôi xin khẳng định bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm và tình cảm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam là: 
Tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn một mình tôi, trước hết là giành lấy nhân quyền cho chính mình, và giành lấy nhân quyền, dân chủ và tự do cho người Việt Nam. Và Cộng sản Việt Nam đừng có mong chờ bất kỳ một điều gì dù chỉ là thỏa hiệp, chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi.
Tôi không thách thức nhưng Cộng Sản Việt Nam nếu đã hạ quyết tâm thực hiện những hành vi tội ác bằng cách chà đạp lên nhân quyền của người dân Việt Nam và muốn tiếp tục dìm đất nước Việt Nam trong một sự tăm tối về mặt chính trị, nghèo nàn về mặt kinh tế, lạc hậu về mặt văn hóa kéo dài cho tới tận đời con cháu của chúng ta cũng như của chính người Cộng sản thì tùy họ có quyền hành xử với những cái gì mà họ có.
Gia đình tôi đã chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, đó là tôi sẽ bị khởi tố và có thể bị đi tù. Nhưng tôi xin khẳng định một lần nữa: đó vẫn chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra.”


 
    Ẩn sâu trong lời khẳng định sau chót, hẳn đã được cân nhắc chín chắn, trên đây, người ta đọc được dự phóng xa hơn của Lê Thị Công-Nhân. Tù đày chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra thì còn gì khác hơn là cái chết mà chế độ có thể trút xuống tấm thân yếu đuối của cô? Và như thế, hàm ngụ trong đó, người nữ luật sư trẻ đã gián tiếp cho đồng bào trong và ngoài nước, kể cả kẻ thù của cô hiểu rằng: không chỉ tù đày, mà cả khi phải thí mạng sống của chính mình để bảo toàn lập trường và nhân cách, cô cũng dứt khoát không bao giờ chấp nhận thỏa hiệp hay đầu hàng những thế lực của sự ác. Điều này gợi nhớ tới tấm gương kiêu dũng của linh mục Jerzy Popieluszko, linh hướng tình nguyện của tổ chức Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan trong những năm đầu thập niên 1980. Vào những giờ phút căng thẳng bị các lực lượng an ninh vũ trang của chế độ cộng sản Varsovie tìm cách ám hại hòng làm bặt đi tiếng nói đối kháng đầy uy lực của cha, linh mục Popieluszko đã tâm sự với những đoàn viên Công Đoàn Đoàn Kết là: cho dù có phải chấp nhận cái chết thì mọi nỗ lực của cha chỉ có một mục tiêu duy nhất là tiếp tục con đường đấu tranh ôn hòa cho quyền sống và quyền tự do của người dân Ba Lan. 

 
Những động lực thúc đẩy người nữ luật sư mang tên Lê Thị Công-Nhân quyết liệt dấn thân tranh đấu cho nhân quyền, tự do và dân chủ Việt Nam , bất chấp sự an toàn sinh mạng của chính mình, ngoài tư cách con người còn do sự thôi thúc từ lương tâm của người Con Chúa. Cũng trong dịp được nối mạng để lên tiếng tỏ bày ý chí và quyết tâm tranh đấu của mình với công luận trong và ngoài nước sáng sớm hôm 26-2-2007, một thời gian không lâu trước khi bị bắt, cô đã công khai xác định những nhân quyền căn bản mà cô có, không phải ai khác mà chính Thượng Đế đã trao ban cho cô từ thuở lọt lòng. Và vì thế cô quyết tâm bảo vệ. Cho mình cũng như cho hơn 80 triệu đồng bào trong nước. Cô nói:

 
    “Không ai hơn, chính Đấng tạo hóa -Thượng đế đã sinh tôi ra trên cõi đời này nhờ qua một thể xác đó là mẹ tôi và cha tôi, và tôi đã được sinh ra là một con người thì tôi có đầy đủ những nhân quyền cơ bản mà Thượng đế -Đấng tạo hóa đã ban cho tôi, chứ không phải là người mẹ người cha xác thịt đã sinh ta tôi trên đời. Và tôi đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền và tự do cho Việt Nam hoàn toàn xuất phát từ niềm tin, từ lương tâm và trách nhiệm của tôi đối với chính tôi, đối với dân tộc Việt Nam và đối với Đấng tạo hóa đã sinh ra tôi.”
 

 

    Trong một bài nhan đề “Hãy Làm Một Cái Gì Để Không Ân Hận” được phổ biến rộng rãi trên các trang báo điện tử sau khi luật sư Lê Thị Công-Nhân bị cộng sản cầm tù, nhà văn và cũng là chiến sĩ yêu chuộng tự do, dân chủ Nguyễn Xuân Nghĩa ở Hải Phòng đã thố lộ những suy tư của ông khi gặp cô và mẹ cô –bà Trần Thị Lệ như sau:

 
    “Khi Lê Thị Công Nhân xuất hiện, chúng tôi ngắm cô từ xa với thứ tình cảm trộn lẫn giữa kính trọng, quý mến và quan ngại. Nhìn Lê Thị Công-Nhân, tôi ao ước được nhìn thấy cô trên sàn diễn thời trang, trên kịch trường hoặc một cuộc thi hoa hậu chứ không phải giữa vòng vây dày đặc của mật vụ Hà Nội. Một Jeane Darc đã chết như một liệt nữ cho nền tự do của nhân dân Pháp. Lê Thị Công Nhân lọt vào giữa chúng tôi với một chiếc khăn len rộng màu trắng vắt hờ qua đầu, một thân hình nhỏ nhắn trong bộ váy áo màu đen xám sang trọng và nụ cười trẻ trung, tự tin, thông minh cùng một bàn tay dịu dàng. Với riêng tôi cô nói thêm bằng thanh đới trong trẻo, dịu dàng và tin cậy:

      Tôi ước được nắm chặt bàn tay cô thật lâu. Đó là một chiếc lá xanh non của một thân cây xanh non nổi bật giữa hàng ngàn thân cây còn xanh mà đã tàn úa tâm hồn và ý chí đang qua lại ngoài kia vì bị đầu độc bởi học thuyết cộng sản từ trong ghế nhà trường hoặc bị ném vào chiếc máng bố thí bổng lộc của chính quyền, hoặc bị nhào nặn thành nô lệ của nỗi sợ cường quyền, thành những viên bi óng ánh trên truyền hình, trên sàn thời trang, trong hộp đêm và các kỳ thi tuyển Speaker... đặng thay tấm khăn voan che đậy một xã hội ô nhục. Tôi không có can đảm để nói với Lê Thị Công Nhân rằng tôi ước có một người con gái như cô; bởi ngoài tư chất là một người con gái dịu dàng, xinh đẹp, thông thái, có học vấn, Lê Thị Công-Nhân còn mang tư chất của một nhân vật của cộng đồng đau khổ và đang biết phản kháng, một thủ lĩnh tinh thần cho ngay cả lớp đã có tuổi như tôi nữa.

  Đó là hình mẫu của người con gái Việt Nam anh hùng và một người mẹ Việt Nam anh hùng trong một tương lai không xa, đạp đổ hình ảnh phi nhân tính và thô lậu của những “người mẹ Việt Nam anh hùng” made in cộng sản mụ mị tiễn con vào chốn nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn trong cuộc nội chiến Bắc–Nam gây bao đau thương di hận.

 
Bắt giam luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân sau vụ bắt giam linh mục Nguyễn Văn Lý đầu tết Đinh Hợi, khép những nhà hoạt động nhân quyền, dân chủ này vào tội danh “tuyên truyền chống nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” chính quyền cộng sản đã phơi bày bộ mặt nham hiểm, đổi trắng thay đen vi phạm Hiến Pháp, vi phạm Công Ước Nhân Quyền Quốc Tế mà họ đã ký kết.



            Như chúng ta đã biết, tất cả các nước (trừ 4 nước cộng sản còn sót lại) không ở đâu và một chính đảng nào được phép dùng bạo lực đàn áp một chính đảng khác; cũng không một chính phủ nào dám coi việc chỉ trích chính phủ là “chống lại nhà nước”. Tương tự như vậy không còn một lực lượng cảnh sát nào và ở đâu là công cụ của một chính đảng đàn áp một đảng đối lập. Ông Nguyễn Xuân Nghĩa kêu gọi ĐCSVN và lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam hãy suy nghĩ thật nghiêm túc hành vi họ đang làm để không bị mang tiếng là một chính đảng man rợ cùng một công cụ rừng rú trong sinh hoạt chính trị cộng đồng nhân loại. Bạo lực đang và sẽ bị loại trừ hoàn toàn khỏi đời sống chính trị và xã hội loài người.

Và ông Nguyễn Xuân Nghĩa kêu gọi rằng: “Hãy làm một cái gì đó để không ân hận!”

Phụ họa với nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, cựu chiến binh già CS Vũ Cao Quận đã nói về người thiếu nữ trí thức tài danh này bằng những lời lẽ thấm thía, đầy tình nghĩa dồng bào, nhất là tình nghĩa “cha con”, làm xúc động lòng người như sau:

 
“Lê Thị Công Nhân chẳng khác nào một chiếc li pha lê, trong suốt, mỏng manh. Với một người hoạt động dân chủ, ông luôn ao ước có một cô gái xinh đẹp, thông minh, can trường trong lực lượng, một bông hoa giữa gió sương phũ phàng để có cái noi gương và có cái bảo vệ. Nhưng với tâm trạng của một người bố, ông không thể đành lòng để Lê Thị Công-Nhân nhiều phen phải “trần trụi giữa bầy sói” khi bước vào con đường hoạt động chính trị. Còn tôi ví Lê Thị Công Nhân như một viên kim cương quý hiếm đã được mài giũa rực sáng lên, cả trong đời thường và trong môi trường chính trị

      “Với Lê Thị Công Nhân tôi chỉ là một người dưng, một ông già qua đường. Tôi không được phép dám coi cháu như một đứa con gái của mình. Nhưng khi nghe tin Đài và con bị bắt, lòng tôi quặn đau, căm phẫn và vô cùng lo lắng cho con hơn cả con gái của mình. Vì con gái tôi nó vốn là đứa yếu đuối, nhút nhát. Nếu bị bắt, nó sẽ cam lòng khuất phục.   

    Còn con, là đứa con gái bé bỏng nhưng đầy lòng can đảm, nhà cầm quyền cộng sản sẽ tiêu diệt đến cùng lòng dũng cảm của con. Vì theo chúng những kẻ đang chăn dắt một đàn cừu, tính dũng cảm không phải là điều cần có của bất cứ một con nào trong bầy cừu. Và nó sẽ thản nhiên đẩy con trần trụi cho bày sói cắn xé.
 

    Nếu tất cả các vị tôn kính còn chút nước mắt xin hãy nhỏ xuống vì Lê Thị Công Nhân, vì một đứa con gái Việt Nam bé bỏng, yếu ớt. Hãy rủ lòng thương nó như thương một đứa con tội nghiệp mà các vị mạnh mẽ lên tiếng buộc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải trả tự do ngay cho nữ luật sư Lê Thị Công Nhân cùng luật sư Nguyễn Văn Đài chỉ vì 2 luật sư này đã”phạm tội” san sẻ truyền đạt những điều cao thượng, bác ái thuộc về “Dân chủ và Nhân quyền” của nước Mỹ, của nước Pháp, của George Washington, Thomas Jefferson, Franklin Roosevelt, Abraham Lincoln, Bill Clinton, George Bush, của Montesquieu… cho thế hệ trẻ Việt Nam tội nghiệp đang bập bõm về dân chủ và về cái quyền được làm người.

 
    Đằng sau lưng tôi dựa chỉ là cái chết, nhân danh cái chết, tôi xin quỳ xuống van xin các vị, van xin lòng nhân ái của bốn phương trời:
 

    “Hãy vì thân phận nhỏ nhoi của một bé gái ở đất nước VN xa xôi còn đầy khốn khổ này!.


 

Hồi cuối tháng 10 năm 2006, khi cô được mời đến  Warszawa, thủ đô Ba Lan, để tham gia Hội nghị yểm trợ Công Đoàn Độc Lập Việt Nam, cô đã chuẩn bị bài tham luận, nhưng đến phút chót kẻ cầm quyền đã ngăn cản, không cho cô lên máy bay. Tại hội nghị, bài tham luận của cô đã được  tuyên đọc, trong đó cô phân tích rõ Tổng Công Đoàn Việt Nam tuy mang danh là tổ chức cúa công nhân lao động, nhưng thực ra chẳng bảo vệ gì quyền lợi cho công nhân lao động cả, trái lại hùa theo cán bộ ĐCS để bảo vệ quyền lợi của giới chủ nhân, chính vì thế công nhân lao động cần thành lập tổ chức riêng của mình là các công đoàn tự do để bảo vệ quyền lợi cho mình. Đó là một việc làm hoàn toàn hợp lý và hợp pháp. Cô còn kêu gọi mọi người, mọi tổ chức ra sức yểm trợ cho Công Đoàn Độc Lập mới ra đời trong nước.

    Tháng 9-2007, khi bị chủ tịch Quốc hội Ba Lan, ông Bogdan Borusewicz hạch hỏi ráo riết về tình trạng tự do, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam tiếp tục bị chà đạp, điển hình là những nhà tranh đấu bất bạo động như linh mục Nguyễn Văn Lý, các luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công-Nhân bị bắt bớ và kết án phi pháp, thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng đã hứa là sẽ để cho cô Công-Nhân qua sống ở Ba Lan. Rõ ràng là CS đã coi thường các ý nguyện tự do dân chủ của người dân và bạc đãi chính con dân mình như thế. Thật không còn một chính quyền nào hèn hạ và tồi tệ đến như vậy!


Luật sư Lê Thị Công Nhân cũng đã viết một bài công phu, phân tích việc bỏ Nghị định 31 CP về quản chế hành chính, mà thực ra là nhà cầm quyền đã đưa việc quản chế hành chính vào các văn bản pháp lý khác. Đến ngày 06.03.2007, kẻ cầm quyền đã ra lệnh bắt giam cô tại Hà Nội. Sau đó toà án CS đã kết án luật sư Đài 5 năm tù giam, 4 năm “tù” quản chế, luật sư Công Nhân 4 năm tù giam, 3 năm “tù” quản chế!


Nhưng trong nhà tù, Công Nhân vẫn tiếp tục đấu tranh. Những ai đã từng biết nhà tù cộng sản, đều hiểu rõ tính chất độc ác, phi nhân của nó. Vì ĐCS và kẻ cầm quyền muốn dùng nhà tù để đày đoạ tù nhân về thể xác và tinh thần, bắt họ phải sống trong cảnh chật hẹp, bẩn thỉu, nóng bức, mất vệ sinh, bắt phải làm việc vất vả, phải chịu đựng những cảnh bạo hành, đâm chém, cướp giật diễn ra hàng ngày trong tù, lại thường xuyên bị đám cai tù (mệnh danh là quản giáo) trấn áp về mặt tinh thần và tâm lý cốt đè bẹp ý chí phản kháng của tù nhân chính trị, bắt họ phải khuất phục, đầu hàng. Xin các bạn cứ thử hình dung một tù nhân chính trị mà bắt phải sống chung với đám tù hình sự, trong đó không ít kẻ lưu manh tay đã từng nhuốm máu tội ác! Một người con gái mảnh mai như Công Nhân, quen sống trong môi trường có văn hoá, có giáo dục, tâm hồn trong trắng nay bị đày đoạ trong một cuộc sống kinh khủng như vậy thì đủ hiểu thấu tâm trạng của cô khi phải ở tù. Kẻ thù muốn cô cúi đầu khuất phục, nhưng cô vẫn hiên ngang ngẩng cao đầu.

Cô không hề chùn bước, cô vẫn giữ vững khí tiết bất khuất của mình. Những lời nói nồng nhiệt của cô sáng ngày 26.02.2007 vẫn còn mãi mãi âm vang “…
Nhưng tôi xin khẳng định bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm và tình cảm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam là: tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn một mình tôi, trước hết là giành lấy nhân quyền cho chính mình và giành lấy nhân quyền, dân chủ và tự do cho người Việt Nam. Và Cộng sản Việt Nam đừng có mong chờ bất cứ một điều gì dù chỉ là thoả hiệp, chứ đừng nói là đầu hàng về phía tôi…”.


Đúng là trái tim nóng bỏng của cô bơm trong huyết quản dòng máu hào kiệt của Hai Bà Trưng, Bà Triệu và của muôn nghìn vị Anh hùng tiên liệt của Tổ quốc Việt Nam. Dòng máu đó đã giúp cô đứng vững trước cơn bão táp bạo tàn mà ĐCS và giới cầm quyền toàn trị đã trút xuống đầu cô. Giới trẻ Việt Nam ngày nay có quyền tự hào là đã có một nữ anh hùng kiệt xuất trong thời đại đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền để mà noi gương. Dân tộc Việt Nam cũng tự hào đã có một người con trung kiên như thế biết yêu nước, thương dân rất mực.

Chính vì thế, khi được tin Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam đã tiến cử luật sư Lê Thị Công Nhân – người đã từng được Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam trao Giải Nhân Quyền năm 2007 nhân Ngày Quốc Tế Nhân Quyền 10 tháng 12 năm 2007– làm ứng viên Giải Nhân Quyền Gwangju 2008 của Nam Hàn thì mọi người dân chủ trong và ngoài nước đều nhiệt liệt hoan nghênh, đều cầu mong cho ứng viên Lê Thị Công Nhân sẽ được trúng giải.

Trong ngày phát hành tem thư Lê Thị Công Nhân và cuốn sách Nhị Kiều Nước Nam do Cộng đồng NVTD tại Úc châu tổ chức trước đây, tác giả Bảo Giang đã thu thập những bài vở thật giá trị của nhiều tác giả trong và ngoài nước cũng như những bài thơ yêu nước đẫm lệ để cùng nhau nói lên tiếng nói bất khuất của một Nhị Kiều Nước Nam rằng: “Cuộc đấu tranh này sẽ ngày càng phát triển vì đây là một hiện thực khách quan. Hai tiếng Nhị Kiều nước Nam ngày xưa chúng ta vẫn hằng nghe khi nói đến gương anh hùng liệt nữ của Hai Bà Trưng, Bà Triệu”. Ngày nay tác giả Bảo Giang muốn dùng tiếng Nhị Kiều nước Nam để nhân danh hai người phụ nữ, một ở trong nước và một ở ngoài nước cũng song hành tranh đấu cho Tự do dân chủ và Nhân quyền cho VN. Đó là Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh tại Hoa kỳ và luật sư Lê Thị Công Nhân tại VN mà quý đồng hương chắc cũng đã nghe những lời ca ngợi tận đáy lòng của Nhạc sĩ Nam Lộc và Bà Dương Nguyệt Ánh trong cuốn băng Asia 56.  Nhạc sĩ Nam Lộc nói: “Trong nỗi khốn cùng của dân tộc, đất nước VN hôm nay đang có một người con gái phi thường mang tên Lê Thi Công Nhân".
Bà Dương Nguyệt Ánh phát biểu  “Trong bóng tối của đàn áp bất công, họ là những thiên thần đem ánh sáng soi đường cho lương tâm nhân loại. Trong đêm đen của lịch sử VN, họ chính là những bàn tay dẫn dắt dân tộc dành lại Tự do Công bình Bác Ái cho một bình minh VN.”
Theo tác giả Bảo Giang thì đất nước VN hôm nay không thể thiếu một trong Nhị Kiều. Họ có thể là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta trong giai đoạn này. Chúng tôi xin dùng lời kết luận của tác giả Bảo Giang về cuốn Nhị Kiều Nước Nam để kết thúc đề tài này “Nếu Nhị Trưng xưa, nay lại lên đường, nhất hô vạn ứng thì đường lưu đày sẽ không còn nước mắt. Trái lại toàn dân ta sẽ reo mừng trong ngày Hội Tự do dân chủ và Nhân quyền. Khi ấy ký sinh ở mồ Ba Đình có ngã đổ vật xuống dưới chân Nhị Kiều và toàn dân nước Nam mà nhận lấy án lệnh của công lý thì cũng là lẽ thường, chẳng có gì là lạ"./-

* Nguyễn Triệu Việt

 

@ Tài liệu tham khảo:
- Bảo Giang, "Nhị Kiều Nước Nam ", Úc châu 2008
- Gs Nguyễn Thanh Trang, Mạng lưới Nhân Quyền, Bài phỏng vấn 3/2008
- Trần Phong Vũ, "Lê Thị Công Nhân - Người con cưng của Thượng Đế", Nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân số 72, Little Saigon, CA,11/2007. 

- Trần Thị Lệ, "Đôi nét về Ls Lê Thị Công Nhân", Hà nội, 7/2007
- Trung Tâm Băng Nhạc Asia 56, USA , 2008
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #19 - 08. Mar 2010 , 20:36
 
Lời báo động của Ls Lê Thị Công Nhân trước khi bị bắt
:
          
“Chúng Tôi đang bị đàn áp khốc liệt”.




Kính tặng nữ Luật Sư  Lê Thị Công Nhân với lòng ngưỡng mộ.





Tôi chỉ làm được cái bổn phận của tôi, tôi không thể làm được cái phần của 90 triệu người Việt Nam”.


Câu trả lời của nữ luật sư Lê Thị Công Nhân với anh Tường Thắng khi người luật sư trẻ này vừa từ ngục tù cộng sản được thả về nhà. Câu nói đầy cảm động và vô cùng thấm thía. Dù cùng vui mừng vớí Bà Trần Thị Lệ với niềm vui khi đứa con gái thân yêu được thoát khỏi nhà tù nhỏ, nhưng không khỏi xót xa khi nghe lời người  trẻ nói lên cái tâm trạng rất thực của những người dấn thân vào cuộc đấu tranh đòi tự do dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Từ cảm xúc này, tôi xin ghi lại : Lời báo động của LS Lê Thị Công Nhân trước khi bị bắt vào năm 2007: “CHÚNG TÔI ĐANG BỊ ĐÀN ÁP KHỐC LIỆT”

...

                                 
    LS Lê Thị Công Nhân trước phiến toà 11-5-2007 tại Hà Nội



Từ Hà Nội, trước khi bị bắt, nữ Ls Lê Thị Công Nhân đã cất lên tiếng kêu như một lời báo động khẩn cấp:
“Chúng tôi đang bị đàn áp khốc liệt”.
Lời báo động này được vang vọng từ ngày VC mở chiến dịch tổng càn quét, khủng bố các nhà dân chủ tại Việt Nam khởi đầu từ Tết Đinh Hợi năm 2007, được xuất phát tại Cố Đô Huế, rồi lan rộng đến Hà Nội, Sài Gòn, và nhiều nơi khác trên đất nước Việt Nam.



Cuộc đàn áp xẩy ra chỉ hơn một tháng, sau khi Quốc tế chào đón Việt Nam là thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức Mậu dịch Thế giới WTO tại trụ sở Thương mại Thế giới Thuỵ Sĩ vào trung tuần tháng 01 năm 2007. Hà Nội với chủ trương lừa bịp, dối trá trước sau nhự một, với cái luận cứ ngoan cố đầy trơ trẻn: “tại Việt Nam không có ai là tù chính trị, không có ai bị bắt vì bất đồng chính kiến mà tất cả đều vi phạm luật”. Bởi vậy, họ đã ngang nhiên đàn áp các nhà dân chủ.



Sở dĩ Hà Nội mạnh dạn ra tay đàn áp các nhà dân chủ một cách thô bạo, lúc bấy giờ họ thấy rằng : Hoa Kỳ đã cấp Giấy Chứng Nhận cho họ rồi như: được rút tên ra khỏi danh sách các nước đặc biệt quan tâm(CPC), được cấp qui chế tối huệ quốc (PNTR). Đây là những chứng từ mà Hà Nội lấy đó để bảo đảm với thế giới rằng:
“Chúng tôi đã ngoan ngoản muốn hội nhập vào cộng đồng thế giới thật sự rồi, chúng tôi đã cải thiện về nhân quyền và tự do tôn giáo rồi, Mỹ đã công nhận rồi đấy”.
Bởi vậy, thế giới đã chào đón Việt Nam vào Cộng đồng quốc tế trong tổ chức WTO với niềm lạc quan và đầy tin tưởng, khi nghĩ rằng:Việt Nam đã thật sự có thiện chí và muốn hội nhập . Nhất là khi nghĩ đến lợi nhuận, họ nhìn vào thị trường béo bở với dân số trên 85 triệu người, với nhân công rẻ mạc, với sức lao động cần cù của đa số người dân Việt Nam, họ tha hồ thu lợi nhuận…Ông Adam Sitkoff, Giám đốc chấp hành phòng thương mại Mỹ tại Hà Nội nói sau khi Hà Nội trở thành thành viên chính thức của WTO: “Mỗi ngày tới, là một cơ hội cho Việt Nam để nền kinh tế trở nên cạnh tranh hơn và vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho nhân dân”(sic)( tin AFP phổ biến  trên báo điện tử Ngoại Giao VC).



Lại nữa, trước phản ứng chậm chạp và thiếu mạnh mẽ của thế giới, nhất là Hoa Kỳ, nên VC đã không sợ chi ai, và họ đã cho tiến hành qui mô cuộc đàn áp khốc liệt. Bởi vậy, lúc bấy giờ LS Lê Thị Công Nhân đã lên tiếng báo động với thế giới: “Chúng tôi đang bị đàn áp khốc liệt”



Phiên tòa bịt miệng ngày 30-3-2007 xẩy ra tại Huế đã bỏ tù 3 nhà đấu trang tại Huế : Linh mục Nguyễn Văn Lý, Anh Nguyễn Phong, Nguyễn Bình Thành và phạt án tù treo cô Hoàng Thị Anh Đào, cô Lê Thị Lệ Hằng. Tiếp đến ngày 3-5-2007, tại Đồng Tháp, VC đã kết án các Tín đồ Phật giáo Hoà hảo Thuần tuý như Ông Nguyễn Văn Thơ, Hội trưởng Giáo hội PGHH Thuần tuý 6 năm tù giam- Bà Trương Thị Tròn, Hội trưởng Phụ Nữ Từ thiện PGHH tỉnh Đồng Tháp 4 năm tù giam- Ông Lê Văn Sóc , Phó hội trưởng Giáo hội PGHH tỉnh Vĩnh Long 6 năm tù giam- Anh Nguyễn Văn Thùy, Tổng vụ Thanh Niên PGHH tỉnh Vĩnh Long 5 năm tù giam.Vào trung tuần tháng 5, chỉ trong vòng một tuần lễ từ 10 đến 15 tháng 5, VC đã kết án 6 nhân vật đòi tự do dân chủ cho Việt Nam gồm Bs Lê Nguyên Sang 5 năm tù giam, 2 năm quản chế- Ký giả Huỳnh Nguyên Đạo 3 năm tù giam, 2 năm quản chế- Bs Nguyễn Bắc Truyển 4 năm tù giam, 2 năm quản chế- Ls Lê Thị Công Nhân 4 năm tù giam, 3 năm quản chế- Ls Nguyễn Văn Đài 5 năm tù giam, 4 năm quản chế- Ls Trần Quốc Hiền 5 năm tù giam, 2 năm quản chế. Ngoài ra VC cũng đã sách nhiễu Ks Đỗ Nam Hải và tiến hành bắt bớ trái phép những người ủng hộ Khối 8406, cùng những người bất đồng chính kiến như Trương Quốc Huy, Ls Lê Quốc Quân, Ls Nguyễn Thị Thùy Trang, nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ, dân oan Hồ Thị Bích Khương. Qua đó, rõ ràng lời báo động của Ls Lê Thị Công Nhân quả không sai:
“Chúng tôi đang bị đàn áp khốc liệt”.



Ls Lê Thị Công Nhân, một người thuộc thế hệ trẻ, mới 28 tuổi đời vào năm 2007, có bằng cấp, có điạ vị trong xã hội, tương lai cũng rạng rỡ lắm chứ? Nếu biết phấn đấu chịu khó cúi đầu đi theo con đường mà bác và đảng đã vạch ra cho tuổi trẻ Việt Nam từ thuở còn là cháu ngoan bác Hồ, cứ phấn đấu để vào Đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, cứ phấn đấu ngoan ngoản để được trở thành đảng viên nòng cốt, như thế cuộc đời giàu có và sung túc mấy hồi ! Thế nhưng Ls Lê Thị Công Nhân lại chọn con đường đầy gian khổ, đó là con đường
yêu nước mà không yêu xã hội chủ nghĩa,
nên đã phải bị đàn áp, bị hăm doạ, bị ép cung, và bị kết án tù với tội danh rất ư là hảnh diện:“
Tội chống phá nhà nước CHXHCNVN
”. Nhà nước nầy là một nhà nước đã gieo không biết bao nhiêu tang tóc cho cả dân tộc Việt Nam, nên cái gọi là chống phá nhà nước theo Bộ luật hình sự mà bọn bạo quyền đặt ra để bịt miệng toàn dân không được hé môi, mở miệng, thì việc chống phá của các nhà đấu tranh dân chủ như Ls Lê Thị Công Nhân đang thực hiện, thật đáng trân quý để ghi vào lịch sử nước Việt, để được vinh danh muôn thuở.

Hình ảnh trước toà án của bạo quyền VC, Ls Lê Thị Công Nhân không một chút sợ sệt vì đã chấp nhận chuyện phải chịu tù tội rồi, nhìn nét mặt bình thản, thật đáng kính phục, nhất là khi công tố bạo quyền đọc bản cáo trạng và hỏi cô ta: “tất cả các hành vi đó, có cấu thành tội hay là không?” cô  Công Nhân đã hiên ngang trả lời: “
Chắc chắn là không
”. Câu trả lời của Ls Lê Thị Công Nhân ngắn gọn, rõ ràng, phải chăng đó là phát súng lệnh bắn vào đầu bọn Bắc Bộ phủ: “
Các ông mới là người có tội. Tôi đòi tự do cho toàn dân mà có tội sao?”.
Không rõ, bọn đầu nảo, khi chỉ đạo qui chụp bản án cho Ls Lê Thị Công Nhân, nghe vậy có giật mình không, có cảm thấy nhục nhã không? Lúc bấy giờ, trước khi xử án Ls Lê Thị Công Nhân cũng như Ls Nguyễn Văn Đài, nhà nước VC  đã cho trình diễn màn hỏi cung trên đài truyền hình VTV1 Hà Nội. Tôi coi lại đoạn Video đó, nhìn nét mặt tươi tỉnh của cô gái Hà Nội. Một người trẻ được sinh ra  và lớn lên trong vòng kềm kẹp của chế độ bạo tàn, được tôi luyện bởi chủ nghĩa Mác-Lê trong suốt cả những năm tháng dài trên ghế nhà trường. Nhưng Ls Lê Thị Công Nhân, trước ống kính truyền hình của bạo tàn, đã thành thật nói lên cái tâm của mình không chút e ngại, không chút sợ hãi, cô ta nói : “
Khi mà tôi tham gia những tổ chức như vậy, rồi viết những bài viết như vậy, trả lời phỏng vấn thế nọ thế kia, thì nói chung là tôi rất cảm thấy thoải mái. Cái lý tưởng của mình, cái hiểu biết của mình và cái kiến thức của mình, tôi cảm thấy thoải mái.”



Trong lời báo động: “
Chúng tôi đang bị đàn áp khốc liệt”
của Ls Lê Thị Công Nhân, người nữ trẻ tuổi này đã bày tỏ nguyện vọng của mình một cách thiết tha và cụ thể. Đây là cái tâm của một người yêu nước thật sự và có cái nhìn rất thực tế, đầy ý nghĩa , nàng đã trân quý và thấy được tầm vóc giá trị lớn lao về mọi mặt của lực lượng người Việt hải ngoại, nên Ls Lê Thị Công Nhân đã thốt lên lời van nài:
“Hởi đồng bào hải ngoại: Xin ngưng về Việt Nam, nếu không cần thiết- Xin ngưng gởi tiền về Việt Nam, nếu thấy không cần thiết…”




Vâng, “khúc ruột xa ngàn dặm” mà chính VC thường rêu rao, luôn tìm cách tâng bốc, ca tụng chính là ở điểm này đây. Hàng năm từ khúc ruột xa ngàn dặm này, đã góp phần vào việc nuôi sống và duy trì chế độ bạo tàn với một số tiền gởi về khá lớn, năm, sáu tỉ mỹ kim mỗi năm đâu phải chuyện tầm thường? Hãy nhìn lại cả miền Nam trước 1975 đi. Thời đó, Mỹ viện trợ cho VNCH cao điểm nhất, cũng chỉ lên đến một tỉ mỹ kim là cùng, tính luôn cả đạn dược súng ống, quân trang, quân dụng hàng năm, cho nên, có ông tướng nào của miền Nam lúc đó có được cả triệu đô trong tay như những ông trời con dưới chế độ cộng sản bây giờ? Số tiền khổng lồ mà người Việt hải ngoại gởi về bằng đô la đều lọt vào trong tay những ông trời con này hết, và chúng đã in ra những tờ giấy vô giá trị để phát lại cho thân nhân của chúng ta xài, cho nên chúng đã trở thành một lũ tư bản đỏ. Cảnh áo gấm về làng trong những dịp Tết lên đến ba bốn trăm ngàn “khúc ruột xa ngàn dặm” về vui chơi, ăn Tết thỏa thích cũng làm cho cô Công Nhân và những người đang bị đàn áp đau lòng lắm chứ? Những nhà tranh đấu trong nước, chắc chắn họ đau lòng khi nhìn lại việc tiếp tay gián tiếp hay trực tiếp nuôi sống chế độ bạo tàn của lực lượng hải ngoại, bằng những số tiền khổng lồ này, bằng những chuyến du lịch thảnh thơi…Làm sao đây ?
“Hởi đồng bào hải ngoại, xin ngưng về Việt Nam, nếu thấy không cần thiết- Xin ngưng gởi tiền về Việt Nam, nếu thấy không cần thiết.
”Gần đây có những người chuyên lo tổ chức các chuyến du lịch Việt Nam, du lịch để tham quan những danh lam thắng cảnh là tốt thôi, nhưng lại không thấu được nổi đau của toàn dân đang sống trong cuộc sống bị kềm kẹp của bạo quyền thì có đáng tham quan danh lam thắng cản không?Có nên suy nghĩ điều này chăng?



Đến đây, tôi lại liên tưởng đến người mẹ của Ls Lê Thị Công Nhân, Bà Trần Thị Lệ, một người mẹ đã luôn vun xới cho con gái mình một ý chí sắt đá, một ý chí quật cường qua những lần minh xác: “
con tôi là người yêu nước”.
Có người mẹ nào lại không đau lòng, hốt hoảng khi thấy con mình bị hành hạ, bị tù tội. Nhưng với lòng yêu nước cao hơn, nên đã đưa bà mẹ này đi về cùng dân tộc với những quặn đau và chỉ tìm được niềm an ủi với tấm lòng trung thực, can đảm khi quả  quyết“
Con tôi là người yêu nước
”. Xin cám ơn Bà, cám ơn các Bà Mẹ đang quặn đau khi những đứa con vào tù, khi con mình bị kết án chống phá nhà nước CHXHCNVN, cám ơn Mẹ Việt Nam.



Vâng, những người đã và đang chịu tù tội, đã và đang bị cộng sản Việt gian kết tội chống phá nhà nước, đang bị đày đọa ở chốn ngục tù , là những người yêu nước của con dân Việt Nam, đáng được ghi vào sử sách oai hùng của một thời chiến đấu của các vị anh hùng không súng đạn, không một tấc sắt trong tay với bạo quyền Việt gian cộng sản trong thế kỷ  21.



Lời báo động của Lê Thị Công Nhân : “
Chúng tôi đang bị đàn áp khốc liệt “
đã có một giá trị lớn lao, đã tố cáo mạnh mẽ về thực trạng đàn áp nhân quyền tại Việt Nam. Nhất là thế giới đã thấy rõ bộ mặt đích thực, đầy tàn bạo, xảo quyệt, dối trá, man rợ của Hà Nội qua tấm hình “Bịt Miệng” Cha Lý, dưới bàn tay hộ pháp của tên công an gian ác Nguyễn Minh Tân trong phiên tòa ngày 30-3-2007 tại đất Thần Kinh Huế, đã làm tăng thêm giá trị lời kêu gào của Ls Lê Thị Công Nhân.



“Bịt Miệng “ Cha Lý, một hình ảnh ô nhục, có một không hai trên thế giới và trong lịch sử nhân loại, đã đánh thức lương tâm con người khi nhìn thấy rõ ràng sự đau thương của Việt Nam dưới chế độ cộng sản.



Hỡi những ai còn cam tâm tiếp tay hợp tác, đánh bóng và nuôi dưỡng hay đứng chung với hàng ngũ chế độ cộng sản Việt gian bạo tàn này . Hãy sớm nhận ra rằng: cộng sản Việt gian là bọn tội đồ của Dân tộc Việt Nam.



Quả đúng, Ls Lệ Thị Công Nhân chỉ làm được cái phần của cô, chứ không  thể làm thay cho 87 triệu người Việt trong nước và hơn 3 triệu người Việt hải ngoại.


Nguyễn An Quý.
Back to top
« Last Edit: 14. Mar 2010 , 22:13 by admin »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Thiên-Nga
Gold Member
*****
Offline


Đặng-Mỹ

Posts: 968
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #20 - 12. Mar 2010 , 00:05
 
Luật sư Công Nhân: 'Đã hy sinh phải hy sinh đến cùng'


Nữ luật sư trẻ Lê Thị Công Nhân, một nhà bất đồng chính kiến và cũng là một người tranh đấu đòi hỏi dân chủ-nhân quyền tại Việt Nam, vừa mãn hạn tù sau bản án 3 năm về tội danh “tuyên truyền chống phá nhà nước.”



Trà Mi - VOA | Washington, DCThứ Ba, 09 tháng 3 2010

Một luật sư Công Nhân trước và sau 3 năm tù giam có gì thay đổi? Sau những gì trải nghiệm, ý chí, niềm tin, và sự khao khát về một nền dân chủ của cô gái 31 tuổi được nhiều người biết đến và ca ngợi như một “thiên thần trong bóng tối” giờ đây như thế nào? Đó là một số câu hỏi được đặt ra trong cuộc trao đổi hôm nay với người bạn trẻ từ Hà thành, Lê Thị Công Nhân.

Câu chuyện của chúng ta được bắt đầu từ những tháng ngày trong trại giam. Công Nhân kể lại: 

Công Nhân: Buồng giam của tôi trung bình có khoảng 60 người. Gần một nửa trong số này là án chung thân. Tôi là người hiếm hoi trong đây bị tù đầu, tức là chưa có tiền án, tiền sự, mà lại án ngắn là 3 năm. Nhà tù thì quá tải. Ví dụ mỗi người đựơc quy định chỗ nằm là 2 mét vuông, mọi người được chiều dài là 2m, nhưng chiều ngang chỉ còn được 60cm, vai kề vai.

Trà Mi: Thế còn lịch sinh hoạt như thế nào ạ?

Công Nhân: Buổi sáng 5 giờ kẻng thức dậy. Buổi tối 5 giờ rưỡi điểm danh nhốt vào trong buồng giam.

Trà Mi: Trong ngày chị phải làm những công việc gì?

Công Nhân: Có nhiều công việc khác nhau. Đội thêu, đội ra đồng trồng rau, trồng lúa, nuôi lợn, làm hàng mã, móc ren..v.v… Họ phân công tôi cắt cỏ, tưới cây, lau nhà quét nhà.

Trà Mi: Làm cùng công việc trong suốt 3 năm?

Công Nhân: Hơn hai năm tại trại cải tạo, còn ở trại tạm giam Hoả Lò thì không làm những việc đó.

Trà Mi: Ngoài giờ lao động, chị có được đọc sách, học tập, xem thông tin qua báo đài thế nào chăng?

Công Nhân: Vào những giờ nghỉ, họ cho mình xem TV. Họ cũng cho mình đọc sách báo. Cũng nhiều loại sách báo, nhưng trại cấm đọc những sách báo về tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên Chúa. Họ tịch thu hết tất cả kinh thánh. Tôi là tù nhân duy nhất được có quyển kinh thánh để đọc.

Trà Mi: Cuốn kinh thánh đó là của gia đình chị chuyển vào hay là...

Công Nhân: Đây là cuốn kinh thánh mà Ủy ban Tôn giáo Hoa Kỳ họ vào gặp tôi khi tôi ở Hoả Lò, được dẫn đầu bởi ông Nguyễn Văn Hưởng, thứ trưởng Bộ Công an. Vì ông Hưởng dẫn họ vào nên tôi mới được giữ quyển kinh thánh. Và việc giữ lại quyển kinh thánh đó cũng là một cuộc tranh đấu. Họ cho phép tôi nhận trước mặt những người kia như là một trò hề. Khi tôi đem vào buồng giam thì họ lại không cho. Và đây cũng là một cuộc tranh luận rất căng thẳng. Từ Hoả Lò họ cho phép tôi dùng, nhưng khi tôi chuyển về trại giam ở Thanh Hoá thì họ thu luôn của tôi, dẫn đến việc tôi tiếp tục nhịn ăn vì họ thu kinh thánh của tôi. Trước khi chuyển trại 1 tuần, tôi đã nhịn ăn ở Hoả Lò, phản đối việc trại cho chúng tôi ăn quá bẩn thỉu. Nói về bẩn thỉu thì ô uế, hôi thối không thể tả được, vì nhà vệ sinh ở ngay chỗ nằm luôn. Khi vào đấy, tôi cảm thấy là địa ngục cũng không đến mức như vậy. Đây là vấn đề nhân quyền và tôi sẽ kể lại một cách chi tiết trong một dịp khác.

Trà Mi: Trong lúc chị bị giam, chị có biết những dư luận bên ngoài liên quan đến bản án của mình như thế nào không?

Công Nhân: Thông tin cơ bản nhất thì có, nhưng những tình tiết thì quả thật là không. Mẹ tôi lên thăm chỉ nói được sơ sơ ví dụ như anh Định bị bắt rồi, chẳng hạn vậy, chứ không thể nói được hơn. Nếu không, họ sẽ không cho gặp. Chúng tôi lại có những nguồn thông tin rất đặc biệt. Những người tù có quan hệ tốt với cán bộ do đút lót bằng tiền thường có những tờ báo bị cấm mang vào tù như báo An ninh hay báo Công an. Qua đó thì tôi cũng có biết, nhưng tất nhiên tôi phải có kỹ năng đọc báo của riêng tôi. Khi họ chửi một vấn đề gì đấy ghê gớm thì mình phải hiểu thêm một hướng ngược lại. Tôi luôn phải đọc báo theo kiểu hai bán cầu não phải hoạt động theo 2 hướng khác nhau.

Trà Mi: Những tờ báo đó là báo chính thống của nhà nước. Vì sao họ lại cấm không cho mang vào tù?

Công Nhân: Họ bảo sợ mình biết được những thông tin rồi lật cung, thông cung.

Trà Mi: Hồi nãy chị có chia sẻ là trong lúc chị bị giam có phái đoàn của Ủy ban Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ vào thăm. Ngoài ra, có những cuộc thăm viếng nào khác của các phái đoàn quốc tế không chị?

Công Nhân: Khi tôi chuyển ra trại Thanh Hoá, đại sứ Hoa Kỳ có đến gặp tôi.

Trà Mi: Cuộc gặp đó diễn ra trong bao lâu? Nội dung chính như thế nào?

Công Nhân: Trong 30 phút, hoàn toàn là những lời hỏi thăm hết sức thân tình. Tôi cảm thấy rất xúc động.

Trà Mi: Tin cho biết phía Hoa Kỳ có ngỏ ý can thiệp, đòi hỏi sự phóng thích cho chị bằng cách muốn đưa chị sang Mỹ tị nạn chính trị, nhưng chị đã từ chối. Điều này có đúng không ạ?

Công Nhân: Tôi biết điều đó qua công an vào tháng 6/2008. Ngài đại sứ Hoa Kỳ gặp tôi vào tháng 10. Từ tháng 6, công an vào thẩm vấn tôi trong trại 2 ngày liên tục. Họ có nói với tôi rằng: “Bây giờ Công Nhân có muốn đi nước ngoài không. Muốn đi thì nói một tiếng thôi, nhà nước sẽ tạo điều kiện hết sức, đưa thẳng luôn ra Nội Bài đi luôn. Bởi vì bên Mỹ họ nhận bảo lãnh cho em đấy.” Đến giờ phút này tôi chưa nghĩ đến việc đi tị nạn chính trị.

Trà Mi: Chị có thể cho biết lý do?

Công Nhân: Chúa an bài cho tôi một cuộc sống ở một nơi khác thì tôi sẽ vui mừng trong sự an bài đó, nhưng bây giờ tôi không cảm thấy điều đấy. Còn về mặt lý trí, tôi sẽ đi tị nạn chính trị khi nào mà cuộc sống của tôi bị chà đạp đến mức độ tôi không thể chịu đựng được nữa. Nhưng bây giờ thì tôi vẫn còn chịu đựng được. Cho nên tôi không hề nghĩ về chuyện đi tị nạn chính trị vào lúc này. Cái tự do quan trọng nhất là tự do trong tư tưởng, trong tâm hồn, thì tôi đã có. Ở Việt Nam bây giờ tôi không được tự do về mặt thân thể, về mặt đi lại. Những cái đó, tới thời điểm này tôi vẫn còn đang chịu đựng được.

Trà Mi: Đối với việc nhà nước Việt Nam đồng ý cho phép chị tự do sớm hơn thời hạn với điều kiện chị phải xuất ngoại, chị suy nghĩ gì về điều này?

Công Nhân: Tôi cảm thấy rằng cứ như họ tống được con nhỏ này đi thì thật là nhẹ nợ. Không có chuyện đó đâu, chưa đến, chưa đến lúc.

Trà Mi: Có nhiều ý kiến cho rằng “nước có quốc pháp, gia có gia uy”, nghĩa là công dân một nước phải tuân theo với điều kiện luật pháp của nước đó, nhất là đối với người luật sư am hiểu luật lệ thì chắc chắn phải hiểu điều đó hơn ai hết. Vì chị đi ngược lại với những điều pháp luật quy định nên mới gặp phải những điều không hay phải gánh chịu như vậy. Phản hồi của chị trước những ý kiến đó như thế nào?

Công Nhân: Tôi nghĩ rằng họ đang nói theo hướng nguỵ biện. Pháp luật là sự chính thức hoá những thoả thuận trên cơ sở những thoả ước bắt nguồn từ những điều đơn sơ nhất, những hình thức đơn giản nhất để tạo thuận lợi cho mọi người trong xã hội được sống, làm việc, và tiến bộ. Họ bảo pháp luật của Việt Nam là như thế. Đúng. Họ quy định như vậy thật, nhưng cái đúng này không phải là cái “đúng chân lý” mà là cái “đúng sự kiện”, rằng có cái việc họ quy định như vậy. Chúng ta đừng nhầm lẫn các từ “đúng” ở đây. Họ đề ra quy định sai, khi tôi vi phạm cái quy định sai của họ thì họ khẳng định rằng: “Đúng rồi, cô Công Nhân này đã vi phạm quy định”. Nhưng họ không xét đến cái quy định ấy là gì. Nếu không có sự cởi mở, nếu luôn bảo thủ là mình đúng, mình đã hoàn hảo, thì lấy đâu ra sự tiến bộ và phát triển? Tại sao nó sai mà được duy trì? Bởi vì không có người kịp phát hiện ra. Vậy khi có một người kịp phát hiện ra điều đó sai, người đó phải chuẩn bị tinh thần đối diện với một nhóm rất đông những người cho rằng anh ta đã sai, còn họ mới là đúng.

Trà Mi: Nhưng lập luận của nhà nước Việt Nam thì cho rằng mỗi nước có luật lệ riêng, đặc điểm riêng về văn hoá, bản sắc, cũng như luật lệ. Giả sử như ở Thái Lan có điều cấm không được xúc phạm nhà vua, thì ở Việt Nam có điều cấm không được tuyên truyền chống phá nhà nước. Phản hồi của chị ra sao?

Công Nhân: Nhà nước của họ không hoàn hảo, chúng tôi chống lại những điều không hoàn hảo đó, thì chúng tôi đúng. Như thế nào gọi là “tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCN Việt Nam”?

Trà Mi: Giữa lúc chưa có sự rõ ràng đó, những người nào vi phạm, tức vượt qua lằn ranh cho phép ấy, sẽ trở thành những nạn nhân bất đắc dĩ…

Công Nhân: Trường hợp của tôi cũng không hẳn là bất đắc dĩ. Tôi cố ý làm những việc này, tôi xác định trước tôi sẽ là nạn nhân. Tôi hoàn toàn biết. Tất nhiên là không thể biết cụ thể ngày giờ nào tôi sẽ bị bắt.

Trà Mi: Biết trước những điều không hay có thể xảy ra cho mình mà chị vẫn dấn thân vào. Điều gì đã khiến chị có một niềm tin mãnh liệt như vậy?

Công Nhân: Muốn phát triển tốt lên, cần phải thay đổi những cái gì xấu đang hiện diện. Mình đã xác định tranh đấu, mình phải xác định hy sinh. Đó là hệ quả tất yếu, nếu không đừng tranh đấu nữa. Đã xác định hy sinh thì phải hy sinh đến cùng. Chứ nếu hy sinh dang dở thì hy sinh để làm gì? Khi tư tưởng và tinh thần thông suốt thì hành vi của mình cũng sẽ chủ động hơn. Tôi bị tống vào tù nhưng tôi đã biết trước điều đó, và tôi chuẩn bị tinh thần và mọi thứ có thể để đối mặt với điều đó. Không còn cách nào khác.

Trà Mi:
Những gì chị đã trải qua trong 3 năm qua cũng là một bài học trả giá cho những điều chị đã dấn thân. Sau 3 năm đó, chị đã nghiệm ra điều gì cho bản thân mình?

Công Nhân: 3 năm trong tù, tôi đã đọc kinh thánh trọn bộ. Trong tù, Chúa là người bạn của tôi, người thầy của tôi, và là người đồng đội của tôi. Khi tôi trở về, tôi nhận đựơc rất nhiều những lời ngợi khen, lời yêu thương, lời quý trọng, tôi cảm thấy choáng váng về điều đấy. Tôi thật sự cảm thấy là tôi chưa xứng đáng được như vậy đâu. Tôi nghĩ rằng tôi cần phải sống một cách dũng cảm hơn. Chính nhờ việc ở tù đấy đã củng cố hơn niềm tin của tôi vào sự đúng đắn của con đường mà tôi đã lựa chọn. Trứơc đây nó là một mũi tên, và bây giờ nó là một thành trì.

Trà Mi: Nếu có một người hỏi thăm chị Nhân rằng một luật sư Công Nhân trước và sau 3 năm tù giam có gì thay đổi. Chị sẽ trả lời như thế nào?

Công Nhân: Tôi có ước mơ trở thành một luật sư từ năm 8 tuổi sau khi xem một bộ phim. Đến năm 2003, tôi trở thành một luật sư thì cái cảm giác cực kỳ tuyệt vời. Bởi vì ước mơ của tôi bền bỉ, xuyên suốt, không hề thay đổi một lần nào. Nhưng bây giờ khi tôi ra tù, bị tước bằng luật sư, tôi cũng không cảm thấy nó nặng nề lắm. Tôi nhớ về nó như một kỷ niệm đẹp vậy.

Trà Mi: Một ước mơ chị đã vun đắp trong lòng mình từ thuở bé. Nay, sau 3 năm bước ra khỏi trại giam, nó cũng đã tuột mất khỏi tầm tay của chị. Chị hình dung con đường trước mắt của mình ra sao, về tương lai, về sự nghiệp, về lý tưởng của mình?

Công Nhân: Chắc chắn tôi sẽ vẫn tiếp tục đấu tranh vì lý tưởng của tôi. Tôi cảm thấy vui, thú vị, bay bổng, mạnh mẽ, và có ích khi tôi sống theo con đường đó. Tôi nghĩ không bất kỳ một lý do gì có thể làm tôi từ bỏ. Còn cụ thể như thế nào, quả thật, tôi cũng chưa thể nào trả lời được. Vào trong tù, có một điều nữa tôi giác ngộ thấm thía rằng cộng sản chẳng sợ gì cả, ngoài nói thật. Bạn hãy nghĩ mà xem, nói thật không hề khó, nếu bạn có can đảm. Nó chỉ là một ranh giới thôi, bạn hãy bước qua.

Trà Mi: Gần đây ở Việt Nam, một số nhà bất đồng chính kiến gặp rắc rối có liên quan nhiều đến nghề luật. Mình nên hiểu việc này như thế nào, thưa chị?

Công Nhân: Tôi nghĩ đây là điều tất yếu, một dấu hiệu rất đáng mừng cho giới luật ở Việt Nam. Chúng tôi làm về pháp luật, chẳng có ngành nghề nào có thể gần gũi hơn, hiểu biết hơn về chính trị như những người làm luật.

Trà Mi: Đối với những người trẻ biết đến một chị Công Nhân qua báo chí nhà nước và những người biết đến Công Nhân qua các chiến dịch ủng hộ, vận động, bảo vệ dân chủ-nhân quyền, chị sẽ nói gì?

Công Nhân: Tôi không ngờ rằng tôi lại được nhiều đến như vậy. Sau những sự việc này, có những người bạn ở khắp 5 châu-4 biển thương yêu tôi một cách chân thành, quý trọng tôi một cách sâu sắc. Tôi cần phải cố gắng thật nhiều hơn nữa để xứng đáng với điều đó. Tôi rất thích thanh niên bởi vì tôi là một thanh niên. Đó là một lý do. Lý do thứ hai, tôi luôn hiểu rằng Đông-Tây, kim-cổ ai cũng nói rằng quãng đời thanh niên là quãng đời tươi đẹp nhất. Đấy là ở sự nhiệt tình và thể hiện bản thân mình. Nếu các bạn để quãng đời đó của mình trôi qua một cách nhạt nhẽo thì bạn sẽ ân hận suốt cuộc đời. Sự không nhạt nhẽo nhất mà các bạn có thể có được liên quan đến tất cả những người khác. Chính trị là cái liên kết tất cả mọi người với nhau để ai cũng có thể hoạt động một cách tốt nhất trong lĩnh vực của mình. Nếu như bạn tham gia vào chính trị thì bạn sẽ thấy thú vị vô cùng và vô cùng.

Trà Mi: Một lần nữa xin chân thành cảm ơn chị Công Nhân đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này. Xin chúc chị mọi điều tốt đẹp nhất trong thời gian sắp tới.




 
Back to top
 
 
IP Logged
 
Khuê-Tú
Full Member
***
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 128
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #21 - 24. Mar 2010 , 22:01
 
Linh mục Nguyễn Văn Lý
gặp Phó đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam


Bản tin ngày 24-03-2010

...

Vào lúc 13g15 ngày hôm qua, 23-03-2010, Bà phó đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Virginia E. Palmer, cùng với một thông dịch viên tên Đức đã đến thăm gặp linh mục Nguyễn Văn Lý, đang được tạm tha để điều trị tại Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế, 64 Phan Đình Phùng, Huế. Đưa hai vị này tới là hai nhân viên sở ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên Huế và hai nhân viên công an.
     Sau khi chào hỏi, cha Lý mời bà phó đại sứ và thông dịch viên vào phòng. Hai nhân viên ngoại vụ ra ngồi chờ ngoài sân còn hai nhân viên công an đứng bên ngoài phòng linh mục, sát cửa để nghe lén (và có thể là ghi âm lén. xem hình 1).
     Bà phó đại sứ cho biết mục đích thăm viếng: vấn an sức khỏe của linh mục Lý và hỏi cho biết tòa đại sứ lẫn chính phủ Hoa Kỳ có thể giúp linh mục như thế nào trong lúc này?

