Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra
TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM (Read 12388 times)
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
18. Jul 2009 , 21:27
 
Về phiá Tự Do: Cuộc Di Cư Vĩ Đại Trốn Chạy Cộng Sản Năm 1954        


...
Về phiá Tự Do

Mời xem Utube, với bản nhạc và những hình ảnh không cầm được nước mắt:

http://www.youtube.com/watch?v=i-3NxiOpNXg&feature=related

Thêm hình ảnh cuộc di cư sau Hiệp Định Genève 20/07/1954:

http://www.langven.com/forum/pda/index.php?t2725-50.html

...

Các chàng thuỷ thủ mở cưả ngõ về phiá Tự Do

...

Nhân viên Y tá Hoa Kỳ săn sóc người bệnh

...


Thuỷ thủ Mỹ phát nước cho đồng bào di cư

...
Cu Tèo này di cư bằng sức lao động đấy chứ, em bé giúp thuỷ thủ Mỹ cạo sơn, giờ này chắc đã thành ông già 60 rồi

đồ biển sưu tầm
Back to top
« Last Edit: 15. Jan 2010 , 22:41 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #1 - 15. Jan 2010 , 23:14
 
 
Tội Ác Thủ Tiêu Mất Tích 165,000 Quân Dân Cán Chính VNCH


Mang Kẻ Phạm Tội Ra Trước Công Lý và Mang Công Lý Tới Nạn Nhân

...





Trong tháng 4/1975, cộng sản Bắc Việt – với sự yểm trợ và tiếp vận của khối cộng sản quốc tế – đã mở một cuộc tấn công ào ạt bằng quân sự với chiến xa và trọng pháo vượt qua biên giới, chiếm đóng lãnh thổ VNCH một cách phi pháp. Đây là một cuộc xâm lăng của khối Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho bọn tay sai Việt Cộng. Theo công pháp quốc tế, VNCH hội đủ tám tiêu chuẩn của một quốc gia độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã phạm tội ác xâm lược (the crime of aggression). Đây là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The International Criminal Court, viết tắt là ICC).

Ngày Thứ Hai, 23/7/07, trên trang mạng của tờ The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đã kết luận rằng ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn – dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trong toàn cõi Việt Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đã bị giam cầm từ ba tới 10 năm và có một số người đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7.000.000 năm. Đây là một tội ác hình sự mang tính lịch sử vô tiền khoáng hậu của lũ Việt gian cộng sản mà ngàn đời sau phải ghi nhớ.

Cũng theo cuộc điều tra nói trên, cứ mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đã có 165.000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165.000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà chánh phạm là tên Lê Duẩn… và ba tên đồng phạm hiện nay là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng.

Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa tội Thủ Tiêu Mất Tích Người “Enforced Disappearance of Persons” như sau:

Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là bắt giữ, giam giữ hay bắt cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của một quốc gia hoặc một tổ chức chính trị, sau đó không nhìn nhận sự tước đoạt tự do của người ta và cũng không thông báo tin tức về số phận hoặc nơi giam giữ với chủ tâm tước đi quyền được luật pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian lâu dài.
“Enforced disappearance of persons means the arrest, detention or abduction of persons by, or with the authorization, support or acquiescence of a State or a political organization, followed by a refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to give information on the fate or whereabouts of those persons, with the intention of removing them from the protection of the law for a prolonged period of time.”

Theo định nghĩa trên đây, Việt Cộng đã phạm tội ác thủ tiêu mất tích người khi chúng lạm danh chính quyền của quốc gia để đưa ra những thông cáo lừa gạt để bắt và giam giữ một cách phi pháp – dưới cái nguỵ danh “học tập cải tạo” – và hành hạ cho tới chết bằng những đòn thù của chúng, và tiếp tục chôn giấu hài cốt của 165.000 quân dân cán chính VNCH trong vùng rừng núi với chủ tâm thủ tiêu mất tích. Đây là một tội ác chống loài người (a crime against humanity). Tội ác này thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.

Ngoài tội ác đối với những người đã chết, cộng sản còn phạm thêm một tội ác chống loài người nữa đối với thân nhân của những người đã chết. Đó là hành động độc ác (inhumane act) với chủ tâm gây đau khổ tinh thần triền miên suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh của những người mẹ, người vợ, người con… đã có con, có chồng, có cha…bị giam cầm hành hạ cho tới chết và thân xác bị chôn giấu tại một xó thâm sơn cùng cốc nào đó và tuyệt vô âm tín suốt 35 năm nay mới thấu được nỗi thống khổ trong tâm can họ!

Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa những hành động độc ác của tội ác chống loài người này như sau:

Những hành động độc ác có cùng một tính cách với chủ tâm gây thống khổ hay thương tích nghiêm trọng cho thân xác hay cho sức khoẻ về thể chất và tinh thần.
“Other inhumane acts of a similar character intentionally causing great suffering or serious injury to body or to mental or to physical health.”

Theo định nghĩa trên đây, cộng sản đã phạm tội ác chống loài người khi chúng chôn giấu trong rừng sâu 165.000 bộ hài cốt của quân dân cán chính VNCH đã chết dưới đòn thù của chúng với chủ tâm gây thống khổ “intentionally causing great suffering” suốt đời cho thân nhân của họ. Đây là cung cách trả thù phi pháp (extrajudicial retribution) của quân thảo khấu sống ngoài vòng pháp luật. Tội ác này cũng thuộc quyền xét xử của ICC.

Bổn phận của chúng ta, những người tù còn sống sót sau cơn đại hồng thuỷ là phải cất tiếng nói công chính, nêu rõ tội ác của chúng để mang bọn tội phạm này ra trước công lý và mang công lý đến cho những nạn nhân của chúng. Đây là bổn phận phải làm để trả lại danh dự cho 165.000 quân dân cán chính VNCH đã bị sát hại vì đòn thù của Việt Cộng trong những cái gọi là trại cải tạo và để xoa dịu một phần nỗi đau thương của thân nhân những nạn nhân.

Hai tội ác chống loài người trên đây của Việt Cộng là những tội ác hình sự có tính quốc tế và. được dự liệu tại Đạo Luật Rome. Trước khi đưa bọn tội phạm ra xét xử trước công lý, xin trình bày tóm lược về Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.

Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The Rome Statute of the International Criminal Court)

Sau một thời gian dài cố gắng thành lập một Toà Án Hình Sự Quốc Tế để xét xử và trừng phạt các cá nhân phạm bốn loại tội ác nghiêm trọng được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm gồm:
1/ tội ác diệt chủng (the crime of genocide),
2/ tội ác chống nhân loại (crimes against humanity,
3/ tội ác xâm lược (the crime of aggression),
4/ và tội ác chiến tranh (war crimes),
cuối cùng thì một hội nghị đã được Liên Hiệp Quốc triệu tập tại Rome, Italy trong thời gian từ ngày 15/6/1989 đến ngày 17/7 /1989 với 160 quốc gia tham dự. Sau năm tuần lễ thảo luận và điều đình căng thẳng, 120 quốc gia đã bỏ phiếu chấp thuận Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế cùng với bẩy quốc gia bỏ phiếu chống (Hoa Kỳ, Do Thái, Trung Cộng, Iraq, Qatar…) và 21 quốc gia bỏ phiếu trắng. Đạo Luật Rome gồm có – ngoài Lời Mở Đầu (Preamble) – 13 Phần (Part) với 28 Điều (Article). Các Điều 6, 7 và 8 liệt kê và định nghĩa các tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh. Các Điều còn lại nói về quyền hạn, tổ chức và điều hành… của Toà Án.

Theo quy định, Đạo Luật Rome sẽ có hiệu lực sau khi được 60 quốc gia phê chuẩn. Senegal là quốc gia phê chuẩn đầu tiên và quốc gia thứ 66 đã phê chuẩn vào ngày 11 tháng 4 năm 2002. Đạo Luật Rome có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2002. Toà Án Hình Sự Quốc Tế cũng được mở ra trong năm đó tại The Hague, Netherlands. Hiện nay đã có 110 quốc gia phê chuẩn Đạo Luật Rome và trở thành quốc gia hội viên (State party) của đạo luật này. Quốc hội Hoa Kỳ đã không phê chuẩn đạo luật này, nên Hoa Kỳ không phải là quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome.

Toà Án Hình Sự Quốc Tế là một tổ chức quốc tế độc lập, không trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Điều này có nghĩa là Toà Án Hình Sự Quốc Tế độc lập về quyền tài phán, xét xử. Kể từ ngày 1-7-2002 trở đi, các quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome phải chấp nhận quyền xét xử (jurisdiction) của Toà Án Hình Sự Quốc Tế về những tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome khi những tội ác đó diễn ra tại các nước hội viên. Công dân của các quốc gia không phải hội viên (non State party) gây tội ác trên lãnh thổ của các quốc gia hội viên cũng phải chịu sự xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.

Công Tố Viên Trưởng của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The ICC’s Chief Prosecutor) bắt đầu thụ lý và mở một cuộc điều tra về một vụ án khi nhận được tin tức về tội ác đang diễn ra do các quốc gia hội viên hoặc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chuyển tới. Ngoài hai nơi cung cấp tin tức nói trên, Công Tố Viên còn có thể nhận tin tức từ các nguồn cung cấp khác như các cá nhân hay các tổ chức ngoài chính phủ (non-governmental organizations).

Khi tội ác diễn ra trên lãnh thổ của một quốc gia không phải hội viên, chỉ có Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc mới có quyền chuyển thông tin về những tội ác đó cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý. Đây là trường hợp đã được áp dụng đối với Sudan, một quốc gia không phải hội viên. Bằng Nghị Quyết số 1593 năm 2005, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã chuyển tới Toà Án Hình Sự Quốc Tế tình trạng tội ác đã và đang diễn ra tại Darfur. Phòng công tố đã mở các cuộc điều tra, và ngày 14-7-2008, Toà Án đã ban hành trát bắt giữ Ahmad Muhammed Harun (Ahmed Haroun), Bộ Trưởng Nội Vụ của Sudan và Ali Muhammed Ali Abd-Al-Rahman (a.k.a Ali Kushayb), một tư lệnh dân sự. Hai người này bị quy trách nhiệm về các tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh đã và đang diễn ra tại Darfur. Chính quyền Sudan đã từ chối bắt giữ và giải giao hai nhân vật nói trên cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế.