1- Về tình trạng sức khỏe, cha Lý mô tả tương đối rõ ràng

cao huyết áp, tai biến mạch máu não, xơ vữa động mạch cảnh, xuất hiện khối u sau ót… Cha còn nói thêm: Xin quý vị hoàn toàn yên tâm là nhà cầm quyền Việt Nam không dám đưa tôi vào lại trại giam sau 12 tháng tạm tha này, vì sau lúc bị tai biến lần 3 (15-11-2009), khi đang trong quá trình cấp cứu, tôi đã tuyên bố với họ rằng nếu tôi bị tai biến lần 4 thì sẽ khước từ cấp cứu và điều trị. Cho nên sang năm, nếu họ lại muốn đưa tôi vào trại giam, tôi sẵn sàng vào, nhưng họ phải biết rằng tôi sẽ khước từ điều trị và cấp cứu nếu bị tai biến lại.

Tiếp đó linh mục Lý xin cảm ơn tòa đại sứ, tòa lãnh sự, chính phủ, quốc hội, bộ ngoại giao Hoa Kỳ cùng một số chính khách Mỹ như thượng nghị sĩ Sam Brownback, dân biểu Chris Smith, dân biểu Loretta Sanchez…. vì đã quan tâm đến hoàn cảnh của linh mục và đã vận động cho linh mục trong thời gian qua. Cha Lý cho biết tiếp: nay thì có một số chính khách quốc tế, một số tòa đại sứ, một số tổ chức ở nước ngoài đã ngỏ ý đưa tôi ra ngoại quốc chữa bệnh rồi sẽ đưa về. Điều này phù hợp với ý định của nhà cầm quyền Việt Nam. Vì biết tôi còn 5 năm tù giam và 5 năm quản chế nữa, nên họ (nhà cầm quyền) đã khuyên tôi cứ chấp thuận ra ngoại quốc điều trị cho khỏe hẳn, để khoảng 80 tuổi rồi hãy trở về (chú thích: Lm Lý hiện nay được 64 tuổi). Xin cảm ơn tất cả Quý vị vì hảo ý đó, nhưng như thế là vô tình đi vào kế hoạch của nhà cầm quyền Cộng sản (Bà phó đại sứ cười). Nay giáo phận Huế và gia đình muốn tôi điều trị tại chỗ (tòa TGM Huế).

2- Về những việc gì mà chính phủ và tòa đại sứ Hoa Kỳ muốn giúp linh mục Lý hiện giờ, thì cha cho biết:

a- Quý vị cố gắng tập trung giúp UNESCO, Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế biết rõ sự thật về ông Hồ Chí Minh (chú thích: linh mục Lý từng gọi HCM là tay gian ác, tên lừa bịp siêu cao thủ). Đừng úp mở chuyện này mà kéo dài sự sai lầm rất tai hại cho dân tộc tôi. Tôi thấy mình có nhiệm vụ trả lại sự thật nguyên vẹn về ông Hồ cho đồng bào Việt Nam (chú thích: đây cũng là điều mà một linh mục khác là cha Nguyễn Hữu Lễ đã làm qua cuốn phim tài liệu “Sự thật về HCM” và cũng là một trong ba tôn chỉ của bán nguyệt san Tự do Ngôn luận mà linh mục Lý là đồng sáng lập: vạch trần mặt thật HCM).

b- Quý vị vận động làm sao để chúng tôi có tự do ngôn luận. Quý vị cần nói to, nói rõ, nói ngắn, nói chính xác giữa Liên Hiệp quốc rằng Việt Nam chưa có thứ tự do này. Đây là điều rất quan trọng. Chúng tôi muốn các tờ báo của chúng tôi như Tổ quốc, Tự do Dân chủ, Tự do Ngôn luận được bày bán công khai (chú thích: ban biên tập báo Tổ Quốc thời gian gần đây bị sách nhiễu và hăm dọa, đặc biệt là tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang và bác sĩ Phạm Hồng Sơn). Nếu chưa được thế thì ít nhất quý vị hãy nói với nhà nước Việt Nam rằng đừng bắt những ai đọc các tài liệu như vậy. Chúng tôi thấy có nhiệm vụ trước mắt là làm sao cho người dân được tiếp cận các loại thông tin trung thực về tự do dân chủ mà không bị bắt bớ, không bị quấy nhiễu. Quý vị hãy nói to trước các diễn đàn quốc tế là Việt Nam lạc hậu vô cùng về tự do ngôn luận, thua thời Các Mác tại Anh cách đây 160 năm, thua thời nhóm Nguyễn Ái Quốc tại Paris cách đây gần 100 năm, thua thời cụ Huỳnh Thúc Kháng tại An Nam cách đây hơn 80 năm. Tất cả họ đều làm báo phê phán chế độ đương thời mà không hề bị bắt!
     Trước câu lưu ý của bà phó đại sứ (“Hàng năm, bản báo cáo của chúng tôi về nhân quyền tại Việt Nam đều có đề cập đến chuyện ấy”), linh mục Lý trả lời: Nói dài, nói nhiều có khi không hữu ích và hiệu quả bằng nói ngắn và nói rõ giữa các diễn đàn toàn cầu: Tự do ngôn luận tại Việt Nam thua cộng đồng quốc tế cả hàng trăm năm!

c- Quý vị cố gắng giúp chúng tôi tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội cộng sản năm 2011 cho thật hiệu quả. Đây là một hình thức dân chủ giả hiệu và áp đặt, hoàn toàn không giống như các cuộc bầu cử Quốc hội ở những nước dân chủ tự do. Giúp như thế là quý vị giúp tôi chữa lành khối u sau ót tôi đây này ! Phần Khối 8406 của chúng tôi thì cũng sẽ lên kế hoạch tẩy chay nó cách quyết liệt. (Chú thích: trước cuộc bầu cử Quốc hội năm 2007, Khối 8406 và nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền đã có nhiều văn thư kêu gọi tẩy chay nó cũng như nhiều thành viên đã thực sự tẩy chay nó trong chính ngày nó được tổ chức, 20-05-2007).

3- Linh mục Lý cũng nhân cơ hội trình bày cho bà phó đại sứ rõ nguyên tắc đấu tranh bất bạo động của các chiến sĩ hòa bình dân chủ tại Việt Nam:

: Một chiến sĩ hòa bình dân chủ nếu biết cách đấu tranh bất bạo động thì sẽ mạnh gấp nhiều quân đoàn. Cộng sản hiện nay không còn dám cắt lưỡi các nhà đấu tranh bất bạo động như thời linh mục Jerzy Popieluszko bên Ba Lan hồi 1984 vì CS sợ họ. Chiến sĩ hòa bình nói, đối phương cũng sợ; viết, đối phương cũng sợ; khóc, đối phương cũng sợ; cười, đối phương cũng sợ; im lặng, đối phương cũng sợ; sau cùng chết thì đối phương càng sợ (Bà phó đại sứ ngắt lời: Không chết đâu! không chết đâu!).
Trên đấu trường, hai đấu sĩ nhìn nhau. Các chiến sĩ hòa bình dân chủ nhìn thẳng đối phương là hàng chục triệu cán bộ, hằng mấy triệu đảng viên với tấm lòng không sợ hãi thì đối phương phải hãi sợ họ. Tại sao người chiến sĩ dân chủ không sợ? Vì họ không đi tìm gì cả ngoài tình thương, sự thật và lẽ phải! Tình thương, sự thật và lẽ phải này như lửa. Nhà tù với số lượng bao nhiêu và với tường dày bao nhiêu cũng chỉ là giấy, không gói được lửa! Trong trại giam lửa vẫn bừng cháy, ra ngoài lại càng bừng cháy. Một bạo quyền độc đoán thì phải thua ngọn lửa ấy mà thôi!

     Người chiến sĩ hòa bình dân chủ phải vô úy (không sợ hãi), vô cầu (không xin xỏ), vô thủ (không cần đề phòng, vì đấu tranh công khai, quang minh chính đại, ai rình nghe cũng mặc), vô ngã (không tìm cái lợi cho mình), vô biệt (không phân biệt quốc gia hay cộng sản, da trắng hay da vàng, Phật giáo hay Công giáo, ai đứng về phía lẽ phải và sự thật đều là đồng minh của mình). Khi có ngũ vô này rồi thì tức khắc có đệ lục vô, không nhắm nhưng sẽ phải đến, đó là vô địch! (Bà phó đại sứ cười vang khoái chí). Tôi chỉ có hai bàn tay trắng, nhưng tôi biết mình vô địch vì nơi tôi không có hận thù. Đời tôi đã 64 tuổi nhưng tôi chưa ghét một người nào cả. Mấy lần bị cán bộ CS bắt giam, tôi đều nói: Các anh sợ mà bắt giam tôi thôi, nhưng đố các anh ghét tôi được! Tôi có làm chi phương hại, xúc phạm hay nguyền rủa các anh đâu mà các anh ghét. Trái lại tôi chỉ đọc kinh cầu nguyện cho các anh.

     Tôi đi tù như vậy là 5 lần, riêng dưới chế độ này là 4 lần. Mỗi lần vừa vào tù, tôi đều quỳ cúi xuống hôn đất mà thầm nói: “Con xin nhận nhiệm sở mới” Nhiệm sở mới này không phải đức Giám mục bổ nhiệm tôi đến mà là Chúa Giêsu Kitô. Vì thế tôi coi ban giám thị, cán bộ trại và mọi tù nhân trong trại đều là giáo hữu mà tôi có bổn phận cầu nguyện và rao giảng Tin Mừng cho. (Chú thích: trong một lần tâm sự trước đây, linh mục Lý có cho biết ở trong tù cha luôn cầu nguyện cho các tay đồ tể của nhân loại như Lênin, Stalin, Hitler, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pôn Pốt, Saddam Hussein, Bin Laden… Họ cần lời cầu nguyện vì họ bị nhân loại quên lãng do căm thù)… Đêm đầu tiên ở trại giam tôi ngủ bình thản như ở nhà, vì tôi coi trại là văn phòng, là nhiệm sở của tôi, tôi phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ ở đó cho tốt. Sang năm, nếu họ đưa tôi vào lại trại thì tôi thoải mái, sẵn sàng (Bà Phó đại sứ cười). Như mọi chiến sĩ dân chủ hòa bình, tôi có tình thương, sự thật và lẽ phải nên không sợ. Nhưng đằng sau lưng tôi là cả Triều thần Thiên quốc, có Thiên Chúa, có Đức Mẹ, có các thánh, rồi có hàng triệu các thai nhi bị trục giết mỗi năm mà tôi luôn bênh vực (chú thích: trong các lần linh mục gặp gỡ cán bộ công an hay viết kiểm điểm về… chế độ). Các em ủng hộ tôi, chuyển cầu cho tôi thì đảng CS làm chi tôi được!!!

     Kết thúc, bà phó đại sứ Hoa Kỳ nói: “Tôi từng mong ước gặp được linh mục. Nay thấy linh mục trẻ trung, vui vẻ, ăn nói rất mạnh mẽ và rõ ràng. Rất hân hạnh. Xin hết lòng cảm ơn!”
     Cuộc gặp gỡ kết thúc vào lúc 14g30 cùng ngày.

     Nhóm Phóng viên FNA Khối 8406 tường trình dựa theo băng ghi âm.
     Huế, 16g30 ngày 24-03-2010
Back to top
« Last Edit: 24. Mar 2010 , 22:15 by Khuê-Tú »  
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #22 - 25. Mar 2010 , 21:27
 
Cô TB chào Khuê Tú , thanks.gif KT nhen , cô TB định bỏ bài này mà T xí rồi , KT khoẻ không? có còn tập múa nữa không? Chúc KT đẹp hoài. Cheesy
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #23 - 08. Apr 2010 , 20:45
 
Linh Mục Nguyễn Văn Lý gặp Đại sứ Canada tại Việt Nam qua điện thoại



Bản tin ngày 06-04-2010


...


Ngày 30-03-2010, Bà Deanna Horton, Đại sứ Canada tại Việt Nam, từ Hà Nội, đã nói chuyện điện thoại bằng tiếng Pháp -qua trung gian một thông dịch viên- với Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý đang ở tại Nhà Chung, Tổng Giáo Phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, thành phố Huế. (Các bản tin trước nói lộn thành 64. Chúng tôi chân thành cáo lỗi). Cuộc nói chuyện kéo dài từ11g30 đến 12g25.

Mở đầu, bà đại sứ cho biết Chính phủ và Quốc hội Canada luôn quan tâm can thiệp cho các tù nhân lương tâm và đặc biệt cho linh mục Lý. Chính phủ và Quốc hội Canada muốn giúp Linh mục điều trị theo hướng tích cực nhất, nghĩa là bằng lòng tài trợ hoàn toàn và bảo đảm các thủ tục để đưa Linh mục ra ngoại quốc chữa bệnh. Chắc chắn Linh mục sẽ khỏi bởi vì những bệnh tương tự, Canada đã có kinh nghiệm chữa trị nhiều rồi, với phương tiện máy móc đầy đủ và với các loại thuốc dân tộc bản địa, chẳng cần dùng thuốc tây y. (Chú thích: Quốc hội và Chính phủ Canada sở dĩ lưu tâm đặc biệt đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, phần lớn cũng là nhờ cộng đồng người Việt tự do và các nhóm Yểm trợ Dân chủ của người Canada lẫn người Việt đang hoạt động rất tích cực tại Montreal, Toronto và Vancouver).
Như những lần trước với các tổ chức  khác, Linh mục Lý ngỏ lời cảm ơn Bà Đại sứ và cho biết rằng việc ra đi như vậy nằm trong kế hoạch của nhà cầm quyền Việt Nam. Họ sẽ trì hoãn việc cho Linh mục trở về nước, nghĩa là đợi cho đến khi Lm đến tuổi thật cao, khoảng 80 tuổi!?! Bà Đại sứ cười, tỏ ra hiểu chuyện. Bà đưa ra phương án thứ hai: Nếu Lm không bằng lòng đi thì sẽ có một phái đoàn bác sĩ, chuyên viên cùng với các dụng cụ tối tân sẽ đến tại Nhà Chung để điều trị. Phái đoàn này tháng 7 sẽ qua Việt Nam, và hy vọng có chuyên môn đủ để chữa lành linh mục.

Sau khi cảm ơn về nhã ý của Chính phủ, Quốc hội và Bà Đại sứ Canada, linh mục nói tiếp: Điều tôi cần nhất hiện nay là điều trị các khối u trong đầu óc của toàn dân Việt Nam. Gồm có 4 việc cấp bách như sau:

- Thứ nhất, xin Quốc hội và Chính phủ Canada vận động với nhà cầm quyền Việt Nam và các cơ quan ngôn luận quốc tế để nhà cầm quyền Việt Nam sớm thả các tù nhân lương tâm mà họ đã bắt giữ trong các năm qua, nhất là từ 2007 tới giờ. Trong đó đặc biệt có anh Nguyễn Phong và anh Nguyễn Bình Thành là hai người (ct: cùng vụ với Lm Lý) mà cho tới nay vẫn phủ nhận phiên tòa phi pháp và bản án bất công ngày 30-03-2007 nên vẫn tiếp tục bị biệt giam, một người tại Thanh Hóa, một người tại Đồng Nai. Ngoài ra còn có luật sư Nguyễn Văn Đài bị bắt từ 2007 và đang bị giam giữ tại trại tù Nam Hà (ct: tức trại Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, cùng chỗ với Lm Lý). Rồi gần đây là khá nhiều chiến sĩ dân chủ hòa bình khác, tất cả cũng độ 20 chục. Bà Đại sứ trả lời: Chính phủ và Quốc hội Canada đã luôn quan tâm đến chuyện này và không ngừng can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam, rồi bà hứa sẽ tiếp tục vận động mạnh mẽ hơn nữa.

- Thứ hai, xin Chính phủ và Quốc hội Canada can thiệp để toàn dân Việt Nam sớm có tự do ngôn luận. Về điều này, phải nói thẳng là rất nhiều ngoại giao đoàn thường xử sự kiểu ngoại giao, nghĩa là nhập nhằng, không rõ ràng, không quyết liệt khẳng định rằng nhân dân Việt Nam chưa có tự do ngôn luận, không mạnh dạn can thiệp vào các vụ vi phạm trầm trọng quyền này tại Việt Nam, khiến nỗi đau khổ của toàn dân Việt Nam vẫn cứ kéo dài. Chúng tôi, các nhà đấu tranh, thiếu phương tiện để nói lên điều này với quốc tế, thì xin Quý vị hãy nói dùm, hãy mạnh dạn chứng minh vắn gọn, rõ ràng với thế giới rằng tự do ngôn luận tại Việt Nam còn thua thời Karl Marx ở Luân Đôn cách đây 170 năm! Trước 1975, ở miền Nam, chúng tôi có báo tư nhân, có đài phát thanh, có đài truyền hình (của các tập thể lẫn các tôn giáo). Bây giờ ngay cả báo chí thì cũng chẳng có tờ nào! Khi vì ngoại giao mà lấp lửng chuyện này, thì các chính khách quốc tế đã vô tình làm chứng cho sự dối trá thay vì làm chứng cho sự thật, tiếp tục gây đau khổ cho nhân dân chúng tôi.

- Thứ ba, xin Chính phủ và Quốc hội Canada giúp phơi bày sự thật về ông Hồ Chí Minh. Quý vị đều biết rõ bộ mặt của nhân vật này nhưng vì cứ mãi kéo dài sự lập lờ trước quốc tế, khiến cho nhà cầm quyền Việt Nam được thể duy trì huyền thoại dối trá đó, đầu độc tâm trí giới trẻ, gây tai hại vô vàn cho nhân dân nước Việt.

- Thứ tư, xin Chính phủ và Quốc hội Canada giúp phong trào đấu tranh trong nước, đặc biệt Khối 8406 chúng tôi, tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội giả tạo năm 2011 tới. (Nói chung, linh mục Lý cũng trình bày cho Bà Đạisứ Canada y như cho bà phó đại sứ Hoa Kỳ Virginia E. Palmer hôm 23-03-2010).

Bà Đại sứ ghi nhận tất cả và hứa sẽ tiếp tục can thiệp giúp các nhà tranh đấu, các chiến sĩ hòa bình dân chủ; còn những mục tiêu đấu tranh cụ thể (đặc biệt của Khối 8406) thì bà nói sẽ trình bày lên Quốc hội và Chính phủ Canada để họ ủng hộ. Thấy thái độ cởi mở, biết lắng nghe củaBà Đại sứ, Linh mục Lý tranh thủ nói thêm:

Khối 8406 chúng tôi đang chuyển lối đấu tranh từ thế chịu đàn áp, đối phó, đỡ gạt sang thế chủ động chinh phục đối phương bằng con đường đạo đức. Chúng tôi cố gắng đào tạo một lớp chiến sĩ hòa bình đầy nhân bản, văn hóa, đạo đức, lịch sự, hiếu hòa, nhưng nhất định không thỏa hiệp. Chúng tôi tiếp tục phát động phong trào "Toàn dân mặc áo trắng đòi dân chủ cho Việt Nam vào ngày 01 và 15 mỗi tháng". Xin quý chính khách quốc tế quan tâm ủng hộ chiến dịch này.

Bà Đại sứ nói: Vâng, chúng tôi sẽ cố gắng nghe theo lời Linh mục và sẽ có thái độ dứt khoát, rõ ràng hơn. Nhưng chúng tôi cũng hết sức để tránh bị chụp mũ là "can thiệp vào nội bộ Việt Nam". Lm Lý liền trả lời:

Quan niệm "can thiệp nội bộ" của Nhà cầm quyền Việt Nam thì xin Bà hiểu như sau: Nhà cầm quyền Việt Nam khi muốn xía vào chuyện nội bộ của nước nào (như tại Campuchia trước đây) thì nói đấy là "nghĩa vụ quốc tế cao cả"! Nhưng khi muốn phủi tay không can thiệp hay muốn tránh né không phê bình (như đối với Myanmar hiện giờ) thì lại nói rằng họ tôn trọng chuyện nội bộ của nước khác. Đó là lập luận có tính cách gian trá, thiếu sòng phẳng của nhà cầm quyền Hà Nội. Riêng lập trường của chúng tôi thì xin thưa với Bà Đại sứ như sau: Hiện nay, quả đất càng ngày càng thu nhỏ và nhân loại nên như một gia đình, vì chúng ta liên lạc quan hệ với nhau một cách dễ dàng, chặt chẽ và mật thiết hơn. Hầu như tất cả mọi giá trị đều được toàn cầu hóa, nhất là các giá trị của văn minh, của nhân quyền. Vì thế, các quốc gia dân chủ đều chỉ ưa quan hệ với một nhà nước văn minh tôn trọng nhân quyền. Việt Nam muốn hội nhập vào xã hội tiến bộ của loài người, muốn đi họp Liên Hiệp Quốc, muốn thiết lập bang giao với các nước thì phải có một mặt bằng tiêu chuẩn về văn minh, về nhân quyền như họ. Nhưng đang khi muốn làm tất cả những chuyện ấy càng nhiều càng tốt mà Việt Nam lại cứ khăng khăng nói "việc nội bộ của chúng tôi" khi bị chất vấn về nhân quyền dân chủ, bị tố cáo đàn áp nhân dân đồng bào, thì xin Quý vị hãy nói với nhà cầm quyền Hà Nội rằng: nếu ưa dùng chiêu bài "chớ can thiệp chuyện nội bộ" thì Việt Nam đừng tiếp xúc với quốc tế, đừng dự họp LHQ, đừng cử phái bộ ngoại giao đi các nước, đừng tham gia các hội nghị toàn cầu! Một chính phủ muốn hội nhập với năm châu, muốn thiếp lập quan hệ ngoại giao rộng rãi, muốn nhận được sự giúp đỡ của nhiều nước mà lại cứ sợ người ta "can thiệp vào chuyện nội bộ", thì như vậy có nghĩa là quyền lợi luôn mong hưởng thụ mà trách nhiệm lại chuyên khước từ. Quả là vô lý! Về chuyện này, xin Quý vị nắm vững nguyên tắc: Việt Nam muốn nhờ sự giúp đỡ của quốc tế, muốn quan hệ với năm châu thì phải theo tiêu chuẩn mặt bằng nhân quyền của loài người. Các nhân quyền này, những Công ước Quốc tế đã nói rất rõ, nhưng các chính phủ độc tài lúc nào cũng tìm cách định nghĩa lại tiêu chuẩn độc đoán của họ. Vậy Quý vị đừng sợ rằng các nhà nước đó trách móc Quý vị can thiệp nội bộ, trái lại hãy nói thẳng với họ rằng chúng tôi chỉ muốn quan hệ với những nhà nước văn minh thôi, chúng tôi chỉ muốn giúp đỡ những nhà nước bằng lòng cho người dân được hưởng những nhân quyền cơ bản, chúng tôi có quyền chất vấn và đòi hỏi về nhân quyền dân chủ với các nhà nước có quan hệ ngoại giao, thương mại, văn hóa… với chúng tôi. Xin nói thẳng với Việt Nam như thế, chớ ngại
ngùng gì!

Bà Đại sứ nói: Tôi xin tiếp thu ý kiến của Linh mục và chúng tôi hứa sẽ cố gắng hết sức để đạt được những sự việc cụ thể như Linh mục yêu cầu. Xin cảm ơn.


Nhóm Phóng viên FNA Khối 8406 tường trình từ Huế

22g30 ngày 06-04-2010
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
NgocDoa
Gold Member
*****
Offline


I Love Me Now!

Posts: 1704
U S A
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #24 - 12. Apr 2010 , 18:44
 
Giọt nước mắt...Vì niềm kiêu hảnh: Người Việt nam


Tác Giả : Bùi Bảo Trúc

Tôi là người thù dai. Thù dai có cái xấu và có cái tốt. Tôi nghĩ thù dai cũng có điểm tốt.

Thù dai để không quên những chuyện xấu người khác làm cho mình. Không thù dai thì làm sao Nguyễn Trãi nằm gai nếm mật suốt mười năm để trả thù nhà, để đền nợ xã tắc, giang sơn?

Thù từ năm 1975 đến nay thì có dai thật
Năm 1975, với đợt tị nạn đầu tiên đến Mỹ, tờ Newsweek đăng một bài viết của Shana Alexander về những người Việt được đưa sang Mỹ tị nạn. Người đàn bà này lo ngại là những người Việt Nam tị nạn chưa biết sử dụng cái máy giặt, cái máy sấy, không biết Michael Angelo là ai, thì làm sao sống được ở Mỹ.
Ðó là những câu nhục mạ những người Việt quá nặng.
Nhưng chuyện không biết dùng cái máy giặt thì cũng dễ hiểu. Kìa, như thái tử Naruhito của hoàng gia Nhật, mãi đến khi sang học tại Merton College ở Oxford, ông hoàng tử này mới biết dùng cái máy giặt để khoe nhắng lên. Vậy thì dùng cái máy giặt không phải là chuyện đáng kiêu hãnh. Không biết dùng cái máy giặt thì cũng không phải là điều xấu xa gì như bài báo ngu xuẩn của Shana Alexander đã úp mở.

Từ đó, năm nào, cứ đến tháng Tư là tôi lại nhớ đến bài báo của Shana Alexander, và cứ nghĩ đến những câu nhục mạ ấy là lại run người lên vì giận.
Nhưng người Pháp vẫn nói là trả thù cũng như thức ăn nguội, ăn lạnh mới ngon. Shana Alexander nghỉ viết từ lâu, không biết đang ở đâu để rảnh rang kiếm nàng, mời nàng đi đến thăm vài ba đại học Mỹ, ghé lại Little Saigon chơi cho bỏ những ngày cơ cực và để cho nàng thấy tận mắt những người nàng khinh bỉ ấy đã sống như thế nào.
Ðó là cách trả thù vậy.

Nhưng chưa bao giờ tôi thấy hả dạ được như cuối tuần qua, khi nhận được tờ Newsweek, tờ báo 32 năm trước từng đăng bài báo của Shana Alexander, tôi đọc được bài viết của George Will trong mục The Last Word ở trang 84 số báo NewsWeek đề ngày 17 tháng 12 năm 2007.
George Will dùng nguyên một trang để nói về đóng góp của một người Việt Nam , một phụ nữ Việt, một trong những người Việt lếch thếch kéo nhau sang Mỹ và bị Shaan Alexander đem ra nhục mạ trong bài báo.

Tôi có thể nói là chưa bao giờ tôi đọc được một bài báo viết về một người khác như George Will đã viết.
Nếu bài báo ấy do một cây bút Việt Nam viết thì người đọc cũng dễ dàng coi đó là chuyện hai con mèo khen nhau có những cái đuôi dài.
Nhưng bài viết này là của George Will một trong những cây bút bình luận chính trị bảo thủ, lỗi lạc nhất của báo chí Mỹ, thì nó là một bài báo giá trị. Mười lần Shana Alexander cũng không thể bác được điều đó.

Bài báo của George Will viết về Dương Nguyệt Ánh, mẹ đẻ ra một loại bom mói tên là Thermobaric. Chương trình nghiên cứu được hạn cho ba năm để hoàn thành, nhưng chỉ sau 67 ngày, bà Ánh đã thành công , chế ra được loại bom mới để dùng cho mặt trận Afghanistan. Loại bom mới này công hiệu hơn tất cả các loại bom khác của thế giới. Bom ném vào hang đá ở Afghanistan không công phá ngay như các loại bom cũ, mà sức nóng và sức nổ của bom ở lại lâu, tiến sâu vào các hang hốc khiến khả năng công phá và hủy diệt của bom hơn hẳn mọi loại võ khí khác.

Nước Mỹ đã phải cám ơn bà Dương Nguyệt Ánh về loại võ khi mới này. Tờ Washington Post mới đây có viết một bài khá dài về bà Ánh nhân dịp bà được trao tặng một huy chương về những thành quả và đóng góp của bà cho nước Mỹ.

...

George Will kể lại cảnh bà tiến ra trước máy vi âm, không đọc một bài viết sẵn, mà ứng khẩu trước một cử tọa rất đông đảo smoking, nơ đen trang trọng. Bà Dương Nguyệt Ánh nói rằng 32 năm trước, bà tới nước Mỹ với tư cách một người tị nạn, hai bàn tay trắng và một túi hành trang đầy những ước mơ tan nát.

Nhưng nước Mỹ, với bà, là một thiên đàng, không phải vì vẻ đẹp và tài nguyên phong phú, mà vì người dân Mỹ vị tha, rộng lượng đã giúp gia đình của bà khi mới tới Nước Mỹ và giúp hàn gắn những thương tích trong tâm hồn, đem lại lòng tin vào con người và cảm hứng cho công việc của bà. Bà muốn tặng lại danh dự của tấm huân chương bà nhận được cho 58 ngàn người Mỹ đã tử trận tại Việt Nam và hơn 260 ngàn chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để cho những người như bà có được cơ hội sống trong tự do. Bà xin Thượng đế ban phúc cho những người sẵn sàng chết cho tự do, và nhất là những người sẵn sàng chết cho tự do của những người khác. Bà cám ơn nước Mỹ.

George Will kết bài viết của ông bằng mấy câu này: Cám ơn Dương Nguyệt Ánh. Xin cô hiểu là cô đã trả món nợ mà cô nói cô nợ của nước Mỹ, cô đã hoàn trả đầy đủ, không thiếu một chút nào. Cô đã trả hết món nợ đó, và luôn cả tiền lời nữa.
Tiền lời, là đóng góp rất lớn của Dương Nguyệt Ánh cho tự do và an ninh của nước Mỹ, quốc gia đã mở cửa đón gia đình của bà.
Shana Alexander ở đâu, có đọc bài báo này chưa?
Back to top
 

-“Kẻ nào chấp nhận cái ác mà không phản đối chắc chắn là tiếp tay cho cái ác lộng hành” (He who accepts evil without protesting against it is really cooperating with it)
Given by Martin Luther King
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #25 - 18. Apr 2010 , 10:18
 
LÊ THỊ CÔNG NHÂN TRÊN BÁO PEOPLE


...
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
mydung
Full Member
***
Offline



Posts: 195
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #26 - 23. Apr 2010 , 09:48
 
Một Đóa Sen :Thượng Tọa Thích Quang Long
Quyền G.Đ Nha Tuyên Úy Phật Giáo của QLVNCH

Mùa hè năm ấy có lẽ là một mùa hè nóng bức oi ả nhất của thập niên tám mươi tại miền Bắc. Trại giam Ba Sao, Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh như nằm yên dưới sức nóng như thiêu đốt, ngay cả về đêm cái nóng như vẫn còn âm ỉ, mọi thứ như tỏa ra hơi nóng – những bức tường, những sàn lót gạch hung hung đỏ, cái sân tráng xi măng trước mặt, ngay cả cái ván lót trên sàn nằm cũng toát ra hơi nóng. Những người tù nhân chính trị chế độ cũ như trong một lò ngục tối trên trần gian, ban ngày thì lao động khổ sai đổ mồ hôi không phải đổi lấy bát cơm mà đổi lấy ít thức ăn độn như khoai hay sắn hay bo bo mà vẫn không đủ no, ban đêm thì cố giỗ giấc ngủ trong cái nóng như nung như đốt ấy trong cái cả nh nằm xếp hai từng như cá đóng hộp trong buồng giam. Mồ hôi lại đổ ra cho đến khi mệt lả người đi thì giấc ngủ chập chờn mới đến.
Cái nóng kinh người đã kéo dài cả tháng nay và đồng ruộng đã nứt nẻ, các em bé chăn trâu mà Trung và các bạn gặp trên đường đi lao động cũng môi khô và chui vào các bụi cây trú nắng. Các giếng nước cũng từ từ khô cạn đưa đến nạn thiếu nước trầm trọng cho cả dân chúng những làng bên ngoài lẫn những người tù khốn khổ trong trại.

Buổi trưa hôm đó cũng như mọi ngày sau khi lao động về, ăn xong phần ăn trưa ít ỏi, các người tù cố nằm giỗ giấc ngủ ngắn để lấy sức lao động buổi chiều thì thấy một vị sư già đang ngồi ngoài sân nắng trong thế kiết già cả nửa tiếng đồng hồ và mặt ngước nhìn thẳng lên trời. Những khi hạn hán thì thầy vẫn cầu nguyện như thế và sau đó chiều tối hay trước nửa đêm thể nào mưa giông cũng kéo đến. Đêm nay cũng thế, Trung cố giỗ giấc ngủ để mà mai còn sức trả cái nợ lao động nhưng không làm sao nhắm mắt được, mồ hôi trên người cứ nhỏ từng giọt như làm cho sức khỏe của anh cạn dần đi theo đêm. Anh nhớ tới thằng bạn thân nằm bên cạnh nói với anh hồi chiều rằng chỉ ước ao ông Trời cho một trận mưa chứ đã tù cả chục năm rồi cũng chẳng mơ ước xa xôi gì ngày trở về nữa.
Thế rồi, như một phép lạ những làn gió mát từ đâu từ từ thổi đến, len lỏi vào những khung cửa sổ, luồng dưới những cánh cửa buồng giam và từ xa xa vài lằn chớp nhoáng lên bên trời. Chẳng bao lâu sau thì những giọt mưa, ôi những giọt mưa cam lồ của Trời ban xuống như thêm sức mạnh cho những người tù biệt xứ lưu đày. Các buồng giam không ai bảo ai đều thức dậy và tung mùng ra để được hít thở những giây phút mát rượi của làn gió lùa vào trại giam.

Vô tình Trung nhìn xuống nơi vị sư già giam cùng buồng với anh, thầy vẫn như còn đang ngồi thiền trong mùng, mặt quay vào tường trong thế kiết già. Trung chợt hiểu và các bạn anh cũng hiểu rằng chính nhờ thầy cầu nguyện mà đã có trận mưa đêm nay. Vị sư già đó chính là Trung Tá Quyền Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo của QLVNCH – Thượng Tọa Thích Quang Long, một người tù xuất chúng đã làm cho kẻ thù phải cúi đầu kính nể. Giang sơn của thầy cũng là một tấm chiếu, hai bộ quần áo tù, và một cái chăn đỏ Trung Quốc như mọi người và nằm một dãy với các Đại Đức Tuyên Úy khác.
Anh nhớ đến thầy Khuê, một vị Tuyên Úy Phật Giáo và Tam Đẳng Huyền Đai Nhu Đạo võ đường Quang Trung, một vị Đại Đức mà anh rất mến thương và kính trọng, đã từng nói với anh rằng nếu nói về đạo Phật, về sự tu hành thì hãy lấy thầy Long mà làm gương; đừng vì một vài vị Tuyên Úy đã không nghiêm giữ được giới răn mà hiểu lầm về đạo Phật mà mất đi niềm tin.
Anh nhớ lại câu chuyện lúc mới bước chân vào trại giam Long Thành sau khi Sài Gòn sụp đổ và hầu như mọi người đều không biết bấu víu vào đâu, niềm tin vào các tôn giáo cũng bị lung lay thì một sự việc đã xảy ra làm mọi người đều kính trọng thầy, nhất là khi biết hai tòa đại sứ bạn đã đến đón thầy đi di tản trước đó nhưng thầy đã khẳng khái chối từ và thanh thản bước chân vào trại giam.

Trong thời gian mới bị giam giữ, một hôm thầy được gọi ra làm việc để gặp hai vị sư quốc doanh là Thượng Tọa Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu. Hai vị này ra sức thuyết phục và chiêu dụ thầy để thầy ủng hộ phong trào “Phật giáo yêu nước”, và nói sẽ bảo lãnh cho thầy ra khỏi tù ngay để nhờ thầy góp công góp sức xây dựng phong trào Phật Giáo Yêu Nước này. Hai vị sư này chính là người mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã bắt giam trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng Sản. Thích Minh Nguyệt đã bị đày ra Côn Đảo, còn Thích Thiện Siêu thì thường được gọi là ông Từ Đàm vì tu ở chùa này ngoài Huế. Sau đó chính Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đã đứng ra bảo lãnh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối cải mà trở về lại con đường tu hành vì họ đã bị lộ hình tích. Không ngờ ông trời trớ trêu để có ngày họ lại đến trại Long Thành và đối đầu với thầy trong hoàn cảnh đặc biệt này của đất nước.
Thầy nhìn hai vị sư quốc doanh kia và từ tốn chậm rãi nhưng thật cương quyết thầy nói:
“Các ông đã dựng nên cái phong trào “Phật Giáo yêu nước” ấy thì các ông cứ tiếp tục công việc mà các ông đã làm, còn tôi là một Tuyên Úy trong quân đội và tôi sẽ theo chân các Phật tử trong các trại giam, họ đi đến đâu thì tôi cũng sẽ đi đến đấy với họ cho tới cùng. Thôi các ông về đi”.
Và sau đó thầy chấp nhận việc chuyển trại ra Bắc mở đầu cho một quãng đời biệt xứ lưu đày.
Những ai có may mắn gặp thầy trong trại giam thầy đều kính trọng vị sư già này, người mà lúc nào cũng như mỉm cười, hòa nhã, giản dị, khiêm tốn và giúp đỡ tất cả mọi tù nhân mỗi khi thầy có phương tiện.
Năm 1976, thầy cùng một số Tuyên Úy chuyển trại từ Nam ra Bắc và bị giam giữ tại trại 1 Sơn La hay còn gọi là trại Mường Thái là nơi mà trước kia Pháp đã từng giam giữ những tù nhân bị án lưu đày. Năm sau thì thầy có tên trong số những tù nhân di chuyển về trại Yên Hạ, trại giam này nằm dưới thung lũng và bao vây chung quanh bởi những dãy núi đá vôi, thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Trại Yên Hạ là nơi chuyên giam giữ những tử tội hình sự cướp của giết người mà đã được nhà nước “khoan hồng” tha cho tội chết.

Chỉ hơn một năm sau thì các tù nhân này dần dần kiệt sức vì lao động khổ sai, thiếu dinh dưỡng, thiếu ăn nhất là thiếu chất mỡ và đường, và vì khí độc từ dãy núi đá vôi phả vào từ chung quanh. Bởi thế chỉ sau một thời gian ngắn chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, ai nấy đều gầy như bộ xương còn biết đi. Khi đi lao động hay đi trở về trại, người ta chỉ thấy những bộ quần áo tù phấp phới bay mà chẳng thấy da thịt đâu. Thế rồi sau bốn năm trời giam cầm và lưu đày, một số những người tù lần đầu tiên được nhận một gói nhỏ tiếp tế cực kỳ quí giá từ gia đình trong Nam gửi ra, một số khác thì vẫn chưa nối lại được sợi dây với gia đình trong Nam. Trong gói nhỏ mà các Phật tử gởi cho thầy Long có 15 cục đường móng trâu, lúc đó ai mà có được 5 cục đường như thế thì đã là thần tiên rồi, nhưng thầy từ từ đem ra phân phát hết 15 cục đường quí giá đó cho những người cùng buồng. Ưu tiên những tù nhân nào mà đã kiệt lực thì được một cục, những người đau ốm khác thì mỗi người được nửa cục mà thôi, còn riêng thầy thì không có một miếng đường nào hết. Những người tù này khi nhận được cục đường từ tay thầy phân phát đã không cầm được nước mắt trước tấm lòng vị tha, quảng đại vô biên của một vị sư mà tâm đã định và huệ đã ngời sáng.

Thầy cũng không thoát được những vụ hỏi cung, một hình thức tra tấn tinh thần những người tù khốn khó này trong trại giam. Một tên cán bộ từ Hà Nội vào với mái tóc hoa râm có vẻ là một viên chức cao cấp thuộc Bộ Nội Vụ đã hỏi cung thầy trong ba ngày liên tiếp. Hắn vứt cho thầy tờ giấy để tối về khai báo những tội lỗi đã chống đảng, nhà nước và nhân dân trước kia khi hoạt động ở Sài Gòn cho Nha Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sáng hôm sau, khi kêu ra làm việc tiếp tục, thầy đã nộp bản khai báo cho hắn, vừa xem xong thì hắn đùng đùng nổi giận ném tờ khai xuống bàn và quát tháo:
“Anh khai báo thế này hả? Tại sao anh lại chép Chú Đại Bi vào đây? anh muốn tù rục xương ra không?”.
Vẫn thái độ bình tĩnh và từ tốn của một vị cao tăng thầy chậm rãi trả lời:
“Thì đây chính là những gì mà tôi đã làm và đã tụng niệm khi xưa, có thể thôi!”.
Hắn với vẻ mặt hầm hầm liệng cho thầy một tờ giấy khác để khai báo lại một cách thành khẩn để được sớm khoan hồng. Sáng ngày hôm sau, thầy nộp cho hắn một tờ thứ hai và trên tờ đó thầy chép lại thật nắn nót bài Kinh Bát Nhã. Đến đây thì hắn nổi điên lên và mạt sát thầy thậm tệ và đe dọa rằng thầy sẽ tù mọt gông và đừng mong sẽ được hưởng lượng khoan hồng. Thầy ung dung trả lời rằng:
“Các ông cứ việc giam giữ tôi bao lâu cũng được, tôi chỉ xin các ông hãy thả hết những người tù chính trị chế độ cũ mà các ông đang giam giữ mà thôi”.

Từ đó đến sau, chúng ít khi kêu thầy ra hỏi cung nữa cho đến mãi năm 87, trước khi có một đợt thả lớn tại trại Ba Sao Nam Hà thì trong các vị Tuyên Úy bị hỏi cung có tên thầy. Nhưng đặc biệt lần này chúng gọi thầy bằng thầy chứ không gọi là anh như trước nữa, tuy nhiên chúng vẫn dụ dỗ thầy nhận tội để được khoan hồng. Thầy trả lời rằng các ông cứ thả hết các ông đại đức tuyên úy ra đi vì họ chẳng có tội lỗi gì hết tất cả đều do tôi và họ đều làm theo chỉ thị của tôi hết, muốn gì thì cứ giữ tôi ở lại đến bao lâu cũng được. Chúng đành chào thua và chỉ vài tháng sau thì thầy có tên trong danh sách được thả ra khỏi trại cùng với tất cả các đại đức và những vị mục sư linh mục khác trong các Nha Tuyên Úy quân đội.
Thầy ở tù mười hai năm, một năm trong Nam và mười một năm lưu đày trong những trại giam được dựng lên nơi rừng thiêng núi độc miền Bắc.

Về miền Nam, thầy trở lại chùa Giác Ngạn trên đường Trương Minh Ký cũ ở Sài Gòn để lại lo Phật sự, cúng kiến giúp đỡ các gia đình Phật tử. Khi đi đâu tụng kinh thầy vẫn đơn sơ trong chiếc áo nâu sòng và phe phẩy chiếc quạt đã sờn rách và môi luôn nở nụ cười hiền hậu giống như một ông già nhà quê chất phát hiền lành.
Chùa Vĩnh Nghiêm có vời thầy ra nhưng thầy vẫn ở lại Giác Ngạn – ngôi chùa mà thầy góp công xây dựng lên và trụ trì cho tới khi mất nước – cho tới khi thầy viên tịch vài năm sau đó.





__._,_.___
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #27 - 24. Apr 2010 , 15:23
 
VIÊN GẠCH LÓT ÐƯỜNG



Giao Chỉ, San Jose


Ngày xưa, thi sĩ Nguyên Sa gọi ông là Kinh Kha. Trên báo Ðời số đặc biệt năm 1982 xuất bản ở quận Cam, nhà văn Hư Trúc gọi ông là Mặt Trời Không Bao Giờ Lặn. Ðồng bào Việt ở Úc Châu gọi ông là Chiến Sĩ. Báo chí Hoa Kỳ gọi ông là Người Tù Anh Hùng. Trên tờ báo lớn ở miền Tây Úc, ký giả nổi tiếng Norman Aisbett gọi ông là Ðại Tá Cô Ðơn. Trong quân đội tên ông là Võ Ðại Tôn, với bí danh Wòng-A-Lìn. Ngoài văn giới ông mang bút hiệu Hoàng Phong Linh. Và sau cùng, khi tìm đường gai góc mà đi, ông tự coi mình là Viên Gạch Lót Ðường.

Với chuyến trở về vào đầu thập niên 80, viên gạch quý của chúng ta được sản xuất tại miền đất Quảng anh hùng đã làm nên lịch sử. Khi tin tức về cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 13-07-1982 được loan báo trên hầu hết các hệ thống truyền thông thế giới, đồng bào Việt Nam hải ngoại lập tức coi Võ Ðại Tôn như là một biểu tượng chung của người quốc gia đang tìm đường quang phục quê hương.

Ðoạn phim ngắn của truyền hình Nhật Bản đã làm nhỏ lệ biết bao khán giả xen lẫn niềm hãnh diện vốn đã vắng bóng từ lâu. Từ màn ảnh nhỏ, Võ Ðại Tôn xuất hiện vĩ đại, bất khuất. Một trận thư hùng đã mở màn. Một bên là toàn thể bộ máy cầm quyền, cao ngạo, hùng mạnh, khốc liệt và vô cùng hiểm độc. Một bên là người tù biệt giam, cô đơn, đói khát, tuyệt vọng. Ðây là cuộc chiến của một người chống một chế độ trước ống kính của truyền hình, máy ảnh và những cây bút ghi chép đại diện cho hàng trăm cơ sở truyền thông trong và ngoài nước. Trong số này có trên 10 phóng viên ngoại quốc đã được Hà Nội triệu tập khẩn cấp từ Vọng Các qua. Không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra. Trong khi đó, nhà cầm quyền Hà Nội úp mở nói rằng sẽ cho trình diện một gián điệp của Hoa Kỳ và của tình báo Thái, xâm nhập vào làm công tác phá hoại Việt Nam.


Từ loa phóng thanh, tiếng viên Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Thông Tin Cộng Sản Hà Nội, Lê Thành Công, chủ tọa và điều hợp buổi họp báo vang lên:
Ðây là tên tay sai của trung ương tình báo Hoa Kỳ CIA.


Với gương mặt khắc khổ và cặp mắt cương nghị, người đàn ông họ Võ, sinh năm 1936 tại Ðà Nẵng cúi đầu chào cử tọa. Tiếp theo, ông đứng lên phía sau một chiếc bàn gỗ ghé đầu xuống micro:

Tôi, Võ Ðại Tôn, chỉ huy trưởng Chí Nguyện Ðoàn Phục Quốc, tôi xác nhận hoàn toàn chịu trách nhiện về dự mưu xâm nhập Việt Nam...Tôi xin các nhà báo vì lương tâm chức nghiệp của người cầm bút, xin hãy tường thuật trung thực.



Một cách gián tiếp, Võ đại Tôn bác bỏ vai trò của trung ương tình báo Hoa Kỳ. Ông xác nhận đã là người chủ dộng và chấp nhận tất cả mọi hậu quả.
Như chúng ta đã thấy, hậu quả tàn khốc nhất là ông đã làm mất mặt toàn thể guồng máy công an và tình báo Hà Nội. Sau khi thấy Võ đại Tôn nói không đúng bài bản dự trù là sẽ thành khẩn thú nhận tội lỗi, lập tức cộng sản cúp điện, và lôi ông vào.

Sau đó khán giả không được thấy hình ảnh tiếp theo. Bình luận gia của đài truyền hình cho biết là người ta đã đem ông Võ đi và cuộc họp báo chấm dứt. Cuộc chiến đã ngưng ở đây. Một người đã thắng một chế độ. Kinh Kha của Việt Nam đã hoàn tất sứ mạng và không ai nghĩ rằng người tráng sĩ đó lại có ngày trở về.
Trần Bình Trọng của lịch sử Việt Nam, lúc sa cơ trong tay giặc đã bày tỏ tâm nguyện không làm vương đất Bắc. Người chiến sĩ họ Võ ra đi năm 1975, trở về năm 1981 vỏn vẹn với hai chiến hữu, sa cơ ở miền biên giới, đã đành quyết một lòng làm quỷ nước Nam.

Sau này, khi đã xin tỵ nạn tại Pháp, nguyên đại tá cộng sản Bùi Tín kể lại rằng năm 82 Võ đại Tôn đã đem chính thân xác ra hy sinh để đánh lừa cả bộ chính trị Hà Nội một quả vô tiền khoáng hậu. Ai cũng biết rằng ông đã phải trả giá cho cuộc họp báo quốc tế phi thường như thế nào.

Tại San Jose, những thước phim ngắn trên truyền hình Nhật Bản được in ra phổ biến trong cộng đồng và một cuộc biểu dương hàng ngàn người đã được tổ chức tại công viên St James

Từ đó đến nay, giữa ngục tù Cộng Sản, ông Tôn đã đếm được 10 năm 1 tháng và 17 ngày. Báo chí ở Úc nói rằng: Mr. Võ có một trí nhớ sắc bén như lưỡi dao cạo. Ông nhớ rằng với trọn năm tù đầu tiên ông bị đánh suốt 45 ngày. Biệt giam trong một xà lim 3 thước và 2 thước rưỡi. Suốt 10 năm ông đã bị đánh đập 96 lần.

Sau ngày 13-7-1982, khắp thế giới nói đến Võ Ðại Tôn, nhưng cũng từ ngày ấy không một ai biết thêm tin tức gì về viên gạch lót đường yêu quý đó nữa.

Tại Úc châu, tiểu bang New South Wales, nơi cộng đồng Việt Nam thân yêu mà ông từ giã, vẫn mòn mỏi chờ đợi là một người vợ trẻ và đứa con trai 3 tuổi.

Năm 1990, khi có cơ hội qua Úc châu thăm bà Võ Ðại Tôn, chúng tôi đã tìm thấy một gia đình rất bình thường như bất cứ một gia đình tỵ nạn nào của cộng đồng Việt Nam. Bà Tuyết Mai, vợ Võ Ðại Tôn đi làm công chức và thay chồng nuôi con. Trong căn nhà nhỏ bé, có treo một tấm chân dung vĩ đại của người chồng và người cha ngàn trùng xa cách.

Trở về Hoa Kỳ, chúng tôi đã bắt đầu công cuộc vận động với các giới lập pháp Hoa Kỳ, kể cả việc gửi người trong phái đoàn về đấu tranh với Hà Nội.

Cuối thập niên 80, các hội đoàn tại San Jose hòa nhịp với người Việt toàn thế giới cùng lên tiếng đấu tranh cho tù tập trung “Lao Cải”. Tên của Phan nhật Nam và Võ đại Tôn dược nhắc nhở nhiều lần. Sau đó, đại diện cơ quan IRCC là ông phó giám đốc Nguyễn đức Lâm trong phái đoàn quốc hội California đã về Sài gòn trong sứ mạng thăm dò với cùng muc đích của bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Cũng vào thời gian đó, Phan Nhật Nam vừa được tự do và IRCC đã có dịp phỏng vấn trực tiếp ông tại Sài Gòn đem về phát lại trên radio San Jose. Nhưng trường hợp Võ đại Tôn hy vọng rất mong manh.


Ðối với gia đình của ông Tôn, tin tức ghi nhận được ngày 13-7-1982 cũng là tin tức chính thức cuối cùng. Ít nhất cho đến 9 năm sau, với sự vận động rất tích cực của chính phủ Úc Ðại Lợi, Hà Nội đã cho phép ông nhận quà và gửi thư về. Rồi đến áp lực chung của toàn thế giới và sự lưu tâm đặc biệt của Úc châu. Sau cùng Cộng Sản Việt Nam quyết định trả tự do cho ông Võ Ðại Tôn ngày 10-12-1991.


Ông trở về Úc châu với cả một cộng đồng thân yêu chào đón. Với người vợ đỏ mắt chờ mong và đứa con trai mà người cha như là một huyền thoại. Hà Nội đã giam giữ ông trên 10 năm, từ 72 kg xuống còn 48 kg. Thân hình tiều tụy trông già hơn 20 tuổi. Tuy nhiên, trí óc sắc bén còn nhớ hàng trăm bài thơ dài ngắn và 3 cuốn sách mà ông đã viết bằng ký ức trong thời gian biệt giam, vì không có ánh đèn và giấy bút.

Ngay như cuốn hồi ký Tắm Máu Đen (đường về quê hương và cuộc chiến cô đơn trong lao tù Hà Nội) dày hơn 500 trang, ngay sau khi ra khỏi tù trở về Sydney, đã được đánh máy trong vòng một tuần lễ và phát hành ngay tại Úc, 1992. Tái bản tại Hoa Kỳ năm 2000. Như vậy là, sau cùng người chiến sĩ xuất thân từ biệt kích đã có nhiều lần đảm nhận nhiều công tác tình báo đặc biệt, nay đã trở về. Lần cuối cùng ông đi vào lòng địch không hề có lệnh công tác mà cũng không có được một tiểu đội xung kích. Nếu không kể toán lính kháng chiến Lào hộ tống đã tan hàng, thì thầy trò chỉ vỏn vẹn có 3 người. Một người là Vũ Ðình Khoa đã hy sinh tại chỗ, một người thứ hai đã bị bắt cùng một lượt với Võ Ðại Tôn và được thả năm 1987.


Năm 1981, khi ông Võ Ðại Tôn lên tiếng với toàn thế giới là ông đang tìm đường trở về quang phục quê hương, trong chúng ta đã có nhiều người bày tỏ sự hoài nghi rất hợp lý.
Dứt bỏ cuộc sống ổn định, bỏ gia đình vợ con đơn chiếc để tìm con đường về mịt mù vô vọng. Quyết định này không dễ gì thực hiện. Mở cuộc thánh chiến cô đơn để chống chế độ Hà Nội lúc đó còn đầy đủ sắt máu và phong độ vào thập niên 80, rõ ràng đối với nhiều người thì đây là một hành động không khôn ngoan và thiếu thực tế.
Nhưng chúng ta không thể lấy tri thức của mọi người mà đo lòng của một người. Không thể lấy bụng dạ của thường nhân mà đo lòng chiến sĩ. Và không thể lấy đất mà đo với gạch. Vì vậy mới có Võ Ðại Tôn. Con người này khi đi làm anh hùng thể hiện sứ mạng lịch sử, quả thực đã thiếu sự khôn ngoan của đa số bình thường. Chúng ta đâu có biết ông đã nghĩ gì khi quyết “Tìm đường gai góc mà đi”.


Tháng 4 năm 1992, miền đất ấm California đã có dịp chào đón Võ Ðại Tôn trên đường từ Úc Châu qua Hoa Kỳ. Lúc đó phong độ vẫn quả cảm quyết liệt, nhưng già dặn chín chắn hơn. Chúng ta thường có thói quen dành hết lòng thương yêu thành kính cho những người liệt sĩ ra đi vĩnh viễn vào cõi vô cùng. Trong khi đó cộng đồng và quê hương thực sự rất cần những anh hùng còn tồn tại.

Hai mươi năm trước San Jose đã lên tiếng cảm ơn đất Quảng đã sản xuất ra một Võ Ðại Tôn trước sau như một. Chúng ta đã ca ngợi cộng đồng Việt tại Úc châu có được một Võ Ðại Tôn hơn một lần bước chân đi, lẫm liệt đường hoàng.

Con đường đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn luôn mở rộng trong một cuộc chiến mới đầy hy vọng cho quê hương và dân tôc.
Trên con đường đó vẫn cần rất nhiều viên gạch lót đường. Trong đó, chúng ta đã có sẵn một viên gạch bất khuất. Viên gạch lót đường mang họ Võ.
Tháng 4 năm nay, chúng tôi lại mời ông Võ Ðại Tôn qua Mỹ.
Ngày thứ bẩy 15 tháng 5-2010 lúc 1 giờ trưa ông sẽ có dịp gặp gỡ đồng hương và chiến hữu tại San Jose. Tại hội trường Santa Clara County số 90 W. Hedding. Ông sẽ giới thiệu những cuốn sách mới viết xong, trong đó có cuốn hồi ký “Tuổi thơ và chiến tranh” và quan trọng hơn hết là ông sẽ trải rộng tâm tình với bà con San Jose, nơi cũng đã trải tấm lòng ra với ông suốt 30 năm qua.
Rồi một tuần sau, đến ngày chủ nhật 23 tháng 5-2010 trong chương trình văn nghệ 35 năm nhìn lại tại đại hí viện CPA, nhà thơ Hoàng Phong Linh, bút hiệu văn nghệ của Võ Ðại Tôn sẽ cất tiếng hát lời thơ do chính ông sáng tác (Nguyễn Ánh 9 phổ nhạc) :” Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây...

Tháng tư 1975, cách đây 35 năm miền Nam đã có biết bao nhiêu anh hùng tuẫn tiết. Tình cờ chúng tôi ghi nhận được tướng Nguyễn Khoa Nam của đất Thần kinh, Trung Việt. Tướng Lê Nguyên Vỹ, quê Sơn Tây, Bắc Việt và tướng Lê văn Hưng, Nam Việt. Quả thực anh hùng ở khắp mọi nơi và hào kiệt thời nào cũng có.


Trên con đướng đấu tranh phục quốc Trần văn Bá về từ Âu Châu,Hoàng cơ Minh về từ Mỹ Châu và Võ Ðại Tôn về từ Úc Châu.
Trên sân khấu lịch sử 35 năm nhìn lại ngày 23 tháng 5-2010, chúng tôi ước mong có đại diện sinh viên Trần Văn Bá, có người con trai của tướng Hoàng cơ Minh. Liệt sĩ Trần văn Bá đã bị cộng sản xử tử hình tại Sài Gòn. Ðề đốc Hoàng cơ Minh đã hy sinh miền biên giới. Ta nỡ lòng nào đề một mình viên gạch lót đường cô đơn Võ Đại Tôn đứng đó mà hát rằng:” Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây...


Giao Chỉ - San Jose.
4.2010
 
Back to top
« Last Edit: 24. Apr 2010 , 16:38 by admin »  
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #28 - 25. Apr 2010 , 01:18
 
Tâm Thư của Phu Nhân Tướng Lê Văn Hưng



Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói:
- “Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”.
Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.

Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.
Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau:
- “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau:
- “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”
Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi:
- “Quân không Tướng chỉ huy thì sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai:
- “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.
Lời phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lãnh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.
Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi:
- “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?”
Lại có người nghiêm khắc trách tôi:
- “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?”
Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì… những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?

Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quý vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.

Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sàigòn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính là lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất.”
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định:
- “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.

Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.

Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật khóc khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định không chịu đầu hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và oai hùng thế đấy.

Trong khi Sàigòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.
Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.

Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.
Tìm kiếm Đại Tá an ninh, người đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi:
- “Có đồng ý đem con lánh nạn không?”
Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi:
- “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?”
Tôi đáp:
- “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.
Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. 4g45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều  khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn, gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu:
- “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường…”.
Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời:
- “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”.
Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi:
- “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”.
Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp:
- “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”.

6g45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đã cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.
7g30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:
- “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ”.
Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng:
- “Em phải sống ở lại nuôi con”.
Tôi hoảng hốt:
- “Kìa mình, sao mình đổi ý?”
- “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”
- “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”.
- “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta”.
- “Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?”
Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc:
- “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”
Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:
- “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”.
Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh:
- “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”.
Tôi phát run lên hỏi:
- “Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc này?”
Nắm chặt tay tôi, Hưng nói:
- “Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”.
Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:
- “Vâng, em xin nghe lời mình”.
Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục:
- “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”.
- “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?”
Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi:
- “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”.
Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói:
- “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó”.
Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi:
- “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”.
Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống.
Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói:
- “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.
Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm:
- “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”.
Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin:
- “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”.
Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa:
- “Nghĩa trở lại với tôi”.
Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi:
- “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?”
Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở:
- “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!”
Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc:
- “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”
Tôi bảo Giêng:
- “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng”.
Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.
Nghĩa điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vã mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang:
- “Alô, Alô, ai đây?”
- “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”.
Tôi bàng hoàng:
- “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?”
Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi:
- “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”.
Tôi lúng túng vài giây:
- “Ông đang điều động quân ngoài kia”.
- “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?”
- “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”.
Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa tôi hỏi:
- “Đại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?”
Nghĩa lúng túng:
- “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”.
- “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.
Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt:
- “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”
- “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng còn giữ y lịnh không?”
- “Cẩn vui lòng chờ chút”.
Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định:
- “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”
Cẩn đáp thật nhanh:
- “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!”
- “Tốt lắm, vậy thì y lịnh”.
- “Dạ, cám ơn chị”.
Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ:
- “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”
“Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những dòng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?

Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.

11 giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:
- “Alô, chị Hưng!”
Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng:
- “Thưa Thiếu Tướng…”
Giọng Tướng Nam buồn bã u uất:
- “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”.
Tôi vẫn nức nở:
- “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?”
- “Hưng đã nói với chị hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”.
Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:
- “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”
- “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”
- “Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì… Đàng chị thế nào?”
- “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”.
- “Còn mấy chú đâu hết?”
- “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng”
- “Chị tẩm liệm Hưng chưa?”
- “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong thì Thiếu Tướng gọi tới”.
- “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên”.
- “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?”
Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên:
- “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”.
Người chép miệng thở dài:
- “Thôi chị Hưng ơi”.
Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi:
- “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”.
Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi:
- “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”.
- “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.
Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế.

Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam.

7 giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện:
- Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.

Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.
Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin quý vị hiểu rõ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.

Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, đạp chà nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản?

Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống?

Họ đã nằm xuống không phải là vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn sáu chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho tổ quốc.
Back to top
 
 
IP Logged
 
NgocDoa
Gold Member
*****
Offline


I Love Me Now!

Posts: 1704
U S A
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #29 - 25. Apr 2010 , 06:48
 
Quote:
Một Đóa Sen :Thượng Tọa Thích Quang Long
Quyền G.Đ Nha Tuyên Úy Phật Giáo của QLVNCH


Mỹ Dung mến,
Cám ơn Dung đã post bài này.
Đoá biết rất rõ thượng toạ Thích Thanh Long (Thanh, không phải Quang) vì nhà Đoá chỉ cách chùa Giác Ngạn vài căn nhà.
Bố mẹ mình rất quý trọng vị sư này vì đức độ, sự hiểu biết và cách cư xử của ngài.
Đoá còn nhớ cuối năm 1972, thầy đang là trụ trì chùa Vĩnh nghiêm. Nghe tin mẹ Đoá mất, thầy đã xuống nhà quàng để tụng kinh cho bà.
Sau này, thầy vẫn hay ân cần thăm hỏi, chỉ bảo cho ba Đoá và các con mỗi lần gia đình đi chùa hay tình cờ gặp ngoài đường.
Sau 1975, CS lấy chùa Giác Ngạn để làm Hợp tác xã mây tre lá. Đến khi được thả về, thầy đã đòi lại được chùa. Đáng tiếc thay, chỉ một thời gian ngắn ngủi sau đó thầy đã viên tịch.
Hôm nay viết những dòng chữ này, con xin kính dâng lên Thầy tấm lòng kính phục và thương tiếc một vị chân tu rất khí phách và rất nhân từ.
Back to top
« Last Edit: 25. Apr 2010 , 06:56 by NgocDoa »  

-“Kẻ nào chấp nhận cái ác mà không phản đối chắc chắn là tiếp tay cho cái ác lộng hành” (He who accepts evil without protesting against it is really cooperating with it)
Given by Martin Luther King
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #30 - 02. Jun 2010 , 20:18
 
Can Trường Kẻ Sĩ 
      

Lê Thị Công Nhân là một hình ảnh yêu thương cảm phục nhất cuả những người Việt Nam có lương tri và phẩm cách dù ở hải ngoại hay quốc nội, thập kỷ đầu cuả thế kỷ 21. Mọi người thương yêu chị, cộng đồng quốc tế chià tay, nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn yếu ớt lạnh cóng cuả chị. Chị đã đi vào lòng người như một huyền thoại, một thiên thần cuả sứ giả hoa bình. Với tuổi 31 chị vẫn chưa chồng con gì cả, chị cũng thưà biết đời chị giở giang lỡ làng.

Chị chỉ tủi thân nói rằng: chị chỉ biết làm đúng bổn phận cuả mình, mà trời đất quê hương sông núi và tình mẩu tử đã sinh ra chị. Chị không thể làm hết được bổn phận cuả 90 triệu dân Việt Nam. Lý tưởng đấu tranh cho dân chủ tự do, đấu tranh cho quyền làm người cuả chị và cuả đồng bào cuả chị là đúng, mặc dù cái giá phải trả là cuộc đời con gái kiều diễm cuả chị.
...

Đời người con gái thì lại quá ngắn ngủi. Rồi đây người con trai nào dám đến với chị dưới con mắt dòm ngó cuả lũ cho săn mật vụ công an cộng sản, chị sẽ mất đi sự bình thản hẹn hò dưới vầng trăng huyền ảo cuả tình yêu. Nhất cử nhất động cuả chị sẽ bị bọn mật vụ ghi chép báo cáo tường tận, đầy đủ cho thượng cấp. Kể cả đi ra ngoài phố, muốn đi đại tiện , tiểu tiện cũng không dám mà phải nín thở chạy về nhà.Gặp người quen ở ngoài chợ , siêu thị, hàng quán, bến tàu v.v.. thì phải nó to lên để cho những con chó săn lởn vớn xung quanh còn nghe nưã chứ. Chị là một ngưòi con gái rất thông minh dí dỏm và biết khôi hài.

Anh hùng đa hoạn nạn, tiểu nhân hưởng thái bình, dù cho là bậc nữ nhi cũng không thể gọi là thường tình. Hàng ngàn hàng vạn những đấng nam nhi tự cho mình là anh hùng hảo hán trong quân đội nhân dân và công an nhân dân cộng sản sẽ nghĩ sao? Khi chính mắt họ nhìn thấy hình ảnh người con gái kiều diễm đã làm bổn phận cuả bậc tài trai kẻ sĩ trong đời loạn, mặc dù chị không phải là con trai. Chị đấu tranh cho ai? Cho chính quyền lợi cuả cha mẹ anh em họ, cho bà con lối xóm cuả họ.

Vì chính nghiã mà chị phải chịu thiệt thòi lỡ làng cả tuổi thanh xuân. Còn họ những đấng mày râu nam nhi trong quân đội ,công an thì lại chiụ cam tâm, vui vẻ làm công cụ rẻ tiền cho một tập đoàn mafia hiện đại, gọi là nhà nước vô sản. Chỉ vì niềm tin mù quáng, chỉ vì đồng lương chết đói, chỉ vì miếng ăn và sự hứa hẹn ban thưởng cuả thượng cấp… Cũng có thể họ bị bưng bít về thông tin và bị khống chế. Kể cả những tên ác ôn, nhúng máu tội ác, biết là tội lỗi nhưng cũng cứ lăn sả vào vì không có đường rút lui, nếu không muốn một phát đạn bí hiểm đằng sau gáy cuả đồng bọn hay cấp trên. Phóng lao phải theo lao, một lần nợ máu thì sẵn sàng ngàn lần nợ máu, được làm vua thua làm giặc. Đằng nào thì cũng tội ác nợ máu cả, nhiều hay ít thì cũng chỉ một thằng mình chiụ, không có hai thằng mình chiụ đâu mà sợ, mà lo.

Mình dù mang tội nhưng vợ con mình ,cha mẹ mình không có tội và nhờ mình họ được hưởng hạnh phúc hơn người. Khi lý trí trái tim, phẩm giá cuả con người xuống ở bậc thang thấp nhất, con người sẽ trở thành dã thú, bản năng đấu tranh để sinh tồn sẽ mãnh liệt, tự cắn xé lẫn nhau sẽ càng khốc liệt.
Thà chết để bảo vệ quyền lợi, sống sao cho đáng sống dư dả thưà thãi hơn người, dù sao con người cũng chỉ là con vật cao cấp như Friedich Engels đã nói. Cho nên cộng sản căm thù Phật Giáo, Công Giáo là vậy. Tín ngưỡng Thiên Chuá và Đức Phật khuyên con người nên là người , đừng biến thành thú vật. Cái gọi là giai cấp, tình thương chỉ là thủ thuật mẹo mực, đưá nào khôn đưá nào tỉnh là sống. Cái đám dân đen nó ngu nó cứ tin tưởng, mù quáng vào tuyên truyền cuả văn thơ báo chí là chuyện cuả chúng nó, ta bất cần quan tâm đến chúng nó.Ta chỉ biết có đảng và bác là có tất cả, ta sẽ sống vẻ vang, giàu có hơn người.Mà có phải mình ta đâu, còn khối thằng, hàng nghìn hàng vạn đưá chả chen chân xun xoe nịnh bợ đảng để chóng lên lon lên cấp đó sao? Lê Thị Công Nhân là một kẻ sĩ có trí tuệ, có suy tư,lương tâm hơn ngưòi chị xứng đáng là thiên thần xứ giả hoà bình trong lòng dồng bào hải ngoại và cộng đồng văn minh quốc tế

Từ Genève Xa Xôi
chuyển thể thơ Bảo Việt& Ngọc Anh
mến tặng Lê Thị Công Nhân

Lũ chúng nó bắt giam em gái
Đoá hồng nhung tê tái thương đau
Ba muà gai góc vàng thu
Lưu vong chị cũng âu sầu nhớ thương

Loài lang sói bất lương tàn bạo
Dấu tích còn ác bá là đây
Nhịn ăn tuyết thực bao ngày
Vô tri vô giác con người tìm đâu ?…

Xe chạy suốt đêm thâu nam bộ
Hướng tây nam qua ngả Việt Lào
Giải về giam ở hoả lò
Bụi đường Hà Nội khuất mờ đằng sau

Tù tắm gội bên bờ giếng nước
Khóc Minh Tâm lỡ bước diễm kiều
Vòng tay ấp ủ mẹ ru
Anh Đài Chị Thủy mặn mà thân yêu

Trải mấy đận sương pha gió hận
Thấu trời xanh ai oán can trường
Con chim nhốt ở trong lồng
Vẫy vùng cá chậu quê hương nghẹn ngào

Genève Tây Âu chị nhớ
Đốt bùng lên đốm lưả đoàn viên
Bạn bè thân hữu xa gần
Truyền thông quốc tế đoá sen hương nồng

Mơ khi thấy thê lương chim nhỏ
Hót em nghe song cưả nhà tù
Bàn tay quỷ dữ ta bà
Dân oan khiếu kiện mất nhà lầm than

Vầng trăng trải Léman giải luạ
Phải chi em sứ giả thiên thần
Nụ cười nhân ái vì dân
Đấu tranh dân chủ thiên ân sáng ngời.

6.3.2010 Lu Hà

Chào Em Cô Gái Việt Nam
( Mến tặng Lê thị Công Nhân)

Chào em cô gái của quê hương
Tổ quốc lặng đi nghiêng nuí sông
Yêu nước thương dân là tội lỗi
Ngàn thu thơm ngát tấm lòng trong

Như một loài sen hương sắc hoa
Tuổi còn rất trẻ sống tù ao
Vì ai vô ý gây nên tội
Có phaỉ vì em đòi tự do ?

Em đã sinh ra ở cõi đời
Gan trời trọc giận sống làm người
Bao nhiêu cưỡng chế đầy bi thảm
Khổ nhục tang thương đất nước này

Sông nuí quê hương khắp mọi nơi
Nó là chẳng phải của riêng ai
Nghìn năm hương khói hồn dân tộc
Ác quỷ từ đâu ám hại người

Dân chủ nhân quyền cấm đoán nhau
Bắt người vô tội chẳng buông tha
Bơỉ vì em muốn đòi quyền sống
Chống bóng ma xưa đã mưá thưà

Những lời sáo rỗng vẫn còn đây
Hưá hẹn bắc nam mua bán thây
Thế kỷ mấy phen hoen ưá lệ
Như dòng nước suối vẫn tuôn trôi

Từ thuở xa xưa đi đánh tây
Thiệt bao mạng sống thiệt bao đời
Hô hào độc lập cho tổ quốc
Rồi mất tự do cả giống nòi

Họ đã cướp đi quyền tự do
Bắt người em gái nhỏ ra toà
Vì em chống đối đòi nhân phẩm
Khoan vào ung nhọt hận thù sâu

Phiên toà sói lở trái tim người
Thân quyến bạn bè chẳng có ai
Mật vụ an ninh đầy hắc ám
Mẹ ngồi nước mắt lệ buồn rơi

Dân chủ trò hề có thế thôi
Công khai báo chí nực cười ai?
Các toà đại sứ cho mời đến
Giữ lại phòng bên hình nộm coi

Lính kín ma tà đã bắt đi
Minh-Tâm ruột thịt cũng tình nghi
Chị em cưỡng ép về Cầu giấy
Tra hỏi hỏi tra hết cả ngày…

Phiên toà chấn động cả lương tâm
Thế giới rùng mình buốt nhói tim
Vô tội gán cho thành trọng án
Bốn năm lao khổ tống nhà giam

Thế kỷ lầm than hận nhuốc nhơ
Bởi vì quyền lợi chẳng dung nhau
Số đông cam chiụ nhường cho Đảng
Bá đạo đong chia giữ chẳng đều

Quyền lực trong tay lũ bất nhân
Sống trong xa sỉ hại nhân dân
Công an mật vụ liều sinh mạng
Sống chết trung thành giữ miếng ăn

Anh viết bài thơ để tặng em
Mà sao cảm phục tấm lòng son
Ngây thơ hiền dịu thơm hoa trái
Dáng đứng Công Nhân chống bạo tàn

Em đã công khai nói thẳng ra
Con đường nhân thế chẳng quanh co
Luơng tri trí tuệ mà em hiểu
Dù phải một mình vẫn quyết theo

Tuổi trẻ một lần để được yêu
Bao nhiêu mộng đẹp với lời thơ
Cướp đi hoa trái đời xuân nở
Hãy trả tự do những tháng tù

Thương cho em gái mái đầu xanh
Em chẳng buồn đâu chẳng một mình
Non nước còn đây còn cuộc sống
Vững tin bè bạn sẽ xung quanh.

Đức quốc
Lu Hà
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
NgocDoa
Gold Member
*****
Offline


I Love Me Now!

Posts: 1704
U S A
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #31 - 16. Jul 2010 , 17:15
 
Trương Văn Sương là một anh hùng


Thursday, July 15, 2010

Ngô Nhân Dụng


Người tù chính trị Trương Văn Sương là một anh hùng. Lịch sử Việt Nam sẽ ghi tên anh như kiểu mẫu một người tranh đấu cho dân tộc được tự do từ thế kỷ 20 sang tới thế kỷ 21. Cho tới hôm nay, ở tuổi 67, anh đã sống trong tù một nửa đời người vì lý tưởng tự do dân chủ. Chúng ta phải gọi anh Trương Văn Sương là anh hùng, vì trong suốt những năm tháng đó, anh chứng tỏ một tinh thần bất khuất, không khác gì những nhà cách mạng như Tiểu La Nguyễn Thành, Ngô Ðức Kế, Ðặng Thái Thân, Phan Bội Châu, trong thập niên đầu thế kỷ trước. Tuy nhiên, anh Sương bị tù đầy lâu hơn nhiều so với các vị tiền bối kể trên.

Ngày hôm qua Trương Văn Sương đã về đến thị xã Sóc Trăng, sau một cuộc hành trình gần 2000 cây số kéo dài hơn 80 tiếng đồ hồ, được nghỉ hai đêm ở Ðà Nẵng và Sài Gòn, từ bệnh viện Phủ Lý miền Bắc vào tới một thị xã ở gần mảnh đất cuối cùng ở miền Nam. Nhiều người Việt Nam, ở trong nước và hải ngoại đã khóc khi nghe tin, và nhất là khi được nghe giọng nói bình thản của anh trên các làn sóng. Phương tiện truyền thông hiện đại đã nối liền trái tim, khối óc, cũng như tiếng thổn thức của hàng triệu người Việt trên khắp thế giới. Trước đó cũng nhờ kỹ thuật thông tin hiện đại mà hàng triệu người đã được đọc câu chuyện đời anh, nhất là thái độ bất khuất và những cuộc tranh đấu không ngừng nghỉ của anh trong lao tù, do các bạn tù cũ kể lại, như Linh Mục Nguyễn Văn Lý, nhà báo Nguyễn Khắc Toàn, vân vân.

Theo lời anh Trương Văn Sương kể với báo Người Việt: “Cứ sáu tháng thì tôi phải bị cùm, bị biệt giam kỷ luật một lần. Mỗi năm tôi bị bắt đi hai lần như vậy. Lý do là vì họ bắt tôi phải viết lại bản kiểm điểm vì bản kiểm điểm của tôi họ không vừa lòng.

“Họ không vừa lòng ở điểm nào, thưa ông?”

“Trương Văn Sương: Bản kiểm điểm của tôi viết như vầy: ‘Chúng tôi khẳng định rằng chúng tôi vô tội và chúng tôi là những người có công với đất nước. Chúng tôi đã đem mồ hôi xương máu xây dựng và đấu tranh cho nhân quyền, tự do dân chủ cho Việt Nam. Còn với những người có tội thì chính đảng Cộng Sản Việt Nam mới là người có tội. Bằng chứng là các cuộc cải cách ruộng đất đã giết chết bao nhiêu người vô tội tại miền Bắc. Sau đó năm 1975, một lần nữa sau khi chiếm được miền Nam họ đã làm kiệt quệ kinh tế bằng các cuộc cải tạo tư sản. đánh tư bản, đẩy dân đi kinh tế mới, gây cho hàng triệu người vượt biên trong đó hàng trăm ngàn người đã chết. Họ đã buộc hàng trăm ngàn sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đi cải tạo và có biết bao người chết mà không biết thân xác bị vùi dập nơi đâu. Cán bộ thì tham nhũng, thối nát, hiếp đáp dân chúng trong hàng chục năm qua nhưng lại hèn nhát cúi đầu trước các vụ lấn đất, lấn biển của ngoại bang. Hoàng Sa, Trường Sa không được bảo vệ khiến đất nước cha ông đã và đang rơi vào tay quân giặc.’”

Có thể coi những lời trên là một bản tuyên ngôn của tất cả các chiến sĩ người Việt đang tiếp tục đấu tranh cho tự do dân chủ, ở khắp thế giới, nhất là những người còn đang bị tù đầy.Trương Văn Sương có thể đọc lại nguyên văn “bản kiểm điểm” qua điện thoại cho cho phóng viên Người Việt ghi, vì anh đã thuộc lòng những “lời khai thành khẩn” đó, sau bao nhiêu lần viết đi viết lại.

Các cựu tù nhân chính trị cùng sống với Trương Văn Sương trong trại giam cho biết bốn ngàn người trong nhà tù Nam Hà đều công nhận Trương Văn Sương là một anh hùng. Vì “anh ta có một khí phách đấu tranh rất can đảm rất dũng cảm, bất khuất,” như lời Nguyễn Khắc Toàn nói. Nhưng khi trả lời cuộc phỏng vấn của báo Người Việt, Trương Văn Sương đã từ chối danh hiệu đó, “anh em đều cho tôi là người anh hùng, nhưng tôi không dám nhận danh từ này,” Trương Văn Sương khiêm tốn nói.

Trong cuộc đối thoại trên với Nguyễn Nam Phong trên Diễn Ðàn Dân Chủ, Trương Văn Sương nói ông vẫn “chưa thoát khỏi vòng kim cô” vì ông chỉ được tạm tha, đình hoãn không ở tù để về nhà chữa bệnh; mà theo ông nghĩ thì chắc Việt Cộng sợ ông chết trong tù chúng mang tiếng. Linh Mục Nguyễn Văn Lý khi được đưa về Tổng giáo phận Huế vào tháng 3 năm 2010 cũng với lý do tạm hoãn thi hành án để chữa bệnh. Theo lệnh của Tổng Cục An Ninh, Bộ Công An tại Hà Nội thì ông Trương Văn Sương chỉ được trả tự do “tạm.” Khi được Việt Cộng đưa về tận nhà, có bác sĩ đi theo dọc đường, tới nhà mình ông mới biết cái lệnh quái gở đó.

Nhà báo tự do ở Hà Nội, ông Nguyễn Khắc Toàn đã nhiều lần gọi ông Trương Văn Sương là Nelson Mandela của Việt Nam! Tính thời gian ở tù tổng cộng hơn 33 năm thì Trương Văn Sương bị mất tự do lâu hơn vị tổng thống đầu tiên của Cộng Hòa Nam Phi; tuy nhiên ông không phải là người lãnh đạo một phong trào chính trị lớn như ông Mandela. Trong 6 năm đi “tù cải tạo” và hơn 24 năm bị cầm tù sau cùng vừa qua, có thể coi Trương Văn Sương là một trong những “anh hùng vô danh,” một trong muôn ngàn chiến sĩ đã và còn đang tranh đấu cho quyền tự do dân chủ của dân tộc Việt Nam.

Theo một nguồn tin thì thân phụ Trương Văn Sương là người gốc Hoa, thân mẫu gốc Khmer, sinh ra, lớn lên Sóc Trăng. Nhà báo Hà Nội Nguyễn Khắc Toàn kể ông đã “làm bổn phận của một công dân với đất nước thời trai trẻ khi ông còn là một sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng hòa trong chiến tranh khi thể chế dân chủ này còn tồn tại trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.”

Khi về đến nhà Trương Văn Sương mới biết người vợ thân yêu quý là bà Lê Thị Lệ đã qua đời vào năm 2007, và người con gái thứ 2, Trương Thị Diễm cũng đã mất vì bị bệnh. Nhìn vào những bức hình do cựu tù nhân chính trị Nguyễn Bắc Truyển chụp, chúng ta thấy hình ảnh Trương Văn Sương đang cúi đầu lễ trước bàn thờ người vợ quá cố, mà lần cuối cùng ra thăm chồng đã từ gần 10 năm trước. Cũng ta cũng nhìn thấy ngôi nhà tiều tụy mà các con anh đang sống, ai cũng phải mủi lòng trước hoàn cảnh nghèo nàn, giống như hàng triệu người Việt Nam khác đang sống ở những vùng như Sóc Trăng. Chúng ta phải cảm phục và kính trọng sự hy sinh lớn lao của Trương Văn Sương, vì dân tộc, vì lý tưởng hy sinh cả gia đình mình. Phải liên tưởng tới những vị anh hùng, các nhà cách mạng chống Pháp thế kỷ trước, như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Anh nói với báo Người Việt: “Tôi có ba con, hai trai một gái. Bảy cháu nội và hai cháu ngoại. Nhưng không có đứa nào đi học đàng hoàng cả. Ðó là nỗi đau nhất của tôi từ xưa tới nay. Nghèo quá mà làm sao đi học cho được. Hơn nữa, cha của tụi nó ở tù vì ‘tội phản cách mạng’ nên tụi nó đâu dám chường ra với người ta mà học hành đàng hoàng! Vừa nghèo vừa dốt nát! Kết quả sau bao nhiêu năm trong tù còn lại với gia đình tôi như thế.”

Có thể nói suốt cuộc đời của Trương Văn Sương là tranh đấu. Năm 1975, ông mang cấp bậc trung úy, làm chi khu trưởng trong tỉnh Ba Xuyên. Sau đó, ông bị đưa đi tù cải tạo sáu năm tại Quảng Bình. Ra khỏi trại, ông tìm đường vượt biên sang Thái Lan rồi tham gia tổ chức kháng chiến của ông Trần Văn Bá, Lê Quốc Túy và Hồ Thái Bạch, xâm nhập vào Việt Nam nhằm xây dựng những cơ sở đấu tranh vũ trang chống cộng sản; nhưng thất bại. Hơn 200 người trong tổ chức này bị bắt và bị giam trong nhiều nhà tù, nhiều người đã chết vì bệnh hoặc vượt ngục bị giết. Hai trăm vị anh hùng vô danh. Các ông Trần Văn Bá, Lê Quốc Túy và Hồ Thái Bạch đều bị cộng sản sát hại.

Khi Trương Văn Sương về tới nhà thì bao nhiêu bạn cũ và mới đã đến thăm, các nhà báo ở hải ngoại đã gọi điện thoại về. Những nhân vật đối kháng chế độ như cựu tù nhân chính trị Nguyễn Bắc Truyển thuộc Ðảng Dân Chủ Nhân Dân Việt Nam từ Sài Gòn; Nguyễn Ngọc Quang từ Ðồng Nai; Nguyễn Thu Trâm thuộc khối 8406 từ Sài Gòn đã tìm được địa chỉ về tận căn lều tồi tàn ở Sóc Trăng để chào đón, mừng ông trở về. Ðây có lẽ là một điều bất ngờ đối với một người tù trở về. Những cú điện thoại từ nước ngoài phỏng vấn cũng là một hiện tượng mới. Nhưng hầu như Trương Văn Sương không tỏ vẻ ngạc nhiên.

Cuộc đời Trương Văn Sương đang bước vào một giai đoạn mới. Các bạn tù cũ và các người đấu tranh cho dân chủ đã trình bày cho anh biết rõ trong 24 năm qua thế giới và đồng bào sống ngoài nhà tù đã thay đổi ra sao. Ðể anh biết công cuộc đấu tranh công khai được phát động từ hơn mười năm qua đã tiến triển như thế nào. Cả hệ thống xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô đã tan rã nhanh chóng. Ðồng bào Việt Nam không sợ cộng sản nữa, đã đứng lên đình công, biểu tình đòi quyền lợi đất đai, đòi tự do tôn giáo, đòi bảo vệ tổ quốc, và đòi dân chủ. Giới trí thức văn nghệ sĩ ở khắp nước can đảm lên tiếng trên các mạng lưới, về những vấn đề lớn của dân tộc. Trong cuộc đấu tranh mới, vũ khí là các phương tiện kỹ thuật, như điện thoại di động, máy tính, Internet, ngòi bút, tiếng nói, báo chí tự do... vân vân. Trong cuộc điện đàm với Nguyễn Khắc Toàn, Trương Văn Sương tỏ ra ông đã biết và hiểu rõ ý nghĩa của tất cả các tin tức mới đó; cho thấy dù ở tuổi gần 70 và sau 33 năm tù, ông vẫn đầy phong độ của một cựu sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

“Và cuối cùng thì ước nguyện của ông đối với đồng bào, dân tộc như thế nào? Nhật báo Người Việt hỏi. “Tôi vẫn muốn dân tộc Việt Nam bây giờ nên hướng về tương lai. Nên đối xử với nhau trong tinh thần nhân đạo. Hãy để quá khứ về quá khứ.”

Chúng ta không được phép quên những người chiến sĩ khác còn đang trong tù ngục cộng sản, những chiến sĩ sau cùng vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu. Theo lời cựu tù nhân Nguyễn Ngọc Quang thì còn một đại úy Việt Nam Cộng Hòa là Nguyễn Hữu Cầu, quê Kiên Giang, đang trở thành người tù chính trị lâu năm nhất sau khi Trương Văn Sương về nhà. Năm 1975 anh Cầu bị bắt đi “tù cải tạo” hơn 6 năm, đến cuối năm 1981 được về. Sống ở bên ngoài được đúng 1 năm thì bị bắt giam trở lại vì anh đã viết thư tố cáo những tội ác tày đình của các quan chức tỉnh Kiên Giang, quê hương anh. Bản tố cáo nêu rõ các tên này “phạm tội giết người diệt khẩu, buôn bán xì-ke, ma túy, lợi dụng chức quyền tham ô tham nhũng, hãm hiếp, giết người,” vân vân. Trong thời gian đó, Nguyễn Tấn Dũng là một quan chức công an cấp tỉnh, từng nổi tiếng làm giàu nhanh chóng qua việc bán bãi cho dân vượt biên, nay đang giữ chức thủ tướng. Một quan chức tỉnh Kiên Giang khác lúc đó là Lê Hồng Anh, đã leo lên đến chức bộ trưởng Bộ Công An, ủy viên Bộ Chính Trị. Hiện cựu Ðại Úy Nguyễn Hữu Cầu bị giữ trong khu tù chính trị Biệt Giam Riêng, phân trại K2, Z30A, Xuân Lộc, Ðồng Nai.

Tất cả chúng ta hãnh diện về những chiến hữu, Ðại Úy Nguyễn Hữu Cầu và Trung Úy Trương Văn Sương. Mong anh Cầu sớm được tự do và anh Sương sẽ được nghỉ ngơi dưỡng bệnh, các anh sẽ sống thêm vài chục năm nữa như anh Sương mới nói. Chắc chắn nước Việt Nam sẽ được sống trong dân chủ tự do. Các anh có lẽ không mong sẽ lên làm tổng thống như Nelson Mandela nhưng ít nhất các anh cũng sẽ được như những Andrei Sakharov hay Alexander Solzhenitsyn, họ đã từng bị chế độ Xô Viết bỏ tù, họ đã sống đủ lâu để chứng kiến cảnh dân tộc Nga thoát khỏi gông cùm cộng sản.
Back to top
 

-“Kẻ nào chấp nhận cái ác mà không phản đối chắc chắn là tiếp tay cho cái ác lộng hành” (He who accepts evil without protesting against it is really cooperating with it)
Given by Martin Luther King
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #32 - 18. Aug 2010 , 00:10
 
Cựu đại úy VNCH Nguyễn Hữu Cầu sắp chết vì bị Vietcong đày đọa giam cầm




Cán bộ quản giáo” cũng lớn tiếng cảnh cáo người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu là tại sao trong tình trạng sức khỏe suy
kiệt
này, chính bản thân anh Nguyễn Hữu Cầu không làm đơn xin ân xá gởi lên Quốc Hội, lên Nhà Nước,, lên Chính phủ nước CHXHCNVN để xin được khoan hồng đặc xá, tha tù để về trị bệnh, mà lại nhờ cựu tù chính trị Nguyễn Bắc Truyển và những tên “phản động lưu vong ở nước ngoài” đưa thông tin lên các báo đài của người Việt ở hải ngoại


Sài Gòn, ngày 08 tháng 8 năm 2010

KHẨN BÁO VỀ TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE HIỆN NAY CỦA NGƯỜI TÙ THẾ KỶ, CỰU ĐẠI ÚY NGUYỄN HỮU CẦU


Kính thưa quý đồng bào Việt Namtrong nước và hải ngoại,
Kính thưa quý vi hữu, quý độc giả, quý chiến hữu và quý niên trưởng,

Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam ở quốc nội xin được gởi đến đồng bào, quý độc giả, quý vi hữu, quý chiến hữu và quý niên trưởng Bản tin khẩn báo về tình trạng sức khỏe vô cùng bi đát của người tù thế kỷ, cựu Đại úy Nguyễn Hữu Cầu như sau:

Thưa quý vị,
Hôm qua Thứ Bảy, ngày 07 tháng 8 năm 2010, hai cháu Nguyễn Thị Anh Thư và Trần Ngọc Bích (*) đã đến khu tù biệt giam chính trị thuộc phân trại K2, Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai để thăm cha là cựu Đại úy Nguyễn Hữu Cầu, người đã bị chính quyền CSVN giam cầm suốt 34 năm 4 tháng qua nhiều nhà tù từ miền Tây cho đến khám lớn Chí Hòa và hiện tại là ở trại giam này.

Các cháu đã không thể nào cầm được nước mắt, không thể nói nên lời khi găp lại người cha trong lần này, bởi so với lần thăm nuôi trước vào đầu tháng 6 tức là cách đây tròn hai tháng thì thể trạng của người tù thế kỷ này đã hoàn toàn thay đổi: Hiện nay thể trạng của cựu Đại úy Nguyễn Hữu Cầu bị suy kiệt nghiêm trọng, mặt mày hốc hác vô hồn, thân hình gầy guộc chỉ còn da bọc xương, cả hai mắt đã hoàn toàn không còn nhìn thấy gì nữa, thính lực cũng giảm đến 98 phần trăm, phải kề sát vào tai để nói, thì anh Nguyễn Hữu Cầu mới có thể nghe được.

...

Người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu


Nhưng kề sát miệng vào tai để nói chuyện lại là vi phạm nội quy của trại giam, nên đã không ít lần các “cán bộ quản giáo” của trại giam đã lớn tiếng cảnh cáo là sẽ ngưng ngay thời gian thăm nuôi vì để được nói chuyện với cha, các con của anh Cầu đã phải nhiều lần “vi phạm nội quy của trại giam” vì phải kề sát miệng vào tai để nói thì anh Cầu mới nghe được.

Ngay trong thời gian thăm nuôi gần 15 phút, sáng 07 tháng 8, vừa qua, “cán bộ quản giáo” cũng lớn tiếng cảnh cáo người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu là tại sao trong tình trạng sức khỏe suy kiệt này, chính bản thân anh Nguyễn Hữu Cầu không làm đơn xin ân xá gởi lên Quốc Hội, lên Nhà Nước,, lên Chính phủ nước CHXHCNVN để xin được khoan hồng đặc xá, tha tù để về trị bệnh,mà lại nhờ cựu tù chính trị Nguyễn Bắc Truyển và những tên “phản động lưu vong ở nước ngoài” đưa thông tin lên các báo đài của người Việt ở hải ngoại, anh Nguyễn Hữu Cầu phải nhắc lại với “cán bộ quản giáo” rằng bản thân anh đã hơn 500 lần gởi đơn đến các cấp để khiếu nại, để kêu oan rằng anh vô tội, nhưng cả hơn 500 lá đơn của anh sau khi gởi đi đều bị chìm vào quên lãng mà không có bất cứ sự phản hồi nào của giới hữu trách, nên những người tù lương tâm và cộng đồng người Việt hải ngoại buộc lòng phải lên tiếng thay anh, thay cho người bị buộc phải làm thinh.

Nghe đến đây, do thói thường không chịu nổi những lời khẳng khái của người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu, hai “cán bộ quản giáo” tuyên bố là đã hết thời gian thăm nuôi, và mỗi tên xốc một bên nách của anh Cầu, dẫn giải trở lại phân khu biệt giam K2 của trại Z30 A để tiếp tục đọa đày khi sức anh đã tàn, lực anh đã kiệt bởi hơn 34 năm qua, anh Nguyễn Hữu Cầu luôn luôn bị biệt giam trong những điều kiện giam cầm khắc nghiệt nhất của nhà tù.
...

Nguyễn Thị Anh Thư, con gái anh Nguyễn Hữu Cầu, đến thăm người tù bất khuất Trương Văn Sương


Kính thưa quý đồng bào và quý đồng hương,
Kính thưa quý vi hữu, quý độc giả, quý chiến hữu và quý niên trưởng,

Trong mối quan tâm và lo lắng chung của đồng bào đối với tình trạng sức khỏe người người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu hiện nay, Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam ở quốc nội kính gởi đến quý vị khẩn báo này, kính mong các cá nhân, các tổ chức, các cơ quan truyền thông của người Việt quốc gia ở hải ngoại kịp thời loan tin rộng rãi đến quý đồng hương, quý đồng bào mọi giới.

Kính mong các tổ chức bảo vệ nhân quyền của người Việt cũng như quốc tế, kính mong Quốc hội Hoa Kỳ, Quốc hội Châu Âu kịp thời can thiệp với nhà nước CHXHCNVN để người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu được sớm phóng thích, mới mong cứu được mạng sống của người tù lương tâm này, bởi vì chế độ lao tù của CSVN đã hủy hoại sức khỏe của anh hơn 34 năm qua, và hiện nay sinh mạng của anh đang như ngàn cân treo sợi tóc.

Trân trọng cảm ơn sự quan tâm của đồng bào, quý đồng hương, quý độc giả, quý chiến hữu và quý niên trưởng.

Sài gòn, ngày 08 tháng 08 năm 2010
Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam ở quốc nội

(*) Người con trai của anh Cầu tên Trần Ngọc Bích mang họ của cha dượng
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Phan Nguyen
Full Member
***
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 129
Đan Mạch
Gender: male
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #33 - 05. Oct 2010 , 11:57
 


Mời Các Anh chị xem bài viết sau của luật Sư Cù Huy Hà Vũ- Một Anh Hùng của Thời đại mới  :


LS. CŨ HUY HÀ VŨ GỬI  KIẾN NGHỊ CẤM BỘ PHIM PHẢN QUỐC


Luật sư Cù Huy Hà Vũ hôm Thứ Bảy đăng bản kiến nghị trên trang boxitvn.net, nội dung được đặt nhan đề “Kiến nghị cấm chiếu bộ phim “Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long”

Lời giới thiệu kiến nghị do trang Boxitvn viết:

“Mặc dù đã được tin Hội đồng duyệt phim quốc gia mở rộng sau khi thẩm định lần thứ hai, có để xuất kiến nghị không công chiếu phim “Lý Thái Tổ - Đường tới thành Thăng Long” trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long, nghĩa là từ 1-10-2010 đến 10-10-2010, ông Cù Huy Hà Vũ vẫn khẩn thiết nhờ BVN đăng bản kiến nghị của cá nhân ông gửi Quốc hội xin cấm chiếu bộ phim vĩnh viễn trên phạm vi toàn quốc, vì theo ông, đây là một bộ phim bôi nhọ văn hóa dân tộc một cách hệ thống với dụng ý rất xấu mà với thói quen dùng từ của mình, ông gọi thẳng thừng là “phản quốc”.

BVN tán thành đưa bản kiến nghị này lên công luận, bởi theo chúng tôi, tuy Hội đồng duyệt phim đã đi đến những kết luận xác đáng, song về mức độ giải quyết đối với nó thì cách nói có phần quá uyển chuyển của Hội đồng vẫn chừa lại một khả năng là bộ phim có thể sẽ được tự do công chiếu sau ngày Đại lễ kết thúc, mà như thế, tác hại rất nghiêm trọng của nó đối với công chúng, nhất là thế hệ trẻ, vẫn còn nguyên. Kiến nghị của ông Cù Huy Hà Vũ chính là nhằm chấm dứt khả năng nguy hại này mà những người chịu trách nhiệm trước dân tộc không được phép nhân nhượng.

Bauxite Việt Nam”


Và sau đây là bản kiến Nghị, gửi từ Hà Nội, đề  ngày 01 tháng 10 năm 2010.


KIẾN NGHỊ CẤM BỘ PHIM PHẢN QUỐC
“LÝ CÔNG UẨN - ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG”


Kính gửi: QUỐC HỘI VIỆT NAM
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

Tôi là Cù Huy Hà Vũ, công dân Việt Nam, 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội, nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội - Thủ Đô nước Việt Nam, xin gửi tới Quốc hội lời chúc tốt đẹp nhất.

Thưa Quốc hội,

Cũng chính để tôn vinh Thủ đô yêu dấu ngàn năm tuổi của tất thảy người Việt chúng ta, bằng Kiến nghị này tôi yêu cầu Quốc hội khẩn cấp CẤM BỘ PHIM PHẢN QUỐC “LÝ CÔNG UẨN - ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG” do Trịnh Văn Sơn, Giám đốc Công ty cổ phần truyền thông Trường Thành sản xuất, Tạ Huy Cường đạo diễn, Đoàn Thị Tình thiết kế trang phục… được chính thức đưa vào Chương trình Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt, Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng làm Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia, trước khi được bí mật quay ở trường quay Hoành Điếm, Trung Quốc!

Chỉ những gì mà những kẻ chủ trương tung ra trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã đủ cho thấy bộ phim này xuyên tạc lịch sử, xúc phạm vĩ nhân, xúc phạm dân tộc Việt Nam, tóm lại, phản quốc đến cỡ nào!

PHẢN QUỐC TỪ TÊN PHIM


Dân tộc Việt Nam ta có tục “kỵ húy”. “Húy” có nghĩa “kiêng, tránh”, sau được sử dụng để chỉ tên riêng, nhất là của người đã quá cố. Do đó mới có câu “nhập môn vấn húy”, nghĩa là đến nhà ai thì phải tìm hiểu tên riêng của gia tiên người ta để mà tránh.

Các triều đại phong kiến Việt Nam bắt đầu từ Nhà Trần nâng “kỵ húy” lên thành “Quốc húy”, cấm nói, viết tên riêng trước hết của vua. Kẻ nào phạm “Quốc húy” sẽ bị “tru di tam tộc”.
Vậy “Lý Công Uẩn” là tên riêng của Lý Thái Tổ thì chỉ nên sử dụng khi đề cập giai đoạn trước khi Ngài lên ngôi Hoàng đế nước Đại Cù Việt chứ dùng để đặt tên cho một bộ phim đề cập cả giai đoạn sau đó rõ ràng là phạm “Quốc húy”, là hành vi báng bổ, xúc phạm nghiêm trọng người đứng đầu Nhà nước phong kiến Việt Nam, qua đó, xúc phạm nghiêm trọng dân tộc Việt Nam!
Không những thế, Thăng Long chỉ tồn tại với tư cách là “Kinh đô” của nước Đại Cù Việt chứ chưa bao giờ là “thành” với nghĩa đơn vị hành chính thông thường. Do đó gọi “thành Thăng Long” thay cho “Kinh đô Thăng Long” hay “Kinh thành Thăng Long” dứt khoát là hành vi xuyên tạc lịch sử, như thể người Việt không có Vua, không có Kinh đô, và qua đó, không có Nhà nước của riêng mình!
Tóm lại, đặt cho phim cái tên “Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long” là gián tiếp phủ nhận Độc lập dân tộc mà tổ tiên ta đã giữ vững trước phong kiến Trung Quốc cách đây 1000 năm!

PHẢN QUỐC QUA BÚI TÓC ĐẶC “HÁN”


Trong phim “Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng Long”, tóc của vua Lý Thái Tổ được búi trên đỉnh đầu, điều này khác biệt hoàn toàn với cách búi tóc của ngưòi Việt từ xưa tới nay.
Thực vậy, người Việt, nhất là nam giới, từ cổ xưa đã có tục vấn tóc thành một búi sau ót trông như củ hành nên cách búi tóc này được gọi là “búi tóc củ hành”. Hình người trên cán muôi Việt Khê thời đại Hùng Vương cho thấy rõ điều này.

Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong Kiến văn tiểu lục chép: "Thời nhà Trần, người trong nước đều cạo đầu cho nên trong Sứ Giao châu thi tập của Trần Cương Trung nhà Nguyên chua rằng: "Con trai đầu trọc, người nào có quan chức thì trùm đầu bằng khăn xanh, nhân đân đều như sư cả… Lúc ở nhà để đầu trần, có khách mới đội khăn, nếu đi ra ngoài thì có một người mang khăn đi theo, duy có quốc vương búi tóc, dùng lụa là phủ lấy búi tóc trông xa như luân cân (khăn xếp bằng thao xanh – CHHV chú thích) của nhà đạo sĩ”.

Nói cách khác, “búi tóc củ hành” là Bản sắc văn hóa đậm đà của dân tộc Việt Nam, là Quốc hồn, hơn thế nữa, là Độc lập dân tộc tiềm ẩn trong từng người Việt yêu nước! Và tiêu biểu nhất cho người Việt biết giữ Quốc hồn - Độc lập dân tộc ấy chính là vua Hàm Nghi: cho đến cuối đời, sau 55 năm bị thực dân Pháp lưu đày tại Alger (thủ đô Algérie) sau công cuộc “Cần vương” bất thành, Ngài luôn để “búi tóc củ hành” cùng khăn vấn, áo the như một Tuyên ngôn Trường kỳ kháng chiến.

Vậy thì búi tóc trên đỉnh đầu đặc Hán mà Lý Thái Tổ có trong trong phim không chỉ là một sự bội phản văn hóa mà nghiêm trọng hơn, bội phản dân tộc Việt Nam!

PHẢN QUỐC QUA TRANG PHỤC, KIẾN TRÚC ĐẶC “HÁN”


Về trang phục của vua, trong Lịch triều hiến chương loại chí, ở mục Quy chế về mũ áo của đế vương, Phan Huy Chú (1782 – 1840) chép: “Lê Đại Hành lên ngôi, mặc áo long cổn, về sau mặc áo phần nhiều dùng vóc đỏ, mũ sức trân châu… Lý Thái Tông (vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lý, trị vì từ năm 1028 đến năm 1054 – CHHV chú thích) mới chế thứ mũ gọi là ‘bát giác tiêu dao’ bằng vàng. Từ đời Lý, đời Trần trở về trước, mũ áo của vua thế nào, không thể khảo cứu được. Xem trong sử có hai thứ kể trên, tạm chép ra đây để biết đại khái”.

Như vậy, trước và sau Lý Thái Tổ, vua ta có dùng mũ đồng nghĩa vị Hoàng đế đầu tiên của Nhà Lý dùng mũ là chuyện không phải bàn cãi. Tuy nhiên, chụp cho Ngài cái mũ nhái từ mũ “Bình thiên” của Hoàng đế Trung Quốc có từ Tần Thủy Hoàng rõ ràng là bất chấp bản sắc văn hóa dân tộc. Thực vậy, mũ “Bình thiên” rất khó, nếu không muốn nói là không thể, dùng cho vua Việt vì mũ này được tạo ra để chụp vào búi tóc trên đỉnh đầu của người Hán trong khi người Việt, như trên đã mô tả, lại để “búi tóc củ hành” sau ót.

Để nói, nếu cần thiết phải có thì mũ cho Lý Thái Tổ phải được thiết kế có phần lồi phía sau, tương ứng với “búi tóc củ hành” được vén lên mà mũ của vua Gia Long (chân dung do người Pháp vẽ) hẳn là một gợi ý thích đáng.
Vả lại, cho dù độc lập dân tộc vẫn được giữ vững nhưng để giảm thiểu sinh sự từ đế quốc Trung Quốc, Lý Thái Tổ vẫn cử sứ sang nước này để cầu phong và được nhà Tống phong làm Giao Chỉ quận vương, rồi Nam Bình vương. Do đó, không thể có chuyện Lý Thái Tổ dùng mũ nói riêng, trang phục nói chung, y chang Hoàng đế Trung Quốc!
Còn nếu muốn thể hiện ý chí độc lập cao độ của người Việt ta với đế quốc phương Bắc thông qua cái mũ thì lịch sử cũng cung cấp cho ta đủ chất liệu để thực hiện. Thực vậy, khỏi cần nhái mũ “Bình thiên” (bằng Trời) để tỏ ngang bằng với Hoàng đế Trung Quốc mã hãy tạo cho Lý Thái Tổ hẳn mũ “Xung thiên” (chống Trời) có hai cánh chĩa lên trời mà người đứng đầu các triều đại sau của Việt Nam đều đội khi thiết triều hay tế lễ.

Tóm lại, chụp cho Lý thái Tổ cái mũ “Bình thiên” chẳng những không nâng cao được mà ngược lại, hạ thấp đến không ngờ vị thế của nước Đại Cù Việt so với đế quốc phong kiến Trung Quốc vì một trang phục đặc Hán như vậy rất dễ tạo cho người xem cảm giác vua ta là một người Hán được Nhà Tống phái sang cai trị nước Nam!
Tiếp nối ý đồ thâm hiểm nói trên là áo xống trong phim được thêu thùa rất lộng lẫy, y hệt trang phục của triều đình Trung Quốc trong khi nếu thừa nhận ông tổ nghề thêu ở Việt Nam là Lê Công Hành, đi sứ Trung Quốc vào thời Lê Thái Tông (trị vì từ 1433 đến 1442) – như có nhà nghiên cứu đã nêu – thì trang phục của vua, quan Nhà Lý quyết không thể nào như trong phim.

Áo giáp cũng vậy, rập theo mẫu của Trung Quốc. Đoàn Thị Tình người thiết kế trang phục không giấu giiếm: “Giáp trụ của tướng lĩnh dựa vào tám pho tượng Kim Cương”. Mà Kim Cương nào phải người Việt gì cho cam, là thần tướng hộ vệ Phật pháp - sản phẩm tôn giáo du nhập từ Trung Quốc.

Rồi đàn bà mặc quần, một hình ảnh phải nói thẳng là “quái thai” so với thực tế vì sử chép quân Minh, tức 4 thế kỷ sau, vẫn ra sức cấm phụ nữ ta mặc váy, lẽ dĩ nhiên với mưu đồ đồng hóa cho bằng được dân tộc Việt. Đó là chưa kể đến trang phục của diễn viên quần chúng, tất tật đều “sao y” Trung Quốc.

Trang phục có thể nói là duy nhất mang tính Việt là áo tứ thân dùng cho cung nữ, thế nhưng lại là xuyên tạc lịch sử. Thực vậy, loại trang phục này là của dân nghèo (thời xưa khổ vải do người Việt dệt chỉ rộng 35-40 cm nên phải chắp nhiều mảnh mới thành một cái áo) nên không thể là thứ dùng trong cung đình.

Bên cạnh trang phục thì kiến trúc trong phim cũng góp phần rất đắc lực trong việc xuyên tạc lịch sử Việt Nam theo hướng Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Điện Kính Thiên trong Hoàng thành Thăng Long còn lưu lại ở thế kỷ XIX chỉ có 2 mái thế nhưng trong phim cung điện 8 thế kỷ trước đó lại có những 3 mái; kiến trúc đặc thù Việt là mái đao uốn lên trời một cách tinh thế thì được thay bằng mái nhọn hoắt…

Đến đây, một câu hỏi không thể không được đặt ra: một bộ phim phản dân tộc, phản quốc như vậy tại sao có thể được đưa vào Chương trình quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội
, một sự kiện trọng đại không chỉ mang tính lịch sử - văn hóa mà còn mang tầm vóc chính trị rõ rệt?

Công văn số 3055/BVHTTDL- ĐA ngày 14/9/2009 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch do Thứ trưởng Lê Tiến Thọ ký thay Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh gửi Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng, Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long cho biết Văn phòng Chính phủ bằng Công văn số 5082 giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nghiên cứu tham gia Dự án xây dựng bộ phim truyền hình “Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long” có sự hỗ trợ từ phía Đài truyền hình ASEAN của Trung Quốc. Cũng tại Công văn trên, Bộ này khẳng định: “Bộ phim “Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long” được hoàn thành hứa hẹn là một công trình nghệ thuật hấp dẫn, mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn” và “Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kính trình Phó Thủ tướng xem xét, đưa bộ phim vào nội dung chính thức của chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”. Chẳng chậm trễ, ngày 23/9/2009, Văn phòng Chính phủ gửi Bộ này Công văn số 6599/VPCP – KGVX thông báo “Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng có ý kiến: Đồng ý”.

Trong trao đổi nói trên giữa Chính phủ và Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, có 2 phi lý cùng cực:

Thứ nhất, phim chưa làm thì không thể đưa vào nội dung của bất cứ chương trình kỷ niệm nào chứ đừng nói Chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội mang tầm quan trọng quốc gia bởi do Chính phủ chủ trì!