Ngày 14-7-2008, Công Tố Viên Luis Mereno-Ocampo đã trình bày những chứng cứ chứng minh rằng Tổng Thống Sudan phải chịu trách nhiệm về các tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đã và đang diễn ra tại Darfur. Ngày 4-3-2009, Toà Án Hình Sự Quốc Tế đã ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Omar Hassan Al-Bashir của Sudan để trả lời trước công lý về năm tội ác chống nhân loại được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome:
1/ Tội giết người (Murder),
2/ Tội huỷ diệt chủng tộc (Extermination),
3/ Tội cưỡng bức chuyển vùng cư trú (Forcible transfer),
4/ Tội hành hạ (Torture),
5/ Tội hiếp dâm (Rape),
và hai tội ác chiến tranh được dự liệu tại Điều 8 của Đạo Luật Rome:
          1/ Tội cướp bóc (Pillaging),
          2/ Tội trực tiếp tấn công có chủ tâm vào cư dân hay những cá nhân không đứng vào phe nào trong cuộc tranh chấp thù địch.

Cùng với việc ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Bashir, Toà Án Hình Sự Quốc Tế cũng gửi một công văn yêu cầu nhà cầm quyền Sudan giải giao Tổng Thống Bashir cho Toà Án. Theo Nghị Quyết số 1593 năm 2005 của Hội Đồng Bảo An LHQ đã nói ở trên, chính quyền Sudan có bổn phận phải hợp tác với Toà Án. Tuy nhiên, không có hy vọng chính quyền Sudan sẽ bắt và giải giao Tổng Thống Sudan cho Toà Án. Chính quyền này đã nhiều lần tuyên bố rằng họ không nhìn nhận thẩm quyền của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.

Nếu Tổng Thống Bashir không ra trình diện hoặc chính quyền Sudan không giải giao ông này cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế, ông ta sẽ bị coi như một kẻ đang đào tẩu, trốn tránh công lý (a fugitive from justice). Và kể từ nay, khi nào ông Bashir bước chân ra khỏi Sudan, đến một quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome và ngay cả những quốc gia không phải hội viên nhưng sẵn sàng hợp tác với Toà Án, ông ta sẽ bị bắt và giải giao cho Toà Án để trả lời trước công lý về những tội ác mà ông ta phải chịu trách nhiệm.

Một điều quan trọng cần ghi nhận rằng lệnh bắt giữ để đưa ra toà án xét xử một tổng thống đang tại chức vì những tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh…là hồi chuông cảnh báo nghiêm khắc cho những kẻ cầm quyền đang phạm những tội ác chống nhân loại có tổ chức quy mô tại Việt Nam như những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng rằng chúng sẽ phải đối diện với công lý bất kể quyền lực và cương vị của chúng.

Tội ác thủ tiêu mất tích 165.000 quân dân cán chính VNCH đã hiển nhiên không thể chối cãi. Ngoại trừ một số rất ít hài cốt của họ đã đuợc thân nhân tìm cách chạy chọt cải táng, tuyệt đại đa số 165.000 bộ hài cốt còn lại đã và đang bị cộng sản chôn giấu để thủ tiêu với chủ tâm trả thù. Chánh phạm của tội ác chống loài người này là tên Lê Duẩn và các thủ phạm tiếp theo là những tên Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải…và ba tên tòng phạm hiện nay là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng. Ngoại trừ những tên đã chết, tất cả những tên còn sống – sớm hay muộn – sẽ phải ra trước vành móng ngựa để trả lời về những tội ác giam cầm phi pháp và thủ tiêu mất tích 165.000 quân dân cán chính VNCH và nhiều tội ác khác mà chúng đã phạm đối với dân tộc Việt Nam trong suốt thời gian kể từ khi chúng cướp được chính quyền bằng khủng bố từ ngày 19/8/1945. Đảng cộng sản VN, một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, là một tổ chức tội ác tay sai có tính quốc tế. Sớm hay muộn, tội ác phải bị trừng phạt.

...

Nguỵ quyền Việt Cộng không ký và phê chuẩn Đạo Luật Rome, nên cộng đồng người Việt hải ngoại không thể trực tiếp chuyển các tội ác chống nhân loại của chúng cho Công Tố Viên của Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý. Tuy nhiên, chúng ta có thể tố cáo tội ác của chúng đến Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ (United Nations Human Rights Council) để yêu cầu uỷ ban này mở cuộc điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165.000 quân dân cán chính VNCH và chuyển thông tin về những tội ác này cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để chuyển tiếp tới Toà Án Sự Hình Sự Quốc Tế để thụ lý. Sự kiện này đã có tiền lệ và chúng ta có thể áp dụng.

Trước dư luận quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế về tội ác trong cuộc chiến tại Gaza, ngày 3-4-09, Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ đã mở một cuộc điều tra về tội ác chiến tranh đã diễn ra tại dải Gaza trong cuộc chiến 22 ngày từ 27-12- 2008 tới 18-1- 2009. Toán điều tra gồm bốn chuyên viên cầm đầu bởi Thẩm Phán Richard Goldstone. Sau năm tháng điều tra, ngày 29-9-2009, Thẩm Phán Richard Goldstone đã trình cho Uỷ Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva báo cáo kết quả điều tra gồm 575 trang và kết luận rằng cả Do Thái và Palestine cùng phạm tội ác chiến tranh mang tính chất tội ác chống loài người. Báo cáo yêu cầu Hội Đồng Bảo An LHQ đòi hỏi cả hai bên trong cuộc chiến – trong thời hạn sáu tháng – phải điều tra và xét xử những kẻ phạm tội. Nếu hai phe không thi hành, tội ác sẽ được chuyển cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý.

Ngoài sự kiện kể trên, sau đây là hai trưòng hợp điển hình về pháp lý quốc tế mà người Việt hải ngoại có thể áp dụng đối với những tên đầu sỏ Việt Cộng khi chúng ra khỏi nước.

Ngày 14/12/09, trang mạng của báo Guadian.co.uk đã đưa tin về việc Ông Moshe Yaalon, Phó Thủ Tướng Do Thái, đã quyết định không đến tham dự một buổi lễ gây quỹ tại Luân Đôn trong Tháng 11/09, sau khi được cảnh báo rằng ông ta có thể bị bắt giữ vì bị cho là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Quyết định của ông ta được đưa ra trong Tháng 10/09, một tuần lễ sau khi các luật sư của 16 người Palestine đã không thành công trong việc vận động một toà án tại Anh ban hành trát bắt giữ Ông Ehud Barak, Bộ Trưởng Quốc Phòng Do Thái, khi ông này viếng thăm Anh vì bị cho là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza.

Cũng nguồn tin nói trên cho biết ngày Thứ Bẩy 12/12/09, một toà án tại Luân Đôn đã ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái, cũng bị cho là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Lệnh bắt giữ này đã được huỷ bỏ vào ngày Thứ Hai 14/12/09 sau khi được biết Bà Tzipi Livni đã huỷ bỏ, không tham dự một buổi hội họp tại Luân Đôn vào ngày Chủ Nhật 13/12/09. Toà án đã ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni chiếu theo yêu cầu của các luật sư đại diện cho các nạn nhân người Palestine trong cuộc chiến tại Gaza. Bà Tzipi Livni là thành viên của nội các chiến tranh và bộ trưởng ngoại giao của Do Thái khi diễn ra cuộc tấn công vào dải Gaza vào cuối năm 2008.

Khi những người Palestine vận động một toà án của Anh quốc ban hành trát bắt giam Ông Bộ Trưởng Quốc Phòng và Bà cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái khi hai người này đến Anh quốc, họ đã dựa trên nguyên tắc pháp lý quốc tế về quyền xét xử phổ biến “universal jurisdiction or universality principle.” Quyền này dựa trên lập luận rằng tội ác đã phạm được coi như một tội ác chống lại tất cả “a crime against all” và bất cứ quốc gia nào cũng có quyền trừng phạt. Do đó, những nạn nhân và cũng là thân nhân của những người đã bị Việt Cộng thủ tiêu mất tích cũng có thể vận động để áp dụng nguyên tắc pháp lý quốc tế này đối với những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng… khi chúng bước chân ra khỏi nước và đến những quốc gia có áp dụng nguyên tắc pháp lý quốc tế về quyền xét xử phổ biến.

Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam là tổ chức chính danh nhất đại diện cho cộng đồng người Việt hải ngoại để yêu cầu Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165.000 quân dân cán chính VNCH. Nếu Việt Cộng từ chối không cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ vào Việt Nam để mở cuộc điều tra này, điều đó chứng tỏ rằng chúng tìm cách chốn tránh tội ác của chúng.

Nếu chúng ta vận động mà LHQ – một tổ chức giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành Toà Án Hình Sự Quốc Tế – vì một lý do nào đó, không chuyển những tội ác chống loài người của Việt Cộng cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý, chúng ta vẫn còn cách đưa bọn tội phạm này ra trước công lý. Sớm hay muộn, chế độ cộng sản vô tổ quốc, phi dân tộc sẽ bị huỷ diệt. Chính những tên đầu sỏ đang tiếm quyền trong nưóc cũng đang thú nhận rằng chế độ của chúng đang tự diễn biến, đang tự chuyển hoá để tự huỷ diệt…Ngày đó không còn xa và một chính quyền chính thống của toàn dân Việt Nam sẽ hợp tác với LHQ để tổ chức một toà án hình sự đặc biệt có tính quốc tế như Toà Án Đặc Biệt tại Cam Bốt có tên Anh ngữ là Extraordinary Chamber in the Courts of Cambodia (viết tắt là ECCC) đang xét xử bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ tại Nam Vang vì các tội ác chống loài người, tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng. Đây là một tiền lệ sẽ được thực thi tại Việt Nam sau này để xét xử những tên chánh phạm Việt Cộng đã phạm bốn nhóm tội ác có tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome trong suốt những năm tiếm quyền của chúng.

Mang Việt Cộng, bọn tội phạm có tính quốc tế, ra trước công lý và mang công lý tới các nạn nhân của chúng là điều cần thiết bởi vì công lý là một thành tố không thể thiếu trong tiến trình hoà giải dân tộc. “Justice is an indispensable ingredient of the process of national reconciliation.” Dân tộc Việt Nam đã bị phân hoá và chia rẽ, xã hội Việt Nam đã bị băng hoại trầm trọng bởi những di sản độc hại mà chế độ phi nhân cộng sản đã để lại cho dân tộc suốt 80 năm nay kể từ khi Hồ Chí Minh lén lút du nhập cái chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Mang bọn tội phạm này ra trước công lý là để mang lại hoà bình cho xã hội. “Justice and peace go hand in hand.” Sau hết, mang bọn tội phạm Việt Cộng ra trước công lý là một bài học cho các thế hệ tương lai để tránh những vết xe đổ của lịch sử.