Thứ hai, ngay cứ cho rằng bộ phim đã được hoàn tất thì để được đưa vào Chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bộ phim phải được trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trước đã rồi sau đó nếu thấy ổn thì Bộ này mới có thể đề nghị Chính phủ đưa vào Chương trình. Thế nhưng như ta đã thấy, “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long lại theo quy trình ngược: “đi” từ Chính phủ xuống Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để rồi sau đó Bộ này chỉ làm cái việc hợp pháp hóa “việc đã rồi”!

Để nói, chính Chính phủ, chứ không phải ai khác, đã chủ động đưa bộ phim phản quốc “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” vào Chương trình kỷ niệm 1000 năm thăng Long –Hà Nội bởi nếu không, hai phi lý cùng cực nói trên khó có thể tồn tại.


Thưa Quốc hội,

Bất luận thế nào, một khi bộ phim phản quốc này được công chiếu thì chắc chắn đó sẽ là thảm họa không chỉ đối với Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội mà còn đối với chính dân tộc Việt Nam vì những lý do đã rõ.

Bởi lẽ trên, tôi kiến nghị Quốc hội thực hiện quyền hạn của mình quy định tại Khoản 9 Điều 84 Hiến pháp (Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội) và căn cứ Khoản 4 Điều 11 Luật điện ảnh (Những hành vi bị cấm trong hoạt động điện ảnh: Xuyên tạc sự thật lịch sử; xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân tộc…) để bãi bỏ ngay tức khắc văn bản của Chính phủ đưa bộ phim phản quốc “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” vào Chương trình kỷ niệm 1000 năm thăng Long – Hà Nội đồng thời yêu cầu Chính phủ cấm chiếu vĩnh viễn bộ phim phản quốc này trên phạm vi toàn Việt Nam.

Tôi đợi chờ hồi âm tích cực từ Quốc Hội.

Trân trọng,

NGƯỜI KIỄN NGHỊ: CÙ HUY HÀ VŨ

ĐT: 0904350187
Email: havulaw@yahoo.com
Back to top
« Last Edit: 05. Oct 2010 , 15:34 by admin »  
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #34 - 05. Oct 2010 , 15:48
 
Phan Nguyen wrote on 05. Oct 2010 , 11:57:


Mời Các Anh chị xem bài viết sau của luật Sư Cù Huy Hà Vũ- Một Anh Hùng của Thời đại mới  :


My cảm ơn anh Tuấn rất nhiều hoahong.gif
My định vào đăng tin này, thấy anh đã đăng, nhất là lại chọn đúng mục Anh Hùng Thời Đại. votay
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4029
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #35 - 06. Oct 2010 , 22:32
 


Chân Dung Tướng Lãnh




Đài Sài Gòn loan bản tin buổi sáng.

Quân lịnh cuối cùng : Ngưng chiến – Bàn giao

Thế nước biến cả sơn hà xao xuyến

Lòng quân  dân cuồn cuộn nổi ba đào



Tướng Tư Lịnh buông bút chì xanh đỏ

Trung tâm hành quân chi chít bản đồ

Nhìn dãy giang sơn đồng bằng châu thổ

Còn dằng co theo thế trận răng cưa



Điếu Bastos trong gạt tàn đầy ấp

Dòng khói xanh còn lan tỏa triền miên

Tư lịnh nhíu mày lòng đau như cắt

Dấu chân chim hằn khuôn mặt chữ điền



Gió sông Hậu thổi qua giòng Bassac

Mang niềm đau về cửa biển sông Tiền

Tin chiến bại khiến lòng quân ngơ ngác

Lan xa dần qua biên giới Việt­ -Miên



Tướng Tư Lịnh xuống bậc thềm tam cấp

Nhìn đăm đăm cờ tổ quốc đang bay

Gió lay động lá tướng kỳ dưới thấp

Nghĩa keo sơn ràng buộc nước non nầy



Thế trận biến lấy chi đền nợ nước

Tình non sông còn nặng chĩu bên lòng

“Đất nước còn, không còn anh cũng được

Đất nước không,  anh có cũng là  không”



Tư lịnh ghé thăm từng giường bịnh viện

Những thương binh vừa mới mổ chiều qua

Anh lính cụt chân nói không thành tiếng:

Đừng bỏ em ! trong nước mắt chan hòa



Tư lịnh vỗ vai thương binh sọ nảo

Băng trắng tinh còn quấn nửa trên đầu

Tiếng nói nghẹn ngào niềm đau thăm thẳm:

Không ! chẳng bao giờ anh bỏ em đâu



Một lời nói như khắc sâu vào đá

Nặng ngàn cân bia sữ mãi lưu danh

Người ở lại với miền Nam châu thổ

Chín nhánh sông dài bát ngát đồng xanh



Người nằm xuống cùng hồn thiêng sông núi

Chết hiên ngang linh khí kết thành thần

Ân nghĩa nặng nề quê hương bờ cõi

Tiếng còn lưu: danh tướng chết theo thành



Người chết lâu rồi , người còn ở lại

Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng

Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi

Của những linh hồn hữu thủy hữu chung




HỒ THANH NHÃ
Back to top
« Last Edit: 06. Oct 2010 , 22:33 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Phan Nguyen
Full Member
***
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 129
Đan Mạch
Gender: male
Re: Anh Hùng Thời Đại - Cụ Trần Văn Hương - Vị Tổng Thống cuối cùng- Một Người Tràn đầy Nghĩa Khí Yêu Nước Thương Dân
Reply #36 - 11. Oct 2010 , 21:18
 
Những lời nói có TRÁCH NHIỆM của cựu TT - VNCH Trần Văn Hương

Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không chịu di tản

Trong ngày 29 tháng 4, dù rất bận rộn trong việc di tản hàng chục ngàn người Mỹ và người tị nạn VN. Đại sứ Martin cũng đã tìm cách đến gặp cụ Trần Văn Hương, cựu Tổng Thống VNCH tại phủ Phó Tổng Thống trên đường Công Lý lần chót.

Theo GS Nguyễn ngọc An, bạn thâm giao của cụ Hương thì cuộc gặp gỡ nầy đã diễn ra như sau :

« Cũng ngày đó, 29 tháng 4 năm 1975, đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái đại sứ nói :

« Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhơn danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng Thống cho đến ngày TT trăm tuổi già»

Tổng Thống Trần Văn Hương mĩm cười trả lời :

«Thưa Ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi.»

Khi nghe câu «Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilité s (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), đại sứ Martin giựt mình nhìn trân trân ông Trần Văn Hương. Năm 1980, ông Hương thuật lại với tôi: Dứt câu chuyện, on se sépare sans même se serrer la main» (GS Nguyễn Ngọc An. Cụ Trần Văn Hương, đăng trên Thời Luận không rõ ngày)

Cựu đại úy Nguyễn Văn Nhựt, sĩ quan tùy viên của phó Tổng Thống Trần Văn Hương cho người viết biết vào những ngày tháng cuối cùng trong tháng 4 ,1975, cụ Trần Văn Hương đã nói với anh em phục vụ tại phủ Phó Tổng Thống rằng:

«Thấy các em còn trẻ tuổi mà phải chịu hy sinh gian khổ vì chiến tranh, qua rất thương, nhưng số phận của đất nước mình là như vậy, mình phải đánh cho tới cùng »

Sau khi bàn giao chức vụ TT cho Dương Văn Minh, tối 28 tháng tư, cụ Trần Văn Hương đã dọn ngay về tư gia ở trong hẻm đường Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sáng hôm sau, ngày 29 tháng tư, cụ phải trở lại dinh Phó Tổng Thống ở đường Công Lý một lần cuối để tiếp kiến đại sứ Martin khi Martin đên từ giã cụ.

Trong một cuộc tiếp xúc với BS Nguyễn Lưu Viên, cựu Phó Thủ Tướng VNCH, tại Westminster vào cuối 2002, BSViên có cho người viết biết rằng vào sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông và bà Trần Văn Văn có đến thăm cụ Trần Văn Hương một lần cuối và cụ Hương đã nói với hai người rằng hai vị đại sứ Pháp và Hoa Kỳ có đến mời ông đi tị nạn, nhưng ông đã từ chối lời mời của họ.

Vào năm 1978, khi Việt Cộng trả lại «quyền công dân cho Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù học tập cải tạo đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu «Tổng Thống» Dương Văn Minh đang hồ hỡi hân hoan đi bầu Quốc Hội «đảng cử dân bầu » của Cộng Sản.

Cụ Trần Văn Hương cũng được CS trả lại quyền công dân, nhưng cụ đã từ chối. Cựu Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương đã gởi bức thư sau đây đến cấp lãnh đạo chính quyền CS :

«… Hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ tướng đến Tổng bộ trưởng,các tướng lãnh, quân nhân công chức các cấp, các chính trị gia, các vị lãnh đạo tôn giáo, đảng phái, đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy về. Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo chánh phủ VNCH, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chánh phủ mới thả họ về hết, vì họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chánh phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó, tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi »

Cụ Trần Văn Hương không hề nhận quyền công dân của Cộng Sản và cho đến khi từ trần vào năm 1981 thì cụ vẫn còn là công dân của Việt Nam Cộng Hòa.

(Trần Đông Phong. Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng.-- California )

--------------------------------------------------------------------------------
----------
Góp ý VhD :

Là thế hệ sinh sau, tôi tuy chưa một ngày cầm súng chiến đấu để bảo vệ tự do, cho sự yên bình của đồng bào ruột thịt thân thương miền Nam VN mình, nhưng khi đọc xong những bài viết về những người lãnh đạo VNCH như cụ Trần văn Hương này đã cho tôi một niềm tự hào là ở thế hệ cha anh đi trước của mình còn có những người đầy tâm huyết và trách nhiệm với đồng bào, đồng đội của mình là đã làm tròn trọng trách của người dân giao phó, được thể hiện rõ nét qua câu :

"TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM"

Xin nghiêng mình ngưỡng mộ và tri ân các cha, anh, chú ... những anh hùng quả cảm của QLVNCH.

Xin thắp lên một nén hương lòng dâng lên tưởng nhớ đến cụ Trần Văn Hương.

Không quên, khạc một bãi đờm vào mặt những thằng hèn tướng như Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh ......

Posted by Đức H. Vũ at 10:19 PM
====================
Back to top
 
 
IP Logged
 
Phan Nguyen
Full Member
***
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 129
Đan Mạch
Gender: male
Re: Anh Hùng Thời Đại - Đảng Việt Tân Chống Hiểm Hoạ Bắc Triều
Reply #37 - 13. Oct 2010 , 11:40
 
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #38 - 03. Jan 2011 , 23:45
 

Về Người Tù Lâu Nhất Thế Kỷ Nguyễn Hữu Cầu
 


...

   
Có nhiều người nói: "bọn VC không phải con người", có lẽ không sai. Có thể nói, VC mang hình dạng của một con người, nhưng có trái tim của một con ác thú. Những loài ác thú như cọp, beo, chó sói, tuy nó tàn ác, xé xác, ăn thịt bất cứ con thú nào yếu hơn nó, nhưng ít ra nó không ăn thịt đồng loại của nó, nó không bỏ tù đồng loại của nó, nó không hành hạ đồng loại của nó... Theo nhạc sỹ Y Vân, cuộc đời con người rất ngắn ngủi, chỉ có 60 năm, và ông đã mất đúng năm ông 60 tuổi. Ấy thế mà đau đớn thay, anh đại úy quân lực Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Hữu Cầu đã bị giam cầm suốt 34 năm qua, và đang bước vào năm thứ 35. Anh đã bị giam từ lúc còn thời trai trẻ khỏe mạnh, đến hôm nay, anh đã trở nên người tàn tật, bị mù hết một mắt, và mắt còn lại chỉ thấy lờ mờ.

    Những tên VC mong được làm nhục anh, chúng chiêu dụ anh làm đơn xin ân xá để được thả, nhưng tất cả bằng thừa với tinh thần bất khuất của anh, đâu thua gì anh hùng Trần Bình Trọng bị giặc Tàu bắt khi xưa. Lúc đó, giặc Tàu cũng chiêu dụ phong chức tước, nhưng ông cũng đã khí khái: "Ta thà làm qủi nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc". Hôm nay trên Diễn Đàn Chính Trị Tranh Luận Dân Chủ (*1), qua sự phỏng vấn của phóng viên ChimQuốcQuốcVNCH và Nguyễn Nam Phong với chị Nguyễn Anh Thư, con gái của anh Cầu, qúy vị lắng nghe những lời chân tình của Anh Thư, bảo đảm rằng, sẽ làm rơi lệ tất cả đấng nam nhi cứng lòng:

    - Dạ, ba con có lời cám ơn đến các bác các cô trong diễn đàn đã quan tâm đến ba con... Mỗi lần con vô thăm đều có nói các cô các bác ở nước ngoài đã hỏi thăm ba, thì ba mừng lắm... Hiện tại ba cũng khỏe, nhưng một con mắt thì nó đui, một con thì còn thấy lờ mờ mười phần trăm... Con thấy tinh thần của ba rất là vững... Dạ, ngày 1 tháng 12 vừa qua con có đến trại tù thăm ba... Hồi ba con đi cải tạo con được 4 tuổi... Dạ hình như hổng có cái Tết nào ba ăn Tết với gia đình, con có nhớ một cái năm đó vào Tết Trung Thu, ba có về ba làm lồng đèn cho con một lần... Đầu tháng 8 ba về, tới Tết Trung Thu thì ba bị bắt lại... Thì cái lồng đèn ba làm lần cuối cùng cho con thì ba bị bắt lại đó..., hình như là hổng có cái Tết nào ăn Tết với gia đình hết á... Dạ, hồi ba con đi học tập cải tạo hồi năm 1975, đầu năm 76 mẹ đã có chồng khác rồi... Lúc đó mẹ tách 2 chị em ra, lúc đó con ở với bà nội, thì mẹ nói con ở với bà nội là phần của ba nuôi... Rồi mẹ dắt đứa em con 2 tuổi, mẹ lập gia đình với ông sau, nó mang cái họ của ông sau luôn... Lúc đó, con với em con, với mẹ con mất liên lạc... Xong con ở với bà nội đến khi con 15 tuổi thì bà nội mất... Khi ở chung với bà nội, con làm việc nhà cho người này, mai làm cho người khác... Còn nếu không làm việc nhà thì ra chợ phụ bán với người ta... Những đồng tiền cắt củm để dành thì đưa cho bà nội đi thăm ba... Xong bà nội mất, thì con cũng tiếp tục đi bán đi buôn vậy đó... Mỗi lần bà nội đi thăm ba là bà nội dắt con đi theo. Một năm như vậy, bà nội có đi thăm ba 2 lần thôi... Hồi bà nội còn sống, ở Rạch Gía, Kiên Giang, đi lên chỗ ba một ngày đường mới tới lận... 9 tiếng đồng hồ hay 10 tiếng... Lúc đó là ba ở Xuân Lộc Đồng Nai... Gạo, bà nội rang lên, nói chung cây lá là nhiều, nói chung bà nội lúc đó làm cực lắm... Nên mỗi lần đi thăm ba, những con cá khô bằng ngón tay út vầy nè, bà nội rang với gạo... Nội nói, rang lên rồi xay, để đưa vô đó cho ba... Nói chung ra là đậu, nội rang lên rồi nội xay... Những thứ này nó rẻ tiền, nhưng vô trong đó, ba ăn nó được no lâu hơn... Dạ, hồi lúc còn nhỏ, thì bản năng làm con cũng thấy như vậy, biết như vậy thôi, đến lúc lớn rồi đó, ý thức được vấn đề thì thấy ba ở trong đó như vậy, như vậy đó, thì nghe ba nói rằng, "ba ở tù như vậy đó con, nhưng ba không có làm điều gì tội lỗi hết đó..." Con cũng tự hào về ba chớ không có mắc cở gì hết... Ba hổng làm gì có tội hết á, nhưng mà ba bị oan, người ta nhốt ba trong đây thôi... Nghe ba nói như vậy, con cũng nhận thức được vấn đề rồi... Năm con 18 tuổi, ba mới hướng dẫn cho con làm đơn, làm đồ rồi gởi đi các nơi... Con với một người bà con làm xuyên suốt bao nhiêu năm, nhưng cứ thơ đi không thấy thơ về... Làm cũng gởi tới, chỗ này, chỗ kia, chỗ nọ gì đó, một năm như vậy là gởi mấy đợt thơ đi nhưng không bao giờ thấy thơ về... Cứ một lần vô thăm ba, ba nói con có gởi thơ chứ? Dạ thưa có chứ, nhưng thư đi không có thư về (khóc)... Dạ, con đến đó, con có ôm ba vào lòng và con khóc và con hun ba hoài à... nhưng vô đó thấy ba thấy tội lắm... (khóc) con không bao giờ cầm được nước mắt hết á...(khóc). Bây giờ con thấy ba đỡ rồi, ba bây giờ ba khỏe hơn hồi xưa... Hồi xưa con có làm nên tiền gì đâu... Đi nuôi ba thấy ba khổ sở trong đó (khóc)... mỗi lần vô là không cầm được nước mắt, ôm ba khóc nức nở... Con nghe lời của ba nói, con cũng nhận thức được nhiều, với lại tiếp xúc với ba không nhiều, nhưng nói chuyện với ba, con thấy con tự hào về ba nhiều lắm... Tại con người của ba con không phải là cướp của, giết người, hay là làm cái chuyện gì vô đạo đức... Ba tranh đấu cho lẽ sống của riêng ba, nên con ủng hộ ba con thôi. Ba con nói là, "ba nói thật với con đó, ba thà là chết vinh hơn sống nhục." Ba con năm nay là 64 tuổi, lúc ba con đi tù chắc là 30... Sức khỏe ba con cũng yếu, nhưng tinh thần yêu đời lắm... Phải nói con tự hào ba con một điều, ở trong đó, trong chốn lao tù đó, trong 4 bức tường chẳng có cái gì gọi là hết, ba con vẫn yêu đời, vẫn nói rằng: "sống, nhìn cây cỏ để mà sống, nhìn côn trùng để mà sống... Nó còn biết sống, nó tự hào về nó... Cây cỏ cũng vậy đó, nhìn nó mà sống, còn ba có một thân xác, bằng da bằng thịt đàng hoàng... Ba nói thật với con, ba sống, ba biết con người của ba, ba sống vì lẽ sống của ba, vì cái chân lý của ba, ba sống về cái đường lối của ba đi, nên ba không có nhục nhã gì về lối sống của ba hết... Con cứ yên tâm đi, ba ở trong tù nhưng thật ra ba rất tự hào vào mình, đường đường, chính chính. Ba nói thật với con, những người nào ở ngoài kìa, họ làm ông này bà nọ, nhưng ba không coi họ ra cái gì hết, tuy rằng ba là cái thằng tù nhưng ba rất tự hào về ba, bởi vì ba làm cái chuyện có ích chứ không phải vô ích... Con sẽ đi thăm ba Tết này, lúc nào con cũng động viên ba hết, con nói thật với ba, ba nghĩ sao cũng được, con cũng ủng hộ ba hết trơn á...Ba nói, ba ở trong này hoài mà không về với tụi con, con có buồn không? Dạ hông, tại vì ba làm cái gì chắc có lẽ ba thấy đúng ba mới làm, đúng không? Nếu vậy, thì con gái sẽ ủng hộ ba 2 tay và 2 chân luôn... Lúc nào con vô, con cũng ủng hộ tinh thần của ba... Con nói sao cho ba vững tinh thần, ba cứ đi cái đường của ba thôi...

    Trước khi phóng viên Nguyễn Nam Phong chấm dứt cuộc phỏng vấn đã chia sẻ với cô Anh Thư một câu rất đặc biệt:

    - Thưa qúy vị, thưa chị Anh Thư, tất cả qúy vị thính gỉa đang gởi rất nhiều đóa hoa hồng gởi đến cho chị, bằng từ trai tim, lòng thành của mình và Phong nghe chị nói hôm nay, đã không dằn được nỗi xúc động và các qúy vị trong diễn đàn cũng qúa xúc động đã khóc theo chị. Ngày hôm nay, Phong có một yêu cầu nho nhỏ với chị, lần sau, vào dịp Tết này, chị đi vào tù gặp chú Nguyễn Hữu Cầu, hãy mang những đóa hoa hồng và những tấm lòng này gởi đến cho chú Nguyễn Hữu Cầu và nói với chú Cầu rằng, những người hải ngoại đang hướng về chú và mong chú hãy kiên cường để một ngày nào đó tất cả chúng ta sẽ gặp nhau... Chị làm điều này cho Nguyễn Nam Phong được không chị?

    - Dạ được ạ... Dạ con không biết nói gì hơn, từ nảy đến giờ, con nghe những tấm lòng của các bác, các chú, các cô như vậy, con cũng an ủi phần nào... Những tấm lòng đã hướng về thương ba con như vậy, con cảm ơn ạ (khóc)... Cho con gởi lời chúc tốt đẹp đến các bác, các cô, các chú... có nghĩ đến ba con thì coi con cũng như là con, cũng như là cha, là chú. Nếu nảy giờ mà con, vì hồi nhỏ tới lớn con hổng có đi học... nếu có gì mà sơ suất mà bỏ qua cho con.

    Đọc những lời chân tình đầy nước mắt của cô bé Anh Thư này, không một ai có thể kềm chế được nỗi xúc động, nước mắt sao cứ tuông trào, xen nỗi căm phẫn, uất hận... Tất cả chúng ta đã và đang mắc nợ những người chiến sĩ kiên cường, tuy nằm trong ngục tối những vẫn không quên nhiệm vụ của một công dân yêu nước. Một trong những người chiến sỹ đó, phải là anh đại úy của quân lực VNCN Nguyễn Hữu Cầu. Khoảng 5000 đô la quyên góp hôm nay trong Diễn Đàn Chính Trị Tranh Luận Dân Chủ (*1) không bao giờ đủ cho chúng ta trả món nợ nước 34 năm tranh đấu trong nhà tù này. 5000 đô la quyên góp hôm nay, có lẽ chỉ là một tấm lòng xin dâng đến anh Cầu, để có thể an ủi anh Cầu và gia đình một phần nào cho những sự mất mát vô cùng to lớn.

    Nhắc đến anh Cầu, không ai có thể quên được một câu chuyện đầy thương tâm đối với cháu trai của anh tên Trần Ngọc Bích đi theo mẹ lúc 2 tuổi. Sau này Bích học hành ra trường với mảnh bằng sư phạm và làm việc trong ngành giáo dục. Đầu năm 2004, giáo viên Trần Ngọc Bích được Chi Bộ Đảng cho biết sự thật không phải là con ruột của ông Trần Văn Phụng mà là con của tội phạm Nguyễn Hữu Cầu. Bích đã về hỏi mẹ mới biết rõ thân thế của mình đã bị giấu kín trong suốt 27 năm trời, và Bích đã đi tìm lại người chị ruột bị thất lạc, đó là Nguyễn Anh Thư trong một bối cảnh trùng phùng đầy nước mắt. Điểm đặc biệt ở đây, là Bích và Anh Thư đã đi thăm cha trong Tù để tỏ lòng kính mến người cha của mình, và không màng đến vấn đề vào Đảng. Ở đây, chúng ta thấy rõ hành động thú vật, rất là man rợ của cái gọi là Chi Bộ Đảng, VC không phải là con người được chứng minh một lần nữa. Bích muốn tiến thân phải vào Đảng, nhưng anh lại là con của một "tên ngụy", đại úy quân lực VNCH Nguyễn Hữu Cầu. "Giải phóng" 29 năm qua, vẫn còn kỳ thị thành phần "ngụy quân", "ngụy quyền" ư? Đây là sự thật cho những ai tin vào luận điệu gọi là hòa hợp hòa giải của VC. Nếu họ chịu hòa hợp hòa giải, tại sao họ còn tiếp tục giam cầm người chiến sỹ quân lực VNCH trên suốt 34 năm? Nếu họ chịu hòa hợp hòa giải sao còn đập phá Bia Tưởng Niệm của đồng bào vượt biển bên Mã Lai và Indonesia?

    Nhắc đến anh Cầu, phải nhắc đến trên 500 lá đơn kêu oan được gởi khắp mọi nơi có thẩm quyền để có thể được cứu xét trong suốt hàng chục năm qua, nhưng tất cả đều vô vọng, thư có đi nhưng chẳng bao giờ thấy hồi âm. Câu hỏi được đặt ra, lương tâm của những tên cầm quyền đâu rồi? Hỏi xong mới sực nhớ cái lũ VC nó chẳng phải là con người thì làm gì có lương tâm. Họa may chúng chỉ có lương tháng và lươn lẹo để sống trên nỗi đau khổ của cả một dân tộc.

    Nhắc đến anh Cầu, phải nhắc đến bài Trường Ca Con Bò Kéo Xe mà anh đã sáng tác trong tù và anh luật sư Nguyễn Bắc Truyển đã phổ biến bằng giọng ca chân tình (BaiCaNguyenHuuCau.mp3). Phải dùng với chữ "tuyệt" cho bài ca này mới đúng. Qúy vị nghe đi, để có thể đánh gía, bài ca mang âm hưởng của miền Nam, tiếng nhạc lúc hùng lúc bi, lúc êm dịu lúc mạnh bạo, có thể liệt vào thể loại "nhạc lạ". Chữ "lạ" ở đây không có nghĩa là Tàu phù đâu nhá, mà là thể loại nhạc chúng ta chưa từng nghe, thế thôi. Bài ca được bắt đầu như sau:

    "Hóa ra như con bò kéo xe, hóa ra như con bò kéo xe. Mai mốt ta về, ta mua một con bò, rồi ta sẽ đi, đi lên trên núi cao. Mai mốt ta về, ta đóng cái quan tài, rồi ta sẽ nhờ con bò kéo theo đằng sau. Hóa ra như con bò kéo xe, hóa ra như con bò kéo xe...." Cũng trong bài ca này qúy vị có thể lắng nghe một đoạn thơ phổ nhạc để tố cáo tội ác kinh hoàng của VC. Đây là câu chuyện có thật xảy ra lúc VC cưỡng chiếm miền Nam sau 1975:

   
Nếu có một ngày, ai có đến Tiền Giang
    Hãy lắng nghe một câu chuyện đau lòng
    Chuyện kể rằng ngày Rằm tháng 7 Vu Lan
    Ủy Ban Quân Quản Tiền Giang giết người
    Ma Vương hô hố tiếng cười
    Sau khi chúng giết 2 người thành 3
    Bào thai 8 tháng không tha
    Bào thai 8 tháng mang ra tử hình
    Tiền Giang ơi hởi Tiền Giang
    Tiền Giang ơi hởi đau lòng Huệ Lan

    Bài thơ này đã ghi lại một câu chuyện thật, đã xảy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, 2 vợ chồng anh Huệ và chị Lan đã phát tán 200 tờ truyền đơn phục quốc, đã bị bắt giam và mang bản án tử hình, trong lúc chị Lan đang mang thai 8 tháng. Trong lúc đó có 7 đếm 10 nhà sư đã ký vào một cái đơn xin cho mạng sống của em bé vô tội, nhưng Ủy Ban Quân Quản của Tiền Giang vẫn thi hành bản án vào ngày Rằm Tháng 7. Tên tuổi 2 người được ghi lại trong cuộc băng Asia Cánh Hoa Thời Loạn.

    Có người đặt câu hỏi, tại sao anh Nguyễn Hữu Cầu bị giam lâu qúa như vậy? Một số bài viết về anh Cầu cho biết lý do là anh Cầu đã dám tố giác những tên như thủ tướng VC Nguyễn Tấn Dũng và Đại Tướng Lê Hồng Anh đã làm những chuyện tội ác tại tỉnh Kiên Giang.

    Ngoài ra, có một câu chuyện cũng lý thú trong trại tù mà anh Nguyễn Hữu Cầu đã ở. Chúng ta có thể nghe lời tường thuật của anh luật sư Nguyễn Bắc Truyển như sau: "Một cặp bò, nó hay đi kéo nước cho chúng tôi uống, nhưng rất ngộ là đến đúng 5 giờ chiều, khi nghe tiếng kẻng hết lao động, 2 con bò này nó sẽ đứng im, nó không thèm đi luôn. Làm gì làm, đánh đập cách mấy, nó cũng không chịu đi, cuối cùng rồi phải tháo cái ách của nó ra, dẫn về chuồng, rồi sáng mai, quay trở lại thì nó bắt đầu nó kéo. Rồi cũng đúng 5 giờ, là nó đứng im, không kéo nước nữa. Hai con bò này nó cũng sống tới mười mấy năm rồi đó qúy vị. Nó cũng ở tù chung thân đó, nó còn ở tù nhiều hơn chúng tôi nữa. Riêng tôi ở tù chỉ 3 năm 6 tháng, còn 2 con bò nó ở tù mười mấy năm trời đó qúy vị."

    Chuyện 2 con bò được kể ở trên, ít nhiều cũng phản ảnh sự thật vô cùng bi thảm xảy ra trên quê hương Việt Nam, đến nỗi con bò còn bị ở tù chung thân khổ sai, huống gì con người, huống gì anh Nguyễn Hữu cầu. Sống dưới chế độ VC là thế đấy, những tên VC chúng mang hình dáng của một con người nhưng mang con trái tim của một con ác thú.

   
Ngày 28 tháng 12 năm 2010
    Mylinhng@aol.com
    http://mylinhng.multiply.com
    Xin phổ biến tự do


Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
chieu
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 14
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #39 - 05. Jan 2011 , 01:14
 
Những bloggers bất đồng chính kiến Việt Nam… –


Tạp Chí Phí Trước, ngày 3 tháng 1, 2011 




Nhân chủ đề Blogger Việt Nam, Tạp chí Thanh niên PHÍA TRƯỚC điểm lại một số bloggers đã bị Nhà nước Việt Nam sách nhiễu, bắt giam và tuyên án với những tội danh ngược lại với những điều Hiến pháp đã khẳng định. Đó là quyền tự do tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội và quyền tham gia các vấn đề chính trị xã hội. Là một công dân, mỗi chúng ta đều có quyền tự do bày tỏ chính kiến – dù là ngược lại với quan điểm của nhà nước – đó là hoạt động bình thường trong một xã hội văn minh xây dựng và phát triển đất nước. Song, việc bắt giam và cầm tù các bloggers do các cơ quan an ninh thực hiện hẳn đã cho thấy quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam vẫn còn bị hạn chế, và Nhà nước Việt Nam đã tự mình đứng trên Hiến pháp và pháp luật.

Trên thực tế thì vẫn còn nhiều các bloggers khác tại Việt Nam đã và đang gặp khó khăn với cơ quan an ninh nhưng PHÍA TRƯỚC không đủ thông tin để đăng lại. PHÍA TRƯỚC mong rằng quý độc giả giúp gửi thêm các thông tin liên quan đến bài viết này qua địa chỉ contact.phiatruoc@gmail.com hoặc qua website tại www.phiatruoc.info.


...
19/04/2008 – Blogger Điếu Cày hay Nguyễn Văn Hải là người sáng lập và là một thành viên chủ chốt của Câu Lạc Bộ Nhà báo Tự do và “Dân Báo”. Các hoạt động của blogger Điếu Cày chỉ đơn thuần là bày tỏ quan điểm cá nhân đối những vấn đề cấp thiết của xã hội. Ông bị bắt từ ngày 19/042008 và ngày 10/09/2008 toà án quận 3 tại thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên mức án 2 năm 6 tháng tù về hành vi trốn thuế. Sau khi mãn hạn tù vào ngày 19/10/2010, ông không được thả mà lại tiếp tục bị bắt giam vì tội “tuyên truyền chống phá nhà nước”.



25/03/2009 – Luật sư Lê Trần Luật có tiếng bênh vực bào chữa cho các vụ án nhân quyền và trước đây văn phòng của ông hay gặp khó khăn trong hành nghề vì việc đó. Ngày 25/03/2009, tất cả các chi nhánh văn phòng luật sư của ông bị đóng cửa trước khi phiên tòa phúc thẩm xử tám giáo dân Thái Hà ở Hà Nội mà ông là người bào chữa.



...
24/05/2009 – Trần Huỳnh Duy Thức được biết đến với bút hiệu blogger Trần Đông Chấn Change We Need. Ông bị bắt vào ngày 24/05/2009 với tội danh “trộm cắp cước điện thoại”. Tòa án sơ thẩm vào ngày 20/01/2010 và phúc thẩm vào ngày 11/05/2010 đã tuyên án ông 16 năm tù và 5 năm quản chế với tội “danh hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Xem blog Trần Đông Chấn.



...
04/06/2009 – Lê Thăng Long đã lập ra Nhóm nghiên cứu Chấn cùng Trần Huỳnh Duy Thức, thông qua việc nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Tiếp theo ngày 20/01/2010, tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh  đã xử ông 5 năm tù với tội danh “hoạt động chính trị nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Ngày 11/05/2010, tại phiên tòa phúc thẩm, ông được xem xét giảm án còn 3,5 năm tù và 3 năm quản chế.




...
13/06/2009 – Luật sư Lê Công Định được biết tới như một cây bút viết các bài bình luận thời sự trên báo chí trong và ngoài nước. Tuy không phải là một blogger, nhưng ông thường đăng các bài viết ôn hòa và góp ý kiến xây dựng xã hội Việt Nam trên trang web BBC Tiếng Việt. Ông bị bắt ngày 13/06/2009 theo Điều 88, tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm ngày 20/01/2010 và phúc thẩm ngày 11/05/2010, kết tội ông “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79 Bộ luật hình sự, tuyên án 5 năm tù giam và 3 năm quản chế.



...
07/07/2009 – Nguyễn Tiến Trung là sáng lập viên của Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ, bị bắt vào ngày 07/07/2009 theo Điều 88 Bộ Luật hình sự. Ngày 20/01/2010 anh cùng ba nhà bất đòng chính kiến khác đã được xét xử sơ thẩm tại Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh với cáo buộc Trung “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, vi phạm khoản 1 Điều 79 bộ Luật Hình sự Việt Nam bằng cách móc nối với Đảng Dân chủ Việt Nam và thành lập Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ. Anh bị tuyên án 7 năm tù và 3 năm quản thúc. Xem các bài viết của Nguyễn Tiến Trung tại
đây
.




...
07/07/2009 – Trần Anh Kim bị cơ quan an ninh Việt Nam bắt ngày 07/07/2009 theo Điều 88, nhưng ngày 28/12/2009 bị tuyên án 5 năm 6 tháng tù giam vì tội hoạt động nhằm Lật đổ chính quyền nhân dân theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự. Ông đã viết nhiều bài đăng trên Tiếng Nói Dân Chủ và được tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch (HRW) trao giải thưởng Hellman/Hammett năm 2009.



26/08/2009 – Blogger Trang the Ridiculous tức nhà báo Phạm Đoan Trang đã bị cơ quan an ninh bắt giữ thẩm vấn và được phóng thích ngày 06/09/2009. Xem blog tại
đây
.





...
27/08/2009 – Blogger Người Buôn Gió tức Bùi Thanh Hiếu bị bắt giữ ngày 27/08/2009 mà theo cơ quan an ninh là có liên quan đến “an ninh quốc gia”. Ông được thả vào ngày 06/09/2009. Cùng với 5 ngòi bút khác, anh được Human Rights Watch trao giải Hellman/Hammett vào tháng 8, 2010. Xem blog tại
đây
.





02/09/2009 – Blogger Mẹ Nấm tức Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị “bắt khẩn cấp” tại nhà riêng ở Nha Trang, với cá o buộc tội “xâm phạm an ninh quốc gia”. Đây không phải là lần đầu tiên blogger Mẹ Nấm gặp rắc rối với cơ quan an ninh. Vào cuối tháng 7/2009, chị cũng đã bị công an câu lưu vì mặc áo thun có in dòng chữ yêu nước. Cùng với 5 ngòi bút khác, chị được Human Rights Watch trao giải Hellman/Hammett vào tháng 8, 2010. Xem blog Mẹ Nấm tại
đây
.





13/04/2010 – Blogger Công lý và Sự thật tức luật gia, nguyên đại úy công an Tạ Phong Tần bị cơ quan an ninh bắt giam giữ trái phép. Cô đã đưa nhiều tin tức, hình ảnh lên trang blog về vụ cưỡng chế Văn phòng Luật sư Pháp quyền, cũng như rất nhiều bài viết khác trước đây về các bất công xã hội và những việc làm sai trái của quan chức cán bộ nhà nước. Ngoài việc bắt giữ, cô thường bị cơ quan an ninh “triệu tập” để làm việc mà không đúng theo quy trình của pháp luật. Xem blog tại
đây
.





01/05/2010 – Blogger Uyên Vũ liên tục bị cơ quan an ninh điều tra mời làm việc về hoạt động của Câu lạc bộ Nhà báo tự do. Ngày 01/05/2010 cơ quan an ninh đã chặn blogger Uyên Vũ và blogger Trăng Đêm chặn ở cửa khẩu hải quan sân bay Tân Sơn Nhất khi đang làm thủ tục đi Thái Lan để hưởng tuần trăng mật.




13/08/2010 – Blogger Phan Kiến Quốc tức giảng viên Phạm Minh Hoàng bị bắt vì những bài viết trên blog liên quan đến dân chủ và công bằng xã hội tại Việt Nam. Xem các bài viết của blogger Phan Kiến Quốc tại
đây
.





...
18/10/2010 – Blogger Anhbasg tức Phan Thanh Hải bị bắt sau khi khám xét nhà riêng với cáo buộc là đăng tải những thông tin sai sự thật trên trang blog Anhbasg. Anh bắt đầu gặp rắc rối với giới cầm quyền VN từ cuối năm 2007, khi anh đưa lên mạng nhiều bài chú trọng tới những đề tài pháp lý có liên quan đến quyền con người, đặc biệt các vấn đề sai trái của các cơ quan công quyền tại Việt Nam. Anh bị cưỡng bức câu lưu làm việc với công an nhiều lần. Xem trang blog tại
đây
.





...
23/10/2010 – Blogger Cô gái đồ long tức Lê Nguyễn Hương Trà bị bắt tại nhà riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, với cáo buộc đăng tải thông tin sai sự thật trên trang blog các nhân vào ngày 14/10/2010. Trong đó, bài viết tố cáo Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Khánh Toàn đã dành những ưu ái đặc biệt cho những nhân vật có mối quan hệ với con trai của ông. Xem blog tại
đây
.





...
05/11/2010 – Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ bị công an bắt trái phép tại thành phố Hồ Chí Minh với tội danh “chống người thi hành công vụ” nhưng sau đó lại chuyển thành “tuyên truyền chống phá nhà nước”. Tuy ông không phải là một blogger như những nhân vật nêu trên, nhưng ông đã có tiếng nói mạnh mẽ trong các vấn đề liên quan đến các quyên cơ bản của công dân. Ông Vũ thường trả lời các đài nước ngoài như BBC, VOA và RFA. Ngoài ra, các bài viết do phía an ninh cáo buộc “tuyên truyền” đều đã công khai đăng trên các trang Bauxite Việt Nam, Dân Luận, talawas hoặc CLB Nhà báo tự do từ rất lâu trước khi ông bị bắt. Xem các bài viết được lưu trữ tại trang
Dân Luận
.





Ngoài những bloggers bị đàn áp, bắt bớ và bỏ tù đã kể trên còn có các nhân vất bất đồng chính kiến khác như nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, nhà văn Nguyễn Xuân nghĩa, ông Trần Đức Thạch, nhà giáo Vũ Hùng, cô Phạm Thanh Nghiên,… Và những người bị xách nhiễu thường xuyên, bị triệt đường sinh sống còn có bà Dương Thị Tân (vợ cũ của Blogger Điếu cày), thành viên khối 8406 Lư Thị Thu Trang, kỹ sư Đỗ Nam Hải, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang.…

Back to top
« Last Edit: 05. Jan 2011 , 01:34 by chieu »  
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #40 - 08. Mar 2011 , 11:04
 
LS Nguyễn Văn Đài trả lời phỏng vấn RFA ngay sau khi ra tù


Việt Hùng, thông tín viên RFA
2011-03-06



Lên tiếng trong cuộc trả lời phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do ngay sau khi ra khỏi nhà tù,
luật sư Nguyễn Văn Đài khẳng định ông không vi phạm luật pháp Việt Nam.



...AFP Photo/Frank Zeller
Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân tại phiên toà ở Hà Nội 11-5-2007.


Do đâu mà luật sư Nguyễn Văn Đài nói như vậy? Trong câu chuyện dành cho Việt Hùng của Ban Việt Ngữ, từ Hà Nội, luật sư Nguyễn Văn Đài phát biểu.

LS Nguyễn Văn Đài:
Sáng sớm ngày hôm nay, (05-03-2011) lúc 6 giờ, Bộ Công an đã cử người xuống trại giam Nam Hà để đón và đưa tôi về đến phường Bách Khoa, Hà Nội lúc 7: 30 AM để làm thủ tục tiếp tục quản chế tôi 4 năm theo như bản án (mà tòa đã y án trong phúc thẩm ngày 27-11-2007 với 4 năm tù giam và 4 năm quản chế tại địa phương) và tôi trở về nhà vào lúc 8 giờ sáng nay theo giờ Hà Nội. Từ lúc trở về đến nay, cảm xúc của tôi ngập tràn vui mừng vì sau 4 năm xa cách gia đình nay được trở về. Cảm tưởng lúc này, thưa rất khó tả…

Việt Hùng: Tình trạng sức khỏe lúc này của luật sư như thế nào?

LS Nguyễn Văn Đài: Trong 4 năm tôi bị cầm tù, chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất là thời gian tạm giam 9 tháng, điều kiện sống lúc đó rất khắc nghiệt, vì điều kiện ăn uống, nước, cho đến tất cả mọi thứ…đều rất khắc nghiệt khiến sức khỏe của tôi lúc đó rất yếu và đồng thời tôi lại bị bệnh nữa nên gặp rất nhiều trở ngại. Họ có cho gia đình tôi gửi thuốc vào nhưng đó chỉ là thuốc dùng khi sức khỏe của mình tốt thôi, nhưng nếu sức khỏe của mình không tốt thì cũng không có hiệu quả nhiều.
Giai đoạn thứ hai là họ đưa tôi xuống trại giam Nam Hà, khi xuống đó thì điều kiện sinh hoạt có đỡ hơn, sức khỏe của tôi dần phục hồi trở lại. Trong trại giam, tôi luyện tập sức khỏe nên cho đến nay sức khỏe của tôi cũng khá lên nhiều. Trong những ngày ở trại giam, khi tôi có nhu cầu về y tế thì họ cũng cho mình khám bệnh và cấp thuốc cho tôi.


Chỗ dựa tinh thần


...Các tín đồ Công giáo đang cầu nguyện bên ngoài tòa án Hà Nội xử những người bất đồng quan điểm về Tôn Giáo. AFP Photo/Ian Timberlake.

Việt Hùng: Điều gì đã làm luật sư có thể giữ được…

LS Nguyễn Văn Đài: Vâng, trước hết là tôi có một hậu phương, đó là người vợ của tôi đã luôn động viên về tinh thần và đã giúp đỡ cho tôi rất nhiều. Điều thứ hai là mình luôn đặt niềm tin vào con đường mình đã lựa chọn là đúng, chính nghĩa, chứ không phải làm vì lợi ích cá nhân mà mình làm vì lợi ích chung cho đất nước, cho xã hội. Và điều thứ ba, tôi được sống chung với tất cả anh em ở Tây Nguyên, họ cũng bị buộc vào những tội như tôi. Họ là những người cũng có tư tưởng đấu tranh như tôi và điều quan trọng là họ có cùng niềm tin vào Đức Chúa Trời như tôi, cho nên suốt trong thời gian đó tôi sống cùng với họ, chia sẻ lời Chúa cùng với họ, cho nên những năm tháng vừa qua đối với tôi cũng vui vẻ và chan hòa cùng những người anh em của tôi ở Tây Nguyên.

Việt Hùng: Ý luật sư muốn nói tới những người bạn tù sắc tộc thiểu số ở cao nguyên Trung Phần?

LS Nguyễn Văn Đài
:
Vâng, họ là những người thuộc dân tộc Ba-na, Ê-đê, Gia-rai và H`mông. Họ bị bắt khi tham gia những cuộc biểu tình đòi quyền tự do tôn giáo, tự do dân chủ và quyền về đất đai. Họ bị bắt vào những năm 2001 và 2004. Sau đó chính quyền có bắt thêm một số người nữa vào những năm từ 2006 – 2008.

Việt Hùng: Trong số những người sắc tộc ở vùng cao nguyên Trung Phần mà luật sư vừa đề cập đến, theo chỗ chúng tôi ghi nhận, phần đông trong số họ là những người theo đạo Tin Lành?

LS Nguyễn Văn Đài: Chỉ có một vài người theo đạo Công Giáo còn đa phần là theo đạo Tin Lành.

Việt Hùng: Số bị bắt đó theo ước chừng của luật sư khoảng bao nhiêu người?

LS Nguyễn Văn Đài: Lúc tôi mới đến thì tại trại giam Nam Hà có 4 phòng giam, riêng phân trại 1 của tôi có 3 phòng giam. Lúc tôi vào thì có khoảng gần 200 người (từ Tây Nguyên). Bên phân trại C có 1 phòng giam, lúc đó có khoảng hơn 40 người. Tính cho đến thời điểm tôi được về thì còn khoảng 81 người bị giam ở phòng 1, 2 và 6. Còn bên khu C còn bao nhiêu thì tôi không rõ. Đó là những người án rất nặng, thường là từ 10 năm trở lên.

Việt Hùng: Theo luật sư ghi nhận, án từ 10 năm trở lên thường là bị buộc vào những “tội” gì?

LS Nguyễn Văn Đài: Có 3 “tội” mà thường họ mắc phải. Nhiều nhất là bị buộc vào tội phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc. Tội thứ hai là tội trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền và tội thứ ba là tội phá rối an ninh. Có những người bị kết án cả 3 tội, có người bị kết án 2 tội, người thì 1 tội…

Việt Hùng: …tức là ngày mà luật sư vào trại có khoảng 250 người sắc tộc thiểu số từ cao nguyên Trung Phần bị bắt giam? Hiện bây giờ còn khoảng hơn 80 người?

LS Nguyễn Văn Đài: Nếu tính cả khu C nữa thì hiện nay còn khoảng hơn 100 người.


Tôi không vi phạm luật pháp Việt Nam


Việt Hùng:
Theo chỗ chúng tôi ghi nhận, trong thời gian luật sư thụ án ở trong tù, không ít lần các viên chức ngoại giao Hoa Kỳ đã vào trại thăm luật sư? Những tin tức mà chúng tôi ghi nhận, thực hư như thế nào…

LS Nguyễn Văn Đài:
Vâng, trong thời gian tôi bị bắt, tạm giam ở Hà Nội, vào tháng 10-2007, có được phái đoàn của Ủy ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế vào thăm. Sau đó, sau phiên xử phúc thẩm (27-11-2007) tôi được chuyển xuống trại giam Nam Hà thì ông Michael Michalak, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam có vào thăm tôi vào tháng 10-2008.
...bởi vì tôi là một luật sư nên những việc mình đã làm thì mình đều vận dụng sự hiểu biết pháp luật của mình để tin rằng những điều mình làm không vi phạm pháp luật ...
...LS Nguyễn Văn Đài

Sau đó vào tháng 4 năm 2009 phái đoàn Ủy ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế có vào trại thăm tôi lần thứ hai. Cuối năm đó (2009) có phái đoàn của Bộ Ngoại giao Úc có đến thăm tôi. Và gần đây nhất có phái đoàn của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và đại diện Văn phòng Tổng Thống Hoa Kỳ có tới thăm tôi tại trại giam Nam Hà vào tháng 10-2010 vừa qua.

Việt Hùng:
Theo chỗ chúng tôi ghi nhận, không ít lần cơ quan an ninh đã làm việc với luật sư ở trong trại, có ý muốn luật sư nhận phần “lỗi” về mình thì luật sư có thể được phóng thích sớm hơn so với đúng 4 năm, thời hạn của bản án…

LS Nguyễn Văn Đài
:
Vâng, ngay từ khi tôi mới đến trại giam Nam Hà, có nhiều lần cơ quan an ninh và kể cả cán bộ ở trại khuyên tôi nên nhận tội thì sẽ được thả tự do sớm. Và bên an ninh Bộ Công an cũng nhiều lần xuống, bằng cách nào đó…thuyết phục tôi nhận tội thì họ sẽ trả tự do cho tôi sớm hơn bình thường, chỉ có thể khoảng 2 năm thôi...
Thế nhưng, bởi vì tôi là một luật sư nên những việc mình đã làm thì mình đều vận dụng sự hiểu biết pháp luật của mình để tin rằng những điều mình làm không vi phạm pháp luật mà mình làm chỉ với mong muốn của bản thân cũng như khát vọng tự do dân chủ chung của tất cả người dân tại Việt Nam. Không bao giờ mình coi những việc làm tốt đó là có tội cả, cho nên tôi không thể nào nhận tội được! Điều đó khiến tôi phải ở trại giam Nam Hà cho đúng đến hết 4 năm. Tôi không được giảm án ngày nào và cũng không được đặc xá.
Việt Hùng: Tức là luật sư phải chịu đúng 4 năm tù theo bản án và cho đến bây giờ dù mãn hạn tù nhưng luật sư phải chịu thêm 4 năm quản chế tại địa phương?


Thêm 4 năm quản chế


LS Nguyễn Văn Đài
:
Buổi sáng hôm nay trước khi họ đưa tôi về với gia đình, họ đã đưa tôi ra phường Bách Khoa, Hà Nội, làm thủ tục 4 năm quản chế tiếp theo. Theo như họ nói thì thời gian 4 năm quản chế tới đây sẽ không dễ chịu chút nào, sẽ rất khắc nghiệt. Nói chung trong những năm tháng tiếp theo sẽ là những năm tháng khó khăn trong việc đi lại của tôi.

Việt Hùng:
Vừa rồi luật sư có nói, những việc mà luật sư đã làm trước đây là hoàn toàn đúng…

LS Nguyễn Văn Đài:
Bởi vì quá trình dân chủ hóa của một quốc gia là một quá trình tự nhiên chứ không phải là sự lựa chọn hay áp đặt. Mình thấy rõ ràng là Việt Nam phải đi đến quá trình dân chủ hóa đấy để mà mình tin vào con đường mình đã chọn là con đường chính nghĩa. Cho nên khi mình đã có niềm tin vào đó rồi thì mình cho rằng mình đúng và luôn giữ đúng niềm tin ấy chứ không có gì để mà thay đổi cả. Bởi vì khát vọng của bản thân tôi, tôi biết rằng, đa số người dân Việt Nam đều mong muốn có dân chủ, chỉ có điều họ có bày tỏ ra hay không mà thôi. Theo tôi bất kỳ một người dân đều khao khát tự do dân chủ.


Cảm ơn


Việt Hùng:
Trước khi chia tay quý vị thính giả của Đài RFA, luật sư có điều gì muốn chia sẻ?

LS Nguyễn Văn Đài:
Trước khi chia tay quý thính giả, qua Đài Á Châu Tự Do tôi muốn gửi lời cảm ơn đến tất cả chính phủ các nước, trong đó có chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ Úc đã gửi phái đoàn đến thăm tôi khi tôi còn ở trong trại giam. Tôi xim cảm ơn tất cả các Tổ chức bảo vệ Nhân quyền Quốc tế đã lên tiếng bênh vực cho tôi trong suốt những năm tháng vừa qua khi lên tiếng kêu gọi, yêu cầu chính phủ Việt Nam trả tự do cho tôi.
Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn tới tất cả quý vị thính giả đã quan tâm đến trường hợp của tôi trong những năm qua. Điều đó đã khích lệ tôi, động viên cho tôi giữ vững được niềm tin vào con đường mà mình đã lựa chọn. Xin cám ơn tất cả quý vị.
Back to top
« Last Edit: 08. Mar 2011 , 11:14 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #41 - 18. Mar 2011 , 03:00
 
Vì sao tôi gọi Cù Huy Hà Vũ là anh hùng?



Hà Sĩ Phu


Trong chùm Câu đối Tết Tân Mão vừa qua, tôi có một Câu đối tặng cặp Luật sư Dương Hà-Hà Vũ như sau:

河 宇 暴 直 無 憂, 可 以 英 雄 氣 節 !
陽 河 忠 貞 有 律, 欲 成 淑 女 心 肝 !

(Hà Vũ bộc trực vô ưu, khả dĩ Anh hùng khí tiết!
Dương Hà trung trinh hữu luật, dục thành Thục nữ tâm can!)

Sau khi Câu đối ấy xuất hiện trên trang Bauxite, nhiều bạn bè gặp tôi đặt những câu hỏi thân tình:
- Chuyện Cù Huy Hà Vũ liên quan gì đến Tết mà ông đưa vào Câu đối Tết?

- Trong Câu đối có 2 chữ cần xem lại nên viết thế nào cho đúng :
Hà Vũ thì viết 河 武 hay 河 宇 ?
thục nữ thì viết 熟 女 hay 淑 女 ?

- Dùng chữ “Anh hùng” cho Cù Huy Hà Vũ có sớm quá chăng, có phải vì Hà Vũ đã giúp ông khiếu nại vụ cắt điện thoại năm 2010 không?

Hoá ra bạn bè quan tâm đến việc này kỹ càng đến thế, những câu hỏi có tầm hiểu biết ấy khiến tôi biết ơn, pha chút giật mình vì cảm động. Hôm nay, còn 10 ngày nữa Cù Huy Hà Vũ sẽ ra Toà, xin nhờ trang Bauxite gửi mấy dòng tâm sự này đến gia đình và cá nhân người Luật sư sắp đến giờ “ra trận”.

1/ Về câu hỏi thứ nhất, câu đối tặng Hà Vũ liên quan gì đến Tết?Bản thân đã trải một cái Tết trong tù, tôi biết.  Một mình trong 4 bức tường yên tĩnh, người bị giam thèm từng tiếng động, từng hơi thở của cuộc sống đời thường. Bị tách khỏi cái nhân quần ồn ã, đa sự, bị cô đơn tuyệt đối mới thấy nhớ, thấy thèm cuộc sống nhân gian. Đặc biệt đến ngày giỗ, ngày Tết, nhớ nhà đến nôn nao, cứ cố hình dung giờ này vợ con mình đang làm gì, từng người thân của mình đang làm gì, xã hội đang vần chuyển ra sao? Một mẩu tin, một lời thăm hỏi từ ngoài vọng được vào tai sao mà quý thế, ồ thế là cuộc đời vẫn nhớ đến mình. Cái dây nối với cuộc đời như nguồn năng lượng đem lại sinh khí cho người bị giam giống như sợi “dây rốn” truyền từng giọt máu của mẹ cho cái thai nhi bị nằm kín trong bọc vậy. Tôi hình dung một trí thức như Hà Vũ nếu nhận được Câu đối về mình vào đúng ngày Tết chắc thấy ấm lòng lắm. Thế là tôi viết.

2/ Về mấy chữ trong Câu đối. Hà Vũ là tên riêng, tôi viết chữ Vũ 武 theo thói quen thường thấy. Nhưng đọc lại một bài trả lời phỏng vấn của Hà Vũ, rằng cụ Huy Cận dùng chữ Vũ 宇 là Vũ trụ (như một cảm hứng thơ chủ đạo, trong bài Vũ trụ ca), tôi đã sửa chữ 武  thành chữ 宇.
Về luật sư Dương Hà, tôi cảm phục chị ở chỗ đã dùng lý trí để vượt qua “nhi nữ thường tình”, khi nghe tin người ta nói chồng mình có “quan hệ bất chính” với một phụ nữ khác chị đã không mắc mưu, chẳng những xử lý chững chạc trong quan hệ mà còn tiếp tục xử lý nỗi oan trái của chồng trên cơ sở luật pháp minh bạch, với tư cách một nữ luật sư. Vì thế trong từ Thục nữ tôi dùng chữ 熟 với nghĩa bóng là chín chắn, kỹ càng, sâu sắc, chứ không dùng chữ Thục 淑 vốn nghiêng về ý hiền lành, nhân hậu của phụ nữ. Song nghĩ lại thấy nên dùng chữ thông dụng, tôi đã sửa lại dùng chữ 淑, tạm bằng lòng như vậy

3/ Đáng bàn hơn cả là câu thứ ba, về hai chữ Anh hùng 英 雄 tôi tặng cho Hà Vũ, có phải để trả ơn người đã giúp mình trong khiếu kiện hay không?
Trước hết xin nhắc lại chút quan hệ riêng, vì đã có bạn đề cập và một số anh em khác cũng đã biết.
Ngoài quan hệ là người đồng cảnh (chỉ vì lên tiếng để trả món nợ đời của cái thân trí thức mà sa vòng tù tội), tôi và Hà Vũ còn có thêm vài duyên nợ. Bị cắt hết các cáp điện thoại và Internet, tôi được Luật sư Vũ cố vấn trong việc khiếu nại sao cho đúng luật. Việc nhỏ thế thôi mà Vũ tận tình chỉ bảo tôi từng động tác, sau khi khiếu nại mà không được trả lời thì chính Vũ giục tôi  nên làm đơn khiếu kiện để đòi cho được “quyền hưởng dịch vụ thông tin” chính đáng của mình, nhưng tôi biết chẳng đi đến đâu nên không kiện cáo làm gì. Việc nhỏ của tôi đã vậy thì với những vụ oan sai lớn, chắc Vũ còn chu đáo hơn thế, với tư cách của người biết luật. Hà Vũ còn là cố vấn pháp luật cho trang mạng Bauxite để bảo vệ cho những trí thức nặng lòng vì nước có được một trang báo riêng để lên tiếng nói can gián, mong tránh cho Nhà nước khỏi những sai lầm, trong những người yêu quý trang mạng Bauxite ấy có tôi.

Còn một điều này có lẽ chính Hà Vũ cũng không biết. Khi bà Đặng Thị Kim Hoàn (vợ ông Ngô Xuân Huy mà Vũ gọi bằng chú) lên tiếng bênh vực Vũ trên trang Bauxite, bà vợ tôi, Đặng Thị Thanh Biên, lấy trong hộp nữ trang ra một tấm ảnh đã rất cũ (chụp ảnh vợ tôi đứng cùng ba bà nữa) hỏi tôi: Đố ông biết trong đây ai là mẹ bà Kim Hoàn?

...

Tôi còn đang lúng túng thì nhà tôi chỉ vào bà cụ đứng cuối cùng bên phải và hờn giận: “Con rể mà như ông thật đoảng, trong nhà mà ông không biết ai với ai. Đây, cụ sinh ra bà Hoàn, cùng với cụ sinh ra em là hai chị em ruột. Cụ sinh ra mẹ em là con thứ tư, cụ sinh ra bà Hoàn là con thứ năm, nên bà Hoàn tuy hơn tuổi nhưng lại là vai em. Thằng cháu Đặng Tuấn Nghĩa nhà mình hồi học đại học còn gửi mấy năm để nhờ cô Hoàn dạy dỗ đấy!”. Tóm lại, trong quan hệ họ hàng nội ngoại, với Vũ tôi là chú hoặc cậu. Nay Vũ bị nạn, tôi muốn gửi một Câu đối Tết cũng một phần để sửa cái lỗi “đoảng” ấy.

Ấy, mọi quan hệ lòng vòng thì có như vậy. Nhưng đâu có thể vì chút tình riêng mà dám tặng cho nhau hai chữ  “ANH HÙNG”? (cho dẫu Anh hùng ở đây còn đứng khiêm nhường sau hai chữ “khả dĩ” 可 以).
Về khí chất Anh hùng của Cù Huy Hà Vũ tôi khỏi cần kể ra dài dòng, khi những nội dung ấy đã được rất nhiều người đề cập một cách rốt ráo, thuyết phục (xem bài tóm tắt Diễn biến vụ án CHHV- blog Vụ án Cù Huy Hà Vũ). Chưa một vụ án nào, chỉ trong 4 tháng đã khiến những người trong nước và khắp thế giới viết bài bênh vực nhiều đến thế, không ngày nào không xuất hiện bài trên các trang mạng, chỉ riêng điều ấy thôi đã cho thấy vị trí của vụ án này. Gần đây nhất thì hai bài phỏng vấn tứơng Nguyễn Trọng Vĩnh và luật sư Trần Đình Triển cũng đủ làm tiêu biểu.

Tôi chỉ dành những dòng viết này để bàn thêm về mấy điều cần nói.
- Người ta có thể kể ra nhiều nhược điểm, thậm chí khuyết điểm của Hà Vũ, một người nhiều cá tính và đầy xung lực, kể cả tham vọng. Nhưng chẳng có lý gì để quy những sự việc ấy thành tội. Và nếu đặt những việc ấy bên cạnh những vấn nạn lớn trong xã hội mà Hà Vũ đã dũng cảm phơi bày bằng giấy trắng mực đen dưới nhãn quan luật pháp thì tất cả những khuyết nhược điểm kia trở thành mờ nhạt, dễ dàng thể tất, không đáng nhắc đến nữa.

Cần người khiêm tốn ư, chín chắn ư, đạo mạo ư, gương mẫu ư? Tốt thôi, nhưng thôn xóm nào, khu phố nào chẳng có, ít ra cũng có dăm bảy người. Nhưng tìm được một người đáp ứng những nhu cầu xã hội như vừa nói trên để tấn công vào những oan trái tày đình, những lô cốt trì trệ sừng sững trong đời sống thực tiễn (chứ không phải trên lý thuyết) thì chỉ Hà Vũ mới là “phát đại bác” đầu tiên, và chính đó là lý do khiến anh chịu nạn. mặc dù cả cha đẻ lẫn cha nuôi của anh đều là những danh nhân thuộc “thế hệ vàng”, góp phần khai sinh ra chế độ.

Dù bằng cách chiết tự chữ ANH, chữ HÙNG với ngữ nghĩa trong từ điển, hay lấy câu
“Tự tri giả ANH, tự thắng giả HÙNG” mà xét, hay căn cứ vào hành động dũng cảm
cứu nạn phò nguy, dám nói bật ra những ẩn ức dồn nén trong xã hội hàng mấy chục năm trong một khí quyển vô cảm, im lìm, lộng hành, khiếp nhược… thì chữ ANH HÙNG không dùng cho những người như Hà Vũ thì dùng cho ai khác?  “Đẹp lắm chứ, anh hùng lắm chứ” câu hát này bây giờ nên hát cho những ai đây?  Nếu bây giờ “ra ngõ” còn gặp được anh hùng thì nhà sử học Dương Trung Quốc cớ gì phải thồt lên câu “thế hệ bây giờ hoàn toàn mất gốc” đầy đau sót? Dù còn điều này điều khác cần phải phê phán hoặc cần rút kinh nghiệm về cách làm của Cù Huy Hà Vũ, tôi vẫn mong mọi người hãy giữ gìn người Luật sư không dễ thay thế này, cũng như giữ gìn những Luật sư, những nhà báo tiền phong khác đang dần dần xuất hiện.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nếu chính phủ làm điều hại dân thì dân có thể đuổi chính phủ”. Hồ Chí Minh còn cho dân cái quyền “đuổi” kia mà (và trước khi thành quyết định tập thể thì tất nhiên phải có một người nào đó đứng ra đề nghị đuổi), như thể đang diễn ra ở Tunisia, Ai Cập, Libya… mới đúng là đuổi, chứ mới chỉ “chống” bằng lời nói như trong cáo trạng của Hà Vũ thì còn nhẹ quá, nếu Toà án cứ kết tội thì khác gì kết tội lời dạy của Hồ Chí Minh? Mà Cù Huy Hà Vũ đâu đã dám chống cả Chính phủ, chỉ khởi tố (nghĩa là còn phải qua Toà án) một vài viên chức chính phủ thôi. Tóm lại Hà Vũ mới chỉ thực hiện một phần nhỏ lời dạy của Bác. Chỉ khác là Bác Hồ mới nói chủ trương chứ chưa có biện pháp, chưa có cơ chế để thực hiện, nay Hà Vũ thử dùng luật pháp để đưa lời dạy của Bác vào đời sống thôi. Nếu trong đợt học tập gương Bác mà trao giải thưởng cho Hà Vũ thì không phải là không có lý.

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nói: “Những băn khoăn, những ưu tư của Vũ cũng là những băn khoăn và ưu tư của mọi người. Mọi người đều nghĩ, còn Vũ thì đã nói ra được những điều đó. Vũ không nói, thì người khác cũng nói. Vì đó là những điều hiện thời mọi người lo lắng cho đất nước”. Cầm tù một người nói lên tiếng nói chung của đất nước thì khác nào cầm tù chính đất nước, một lô-gich thật đơn giản.

Luật sư Trần Đình Triển nói: “Tôi cho rằng lịch sử rồi sẽ xét để khẳng định rằng anh Vũ đúng, quan điểm của tôi đúng”. Trong tương lai chân lý sẽ thuộc về những người như Cù Huy Hà Vũ, thì giam giữ anh chính là giam giữ tương lai.
Phiên xử ngày 24 tháng 3 này sẽ ra sao đây? Luật sư Triển thì dự đoán: “với thực tại như xã hội hiện nay, tôi dự đoán người ta sẽ xử CHHV với mức án 4 – 6 năm tù” vì  dù tranh biện ra sao mặc lòng, bản án đã có sẵn. Tôi hoàn toàn chia sẻ cái nhìn sắc lạnh đầy tính duy lý và am hiểu tận gốc luật pháp hiện nay của một luật sư. Có lẽ sự đau xót của người Luật sư gần với sự thật nhất chăng?

Cứ cho là thế, song cổ nhân lại có câu có “tận nhân lực” mới “tri thiên mệnh”. Mệnh trời còn đổi được huống chi lệnh vua, dù là 14 ông vua (chữ của cựu Chủ tịch Nguyễn Văn An). Rất nhiều blogger lại dự đoán Cù Huy Hà Vũ sẽ về nhà đúng chiều 24 tháng 3 (có thể với cái án treo 36 tháng, rất đúng luật, và nhà nước được tiếng đổi mới, khoan dung).

Tôi cũng duy lý như LS Triển, không bao giờ nhẹ dạ cả tin có thể lay động những con người chính trị bằng công lý hay lẽ phải, hay tình người. Nhưng yếu tố lay động được những con người ấy là sự cân nhắc LỢI-HẠI, là suy tính thiệt-hơn. Chống lại ý dân thì rồi lợi hại ra sao, tất người ta phải tính.

Bất kỳ tình huống nào xảy ra, tôi cũng mong và tin chắc Cù Huy Hà Vũ sẽ vượt qua thử thách một cách vững vàng, chiến thắng bệnh tật (bệnh tim), tự nghiêm khắc rút những bài học, tự nâng cao thêm phẩm chất trí thức chiến sĩ của mình, xứng với dòng dõi của một thế hệ vàng ngày trước và không phụ lòng những người yêu nước trung kiên, nhân hậu từ khắp nơi đang ủng hộ anh hết lòng.

Chúc cho cặp Luật sư Hà Vũ- Dương Hà trọn đời hạnh phúc.

Đà Lạt ngày 13-3-2011

Hà Sĩ Phu

Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/18488

Back to top
« Last Edit: 18. Mar 2011 , 03:15 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #42 - 31. Mar 2011 , 14:09
 
Nói Không Thật, Làm Không Thật,
Đất Nước Đi Về Đâu?




Ls. Hà Huy Sơn


Là Luật sư tham gia bào chữa cho Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ trong vụ án “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tôi đã không khỏi phải suy nghĩ về bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam hiện nay không chỉ dưới góc nhìn của pháp luật mà cả góc nhìn của văn hóa.


Nói không thật,

Không ai có thể chối bỏ được rằng: con người, xã hội là sản phẩm của văn hóa. Vậy xã hội chúng ta đang sống là sản phẩm của văn hóa nào? Phải chăng là cái văn hóa “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Luật pháp là một sản phẩm của văn hóa cao. Vì lịch sử loài người chỉ khi phát triển đến một trình độ nhất định mới làm ra được luật pháp và chỉ có một xã hội có luật pháp tiến bộ mới được coi là xã hội có văn hóa tiến bộ. Do vậy, muốn hiện đại hóa đất nước thì cần phải hiện đại hóa văn hóa và tất nhiên phải hiện đại hóa luật pháp. Không thể xây dựng con người, xây dựng đất nước bằng cách cứ “uốn lưỡi” muốn nói gì thì nói cốt để vừa lòng “người trên”, để lừa “kẻ dưới” như lâu nay. Thực tế buộc chúng ta trước hết phải nói thật cái suy nghĩ của mình, nếu điều nói ra mà không đúng với quy luật khách quan thì chúng ta phải sửa lại cái suy nghĩ đó hay nói cách khác là phải thay đổi tư duy của mình. Và ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, học hỏi, đối thoại của con người với con người chứ tuyệt nhiên không phải là công cụ để nói dối, để lừa mị.


Hiến pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay đã nói thật chưa? Nếu căn cứ vào nội dung một số điều cơ bản của nó mà tôi một lần nữa dẫn ra sau đây (vì điều này nhiều người, nhiều lần đã dẫn ra) thì bản Hiến pháp này đã nói không thật.


1- Điều 2 của Hiến pháp: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.


Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều này đã khẳng định “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.Nhưng nó đã bị ngay Điều 4 của Hiến pháp: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” phủ định hoàn toàn và ngay trong Điều 4 cũng chứa đựng mẫu thuẫn, trái logic.


2 – Điều 4 nêu trên đã trái ngược ngay với Điều 83 của Hiến pháp, trích: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.


Trong một vấn đề mà có 02 sự thật là một vấn đề không có thật.

Hiến pháp Việt Nam hiện nay có nhiều nội dung lạc hậu về tư tưởng như Lời nói đầu: “Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin …”. Để phát triển con người, đất nước Việt Nam chúng ta phải dựa trên tư tưởng hay trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam, trí tuệ của cả nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, không phải là hệ tư tưởng của dân tộc Việt Nam và chỉ là một hệ tư tưởng trong số các tư tưởng của nhân loại. Nó không phải là một phạm trù vĩnh cửu, càng không phải là một phạm trù tuyệt đối. Lịch sử phát triển của các nước Đông Âu đã chứng tỏ nó là một tư tưởng lỗi thời. Một tư tưởng lỗi thời về logic không thể chứa đựng được sự thật của một xã hội hiện đại.


Làm không thật,

Một số điều của Hiến pháp đã qui định về quyền của công dân như sau:


“Điều 52


Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”.


“Điều 53


Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.


“Điều 69


Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.


Văn hóa “cá gỗ” không thể thay cho văn hóa “cá thật”. Sao lại ban hành các văn bản dưới Hiến pháp để ngăn cấm, để trói, để bịt, để treo mãi những quyền của công dân đã được ghi trong Hiến pháp như đã nêu trên. Rồi dựa vào đó, sử dụng công cụ “chuyên chính” triệt để, “mạnh tay” quyết để cho tự do của nhân dân, tự do của dân tộc mãi chỉ là con “cá gỗ”.


Bài học nhãn tiền về phong trào cách mạng đòi tự do của nhân dân các nước Bắc Phi, Trung Đông còn đang sôi sục kia. Câu trả lời không gì khác là không thể “chuyên chính giai cấp” mãi, không thể “toàn trị” mãi vì nó là cội nguồn gây nên biết bao đau thương, đổ vỡ về lòng người và hòa giải dân tộc.


Đất nước đi về đâu?

Vật giá leo thang, tiền đồng mất giá, Chính phủ cấm mua bán vàng, ngoại tệ, nhân viên công lực thì lại đánh chết người, “con cá lớn” Vinashin đã vọt lưới chống tham nhũng nhân dân… Chính mỗi người dân Việt Nam ngày hôm qua và ngày hôm nay đã tự trả lời cho chính mình đất nước đang đi về đâu!


Thăng Long - Hà Nội, ngày 27/3/2011

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Nguồn: http://boxitvn.blogspot.com/2011/03/noi-khong-that-lam-khong-that-at-nuoc-i.html

Back to top
« Last Edit: 31. Mar 2011 , 14:12 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #43 - 04. Apr 2011 , 12:49
 
Tuyên bố của Cù Huy Hà Vũ trước phiên tòa:



Lịch sử, Tổ Quốc và nhân dân Việt Nam nhất định phá án cho tôi, công dân Cù Huy Hà Vũ !



Kính gửi Dân Làm Báo,

Tôi, Cù Thị Xuân Bích, được sự ủy quyền của anh trai tôi là Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố về “Tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam theo điểm c, khoản 1 Điều 88 Bộ Luật Hình sự nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, tôi gửi tới Quý vị Lời tuyên bố của anh trai tôi sau đây về vụ án, để đảm bảo quyền bình đẳng của anh tôi với các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam trong việc bày tỏ quan điểm về vụ án. Tôi chân thành cảm ơn.

Cù Thị Xuân Bích


.........


Back to top
« Last Edit: 04. Apr 2011 , 12:53 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Anh Hùng Thời Đại : RẢI TRO THEO GÍO TRÊN ĐÈO HÃI VÂN
Reply #44 - 18. May 2011 , 11:53
 
đèo Hải-Vân


Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!

Bao chiến công… cũng thế mà thôi

Hải Vân… tro rắc bốn trời

Hạt tro nào…lạc vào nơi cổ thành?


Nhất Tuấn

Tặng Nhung, “đứa con đầu lòng” của nhà văn Thạch Lam.

Tôi gặp anh tất cả bốn lần. Bốn lần đó trải dài hơn ba thập niên. Không nhiều. Đã thế dường như trong cả bốn lần đó ngoài cái gật đầu chào chúng tôi không hề trao đổi với nhau lấy một tiếng. Anh vốn ít lời. Còn tôi thì e dè. Tôi vốn có tính rất ngại bắt chuyện với một người nổi tiếng, đặc biệt nếu người ấy lại là người có quyền thế. Trong thâm tâm tôi biết nếu tôi mở chuyện thì anh cũng sẽ vui vẻ bắt chuyện ngay. Đằng sau gương mặt lầm lì ít nói ấy anh là người rất bình dị. Nhưng lần nào cũng thế sau cái gật đầu chào, tôi không bao giờ cất tiếng. Để đến bây giờ ngồi trước bàn máy vi tính một buổi sáng mùa thu miền Tây Bắc nước Mỹ, tôi viết đôi dòng về anh mà lòng không khỏi gợn chút nuối tiếc: bài viết của tôi vì thế sẽ không ghi lại một mẩu đối thoại nào, dù ngắn, để làm kỷ niệm giữa anh và tôi. Mà nào giữa chúng tôi đâu có phải người xa lạ gì cho cam? Anh là nguời rất thân cận trong đại gia đình Nguyễn Tường chúng tôi, là chồng của người em họ tôi, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam.
Tôi nhớ lại hình ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn lần thì có đến ba anh hiện lên trước ly rượu. Đó cũng là hình ảnh cha tôi thường thoáng hiện mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly rượu anh trầm ngâm yên lặng. Cha tôi cũng thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ về anh lòng tôi không khỏi có ngầm một sự hãnh diện thầm kín rằng dòng họ tôi có được một người rể như anh nổi tiếng là người thanh liêm. Cách đây sáu năm khi tái bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn Giòng Sông Thanh Thủy, tôi đã viết lời đề tặng anh trên trang đầu cuốn sách những lời thật lòng: “Tặng anh Ngô Quang Trưởng, với cả tấm lòng quí mến và ngưỡng mộ”.

Tướng Ngô Quang Trưởng

Đèo Hải Vân

Cơ duyên nào mà một vị tướng lừng danh của quân lực miền Nam Việt Nam lại kết duyên với cô con gái lớn của nhà văn tài hoa nhất Tự Lực Văn Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả lời thật đúng cho câu hỏi này. Người có thẩm quyền trả lời là bà Trưởng. Mang dòng máu của nhà văn Thạch Lam tôi nghĩ Nhung nếu muốn viết cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng không có ý định viết hồi ký về anh vì thật tình tôi không biết nhiều. Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ niệm với anh trong dăm lần gặp gỡ hiếm hoi.

Trước khi gặp anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi đã nghe lan truyền câu chuyện về một mối tình tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc hai binh chủng khác nhau của QLVNCH, một không quân và một nhẩy dù, với cô con gái lớn của một nhà văn nổi tiếng. Hai quân nhân cùng yêu một cô gái. Đó là chuyện thường tình trong cuộc chiến. Điểm đặc biệt họ lại là đôi bạn rất thân nhau. Trước cái chết có thể đến bất cứ khi nào, họ giao ước với nhau trong tình bạn là nếu người nào nằm xuống trước thì người kia nguyện sẽ suốt đời chăm lo cho cô gái kia. Người phi công sau đó tử nạn máy bay và định mệnh đã đẩy cô em họ tôi gắn liền cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều lần gặp Nhung tôi toan hỏi Nhung về câu chuyện tình này có đúng sự thực hay không, nhưng tôi lại thôi không hỏi. Với tôi đó là một huyền thoại đẹp, hãy cứ để nguyên vẹn như thế trong trí tưởng tượng của tôi.

Năm 1962 tôi ở Sài Gòn và dậy học tại trường trung học Minh Tân ở Biên Hòa. Một bữa anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh Tân, chở tôi từ Biên Hòa về Sài Gòn trên chiếc xe lambretta của anh. Đến Thủ Đức anh tôi đề nghị ghé thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong lúc nói chuyện với Nhung thì có tiếng xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nhìn ra. Từ trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy xuống. Hai bông mai trên ve áo trận. Anh Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm thước, nước da ngâm đen, khuôn mặt sần sùi khắc khổ. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là anh không những không đẹp trai, lại không có cái “tướng” hùng của một quân nhân. Trí tôi lúc ấy thoáng hiện câu chuyện tình tay ba và tôi hình dung khuôn mặt anh chàng phi công tử trận chắc là phải hào hoa và đẹp trai hơn anh Trưởng.

Năm 1967 tôi gặp anh Trưởng lần thứ nhì ở Huế thì trên ve áo trận của anh hai bông mai đã thay thế bằng một ngôi sao. Anh đã lên tướng! Người sĩ quan tôi trông không có “tướng” ấy, năm năm sau đã được thăng tướng trong một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ tôi bắt đầu có lời đồn đãi là từ khi anh Trưởng lấy Nhung thì như diều gặp gió đường binh nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ một Trung úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài Gòn tôi bay ra Huế hai tuần lễ và tá túc tại đại học xá Nam Giao, nơi mà hai năm trước tôi đã từng là sinh viên nội trú để theo học ở Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao tôi đi bộ đến thăm cô em họ, lúc này đã khó gặp vì ở một nơi rất “kín cổng cao tường”. Tư dinh của tướng Trưởng là một biệt thự trên đường Lê Thánh Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh tòa nhà giây thép gai giăng đầy, ở bốn góc là bốn lô cốt thiết lập bằng những bao cát với những họng súng chĩa ra từ lỗ châu mai. Người lính gác cổng vào trong nhà báo và Nhung đã ra tận cổng để tiếp tôi. Chúng tôi đang nói chuyện ở sa lông thì anh Trưởng về. Trông anh mệt nhọc nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi chưa nhập ngũ, vẫn còn là sinh viên, dù vậy trông anh tôi cũng có cảm giác hơi khớp. Không biết có phải vì ngôi sao trên ve áo anh khiến tôi thấy anh oai vệ hơn không. Tôi đứng dậy chào anh trong lúc Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết, con bác Tam đấy!”. Anh không nói gì, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng ra chỗ quầy rượu nơi có đặt mấy chai Martell có ngâm những củ sâm bên trong, anh rót rượu vào ly rồi cầm ly rượu trên tay không uống, anh chậm rãi bước tới bước lui trong phòng khách, đầu cúi nhìn sàn nhà vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.

Đèo Hải Vân

Năm 1970 khi tôi gặp lại anh lần thứ ba thì tôi đã là một quân nhân. Sau biến cố Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68 Thủ Đức. Ra trường tôi phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục CTCT ở Sài Gòn. Năm ấy khoảng gần tết thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam mất tôi đi viếng thím trong bộ quân phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh tướng Trưởng trong cư xá sĩ quan Chí Hòa. Họ hàng chúng tôi đứng chật hai bên quan tài đặt chính giữa phòng khách. Xe jeep đậu trước cửa. Anh Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ lưỡi trai cặp tay – chiếc mũ gắn hai ngôi sao đen – anh đứng yên lặng trước quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng ở bên này quan tài, đối mặt anh lần đầu trong tư thế một quân nhân, một Thiếu úy trước một Thiếu tướng, tôi cảm nhận tất cả cái trọng trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn trên gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút sau anh đội mũ lên đầu rồi vội vã bước ra xe đi mất.

Năm 1972 sau “mùa hè đỏ lửa” tôi là một trong ba sĩ quan của Khối Kế Hoạch/ Tổng Cục CTCT đi thanh tra vùng giới tuyến. Ba người ấy là Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu tá Nguyễn Công Luận và tôi với cập bậc Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế trú đóng hai tuần lễ ở Mang Cá trong cổ thành Đại Nội. Không khí nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần đầu tiên kể từ ngày ra trường tôi trực diện với cuộc chiến. Cộng quân lúc này thỉnh thoảng vẫn tiếp tục nã pháo vào cổ thành Huế. Mỗi lần nghe tiếng đạn rít trên không trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu nhào xuống giao thông hào nơi hàng trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh chủng và cấp bực cùng nhào xuống trú pháo. Theo bản năng tự nhiên mỗi lần nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là tôi lại chúi đầu xuống đất mặc dù tôi biết rằng nghe được tiếng đạn rít tức là mình đã thoát chết vì đạn đã bay qua khỏi đầu. Chính trong lúc trú pháo này mà tôi hiểu được nỗi kinh hoàng mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái Hòa và những chiến sĩ sư đoàn 5 Bộ Binh tử thủ An Lộc đã phải hứng chịu trước những trận mưa pháo dữ dội hơn gấp cả ngàn lần. Trước khi ra Huế lần này tôi đã đi chôn anh Hòa tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Anh tử trận ngày 7-7-1972 đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh và ngay đêm đó anh bị pháo chết. Nội trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ tôi đã lên chức hai lần, từ Trung úy lên cố Thiếu tá. Và cũng chính trong lần ra Huế này mà tôi được nghe được rất nhiều giai thoại về anh Trưởng, “người hùng tái chiếm Quảng Trị” lúc này đã được vinh thăng Trung tướng với ba sao trên ve áo và giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I. Tất cả những giai thoại đó nếu được ghi lại đầy đủ tôi nghĩ có thể viết thành một quyển sách. Giai thoại về sự thanh liêm trong sạch của anh cũng có. Giai thoại về tác phong chỉ huy của anh cũng có. Giai thoại về lòng thương lính dưới quyền của anh cũng có.

Tôi nhớ là trong giao thông hào giữa hai đợt pháo kích một vị sĩ quan cạnh tôi sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa tôi với anh Trưởng hỏi tôi có đi thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế này không. Tôi trả lời không. Rồi tôi nói thêm: “Mình chả dại. Đang ngon lành trong ngành CTCT lại ở hậu cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại ký giấy tống mình ra tiền tuyến thì mệt lắm. Mà không phải tôi nói giỡn đâu. Một người anh họ tôi cùng khoá với tôi 2/68 đã bị lãnh búa rồi. Ông tướng hãnh diện đi khoe với cố vấn Mỹ là có người anh họ đang chiến đấu ở ngay tuyến đầu!”

Lần thứ tư tôi gặp anh Trưởng là vào tháng 7 năm 1993 tại Virginia, tiểu bang êm đềm của nước Mỹ. Như một khúc phim được quay nhanh, hai mươi ba năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở Việt Nam tôi lại thăm anh Trưởng tại tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại vùng thủ đô Hoa Kỳ. Cuộc chiến Việt Nam như một giấc mơ hãi hùng nhưng không thực lúc này đã trở thành dĩ vãng. Năm đó vào tháng 7 chúng tôi bay qua miền Đông nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi được tổ chức tại nhà anh cả tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu tiên gặp anh Trưởng trong bộ thường phục, trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo mông-ta-gu màu đỏ trông anh mập ra, trẻ trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở anh vẻ an bình hiện trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ là bề ngoài. Bên trong chắc hẳn anh mang nặng nỗi đau và niềm cay đắng của một vị tướng bại trận sẽ mang theo anh cho đến tận cuối đời. Anh đích thân rót rượu và ân cần mời tất cả mọi người. Tôi toan tiến lại gần anh, nói với anh vài lời, đặc biệt là bầy tỏ tấm lòng của tôi đối với anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ trong bụng anh có thể đã nghe những lời bầy tỏ tương tự như thế rất nhiều lần rồi, nói ra lại thành khách sáo, vả lại chúng tôi là người nhà, còn thiếu gì những dịp khác để gặp anh tâm tình. Nhưng tôi đã lầm. Dịp khác để gặp anh đã không bao giờ đến, cho đến khi anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 22 tháng 1 năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ tư tôi gặp anh ở Virginia đó cũng là lần chót. Và chúng tôi vẫn chưa bao giờ trao đổi với nhau được lấy một lời. Tôi chỉ còn cách tự an ủi là ba năm trước khi anh mất anh đã đọc những lời chân tình của tôi viết về anh trên trang đầu cuốn sách Giòng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng.

*

*     *
Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.

Từ trong nhà bước ra anh nói ngay:
– Tôi quên mất rồi. Không biết lần này ai trả tiền, ông hay tôi?

– Tôi cũng không nhớ. Nhưng nhầm nhò gì. Để tôi trả cho. Anh cứ “vô tư” đi cho tôi nhờ!

– Này này! Ông đừng có lợi dụng cái bệnh Alzheimer của tôi nhé! Cái gì cũng phải cho nó sòng phẳng…
Trong lúc lái xe tôi nghĩ đến sự tình cờ hi hữu đã khiến chúng tôi gặp lại nhau và ở gần nhau trên nước Mỹ. Bốn mươi năm trước chúng tôi có một thời gian cùng phục vụ tại Khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT. Anh Hậu lúc ấy là Thiếu tá nhưng anh chỉ tạm trú ở Tổng Cục vài tháng trước khi chờ biệt phái sang Phủ Tổng Thống. Hồi đó tôi nghe đồn anh có “gốc” lớn lắm. Sau này kể anh chuyện ấy anh cười nói: “Gốc mẹ gì! Toàn là đồn nhảm không à!”. Tôi cũng nhớ là sau khi biết tôi là con của ông cụ, anh Hậu, tác giả tập thơ Chuyện Chúng Mình, có đọc cho tôi ngay câu thơ mà anh đã làm trước đó mười năm: “Yêu Nhất Linh tôi chọn tên Nhất Tuấn”. Cùng sang Mỹ năm 1975 và cùng chọn tiểu bang miền Tây Bắc nước Mỹ để định cư, chúng tôi đã có dịp gặp nhau thường xuyên từ hơn ba mươi năm nay.

Ăn trưa xong, bên tách trà nóng, chúng tôi ngồi ôn chuyện cũ. Lẫn trong câu chuyện hình ảnh của những người mà chúng tôi đã từng quen biết năm xưa, người mất kẻ còn, lần lượt hiện ra. Tội nghiệp Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT, xếp của chúng tôi, đã chết vì ngộp thở trên chuyến tàu hỏa chở những tù nhân cải tạo ra Bắc. Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Trưởng phòng Nghiên Cứu Kế Hoạch, xếp trực tiếp của tôi, cũng đã ra đi tại tiểu bang New Jersey miền Đông nước Mỹ. Trung tá Vĩnh Huyền, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 50 CTCT, người mà anh Hậu vẫn khen là có gương mặt và tác phong rất bảnh, đã từ lâu tôi mất liên lạc, không biết còn ở Calgary bên Canada hay không. Và Thiếu tá Nguyễn Công Luận nữa, không biết anh còn ở San José hay không, sức khoẻ anh hiện ra sao…

Bên ngoài lướt qua khung kính của nhà hàng mưa nhẹ bay bay. Bãi đậu xe lá vàng phủ ướt nhẹp. Bây giờ là cuối thu, những chiếc lá của hàng cây phong trồng trên bãi đậu xe đã bắt đầu chuyển từ màu vàng óng sang màu đỏ tía. Mỗi lần cơn gió mạnh thổi lá rụng lả tả bay đậu trên mui trên kính những chiếc xe hơi nằm trên bãi.

Tôi nhìn anh Phạm Hậu ngắm hàng râu mép của anh và bỗng thấy anh cũng bảnh y như Trung tá Vĩnh Huyền trong hình ảnh ký ức tôi năm xưa. Chỉ khác là bây giờ râu tóc của nhà thơ này đã chuyển sang màu muối tiêu. Nhớ đến Trung tá Vĩnh Huyền tôi lại liên tưởng đến lần chúng tôi ra Huế năm 1972 và tôi nói với anh Hậu:
– Tôi đang viết giở một bài về tướng Ngô Quang Trưởng, nghe nói anh có làm bài thơ về ông Trưởng hay lắm, anh có thể đọc cho tôi được không?

Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh chết tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở sâu trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng chấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.

Rải tro theo gió… trên đỉnh đèo Hải Vân… ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.

Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ sau đây của anh:

Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
Bao chiến công… cũng thế mà thôi
Hải Vân… tro rắc bốn trời
Hạt tro nào… lạc vào nơi cổ thành?

Nhất Tuấn 
Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù VN (3/1954-9/1954).

Nguyễn Tường Thiết
Back to top
« Last Edit: 18. May 2011 , 11:55 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #45 - 17. Aug 2011 , 13:08
 

...


Nhớ Thầy Nguyễn Ngọc Huy
Lần giỗ thứ 21, ngày 6 tháng 8, năm 2011.
Tại San Jose



Trưa ngày thứ Bảy, 06 tháng 8, 2011 hội trường của Trung Tâm Văn Hóa Việt Mỹ, tọa lạc tại 2290 Tully Road, San Jose, đầy ắp quan khách tham dự. Đảng Tân Đại Việt do bác sĩ Mã Xái lãnh đạo, cùng các tổ chức bạn như Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Ngọc Huy Foundation, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, Ủy Ban Hoàng Sa, Liên Đoàn Cử Tri Bắc Cali và Hội Cao Niên Diên Hồng đã tổ chức Lễ Tưởng Niệm Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy thật trọng thể, cùng một hội luận chính trị sau đó, trong bài viết Thư Cho Con, Giáo sư Trần Minh Xuân ghi nhận những chi tiết về buổi lễ này. Tôi xin trích đoạn mà ông đã viết như sau:

"...nghi thức tưởng niệm lần thứ 21 cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy qua đời được bắt đầu với phần niệm hương trước bàn thờ Tổ Quốc có thiết đặt di ảnh người quá cố và ông Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa [xem hình] được mời lên diễn đàn kể lại cuộc đời và sự nghiệp đấu tranh cho một nước Việt Nam Ðộc lập, Tự do, Dân chủ Hiến định và Pháp trị của cố Giáo sư. Ðược biết ông Hoài Sơn là người bạn sát cánh đấu tranh với cố Giáo sư kể từ ngày đầu hai người tham gia Ðảng Ðại Việt do Ðảng trưởng Trương Tử Anh lãnh đạo. Ông nói:

“Giáo Sư Huy sanh năm 1924, mất năm 1990, thọ 66 tuổi. Trong 66 năm của cuộc đời, ông đã tranh đấu liên tiếp không ngừng trong 45 năm trời, từ năm 1945 đến năm 1990, năm ông lìa đời. Vì ông là người có tài, có đức, có chí lớn, lại tranh đấu lâu năm như vậy nên các đồng chí và các môn sinh của ông rất đổi kính phục ông. Vì đó, năm nào đến ngày giỗ của ông, họ cũng đều làm lễ tưởng niệm rất trọng thể, không những tại trong nước, tại Hoa Kỳ, tại Canada, tại Âu Châu, mà cả tại Úc Châu nữa”..."

Thật vậy, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là một nhà ái quốc, một chí sĩ suốt đời phục vụ những lý tưởng cho dân tộc Việt Nam, những điều tốt về ông đã được các học giả, các sử gia, các bình luận gia hay các đồng chí của ông đề cập khá nhiều. Bài viết này nhằm tổng hợp đôi nét chính do các tác giả Trần Nguyên, Nhữ Đình Hùng, Trần Minh Xuân, Mai Thanh Truyết và Phan Văn Song đã nhận định về ông.

Tôi có dịp học môn chính trị học do Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy diễn giảng tại đại học Kinh Tế và Thương Mại Minh Đức, cảm nhận lãng vãng trong trí nhớ của tôi về người thầy cũ này là ông có nụ cười hiền hòa, là một nhà hùng biện với kiến thức uyên thâm, say mê diễn giảng rất suôn sẽ những bài giảng, những sinh viên chúng tôi im lặng chăm chú nghe ông nói, ông có trí nhớ dai, những sự kiện về chính trị Việt Nam và thế giới, ông am tường như bộ nhớ của máy điện toán, khi chúng tôi trò chuyện hay nêu lên những thắc mắc, ông thân thiện giải đáp hay thảo luận rất cởi mở. Năm 1990 Giáo Sư Huy qua đời ở Pháp khi sang tham dự buổi họp quan trọng của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam do ông thành lập, năm nay nhân lễ kỷ niệm lần thứ 21, tôi cùng các bạn đồng môn Cao Thái Hải và Lưu Tấn Xuân tham dự lễ giỗ tại Bắc Cali và thắp nhang để tưởng nhớ đến vị thầy khả kính, người đã cống hiến trọn cuộc đời cho quốc gia và dân tộc Việt Nam. Điểm cần nêu lên thầy Huy còn là một nhà văn biên khảo, viết khảo luận về những chủ đề chính trị, luật pháp, xã hội,... và làm thơ dưới thi hiệu Đằng Phương. Thầy Huy tham gia chính trị năm 21 tuổi, thơ ông nói lên bầu nhiệt huyết vì quê hương, những khát vọng như lẽ sống của tuổi trẻ đấu tranh cho sự tự do, nhân quyền và dân chủ cho nước nhà, thơ rằng:

"Tranh đấu cho dân tộc sống còn,
Liều mình để phục vụ giang sơn !
Đó là lẽ sống người trai Việt,
Muôn thuở không sờn dạ sắt son"


Bốn câu thơ trên trong bài Lẽ sống, được trích ra từ Tập thơ Hồn Việt. Trong cùng thi tập này ông cho những dòng thơ gởi các bạn đồng lý tưởng, ông kêu gọi mọi người hãy chung tay vì đại cuộc:

“Hỡi những bạn đồng hành chung lý tưởng,
Chung nguyện thề, chung ước vọng cùng nhau,
Hồn mân mê một mục đích cao sâu,
Lòng dào dạt một mối tình sông núi"


Tham khảo bài viết "Nhân tài xứ bưởi Biên Hòa: Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy" của tác giả Trần Nguyên cho phần tiểu sử của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy như sau:

"Ông sanh vào ngày 2 tháng 11 năm 1924, quê tại Mỹ Lộc, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa.

Văn bằng:

- 1963: Tiến Sĩ Chánh Trị Học, Trường Đại Học Luật Khoa & Kinh Tế Paris. Luận án: “Đề tài người ưu tú trong tư tưởng chánh trị Trung Quốc cổ thời”
- 1960: Cao Học Chánh Trị, Trường Đại Học Luật Khoa & Kinh Tế Paris.
- 1959: Cử Nhơn Luật Khoa và Kinh Tế, Viện Đại Học Paris.
- Tốt nghiệp Viện Nghiên Cứu Chánh Trị  Đại Học Paris.
- Tự học thi đậu bằng Tú Tài.
- Học sinh trường Pétrus Trương Vĩnh Ký, thi đậu bằng Trung Học. Một trong học sinh đậu xuất sắc nhứt tại Đông Dương (xem phim tài liệu về Thân Thế & Sự Nghiệp Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy / Câu Lạc Bộ Đằng Phương thực hiện năm 2007).

Chức vụ:

* Trong Ngành Giảng Huấn:
- Từ 1976: Phụ Khảo tại Trường Đại Học Luật Khoa Harvard (Hoa Kỳ).
- 1965-1975: Giáo Sư Chánh Trị Học và Luật Hiến Pháp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh tại Sài Gòn, Trường Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội tại Cần Thơ, Trường Đại Học Sư Phạm tại Sài Gòn, Trường Đại Học Luật Khoa tại Huế. Ngoài ra còn giảng dạy tại các Trường Đại Học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Minh Trí... và ở Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, Trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị.
- 1967-1968: Khoa Trưởng Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội tại Cần Thơ.

Trong Chánh Quyền:
- 1973 và 1968-1970: Nhơn viên phái đoàn tham dự thương thuyết Hòa Đàm Paris.
- 1967: Hội Viên Hội Đồng Dân Quân.
- 1964: Đổng Lý Văn Phòng Phủ Phó Thủ Tướng Đặc Trách Bình Định.

Hoạt Động Chánh Trị:

- Từ 1986: Hội Viên Ủy Ban Danh Dự của Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ VN Tự Do.
- Từ 1981: Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương Liên Minh Dân Chủ Việt Nam.
- 1973-1975: Đồng Chủ Tịch Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội (gồm 6 đảng).
- 1969-1975: Tổng Thơ Ký Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến.
- 1964-1990: Thành lập đảng Tân Đại Việt và là lãnh đạo đảng cho đến năm 1990.
- 1945-1964: Đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng và tham dự Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương năm 1948.

Tưởng Lục:

- WHO'S WHO đông bộ Hoa Kỳ, ấn bản lần thứ 18, 1981-1982.
- Giải thưởng của Viện Đại Học Paris trao luận án Tiến sĩ xuất sắc nhất trong năm.

Chuyên Môn:

- Luật Hiến Pháp, Tư Tưởng Chánh Trị, Định Chế Chánh Trị, Bang Giao Quốc Tế.
- Thông thạo ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh và Hán văn.

Tác phẩm:

* Tiếng Việt:
1. HỒN VIỆT, thơ, Sài Gòn, 1950, tái bản ở Paris năm 1984.
2. QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT (Quyển A), Việt Publisher, Canada, 1990.
3. DÂN TỘC SINH TỒN, chủ thuyết của Đại Việt Quốc Dân Đảng, được bổ túc, phong phú hóa và thâu nhận các nguyên tắc tự do dân chủ, (2 quyển), Sài Gòn, 1964.
4. DÂN TỘC HAY GIAI CẤP ?
5. BIỆN CHỨNG DUY XẠO LUẬN (Trào phúng).
6. CÁC ẨN SỐ CHÁNH TRỊ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG, Thanh Phương Thư Quán, San Jose, Hoa Kỳ, 1986.
7. HÀN PHI TỬ: bản dịch ra Việt ngữ tác phẩm của Hàn Phi, nhà lý thuyết trứ danh của học phái Pháp Gia Trung Quốc, (2 quyển), Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1974.
8. LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT CHÁNH TRỊ, Cấp Tiến, Sài Gòn, 1970-1971.
9. ĐỀ TÀI NGƯỜI ƯU TÚ TRONG TƯ TƯỞNG CHÁNH TRỊ TRUNG QUỐC CỔ THỜI, bản dịch Luận án Tiến sĩ viết bằng tiếng Pháp, Cấp Tiến, Sài Gòn, 1969.
10. Tên Họ Người Việt Nam . Mekong-Tỵnạn, California, USA
- Cùng viết với Gs Trần Minh Xuân (2 cuốn 11 và 12 trong danh sách này):

11. Hiệu đính và chú thích LỤC SÚC TRANH CÔNG. Đi tìm tác giả và dụng ý chánh trị trong tác phẩm. Mekong-Tỵnạn, California, USA, 1991.
12. HỒ CHÍ MINH: TỘI PHẠM NHƠN QUYỀN VIỆT NAM. Mekong-Tỵnạn, USA, 1992.

* Tiếng Pháp:
13. POUR UNE NOUVELLE STRATÉGIE DE DÉFENSE DU MONDE LIBRE CONTRE L'EXPANSION COMMUNISTE, Alliance Pour La Démocratie Au Vietnam, Paris, 1985.
* Tiếng Anh:
14. THE LÊ CODE: LAW IN TRADITIONAL VIETNAM, bản dịch ra tiếng Anh và chú thích bộ QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT, tục danh LUẬT HỒNG ĐỨC của nhà Lê (1428-1788), Ohio University Press, Hoa Kỳ, 1987 - cùng viết với Gs Tạ Văn Tài và Gs Trần Văn Liêm -
15. A NEW STRATEGY TO DEFEND THE FREE WORLD AGAINST COMMUNIST EXPANSION, Alliance For Democracy In Vietnam, 1985.
16. PERESTROIKA OR THE REVENGE OF MARXISM OVER LENINISM, Việt Publisher, Canada, 1990.
Cùng viết với Gs Stephen B. Young (2 cuốn 16 và 17 trong danh sách này)

17. UNDERSTANDING VIETNAM, do T.D.T. Thomason xuất bản, The Displaced Persons Center Information Service, Bussum, The Netherlands.
18. THE TRADITION OF HUMAN RIGHTS IN CHINA AND VIETNAM, Yale Southeast Asia Studies, The LẠC VIỆT Series, New Haven, CT, USA, 1990.

Bài Đăng Báo:

* Tiếng Việt:
- 1947-1990: Bài nhận định Tình Hình Thế Giới Trong Tháng Vừa Qua cùng nhiều bài báo về văn hóa & chánh trị Việt Nam trên nhiều tờ báo tiếng Việt ở trong và ngoài nước, như TỰ DO DÂN BẢN,  ĐƯỜNG MỚI, MEKONG-TỴNẠN, SAIGON, THẰNG MÕ, HỒN VIÊT, HƯỚNG VIỆT, DIỄN ĐÀN VIỆT NAM, CẤP TIẾN, DÂN QUYỀN, LỬA THIÊNG, QUỐC PHÒNG, ĐUỐC VIỆT, THANH NIÊN ...

* Tiếng Pháp:
- LA FRANCE ET LE VIETNAMIEN PARTISAN DE LA DÉMOCRATIE LIBÉRALE, trong ĐƯỜNG MỚI, Pháp Quốc, số 4, 1985.
- LE CODE DES LÊ, nhận xét về bản dịch bộ luật nhà Lê ra tiếng Pháp của Ông Deloustal và về niên biểu ấn hành của bộ luật này, trong BULLETIN DE L'ÉCOLE FRANCAISE D'EXTRÊME ORIENT, Quyển LXVII, Pháp Quốc, 1980.

* Tiếng Anh:
- Cùng viết với Gs Tạ Văn Tài: THE VIETNAMESE LEGAL TEXTS, trong THE LAW OF SOUTH-EAST ASIA, Quyển 1, THE PRE-MODERN TEXTS, do M.B. Hooker xuất bản, Butterworth & Co, 1986.
- LIMITS ON STATE POWER IN TRADITIONAL CHINA AND VIETNAM, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 6, Hè-Thu 1985.
- THE MING CODE IN VIETNAMESE LEGAL HISTORY: ITS INFLUENCE ON THE VIETNAMESE CODES AND OTHER LEGAL DOCUMENTS, trong MING STUDIES, số 19, Thu 1984.
- ON THE PROCESS OF CODIFICATION OF THE NATIONAL DYNASTÝS PENAL LAWS, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 1, Đông-Xuân 1983.
- THE PENAL CODE OF VIETNAM'S LÊ DYNASTY, trong STATE AND LAW IN EAST ASIA, để kỷ niệm ngày Ông Karl Bunger trí sĩ, do Dieter Eikemeier và Herber Franke xuất bản, Otto Harrassowitz, Weisbaden, 1981. "


Trong bài viết của tác giả Nhữ Đình Hùng mang tựa "Tưởng Niệm Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy" ghi nhận là về sau vì những quan điểm dị biệt nên trong nội bộ của tổ chức Đại  Việt, Giáo Sư Huy đã cùng với xứ bộ miền Nam thành lập Tân Đại Việt. Kết hợp nhiều nhân sĩ, Giáo Sư Huy đã cho thành lập Phong Trào Quốc Gia CấpTiến mà lập trường của Phong Trào là ủng hộ chánh phủ quốc gia Việt Nam Cộng Hòa trong mọi nỗ lực chống Cộng Sản, tuy Phong Trào không tham chánh, nhưng có những đóng góp xây dựng và đòi hỏi chánh phủ phải thực thi dân chủ và bài trừ nạn tham nhũng, nạn bè phái trong guồng máy chánh quyền. Rồi từ năm 1965, ông làm giáo sư cho Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, phụ trách dạy môn Chánh Trị Học và Luật Hiến Pháp. Ông còn là giảng viên cho nhiều viện đại học khác như Đại Học Đà Lạt, Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Minh Đức và Đại học Sư Phạm Sài Gòn. Ông cũng được mời làm giảng viên chánh trị cho các trường quân sự như Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Trường Tham Mưu Cao Cấp, và Trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị; Ông làm Khoa trưởng Trường Đại học Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội Cần Thơ vào năm 1967, tham dự phái đoàn hoà đàm Paris 1968 và 1973. Sau khi VNCH mất, từ năm 1975 ông làm chuyên gia khảo cứu cho Viện Đại Học Harvard, tham dự việc dịch bộ luật Hồng Đức ra anh ngữ và lo việc chú thích bộ luật này. Trong khi đó, ông vẫn tiếp tục việc tranh đấu tích cực chống Cộng Sản, liên kết với các nhân sĩ, cựu đồng chí, môn đệ và những người yêu nước để thành lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam từ năm 1981 và liên tục hoạt động cho đến khi từ trần vào ngày thứ bảy 28/7/90 vào lúc 9giờ 30 tối tại nhà một đồng chí ở Paris, trong lúc ông đang chuẩn bị tham dự Đại hội LMDCVN thế giới kỳ I.

Những nhà đấu tranh thường bôn ba lưu lạc đó đây như Phan Bội Châu, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh hay Trương Tử Anh, Thầy Huy cũng rầy đây mai đó, ông cổ xúy cho những nguyên tắc tự do và dân chủ hợp hiến, tránh nạn độc tài và thể chế trọng việc đề cao lãnh tụ, cá nhân ông xác định rõ lập trường không tham chính tìm kiếm địa vị, chức tước hay quyền thế trong chính quyền, theo một cách nhìn nào đó nếu ông có làm được điều gì thì như một chiến sĩ vô danh mà thôi, ông sống với cái lý tưởng cao cả của mình, hãy nghe ông tâm sự trong thơ:

“Tranh đấu cho dân tộc sống còn,
Liều mình để phục vụ giang sơn,
Đó là lẽ sống người trai Việt,
Muôn thuở không sờn dạ sắt son"


Mỗi công dân trong xã hội lựa chọn cho mình những hướng đi riêng, những lý tưởng sống riêng, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy trưởng thành trong tấm lòng nồng nàn với quê hương, một tình yêu chân chất cho Tổ Quốc hay cho Mẹ Việt Nam theo nghĩa rộng. Những bài tham luận ưu tư về nước nhà, những vần thơ đầy ắp tình quê hương, đầy rung động với hồn Việt Nam đã được ông ký thác nỗi lòng. Cái thua thiệt của những tâm hồn hy sinh vì đại sự, khi tổ quốc đè nặng bờ vai, có thể tâm thức họ bị ray rứt phải xa lìa mẹ cha, xa xăm vợ con hay xa vắng chồng con, xa cách gia đình dù là nhỏ hay lớn, cái tình yêu nhỏ của lứa đôi phải nhường cho tình yêu lớn của quốc gia, của đại nghĩa mà bao anh hùng liệt nữ của dân tộc hay những chiến binh Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận một nguyên tắc chung, dù nó tiềm ẩn từ sự chọn lựa bị ràng buộc bởi nội tâm, một qui luật bất thành văn của tình yêu quê hương đất nước. Thầy Huy của tôi làm thơ tạ lỗi với mẹ già vì phải lặn lội ly hương vì đất nước mà đã không làm tròn được chữ hiếu, hiếu đạo không tròn khiến cho con người trở nên đau khổ:

"Đời cách mạng tự bao lâu bôn tẩu,
Để mẹ già sống cực nhọc lầm than,
Trước những giòng lệ ngọc ứa chan chan,
Lòng con há dửng dưng không cảm xúc,
Nhưng cũng đã trót làm cho mẹ khóc”


Thầy Huy bộc bạch ý tưởng tiếp trong "Lời nguyện cầu của những kẻ làm cho Mẹ khóc":

“Và con sẽ phải làm cho mẹ khóc,
Hỡi quê hương, hỡi đất nước thân yêu,
Dầu gian truân khổ cực bao nhiêu,
Chúng tôi vẫn sẵn sàng nhận lấy,"


Tình mẫu tử này xin dành cho tình yêu non sông gấm vóc để ngày mai toàn dân Việt Nam được hưởng quang cảnh thái bình:

"Chỉ mong ước một ngày mai được thấy,
Cả non sông giống Việt hết điêu linh,
Cả toàn dân giống Việt được thanh bình,
Và chỉ dẫu một ngày hay một buổi."


Lời thơ như khẩn thiết van xin người hãy thứ lỗi cho người con nhất nguyện chốn dương trần mang lại tự do, công bình và bác ái, những lý tưởng mà Mẹ Việt Nam có lẽ đã thấu hiểu và thông cảm hơn ai hết:

"Dẫu một phút hay một giây ngắn ngủi
Được như lời nhất nguyện chốn dương trần,
Còn có cơ quì dưới gối từ thân,
Để khẩn thiết cúi xin người thứ lỗi"


GS. Phan Văn Song

Tôi xem bài viết của Giáo Sư Phan Văn Song gởi đi từ Pháp trong bài "Tháng Bảy, nhớ Chú Ba", thân phụ của Giáo Sư Song là một đồng chí chí thân với Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, nên trong sự gần gủi đó Giáo Sư Song ghi nhận:

"Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là nhà thơ, một nhà văn, một nhà nghiên cứu khoa học chánh trị, một nhà bình luận chánh trị, và ông cũng là một nhà giáo, và một nhà mô phạm lớn. Ngoài tài đức của một nhà mô phạm, ông lại là một lãnh đạo chánh trị biểu hiện được đức tín của người xưa.

Chính cái đạo đức, tư cách, tấm lòng, nếp sống của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đã tạo cho các người lãnh đạo Đảng ngày nay một tấm gương sáng, để trông vào gương là cấp dưới tuân thủ mà không cần đến nghiêm lịnh.

Ngoài cái đức theo nghĩa đạo lý kia. Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy còn hội đủ những đức tánh theo quan niệm đạo lý chánh trị thời xưa: lập Đức, lập Ngôn, lập Công. Tôi đã nhiều lần nói đến đức tánh ấy của Giáo Sư. Hôm nay tôi xin lặp lại để quý đồng chí, quý chiến hữu nhớ và trông vào cái gương sáng của Người.

Lập Đức, có lẽ không một ai hoài nghi về đức độ và lòng bao dung của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đối với chiến hữu, với bạn bè và cả với mọi người anh em quen biết xa gần.