Đi Vào Bất Tử

165.000 quân dân cán chính VNCH đã chết dưới đòn thù của cộng sản trong các trại tù cải tạo phải được tôn vinh là những người đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia dân tộc. Tổ quốc sẽ ghi ơn họ như đã ghi ơn những người lính QLVNCH đã chiền đấu và hy sinh ngoài mặt trận để bảo vệ quê hương. Về phương diện tâm linh, tôi không tin rằng những người này đã chết mà chỉ tan mờ đi như hình ảnh những người lính trong cái điệp khúc của khúc ballad nổi tiếng một thời mà Đại Tướng Douglas MacArthur đã nhắc đến trong phần cuối của bài diễn văn từ biệt đọc tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 19-4-1951. Xin ghi lại nguyên văn và không chuyển ngữ:

“Old soldiers never die; they just faded away.”
Cũng xin ghi lại đây và không chuyển ngữ câu kết của bài diễn văn từ biệt nổi tiếng đã đi vào lịch sử của Đại Tướng MacArthur để những người lính chúng ta chiêm nghiệm.

“And like the old soldier of that ballad, I now close my military career and just fade away, a soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty.”

“Good bye,"


Đây cũng chính là hình ảnh của những chiến binh QLVNCH, những người đã đi chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc dưới ánh hào quang dẫn đường của Tổ Tiên Lạc Việt và đi vào bất tử.

Và những hình ảnh hiên ngang đi vào bất tử của người chiến binh QLVNCH khi bị sa cơ trong tay quân thù cũng đã được nhà thơ Cung Trầm Tưởng ghi lại trong bài hành Vạn Vạn Lý được viết tại một trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn vào năm 1977.

VẠN   VẠN   LÝ

(Tưởng nhớ những tù hùng tuẫn tử)

Cung Trầm Tưởng




VẠN VẠN LÝ
(Tưởng nhớ những tù hùng tuẫn tử)
Cung Trầm Tưởng

                   Ngồi trùm lần bóng tối                Mưa về gióng lê thê
                   Nhìn mây đi lang thang               Nai kêu nguồn đâu đó
                   Mây giăng xám hàng hàng          Xưa nay tù ngục đỏ
                   Trời vào đông ảm đạm               Mấy ai đã trở về

                   Chấn song đan u ám                  Vỗ vỗ rơi tàn thuốc
                   Sần sùi nhớp nhúa đen               Phà khói vào mông lung
                   Ran ran nhạc dế mèn                 Hư vô đẹp não nùng
                   Nhởn nhơ cười chẫu chuộc         Nụ hôn đời khốc liệt
                  
                   Vỗ vỗ rơi tàn thuốc                    Cõi sầu ta tinh khiết
                   Phà khói vào hơi sương             Thép quắc vầng trán cao
                   Xa xưa trống lên đường             Phong sương dệt chiến bào
                   Tiếng quân hô hào sảng             Với máu xe làm chỉ

                   Nẻo cồn vàng bãi trắng              Đã đi trăm hùng vĩ       
                   Sa trường hề sa trường              Xông pha lắm đoạn trường
                   Tiết tháo quắc đao thương          Về làm đá hoa cương
                   Chinh nhân ngàn dặm ruổi          Gửi đời sau tạc tượng

                   Gió lên như địch thổi                  Uống uốngnguyên hàm lượng
                   Đưa ai qua trường giang             Sương trong cất đầy vò
                   Nay cô liêu bạt ngàn                  Sầu này thước nào đo
                   Tiễn ta vào bất tử                      Khi đao rơi kiếm gẫy

                   Đau thương là vinh dự               Gió về lay lau dậy
                   Chân đi hất hồng trần               Sơn khê khói mịt mù
                   Anh hùng phải gian truân          Ngà ngà nhấp thiên thu
                   Hy sinh là tất yếu                     Bay…bay…vạn vạn lý
                   Ngựa phi dòn nước kiệu…         Tráng sĩ hề tráng sĩ!



Cung Trầm Tưởng

Hoàng Liên Sơn, 1977

Trong khi viết bài này, tôi luôn luôn nghĩ đến những người bạn tù đã chết vì đòn thù của cộng sản trong đó có anh bạn tại trại 6, liên trại 2 tại Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi cùng thuộc đội “lao động nặng.” Anh nằm cách tôi một người bạn. Vào một tháng cuối năm 1977, cả đội tù chúng tôi khoảng 50 người phải đi phát quang một khu đồi rộng 300 mẫu để trồng khoai mì. Khu đồi này cách trại giam khoảng 15km đường rừng. Ban ngày đi làm khổ sai; đêm đông về, đói và lạnh, chúng tôi phải ngủ trong những túp lều trống gió, mái che bằng những tấm nylon cá nhân, dựng tại chân đồi. Tuy là lính nhưng dáng người anh nho nhã. Trong đầu anh chứa cả một bộ từ điển bách khoa. Năm đó anh chừng 45 tuổi. Sau hai tháng khổ sai tại khu đồi 300, trở lại trại tù ít ngày thì anh chết vì suy dinh dưỡng và kiệt sức nhưng tinh thần anh luôn luôn vững mạnh. Giờ này, thân xác anh có thể còn đang bị cộng sản chôn giấu tại một góc rừng nào đó trong vùng Hoàng Liên Sơn trong nỗi đau khôn nguôi của vợ con anh. Tên anh là Đặng Vũ Ruyến, Trung Tá, Chánh Sở Địa Hình tại Đà Lạt.

Kể từ ngày đó đến nay đã hơn 30 năm, mỗi khi nhớ đến Anh, tôi vẫn không tin là Anh đã chết mà Anh đang bay…bay vào Vạn Vạn Lý, và…fade away…vào nơi bất tử.

Đỗ Ngọc Uyển(Khoá 4 Thủ Đức)

Tháng 1 năm 2010

SanJose, California



  Tài liệu tham khảo

-http://untreaty.un.org/cod/icc/statute/99_corr/2.htm, The Rome Statute of the ICC

- http://www.geocities.com/cabvoltaire.geo/MacAthure, Douglas MacAthur’s Farwell Speech to Congress

- http://www.opinionjournal.com/best/?id=110010372, The Wall Street Journal, from the WSJ Opinion Archives by James Tananto

- http://un.org/en/law/index.shtml, International law, international Courts …

- http://www2ohchr.org/enghish/bodies/...session/9/fac…, United Nations Fact Finding Mission on the Gaza conflict

- http://www.nytimes.com/2009/03/05/wo...rss&pagewanted Court Issues Arrest Warrant for Sudan’s Leader

- http://geography.about.com/cs/politi...tatenation.htm, Defining an Independent Country

- http://www.guadian.co.uk/world/2009/...israel-gaza-a… British court issued Gaza arrest warrant for former Israel minister Tzipi Livni

- http://www.guardian.co.uk/world/2009...she-yaalon-vi… Israel minister Moshe Ya’alon turned down UK visit over arrest fears.

Back to top
« Last Edit: 16. Jan 2010 , 17:35 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #2 - 19. Jan 2010 , 21:18
 
Tội ác Cộng Sản Việt Nam
:
Thảm Nạn Thuyền Nhân


Vietlist thu thập.


Sau khi chà đạp lên hiệp định Hoà bình Paris 1973 và cưỡng chiếm miền Nam vào năm 1975, csvn đã áp đặt một chế độ độc tài, man rợ lên toàn đất nước. Hàng triệu người đã bỏ nước ra đi. Trong khi khoảng 2 triệu người may mắn đến được bến bờ tự do, thì có đến trên dưới nửa triệu người Việt thân yêu đã bỏ thây trên biển cả. Những hình ảnh dưới đây được ghi nhận từ năm châu, bốn biển để tưởng nhớ đến những thân nhân bất hạnh không bao giờ còn thấy được bến tự do .
...


Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng
mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.

...


Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng
mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.

...


...


Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng
mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.

...


...


Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng
mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.

...


...

Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng
mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.

...


Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản . Hình ảnh nầy và rất nhiều tượng đài tưởng niệm nạn nhân Cộng Sản trên toàn thế giới sẽ là những vết nhơ không tẩy xoá được trong lịch sử nhân loại.(Hình TTT)

...


Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào
bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản. Hình ảnh hãi hùng,
tuyệt vọng của thuyền nhân được diển tả dựa và Tượng đài Thuyền nhân ở Nam California.
...


Bia đá Thuyền Nhân Việt Nam tại đảo Galang, Indonesia, tưởng niệm những nạn nhân Cộng Sản đã đến được bến bờ tự do hoặc đã bỏ thây trên biển cả. Trại tị nạn Galang trên một hòn đảo ở Indonesia đã đón tiếp khoãng nửa triệu thuyền nhân Tị nạn Cộng Sản vào các năm 1978-1990. Việt Cộng đã làm áp lực với chính quyền Indonesia đục bỏ những dòng chử ghi chép tưởng niệm thuyền nhân. Tuy nhiên hành động kém can đảm nầy không mang lại kết quả mong muốn cho một chính thể độc tài. Nhiều tượng đài, bia đá tưởng niệm khác đã và đang tiếp tục được dựng lên trên khắp thế giới để tưởng nhớ nạn nhân của chế độ bạo tàn Cộng Sản.

...


Tượng đài tưởng niệm nạn nhân Cộng Sản tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ

...


Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Đức

...


Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Đức

...


Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại đảo Bidong, Malaysia

...


Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại Bi.

...


Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Đức.

...


Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Phap.

...


Nghĩa trang trên hoang đảo Galang, Indonesia là nơi một số người Việt đã gởi nắm xương tàn trên đường tìm tự do.

...


Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào
bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản (Hình TTT).

...


Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào
bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản.
...


Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào
bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản.

...

Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào
bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 1 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 2 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 3 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 4 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 5 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
...[/center

Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 6 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

[center]...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 7 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 8 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 9 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 10 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 11 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 12 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 13 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 14 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 15 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.

...


Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Bia đá 16 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.


---------------- còn tiếp -------------------



Cộng Sản Việt Nam đã nhiều lần lén lút bán nước cho Trung Cộng . Ngày nay người ta tìm thấy các văn kiện bán nước nầy được ngụy trang dưới nhiều danh nghĩa khác nhau: thư riêng, nghị định, hiệp ước v.v... Dù ẩn dấu dưới hình thức nào thì hậu quả cũng như nhau: đàn anh Trung cộng lấn chiếm đất liền, hải đảo, vùng trời, vùng biển ... của dân tộc Việt Nam mà cha ông ta đã bao phen đổ máu giử gìn .
...


Văn kiện bán nước do Phạm Văn Đồng ký dưới hình thức thư riêng.

...


...


...



--------------oo0oo-------------
...

Back to top
« Last Edit: 19. Jan 2010 , 21:20 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #3 - 22. Jan 2010 , 07:42
 
XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC
      
Khuynh hướng tự nhiên của những kẻ gây tội ác là cố gắng xóa đi những dấu vết tội ác do mình gây ra. Những kẻ cướp của giết người che giấu tội lỗi của mình để tránh bị bắt bớ trừng phạt đã đành, những chế độ chính trị ác nghiệt cũng hay có khuynh hướng bôi xóa, thủ tiêu, che đậy những điều thất đức mình đã làm. Đức quốc xã trong những ngày sắp bại trận đã ra sức tiêu hủy những hồ sơ liên quan đến các lò sát sinh giết người Do Thái;

...

Bộ mặt ác quỷ của cộng sản Khmer đỏ


chế độ Stalin giết mấy ngàn sĩ quan Ba Lan trong vòng bí mật tại rừng Katyn, qua bao nhiêu đời lãnh tụ cộng sản vẫn giấu nhẹm đổ tội cho Đức quốc xã, cho đến bây giờ dù nước Nga đã nhận tội, hồ sơ tội ác đó vẫn chưa được công bố; đối với những người bị giết trong cuộc cải cách
ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam trong thập niên 1950, Cộng Sản Việt Nam cũng ra lệnh xóa tan không còn dấu vết bằng cách không cho thân nhân dựng bia cho người đã chết; tập thể những trí thức thuộc Đệ tứ Quốc tế bị chế độ Hồ Chí Minh giết khoảng 1945, 46 tại miền Nam thì cho đến gần đây các đao phủ vẫn còn sống cả, thế mà vẫn cứ chối quanh, người nọ chỉ người kia; vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế sờ sờ ra như thế, mà người cộng sản Việt Nam cũng không hề một lần mở miệng nhận việc mình làm. Hiện tượng giấu nhẹm ấy cho thấy một điều: những kẻ gây tội ác biết đó là tội ác, và do một nỗi sợ, hoặc do một bản chất gian dối, không muốn cho người khác, đời nay hoặc đời sau, biết là mình đã làm việc đó. Họ luôn luôn
đóng vai đạo đức giả, nghĩa là bản chất thì cực kỳ gian ác, mà bề ngoài thì làm ra vẻ mình là kẻ rất đạo đức.
Riêng những thảm cảnh người vượt biên gặp phải trên biển cả, trên đất liền từ năm 1975 đến đầu thập niên 1990, người cộng sản có thể coi là mình vô can. Họ làm họ chịu, chúng tôi nào có mắc mớ gì? Chúng tôi chỉ lo xây dựng một Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, mấy người bỏ trốn đi là đã can tội phản quốc ("Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội" - Lê Duẩn), vậy có bị cái gì thì ráng mà chịu, chúng tôi không cần biết. Cùng những loạt đạn bắn theo ghe thuyền vượt biên, những lời chuỗi rủa xấu xa ném theo những người ra đi thì nhiều vô số kể, đó là những lời xấu nhất mà mộtchế độ, một nhóm người có thể dùng để gửi đến những người công dân, người đồng bào tội nghiệp của mình khi họ không còn con đường sống hợp với nhân
phẩm, phải ra đi để tìm sự sống trong cái chết.
Nhưng nhờ ơn tổ tiên phò hộ, nhờ cánh tay đưa ra của phần nhân loại không theo chủ nghĩa cộng sản, mấy triệu người Việt Nam trong khoảng 15 năm, đã tìm được đất sống, sau khi khoảng nửa triệu đã vùi thây dưới biển cả, trong rừng sâu. Người ra đi lặng lẽ chịu đựng những thảm cảnh của chính mình và thân nhân, lặng lẽ lo gầy dựng cuộc sống mới trong tự do mà mình đã tìm được cũng nhờ cuộc sống tự do ấy, người Việt Nam tị nạn cộng sản vun bồi được dời sống tinh thần và đạo đức, không quên ơn ông bà tổ tiên, không quên thân nhân và đồng bào ruột thịt còn sống ở quê nhà, và nhất là không quên cái ơn lớn lao mà dân và chính phủ các nước đã cưa mang, giúp đỡ mình trong cuộc đi tìm tự do thập tử nhất sinh diễn ra cách đây
mấy mươi năm. Chính trong tinh thần ấy mà vào đầu năm nay, nhiều phái đoàn người Việt Nam tị nạn cộng sản từ khắp thế giới đã mở những cuộc "hành hương" về những bến bờ đã đón tiếp mình từ tay biển cả trong các cuộc vượt biên xưa. Và như một cử chỉ cụ thể để tỏ lòng biết ơn các quốc gia đã cứa vớt mình, người Việt tị nạn cộng sản đã xin phép chính quyền sở tại đặt những tấm bia kỷ niệm tại nơi ngày xưa đã là trại tạm trú đầu tiên của những người đặt chân lên được đất sống. Với tấm lòng có trước có sau, người tị nạn chỉ ghi lại những lời tri ân hay lời tưởng niệm, là những thứ người ta nghĩ là có thể tồn tại với thời gian vì ý nghĩa nhân bản phi chính trị nhất thời của nó. Chẳng hạn lời dịch sau
đây từ tấm bia viết bằng tiếng Anh, dựng trên đảo Bidong thuộc tỉnh Terengganu thuộc nước Mã Lai Á vào tháng Ba 2005:
"Tưởng nhớ hàng trăm ngàn người Việt đã thiệt mạng trên đường tìm tự do (1975-1996). Dù họ đã chết vì đói, khát, bị hãm hiếp, bị kiệt sức hoặc vì một nguyên nhân nào khác, chúng ta cầu xin rằng họ bây giờ được hưởng yên bình vĩnh cửu. Sự hy sinh của họ không bao giờ bị quên lãng. Các cộng đồng người Việt hải ngoại, 2005."
Và những dòng chữ mặt bia bên kia:
"Đễ nhớ ơn những nỗ lực của Phủ Cao Ủy tị nan Liên Hiệp Quốc, Hồng Thập Tự Quốc Tế và Hội Lưỡi Liềm Đỏ Malaysia và các tổ chức cứu trợ quốc tế khác, chính phủ và nhân dân Malaysia cùng các quốc gia đã cung cấp nơi tạm trú đầu tiên cũng như nơi tái định cư. Chúng tôi cũng xin bày tỏ tri ân đến hàng nghìn cá nhân khác từng làm việc hết mình để giúp đỡ người tị nạn Việt Mam..
Các Cộng Đồng người Việt Hải Ngoại”
Một tấm bia tưởng niệm những người đã chết thảm trên đường đi tìm tự do và tri ân sự giúp đỡ cho những người sống sót: chừng đó đã đủ để chính quyền cộng sản Việt Nam vận dụng các thủ thuật ngoại giao để xóa bỏ nó đi. Họ đã vận động với chính phủ Mã Lai Á để phá bỏ tấm bia trên đảo Bidong, với chính phủ Indonesia để phá bỏ tấm bia tương tự trên đảo Galang. Với lợi ích ngoại giao trước mắt thì các chính phủ liên hệ thấy không có vấn đề lớn lao gì để không thỏa mãn các đòi hỏi xem ra không quan trọng gì mấy đối với họ. Và thế là các tấm bia chứa đựng biết bao tâm tình, biết bao tấm lòng thành kính và thương yêu trước hương hồn của những người đồng bào kém may mắn đã bỏ thây trong biển cả, đã hoặc sắp bị triệt hạ. Chỉ vì Hà Nội muốn như thế.


Tội ác Việt Cộng


Hà Nội nhằm cái gì trong sự vận động này ? Muốn giữ một "lý lịch sạch sẽ" trong lịch sử ? Muốn giữ một "bộ mặt sạch sẽ" trước thế giới ? Muốn không ai được hiểu rằng sở dĩ người Việt Nam phải bỏ nước ra đi là do chính sách tịch thu tài sản ruộng vườn, “đánh tư sản” một cách triệt để, do chính sách kỳ thị một cách khốc liệt không cho con cái của quân nhân công chức Nam được ăn học trong chế độ mới của họ, do giam hãm tù đày hàng triệu người, do tước đoạt hết quyền tự do và quyền làm ăn sinh sống của cả một xã xã hội miền Nam để lùa mọi người vào cái trại lính mà họ gọi là xã hội chủ nghĩa?... Mấy triệu người vượt biên tìm tự do chính là lời tố cáo tội ác của họ, nhưng họ vẫn muốn trốn tránh những vết
tích cụ thể trong vòng Đông Nam Á chứng tỏ là đã có thảm cảnh của người Việt Nam trong sóng nước đại dương thuộc vùng này. Khi vận động phá bỏ những tấm bia kỷ niệm ấy, họ có biết rằng họ đang xúc phạm đến những người đồng bào đã chết hay không? Họ đang dùng cái thứ đạo lý gì vậy?
Thực ra, đối với người cộng sản, dùng chữ “đạo Lý” thì hơi quá đáng, vì đó là thứ họ không có, không cần có. Với họ, chỉ có thủ đoạn và mánh khóe, cái thứ thủ đoạn của Stalin với dân Ba Lan, của Hồ Chí Minh đối với nhóm Đệ tứ và với những người bị đảng cộng sản quy cho cái tội địa chủ ác ôn, của cách đối xử cực kỳ ác độc đối với đồng bào miền Nam sau 1975... và bây giờ, hành động mới nhất, vào tháng Năm, tháng Sáu năm 2005, là vận động xóa bỏ dấu vết các bia tưởng niệm người chết trên đường trốn chạy tại các nước Đông Nam Á.
...
Việt Cộng thảm sát dân trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân tại Huế