Lập Ngôn, hay lập Thuyết phải nói đến nền tảng của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là Dân chủ. Mà Dân chủ nào? Ông không bao giờ nói đến Dân chủ đa nguyên. Dân chủ đương nhiên là đa nguyên rồi. Dân Chủ mà ông khai triển để lập chánh thuyết cho đoàn thể của ông từ trước năm 1975 ở Việt Nam là Dân chủ Pháp trị và Dân chủ dân bản.

Còn nói về lập Công, nếu ngày trước, Đại Việt Quốc Dân Đảng đã tin tưởng và giao cho ông những chức vụ then chốt để cuối cùng ông trở thành vị lãnh đạo, thì sau ngày ra hải ngoại, ông ráo riết xây dựng một dư luận chánh trị Việt Nam cho cuộc đấu tranh giải phóng quê hương. Ông có cái nhìn tổng hợp, theo định hướng thực hiện ba yếu tố, mà người ta gọi đó là công án hay phương trình Nguyễn Ngọc Huy: hải ngoại – quốc tế – quốc nội."

Kế đến, Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết, một thành viên cốt cán trong Đại Việt Quốc Dân Đảng, đã viết bài tham luận "Kỷ niệm về Anh Ba năm 2011". Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là người con thứ ba trong gia đình nên trong tình thân, những đàn em ông gọi ông là "anh Ba Huy". Tiến Sĩ Truyết đề cập về đảng Đại Việt và Con đường đang đi. Đại Việt nguyên thủy là mẫu số chung trước khi mẫu số chung này được chia ra 3 tổ chức, mà có thể được hiểu như sự tế phân ra 3 "hệ phái" là Đại Việt Quốc Dân Đảng, Tân Đại Việt và Đại Việt Cách Mạng Đảng.


Nếu như trên bước đường tranh đấu, vì chủ trương hay phương pháp khác nhau mà tách ra, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy vẫn luôn luôn tôn trọng các bạn đồng hành theo đuổi chung một mục tiêu chính yếu là chống chế độ Cộng sản độc tài và cùng các đoàn thể anh em phụng sự những lợi ích chung cho quê hương dân tộc. Bài đường thi Hai Ngã trong thi tập Hồn Việt, trang 83, Thầy Huy cho thấy dù đi khác nẻo đường, khác phương thức, tình anh em cùng một Mẹ Việt Nam, vẫn chia sẻ điểm chung là phục vụ quê hương:

“Ví dẫu đang đi khác nẻo đường,
Ta cùng lo phụng sự quê hương,
Ngày mai mới biết trong hai ngã,
Đâu đã đem về được ánh dương !
Em cứ đường em, anh nẻo anh,
Miễn sao chung một ý chơn thành,
Ta cùng bền chí lo tranh đấu,
Đến lúc san hà rạng vẻ thanh”


Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết ghi nhận tiếp sự kiện của quá khứ khi Cố Đảng Trưởng Trương Tử Anh khai sáng và xây dựng Đại Việt khi Người vừa mới 25 tuổi, nhưng đã có khả năng tạo lập thuyết "Dân Tộc Sinh Tồn" (DTST) mang ý nghĩa:

"(a)  để làm khung cho nền tảng lý luận,
(b)  để điều hướng hoạt động đấu tranh vững mạnh cho các  mục tiêu chiến lược lâu dài, và
(d) để tạo điều kiện cho Đại Việt trường tồn đến ngày nay.

Trên trận tuyến đấu tranh chống CSVN hiện tại, Đại Việt có thể giương cao ngọn cờ DTST, đặt trên căn bản đầy tình tự dân tộc và nhân bản, làm đối lực đương đầu với chủ nghĩa CS vô thần, mị dân, với ảo tưởng dựng nên một nước VN xã hội chủ nghĩa mà ngay cả những người đề xướng ra cũng không xác định được xã hội chủ nghĩa cụ thể là gì.

Mỗi người trong chúng ta, dù có những suy nghĩ nào dị biệt đi nữa, cũng khó có thể phủ nhận được tính cách mạng đầy nhân bản của chủ thuyết DTST. Chính chủ thuyết nầy, theo quan điểm của riêng tôi, cho đến ngày hôm nay, vẫn còn là một đối trọng vững chắc, đối với ý thức hệ của chủ thuyết Cộng sản, để từ đó áp dụng vào các điều kiện thực tế Việt Nam, hầu thúc đẩy nhanh hơn tiến trình dân chủ hóa Việt Nam.

Đó là một xác quyết.

Chúng tôi muốn lập lại một lần nữa, trước tiến trình t0àn cầu hóa hiện nay, cùng với vai trò của từng quốc gia trên thế giới, dù muốn dù không, Việt Nam cần phải hội nhập vào cộng đồng nhân loại, trong đó chủ thuyết DTST có khả năng không phải để chuyển hóa, nhưng để xóa tan chủ nghĩa CS hiện đang cai trị Việt Nam."


Theo tiến trình biến hóa của sự chuyển hướng của thế giới, sự sắp xếp mới của trật tự toàn cầu hóa hậu chiến tranh lạnh, tổ chức cần có những sự đổi thay cho thích ứng mới, Tiến Sĩ Truyết cho biết tiếp:

"Thuyết Dân Tộc Sinh Tồn (DTST) là một sự chuyển hướng lớn về luận thuyết của Đại Việt. Tên tuổi của GS Huy đã đựợc nằm trong danh sách những người khai sáng và tiếp nối truyền
thống Đại Việt. GS Huy còn đã đưa ra một số điều kiện cho sự sinh tồn trong luận thuyết biến cải cùng 2 hình thức tranh đấu dựa theo hai nguyên tắc đối nội và đối ngoại. Đó là hai hình thức tranh đấu bên ngoài thân và tranh đấu bên trong, với chính nôị tâm của mình.

(a)  Từ suy nghĩ trên, công cuộc tranh đấu của GS Huy được thể hiện dưới hình thức ôn hòa hay bạo động tuỳ theo trường hợp và tùy theo diễn biến của hòan cảnh chính trị quốc gia trong từng thời điểm vừa nói.
(b)  Từ sự nhận định những khả năng tranh đấu vừa nói, GS Huy đã khai triển thêm thành ba bước khác nhau như 3 định luật, để rồi căn cứ theo đó mà hành xử, tuỳ theo tình huống đang xảy ra. Đó là luật sức mạnh, luật biến cải, luật hợp quần và giáo dục.

1.  Luật sức mạnh, đứng trước thế phân cực mới trên thế giới, quả thật sức mạnh ngày hôm nay không còn căn cứ theo khả năng quân sự nữa, mà khả năng kinh tế mới là thước đo quyền lực tòan cầu. Thí dụ như TC với khả năng kinh tế vừa vượt qua Nhựt Bổn chiếm vị trí thứ hai sau Hoa Kỳ.

2.  Luật biến cải, cũng được GS giải thích là khả năng thích nghi theo hòan cảnh và điều kiện trong tình trạng xã hội lúc bấy giờ. Trước tình thế mới ngày hôm nay, cần phải vận dụng trí óc để thẩm định tình hình, để biến cải mọi hợp tác quốc gia, thì phải dựa theo quan điểm đồng thuận và đồng lợi cho đôi bên cùng có lợi (win-win situation) mà vẫn giữ được tính chất độc lập dân tộc.

3.  Luật hợp quần và giáo dục. Đây là một yếu tố nhập môn rất sơ đẳng, đã được giảng dạy từ những ngày đầu tiên của trẻ con miền Nam, trong chương trình giáo dục tiểu học, qua những câu chuyện ngụ ngôn trong sách quốc văn giáo khoa thư. Nhưng để thực hiện và áp dụng luật trên không phải dễ. Nhìn lại chính chúng ta, hiện tại bao nhiêu hệ phái của Đại Việt, đã thực sự làm suy yếu tiềm lực lớn lao của một Đảng, đã có quá trình tranh đấu lâu dài, và một thời đã được sự ngưỡng mộ và ủng hộ của đại khối dân tộc Việt Nam."


Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy cho ấn hành tập thơ Hồn Việt, người thầy tôi sáng tác những bài thơ gởi gấm tâm sự lòng về vợ con, như trong thơ văn được xem như là thơ về tình yêu gia đình, hiền nội của thầy có nhủ danh là Dương Thị Thu, biệt hiệu Ngọc Ðiệp, đã qua đời vào năm 1974 trong một tai nạn tại bãi biển Vũng Tàu. Khi Cô Huy qua đời, mặc dù lúc đó Thầy còn ở tuổi trung niên đầy danh vọng và tài hoa, nhưng Thầy vẫn ở vậy nuôi con tôn thờ hình ảnh của người vợ hiền cho đến chết. Sự thủy chung nhỏ đến sự thủy chung lớn, giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu quê hương, thầy đã chu toàn ý nguyện của mình.

"Ví phỏng đường đời có mấy ai
Hiền thê giả biệt bởi chẳng may
Trung niên khép kín vì đạo nghĩa
Thử hỏi trần gian có mấy tay?"

(VHLA, Nén hương lòng kính thầy)

Ngạn ngữ tây phương vẫn đề cao bóng hình người đàn bà hỗ trợ cho sự thành công của người đàn ông, với Thầy Huy ắt phải là sự cô đơn trong những năm tháng dài sống bất định, bề bộn chính sự rầy đó mai đây. Trong bài thơ “Nhớ Thu”:

“Đành phải từ đây chỉ một mình,
Trên đường nhiệm vụ rộng mênh mông,
Một mình nếm hết mùi cay đắng,
Trải hết vui buồn với nhục vinh”


Trên bước đường tranh đấu bôn ba nơi hải ngoại, Thầy đa đoan công việc và không có nhiều thì giờ dành cho người con, bài thơ gởi con dường như chất chứa sự dầy xéo tâm tư như sau:

“Đức bạc tài sơ trí thấp hèn,
Nhưng đường tranh-đấu phải bon chen,
Vì Ba không thể nhìn dân tộc,
Khổ sở điêu linh dưới bạo quyền.
Việc nước đa đoan bỏ việc nhà,
Trong khi lưu lạc cõi trời xa,
Để Con đau khổ trong cô độc,
Cha đã không tròn nhiệm vụ Cha”


Nhưng rồi người con trai ấy của Thầy đã mãn phần ở Hoa-Kỳ, cùng khi ấy Thầy đã mắc chứng bệnh ung thư ngặt nghèo. Cuộc đời bề bộn quốc sự khiến Thầy không được tĩnh  dưỡng đúng mức, trong những giây phút thầm kín, Thầy cho thấy qua thơ, đêm đêm cầu nguyện cho vợ, cho con:

"Và cứ đêm đêm lại nguyện cầu,
Hồn em siêu thoát cõi tiên châu,
Đợi Anh đến lúc tròn công quả,
Tìm đón Anh về tái hội nhau"


Và nhắn với người con trai cô đơn đã vắn số:

"Ba lại ngày đêm mãi khấn nguyền,
Cho Con cùng Má ở non tiên,
Hoàn toàn siêu thoát và thanh thản,
Ngày tháng tiêu dao hết não phiền.
Rồi khi Ba dứt nợ trần hoàn,
Với Má, Con về lại thế gian,
Để đón Ba đi miền cực lạc,
Cùng nhau đoàn tụ hưởng thanh nhàn"


Lo cho gia đình, lo cho quê hương, những ý nghĩ hẳn làm cho Thầy Huy mỏi mệt. Điều tôi lưu ý trong tâm thức của thầy là lo lắng về vấn nạn chia rẻ, kỳ thị tôn giáo, địa phương, chủng tộc... khiến cho tập thể chúng ta khó chống chọi với sự quỷ quyệt của CSVN, kẻ thù nguy hiểm mãi u mê quyền lực khiến đất nước càng ngày càng tụt hậu, suy đồi. Bài thơ "Việt Nam Thống Nhất" trong thi tập Hồn Việt biểu lộ niềm ưu tư của Thầy. Giống nòi Việt Nam phải đoàn kết với nhau trong công cuộc đấu tranh cam go, diệt giặc trong, chống giặc ngoài:

“Mặc những âm mưu rẽ giống nòi,
Mà người cố dựng mãi không nguôi,
Người dân nước Việt luôn kiên quyết,
Nắm chặt tay nhau chẳng để rời!
Cùng một non sông một giống dòng,
Sao đành chia rẽ Bắc, Nam, Trung,
Muốn dân tộc Việt sinh tồn được,
Phải để hòa chung máu Lạc Hồng”


Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, hay Thi Sĩ Đằng Phương nói với tuổi trẻ qua bài thơ Thanh Niên Việt Nam:

"Trong lịch sử bốn nghìn năm chiến đấu
Bốn nhìn năm lấy máu đắp giang sơn,
Bốn nghìn năm hoạt động để sinh tồn
Nòi giống Việt vẫn luôn luôn khẳng khái:
Không khuất phục kẻ thù khi thất bại,
Không kiêu căng khinh địch lúc thành công,
Trước khó khăn nguy hiểm chẳng sờn lòng,
Trong sung sướng chẳng cho tàn lữa dũng.
Trải bao luợt đương đầu cùng bão sóng,
Sau mấy lần hưng thịnh tiếp suy vong,
Sống luôn luôn mạnh mẽ, giống Tiên Rồng
Đã nổi tiếng kiêu hùng trên đất Á.
Người dân Việt với tinh thần sắt đá
Không bao giờ quên tổ quốc thiêng liêng,
Lớp này suy, lớp khác tiến ngay lên
Giữ hàng ngũ đấu tranh luôn chặt chẽ.
Trong trận đánh muôn đời không lúc nghỉ
Của giống nòi Hồng Lạc, hạng thanh niên..."


Những người trẻ, thanh niên Việt Nam hãy đứng lên đáp lời sông núi, bao thế hệ đã âm thầm luôn luôn cố gắng, đem máu xương tô điểm non sông, và nâng cao danh dự giống Tiên Rồng, hãy kiêu hãnh những trang sử Lạc Hồng:

"Từ trước đã âm thầm luôn cố gắng
Đem máu xương tô điểm cảnh non sông
Và nâng cao danh dự giống Tiên Rồng.
Thanh niên Việt từ nghìn xưa dũng mãnh
Đã xây đắp cho nước nhà cường thạnh
Đỡ giang sơn trong những lúc khuynh nguỵ
Sử Lạc Hồng từ trước đã từng ghi:
Thanh niên Việt là trụ đồng nước Việt."


Ðằng Phương Nguyễn Ngọc Huy giữ tình nghĩa thâm sâu với mọi cộng sự viên, ông được mến mộ và kính nể sau bao năm rời cõi dương thế, người người vẫn luyến tiếc, nhắc nhở ông từ tài danh đến đức độ, ông là người của quần chúng. Bút mực vẫn dành cho ông những lời trang trọng về con người của tâm đạo, của gương hy sinh cho nước nhà, của những trí tuệ uyên thâm và của những tư tưởng vì đại nghĩa, những suy tư vì tiền đồ của dân tộc:

“Suốt mấy nghìn năm giống Lạc Hồng
Đã cùng hợp sức đắp non sông,
Đã cùng chung sống trong thân ái
Và phải chung mưa nắng bão bùng”


Hiểm họa Đại Hán từ ngàn năm vẫn đe dọa chúng ta, chống giặc ngoại xâm phương bắc được nhắc nhở trong thơ:

“Dưới ách Trung Hoa mấy bạo tàn,
Tinh thần cố kết vẫn không tan,
Toàn dân hợp lực lo tranh đấu,
Cho đến khi ca khúc khải hoàn”


Những dòng cuối nói về người thầy của tôi, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đã suốt đời tận tụy phụng sự quốc gia, lo lắng cho sự tồn vong hay sinh tồn của dân tộc. Những ngày cuối đời Thầy vẫn chưa gác kiếm nghỉ ngơi, dù rằng cơn bệnh ung thư hoành hành đau đớn, Thầy Huy mang tâm niệm kết hợp tập thể tranh đấu cho quê hương:

"Lúc bước chân vào nẻo đấu tranh,
Trên đầu mái tóc hãy còn xanh,
Nửa đời nếm đủ mùi cay đắng,
Giấc mộng ngày xưa vẫn chửa thành"


Cho đến lúc sức yếu hơi tàn, niềm tin trong ông vẫn lạc quan cho một ngày mai Việt Nam tươi sáng, một ngày mai ca khúc khải hoàn quang phục quê hương:

"Ta hãy cười lên đón ánh dương,
Ngày mai sẽ chói rạng quê hương,
Lòng ta đã thoáng nghe văng vẳng,
Tiếng khải hoàn ca đậy phố phường"


Lời kết:


Những nhà cách mạng, những chí sĩ chọn nghiệp tranh đấu cho quê hương, vì giang sơn, vì tổ quốc, như chí sĩ Phan Bội Châu sáng lập Duy Tân Hội, và phát động Phong Trào Duy Tân chống thực dân Pháp, khi bị bắt bỏ tù, Người làm thơ chữ Nôm "Vào ngục Quảng Châu", vẫn ngạo nghễ đầy nét dí dỏm:

"Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Ðã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân nọ vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu."


Và như Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học của Việt Nam Quốc Dân Đảng lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930. Cuộc khởi nghĩa bất thành, nhưng người hùng nước Nam cho mọi thời đại, dõng dạc kết luận những hành vi của mình không hối tiếc: "Không thành công cũng thành nhân".

Đôi dòng kết luận này như nén hương lòng kính gởi Thầy Nguyễn Ngọc Huy. Xin cám ơn Thầy, biểu tượng cho một tấm gương sáng ngời vì đại nghĩa và một tinh thần sĩ khí xả thân vì đại cuộc. Ngày 28 tháng 7 năm 1990 Thầy đã ra đi tại Paris, Pháp Quốc,  Tổng Thống Hoa Kỳ George H.W. Bush đã gởi thơ chia buồn kể về Thầy: "...để lại phía sau một cuộc đời phục vụ tận tụy cho dân tộc Việt Nam... xứng đáng làm gương cho các thế hệ mai sau".

Thật vậy, Thầy là một tấm gương cho các thế hệ mai sau.

Trần Việt Hải
Back to top
 
 
IP Logged
 
TuyetNgo
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 508
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #46 - 24. Aug 2011 , 04:58
 



   Tìm gặp những Anh Hùng…

by nguoibatcao 


NBC post lên chuyên mục này vì thấy rằng trong xã hội nhiễu nhương vô cảm của chế độ csVN hiện nay, thì vẫn còn đó và còn rất nhiều những tấm lòng kính trọng đối với các anh hùng tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những người đã hy sinh xương máu và cuộc sống của mình cho chính nghĩa Quốc Gia. Đáng kính thay !

...

...



Trong cuộc chiến vừa qua,dù rằng đã hơn 36 năm nhưng những chuyện kể về sự chiến đấu kiêu hùng của những người Lính,vẫn còn được nhắc đến qua lời kể của người Dân sở tại và đây là câu chuyện về những người Lính Nhẩy Dù đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Mời Quý Vị theo dõi…

Tìm…

Những ai đã từng sống tại Thị Xã BàRịa_Vũng Tàu hoặc có dịp đi qua con đừơng này, đối diện Nghĩa Trang Liệt Sĩ Bà Rịa_Vũng tàu, có 04 ngôi mộ (không có bia) trong vườn nhà ông Hai Lì,đã có mặt từ ngày 01-05-1975 cho đến nay…

Từ nguồn tin của người dân ở Thị Xã Bà Rịa-Vũng Tàu nói về sự linh ứng của 04 ngôi mộ này,theo họ cho biết đó là những Ông Lính bận đồ rằn ri,chiến đấu cho đến trưa ngày 01-05-1975 rồi cùng nhau tự sát… cũng vì thế để tìm hiểu thực hư,sau gợi ý của Hùng Bảy Lổ (Canada) với sự bàn thảo của Anh Lâm Viên 20,chúng tôi với sự dẫn dắt,giới thiệu của MĐ Vẽ 91 lên đường đến tận nơi 04 ngôi mộ,chúng tôi gồm có MĐ Đẹp 83(TPB cụt môt chân),MĐ Thành 31,MĐ 93 và MĐ 90.

Kìa… vườn nhà ông Hai Lì nơi có 04 ngôi mộ,theo lời MĐ Vẽ nói về ông Hai Lì rất dữ dằn,khó chịu (Dân Cách Mạng) nên chúng tôi hơi chùn lòng,sợ bị làm khó dễ. Điều linh ứng đầu tiên mà chúng tôi cảm nhận được là sau lời vái của MĐ Đẹp;

”Xin vái với Các ANH sống khôn,thác thiêng hãy tạo thuận lợi cho chúng tôi là những đồng đội cũ, tìm đến để đưa Các Anh về chùa nhang khói,hy vọng những thân nhân của Các Anh sẽ sớm nhận được tin này”.

Khi bước vào vườn nhà, tức thì ông Hai Lì xuất hiện với nụ cười trên môi,niềm nở tiếp đón anh em chúng tôi (không hề có sự khó khăn nào) và hình như ông ấy đã biết rỏ ý định của chúng tôi là xin bốc 04 ngôi mộ (vì lúc đó MĐ Đẹp bận quần trận Hoa Rừng) ông Hai Lì nói:

“Tôi đã chôn cất mấy Ông này từ ngày 01-05-75, hơn 36 năm ,tôi chờ đợi thân nhân mấy Ông này nhưng không thấy,hằng năm tôi vẫn thừơng nhang khói,đắp mộ cho mấy Ông này,nay các anh là đồng đội tìm đến ,tôi rất vui và tôi hứa sẽ tạo mọi điều kiện cho các anh bốc mộ,đừng ngại gì cả”.

Được lời như mở tấm lòng,chúng tôi xin ông vui lòng kể lại sự việc,vì sao có 04 ngôi mộ này. Theo lời Ông Hai Lì kể:

”Tôi là dân Gia Đình Cách Mạng, mấy Ông Rằn Ri này gan lì lắm,mấy Ổng chống đến cùng dù có lệnh đầu hành của Tổng Thống Dương Văn Minh 30-04-1975,mấy Ổng chiến đấu cho đến trưa 01-05-1975 rồi cùng nhau tự sát và chính tôi là người chôn cất mấy Ổng,giấy tờ từng Ông tôi bỏ vào một cái hộp chôn theo các Ông”.

Ngừng một lát, ông Hai Lì kể tiếp với giọng nói pha chút thán phục:

”Mấy Ổng linh lắm,nhiều năm trước thỉnh thoảng có những người đến mộ cầu xin,đều được linh ứng nên mọi người quanh đây rất kiêng nể. Có những kẻ “vô ý thức” khi đi ngang qua đây,chỉ trỏ,bi bô với giọng điệu chế nhạo “mả mấy thằng lính Ngụy’’ đều bị báo ứng như té xe, tông cột đèn,trầy tay,trẹo chân…vì thế,ngày nay có mấy anh đến thăm và di dời mấy Ổng về chùa,tôi sẽ đứng ra chịu trách nhiệm cho các anh,các anh cứ làm, đừng ngại gì cả,tôi sẽ giúp với tất cả tấm lòng".

Chúng tôi cùng lặng người khi nghe kể về Các Anh,kính phục các Anh đã TẬN TRUNG BẢO QUỐC. Những Anh Hùng vì nước quên thân,khí hùng tử Anh Hùng nào tử. Khi sống, chiến đấu hiên ngang cho đến khi khí tàn,sức kiệt chọn cái chết để bảo toàn Danh Dự và khi tử tiết đã hiển linh cho mọi người cùng thấy và chúng tôi nguyện với lòng sẽ đem các Anh về nơi yên bình ,sớm hôm nghe Kinh Phật ngõ hầu linh hồn Các Anh được siêu thoát khỏi cõi đời ô trọc này.

Xin nguyện cầu Anh Linh Các Anh dẫn lối đưa đường để những người thân yêu của Các Anh sớm tìm gặp lại Các Anh. Chúng tôi những người Đồng Đội cũ,đến đây với Các Anh với tấm chân tình,huynh đệ chi binh…ngày nay chúng ta đã mất tất cả nhưng không bao giờ mất được Tình Đồng Đội…hơn 36 năm nằm đây,các Anh là những Chiến Sỹ Vô Danh nhưng từ hôm nay các Anh sẽ được Vinh Danh trong Quân Sử,những ANH HÙng trong QLVNCH nói chung và làm rạng danh THIÊN THẦN của Binh Chủng,một tay cũng đánh,một cánh cũng bay…

Gặp Lại…

Nơi các Anh nằm xuống(trong vườn nhà của Ông Hai Lì) đối diện là Khu Nhà Đá của Pháp để lại(bây giờ là NTLS tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) cách Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp khoảng vài trăm mét, nay là Phường Long Tâm,TX Bà Rịa -Vũng Tàu có một toán lính Nhẩy Dù đã kháng cự mãnh liệt cho đến tận trưa ngày 01-05-1975 rồi cùng gục ngã bất chấp lời kêu gọi đầu hàng của TT Dương Văn Minh vào trưa 30-04-1975,chính sự chiến đấu kiêu hùng đó đã làm cho Ông Hai Lì thán phục,tinh thần Vì Nước Quên Thân và sự hy sinh cao cả của Các Anh đã xóa mờ lằn ranh thù hận và cũng chính Ông là người đã chôn cất 04 mộ phần này trong khu vườn của Ông và giữ gìn cho đến ngày hôm nay, chúng tôi xin chân thành cám ơn Ông đã chăm sóc những Đồng Đội của chúng tôi, ông Hai Lì là một người tốt đã tạo điều kiện dễ dàng để chúng tôi tìm gặp Các Anh và thuận lợi thứ hai là khi nói chuyện với Vị Sư Trụ Trì gần đó,sau khi nghe kể rõ mọi sự tình như nói ở trên,Ngài Sư Trụ Trì hứa sẽ chấp nhận cho các Anh vào Chùa mà không đòi hỏi khoản chi phí nào và hứa khi thân nhân các Anh tìm gặp sẽ tạo mọi thuận lợi cho các thân nhân của các Anh tùy nghi đem về hoặc để lại Chùa nhang khói cũng được. Mọi việc coi như êm xuôi,chỉ còn chờ ngày tốt để đem các Anh vào Chùa.

Cuộc chiến đã trôi qua hơn 36 năm… những đắng cay, tủi nhục mà thân chiến bại từng nếm trải,vòng lao lý,kiếp gian truân,gian nan cực nhọc trên nẽo đường mưu sinh,người sống còn nhọc nhằn như thế huống gì người nằm xuống nơi chân trời, góc bể tưởng như đã bị quên lãng theo thời gian…ngày nay kiếm tìm được Đồng Đội ngã xuống nơi này là cả một công sức của những người có tâm huyết vì Đồng Đội,không một chút tư lợi, không chút lợi danh mà chỉ muốn đưa Các Anh về với gia đình ngừơi thân,hơn thế nửa Vinh Danh các Anh những ANH HÙNG trong cuộc chiến bi hùng này.

Người ngoài cuộc còn biết thán phục ,biết vị nể,còn có tấm lòng huống chi chúng ta là những người từng đội chung màu Nón Đỏ,lẽ nào làm ngơ!!! Xin hãy chung tay giúp sức cho những Đồng Đội còn ở Quê Nhà có điều kiện thăm hỏi,an ủi nhau lúc ốm đau,bệnh tật,lúc tuổi già bóng xế, những TPB còn lây lắt,mưu sinh giữa dòng đời nghiệt ngã,những người mà máu xương của họ đã tô thắm dãi đất này.

Xin thắp nén nhang, kính cẩn dâng lên các hương hồn những Chiến Sỹ đã hy sinh vì Tổ Quốc. Những Anh Hùng đã âm thầm ngã xuống cho Quê Hương,xin mãi mãi tưởng nhớ và Vinh Danh Các Anh những Chiến Binh can trường ,lẫm liệt,lấy cái chết để bảo toàn Danh Dự.

Những Anh Hùng…

Trời tờ mờ sáng(19-08-2011)chúng tôi rời Saigon trực chỉ BàRịa- Vũng Tàu,đến nơi Các Anh yên nghĩ trong khu vườn nhà của Ông Hai Lì thuộc Thị Xã Bà Rịa-Vũng Tàu ,tỉnh BàRịa- Vũng Tàu.Đến nơi, mọi người trong Nhóm Bốc Mộ đã hiện hiện đầy đủ, nghi thức cúng vái,cầu xin mọi việc được suông sẻ do Sư Trụ Trì Chùa đảm trách.

Công việc bốc mộ được tiến hành,tất cả mọi người cùng hồi hộp chờ đợi từ nhát cuốc đầu tiên chạm vào ngôi mộ,sau đó hé lộ dần những hình hài của Các Anh đã chôn vùi nơi đây hơn 36 năm dài đằng đẳng…không Quan Tài,mà cũng chẳng có PONCHO bọc xác,chẳng còn gì với cát bụi thời gian, ngoài những mảnh xương tàn,quần áo đã mục nát …chúng tôi cố tìm những mảnh giấy tờ đã được chôn theo Các Anh sau khi đã lượm lặt từng khúc xương còn xót lại,rồi cho vào từng hủ sành, ghi tên Các Anh, gởi vào Chùa và cầu xin cho Các Anh được siêu thoát khỏi chốn dương trần đầy khổ đau, tủi nhục này và điều mong muốn mãnh liệt nhất là thân nhân Các Anh sớm tìm gặp lại Các Anh sau bao năm dài vẳng bặt tin tức…

Trong lúc bốc mộ cũng có một số người dân đến xem tỏ ý thán phục trước tinh thần quả cảm,chiến đấu anh dũng của Các Anh nên đã tình nguyện phụ giúp lúc bốc mộ và Ông Hai Lì cũng xúc động trước tinh thần Đồng Đội của Nhóm Bốc Mộ chúng tôi, sau bao nhiêu năm vẫn còn giữ được tình cảm này,không bao giờ quên nhau,không ngại đường xá xa xôi, khi nhận được tin đã hết lòng lo cho nhau. Sự chân thành của ông làm chúng tôi cũng hãnh diện phần nào vì Các Anh,những Anh Hùng đã ngã xuống cho Quê Hương…nhưng thế Nước, vận Trời đã làm cho chúng ta ly biệt và mãi đến nay mới có cơ hội được Vinh Danh Các Anh.

Tất cả mọi người cùng ứa lệ mừng vui khi tìm được những tấm thẻ bài, giấy tờ, tên tuổi Các Anh …và đây là những vị Anh Hùng của chúng ta:

-Ngôi mộ thứ nhất: Có Thẻ Bài tên TRƯƠNG VI CỬ SQ: 75/115.815 LM:O Nón Sắt,đầu Bút Nịt.

- Ngôi Mộ thứ hai: có Thẻ Bài tên VÕ QUANG HẰNG SQ: 68/123.320 LM:B Nón Sắt, dây nịt.

- Ngôi Mộ thứ ba: (gồm có 02 người) trong đó Một Vô Danh không Thẻ Bài và có Nón Sắt.

Người thứ hai tên là: có Thẻ Bài tên: TRẦN VĂN HÀ SQ: 67/824.827 LM:O Nón Sắt

Và Một số giấy tờ như: Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Nhẩy Dù Khóa 298, mãn khóa ngày 21-04-1973.

02 Quyết Định Thăng Cấp của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù/Ban 1: do Tr/tá Lê Hồng ký và Th/tá Châu ký.

01 Chứng Chỉ đã học khóa Phòng Hỏa do Trung Tâm Tiếp Vận Vùng 3 ký, cùng một số Hình Ảnh (đã phai mờ theo thời gian)nhưng cũng tạm xem được,có hình đội nón Đỏ,áo Nhẩy Dù.


Những di vật này còn tồn tại là nhờ Ông Hai Lì,đã cẩn thận bọc thêm nhiều lớp bao Nylon và nhét vào một ống nhựa khi chôn, nhờ sự chu đáo của Ông mà hôm nay chúng ta mới đọc được những dòng chử này và chứng tỏ các Anh nằm tại đây là Lính Nhẩy Dù.

Sau khi Bốc mộ xong, chúng tôi đã đem 04 hủ cốt gởi Chùa Báo Ân. Địa chỉ: Khu Công Nhân,Thị Trấn Ngãi Giao,huyện Châu Đức, Bà Rịa-Vũng Tàu.

...

...


Còn các Di Vật và giấy tờ liên quan kể trên, chúng tôi nhờ MĐ Đẹp giữ.
Nếu tình cờ Quý Vị nào hoặc ai đọc được tin tức này hoặc cần biết thêm chi tiết cụ thể, xin vui lòng liên lạc theo số Phone,dưới đây:

Nguyễn Văn Thành ĐT: 01645462458

Lê Văn Đẹp ĐT: 01684118839

Kính nhờ Quý Anh và tất cả mọi người phổ biến tin tức này, hy vọng Các Anh sẽ sớm gặp lại người thân.    Kính chúc tất cả mọi người luôn An-Mạnh.

Saigon- Bà Rịa-Vũng Tàu
Ngày Bốc Mộ 19-08-2011


nktvx.blogspot.com


Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #47 - 05. Sep 2011 , 21:19
 
Nghề Luật sư tại Việt Nam



Luật sư Huỳnh Văn Đông

Trong quá trình hành nghề luật sư, tôi nhận ra một sự thật rất đau đớn mà đã có lần tôi muốn từ bỏ nghề Luật sư. Pháp luật Việt Nam được các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam áp dụng một cách vô pháp. Đặc biệt, đối với những vụ án chính trị.

Tôi đã được tham gia nhiều vụ án chính trị từ Bắc đến Nam, tất cả đều có một đặc điểm chung là:

Vụ án không có chứng cứ hoặc chứng cứ không chứng minh được hành vi phạm tội của các bị cáo;

Bản án dành cho các bị cáo không dựa trên các chứng cứ khách quan và trên cơ sở tranh luận;

Lối suy diễn mang tính chủ quan được cơ quan Công An, Viện Kiểm Sát, Tòa Án Việt nam áp dụng một cách triệt để nhằm kết tội những người đấu tranh đòi tự do, dân chủ cho Việt nam.

Chính phủ Việt Nam đã đi ngược hoàn toàn với những gì đã được quy định trong Hiến pháp và Công ước Quốc tế về các quyền chính trị và dân sự. Ở Việt Nam quyền được bày tỏ những quan điểm không giống nhà nước hầu như bị truy tố và xét xử bằng những điều luật hết sức mơ hồ (điều 88, 79 Bộ Luật Hình Sự) hay nói một cách cụ thể, ở Việt Nam các quyền con người không được Nhà nước tôn trọng.

Một thực tế rõ ràng mà ai cũng nhận thấy ngày càng nhiều các nhà trí thức, luật sư, luật gia đi tù chỉ vì bày tỏ quan điểm cá nhân của mình, thậm chí quyền yêu nước cũng phải chờ được nhà nước cho phép.

Các đòi hỏi về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do thành lập đảng… là những đòi hỏi mang tính “xa xỉ” hiện tại ở Việt Nam.

Các thuật ngữ: “duyệt án”, “án bỏ túi”, “án định sẵn”… không xa lạ với người quan tâm đến nền tư pháp Việt Nam.

Trước thực tế như thế, Luật sư khi tham gia các vụ án chính trị luôn bị hạn chế về quyền khi thực hiện nhiệm vụ. Vai trò tích cực nhất của Luật sư trong các vụ án này chỉ là cầu nối giữa gia đình với bị can, bị cáo đang bị giam giữ nhưng rất ít Luật sư đủ can đảm để làm công việc này. Bởi một lẽ, (trong một giai đọan dài kể từ sau năm 1975 người ta đã quen phiên tòa không luật sư, và sau thời gian đó, người ta lại hiểu Luật sư chỉ là người chạy án hoặc xin giảm nhẹ, khoan hồng) hậu quả cho những Luật sư có tâm huyết với nghề khi tham gia các vụ án này đều không sáng sủa; nhẹ thì bị tước quyền hành nghề, nặng thì bị đi tù (Ls Lê Quốc Quân, Lê Trần Luật, Nguyễn Văn Đài, Lê Công Định, TS Cù Huy Hà Vũ, LG Tạ Phong Tần…)

Trên quan điểm của mình, tôi không chấp nhận Luật sư chỉ là cây cảnh, vật trang trí để cho cơ quan tư pháp sử dụng nhằm phô diễn nền dân chủ giả hiệu và càng không chấp nhận trở thành diễn viên để cùng hợp diễn vỡ tuồng dựng sẵn. Vì thế, tiếp nối các bước cha, anh đi truớc tôi đã chấm dứt tư tưởng bỏ nghề. Tôi vẫn tiếp tục tham gia các vụ án để đạt được mục đích; Công lý phải được thực thi, pháp luật phải được đưa vào cuộc sống.

Không thể nào Hiến pháp lại chịu sự chi phối và áp đặt của luật cũng như các văn bản dưới luật. Không thể nào, trong một xã hội dân chủ, văn minh khi công dân thực hiện quyền căn bản của mình theo quy định tại điều 69 của Hiến pháp lại phải bị tù đày bởi các điều 79.88, 257, 258… của Bộ Luật Hình Sự.

Nhà nước là của dân, do và vì dân nhưng khi người dân lên án những hành vi trái luật của cơ quan nhà nứơc một cách ôn hòa lại bị chính quyền đàn áp một cách dã man rồi nhà nước lại gán cho những con người đó có hành vi gây rối, hủy họai tài sản. Nếu chính quyền hành xử đúng luật, theo nguyện vọng của nhân dân thì làm gì có chuyện hàng chục người được Cao ủy LHQ cấp quy chế tỵ nạn, đâu có 02 vuờn hoa ô nhục như nhiều người đã thấy, đã nói. Thái Hà, Cồn Dầu là hai vụ án điển hình minh chứng cho sự đàn áp thô bạo nhất ở đầu thế kỷ XXI mà mọi người đã thấy. Khi nạn nhân lên tiếng tố cáo, phê phán việc bị hành xử trái luật của Công an, phê phán thái độ hèn nhát trước sự xâm lăng của ngọai bang thì bị cho là tuyên truyền chống nhà nước. Quyền gia nhập tổ chức, đảng phái không phải là đảng cộng sản theo hiến pháp và luật pháp quốc tế bị quy kết họat động nhằm lật đổ chính quyền.

Qua những vụ án trên cho thấy, công dân Việt Nam muốn “yên thân” thì phải biết im lặng trước mọi bất công của xã hội hoặc phải hùa theo chúng. Nếu muốn bài trừ phải được sự cho phép của Nhà nước ngay cả biểu thị thái độ và tinh thần yêu Tổ quốc cũng phải chờ nhà nuớc “cấp phép” nếu không sẽ bị cho rằng nghe theo lời xúi dục, kích động của các thế lực thù địch, chống phá. Dưới con mắt của Nhà nước, công dân Việt thật là trẻ con, ngô nghê nếu không muốn nói là ngu dốt.

Nước Việt thật oai hùng và Dân Việt thật bất hạnh.

Tôi là con dân Nước Việt nên tôi có quyền và có nghĩa vụ yêu tổ quốc mình, yêu dân tộc mình nên khi Tổ quốc mình bị tổn thuơng, dân tộc mình bị bách hại dù với trình độ của người Luật sư còn kém cỏi như tôi nhưng tôi vẫn phải có nghĩa vụ bênh vực, cổ xúy cho lẽ phải dù việc làm này mang đến cho tôi nhiều rủi ro mà ai cũng có thể biết trước.

Ai đó đã nói rằng: “Tự do, công lý không phải là món quà từ Trời rơi xuống, muốn có được nó, cần phải có sự đấu tranh”. Và chẳng có sự đấu tranh nào không mất mát.

Sống trong một đất nước còn thiếu tự do và công lý đang bị chà đạp một cách thô bạo thì nghĩa vụ của người Luật sư có lương tâm cần phải lên tiếng. Tiếng nói có thể đơn lẻ, tiếng nói có thể lạc lõng giữa đám người đã đạt tới “đỉnh cao trí tuệ” nhưng tiếng nói đó thật cần thiết vì nó đúng với lương tâm và trách nhiệm.

Luật sư Huỳnh Văn Đông
Back to top
« Last Edit: 05. Sep 2011 , 21:19 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #48 - 22. Sep 2011 , 12:14
 



Chuyện chưa kể của một nữ phi công cảm tử


...

Bấm vào hình


Khi vụ khủng bố kinh hoàng ngày 11/9 diễn ra trên đất Mỹ, Heather Penney là một trong những nữ phi công đầu tiên được vội vã điều lên trời để tiêu diệt những chiếc máy bay đã bị không tặc khống chế. Vấn đề là máy bay của Penney không có vũ khí và để hoàn thành nhiệm vụ, cô không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đâm thẳng vào mục tiêu.


Sáng sớm ngày 11/9 lịch sử ấy, thiếu uý Heather “Lucky” Penney đang ở trên đường băng ở Căn cứ không quân Andrews và đã sẵn sàng tung cánh lên trời. Tay cô cầm vào cần lái chiếc F-16 và cô đã nhận được chỉ thị rõ ràng: bằng mọi giá phải bắn hạ chuyến bay số 93 của hãng hàng không United Airlines.


Chuyến bay một đi không trở lại

Heather Penney đã suýt trở thành nữ
phi công cảm tử trong ngày 11/9
Penney là 1 trong 2 phi công duy nhất đã được lệnh ngăn chặn chiếc máy bay. Nhưng điều đặc biệt nằm ở chỗ cô cất cánh khi chiếc F-16 hoàn toàn không có đạn thật, hay tên lửa, hay bất kỳ thứ gì có thể giúp bắn hạ chiếc máy bay bị cướp. “Chúng tôi không thể bắn hạ chiếc máy bay. Chúng tôi sẽ đâm vào nó" - Penney nhớ lại ngày đó - "Việc này cũng có nghĩa tôi sẽ trở thành một nữ phi công cảm tử".
Trong nhiều năm, Penney đã không trả lời phỏng vấn về các trải nghiệm của cô liên quan tới sự kiện 11/9. Nhưng nhân lễ kỷ niệm 10 năm sự kiện này, cô đã có cuộc trò chuyện với tờ Washington Post, qua đó hé lộ đáp án cho câu hỏi: nước Mỹ và cụ thể là quân đội Mỹ đã có hành động đáp trả lập tức lại việc bị tấn công ra sao. “Chúng tôi phải bảo vệ không phận Mỹ bằng mọi cách có thể" - Penney nói khi tiếp phóng viên tại văn phòng ở công ty Lockheed Martin, nơi cô đang làm giám đốc chương trình máy bay chiến đấu F-35 của Mỹ.

Penney, giờ là thiếu tá và không còn phải bay các nhiệm vụ chiến đấu nữa. Nhưng cô cũng đã có 2 lần tham chiến ở Iraq và là phi công bán thời gian của lực lượng Vệ binh Quốc gia, với công việc thường là đưa các vị khách VIP đi vòng quanh trên một chiếc máy bay phản lực Gulfstream. Cô cũng thích bay lượn trên trời bằng một chiếc máy bay Taylorcraft sản xuất năm 1941 vào bất cứ khi nào có thời gian rảnh. Song hàng ngàn giờ bay ấy của cô không có lúc nào tạo cảm giác căng thẳng khủng khiếp như khi cô lái chiếc F-16 phóng lên ngăn chặn chuyến bay 93.
...


Ngày chiến tranh tìm đến với nước Mỹ

Trở lại thời điểm năm 2001, Penney vẫn là một lính mới ở Phi đội máy bay chiến đấu số 121 thuộc lực lượng Vệ binh Quốc gia ở thủ đô Washington. Có thể nói cô lớn lên trong mùi xăng của những chiếc máy bay. Cha cô từng bay những chiếc chiến đấu cơ trong chiến tranh Việt Nam.

Penney có bằng lái máy bay khi cô đang nghiên cứu văn học ở trường Purdue. Cô dự định trở thành một giáo viên. Nhưng khi quân đội mở một khoá huấn luyện đặc biệt để đào tạo các nữ phi công chiến đầu tiên, cô đã tham gia và gần như trở thành người đầu tiên trong danh sách. “Tôi đã xin nhập ngũ ngay lập tức. Tôi muốn trở thành phi công chiến đấu giống cha" - cô tâm sự.

Trong ngày 11/9 định mệnh, Penney mới hoàn tất 2 tuần huấn luyện không chiến ở Nevada. Cả đội đang ngồi ở trong phòng nghe tóm tắt nhiệm vụ thì có người xuất hiện và thông báo một chiếc máy bay mới đâm vào toà cao ốc Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) ở New York. Ban đầu tất cả phỏng đoán có thể một gã amatơ nào đó lái máy bay hạng nhẹ Cessna và gây chuyện. Nhưng khi máy bay tiếp tục đâm vào toà tháp còn lại, tất cả hiểu ra rằng chiến tranh đã tìm tới với nước Mỹ.

Trong những giờ bị tấn công bất ngờ đầu tiên, Penney và các đồng đội không thể nhận được một mệnh lệnh rõ ràng.Khi đó hầu như không có một chiếc máy bay có vũ trang nào đang ở trạng thái sẵn sàng hoạt động và cũng không có hệ thống chỉ huy nào ra lệnh cho chúng bay tới Washington. Cho tới trước ngày 11/9, tất cả các con mắt phòng ngự đều chỉ quét qua những vùng trời có khả năng xuất hiện máy bay và tên lửa từ các nước "thù địch", giống thời Chiến tranh Lạnh.
Những hình ảnh kinh hoàng về vụ khủng bố 11/9 vẫn tiếp tục làm người Mỹ
nhói đau, dù đã một thập kỷ trôi qua

“Chúng tôi hoàn toàn không có nhận thức về một mối đe doạ vào thời điểm đó, nhất là các đe doạ tới từ trong nước giống kiểu 11/9" - Đại tá George Degnon, Phó chỉ huy Phi đoàn số 113 nói. Ông cho biết mọi chuyện giờ đã rất khác và mọi thời điểm luôn có 2 chiếc máy bay trực chiến và các phi công không được ở cách chúng quá vài mét.

Khi Penney và các đồng đội chưa biết phải làm gì thì có tin về chiếc máy bay thứ 3 đâm vào Lầu Năm Góc và có thể một chiếc thứ 4 hoặc hơn nữa sẽ lặp lại hành động này. Các máy bay chiến đấu có thể được vũ trang trong vòng 1 tiếng đồng hồ. Nhưng ngay lúc đó, người ta cần có sự hiện diện của các chiến đấu cơ trên bầu trời, dù chúng có vũ khí hay không.


Một nhân chứng tình cờ của lịch sử


...

...

...

Marc Sasseville


“Lucky, cô đi với tôi" - chỉ huy phi đội Marc Sasseville hét lên với Penney. Cả 2 mặc đồ bay và khi mắt họ gặp nhau, Sasseville liền cất lời: "Tôi sẽ đâm vào khoang lái". Penney trả lời không chần chừ: "Tôi sẽ đâm vào phần đuôi". Đó là một kế hoạch của 2 người, đồng thời giống như một "thoả thuận chết chung".

Penney chưa bao giờ được bay trong tình trạng gấp gáp như vậy. Thường các phi công phải trải qua hoạt động kiểm tra và chuẩn bị kéo dài khoảng nửa tiếng trước khi bay. Cô định lặp lại đúng quy trình ấy thì Sasseville hét lên: "Lucky, cô làm cái quái gì thế. Nhấc mông lên máy bay đi nào".

Penney vội vã trèo lên chiếc F-16, tăng ga cho động cơ, đồng thời hét to với đội mặt đất gỡ những miếng chêm nằm dưới bánh máy bay ra. Chiếc tai nghe của trưởng nhóm mặt đất vẫn mắc lại trên thân máy bay khi Penney bắt đầu tăng tốc. Ông này phải vội vã chạy theo máy bay để gỡ ra các nút an toàn, khi nó đã lăn bánh trên đường băng. Penney thì thầm một lời cầu nguyện của các phi công chiến đấu - Thượng đế, xin đừng cản bước con - và theo Sasseville lao vút lên trời xanh.

Cả 2 bay về hướng Lầu Năm Góc với tốc độ lớn, ở độ cao thấp, vừa bay vừa nhìn ngó để tìm các máy bay khả nghi. Sasseville đã bình tĩnh hơn và bắt đầu bàn kỹ hơn về việc 2 người sẽ lao vào đâu để tiêu diệt chiếc máy bay bị cướp. "Chúng tôi không được huấn luyện để bắn hạ máy bay dân dụng" - Sasseville nhớ lại - "Nếu anh hạ được động cơ, máy bay vẫn có thể tiếp tục lướt trên không như tàu lượn và tiếp tục đâm vào mục tiêu. Vì thế tôi đã nghĩ tới việc đâm vào khoang lái hoặc cánh".

Ông nói rằng đã tính tới việc sẽ giật cần thoát hiểm ngay trước khi va chạm với máy bay khả nghi. Penney thì lo lắng về việc cô sẽ đâm trượt mục tiêu nếu sử dụng lựa chọn thoát hiểm. "Nếu anh thoát ra ngoài và chiếc máy bay của anh hụt mục tiêu cần đâm vào, cảm giác thất bại sẽ còn kinh khủng hơn nhiều những suy nghĩ về cái chết" - cô tâm sự.

Nhưng Penney đã không phải chết. Cô cũng không phải đâm vào chuyến bay số 93 vốn chở đầy trẻ em, doanh nhân và các cô gái trẻ xinh đẹp. Họ đã tự làm điều đó. Vài giờ sau khi cất cánh, Penney và Sasseville mới biết rằng chuyến bay số 93 đã đâm xuống Pennsylvania, sau khi các hành khách trên máy bay có chung một quyết định giống họ: làm mọi thứ để ngăn không cho bọn khủng bố thành công.

...


...


"Những người hùng chính là hành khách trên chuyến bay số 93, các cá nhân đã sẵn lòng hy sinh bản thân" - Penney bùi ngùi nói - "Tôi chỉ đóng vai trò một nhân chứng vô tình chứng kiến lịch sử".

Tường Linh
More information about Heather Penney, click a link below:
http://www.dailymail.co.uk/news/article-2035704/9-11-anniversary-Heather-Penneys...
Back to top
« Last Edit: 22. Sep 2011 , 13:56 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: :: Secret :: Truth ::Sadness ::Faith :: Happiness ::Respect :: Love ::
 
IP Logged
 
tícônương
Full Member
***
Offline



Posts: 110
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #49 - 08. Jan 2012 , 21:54
 

...


Victims of Communism Memorial Foundation trao tặng

Huy chương Tự Do Truman-Reagan cho anh hùng Trần Văn Bá

ngày 15 tháng 11 năm 2007 tai tòa đại sứ Hung Gia Lợi, Washington.DC, USA


Hơn 22 năm sau ngày Trần Văn Bá đền nợ nước, một huy chương tự do cao quý mang tên của hai vị Tổng Thống nổi tiếng chống cộng của Hoa Kỳ: TT Truman và TT Reagan, huy chương  từng trao tặng cho những nhà tranh đấu chống cộng sản trên thế giới như Lech Walesa, Vaclav Havel, Đức Giáo Hoàng John Paul II, TNS Joe Lieberman, William Buckley Jr., Elena Bonner, sẽ được Chủ Tịch VOCMF trao tặng cho Trần Văn Bá để vinh danh tấm gương kiên cường của anh

Ban biên tập “tranvanba.org” có nhận được nhiều bản dich qua việt ngữ bài phát biểu của ông Trần văn Tòng hôm 15 tháng 11 năm 2007 tại Tòa Đại Sứ Hung Gia Lợi tại Hoa Thinh Đốn, do nhiều bạn hữu đề nghi.
Chúng tôi xin đăng bài sau đây của dịch giả Tuyền Ngư

LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH

Ngày 15 tháng 11 năm 2007 ông Trần Văn Tòng đã có lời phát biểu bằng tiếng Anh, khi nhận lãnh huân chương tự do Truman-Reagan cho Trần Văn Bá, tại toà đại sứ Hung Gia Lợi ở Hoa Thịnh Đốn.
Sau đây là bản dịch của bài phát biểu đó, dựa trên toàn văn của hai bản tiếng tiếng Anh và tiếng Pháp được đăng trên website tranvanba.org.
Dịch giả đã thêm tựa đề cho các đoạn bài, đánh nghiêng và tô đậm một số câu để ghi nhận những ý tưởng trọng yếu của diễn giả.

                                                             TUYỀN NGƯ

__________________________________________________

Tôi xin cảm tạ quý vị. Thật là một vinh dự lớn cho tôi có mặt ở đây, hôm nay, để nhận lãnh giải thưởng này cho Trần Văn Bá.

Kính thưa ông chủ tịch,
Kính thưa ông đại sứ,
Kính thưa quý vị nghị sĩ,
Kính thưa quý vị quan khách,

Khi vinh niệm Trần Văn Bá, Sáng Hội đã mặc nhiên đưa Việt Nam trở về với các giá trị mà quí hội bảo trì, cùng với bổn phận đối với lịch sử mà quý hội đảm đương.
Những nhân vật lẫy lừng đã được quý Hội vinh danh trong quá khứ, là những tấm gương sáng chói của lịch sử cận đại.
Do đó, khi nhận lãnh vinh dự cho người em quá cố, tôi ý thức được rằng giải thưởng này vượt lên hẳn công trạng của một cá nhân.
Vì thế, để tỏ lòng tri ân và trong tinh thần thân hữu, tôi xin cố gắng nói rõ, một cách đơn giản nhất, Trần Văn Bá đã cưu mang thế nào cuộc chiến này và đã góp phần ra sao.

Bá đã đi vào cuộc chiến vì 3 động cơ rất giản dị: lý lịch, trách nhiệm, và hành động.


TRƯỚC NHẤT LÀ LÝ LỊCH

Bá là người Việt, chính xác là người miền Nam nước Việt. Lý lịch tinh thần chứ không chỉ về mặt địa dư.

Quý vị đều biết, làm người miền Nam nước Việt, lúc Bá sinh tiền, là một điều rất khó, vì người miền Nam bị phân xẻ bởi những nghịch cảnh sau đây :

--Trước tháng 4 năm 1975, tức là trước khi Sàigòn thất thủ, bị bộ máy tuyên truyền tinh vi của Cộng Sản mô tả là một loại “ngụy” tay sai của  “đế quốc Mỹ”, đồng thời ở chính tại xứ sở mình, phải hứng chịu cuộc chiến sách động khủng bố đẫm máu của cộng sản.
--Sau tháng 4 năm 1975, cũng cái bộ máy tuyên truyền đó quy là một loại trưởng giả ăn bám, một bọn nuối tiếc chế độ miền Nam cũ, không bảo vệ nổi tự do cho chính mình. Ở trong xứ, lại bị kẻ chiến thắng miền Bắc trả thù thâm hận.

Bá đã cảm nhận tận xương tủy số phận người miền Nam đó.
Lúc thiếu thời thì chứng kiến cha bị ám sát dã man khi ông đang dốc toàn lực để thiết lập hiến pháp cho Việt Nam Cộng Hòa.
Khi là sinh viên ở Ba Lê, Bá đã phải thường xuyên đối diện với hàng loạt biểu tình tung hô khẩu hiệu : “Hòa bình cho Việt Nam, đả đảo đế quốc, Mỹ hãy cút đi ”

Bá đã đảm đương khẳng khái lý lịch miền Nam của mình.

Bá khẳng định mình là con dân của quốc gia ấy, một quốc gia rất giàu về mặt nhân dân nhưng rất nghèo về mặt lãnh tụ. Với nhiệt tình và kiêu hãnh. Không phải vì chối bỏ người khác, mà là vì lòng thương yêu người cùng nguồn cội, đặc biệt những người đang sống trong tuyệt vọng. Không phải vì đầu óc địa phương hay bè phái, mà là với ý thức bén nhạy về vai trò lịch sử Miền Nam phải đảm đương.