Năm ngoái, đảng cộng sản Việt Nam ra nghị quyết 36, kêu gọi người Việt tị nạn ở nước ngoài quên đi quá khứ, cùng hợp tác với họ để xây dựng đất nước. Nhiều người đã nhìn thấy đây như là một cử chỉ hòa giải, kêu gọi cùng thông cảm những lỗi lầm trong quá khứ của nhau và bỏ qua hết, để cùng nhắm về một mục tiêu tốt đẹp làm cho đất nước giàu mạnh và hạnh phúc. Sau hơn nửa thế kỷ thù hận, người Việt Nam nào mà chẳng mong ước điều ấy? Người Việt ở nước ngoài đã chẳng tích cực gửi tiền bạc về giúp đỡ đồng bào trong nước đó sao? Và thiếu gì người chỉ vì thiện chí xây dựng đã đầu tư tài sản và trí tuệ để xây dựng công cuộc làm ăn tại Việt Nam (dù rốt cuộc nhận lãnh những hậu quả vô cùng đau đớn: tài
sản mất hết, thân bị tù tội chỉ vì sự tham lam và xảo trá của chính quyền trong nước, ai mà chẳng thấy nhan nhản những trường hợp ấy?) Nhưng nếu tưởng nghị quyết 36 bày tỏ sự thực tâm của những người cộng sản là lầm.. Nghị quyết ấy chỉ là một mệnh lệnh theo thói quen cai trị bằng mệnh lệnh của chế độ ấy, chứ bản chất tấm lòng của người cộng sản với đám người Việt hải ngoại thì vẫn không có gì thay đổi: nghi kỵ, hiềm thù, đố kỵ, họ chỉ muốn người Việt ở nước ngoài đóng góp tiền bạc và trí tuệ cho họ, còn ngoài ra không bao giờ coi tập thể người này là những người đồng bào với những tâm tình chung, ước nguyện chung có quyền nói chuyện ngang vai vế với họ về những vấn đề của đất nước. Họ đã biết vì sao
mà có tập thể người tị nạn Việt Nam trên khắp thế giới ngày nay chứ? Họ thừa biết bằng cách nào đám người đó hiện diện ở nước ngoài chứ? Họ dư biết những nỗi đau thương mà người đi tìm tự do phải chịu chứ? Họ biết rất rõ hằng trăm ngàn đồng bào đã bỏ mình ngoài biển chứ? Thế mà họ không xem tâm tình của người tị nạn ra cái gì cả, một tấm bia tưởng niệm người đã chết họ cũng không tha! Tình nghĩa đồng bào với nhau ở đâu? Đối với họ tình nghĩa đó chỉ được hiểu bằng một động tác: đóng góp đô la cho họ. Họ kêu gọi người tị nạn quên quá khứ, nhưng còn họ? Cái quá khứ rất gần, họ đã hành hạ dân chúng ra sao sau ngày 30.4.1975 họ có quên đâu? Họ biết rõ nửa triệu người bỏ mình trên biển là do chính họ gây ra, nhưng họ không bao giờ có một cách cư xử hợp đạo lý, chỉ muốn khỏa lấp mọi chuyện bằng cách kêu gọi "quên đi" trong khi cái nguyên nhân gây ra thảm cảnh thì họ vẫn còn giữ nguyên: một chế độ toàn trị bằng bạo lực và sự xảo trá. Họ vừa mang một lòng kiêu hãnh thô lỗ rằng chính họ mới là chủ nhân ông của đất nước, vừa mang một mặc cảm tội lỗi, lúc nào cũng muốn che đậy tội ác của mình, lúc nào cũng mong xóa di dấu vết tội ác ấy khi họ kêu gọi người tị nạn hãy quên quá khứ đi, họ muốn người tị nạn quên những tội ác của họ đã làm khiến đồng bào phải chạy trốn, nhưng về phần họ thì họ vẫn nhớ rất rõ, và làm bất cứ động tác nào để tẩy xóa, che đậy tội ác của chính họ, dù động tác ấy xúc phạm một
cách thô bạo đến tâm tình của người Việt ở nước ngoài.

http://vietnamaaa.numeriblog.fr/.a/6a00d83451bf6469e201157032d0fb970b-500wi

Xác chết nông dân vô tội bị Việt Cộng chặt đầu

Đến thời điểm này, tại sao không dối xử với nhau một cách tử tế? Tôi nghĩ nếu chính quyền cộng sản Việt Nam còn có tình đồng bào và biết tôn trọng nỗi đau thương của người tị nạn thì nên giúp trùng tu các khu tưởng niệm, thậm chí cử một phái đoàn đến thấp một nén nhang trước các tấm bia như là một cử chỉ thiện chí, thì hiệu quả của công việc ấy sẽ gấp trăm gấp ngàn lần cái nghị quyết 36 hách dịch và vô hồn kia. Nước Đức, sau khi chế độ quốc xã sụp đổ, vẫn giữ lại một vài dấu vết các lò thiêu người mà nước này đã dùng để giết người Do Thái như một bài học ô nhục mà một chế độ chính trị của dân tộc Đức đã làm. Họ có can đảm giữ lại để làm tấm gương cho hậu thế. Sự kiện ba triệu người Việt Nam đi
ra sông trên khấp thế giới và nửa triệu vùi thây trong lòng đại dương là sự kiện có một không hai trong lịch sử nước ta, không khác gì việc sáu triệu người Do Thái bị giết trong lò thiêu của Đức Quốc xã. Biến cố người Việt ra đi sinh sống khắp nơi trên thế giới trong the kỷ 20 có một ý nghĩa vĩ đại về mặt lịch sử, sau những thế kỷ Nam tiến để tạo thành nước Việt Nam ngày nay. Chính quyền cộng sản đã không làm gì để đánh dấu biến cố đó ngoài việc kêu gọi người ta hãy quên nó đi, đó là về phần của họ. Về phần người đi tị nạn và cả thế giới văn minh nữa, phải ghi lại trang sử ấy, họ đã làm nhiều cách, các thế hệ loài người mai sau sẽ biết rõ sự kiện đó trong không biết bao nhiêu tài liệu nằm trên những tượng đài,
những kệ sách trong thư viện, và nhất là nằm trong lòng con cháu của lớp người ra đi ấy, trong hay ngoài nước Việt Nam. Xóa làm sao được. Cái ác làm sao thắng được lẽ thiện ở đời. Những tấm bia hiền lành thấm đẫm tình người của người tị nạn dựng ở Bidong, Galang đã bị những kẻ thiếu nhân tính âm mưuphá hủy đi. Nhưng họ nên  nhớ rằng tình người mới là cái bất diệt, còn sự gian trá, xảo quyệt chẳng qua chỉ là những màn che đậy nhất thời, mà trong thế giới ngày nay, càng che đậy càng lộ ra cái tâm lý ti tiện và sự tội nghiệp của con thú cộng sản cuống quít trong bước đường bạo lực cuối cùng của nó.
Và người cong sản hãy đừng bao giờ quên bước đi của những người đi tìm tự do sau 1975 chính là một tiên tri và là bước hướng dẫn cuộc đổi mới của chính quyền cộng sản Việt Nam từ giữa thập niên 1980. Cuộc trốn đi của người đi tìm tự  do, sự bỏ mình lớn lao của họ trên biển cả như có một lời nhắn để lại sau lưng: hãy đi theo bước của chúng tôi, Việt Nam sẽ không còn con đường nào khác ngoài con đường đến với thế giới văn minh. Chính quyền cộng sản đã đi theo đúng lời nhắn bảo thiêng liêng ấy, đi theo đúng bước chân ấy, và quả nhiên đã tìm thấy con đường sông. Thế thì thay vì vội khoe khoang vì một ít bề ngoài hào nhoáng do những công ty các nước tư bản mang lại, hãy khiêm tốn lắng nghe lời của những - oan hồn trên biển, rằng Tự Do mới là chìa khóa then chốt để mở cánh cửa Hạnh Phúc và Thịnh Vượng cho dân tộc chúng ta. Chính vì Tự Do mà nửa triệu người đã bỏ mình, lời nguyền đó sẽ linh thiêng và ứng nghiệm lắm!

http://vietnamaaa.numeriblog.fr/.a/6a00d83451bf6469e201157032d0a0970b-500wi
Xác chết nông dân vô tội bị Việt Cộng chặt đầu

Sao lại thô bao với nhau, nhất là với những người đã chết? Chính cái chết của họ đã đóng góp tích cực cho một ý hướng tinh thần chúng ta cần đi theo. Ngay cả những người lính Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ đã chết trên chiến trường Việt Nam từ bốn mươi năm trước, cũng đã đóng góp phần rất quyết định cho Việt Nam ngày nay. Một con cá quẫy đuôi bên này đại dương còn gây ảnh hưởng đến bên kia đại dương, huống chi một cuộc chiến lớn như thế họ lại không bằng cách này hay cách khác, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản trên thế giới? Và thử tưởng tượng, nếu chủ nghĩa cộng sản không sụp đổ ngay nơi thành trì của nó là liên xô và các nước Đông Âu, thì liệu Trung Quốc, Ba Lan, Tiệp Khắc... và nhất là Việt Nam, có được như ngày nay? Hay là vẫn ì ạch với tem phiếu, với khẩu hiệu, với hộ khẩu với phân phối xếp hàng cả ngày, với các kế hoạch năm năm kế tiếp nhau mà vẫn dẫm chân hoài một chỗ?... Những lãnh tụ cộng sản Việt Nam bây giờ là triệu phú đô la hãy nhớ ơn các chiến sĩ chông cộng đã bỏ mình trên chiến trường Việt Nam thuở xưa, những thuyền nhân xấu số đã bỏ mình trên đường đi tìm tự do, vì chính những chiến đấu cho tự do đó đã làm thay đổi bộ mặt thế giới và giúp cho các “đổi mới” ở Việt Nam ngày nay được phần nào thành tựa. Suy nghĩ như thế không có gì là ngược đời đâu, đó là kết quả hiển nhiên có tính cách nhân quả của cuộc diện thế giới, khu vực và từng nước.
Trong sự ràng buộc nhân quả chằng chịt ấy mà chính quyền Việt Nam vẫn cứ khư khư chỉ biết có đảng của mình, và có thái độ cực kỳ chật hẹp đối với bao nhân tố khác đã xây dưng nên bộ mặt thế giới ngày hôm nay thì quả là đáng tiếc. Hãy tôn trọng những người đã chết, nhất là những cái chết ấy đã gây một cảm hứng vô song trong công cuộc xây dựng cho con người còn lại trên thế giới này, là ý thức Tự Do. Không có tự do sẽ không có thịnh vượng và hạnh phúc, đó là điều chắc chắn. Hãy đi qua Bidong, Galang, đến những tượng đài tưởng niệm thuyền nhân đã bỏ mình, thành tâm thắp hương tưởng niệm linh hồn của họ, đó là hành vi duy nhất hòa giải với quá khứ và hiện tại, và mở được cửa đến một tương lai sáng sủa.

PHẠM PHÚ MINH

Bài do bạn Nguyễn Lực chuyển

Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #4 - 28. Jan 2010 , 00:07
 

Đêm, của những cánh bướm Việt ở Malaysia

...

“Giá tiền thì tùy mấy anh muốn ‘tâm sự’ lâu hay mau. Tâm sự một tiếng đồng hồ, tụi em tính 400 RM; tâm sự nguyên đêm, tụi em tính 700 RM.” Cô gái tên Thủy nói thẳng với chúng tôi.
“Bọn anh không muốn tâm sự ‘một giờ,” cũng không muốn ‘nguyên đêm,” chỉ muốn mời mấy em đi ăn tối, nói chuyện cho vui thôi.” Chúng tôi trả lời.
“Vậy, anh trả bao nhiêu?” Thủy hỏi.
“200 RM được không?” Chúng tôi ướm giá.
Thủy quay lại hỏi ý kiến hai người bạn. Cả hai gật đầu. Thế là tất cả chúng tôi, sáu người, kéo nhau ra khỏi Beach Club, đi bộ đến một quán pizza gần đó.
Ðêm, trung tâm Kuala Lumpur, nhộn nhịp khác thường. Ðêm trong tuần cuối năm 2009 ấy, theo thời giá, một RM, đơn vị tiền tệ Malaysia, có giá khoảng bằng 30 xu Mỹ.
Giá tiền 700RM cô gái đưa ra lúc đầu cho một đêm, khi chưa mặc cả, xấp xỉ 210 đô la.
***
Hai ngày trước đó, khi đón taxi từ phi trường về khách sạn Citrus, nằm ở khu trung tâm Kuala Lumpur, người tài xế bản xứ hỏi chúng tôi có muốn gặp "Vietnamese ladies" không. Chưa kịp trả lời, tay tài xế nói thẳng: "Toàn là mấy cô Việt Nam. Rẻ lắm!"
Beach Club nằm trên đại lộ Jalan P.Ramlee, ngay trung tâm thủ đô Malaysia, và được xem là “một trong những hộp đêm nổi tiếng bậc nhất” quốc gia này.
Chúng tôi, một người đến từ California; một nha sĩ, tên Chu Văn Cương, đến từ Houston, và một dược sĩ, tên Phạm Lê Hoàng Nam, đến từ Úc Châu, đón một chiếc taxi. Cả ba chẳng biết phải đi đâu. Ðến cái tên của cái club cũng không biết. Bèn hỏi người tài xế: “Chỗ nào có Vietnamese ladies?” Người tài xế đáp ngay: “À, Beach Club. Beach club, toàn con gái Việt Nam.”
Ðến cửa quán, chúng tôi hỏi người bán vé: “Ở đây có người Việt Nam làm việc không?” Người gác cổng khoát tay vào bên trong, trả lời bằng tiếng Anh: “Tất cả đều là con gái Việt Nam!”
Bước chân vào Beach Club, thấy rõ ràng sự phân chia của hai thế giới sắc tộc. Ðàn ông thì toàn là người có nước da nâu sậm hoặc đen, râu tua tủa, to như những người khổng lồ; phụ nữ thì toàn các cô gái trẻ, nhỏ thó, mắt lạnh lùng quan sát từng người khách bước vào.
Người ta nói, dân Á Châu “trông ai cũng giống nhau.” Nhưng người Á Châu, nhìn người nước mình, thế nào cũng nhận ra đó là người nước mình. Chúng tôi nhìn quanh, “có cái gì đó quen quen nơi khuôn mặt các cô gái.”
Chúng tôi chợt nhận ra, “nét quen quen” ấy chính là “nét Việt Nam” trên khuôn mặt các cô gái trẻ.
Không hẳn toàn bộ các cô gái làm việc tại Beach Club đều là người Việt Nam. Nhưng, chúng tôi ước lượng, có không dưới 90% là “người nước mình.” Sau này, chúng tôi sẽ biết, họ đến từ mọi miền đất nước. Ba cô gái mà chúng tôi mời đi ăn tối, đại diện cho cả ba miền: Hà đến từ Hải Phòng; Kim đến từ Ðồng Tháp; và Thủy gốc người Nha Trang.
Chúng tôi bước vào Beach Club, loay hoay mãi mới có một chỗ ngồi. Ngồi đợi, khá lâu, chẳng thấy ai đến hỏi thăm. “Không biết mình trông có quê mùa không mà ai cũng chê?” Tôi tự hỏi. Rồi đây, khi đi riêng với các cô Thủy, Hà, Kim, tôi mới hiểu lý do tại sao chúng tôi không được đón tiếp niềm nở ở cái hộp đêm “quốc tế” này.
Thấy chúng tôi ngơ ngác nhìn xung quanh, một cô lên tiếng trước, cụt lủn: “Hello.” Chúng tôi đáp lại: “Hello. Em người Việt Nam?” Cô gái khựng lại, ngập ngừng, quay sang một cô khác: “Ðụng hàng rồi!”
Rồi cô quay lại chúng tôi, xưng tên Thủy, và ngỏ ý muốn tiếp chúng tôi. Thủy đề nghị để cô tìm thêm hai cô bạn nữa, cùng ngồi. Chúng tôi có thêm Hà và Kim.
Chúng tôi “ngã giá,” 200 RM mỗi người để được mời các cô đi ăn tối và nói chuyện khoảng 30 phút. Cả sáu người bước ra khỏi quán trong cái nhìn tò mò của tất cả các cô gái còn lại. Thủy quay lại, nói với cùng đồng nghiệp: “Chồng tụi em đây!”
***
Trong số ba người bạn mới quen, Thủy là người bộc trực, mạnh mẽ, và ăn nói liếng thoắng nhất. Nhưng, càng tiếp xúc, chúng tôi càng nhận ra, ẩn giấu phía sau sự tự tin ấy là một tâm hồn yếu đuối, đầy mặc cảm và dễ tan vỡ. Một ai đó nhắc đến chữ “hạnh phúc,” nét mặt Thủy đanh lại. Cô khoát tay: “Trên đời này, cái gì cũng có, trừ hạnh phúc.”
Mặc dầu hết sức cẩn trọng khi tiếp chuyện với chúng tôi, đặc biệt đối với các câu hỏi về đời tư, Thủy buột miệng sau khi khẳng định “trên đời này cái gì cũng có, trừ hạnh phúc.” “Gia đình em tan vỡ cách đây vài tháng, và em bước chân vào nghề này cũng mới vài tháng. Ba em vừa mới mất, gia đình lâm vào hoàn cảnh khó khăn, rồi em sang đây, đi làm.”
Các cô, chia thành nhóm nhỏ vài người, hùn tiền, nhờ người bản xứ đứng tên và thuê một căn phòng nhỏ trong các chung cư. “Ðêm đi làm đến gần sáng mới về. Ngày thì ngủ vùi, ngủ suốt. Ðói bụng thì cơm hàng cháo chợ. Rồi đêm xuống lại ra đây làm việc.” Thủy cho biết. “Mấy anh đừng thấy tụi em ăn mặc đẹp đẽ như vầy mà tưởng tụi em vui...”
Thỉnh thoảng, cô lại tỏ vẻ khó chịu khi chúng tôi hỏi các câu hỏi về đời tư, “Tụi mình nói chuyện gì khác đi. Ðừng hỏi chuyện gia đình.” Ngồi chung bàn, các cô Hà và Kim cũng tế nhị né tránh các câu hỏi đời tư. Không một ai muốn một ai khác tình cờ biết được gốc gác của mình. Và đó cũng là lý do tại sao chúng tôi phải chờ mãi ở Beach Club mới có người đến hỏi thăm. Hình như các cô, cũng như chúng tôi, nhìn thấy ở ba người thanh niên bước vào quán “nét Việt Nam, quen quen!”
“Tụi em không muốn tiếp người Việt Nam. Nhưng không hiểu sao lại đi với mấy anh...” Thủy nói.
Ngồi ở hai góc bàn là các cặp Nam-Hà và Cương-Kim. Cả bốn người cũng nói rất nhỏ, về gia cảnh của nhau.
Tất cả đều có điểm chung, là đằng sau những gương mặt còn rất trẻ ấy, bên trong những bộ đồ rất đẹp đang mặc trên người, là những câu chuyện đầy bất hạnh. Vừa đổ vỡ, vừa bế tắc, các cô sang đây mà lòng cứ nhớ về nhà, với câu hỏi như lời khẳng định, “Ai mà không muốn ở nhà, phải không anh?”
Hà, tế nhị, nhưng cương quyết, từ chối trả lời mọi câu hỏi về đời tư. Tất cả những gì chúng tôi biết về cô, là cô đã từng có người yêu. Nhưng, “một sự đỗ vỡ ghê gớm lắm đã xảy ra.” Rồi cô quyết định sang Malaysia “làm việc.”
Qua những gì Hà nói, chúng tôi diễn dịch, cuộc sống của cô tại đây là chuỗi ngày vô cảm; không vui, không buồn, không ham muốn bất cứ điều gì, bất chấp mọi chuyện. Suốt ngày cứ ở trong nhà, cũng chẳng buồn nói chuyện với người cùng phòng, lặng lẽ như một chiếc bóng.
Chiếc bóng ấy, sẽ chờ ngày lùi dần, khi màn đêm buông xuống, lặng lẽ bước ra đường với bộ đồ thật đẹp. Nhưng, “đừng thấy tụi em ăn mặc đẹp đẽ như vầy mà tưởng tụi em vui...”
Kim, cô gái ngồi chung với Cương, xởi lởi hơn. Cô kể, khi lên tám tuổi, nhà có đám giỗ, cha cô nói ra chợ mua ít trái cây về cúng. Ông ra chợ, và chẳng bao giờ trở về. “Ba em bỏ em và gia đình từ khi em lên tám tuổi.”
Kim “đi làm” như thế này cũng vài tháng nay. Cô cho biết, từ Việt Nam, đi đến các nước trong khối ASEAN không cần phải có visa nếu cư ngụ dưới một tháng. “Bọn em đến đây, cố gắng làm việc trong một tháng. Sau đó về Việt Nam nghỉ ngơi, rồi lại sang một nước khác. Cứ như thế, xoay tua...”
Kim đã từng đến Singapore, có người yêu Singapore. Cô nói, rằng sẽ không bao giờ lấy chồng Việt Nam. “Ðàn ông Việt Nam không lo cho gia đình.” Cô khẳng định như vậy, sau khi kể cho chúng tôi câu chuyện về cha cô. Ông ấy nói, “đi mua trái cây về làm đám giỗ, và không bao giờ trở về nữa.”
***
...