Bá ý thức rằng, trong quá trình ngàn năm dai dẳng mưu tìm tự do và tiến bộ của dân tộc, Miền Nam nay đã hiển nhiên trở thành nơi trú ẩn tối hậu của dân tộc Việt, trước làn sóng xâm lăng uy hiếp của chủ nghĩa cộng sản toàn trị.
Bá tin tưởng chỉ có một miền Nam tự do mới có thể tạo căn bản và điều kiện cần thiết cho dân tộc Việt khắc phục một thách thức chưa từng được đặt ra cho bất cứ dân tộc nào trong lịch sử: kết hợp nhuần nhuyễn các ảnh hưởng đa dạng, vừa tác động trực tiếp lên quốc gia mình, vứa đối chọi lẫn nhau, của những nền văn minh lớn nhất nhân loại : Tàu, Ấn, Âu và Mỹ, để rồi từ đó thống nhất dân tộc và bước vào thế giới hiện đại như một quốc gia tự do và phú cường.

Bá cũng đã thấy rõ: trong thời điểm bấy giờ, tự do của nhiều dân tộc khác tùy thuộc vào sự kháng cự của dân miền Nam chống lại chính sách bành trướng của cộng sản.

Do đó, đối với Bá, tranh đấu cho miền Nam tự do là một chính nghĩa công minh và cao quý, và tất cả những ai đã dấn thân cho lý tưởng đó đều đáng được tri ân và tôn vinh, đặc biệt 58 000 quân nhân Mỹ đã bỏ mình vì chính nghĩa.


KẾ ĐẾN LÀ TRÁCH NHIỆM


Đảm đương lý lịch miền Nam, Bá đã khẳng khái nhìn nhận trách nhiệm của người Việt trong cái quốc nạn của mình.

Bá không thể chấp nhận cái thái độ tự xưng mình là người Việt tự do nhưng lại phủ nhận mọi trách nhiệm của người Việt trong sự sụp đổ của miền Nam.

Sau khi Việt Nam Cộng Hòa thất thủ, ta đã nghe biết bao lời cáo buộc hằn học về trách nhiệm của thảm họa nầy.

Có biết bao lời luận bàn về sự “ phản bội của người Mỹ ” và luôn cả trách nhiệm từ đầu của thực dân Pháp.

Tuy vẫn suy ngẫm về chính sách của các đại cường, Bá luôn bị ám ảnh bởi những thiếu sót của chính người Việt và những bài học cần phải rút tỉa từ đó.  Đối với Bá, một dân tộc hoài vọng cuộc phục sinh không thể không làm cố gắng sơ đẳng này trước lịch sử và cho chính mình.

Chính vì đảm đương cái lý lịch miền Nam, và cái trách nhiệm bắt nguồn từ đó, nên Bá, cùng một vài đồng chí, đã đứng lên, đơn độc, không lấy một cường quốc trợ giúp sau lưng, giữa điêu tàn, trong tuyệt vọng, ngược dòng tháo chạy tán loạn. Bá lớn tiếng tuyên bố : “ Ta còn sống đây. Ta chưa mất hết. Ta có thể tạo dựng lại tất cả. Tự Do có thể được phục hồi, Công Lý có thể thắng Cường Bạo.  Với một điều kiện : ta phải chấp nhận trả cái giá cần thiết.”

Bá xót xa nhìn xứ sở bị dày xéo bởi cái sách lược đàn áp của cộng sản. Mọi người đều biết rõ các sự kiện và con số:

100 000 người bị thủ tiêu, 300 000 người bỏ mạng trong các trại cải tạo, 600 000 thuyền nhân bị chết chìm hay bị hải tặc sát hại, cả một thế hệ đã bị đem làm vật tế thần cho chính sách bành trướng quân sự qua Căm Bô Chia.
Bá cảm thấy rằng trước ý đồ man rợ lăng nhục con người như thế, nếu chỉ đối phó lại bằng ước vọng và tinh thần mà thôi, thì hoàn toàn vô hiệu lực.
Lúc bị lưu đày tại đảo Sainte Hélène, Nả Phá Luân đã bật tiếng kêu lên : “Chỉ có hai quyền lực ở cõi đời này, tinh thần và đao kiếm. Và trên đường dài, tinh thần luôn luôn chiến thắng đao kiếm.”

Nả Phá Luân đã lầm lẫn (một lần nữa!). Tinh thần một mình không thể đối địch lại với đao kiếm. Tinh thần cần phải được liên kết với đao kiếm nếu muốn khắc phục cái loại đao kiếm chỉ được tuốt ra với mục tiêu hủy diệt.


SAU CÙNG LÀ HÀNH ĐỘNG

Bá ý thức rằng muốn bảo vệ cuộc sống và tự do con người, ta phải chấp nhận đi vào chiến tranh. Vâng, phải đi vào chiến tranh để chống lại nguồn gốc của chiến tranh. Độc tài thống trị của cộng sản ở Việt Nam là nguồn gốc chiến tranh. Sự trả thù và lòng thâm hận của cộng sản Hà Nội đối với nhân dân miền Nam là nguồn gốc của chiến tranh. Sách lược bành trướng quân sự điên rồ sang Căm Bô Chia và Lào là nguồn gốc của chiến tranh.
Và như thế, Bá đã quyết định cầm súng.

Bá đã trả cái giá.

Cái giá đó, trong trường hợp của Bá, là một phiên tòa bịp bợm và một đội hành quyết.

Bá đã đi vào cuộc chiến với một  ý niệm cao cả về phẩm giá con người. Và sau cùng, chính ở điểm này, Bá đã bồi đắp cho đất nước và cho những giá trị phổ quát, trái hẳn với lũ người được hận thù nhào nặn để lùa vào chiến tranh. Quân cộng sản Bắc Việt rốt cuộc cũng đã khám phá ra điểm khác biệt đó. Vào “giải phóng” Miền Nam, lắm kẻ đã bật khóc khi tiến chiếm Sàigòn : “đây chính là những người văn mình, và chúng ta ngoài Bắc, đúng là phường man rợ.”


TƯƠNG LAI CỦA VIỆT NAM

Tương lai của Việt Nam hiện vẫn bỏ ngỏ .

Điều chắc chắn là chế độ hiện hành với cái trật tự không tưởng và đầy mâu thuẫn của nó, tất yếu sẽ sụp đổ trong một thời hạn ngắn hay dài tùy theo những khúc mắc của các quyền lợi nội tại và ngoại lai, tuỳ theo sự ù lì và lụn bại của con người, tùy theo cái óc phù phiếm, cái tính thờ ơ và an phận của dân gian. Nhưng, cho dù có kéo dài đến đâu đi nữa, nó cũng không đủ thời gian để bám rể thâm sâu trên quê hương của chúng tôi.

Một điều chắc chắn khác: là quốc gia duy nhất trong lịch sử loài người, đã xây dựng quốc tịch của mình trên hai ý tưởng thuần tự do và công lý, Hoa Kỳ sẽ chối bõ lý lịch và phản lại quyền lợi sâu xa của mình, nếu Hoa Kỳ trợ giúp, dưới bất cứ hình thức nào, việc bảo trì một chế độ tiếm quyền và độc tài ở Việt Nam, bằng cách nuôi dưỡng những ảo tưởng của chủ thuyết thô lậu do Bismarck hay Richelieu khởi sinh, cái gọi là thuyết “Chính trị thực tế ”. Nếu làm như thế, Hoa Kỳ sẽ mất đi căn bản biện minh cho cuộc tranh đấu bảo vệ các giá trị và nền an ninh của mình, đồng thời cũng sẽ mất luôn những bạn hữu và chiến hữu kiên trì nhất.

Điều chắc chắn sau cùng: hiện nay tại Việt Nam cũng như khắp toàn cầu, vẫn có nhiều người tiếp tục tranh đấu cho tự do và sự thật, thường khi trong cô đơn, trong sự thờ ơ của thế giới. Và họ sẵn sàng, nếu cần, đón nhận thanh thản cái chết cho lý tưởng. Đó là những người ta phải yểm trợ, cho dù họ ở bất cứ nơi nào, và nhất là ở những nơi họ đang hy sinh. Dù thế nào chăng nữa, tôi cũng xin, với sự đồng thuận của quý Hội, chuyển nhượng cho những chiến sĩ ấy, và cho những người đã từng chia sẻ cuộc đấu tranh của Trần Văn Bá nhưng không hề nhận lãnh một ân thưởng nào, cái vinh dự mà quý Hội vừa ban cho người em quá cố của tôi.


KẾT LUẬN

Đến đây, tôi xin được phép kết luận với một vài điểm riêng tư:

Tôi tin chắc rằng Trần Văn Bá muốn thấy một phụ nữ thay thế tôi để nhận lãnh cái vinh dự được quý hội ban cho chiều nay.

Phụ nữ nầy, cách đây 23 năm, vào một buổi chiều Đông băng giá nhất của nước Pháp, đã đứng thẳng người trước sứ quán Hà Nội tại Ba Lê với một biểu ngữ ghi vỏn vẹn mấy chữ: “hãy cứu con tôi. ”

18 năm trước đó, bà đã chôn người chồng bị ám sát bằng súng giữa thanh thiên bạch nhật, khi ông sắp sửa ra tranh cử Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa.
Phụ nữ đó, cho đến khi nhắm mắt, vẫn khắc khoải chờ nhận xác con trai của mình.

Phụ nữ đó, chắc chắn có thể kể cho quý vị nghe, với tất cả lòng nhân ái, thế nào là thân phận người đàn bà miền Nam trong cơn lốc của lịch sử cận đại. Bà có thể kể cho quý vị nghe về Trần Văn Bá, và về những con người, qua bao thế hệ, đã dốc lòng tái tạo nước Việt Nam.

Bà thừa biết, trong quãng đời mình, bà không thể tái tạo nước Việt. Nhưng phần việc của bà có lẽ còn nặng nhọc và cao cả hơn nữa. Đó là việc gìn giữ một nước Việt Nam khác đừng bị tàn phá. Một đất nước Việt Nam mà trong đó, người còn biết thương yêu người.

Tôi tin chắc rằng phụ nữ ấy sẽ đứng thoải mái ở đây, tại quốc gia nầy, một quốc gia mà một trong những vị tổng thống lỗi lạc nhất của nó, Franklin Roosevelt, đã huấn thị năm 1938: “Nếu ở một quốc gia khác, những giá trị vĩnh cửu của quá khứ bị đe dọa, không được bao dung, chúng ta có bổn phận phải cung cấp, trên lãnh thổ chúng ta, nơi trú ẩn để các giá trị đó được trường tồn. ”
Và thưa ông Đại Sứ, tôi cũng tin chắc rẳng, phụ nữ ấy sẽ đứng ở đây, trong niềm hân hoan và thân mật, trên mảnh đất nầy của nước Hung Gia Lợi, nước Hung Gia Lợi quả cảm, cùng chung số phận với Việt Nam trên rất nhiều mặt.  Đất nước Hung Gia Lợi bất khuất của quý vị, đã đem lại cho thế giới một bài học cao quý về tự do và can đảm qua cuộc nổi dạy năm 1956 chống lại quân áp bức.

Phụ nữ ấy là mẹ của Trần Văn Bá, nguoi mẹ quá cố của chúng tôi.
Xin cám ơn quý vị đã kiên nhẫn lắng nghe.

TUYỀN NGƯ chuyễn dịch


Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #50 - 15. Feb 2012 , 23:25
 
Xin cảm ơn các nhạc sĩ Việt Khang, Trúc Hồ và Nhật Ngân



...


từ trái sang phải "NS-Việt Khang - NS-Trúc Hồ - NS- Nhật Ngân"

Trong lễ Tưởng niệm nhạc sĩ Nhật Ngân được tổ chức vào ngày Chủ nhật 29 tháng Giêng năm 2012 vừa qua tại miền Nam California, nhạc sĩ Trúc Hồ có nhắc lại rằng : Hai ngày trước khi bị công an bắt giữ tại thành phố Mỹ Tho vào cuối năm 2011, thì nhạc sĩ trẻ Việt Khang đã hát bài “Giã Từ Vũ Khí” mà nhạc sĩ Nhật Ngân đã sáng tác từ hồi năm 1972 – 73.

Khi về đến nhà, tôi đã lần mở internet và nhờ sự phổ biến của Nhóm Tuổi Trẻ Yêu Nước, tôi đã được nhìn và nghe thấy chính Việt Khang say sưa hát bài này với giọng thật thiết tha truyền cảm – còn điêu luyện hơn cả Trúc Hồ khi chính người nhạc sĩ nổi danh này cũng hát bài đó trong lễ Tưởng niệm nữa. Trúc Hồ còn cho biết là Việt Khang sinh năm 1978, thì chưa bao giờ gặp gỡ hay quen biết gì với tác giả Nhật Ngân, nhưng anh bạn trẻ này rõ ràng đã có sự tâm đắc đồng cảm với bài ca bất hủ đó. Xin trích dẫn vài câu của bài hát này của nhạc sĩ Nhật Ngân :

Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn

…Trả súng đạn này, ôi sạch nợ sông núi rồi

Anh trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao

…Để có một ngày, có một ngày cho chúng mình

Ta lại gặp ta, còn vòng tay

Mở rộng thương mến bao la…

Thành ra đây là một cuộc hội tụ của cả ba thế hệ nhạc sĩ mà lại có duyên gắn bó với nhau trong cùng một tâm tình yêu mến thiết tha đối với con người và quê hương Việt nam của mình. Việt Khang trẻ nhất đang ở tuổi 30, Trúc Hồ thì súyt xóat tuổi 50, còn Nhật Ngân thì vừa bước vào tuổi 70 lúc anh lìa đời vào hai ngày trước Tết Nhâm Thìn 2012.

Từ hơn một tháng nay, lớp người trẻ ở khắp nơi trong nước cũng như ngòai nước thì đang sôi nổi lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Hanoi phải trả tự do cho Việt Khang. Và hai bài hát do Việt Khang sáng tác đã liên tục được nhiều bạn trẻ đua nhau hát và phổ biến rộng rãi trên mạng lưới thông tin tòan cầu. Xin được trích dẫn vài đọan trong hai ca khúc này :

…Là người con dân Việt nam

Lòng nào làm ngơ trước ngọai xâm

Người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi

…Già trẻ gái trai giơ tay cao

Chống quân xâm lược, chống kẻ nhu nhược bán nước Việt nam.

( trích từ bài “Việt Nam Tôi Đâu?” của Việt Khang)

Cần ghi nhận ở đây có sự trùng hợp với bài ca rất hùng hồn của Trúc Hồ có nhan đề “ Đáp Lời Sông Núi” với ca từ sôi sục lòng yêu nước như :

Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi

Quyết bảo vệ giang san, ta thà chết cho quê hương

… Tổ quốc lâm nguy, xương máu này ta nguyền hiến dâng.

Và đọan này nữa trích từ bài hát “Anh Là Ai?” cũng của Việt Khang :

…Xin hỏi anh ở đâu

Ngăn bước tôi chống giặc Tàu ngọai xâm?

…Dân tộc anh ở đâu

Sao đang tâm làm tay sai cho Tàu?

Để ngày sau ghi dấu

Bàn tay nào nhuộm đày máu đồng bào.

Tôi không thể ngồi yên

Khi nước Việt nam đang ngả nghiêng

Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm

Một ngàn năm hay triền miên tăm tối! …

Rõ ràng là cả ba nhạc sĩ tài ba này đang góp phần khơi dậy cái tiềm năng vô cùng lớn lao của lớp người trẻ Việt nam hiện nay, đó chính là cốt lõi của cái “Sức Mạnh Mềm của Lòng Ái Quốc ngàn xưa của Dân tộc chúng ta” –  mà tác giả Nguyễn Cao Quyền đã nêu ra khi viết về phương cách đối phó với mối nguy cơ xâm lấn thật tàn bạo của Trung Quốc.

Xin cảm ơn Việt Khang.

Xin cảm ơn Trúc Hồ

Xin cảm ơn Nhật Ngân

Các Anh thật xứng đáng là những Nghệ sĩ Anh hùng của Tổ Quốc Việt Nam./



California, Tháng Hai 2012

Đoàn Thanh Liêm
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #51 - 26. Aug 2012 , 21:50
 

Tạ Phong Tần: “Cây cứng đứng đầu gió”


...


David Thiên Ngọc
(Danlambao) - Trước khi viết bài này tôi xin thắp ba nén nhang cầu nguyện cho vong linh bà mẹ VN Đặng Thị Kim Liêng được siêu thoát ở cõi vĩnh hằng. Thứ nữa tôi xin tri ơn Bà đã dũng cảm vùng lên làm ngọn đuốc đốt cháy rác rưởi hôi tanh và sáng soi con đường Tự Do - Công Lý.

Còn một điều nữa chẳng những riêng tôi mà cả mọi con dân VN yêu nước cũng xin tạ ơn bà đã sản sinh ra một Tạ Phong Tần trang anh thư kiệt xuất, tuy xác thân là phận “Liễu bồ” như những nữ nhi khác trên đời… nhưng cốt xương được cấu tạo bằng thép, trái tim và tâm hồn luôn nóng bỏng với “Nữ lưu chi khí”

Để chứng minh rằng Tạ Phong Tần là bậc “Cây cứng đứng đầu gió”… ta thử đặt ngược vấn đề đối với những đấng nam nhi (không kể những bậc hùng anh) khi gặp cảnh ngộ bị áp bức bạo tàn, oan nghiệt như Tạ Phong Tần và nhất là trước hung tin mẹ đã đi xa… mà không vì lý do sinh tử tự nhiên mà vì sự nhũng nhiễu, bất công tàn bạo… dồn dập trút lên đầu một người phụ nữ chân chất, hiền lành mà từ lâu… kể từ khi bước chân vào vòng lao lý mà mẹ con chưa được gặp mặt để chia sẻ nỗi niềm?

Trước cảnh ngộ như thế mà một Tạ Phong Tần với tinh thần sắt đá, bất khuất, giữ vững chí khí không tỏ ra bất ngờ trước hung tin mà nhất là Mẫu thân đã chọn cho mình con đường ra đi bằng ngọn đuốc soi đường cho những người yêu nước đang đi.

Không ai hiểu mẹ Kim Liêng bằng Tạ Phong Tần bởi tại nơi mảnh đất thiêng này mà chị xuất thân. Do đó sự việc mẹ Kim Liêng tự thiêu làm ngọn lửa soi đường Tự Do - Công Lý thì Tạ Phong Tần đã dự đoán trước đến 80% và rõ hơn ai hết (lời chị Tần qua LS Đạt). “Khi mà đón nhận tin đó thì chị rất bình tĩnh và chị nói với tôi là mặc dù không được an ninh thông báo chi tiết về chuyện mẹ qua đời như thế nào nhưng chị đoán được. ”(LS Đạt). Đồng thời chị cũng phủ nhận tin rằng chị “gào thét” khi nghe tin mẹ mất. Đúng! Với một “Nữ lưu chi khí” và những gì mà Tạ Phong Tần đã dự đoán biết trước đến 80% thì rõ ràng không có gì bất ngờ để đến nỗi phải gào thét, kêu la…

Mặc dù thể chất có bị tiêu hao (mất 10 kg so với lúc chưa bị bắt) nhưng trái tim và tinh thần không hề nao núng, và chính lúc này trong chị sự sáng suốt, tinh khôi luôn hiện hữu và dâng cao hơn bao giờ hết. Đồng thời chị tuyên bố rằng chị sẽ “Phản biện đến cùng”.

Nói đến đây tôi xin nhắn gởi hai điều:

1- Cho những nhà trí thức VN đang “trùm chăn” mê ngủ trong cơn khói lửa, nước nhà ngả nghiêng hãy bừng tỉnh dậy và mang sở học của mình góp sức vào công cuộc đi tìm Tự Do - Công Lý cho toàn dân mà những trang nữ lưu Tạ Phong Tần, Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Thanh Nghiên đang bị dập vùi nơi khám lạnh… Cùng những nữ lưu khác ngoài xã hội đang ngày đêm bị đe doạ, khủng bố, hãm hại… cũng vì hướng tới tương lai, tiền đồ của tổ quốc như Huỳnh Thục Vi, Bùi Thị Minh Hằng, Trịnh Kim Tiến, Nguyễn Hoàng Vi… Hãy cùng các Anh Thư, Tuấn Kiệt khác như Lm Nguyễn Văn Lý, TS Cù Huy Hà Vũ, Đinh Đăng Định, Lê Thanh Tùng... mà “Phản Biện Xã Hội” hiến kế trừ gian, diệt ác.

2- Cho các “đỉnh cao trí tuệ” xảo trá gian manh, ngạo nghễ ngồi xổm trên xương máu của nhân dân giành nhau mà hút sạch nguyên khí quốc gia. Rằng các vị đã đánh mất lương tri, đã vất trái tim vào sọt rác, cam tâm làm tay sai cho giặc, mãi quốc cầu vinh. Không tự lượng sức mình, không tự thấy cái trí thức giả tạo tự phong, ngu đần mà lại ngạo nghễ hống hách trước nhân dân.

Sau khi đã thâu tóm tài lực, vật lực quốc gia, xương máu của nhân dân phục vụ cho bản thân, gia đình, bè nhóm… bằng những thủ đoạn đê hèn, hạ cấp cùng với mớ trí thức rác rưởi, mạt hạng của phường giá áo túi cơm mà đại diện là ông Nguyễn Văn Bình thống đốc ngân hàng nhà nước CSVN đã dốt nát, ngông cuồng mà phát biểu rằng "Dân trí VN chưa cao!” -Dân trí VN chưa cao nên ngu muội để cho các ông lừa dối, bóc lột chăng?

Thực ra hơn ½ thế kỷ qua nhân dân VN bị bao trùm bởi nỗi sợ hãi trước họng súng AK, chiếc còng, lưỡi búa của tập đoàn CS các ông, đồng thời bị bè lũ làm tay sai cho giặc bắc phương bịt mắt, bóp mồm… cho nên nhân dân VN sống mà xem như đã chết. Nghe, thấy mà không dám nói, trí tuệ, tư duy sáng tỏ nhưng ngòi bút không viết được ra - Như nhà báo Trung Quốc - Từ Hoài Khiêm đã đi tìm cái chết để giải toả nỗi bức xúc của lương tâm một trí thức khi không viết lên được những dòng mà ngòi bút chân chính cần phải làm.

Lời cuối cho các vị đỉnh cao trí tuệ rằng qua những việc làm, nói và suy nghĩ của các ông trong mấy chục năm qua bằng một đống rác trí thức giả mạo, gian dối (bằng giả, bằng thật cũng đều là học giả) của các ông. Tư cách của các ông mà đem so với các “Nữ lưu chi khí” thì càng làm cho phận hồng quần, thân bồ liễu thêm hổ thẹn mà thôi.

Ngày 26/8/2012


David Thiên Ngọc

danlambaovn.blogspot.com
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #52 - 06. Mar 2013 , 20:41
 

Blogger Tạ Phong Tần được vinh danh là 1 trong 10 Phụ nữ Can Đảm của Thế Giới


VOA

...
Blogger Tạ Phong Tần, cựu đảng viên đảng CSVN.




Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ loan báo trong ngày Quốc Tế Phụ Nữ thứ Sáu sắp tới, Bộ Ngoại giao sẽ vinh danh 10 phụ nữ có những thành tích ngoại hạng xứng đáng được trao Giải Phụ Nữ Can Đảm của Thế Giới.

Một thông cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ghi ngày 4 tháng Ba, loan báo Ngoại trưởng Kerry và Đệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ Michelle Obama sẽ chính thức trao giải cho 10 phụ nữ đặc biệt này, tại một buổi lễ được cử hành vào lúc 3 giờ chiều tại Hội trường Dean Acheson của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở thủ đô Washington.
​​
Trong danh sách những người được giải thưởng có Blogger Tạ Phong Tần, hiện đang thọ án tù 10 năm tại Việt Nam, nên sẽ đuợc trao giải khiếm diện.

Bà Tạ Phong Tần có trang blog mang tên “Công lý và Sự Thật”, với hàng trăm bài viết phản ánh những bất công xã hội, các vụ tịch thu đất đai, và tệ nạn tham nhũng trong các cơ quan chính quyền Việt Nam. 

Giải Phụ Nữ Can Trường Thế giới của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là một giải thường niên để vinh danh các phụ nữ trên khắp thế giới đã chứng tỏ lòng can đảm ngoại hạng cũng như khả năng lãnh đạo trong việc cổ vũ cho các quyền phụ nữ và trao quyền cho nữ giới, bất chấp những gian nguy cho cá nhân mình.

Từ khi giải này được thiết lập năm 2007, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã vinh danh tất cả 67 phụ nữ đến từ 45 quốc gia.


Nguồn: http://www.state.gov/s/gwi/programs/iwoc/2013/bio/index.htm
Back to top
« Last Edit: 06. Mar 2013 , 20:53 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
admin
YaBB Administrator
*****
Offline



Posts: 514
Canada
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #53 - 10. Mar 2013 , 15:38
 

Blogger Nguyễn Hoàng Vi được IFEX vinh danh



...
Blogger Nguyễn Hoàng Vi
Photo courtesy of Dân Làm Báo



Tổ chức IFEX, chữ viết tắt của International Freedom of Expression Exchange network, có trụ sở tại Canada, vừa vinh danh 7 phụ nữ của nhiều quốc gia vì đã có những nỗ lực tranh đấu cho quyền tự do phát biểu. Blogger Nguyễn Hoàng Vi của Việt Nam vinh dự là người thứ năm có tên trong danh sách này.

Đứng đầu danh sách là Tanya Lokshina, một phụ nữ hoạt động nhân quyền nổi tiếng của Nga. Người thứ hai là luật sư Quinsayas của Philippines. Thứ ba là nhà hoạt động của Bahrain, chị Khawaja. Thứ tư là Suprani, nữ họa sĩ biếm họa người Venezuela. Thứ năm là blogger Nguyễn Hoàng Vi của Việt Nam. Thứ sáu là nhà báo Lima của Colombia; và thứ bảy là Iryna Khalip, nhà báo, nhà hoạt động của Belarus.

Trả lời IFEX, Nguyễn Hoàng Vi nói về những thách thức của bản thân mình như sau:

“Chúng tôi không cho phép nỗi sợ hãi làm tê liệt bản thân mình. Trong tận cùng tâm thức, chúng tôi nhận ra rằng nên tha thứ tất cả những gì họ đã làm trên thân xác của chúng tôi. Tuy nhiên tha thứ không có nghĩa là chấp nhận.

Chúng tôi phải cho họ biết rằng những gì chúng tôi làm không dựa trên hận thù của cá nhân đối với kẻ gây ra; chúng tôi hành động chỉ để bảo vệ những quyền căn bản của chúng tôi, những quyền mà họ đang có cũng như tất cả chúng tôi phải có.”



Trả lời về cảm tưởng của mình Nguyễn Hoàng Vi cho đài Á Châu Tự Do biết:

“Khi biết mình được vinh danh như vậy thì tôi rất vui và cảm thấy phần nào được an ủi vì đã đánh đổi, trả giá những gì mình đã trải qua. Nhưng còn rất nhiều người phải trả giá hơn mình nữa. Khi chấp nhận đấu tranh không ai nghĩ mình đấu tranh để được vinh danh hay giải thưởng nào đó cho nên có hay không có mình vẫn tiếp tục con đường mình đã chọn. Giải này giống như một sự cổ động thêm tinh thần để mình tiếp tục khẳng định con đường mình đi.”


Blogger Nguyễn Hoàng Vi là người từng bị cơ quan công an xâm phạm thân thể rất nặng nề khi cô cố gắng tới phiên tòa xử ba blogger Tạ Phong Tần, Điếu Cày và Anh Ba Sài gòn.


Trong vài ngày qua thế giới liên tiếp có những vinh danh cho các blogger Việt Nam vì những đóng góp và hy sinh của họ. Trước tiên là blogger Tạ Phong Tần, vào ngày 3 tháng 3 bà được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh là một trong 10 phụ nữ can trường. Ngày 7 tháng 3 blogger Huỳnh Ngọc Chênh được tổ chức Phóng Viên không biên giới vinh danh là công dân mạng Internet vì những đóng góp của ông trong việc tranh đấu cho tự do ngôn luận, và hôm nay là blogger Nguyễn Hoàng Vi được vinh danh là người phụ nữ dấn thân tranh đấu cho quyền tự do phát biểu.



Nguồn: RFA
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/nghoangvi-1of7-won-free-expression-champ-...
Back to top
« Last Edit: 10. Mar 2013 , 15:40 by admin »  
WWW  
IP Logged
 
hoangkybactien
Junior Member
**
Offline


Mưa qua biển Bắc!

Posts: 53
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #54 - 25. May 2013 , 12:47
 
...
*
Bài thơ: Đau Xé lòng
T/g Nguyễn Phương Uyên

Bài thơ được Mẹ của Nguyễn Phương Uyên cho công bố sau phiên toà kết án em 6 năm tù giam vì tội yêu nước.

Ơi đồng bào Việt Quốc !
Đất nước không chiến tranh
Cớ chi đau thắt ruột
Sự tự hào ngộ nhận
Một chế độ bi hài sau chiến tranh
Bọn cường quyền gian manh cơ hội
Đào bới bóc lột dân lành

Núp dưới bóng cờ máu, bác đảng
Âm thầm bán từng mảnh đất quê hương Tổ quốc thân yêu ơi!
Đồng bào thân yêu ơi!
Ôi, ta thương quá đi thôi!
Vết sẹo hằn sâu vào trái tim, trải dài theo năm tháng


Xuyên qua chiến tranh có những nấm mồ hùng vĩ
Người phơi thây ngã xuống mắt trừng trừng nhìn nhau
“Hậu thế ơi hãy giữ gìn non sông”
Ôi đất nước giờ tả tơi từng mãnh trao cho giặc!

Sự hy sinh bất công!
Xứ sở linh thiêng có còn không?
Phật khóc, Thánh rơi lệ!
Công lý lưu lạc để đức tin chìm vào đáy biển

Tràn ngập hôn mê
Ơi thanh niên Việt Quốc!
Chúng ta là ai?
Hãy đứng lên trước vận mệnh tổ quốc

Giặc đang tràn tới ngõ
Hãy đứng lên đi
Đứng lên niềm tự hào để sử sách lưu danh
Đứng lên đi cho tự do tỏa sáng

Đứng lên đi giành lại nước của dân lành
Hởi tất cả những ai là đồng bào Việt Quốc
Hãy chúng tay giữ gìn cội nguồn cho con cháu mai sau.

Nguyễn Phương Uyên

***
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #55 - 03. Jul 2013 , 20:57
 

Phụ nữ Việt Nam và phong trào dân chủ



...

Hưng Lê (Danlambao) -
Các phụ nữ yếu đuối như Hoàng Vi, Phương Uyên, Thục Vy, Khánh Vy, Trịnh Kim Tiến, Lê Thị Công Nhân, Bùi Thị Minh Hằng, Trần Thị Nga, Hồ thị Bích Khương, Tạ Phong Tần, Phương Bích, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,... và còn rất nhiều những phụ nữ khác mà tôi chưa kể hết, mong quý vị và các bạn bổ sung, tuy họ không có một tấc sắt trong tay nhưng luôn làm cho hệ thống CA, AN của CSVN lo sợ. Họ có một loại vũ khí duy nhất, không sát thương nhưng thật nguy hiểm, tuy trừu tượng nhưng hiển thực, không thể nhìn thấy được bằng mắt, không sờ được bằng tay, không tiếp nhận được bằng giác quan nhưng cảm nhận được bằng lý trí. Đó là vũ khí DÂN CHỦ. Là quyền làm chủ của người dân trong một Quốc Gia họ đã và đang sinh sống. Quyền Dân là ý thức trách nhiệm, là bổn phận của mỗi công dân rất bao quát về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục ngay đến an ninh quốc gia.
...

Dân Chủ chính là tiếng nói trực tiếp của người dân đóng góp với chính quyền để xây dựng và kiến thiết Tổ Quốc. Một quốc gia Dân Chủ được thể hiện bằng lá phiếu của người dân chuyển đến người đại diện là Dân Biểu để điều hành Quốc Gia. Không có dân bầu tức là không Dân Chủ. Các thể chế độc tài thì không bao giờ có Dân Chủ bởi lẽ Dân Chủ sẽ chôn sống độc tài. Cộng sản tức là độc tài bởi không độc tài thì không bảo vệ được đảng cộng sản. Chính vì lý do đó mà nhà nước độc tài CS không bao giờ chấp nhận Dân Chủ, Đa nguyên.

Khi xưa CS đã lợi dụng Phong trào Dân Chủ Đông Dương (1936-1939) để lôi cuốn những nhà Dân Chủ Ái Quốc chống Thực Dân Pháp nhưng sau khi đã cướp được chính quyền từ Chính Phủ non trẻ Trần Trọng Kim (19/8/1945) thì CSVN quay sang thủ tiêu các nhà Cách Mạng Dân Chủ có khuynh hướng Quốc Gia vì lo sợ tầm ảnh hưởng của họ. Đảng CSVN đã lợi dụng Dân Chủ để phỉnh lừa các nhà Dân Chủ nhưng không để họ sống sót bởi nếu đi đến Dân Chủ thật sự thì cái quái thai ĐCSVN sẽ bị tiêu diệt. Cũng vì chiếc “bánh vẽ dân chủ” đã đưa hàng loạt các nhà Trí thức Dân Chủ vào nhà đá và đã được an bài trong ngục lạnh một cách tức tưởi.
...

Nếu Phong Trào Dân Chủ ngày càng lớn mạnh thì chế độ độc tài sẽ bị cô lập và bị tiêu diệt. Nói chung Dân Chủ chính là kẻ thù của CS vì vậy chúng sẽ ra tay không nhân nhượng, sẽ dùng mọi thủ đoạn hèn hạ kể cả đê tiện, thẳng thừng đàn áp để tiêu diệt Phong trào Dân Chủ dù có bị Thế Giới lên án và áp dụng những biện pháp chế tài. Tà quyền CSVN sẽ chấp nhận sự trừng phạt của Dư Luận Quốc Tế để đổi lấy sự sống còn cho CNCS do đó chúng ta không lạ gì tại sao đảng CSVN thẳng tay đàn áp dã man một cách có hệ thống những ai cương quyết đấu tranh cho Dân Chủ.

Nhưng dẫu tà quyền CSVN đang tìm đủ mọi chiêu thức để ngăn chận Phong Trào Dân Chủ đã ngày càng lan rộng trên mọi miền của đất nước, những hạt mầm Dân Chủ đã sinh sôi, nảy nở và lớn mạnh khắp mọi nơi. Đây là những hạt mầm rất mới, rất trẻ, rất năng lực và sáng tạo. Khác hẳn với Phong Trào Dân Chủ Đông Dương 36-39 để chống lại Đế Quốc Pháp và chế độ Phát Xít mới hình thành, các nhà Cách Mạng Dân Chủ của thập niên 30, 40 hội tụ mọi tầng lớp Thanh Niên, đa phần là Nam Giới trong dấn thân cách mạng, Phong Trào Dân Chủ của Thế hệ trẻ hôm nay quy tụ nhiều khuôn mặt của Nữ Giới và họ có tinh thần Dân Chủ, Tự Do rất cao để chống lại tà quyền CSVN, cũng như góp phần tích cực trong những cuộc Biểu Tình Yêu Nước chống lại hiểm họa xâm lăng của CS Bắc kinh. Họ đã chấp nhận dấn thân, chấp nhận tù đày, chấp nhận những cực hình tra tấn dã man của công an CSVN như Đỗ Thị Minh Hạnh, Tạ Phong Tần, Hồ Thị Bích Khương, Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Phương Uyên, Phạm Thanh Nghiên...
...

Phương Uyên, một sinh viên trẻ, tuổi chỉ mới 20, được coi như là một trong những phụ nữ trẻ tuổi nhất cùng với một SV khác là Đinh Nguyên Kha có thái độ thẳng thắn nhất chống lại bạo quyền ĐCSVN và bọn bành trướng Bắc kinh, Cô đã đề xướng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa như một biểu tượng của Tự Do, Dân Chủ và với hai biểu ngữ do chính Cô đã viết lên bằng máu: “ĐI CHẾT ĐI ĐCSVN BÁN NƯỚC” và “TÀU KHỰA CÚT KHỎI BIỂN ĐÔNG” đã làm cho tà quyền CSVN lo sợ. Để lập công với “thiên triều” 16 chữ vàng 4 tốt, CSVN đã bắt giam Cô và Nguyên Kha, tuyên án 6 năm tù cho Phương Uyên, 8 năm tù cho Nguyên Kha với một “phiên tòa tay sai bán nước xử người yêu nước” ngày 16/5/2013 tại Long An. Phiên tòa này đã kích động sự phản đối của toàn thể Dân Tộc Việt Nam và đã đánh động đến sự quan tâm của thế giới điển hình là Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã lên tiếng kêu gọi nhà cầm quyền CSVN hãy trả tự do cho Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha chỉ vì họ bày tỏ lòng yêu nước và chống bọn tham nhũng CSVN.
...

Riêng đối với Hoàng Vi là một trong những người đã khởi xướng “Dã ngoại Nhân Quyền”, phổ biến và phân phát “Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” đến tận tay từng người dân trong nước thì đã bị CA, AN bám sát ngày đêm, ở bất cứ nơi đâu và gần đây, đêm 7 rạng ngày 8/6/2013, Cô đã bị đám CA giả dạng côn đồ, hành hung Cô đến phải nhập viện vì bị chấn thương. Cũng cần nên nhắc lại là trước đó, vì muốn đến tham dự cái gọi là “phiên tòa công khai” để xử các Nhà Báo Tự Do trong đó có Anh Ba Sài Gòn, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và Cô Tạ Phong Tần ngày 28/12/2012, Cô Nguyễn Hoàng Vi đã bị CA, AN hành hung, bắt về đồn CA tra tấn, xúc phạm đến cả nhân phẩm của Cô, đã khiến công luận thế giới lên án gắt gao hệ thống CA của tà quyền CSVN. Trong ngày phân phát Bản TNQTNQ 5/5/2013 Cô cũng đã bị CA bắt và hành hung, ngay cả Mẹ và em gái Cô cũng đã bị CA đánh đến đổ máu, gây chấn thương một ngày sau đó.

Sự nô lệ hóa về cách ứng xử của tà quyền CSVN đã cho thấy ĐCSVN ngày nay chỉ là một bộ phận của ĐCSTQ vì tất cả các cuộc bắt bớ giam cầm những người hoạt động cho Phong Trào Dân Chủ, Nhân Quyền cho VN một khi đã có những chỉ trích gay gắt hay có những hành động cụ thể chống lại sự bành trướng của CS Bắc Kinh thì đều phải bị bắt bớ, tù đày bởi những điều mơ hồ của BLHS 79, 88 và nay thì thêm vào 258.

Tà quyền CSVN đã bắt đầu lo sợ, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù mà nhất là kẻ thù Dân Chủ, tức là những người dám đứng lên đòi hỏi Dân Chủ, Nhân Quyền.

Phong Trào Dân Chủ của Thế Giới ngày nay đã phát triển không ngừng. Đó là một xu thế tất yếu cho sự phát triển của nhân loại toàn cầu. Các cuộc Cách Mạng Dân Chủ đã thành công để chứng minh điều đó. Mua Xuân Ả Rập, Cách mạng Hoa Lài đã xóa đi các thể chế độc tài, lạc hậu. Ả rập, Hy Lạp, Tunisia, Libya đã có Mùa Xuân Dân Chủ. Miến Điện sau hơn 50 năm theo chế độ quân phiệt cũng đã tự tuyên bố cải cách Dân Chủ để cứu nguy cho sự lạc hậu của họ và một nền Dân Chủ Hóa đang mang đến một tương lai tốt đẹp cho xứ sở này. Chỉ có Dân Chủ mới làm cho Dân Giàu, Nước Mạnh và đời sống của Người Dân mới thật sự được bảo đảm.

Chế độ Dân Chủ của Miền Nam Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975 tuy còn non trẻ, mặc dù đã được xây dựng chỉ có 20 năm trong chiến tranh nhưng cũng đã nói lên được những sự tốt đẹp của Nó. Tuy rằng đã bị CS miền Bắc tuyên truyền đả phá, bôi nhọ nhưng không thể nào chối bỏ được rằng Nó đã hơn hẳn chế độ Dân Chủ CS giả hiệu ở Miền Bắc từ sau 1954 cho đến ngày hôm nay. Giới trẻ sinh sau 1975 đã thấy được điều đó và không cần phải bàn cãi ở đây.

Những hạt mầm Dân Chủ đã nảy sinh và đang lớn dần để che phủ độc tài đảng trị!

Đừng thắc mắc tại sao tà quyền CSVN luôn bắt bớ và đàn áp một cách dã man đối với những Phụ Nữ đang đấu tranh cho Dân Chủ như vừa kể trên. Bởi vì họ, chính họ đã làm cho tà quyền CSVN lo sợ và tìm cách trù dập. Bởi vì họ, chính họ đang mang Ngọn Đuốc Dân Chủ thắp sáng cho Quê Hương Việt Nam. Tà quyền CSVN đang lo sợ cho một sự sụp đổ sẽ xảy ra.

Và tôi luôn luôn ngưỡng mộ, cảm phục HỌ - Những Phụ Nữ Việt Nam!

01/07/2013

Bạn đọc Dân Làm Báo

Hưng Lê
danlambaovn.blogspot.com
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #56 - 03. Jul 2013 , 21:01
 


Xin nghiêng mình cảm phục những Bông Hoa


...
Vũ Bất Khuất (Danlambao) - Viết theo bài viết của Hưng Lê (*)

Lầm lũi kiếm ăn làm con người nín lặng
Ồn ào tai, chướng mắt đã dần quen
Những trái khoáy thôi không còn bức xúc
Đến một hôm nhìn lại đã nên hèn

Những dối trá trượt dài theo cuộc sống
Chỉ thở và di động và rồi thôi
Không suy nghĩ, cằn khô như sỏi đá
Gần bốn mươi năm cứ thế mà trôi

Trong hoang tàn, nơi tình người khô khốc
Bỗng rực sáng lên những đóa hoa hồng
Nắng bớt chói chang, bụi lầm lắng xuống
Bao nhiêu người choàng tỉnh. Có non sông

Những bông hoa không cắm trong phòng khách
Cứ vươn cao, hương sắc đã nên lời
Đời đẹp lắm hãy cùng nhau dành lại
Dối trá, gian manh ngần ấy đủ rồi

Đời đáng sống khi vẫn còn suy nghĩ
Cần tựa nương nhau, chia sớt vui buồn
Cần dũng cảm, thật thà và nhân ái
Và cuối cùng là có một quê hương

Những bông hoa nói những lời như thế
Nhẹ nhàng thôi đủ thách thức bạo tàn
Và miễn nhiễm với những loài sâu bọ
Mang theo tinh thần quyết liệt Triệu Trưng

Đối mặt lao tù, thắm tươi đường phố
Chẳng gươm đao, chỉ có tấm lòng
Một sự thật và trái tim nhiệt huyết
Kêu gọi triệu người hãy giữ lấy non sông

Sách có câu “thông minh nhất nam tử”
Hôm nay phải nghiêng mình trước những bông hoa
Giũ hèn mọn đứng lên làm người một thuở
Nắm chặt tay nhau đuổi cổ bọn gian tà.


Vũ Bất Khuất
danlambaovn.blogspot.com
Back to top
« Last Edit: 29. Jul 2013 , 15:12 by admin »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4029
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #57 - 05. Jul 2013 , 20:58
 
Back to top
« Last Edit: 05. Jul 2013 , 21:02 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
admin
YaBB Administrator
*****
Offline



Posts: 514
Canada
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #58 - 29. Jul 2013 , 15:19
 

Bóng đen phía sau bản án Điếu Cày




Phạm Đình Trọng


Với tang chứng rất mơ hồ từ những bài báo của CLBNBTD (Câu lạc bộ Nhà Báo tự do) mà Điếu Cày Nguyễn Văn Hải là nhân vật chủ chốt, tòa án của Nhà nước Cộng sản Việt Nam buộc Điếu Cày tội tuyên truyền chống Nhà nước và giáng cho anh 12 năm tù giam, 5 năm quản chế sau tù. Mức án nặng đến man rợ! Vì mức án man rợ không bình thường đó người ta phải truy tìm đến bản chất thật của vụ án Điếu Cày là gì.


Tháng chín năm 2007 Điếu Cày mới lập ra CLBNBTD thì tháng tư năm 2008 anh đã bị bắt vì tội trốn thuế. Bảy tháng hoạt động với ba người đều không có nghề báo. Một người làm khinh doanh. Hai người làm nghề luật. CLBNBTD chưa làm được gì đáng kể, chẳng có bài báo nào để lại được dấu ấn cho CLBNBTD, không gây được chú ý cho người đọc. Vì thế, cố gán cho ba thành viên CLBNBTD tội tuyên truyền chống Nhà nước nhưng cáo trạng cũng không thể nêu được ra bài nào chống Nhà nước và chống Nhà nước như thế nào? Đành phải thống kê ra những con số vô hồn, câm lặng, không nói được điều gì: Số bài viết đăng trên trang mạng CLBNBTD 421 bài, trong đó ba thành viên viết 94 bài, còn 327 bài tải từ các trang mạng khác về. Rồi lại phải nhờ đến cơ quan không có nghiệp vụ pháp lí, không có chức năng, không đủ tư cách và không đủ sức giám định văn bản chính trị là sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sài Gòn giám định những bài viết của CLBNBTD. Thực chất việc giám định chỉ là thủ tục và người giám định chỉ viết theo ý cường quyền. Dù vậy cũng chỉ có được bản nhận định rất chung chung, gượng ép về nội dung chống Nhà nước của CLBNBTD.


Tội tuyên truyền chống Nhà nước ở những bài viết của CLBNBTD vu vơ, nhạt nhòa đến mức ngay hệ thống tư pháp Nhà nước rất muốn trị tội Điếu Cày, lúc đầu cũng không thể gán tội cho những bài viết đó vì thế họ phải dựng lên tội trốn thuế.


Khi tội trốn thuế được định tên, dù không chấp nhận, gia đình Điếu Cày vẫn xin truy nộp để khắc phục nhưng không được cơ quan tư pháp cho khắc phục mà quyết đưa Điếu Cày ra tòa. Đó cũng là điều vô cùng bất thường. Trốn thuế chỉ là tội kinh tế, không gây nguy hiểm cho xã hội, số tiền lại quá nhỏ, chỉ vài trăm triệu đồng. Quan hệ giữa người dân đóng thuế và Nhà nước thu thuế là quan hệ dân sự, hành chính. Quan hệ giữ người dân có công đóng thuế nuôi Nhà nước và Nhà nước chịu ơn người dân đóng thuế nuôi mình. Người đóng thuế chưa nộp thuế đầy đủ, Nhà nước phải tạo điều kiện và hướng dẫn cho người dân khắc phục số tiền thuế còn thiếu. Không cho người dân được truy nộp thuế, quyết đẩy người dân thành tội phạm, Nhà nước đã hình sự hóa một quan hệ dân sự. Đó là việc cố tạo dựng tội cho người dân lương thiện, cố biến người đang kinh doanh đóng thuế nuôi Nhà nước thành người ngồi không ăn cơm tù để Nhà nước phải nuôi!


Tư tưởng chính thống của Nhà nước Việt Nam hiện tại là kiên định chủ nghĩa Mác Lê nin. Viết bài không tán thành nền tảng tư tưởng Mác Lê nin và những chủ trương, chính sách, việc làm theo tư tưởng Lê nin nít thì những bài viết của Điếu Cày và CLBNBTD không thể so được với những bài viết thẳng thắn của nhiều người đã viết từ hơn chục năm trước.


Tiến sĩ Hà Sĩ Phu với những tác phẩm dày dặn đã thẳng thừng bác bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin, bác bỏ tư tưởng chính thống của đảng Cộng sản và Nhà nước đương quyền: “Thực chất chủ nghĩa Mác Lê nin chỉ là một khát vọng đẹp đẽ nhưng ảo tưởng, phi khoa học, chống lại qui luật tự nhiên”. Những tác phẩm của tiến sĩ Hà Sĩ Phu như Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ, Chia Tay Ý Thức Hệ như tiếng sét, như tia chớp làm nhiều người Việt Nam bừng tỉnh thoát khỏi cơn mê sảng lầm lạc trong mớ lí thuyết huyễn hoặc của chủ nghĩa Mác Lê nin. Tầng lớp trí thức tiếp nhận những bài viết của tiến sĩ Hà Sĩ Phu như tiếp nhận một chân lí hiển nhiên, một sự thật bình dị mà lâu nay họ không nhận ra.


Bác bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin, tiến sĩ Hà Sĩ Phu cũng bác bỏ nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Cộng sản gây thiệt hại cho nước, gây tai họa cho dân. Những bài viết của tiến sĩ Hà Sĩ Phu đã giải thiêng chủ nghĩa Mác Lê nin, giải độc cho xã hội Việt Nam, thức tỉnh nhiều người dân Việt Nam, tạo nên một đội ngũ, một lực lượng xã hội đông đảo, mạnh mẽ đòi tự do dân chủ, đòi quyền con người, quyền công dân, đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ sự độc quyền quyền lực của đảng Cộng sản. Những bài viết mang tư tưởng không đồng thuận với đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa của tiến sĩ Hà Sĩ Phu có tác động xã hội sâu rộng và mạnh mẽ như vậy thực sự rất bất lợi cho Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam. Một Nhà nước quyền uy, say bạo lực, cai trị dân bằng bạo lực chuyên chính vô sản thì không thể tha thứ cho những bài viết của tiến sĩ Hà Sĩ Phu phản bác lại Đảng và Nhà nước Cộng sản vậy mà Nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng không thể buộc tiến sĩ Hà Sĩ Phu tội tuyên truyền chống Nhà nước!


Tiến sĩ Hà Sĩ Phu công bố tác phẩm Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ năm 1988, đến cuối năm 1995 bộ máy công cụ bạo lực mới tìm được cơ hội đưa tiến sĩ vào tù bằng một tội từ trên trời rơi xuống. Tiến sĩ Hà Sĩ Phu đang thong dong đạp xe trên đường phố Hà Nội thì có người đi xe máy cố ý quyệt vào xe ông làm cho ông ngã. Công an giăng sẵn trên đường liền xô lại. Kẻ gây tai nạn thì được tự do. Người bị nạn thì bị bắt giữ đưa về đồn công an. Bản sao bức thư ông Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Ban Chấp hành trung ương đảng Cộng sản Việt Nam mà công an khám thấy trong túi xách tiến sĩ Hà Sĩ Phu liền được công an sử dụng làm tang chứng cho tội “Có hành vi tiết lộ bí mật Nhà nước” để tiến sĩ Hà Sĩ Phu phải nhận bản án một năm tù giam!


Nhắc lai chuyện tiến sĩ Hà Sĩ Phu để càng thấy rằng Điếu Cày không có tội. Buộc cho Điếu Cày tội tuyên truyền chống Nhà nước là hoàn toàn áp đặt, ngang trái, vi Hiến và phiên tòa tuyên Điếu Cày 12 năm tù 5 năm quản chế là phiên tòa không có công lí. Phiên tòa bộc lộ rất rõ mưu đồ độc ác hãm hại một khí phách Việt Nam, một tâm hồn Việt Nam nồng nàn yêu nước.


Hoạt động xã hội nổi bật nhất của Điếu Cày không phải là những bài viết trên trang mạng CLBNBTD mà là ở những hoạt động phản đối Tàu Cộng xâm chiếm đất đai, biển đảo Việt Nam.


Với chiếc máy ảnh trước ngực, Điếu Cày lặn lội lên mảnh đất đầu cùng của Tổ quốc Việt Nam ở Đàm Thủy, Trùng Khánh, Cao Bằng chụp ảnh thác Bản Giốc, ghi vào hình ảnh một mảnh đất Việt Nam yêu thương đã bị giặc Tàu chiếm đoạt. Thời thực dân Pháp chiếm nước ta, Pháp đô hộ dân ta, Pháp làm chủ nước ta, toàn bộ thác Bản Giốc còn là của Việt Nam, đường biên giới còn cách xa thác về phía Bắc tới 12 cây số. Thời đảng Cộng sản Việt Nam làm chủ đất nước Việt Nam, thác Bản Giốc chỉ còn phần nửa dưới thấp, phần thác cao hùng vĩ đã thuộc Tàu Cộng rồi! Điếu Cày chụp ảnh thác Bản Giốc, chụp ảnh vết thương nhức nhối trên cơ thể Tổ quốc Việt Nam đưa lên trang mạng.


Điếu Cày cầm bảng chữ Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đi đầu trong những cuộc biểu tình liên tiếp, sôi sục đầu năm 2008 phản đối Tàu Cộng đưa Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vào đơn vị hành chính Tam Sa của Tàu Cộng.


Đúng ngày Tàu Cộng đánh cướp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 34 năm trước, ngày 19. 1. 2008, đúng khi Tàu Cộng đang tưng bừng rước ngọn đuốc Olympic Bắc Kinh đi khắp thế giới và ngọn đuốc đó sắp qua Sài Gòn thì Điếu Cày cùng những người bạn mặc đồ đen để tang Hoàng Sa, trên ngực áo có biểu tượng năm vòng tròn Olympic Bắc Kinh là năm chiếc còng số 8 cạnh hàng chữ Pekin 2008. Nhìn Điếu Cày đứng cao trên thềm Nhà Hát Lớn Sài Gòn ngực áo mang biểu tượng Olympic Bắc Kinh chỉ là những chiếc còng số 8, tay giương cao bảng chữ “Hoàng Sa, Trường Sa Của Việt Nam” bằng chữ Việt, chữ Anh, chữ Tàu, những kẻ cướp Hoàng Sa của Việt Nam đang có mặt lúc nhúc đầy Sài Gòn hẳn phải bầm gan tím ruột. Vì sự bầm gan tím ruột đó và cũng vì ngọn đuốc Olympic Bắc Kinh khi đến Sài Gòn phải được chào đón tưng bừng, 9 ngày trước khi ngọn đuốc Olympic Bắc Kinh đến Sài Gòn, Điếu Cày bị bắt.


Với những tình tiết trên đủ để nhận ra quyền lực đòi hỏi phải bắt Điếu Cày không phải là quyền lực Nhà nước Việt Nam. Điếu Cày chỉ bị ba mươi tháng tù về tội trốn thuế cũng chưa làm cho quyền lực đó hả dạ. Vì thế, sau khi mãn hạn tù trốn thuế, 10.2010, Điếu Cày lại bị đưa đi biệt tăm để chờ sự trừng phạt đủ sức hủy hoại Điếu Cày!


Trong thời gian Điếu Cày bị giam trong bóng tối vô định, có một sự kiện xảy ra cách xa Điếu Cày hàng vạn dặm mà dường như có liên hệ đến số phận Điếu Cày. Đó là sự kiện Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đi thăm Tàu Cộng đã cùng Tổng bí thư đảng Cộng sản Tàu Cộng Hồ Cẩm Đào kí bản Tuyên bố chung tám điểm ngày 15. 10. 2011.