Chúng tôi rời Beach Club lúc một giờ sáng. Phải năn nỉ lắm, các cô mới nhận số tiền 200 RM mỗi người, như đã thỏa thuận. Thủy thì ngần ngừ, rồi cầm lấy tiền. Kim thì nhất định không nhận: “Hay để bữa khác.” Còn Hà, chúng tôi phải vào tận bên trong quán. Nói mãi, cô mới cầm tiền.
Các cô trao cho chúng tôi số điện thoại, và cả email, hẹn “có dịp thì cứ liên lạc.”
Xe taxi đưa chúng tôi trở lại khách sạn. Và cũng trên chuyến taxi này, chúng tôi biết cuộc sống của các cô khó khăn ra sao. Người tài xế cho biết: “Beach Club này rất nổi tiếng. Trước đây, toàn con gái Thái Lan làm việc. Sau đó, mấy cô Philippines vào chiếm lĩnh. Vài năm gần đây, đến lượt mấy cô Việt Nam.”
Người tài xế nói, một cô Việt Nam vào, mang theo 4, 5 người bạn. Cứ như thế, bây giờ nói đến Beach Club là nói đến con gái Việt Nam. Khách thì toàn là người nước ngoài, họ đến đây, vì “con gái Việt Nam đẹp thật.”
Ðẹp để làm gì? Ăn mặc thật sang trọng, để làm gì? Khi mà mỗi lần bước lên taxi “đi tâm sự với khách,” là mỗi lần các cô phải đối mặt với nguy hiểm?
“Có đến hai tầng nguy hiểm,” Người tài xế nói. Có nhiều lần, chính các cô gọi cho anh sau khi “tiếp khách.” Có nhiều khách làng chơi hung bạo. Xong việc, họ không chịu trả tiền, lại đánh và cướp cả điện thoại của mấy cô Việt Nam. “Chính tôi cũng đã nhiều lần chở mấy em từ chỗ khách trở về Club này.”
Không ai muốn, hay dám, gọi cảnh sát để nhờ can thiệp. Và chính cảnh sát Malaysia cũng là nguồn nguy hiểm khác cho các cô gái Việt Nam.
Người tài xế taxi kể, “Ði taxi từ đây đến điểm hẹn cũng là thời gian nơm nớp lo sợ.” Bất cứ lúc nào, cảnh sát cũng có thể xuất hiện, chặn taxi và đòi kiểm tra giấy tờ các cô gái. Cảnh sát biết chắc chắn các cô làm nghề gì, và họ biết chắc chắn, đây là lúc có thể... kiếm tiền.
“Có cô nói với cảnh sát, rằng người đàn ông trong xe là bạn, nhưng cảnh sát hỏi lại, bạn gì mà người thì cầm hộ chiếu Việt Nam, người thì cầm hộ chiếu không phải Việt Nam?” Rồi cảnh sát nói rằng họ “nghi” các cô cầm giấy tờ giả, cần phải đưa về đồn cảnh sát, ngày mai gọi Tòa Ðại Sứ Việt Nam để xác minh.
“Không cô nào chịu về đồn cảnh sát. Họ biết họ không còn lựa chọn nào khác.”
Và đây là lúc cảnh sát Malaysia nháy mắt ra hiệu cho giới tài xế. Các tay tài xế taxi sẽ đóng vai trò trung gian, ra giá, mặc cả, thâu tiền cho cảnh sát, để được nhận hoa hồng, cũng từ cảnh sát.
Tiền, phải trao ngay. Không có tiền, phải ra ngân hàng, phải ra máy ATM. Không có ngân hàng, không có ATM, phải gọi bạn bè. “Phải làm tất cả những gì có thể, để có ngay tiền, trả cho cảnh sát.”
“Một lần như vậy, cảnh sát đòi 300 RM, và cho lại taxi 50 RM.”
***
Chúng tôi chia tay Hà, Thủy, Kim trong một khuya cuối năm Dương Lịch 2009. Một người trong nhóm nhắc lại lời của giới taxi, rằng “con gái Việt Nam đẹp lắm.” Thủy hỏi lại, “Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”
Cả ba chúng tôi đều yên lặng, không trả lời, cũng không nói với các cô rằng, trên đường từ phi trường về khách sạn, người ta đã nói, “Con gái Việt Nam rẻ lắm!”

Đông Bàn/Người Việt (Viết từ Malaysia)
Back to top
« Last Edit: 28. Jan 2010 , 00:14 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #5 - 28. Jan 2010 , 00:20
 
Các anh có hãnh diện không?



Huy Phương



Trong bài
Ðêm Của Những Cánh Bướm Việt Ở Malaysia”
tuần trước trên Nhật Báo Người Việt, ký giả Ðông Bàn đã vô tình nhắc lại câu nói của giới taxi Kuala Lumpur, rằng “con gái Việt Nam đẹp lắm.” Khốn nạn thay câu nói này cũng đã phát ra từ cửa miệng một ông chủ tịch nước, Nguyễn Minh Triết trước đây. Thủy, một “cánh bướm đêm” tại Beach Club đã cay đắng hỏi lại những người ký giả cùng quê hương với cô: “Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”

Câu hỏi này đáng cho chúng ta chảy nước mắt. Lẽ cố nhiên câu trả lời là trăm nghìn lần không! Nhưng có một bọn người hãnh diện với câu rao mời trên, đó là những cái mặt mo như Nguyễn Minh Triết. Mặt mo vì không biết đến nỗi đau xót của thân phận đàn bà, là chị, là em, là đồng bào ruột thịt của chúng ta, vì vô phúc, phải sống dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam, “đem thân cho thiên hạ mua cười” từ xứ sở này đến quốc gia khác. Chúng tôi đánh giá nhân cách của một “con đĩ” hơn các ông chính khách của đảng Cộng Sản nhiều, vì họ còn biết liêm sỉ, còn biết thế nào là tủi nhục cho mình và cho đất nước hơn các ông.

Chuyện khổ đau của phụ nữ Việt Nam và cũng là điều ô nhục của cả dân tộc từ lâu nay đã được các cơ quan truyền thông hải ngoại kể cả trong nước thông tin đầy đủ, tuy vậy nhà cầm quyền Cộng Sản trong nước vẫn ngủ yên ù lì như những con gấu Mùa Ðông, không hề biết đến xót xa, khổ đau của đồng loại. Nói ra thì cũng chuyện thường tình, mà không nói ra, phải nuốt điều uất nghẹn vào lòng cũng là điều không chịu được.

Chỉ trong năm 2000, có khoảng nửa triệu phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán qua Trung Hoa, Macao, Ðại Hàn, Cao Miên, Thái Lan và nhiều nước khác. Năm 2003 phụ nữ Việt Nam bị đăng bán đấu giá trên Ebay Taiwan Website với giá bắt đầu là $5,400. Riêng trong năm 2005, theo bản tin của cơ quan UNICEF và Bộ Tư Pháp Việt Nam cho biết có 400,000 phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán ra ngoại quốc (10% của tổng số nạn nhân khắp thế giới). Cũng trong năm này, nhiều thiếu nữ Việt Nam bị đem ra trưng bày như món hàng sale, ngồi trong những tủ kính để khách qua lại lựa chọn ở Trade Fair ở Singapore.

Chỉ tính riêng con số phụ nữ Việt lấy chồng Ðài Loan là bao nhiêu? Theo thống kê chính thức Hà Nội, tính đến cuối năm 2003, có hơn 65,000 phụ nữ Việt Nam được cấp giấp phép (!)nhập cảnh vào Ðài Loan để “làm dâu...”, nhưng theo đại diện của chính phủ Ðài Loan ở Sàigòn trong thời gian đó, thì “Hiện nay có khoảng 77,000 cô dâu Việt Nam tại Ðài Loan. Dự tính trong khoảng hai năm nữa con số cô dâu Việt Nam tại Ðài Loan sẽ lên tới khoảng 100,000 người”. Chỉ riêng tại Cần Thơ mỗi năm có khoảng 2,500 phụ nữ lấy chồng Ðài Loan, đó là con số thống kê từ năm 2000 đến 2004, được chính Hội Phụ Nữ Cần Thơ nêu ra. Con số ấy tính đến năm 2010 là bao nhiêu?

Ðàn ông ngoại quốc có thể bỏ tiền mua phụ nữ Việt Nam đem về nước làm người giúp việc không công kiêm nô lệ tình dục, hay cả hai. Tại các cơ sở môi giới, đàn bà đôi khi cầm bảng số đi trình diễn, hay cởi trần truồng cho người mua chọn lựa. Trên danh nghĩa là đi lấy chồng ngoại nhưng khi cô dâu đã theo chồng ra ngoại quốc, họ đã trở thành nô lệ bị giam giữ, không có quyền đi lại vì không có giấy tờ tùy thân, họ cũng có thể làm vợ cho cả gia đình hay bị mua đi bán lại như một món hàng để tiếp tục sa chân vào những ổ mãi dâm. Ðau đớn hơn là số trẻ em Việt Nam hiện nay đang ở trong các động điếm tại Phnom Penh, Kampuchea trong 15 ngàn gái mãi dâm, 52% là thiếu nữ và trẻ em Việt Nam.

Theo nguồn tin địa phương Prague, Tiệp Khắc được hãng thông tấn Việt Nam thuật lại chỉ trong vòng thời gian 15 tháng, các tổ chức mãi dâm đã đưa khoảng 50 cô gái Việt vào nước này. Các cô gái này phải trả từ $5,000 để được đưa lậu từ việt Nam sang với các hứa hẹn là giúp họ tìm được việc làm tại Ðông Âu. Họ có biết trước là sẽ bị đưa vào hang động của các tổ chức mãi dâm hay không, hay dù biết trước, thì đó cũng là lối thoát tốt đẹp nhất mà họ đã chọn.

Cảnh tượng hàng trăm cô gái xếp hàng cho bọn đàn ông Ðại Hàn, Ðài Loan đến xem mắt, lựa chọn đã là chuyện thường tình ở Saigon, đâu có gì mới lạ, không gây khó chịu hay làm ai động lòng xúc cảm. Cả một hệ thống làm tiền trên thân xác còm cõi của những cô gái đáng thương này, từ ma cô, công an, cảnh sát, nhân viên phường khóm cho đến các tổ chức làm giấy tờ xuất cảnh, khám bệnh, chích ngừa... Ðây là một dịch vụ béo bở lâu nay được thả nổi, không được chính phủ kiểm soát hoặc được địa phương làm ngơ để chia chác, thủ lợi, nên Việt Nam loan báo, lần đầu tiên sẽ thành lập một công ty “tư vấn hôn nhân quốc tế” tại Saigon nhằm “bảo vệ quyền lợi của phụ nữ”, nghĩa là nhà nước sẽ điều hành chính thức việc bán phụ nữ ra nước ngoài ở đợ hay làm đĩ.