Điểm thứ tư của Tuyên bố chung có sáu việc thì việc thứ năm là: “Đi sâu hơn nữa hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh; ...Tăng cường giao lưu và hợp tác giữa các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, công an, hành chính tư pháp; ...tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình.” Thực tế trong quan hệ giữa Tàu Cộng với Việt Nam, giữa nước lớn quen thói trịch thượng, lấn lướt, áp đặt cho nước nhỏ thì “đi sâu hợp tác, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan công an, tòa án hai nước” chỉ để cho cơ quan công an, tòa án Tàu Cộng nhảy vào các vụ việc, can thiệp, áp đặt buộc công an, tòa án Việt Nam phải thực hiện mà thôi.


Ngày 15. 10. 2011 Tuyên bố chung Việt – Tàu “đi sâu hợp tác, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan công an, tòa án hai nước” được kí kết ở Bắc Kinh. Ngày 24. 9. 2012, người đàn ông sáu mươi tuổi Điếu Cày bị kêu mức án man rợ 12 năm tù, 5 năm quản chế bởi một tội danh áp đặt, gượng ép: Tuyên truyền chống Nhà nước, trong phiên tòa bịt bùng công an, mật vụ ở Sài Gòn.


Điều bất thường nữa là, tòa án định tội và bị cáo nhận tội là việc ở tòa án. Nhà tù chỉ quản lí việc thi hành án của người tù. Nhưng nhà tù số 6 Thanh Chương, Nghệ An đã làm công việc của tòa án, ép người tù Điếu Cày kí vào bản nhận tội. Điếu Cày quyết liệt không kí liền bị quản giáo tống vào biệt giam. Bị biệt giam vô lí và bị đối xử tàn ác, phi pháp, Điếu Cày gửi đơn tố cáo lên viện Kiểm sát tỉnh Nghệ An. Chờ đợi không thấy Viện Kiểm sát trả lời, Điếu Cày phải tuyệt thực đòi công lí.


Lần theo sự việc để xác định thời điểm Điếu Cày bị ép kí bản nhận tội: Bị ép nhận tội. Bị biệt giam và ngược đãi. Gửi đơn tố cáo lên viện Kiểm sát. Chờ không thấy viện Kiểm sát trả lời đơn. Tuyệt thực. Tuyệt thực là hành động sau cùng trong chuỗi sự việc trên. Điếu Cày bắt đầu tuyệt thực từ 22. 6. 2013 thì nhà tù ép Điếu Cày kí vào bản nhận tội vào khoảng từ ngày 10 đến ngày 15 tháng sáu, tạm xác định mốc thời gian cụ thể là ngày 12. 6. 2013
Lại phải nhắc đến một sự kiện diễn ra cách xa Điếu Cày vạn dặm mà dường như có liên hệ đến việc nhà tù số 6 phải đường đột làm cái việc không thuộc chức năng của nhà tù là ép người tù Điếu Cày kí bản nhận tội: Sự kiện Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi thăm Tàu Cộng.

12. 6. 2013, Điếu Cày bị ép phải kí vào bản nhận tội.
19. 6. 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi Tàu


Chữ kí nhận tội của Điếu Cày cần cho Nhà nước Cộng sản Việt Nam trong đối ngoại, để Nhà nước Cộng sản Việt Nam chứng minh với thế giới rằng Việt Nam không có tù chính trị, chỉ có tù hình sự vi phạm pháp luật. Chữ kí nhận tội của kẻ vi phạm pháp luật đây. Chữ kí nhận tội của Điếu Cày càng cần cho những kẻ muốn khuất phục ý chí độc lập tự chủ của những người Việt Nam yêu nước thương nòi.
Trước chuyến đi Tàu của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, nhà tù số 6 Thanh Chương, Nghệ An lồng lộn ép Điếu Cày phải kí bản nhận tội càng thấy rõ bản án độc ác, man rợ dành cho Điếu Cày đến từ đâu. Vì cái văn bản thỏa thuận của ông Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam kí với Tổng bí thư đảng Cộng sản Tàu “Đi sâu hợp tác, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan công an, tòa án hai nước” mà công an, tòa án Việt Nam đang nhẫn tâm, lạnh lùng đầy đọa đến chết một khí phách Việt Nam, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải!

Nguồn: 
Dân luận
Back to top
 
WWW  
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #59 - 14. Aug 2013 , 00:22
 


Nguyễn Phương Uyên chính là người yêu nước



...

Nguyễn Trung Tôn (Danlambao) - Tối qua có một bạn sinh viên hỏi thăm tôi về tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, về anh Điếu Cày và đặc biệt là Nguyễn Phương Uyên quê ở đâu và Uyên là người như thế nào. Tôi nói với bạn sinh viên đó rằng Uyên là người yêu nước! Cháu muốn tìm hiểu về Uyên thì vào google sẽ biết!

Sau khi cháu vào google và có nói với tôi, ban đầu cháu thấy chị Phương Uyên là người yêu nước rất đáng noi gương, nhưng sau đó cháu lại nói cháu vừa xem một bài viết nói rằng chị ấy nhận tội, vậy thì chị ấy chẳng phải là người yêu nước. Tôi bảo cháu hãy xem xét lại tất cả các thông tin và phải biết rằng báo “Lề đảng” luôn viết theo sự chỉ đạo của đảng nên cháu cần tìm hiểu nhiều hơn.

Bởi lý do đó nên hôm nay tôi ngồi đây viết vài dòng không phải chỉ để trả lời cháu sinh viên kia mà muốn gửi tới các độc giả một suy nghĩ của mình về Nguyễn Phương Uyên, nhân việc nhà cầm quyền cộng sản sắp đưa vụ án Uyên, Kha ra xét xử phúc thẩm.

Nguyễn Phương Uyên: Cái tên mà tôi nghe đã thấy quý mến và gần gũi; mặc dù tôi chưa gặp em bao giờ. Lần đầu tiên tôi biết tên em qua báo Nhân Dân là vào lúc tôi đang ở tù năm 2012. Mặc dù báo Nhân Dân đưa tin rất giới hạn nhưng tôi đã thấy rất được kích lệ động viên vì thế hệ X9 Việt Nam đã có những hành động rất đáng tự hào. Sau khi ra tù mặc dù con bị quản chế và giới hạn nhiều lãnh vực trong cuộc sống nhưng tôi vẫn có cơ hội để theo dõi những thông tin về vụ án này, vì vậy tội có một nhận định sau:

Nguyễn Phương Uyên là một sinh viên năm thứ 3 của trượng đại học và đặc biệt em còn là một bí thư đoàn TNCS như vậy chúng ta có thể nói rằng về trình độ nhận thức và tư tưởng chính trị em đã có đủ để định hướng cho mình mà không ai có thể nói rằng do thiếu hiểu biết và bị xúi dục lôi kéo. Nguyễn Phương Uyên là một bí thư đoàn ít nhiều em đã được nghe (hay phải nghe) rất nhiều về những sự dạy dỗ của cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hay lòng yêu nước. Có thể vì cái mớ lý thuyết xuông đó trong em đã hình thành nhận cách của một người Việt Nam và tinh thần dân tộc (mặc dù theo cách giáo dục của đảng cộng sản thì: Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội). Tuy nhiên Uyên đã vượt qua cái giới hạn của nên giáo dục Việt Nam để noi gương những anh hùng nước Việt trước thời kỳ Cộng sản.

Như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung... tất cả những vị anh hùng dân tộc này họ là người yêu nước, nhưng họ đâu có buộc phải yêu chủ nghĩa xã hội? Và chủ nghĩa xã hội là gì và nó có thể đi tới hiện thực hay không ngay cả những đảng viên cộng sản còn không dám chắc, thì làm sao để buộc một người yêu nước phải yêu một cái chủ nghĩa không thực hữu được. Vậy Nguyễn Phương Uyên yêu nước là sự thật, em đã noi gương các vị anh hùng dân tộc để có những hành động bảo vệ tổ quốc trong khả năng giới hạn của mình, Nguyễn Phương Uyên chỉ có thể dùng chính máu của mình để viết lên dòng chữ "Tàu khựa cút khỏi Biển Đông".

Mặc dù trong khả năng giới hạn của em, nhưng em còn hành động táo bạo hơn rất nhiều so với những người lãnh đạo đảng cộng sản khi họ nhân danh lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội nhưng hèn yêu và khiếp nhược nên phải ngậm miệng trước sự ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông. Tôi có thể nói cả bộ chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam không có ai bằng Nguyễn Phương Uyên vì không có vị nào dám nói được một câu nói "Tàu khựa cút khỏi Biển Đông" như Phương Uyên.

Khi nghe câu nói này của Phương Uyên tội lại nhớ câu nói của vị nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh quê Thanh Hóa chúng tôi: "Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp ngọn sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, để cho nhân dân ta khỏi bị lầm than đắm đuối". Cả 2 người nữ này đều nói những câu nói rất anh hùng trong tuổi thanh xuân. Tên tuổi của Triệu Thị Trinh đã theo cùng năm tháng ăn sâu trong tâm tri người Việt Nam, còn Nguyễn Phương Uyên thì sao? Mặc dù giờ đây em phải ngồi trong nhà tù Cộng sản, nhưng tên tuổi của em đã được nhiều người biết tới. Mặc dù công an, an ninh của chế độ đã tìm mọi cách, dụ dỗ, ép cung một sinh viên non trẻ như Phương Uyên để có lúc em bị đánh lừa phải việt những lời khai nhận tội để được sớm ra đi học và thi đúng thời hạn. Nhưng chúng ta thấy một Phương Uyên hoàn toàn mạnh mẽ trước bạo quyền trong phiên tòa sơ thẩm ngày 16/5/2013. Em khẳng khái tuyên bố rằng tôi chống đảng Cộng sản chứ tôi không chống nhà nước, vì nhà nước là của dân do dân và vì dân, tôi yêu tổ quốc yêu nhân dân vì vậy tôi không chống lại nhà nước. Một nữ sinh non trẻ đã làm cho cả hội đồng xét xử phải ngượng ngùng cay đắng.

Nếu so sánh hình anh Phương Uyên trước tòa án Cộng sản và hình ảnh chủ tịch nước Trương Tấn Sang khi sang Trung Quốc vừa rồi ta sẽ thấy Nguyễn Phương Uyên và Trương Tấn Sang thì ai yêu nước hơn ai, ai đáng tự hào hơn ai! Khi CT nước Trương Tán Sang cuối rạp mình trước Quốc kỳ trung Quốc, thì Nguyễn Phương Uyên lại ngẩng cao đầu trước bạo quyền Cộng sản với khẩu hiệu  "Tàu khựa cút khỏi Biển Đông".

Như vậy mặc dù qua sự dụ dỗ và ép buộc của công an và an ninh Cộng sản có những lúc Uyên bị lừa bị uy hiếp đến mức độ phải ký giấy nhận tội, để rồi sau đó các báo của Cộng sản đua nhau ra đòn để bôi nhọ một người yêu nước như Phương Uyên, nhưng em đã ngay lập tức có những hành động kiên cường đáp trả lại trong phiên tòa sơ thẩm vừa qua.




Ngày 16/8 này với Phiên Tòa Phúc thẩm xử 2 em Uyên và Kha tôi tin tưởng rằng Phương Uyên sẽ tiếp tục giữ vững tinh thần thể hiện ý chí xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước. Chính nghĩa thuộc về người yêu nước em sẽ chiến thắng. Tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của em sẽ đưa tên tuổi của em vào trang sử vàng của dân tộc. Có thể bản án tới đây không có thay đổi gì nhiều hoặc y án nhưng không có bất cứ lý do gì chúng ta không yêu mến Uyên và Kha. Bởi đã là con người thì phải biết yêu và ghét. Từ lòng yêu nước các em có thể căm ghét và chống lại bất cứ kẻ nào đã và đang gây nguy hại cho đất nước này. Riêng tôi tôi yêu thương và quý mến các em nhiều. Nguyện cầu Thiên Chúa Toàn Năng ban năng lực cho các em!

Thanh Hóa 14/8/2013


Nguyễn Trung Tôn - ĐT 01628387716
danlambaovn.blogspot.com

Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #60 - 27. Sep 2013 , 20:32
 

Câu Chuyện Về Gia Đình Đại tá Hồ Ngọc Cẩn


...

NGƯỜI VỢ LÍNH Ở THỦ ĐỨC

Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ


Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức. Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ.
Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính.

Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính.

Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.

Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.

Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể.

Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được. Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon. Chợt thấy một ông xếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa.

Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.

Giây phút cuối của Chương Thiện

Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:

“Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi. Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua. Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết. Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá. Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “

“Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.

“Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”

Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác. “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”
Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ.
“Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.
Tôi hỏi tiếp:
“Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.
“Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo. Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”.
Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi. “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.
” Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.
“Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.
Bà Cẩn thật thà nói rằng.
“Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”
Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu.  Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức. Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.

Giao Chỉ, San Jose.
Back to top
« Last Edit: 27. Sep 2013 , 20:41 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #61 - 13. Mar 2014 , 22:10
 

Đỗ Thị Minh Hạnh: Anh thư nước Việt.


...


Ngày hôm nay, 13/3/2014, Đỗ Thị Minh Hạnh sẽ đón sinh nhật lần thứ 5 trong tù tại Phân trại số 3, trại giam Thanh Xuân, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Nhân dịp Hạnh bước sang tuổi 29, mời bạn đọc xem lại một bài viết được viết từ năm 2011 của anh Nguyễn Bắc Truyển kể lại những kỷ niệm đáng nhớ về Đỗ Thị Minh Hạnh:


Nguyễn Bắc Truyển
(Danlambao) - Thời thế tạo Anh hùng hay Anh hùng tạo thời thế. 

Khoảng giữa năm 2006, qua những người bạn có cùng sở thích đi du lịch, tôi được biết một bạn gái trẻ, phải nói là rất trẻ, cô gái này cũng thích được đi khắp nơi để chiêm ngưỡng non sơn gấm vóc vẽ đẹp hùng vỹ của Việt Nam. Cô là một sinh viên, tuổi còn ăn học nên khi thấy tôi và các bạn ngao du sơn thủy vào dịp cuối tuần, cô rất là hâm mộ, nhưng chuyện học hành đã không cho phép cô du hành cùng với chúng tôi.

Một ngày, cô đến thăm tôi tại văn phòng làm việc, tôi cho cô xem những hình ảnh mà tôi chụp được trong những chuyến đi, cô rất thích. Lần thứ hai, cô đến gặp tôi để hỏi kinh nghiệm về chuyện học trong nhà trường và thực tế trong cuộc sống. Trong lúc trò chuyện tôi cảm nhận cô gái này suy nghĩ già hơn cái tuổi đôi mươi của cô. Cô nói về ước mơ, về xã hội và cả lĩnh vực cấm kỵ lúc đó là chính trị. Tôi cảm nhận được tình yêu thương của cô dành cho đất nước và người dân Việt, đặc biệt là người nông dân. Như có bạn đồng hành, tôi và cô nói chuyện từ trưa cho đến lúc chia tay cũng hơn 7 giờ tối, tôi mời cô đi ăn tối nhưng cô từ chối vì đã có hẹn với bạn. Từ đó, tôi không còn dịp gặp lại cô.

Tháng 5/2010, tôi rời phân trại số 2, trại giam Xuân Lộc về nhà. Sau 3 năm 6 tháng tù, cái tin Chương Hùng Hạnh bị bắt lọt thỏm trong đống tin tức phải đọc. Như được sự sắp đặt, tôi chọn sự quan tâm đến các tù nhân chính trị vì một lý do đơn giản là vì mình đã từng ngồi tù. Tôi đọc lại các tin tức về tù nhân trên mạng truyền thông, tìm hiểu từng người xem mình có thể làm gì để giúp đỡ họ và gia đình. Và tôi đọc về Minh Hạnh, tôi không ngờ Minh Hạnh chính là cô gái trẻ năm xưa tôi đã từng biết. Tôi muốn bật ra khỏi ghế khi thấy hình Minh Hạnh trên Google. Bây giờ tôi mới hiểu: tại sao cô gái trẻ lại có suy nghĩ chính chắn và tâm hồn nhiệt huyết như vậy. Bằng tuổi như cô, tôi chỉ là một kẻ khù khờ, non nớt còn tin vào những điều hoang tưởng của một học thuyết mà ngày nay nhiều nước đã quăng vào sọt rác. Tôi đem chuyện này tâm sự với các bậc trượng thượng, có bậc chân tu nói: "cô ấy đã được chọn". Tôi nhớ lại, khi Mẹ tôi vào thăm, có nói một cô gái điện thoại đến nhà hỏi thăm, an ủi và động viên Mẹ tôi, tên là Hạnh, thật sự lúc đó tôi không nghĩ là Minh Hạnh.

Tôi muốn viết gì đó về Minh Hạnh, nhưng sợ rằng sẽ nguy hiểm cho Minh Hạnh vì còn đang trong giai đoạn điều tra. Sự liên quan đến tôi sẽ bất lợi cho Minh Hạnh, mặc dù tôi và Minh Hạnh biết nhau vì sở thích du lịch. Gần đây, một người tù đã liên hệ với tôi và cho tôi biết tin về Minh Hạnh. Người bạn tù cho biết, Minh Hạnh rất gầy, người đầy thương tích, lằn vết, chứng tích của sự ngược đãi. Nhưng tinh thần của Minh Hạnh thì rất tốt. Cô không hề nao núng trước những dọa nạt của bất kỳ thế lực nào, cô thương những bạn tù của mình, san sẻ tất cả những gì mình có cho bạn tù, ngay cả những người có trách nhiệm quan sát cô. Minh Hạnh đã lấy tình thương để cảm hóa con người. Tôi nhớ Minh Hạnh dáng người gầy, bây giờ chắc hẳn cô còn gầy hơn. Điều gì đã làm nên con người bản lĩnh từ một cô gái dịu dàng, nữ tính như Minh Hạnh?

Minh Hạnh chuyển đến phân trại 6 (phân trại này mới xây dựng và nằm sâu trong rừng) của trại giam Xuân Lộc vào tháng 5/2011, cô thường xuyên bị kêu đi làm việc. Những lời đối đáp của cô đã làm những người quản lý trại giam chắc phải khó xử lắm. Cô nói: :"Cán bộ không có người thân bị mất đất, nên cán bộ không hiểu được những nỗi lòng người dân oan bị mất đất", "Cán bộ không làm công nhân thì làm sao hiểu được nỗi khổ sở nhục nhã khi bị chửi mắng, đày đọa, bóc lột của người chủ", "Mất từng mãnh đất Việt Nam, tôi như mất từng miếng thịt da của mình"... Mẹ của Minh Hạnh cũng được trại giam mời đến để yêu cầu "hợp tác" trong việc "khuyên nhủ" Minh Hạnh chấp hành tốt để được khoan hồng. Nhưng cô nói thẳng: "tôi không xin khoan hồng". Kiểm điểm 3 tháng một lần, Minh Hạnh viết: "Tôi không có tội", ngắn gọn nhưng chắc có người "mệt" lắm, vì đối với họ: ai vào tù cũng là có tội. 

Có lẽ tôi phải gặp Mẹ của Minh Hạnh, để an ủi, động viên như Minh Hạnh đã từng làm với Mẹ tôi và tôi sẽ nói : "chị có người con gái rất đáng tự hào, một Anh thư nước Việt".  Minh Hạnh có thể chọn cho mình một cuộc sống nhẹ nhàng, an phận như bao người con gái khác, nhưng không chấp nhận sự ích kỷ đó, Minh Hạnh đã dấn thân vào con đường đầy chông gai để em ngày càng trưởng thành hơn, xác quyết hơn những gì em đã suy nghĩ, ưu tư và chọn lựa. Cô gái trẻ, 25 tuổi đã chấp nhận thanh thản với bản án 7 năm tù cho sự thể hiện lòng yêu nước của mình. Thời thế đã cho ta một anh hùng.

Có lẽ lâu lắm tôi mới có dịp gặp lại Minh Hạnh. Nhưng tôi tin rằng dù ở một góc tối nào đó, tôi thấy em nở nụ cười qua đôi mắt, em vẫn giữ niềm tin đất nước, dân tộc Việt Nam sẽ sáng lên trong một ngày gần đây. Niềm tin đó đã cho em một bản lĩnh phi thường, mạnh mẽ khi "dạo chơi" qua hàng loạt nhà tù. Tôi ước gì có thể tặng em một cành hoa lài, để hương thơm lan tỏa khắp nơi trong chốn ngục tù.

Sài gòn, 15/7/2011

Viết tặng Minh Hạnh nhân dịp Minh Hạnh được Tổ chức nhân quyền Việt Nam tại Oregon vinh danh (Đại hội liên mạng Kỳ 2, Vancouver, Canada).

Nguyễn Bắc Truyển

danlambaovn.blogspot.com
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Anh Hùng Thời Đại
Reply #62 - 27. Jun 2014 , 08:25
 
Giấc mơ của Hạnh

...


Trọng (Danlambao) - Chưa bao giờ mà vấn đề bảo vệ quyền lợi công nhân được bàn luận và hưởng ứng rộng rãi như hiện nay, nhu cầu thành lập những công đoàn độc lập đại diện cho người lao động từ đó cũng trở nên rất cấp bách. Cách đây 6 năm, những điều mà hôm nay chúng ta nói đến đã được ba thanh niên trẻ thực hiện trong những điều kiện hết sức khó khăn và nguy hiểm lúc bấy giờ.

Nhóm ba người bạn gồm Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương đã dấn thân để biến ước mơ thành sự thật, đó là việc xây dựng một tổ chức đại diện cho giới lao động Việt Nam. Hậu quả mà những con người tiên phong mở đường ấy phải chịu đựng là từ 7 đến 9 năm tù nghiệt ngã. Họ đã hy sinh tuổi xuân đẹp nhất cho dân tộc và chưa biết còn có thể sống được đến ngày mãn hạn tù hay không.



Khi các cuộc đình công chống Trung Quốc mau chóng bùng phát thành bạo lực không thể kiểm soát, người dân cả nước bỗng phải giật mình chất vấn: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có còn đại diện cho giới công nhân, hay chỉ là một tổ chức ăn hại?

Sự phản bội của đảng cộng sản đối với ‘đội ngũ tiên phong’ gây ra một khoảng trống lớn trong các hoạt động bảo vệ quyền lợi công nhân, khiến tình trạng mâu thuẫn trở nên ngày càng gay gắt. Dù vậy, lãnh vực công nhân vẫn luôn bị chế độ toàn trị tự cho mình cái quyền độc tôn.

Giữa lúc Biển Đông đang bên bờ vực chiến tranh, TPP là con đường duy nhất giúp nhà cầm quyền CSVN thoát khỏi cuộc khủng hoảng chính trị toàn diện, hay ít nhất có thể thoát khỏi sự thần phục vô điều kiện đối với Trung Quốc.

Cái giá phải trả cho giấc mộng TPP cũng buộc giới cầm quyền VN phải tôn trọng quyền tự do thành lập nghiệp đoàn lao động. Điều kiện này mở ra một cơ hội chưa từng có đối với những người mong mỏi thay thế và lấp đầy khoảng trống trong lãnh vực bảo vệ quyền lợi công nhân.

Những ‘cú hích’ mạnh mẽ tạo ra nhiều tiếng nói đòi hỏi phải có một công đoàn độc lập tại Việt Nam. Cuộc họp hôm 5/6 tại chùa Liên Trì đã dẫn đến thành quả chung của 18 tổ chức, hội đoàn cùng đồng thanh tuyên bố ủng hộ hoàn toàn công đoàn độc lập do chính công dân Việt Nam thành lập và điều hành.

Sau cuộc ‘Diên Hồng’ chưa từng có của Xã hội Dân sự, chắc chắn sẽ phải có thêm rất nhiều nỗ lực để hiện thực hóa giấc mơ về một công đoàn độc lập hoạt động hiệu quả và thực sự đại diện cho giới công nhân Việt Nam.

Cách đây 6 năm, một cô gái 23 tuổi đã biến những giấc mơ này thành hiện thực. Đỗ Thị Minh Hạnh và những người bạn của cô đã cho ra đời Phong Trào Lao Động Việt vào ngày 29/10/2008. Vào thời điểm bấy giờ, đây là một nỗ lực phi thường giữa lúc hiểm nguy ngặt nghèo.

Tuổi trẻ nhiệt huyết


Đỗ Thị Minh Hạnh sinh năm 1985 tại Di Linh, Lâm Đồng. Từ bé, những chuyến theo mẹ công tác trong Hội Chữ Thập Đỏ khiến Hạnh có những quan sát khác hẳn với bạn bè cùng lứa tuổi, trong cô bé Hạnh luôn tràn ngập tình yêu thương và mong muốn giúp đỡ mọi người.

Bác Minh - mẹ Hạnh cảm thấy vô cùng hạnh phúc và tự hào khi chứng kiến sự trưởng thành của con gái út. Thế nhưng, một biến cố lớn đã ập đến gia đình vào năm 18 tuổi, Hạnh bị công an bắt vì một tội danh mang tên ‘phản động’. Những đợt khủng bố liên tiếp của CA nhắm vào bà mẹ thương con khiến bác Minh nhiều lần gục ngã vì sợ con gái bị bỏ tù.

Thương mẹ, Hạnh hứa sẽ chuyên tâm lo học hành. Dù vậy, nhiều đêm nước mắt cô chảy dài, hình ảnh những dân oan kêu cứu vô vọng giữa dòng xe tấp nập Sài Gòn khiến Hạnh không thể ngồi yên.
...

Đỗ Thị Minh Hạnh - thiên thần của giới công nhân và những dân oan thấp cổ bé họng

Một ngày, khi không còn nước mắt để khóc, Hạnh bắt đầu hành động. Cô âm thầm đến hỗ trợ người dân mất đất và công nhân bị bóc lột. 

Thời gian này, Hạnh vẫn phải vừa học vừa làm, nhờ vậy có nhiều cơ hội tiếp xúc với giới công nhân và hiểu thêm về tình cảnh bi đát của họ. Hạnh bắt đầu ấp ủ giấc mơ giúp công nhân tạo nên sự thay đổi và có đủ khả năng đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình.

Năm 2008, phong trào dân chủ Việt Nam bị đàn áp khốc liệt, hàng chục nhà hoạt động bị bỏ tù. Đỗ Thị Minh Hạnh đi đến một quyết định lớn trong cuộc đời: từ bỏ một công việc lương cao và tạm rời xa ghế nhà trường, cô muốn dành toàn bộ thời và công sức để dấn thân bảo vệ quyền lợi người lao động.

Biến ước mơ thành hiện thực


Đối với một cô gái 23 tuổi, tham gia vào lãnh vực hoàn toàn mới lạ như bảo vệ quyền lợi người lao động là một công việc đầy gian truân và nguy hiểm.

Trước Hạnh, hai nhà hoạt động khác là anh Đoàn Huy Chương và Trần Quốc Hiền đã bị chế độ CS kết án nhiều năm tù giam chỉ sau một thời gian ngắn cho ra đời Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam. Sự trả thù mạnh tay đối với những nhà hoạt động bảo vệ quyền công nhân luôn là một rào cản rất lớn.

Bắt đầu với những bước đi chập chững, Đỗ Thị Minh Hạnh bằng sự quyết tâm và lòng chân thành đã giúp nhiều người vượt qua sự sợ hãi ban đầu. Điện thoại của cô bắt đầu nhận nhiều các cuộc gọi từ công nhân gọi đến.

Việc ngày càng nhiều, đôi chân Hạnh không khi nào ngơi nghỉ, có khi sáng ở khu công nghiệp Đồng Nai, chiều đã có mặt trong các dãy nhà trọ tồi tàn ở Long An. Có lần, Hạnh đã gần như ngất xỉu vì thiếu ngủ.

...

Nguyễn Hoàng Quốc Hùng - thanh
niên đầy hoài bão

Những cố gắng âm thầm của Hạnh đã tạo nên nhiều thành quả bước đầu, một số công nhân hiểu rõ hơn về quyền lợi chính đáng của mình và đã mạnh mẽ lên tiếng. Việc làm của Hạnh cũng giúp cô có được nhiều người ủng hộ hơn, trong đó có anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng - một thanh niên can đảm và đầy lý tưởng.

Đỗ Thị Minh Hạnh và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng ảnh hưởng nhiều từ ông Trần Ngọc Thành - chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Người Lao Động và cũng là một nhà hoạt động công đoàn kỳ cựu tại Ba Lan. Ông Trần Ngọc Thành từng là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, sau khi chứng kiến cuộc cách mạng Đông Âu với vai trò của Công đoàn Đoàn kết Ba Lan, ông Thành tuyên bố vứt thẻ đảng và tham gia đấu tranh.

Ông Trần Ngọc Thành là người đã hy sinh cả cuộc đời và gia sản để đấu tranh giành quyền lợi cho người lao động Việt Nam. Giống như hầu hết các thành viên của Ủy ban Bảo vệ Người Lao Động, ông Trần Ngọc Thành và hai người bạn trẻ Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng cùng có chung một ước mơ sẽ thành lập một công đoàn độc lập đại diện cho giới công nhân lao động tại Việt Nam.

Những ước mơ lớn gặp nhau, ngày 29/10/2008, Phong Trào Lao Động Việt ra đời với sự hình thành các nhóm công nhân âm thầm hoạt động trên nhiều khu công nghiệp.

Nhu cầu phát triển phong trào công nhân khiến Hùng và Hạnh ngày càng hăng hái dấn thân, mặc dù điều kiện hết sức khó khăn và thường xuyên đối mặt với các mối nguy hiểm.

Từ một cô gái xinh đẹp, chỉ sau vài tháng Hạnh trở nên đen đúa vì nắng gió, khuôn mặt xanh xao vì làm việc quá sức và ăn uống thiếu chất. Tài sản duy nhất của Hạnh là chiếc xe máy Tàu cũng đã bị bán đi để có chi phí đi lại và làm việc.

Hạnh luôn tin tưởng rằng, không ai đơn độc trên con đường chính nghĩa. Thực vậy, sau quãng đường không ngừng nghỉ, hai bạn đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt thành của những người bạn đồng hành mới, trong đó có anh Đoàn Huy Chương.

...

Đoàn Huy Chương - người đấu tranh
không mệt mỏi

Đoàn Huy Chương là người sáng lập Hiệp hội Đoàn kết Công nông Việt Nam, bị chế độ CS bắt giam và kết án 18 tháng tù. Giữa năm 2008, Chương ra khỏi tù mang theo nhiều chứng bệnh nặng, bên cạnh nỗi lo cơm áo gạo tiền của người trụ cột gia đình.

Đoàn Huy Chương mang hình ảnh của một người chiến sỹ phục quốc, ngọn lửa tranh đấu nhiệt huyết trong anh không bao giờ tắt. Bất chấp việc bị công an quản chế và theo dõi gắt gao, Chương vẫn bí mật liên lạc và tham gia làm việc cùng hai bạn Hùng, Hạnh.

Một điều có lẽ ít ai biết là vào năm 2009, sau khi vượt thoát sự theo dõi dày đặc của lực lượng công an, Đoàn Huy Chương một mình băng rừng vượt suối theo đường bộ và bí mật đến Thái Lan. Tại đây, Chương được một nhà hoạt động Miến Điện huấn luyện và hướng dẫn các kỹ năng tổ chức, hỗ trợ công nhân đình công, đấu tranh đòi quyền lợi chính đáng.

Trở về Việt Nam mang theo những kiến thức học được, nhóm Hạnh - Hùng - Chương tiếp tục hăng say làm việc và đã đạt được những thành quả ngoài sức tưởng tượng. Sự tham gia hưởng ứng của giới công nhân nhiều tỉnh thành cùng sự hỗ trợ của Ủy ban Bảo vệ Người Lao Động đã giúp Phong Trào Lao Động Việt có những bước đi vững chắc.

Nỗ lực không mệt mỏi của nhóm Hạnh - Hùng - Chương giúp giới công nhân mạnh mẽ đấu tranh đòi hỏi quyền lợi chính đáng. Nhiều cuộc đình công nổ ra từ từ Sài Gòn cho đến Trà Vinh, trong đó cuộc đình công tại nhà máy Mỹ Phong là một trong nhiều thành quả mà Phong Trào Lao Động Việt đạt được.

Để có được hình ảnh sau cùng là cuộc đấu tranh của hơn 10 ngàn công nhân Trà Vinh, ngoài những nỗ lực vượt trội, ba người bạn trẻ  Hạnh - Hùng - Chương đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, máu xương và những tháng năm tù đày nghiệt ngã.



Vụ đình công tại Nhà máy Mỹ Phong


Trên thực tế, nhóm Hạnh - Hùng - Chương đã làm được nhiều việc rất đáng trân trọng và lớn lao hơn nữa. Tuy nhiên, do thời điểm chưa cho phép nên bài viết này chỉ xin kể lại vụ việc tại nhà máy Mỹ Phong như một ví dụ điển hình về hoạt động của ba bạn trẻ chúng ta. 

Nhà máy giày da Mỹ Phong là công ty có vốn 100% của Đài Loan, với 2 chi nhánh cùng đặt tại Trà Vinh, tổng cộng có khoảng 11.000 công nhân.

Đầu năm 2010, tại đây liên tục xảy ra nhiều trường hợp chuyên gia Trung Quốc, Đài Loan chửi bới, đánh đập lao động Việt Nam. Công nhân nữ bị chuyên gia nước ngoài ném giày vào mặt gây thương tích, số khác bị chửi bới, xúc phạm bằng cách phải chui xuống gầm bàn để nhặt những lô giày mà các chuyên gia này vừa ném đi. Nhiều trường hợp bị ngất xỉu vì làm việc quá sức...

Mặc dù tình trạng vi phạm quyền lợi người lao động tại nhà máy Mỹ Phong diễn ra hết sức nghiêm trọng và đều diễn ra trước mặt cán bộ công đoàn nhà máy, nhưng phía công đoàn vẫn tỏ ra vô cảm.

Cuối tháng 1/2010, trước tết nguyên đán 2 tuần, ban giám đốc công ty Mỹ Phong ngang nhiên ăn chặn tiền lương và thưởng tết của công nhân, điều này đã tạo nên làn sóng bất bình trong công ty. Một số người đã nhờ công đoàn nhà máy can thiệp, nhưng đáp lại vẫn là những cái lắc đầu vô cảm. Trên thực tế, các cán bộ công đoàn đều nhận tiền từ nhà máy Mỹ Phong, nên họ đứng về giới chủ và bỏ mặc công nhân.

Nhận được lời cầu cứu của một số anh chị em công nhân, ba bạn Hạnh - Hùng - Chương lập tức có mặt. Sau khi lắng nghe chia sẻ và hiểu nguyện cọng của giới công nhân, các bạn đã giải thích để những người lao động hiểu được quyền lợi chính đáng của mình. Đồng thời, một kế hoạch đấu tranh bằng cách đình công nhanh chóng được mọi người hưởng ứng.

Các yêu sách đòi hỏi quyền lợi chính đáng gửi lên lập tức bị ban giám đốc nhà máy Mỹ Phong vứt vào sọt rác. Căng thẳng giữa người lao động và giới chủ ngày một gia tăng. Thông tin về kế hoạch đình công bị bại lộ bởi sự trà trộn của cán bộ công đoàn.

Để ngăn chặn đình công, giới chủ công ty đã yêu cầu lực lượng bảo vệ và công an chi viện, đóng chốt ngay tại nhà máy. Đồng thời, để không cho công nhân tập trung, ban giám đốc ra lệnh khóa kín cổng các phân xưởng, ngăn cách mọi liên lạc. Hành động này khiến một số công nhân nữ bị nhốt đã ngộp thở dẫn đến ngất xỉu. Sự phẫn nộ ngày một gia tăng nhưng chưa ai dám đứng lên kêu gọi đấu tranh.
...

Công nhân nhà máy Mỹ Phong (Trà Vinh) đình công đòi quyền lợi

Ngày 28/01/2010, ba thanh niên trong màu áo công nhân đã vượt thoát hàng rào công an, bảo vệ dày đặc để xuất hiện bên trong nhà máy đúng vào giờ nghỉ. Ba thanh niên này chính là Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương. Lời kêu gọi đình công đấu tranh ngay lập tức vang lên và nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ, dẫn đến những cuộc đình công kéo dài liên tiếp trong nhiều ngày.

Đáp lại, ban giám đốc ra lệnh khóa chặt cổng các phân xưởng nhằm không cho công nhân ra ngoài. Việc đóng kín cổng đã khiến 16 nữ công nhân ngất xỉu do ngộp thở, buộc lòng các công nhân phải phá cổng để đưa những người ngất xỉu đi cấp cứu.

Liên đoàn lao động tỉnh Trà Vinh liền xuất hiện tạo dựng hiện trường đập phá giả nhằm vu khống cuộc đình công. Hai công nhân tham gia đình công bị giám đốc và bảo vệ công ty bắt giữ, sau đó giao nộp cho công an. Hành động này như đổ dầu vào lửa, sự phẫn nộ leo thang có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất kiểm soát.

Nhóm Hạnh - Hùng - Chương đã kiên trì giải thích và nhận được sự hưởng ứng của nhiều công nhân. Cuộc đình công diễn ra có tổ chức và giúp ngăn chặn được một số hành động thiếu kiềm chế như đập phá máy móc, nhà xưởng...

Sau 3 ngày đình công liên tiếp, ban giám đốc nhà máy Mỹ Phong đã buộc phải xuống nước, chấp thuận yêu sách cả thiện mức lương. Do là thời điểm gần tết, nhiều công nhân cần tiền để lo cho gia đình nên đã tỏ ý muốn quay trở lại làm việc. Bầu không khí phân vân bắt đầu xuất hiện trong giới công nhân.

Đỗ Thị Minh Hạnh và các bạn cô cho rằng, việc chấp nhận chế độ lương bổng cho công nhân chỉ là giải pháp đối phó của công ty, và đây không phải là mục đích cao nhất của cuộc đình công. Cho dù tăng lương, nhưng giới chủ công ty vẫn tiếp tục xúc phạm, hành hung người lao động như trước thì vẫn chưa thể giải quyết được vấn đề.

Lập tức, một kế hoạch khác được nhóm Hạnh - Hùng - Chương gấp rút thực hiện ngay trong đêm.
...

Truyền đơn tại nhà máy Mỹ Phong, Trà Vinh

Ngày 31/1 và 1/2/2010, xung quanh nhà máy Mỹ Phong xuất hiện hàng ngàn truyền đơn kêu gọi tiếp tục đình công, đấu tranh cho những công nhân bị đuổi việc trước đó, đòi hỏi thành lập công đoàn do chính công nhân bầu ra, yêu cầu công ty phải tôn trọng nhân phẩm người lao động... Những truyền đơn này sau đó đã được truyền tay đến rất nhiều người, khiến những công nhân đang quay trở lại làm việc cũng lập tức nghỉ việc để tham gia cuộc đình công.

Lần đầu tiên sau năm 1975, tại Việt Nam xuất hiện một cuộc đình công mà người lao động mạnh mẽ yêu cầu trách nhiệm của giới công đoàn, đòi hỏi phải được tôn trọng nhân phẩm và đấu tranh cho những công nhân khác. Một cuộc đình công với thái độ rõ ràng và tinh thần đoàn kết rất cao.

Chính điều này đã khiến phía công ty tỏ ra lúng túng khi bắt đầu xuống nước đối thoại với công nhân. Ngay cả khi phía công ty chấp nhận yêu sách về lương bổng cũng không thể khiến các cuộc đình công chấm dứt. Đòi hỏi được tôn trọng nhân phẩm là điều kiện tiên quyết để người lao động quay trở lại làm việc.

Thậm chí, lực lượng hỗn hợp gồm công an, Liên đoàn lao động cùng đại diện giới chức Trà Vinh phải vất vả kéo đến can thiệp nhưng vẫn không giải quyết được tình hình.

Cuối cùng, sau 7 ngày đình công liên tục, phía công ty buộc lòng phải đáp ứng hoàn toàn các yêu sách được đưa ra, công nhân nhà máy Mỹ Phong mới bắt quay trở lại làm việc.

Cuộc đình công của hàng vạn công nhân Mỹ Phong đã thành công vang dội, gây được sự ảnh hưởng tích cực đối với công nhân các nhà máy lân cận. Tuy nhiên, sự thành công quá lớn của một cuộc đình công có kỷ luật đã khiến lực lượng công an huy động lực lượng truy tìm 3 người đứng sau tổ chức.

https://www.youtube.com/watch?v=aHfxPTmN10s


Trả thù nghiệt ngã


Năm 2010, nhà cầm quyền CSVN rầm rộ chuẩn bị đại lễ Nghìn năm Thăng Long cùng với việc gia tăng đàn áp nhân quyền. 16 nhà hoạt động bị kết án và bỏ tù chỉ vì thể hiện lòng yêu nước, lên tiếng đòi tự do dân chủ.

Phong trào Lao Động Việt gồm Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương cùng nhiều người khác lên kế hoạch rải truyền đơn mang tên “Lời Kêu gọi Ngàn Năm Thăng Long”, cảnh báo họa xâm lăng Trung Quốc, kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh đòi dân chủ nhân quyền cho Việt Nam.

Liên tục nhiều ngày trong dịp tết Canh Dần năm 2010, hàng trăm ngàn truyền đơn “Lời Kêu gọi Ngàn Năm Thăng Long” được phát tán khắp Sài Gòn, Đồng Nai và các tỉnh lân cận. Riêng trong sáng ngày 9/2/2010, truyền đơn xuất hiện tràn ngập tại các quận Tân Bình, Bình Tân, Tân Phú, Bình Chánh, Quận 10… Nhiều nơi, truyền đơn trắng xóa cả tuyến đường.

Bộ công an Việt Nam lập tức ban hành công điện khẩn cấp truy nã, bằng mọi giá phải bắt nhóm ba bạn Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương.

Ngày 11/02/2010, công an bắt giữ anh Đoàn Huy Tâm, anh trai của Đoàn Huy Chương, đồng thời bắn tin với gia đình sẽ thả anh Tâm nếu Chương ‘chịu ra đầu thú’. Sau khi thông báo tình hình gửi lời chia tay đến với Hùng và Hạnh, ngày 13/02/2010, Chương trực tiếp đến cơ quan công an để cứu anh trai và bị bắt mất tích từ đó.

...

Đỗ Thị Minh Hạnh trước khi bị bắt


Sau khi Chương bị bắt, Hạnh và Hùng biết rằng sắp đến lượt mình. Hạnh dành những ngày ít ỏi còn lại để trở về Di Linh chăm sóc mẹ, còn Hùng vẫn tiếp tục đi khắp các tỉnh rải truyền đơn.

Trong những ngày sau cùng, Hạnh tâm sự với bạn bè rằng “Ước gì có thêm thời gian, mình sẽ làm được nhiều việc hơn cho đất nước”, khi ấy không ai hiểu điều chị nói.

Ngày 23/02/210, Hạnh bị công an bắt và đánh đập dã man tại Di Linh. Khi cơ quan công an áp giải Hạnh về nhà lục soát, dù đã bị còng tay, nhưng cô vẫn tiếp tục bị đánh bởi những cú đấm vào đầu và mặt.

Khuôn mặt be bét máu của con gái lúc bị công an bắt đã khiến bà Minh - mẹ Hạnh vô cùng hoảng sợ. Nhiều tháng trời, bạn bè Hạnh không thể liên lạc với gia đình. Người mẹ ấy không muốn bạn bè con gái mình bị liên lụy, bà không muốn bất cứ ai phải chịu trận đòn thù tương tự như những gì con bà phải chịu đựng. Đến nay, mỗi khi nhớ lại trận đòn kinh hoàng của công an đối với Hạnh, khuôn mặt bà Minh lại ràn rụa nước mắt.   

Vài tiếng sau khi Hạnh bị bắt, lúc rạng sáng ngày 24/02, công vây bắt Nguyễn Hoàng Quốc Hùng khi anh đang rải truyền đơn tại Đồng Nai. Ngay đêm hôm đó, Hùng bị công an đánh đập và tra khảo hết sức tàn nhẫn. Hùng bị biệt giam suốt 8 tháng trời, gia đình không được tiếp xúc.

Ngày 26/10/2010, phiên tòa sơ thẩm không luật sư, không báo chí được mở ra tại Tòa án Nhân dân tỉnh Trà Vinh. Nhân chứng có mặt tại phiên tòa hôm ấy là một công nhân Mỹ Phong từng bị đuổi việc vì tham gia đình công.

Trước khi áp giải đến tòa, công an đã đe dọa và ép buộc anh công nhân này phải tố cáo nhóm Hạnh Hùng Chương, và phải khai theo những gì soạn sẵn. Dù vậy, khi đến phần xét hỏi, anh công nhân liền phản bác bản cung, anh một mực nói rằng Chương đến giúp anh ta tìm một công việc tốt hơn tại Sài Gòn, ngoài ra không nói bất cứ điều gì bất lợi cho Chương.

Người công nhân này sau đó quay sang mỉm cười, gật đầu chào Chương. Rồi anh đưa mắt nhìn về những viên công an đang bừng bừng nổi giận, anh công nhân sẵn sàng đón nhận tất cả sự trả thù sắp giáng xuống cho gia đình.
...

Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bị kết án 9 năm tù giam.
Người ngồi ghế là Đoàn Huy Chương bị kết án 7 năm tù giam

Tại tòa, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng trông nhợt nhạt và tiều tụy với những bước đi mệt mỏi. Hùng lên tiếng tố cáo việc bị CA bức cung và tra tấn, thậm chí suýt bị nguy hiểm đến tính mạng. Anh hổn hển nói từng câu khó nhọc, nhưng chưa dứt lời thì chiếc micro bị cắt.

Phiên tòa diễn ra chóng vánh và kết thúc với một bản án nặng nề cho cả ba bạn. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bị kết án 9 năm tù giam, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương bị kết án 7 năm tù giam. Cả ba bạn trẻ đều không nhận tội, không xin khoan hồng.

Cuối phiên xử, để tạm biệt hai bạn, Hạnh cười rất tươi và nói lớn: “Anh Hùng, anh Chương ơi. Em hát cho hai anh nghe nha”. Rồi cô cất tiếng hát bài “Tiễn bạn lên đường” ngợi ca tình bạn lúc chia tay. Giọng cô trong trẻo, thánh thót vang lên giữa phiên tòa ô nhục của chế độ. Đoàn Huy Chương hát theo những câu điệp khúc. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng dù không còn hơi sức nhưng vẫn nở nụ cười hạnh phúc trên khuôn mặt nhợt nhạt, lần đầu tiên anh cười kể từ lúc bị lôi đến phiên tòa với hai công an kè kè sốc nách.

Khi Chương vừa hát xong thì anh liền bị đánh và lôi đi. Hạnh cũng bị lôi ra xe, một viên công an cầm dùi cui đánh vào gáy cô, rồi một người khác nắm tóc đập đầu vào thành xe nhiều lần. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng còn lại chút hơi tàn cố hét lớn “Đả đảo cộng sản” trước khi anh bị đánh gục ngay tại chỗ.

Trong tù, cả ba bạn trẻ tiếp tục bị trả thù và hành hạ vô cùng nghiệt ngã. Trong một lần gặp vợ, Đoàn Huy Chương đã bật khóc và xin lỗi vợ, anh nói không biết còn có thể sống được đến ngày ra tù hay không. Còn Đỗ Thị Minh Hạnh đã bị điếc hoàn toàn phần tai trái sau nhiều lần bị công an đánh vào đầu, một bên ngực của cô teo cứng lại - dấu hiệu của bệnh ung thư vú. Gia đình Hạnh đã nhiều lần yêu cầu được đưa đi khám chữa bệnh, nhưng phía trại giam không hề đáp ứng.

Ước mơ nối tiếp ước mơ

...

Đỗ Thị Minh Hạnh - thiên thần trong ngục tố
i
Dù bị tù đày khắc nghiệt, Đoàn Huy Chương tiếp tục đấu tranh tuyệt thực trong trại giam Z30A để đòi quyền lợi chính đáng. Đỗ Thị Minh Hạnh từ chối lao động nhằm phản đối trại giam Thủ Đức bóc lột sức lực tù nhân và làm giàu cho cán bộ quản giáo. Công an buộc phải chuyển Đỗ Thị Minh Hạnh ra trại giam tận Hà Nội nhằm ngăn chặn tầm ảnh hưởng của cô đối với những tù nhân khác.

Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương vẫn luôn tiếp tục đấu tranh trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, thậm chí có thể bị nguy hiểm đến tính mạng. Tinh thần dấn thân của cả ba bạn là tấm gương và nguồn cảm hứng mãnh liệt cho những người đấu tranh ở trong và ngoài nước.

Dù buộc phải lui vào hoạt động bí mật, Phong trào Lao Động Việt vẫn tiếp tục ước mơ còn dang dở của ba bạn Hạnh - Hùng - Chương.

Nhiều hoạt động như phát tờ rơi, hướng dẫn quyền lao động, đình công có tổ chức... trong những năm vừa qua đều mang dấu ấn của 3 người bạn trẻ tiên phong mở đường. 

Bên ngoài, Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động gồm bà Ca Dao, các ông Nguyễn Đình Hùng, Đoàn Việt Trung, Nguyễn Tánh, Trần Ngọc Thành… đã bí mật đưa mẹ Hạnh là bà Trần Thị Ngọc Minh sang Châu Âu, bắt đầu chiến dịch vận động quốc tế đòi trả tự do cho Đỗ Thị Minh Hạnh và tất cả các tù nhân lương tâm tại Việt Nam.
...

Mỗi lần nhắc đến con, bà Minh đều bật khóc
Ảnh: Huỳnh Minh Tú

Trong lần vào trại giam cuối cùng trước khi rời Việt Nam, bà Minh nước mắt chảy dài ôm con và nói: “Má sẽ làm tất cả để con được tự do, dù có phải đi đến tận cùng trời cuối đất má cũng sẽ đi kêu cứu cho con. Má sẽ...”, bắt gặp ánh mắt chăm chú của người cán bộ quản giáo, bà Minh chợt im lặng. Đã hai năm qua, người mẹ ấy chưa được nói lời từ biệt con, và cũng chưa có cơ hội gặp lại con. Trong những chuyến vận động sang tận Mĩ, Úc... đêm nào bà cũng khóc nhớ con.

Ngày 17/1/2014, một đại hội được tổ chức tại Thái Lan đã công khai tuyên bố thành lập Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do, gọi tắt là Lao Động Việt. Đây là một liên minh với sự tham gia của 4 tổ chức, gồm: Công Đoàn Độc Lập Việt Nam, Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam, Phong Trào Lao Động Việt và Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam.

Đại hội kỳ 1 đã bầu ông Trần Ngọc Thành giữ chức Chủ tịch, Lao Động Việt chính thức hoạt động bán công khai sau một thời gian phải bí mật. Bước đầu, Lao Động Việt đã thành lập được một số công đoàn cơ sở tại Malaysia và Việt Nam.

Sự ra đời của Lao Động Việt là nỗ lực giúp phong trào đấu tranh đòi quyền lợi của giới công nhân cả nước ngày càng mạnh mẽ, một công đoàn thực sự đại diện cho người lao động.

Cùng với xu thế thời đại, xã hội dân sự Việt Nam có những bước đi vững chãi cùng những lợi ích từ TPP mang lại đã góp phần mở ra vận hội mới cho hoạt động công đoàn độc lập tại Việt Nam. Chưa bao giờ phong trào đấu tranh cho quyền lợi người lao động được quan tâm và đòi hỏi mạnh mẽ như hiện nay. Tuyên bố chung của 18 tổ chức dân sự hôm 8/6 cũng đã ủng hộ việc phải có một công đoàn độc lập tại Việt Nam.

Trong thời gian sắp tới, cuộc đấu tranh cho quyền lợi người lao động sẽ còn rất nhiều thử thách và chông gai. TPP không phải là cây gậy thần có thể khiến chế độ toàn trị chấp nhận cạnh tranh trong các hoạt động công đoàn - lãnh vực mà đảng cộng sản tự cho mình cái quyền độc tôn thống trị. Sự trở mặt sau khi nhà cầm quyền CSVN được vào WTO và tổ chức xong hội nghị APEC hồi 2006 là những bài học còn rất gần.

Dù vậy, Đỗ Thị Minh Hạnh cùng các bạn của cô đã để lại những di sản vô cùng quý giá về tình đoàn kết, thái độ đấu tranh kiên cường và tinh thần bất khuất trước bạo quyền.

Sự đoàn kết của 4 tổ chức tạo thành Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do chính là sự tiếp nối ước mơ và con đường mà Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương đã mở lối tiên phong.

Trong một cuộc phỏng vấn vào lúc cận kề ngày bị bắt, Đỗ Thị Minh Hạnh từng nói: “Nếu chúng ta không lên tiếng thì ai sẽ lên tiếng? Nếu chúng ta không làm thì ai sẽ làm? Và nếu như có nguy hiểm đi chăng nữa thì chúng tôi vẫn chấp nhận điều đó.”

Chấp nhận hiểm nguy, nhóm ba người bạn Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương đã hy sinh những năm tháng đẹp nhất đời người để cống hiến và đấu tranh cho quyền lợi người lao động. Trong cảnh sống lao tù, cả ba vẫn trước sau như một: không nhận tội, không sợ hãi, không lùi bước.

Hôm 13/3/2014, trong ngày sinh nhật lần thứ 5 trong tù, Đỗ Thị Minh Hạnh đã nhờ ba gửi đến tất cả mọi người bức thư như sau:
...

“Con xin cảm ơn tất cả mọi người đã yêu thương và dành tình cảm đặc biệt cho con trong ngày sinh nhật. Thật ấm áp và hạnh phúc. Xin hẹn mọi người ngày sinh nhật 13/3/2017”.

“Xin hẹn mọi người ngày sinh nhật 13/3/2017”
- Hạnh bị bắt vào năm 2010 khi 25 tuổi, đến ngày mãn hạn bản án 7 năm tù giam vào năm 2017 thì cô đã bước sang tuổi 32. Những năm tháng đẹp nhất đời người con gái trôi qua sau song sắt nhà tù.

“Xin hẹn mọi người ngày sinh nhật 13/3/2017” - lời nhắn nhủ của Hạnh gửi đến tất cả chúng ta. Hạnh không nhận tội, không xin khoan hồng và cũng không thỏa hiệp để được ra tù trước thời hạn. Cô chấp nhận ngồi tù đến khi hết án chứ không xin xỏ chế độ độc tài.

“Xin hẹn mọi người ngày sinh nhật 13/3/2017”
- sợ rằng khối u trong ngực sẽ không cho phép Hạnh sống được đến ngày đó. Mặc dù dấu hiệu ung thư đã quá rõ ràng, nhưng nhà cầm quyền CSVN vẫn không để gia đình đưa Hạnh được khám chữa bệnh đúng chuyên khoa. Phải chăng, chế độ độc tài muốn trả thù Hạnh bằng cách để cô chết dần chết mòn như đã từng làm với thầy giáo Đinh Đăng Định?

Dứt khoát, công đoàn độc lập sẽ luôn phải gắn liền cuộc đấu tranh bảo vệ quyền lợi người lao động và cuộc đấu tranh đòi trả tự do cho những người tiên phong là Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương và tất cả các tù nhân lương tâm khác. Vốn quý của dân tộc dứt khoát phải được tự do, đây cũng là điều kiện tiên quyết để đưa đất nước đến dân chủ và cường thịnh.

Ước mơ của Hạnh cũng chính là ước mơ của Chúng Ta!


Trọng
danlambaovn.blogspot.com

Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Pages: 1 
Send Topic In ra