Tại Việt Nam, nạn mãi dâm bị coi là bất hợp pháp nhưng trên thực tế, tình trạng gái chơi, gái gọi dưới nhiều hình thức, công khai hay giấu kín đã lan tràn, phổ biến. Từ các thành phố lớn cho đến những vùng nông thôn, rừng núi, bãi biển xa xôi ở đâu cũng có nạn mãi dâm. Cuối năm 2002, chính phủ Việt Nam nói là Việt Nam có 14 ngàn gái mại dâm, nhưng con số do giới truyền thông ước tính lại là 37 ngàn người. Con số này, chính quyền lấy ở đâu, phải chăng là trên những con số do địa phương báo cáo lấy lệ hay con số đã đưa vào trại “phục hồi nhân phẩm”? Trong đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc, đâu là không có đĩ điếm, đâu là không có các dịch vụ “ôm”. Phụ nữ Việt Nam hẳn là món hàng rẻ nhất thế giới? Con gái Việt Nam đẹp lắm! Nhưng con gái Việt Nam cũng rẻ lắm -“Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”

Con gái Việt Nam quả tình là đẹp, chẳng đẹp sao dám đem phô bày dưới nhãn hiệu “Duyên Dáng Việt Nam” đi trình diễn khắp nơi, không đẹp sao dám tổ chức hoa hậu toàn cầu, hoa hậu quốc gia, hoa hậu Biển, hoa hậu Núi mà người bỏ cả vài nghìn đô la để mua vé vào xem? Con gái Việt Nam đẹp lắm, không đẹp sao đàn ông tứ xứ đểu đổ xô đến Việt Nam để mua dâm hay đem về làm vợ?

Sao số phận đàn bà con gái Việt Nam lại ra nông nỗi này? Tại sao đến nay lại có hiện tượng cả một phong trào con gái Việt Nam coi rẻ nhân phẩm mình, đổ xô chạy theo đồng tiền, ra đi lấy chồng xứ lạ hay tự nguyện bán thân ngay ở trong nước. Ca sĩ, người mẫu, hoa hậu, sinh viên đại học đều có thể là gái bao, gái gọi. Vì sao trước khi Cộng Sản vào miền Nam con gái lấy Mỹ, lấy Phi, lấy Tây... đều bị xã hội lên án và coi rẻ. Còn bây giờ con gái lấy Ðài Loan, Ðại Hàn đều hãnh diện, tự hào. Người ta nêu ra những nguyên nhân kinh tế: gia đình khó khăn (78.94%), thất nghiệp (65.5%), cần tiền để giải quyết những nhu cầu trước mắt (62.56%), và do tâm lý hãnh diện được lấy chồng ngoại quốc (47.1%).

Tôi mạn phép xin nhắc lại, lời một đứa bé Việt Nam ăn xin ca cẩm, mà tôi đã viết trên trang này: “Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5,000 đồng, con cầu nguyện Bà cho con gái ngoại lấy được chồng Ðài Loan! Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5,000 đồng, con...”

Chỉ có một xã hội nền đạo đức suy đồi mới xẩy ra những thảm họa như thế.

- “Con gái Việt Nam đẹp lắm! Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”

Qua cuộc đời bất hạnh, khốn nạn của những người con gái Việt Nam sinh lầm trong chế độ, phải bán thân đi mười phương, câu hỏi này đáng ném vào mặt bọn lãnh tụ hôm nay. Câu hỏi khiến cho những người còn chút liêm sỉ phải đau lòng, nhưng bọn chúng thì không?

Tôi xin lập lại: “Chúng tôi đánh giá nhân cách của một ‘con đĩ’ hơn các ông chính khách của đảng Cộng Sản nhiều, vì họ còn biết liêm sỉ, còn biết thế nào là tủi nhục cho mình và cho đất nước hơn các ông”.
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #6 - 28. Jan 2010 , 00:27
 

Lật ngửa con bài mafia Việt Nam



Thiên phóng sự dài, từ tháng 6 đến tháng 12–2009 tại những khu rừng ở miền Bắc nước Pháp, đã loan tải một thực trạng đau lòng đối với người Việt Nam sống kiểu du mục rừng thời trung cổ. Chúng tôi tiếp cận và phỏng vấn trên 540 Người Việt Rừng, nay mới đúc kết được những ray rứt về thân phận người Việt xuất khẩu lao động bất hợp pháp tại quê người xứ lạ.

Có đến với Người Việt Rừng mới biết sự thật là trên đất Pháp lại xuất hiện mafia Việt Nam, một tập đoàn đã mấy mươi năm mặc áo giáp hộ thể của đảng cộng sản Việt Nam, lúc nào cũng vây quanh nói mộng để rồi tuyên chiến với dân, như cụm từ ý đẹp mà lòng xấu xa “xóa-đói-giảm-nghèo” và “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”.

Đã đến lúc phải đặt thẳng vấn đề: Ai là người đang điều khiển bộ máy mafia Việt Nam? Họ hoạt động như thế nào trong “Xóa Đói Giảm Nghèo” và ” Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”? Đảng cộng sản Việt Nam và qui luật ăn thịt người như thế nào?



Cậy quyền cướp của, trốc thân bần dân Việt

Những thành viên Người Việt Rừng tại Téteghem cùng chung cảnh ngộ, cùng xuất phát từ những ngân hàng có trương mục “Xóa Đói Giảm Nghèo” và “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”. Chú ý nhất là một thanh niên 27 tuổi có trình độ đại học cho biết:

― Quê quán huyện Dương Kinh, Hải Phòng, đã có gia đình sinh hạ được một trai, một gái từ 3 đến 4 tuổi. Trước đây em đến Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam để vay tiền của trương mục “Xóa Đói Giảm Nghèo” với mục đích là kinh doanh lò gốm sản xuất sành sứ, em phải thế chấp sổ đỏ với trị giá 20.000 đô la. Trong khi ấy căn nhà của cha mẹ, được tu bổ lại vào năm 1985, trị giá hiện thời là 250.000 đô la.

Ngày đầu cha mẹ và em đến Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, chủ yếu là đi vay tiền tại trương mục “Xóa Đói Giảm Nghèo” theo quảng cáo của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngân hàng không ngần ngại đưa ra đề nghị căn nhà trị giá chỉ 100.000 USD mà thôi, như vậy là thế chấp theo ấn định của ngân hàng đương nhiên thấp hơn giá trị thị trường là một nửa (150.000 USD). Sau đó cha mẹ và em đồng ý lấy quyết định làm thủ tục vay tiền, ký tên vào văn kiện thế chấp, em chú ý nhất là tiền lãi mỗi ngày phải trả là 0,8 Mỹ kim.

Tiếp theo người cố vấn trương mục “Xóa Đói Giảm Nghèo” vẽ ra cho em một viễn cảnh mới, tươi sáng hơn: “Với số tiền này có thể nhanh chóng thu hồi lại sổ đỏ và đây cũng chính là cơ hội để trở mình, bước lên bậc thang gia đình sĩ diện. Quý vị phải liên hệ với “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”, mỗi tháng đồng lương tối thiểu là 5.000 đô la, chỉ cần làm việc khoảng 4 tháng là thành công như ý, sau đó tha hồ thực hiện ước mơ đổi đời tuỳ thích”. Rồi người cố vấn giới thiệu tiếp: “Hiện ngân hàng chúng tôi có “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”, nếu không ngại thì tôi mời chuyên viên hỗ trợ xuất khẩu lao động đến đây gặp quý vị”.

Chuyện gia đình sĩ diện là thời thượng và thời cơ đổi đời như một sức hút nó thuyết phục em, cho nên không cho phép em từ chối hay bỏ lỡ cơ hội. Em cho rằng nắm bắt cơ hội vào lúc này là đúng lúc, thử hỏi một dịp may đến không hứa hẹn thì ai mà bỏ qua cho đành! Bỗng lòng háo hức và khao khát ấy bị cuốn hút vào sức mạnh của đồng tiền, chỉ cần bỏ ra một số vốn và sức lao động bình thường sẽ đem lại tương lai cho vợ con và báo hiếu được cho cha mẹ, cũng là dịp để biết xứ người qua xã hội, văn hóa và kiến trúc phương Tây, nhất là nhanh chóng thu hồi sổ đỏ về cho cha mẹ của em.

Sau khi em nghe chuyên viên ngân hàng giải thích thiệt hơn về kinh tế gia đình, tức thì em đồng ý vào vấn đề chính để đi lao động nước ngoài. Cùng lúc em nhờ giới thiệu để gặp chuyên viên ngân hàng phụ trách “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”. Chuyên viên ngân hàng còn cho biết: “Nếu chấp thuận xuất khẩu lao động thì trương mục “Xóa Đói Giảm Nghèo” sẽ chuyển trương mục qua “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”. Em gật đầu đồng ý và ký vào văn kiện chuyển trương mục.

Khoảng 7 phút sau có người bước vào giới thiệu tên họ là Vũ Bình, họ mời em qua văn phòng kế bên để làm việc. Trước hết chuyên viên này giới thiệu thành quả của những người đi lao động nước ngoài do Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam tổ chức, với những tấm ảnh chụp, nào là nhà cửa khang trang đồ sộ, xe Honda VFR,V4 kiểu mới nhất. Tiếp theo chuyên viên trình bày thủ tục xuất khẩu lao động rất đơn giản, chi phí đi đường bộ 15.000 đô la, còn đường hàng không 20.000 đô la, thủ tục bao trọn gói xuất khẩu tính thành tiền và lãi mỗi ngày phải trả cho ngân hành là 5,3 đô la. Em ngồi tính nhẩm tiền lương mỗi tháng và tiền phải trả cho ngân hàng, như vậy em còn lại mỗi tháng là 4.841 đô la. Thế là tinh thần em bừng sáng, liền đồng ý lập thủ tục xuất khẩu.

Đến đây người chuyên viên cho biết:

― Đi đường bộ bằng xe ca, qua Trung Hoa rồi đến Anh Quốc, còn đi đường hàng không đến nước Nga rồi đi bắng xe ca đến Anh Quốc. Em nhận thấy dù đi con đường nào rồi cũng đến Anh Quốc, cho nên em đồng ý đi đường bộ để tiết kiệm được 500 đô la và tiền lãi phải trả cũng giảm xuống.

Cố vấn Vũ Bình cho biết:

― Cách thức trả tiền theo lộ trình đường bộ, chia thành 4 chặng gồm có: 1/ – Việt Nam-Trung Hoa: trả 2.000 đô la; 2/ – Trung Hoa-Nga: trả 3.000 đô la; 3/ – Nga, Ba Lan, Đức, Bỉ và Pháp Quốc: trả 2.000 đô la; 4/ – Pháp đến Anh Quốc: phải trả 4.500 euros; nếu thấy không cần thiết chi trả 4.500 euros, thì tự túc vào Anh Quốc. Tuy nhiên, sẽ có người hướng dẫn phương thức vào Anh Quốc, phần chi tiêu ăn và ở do tổ chức lo từ lộ trình cho đến điểm tập trung Pháp Quốc. Khi đến Anh Quốc thì có bộ phận lao động đưa đón, bảo đảm sắp đặt công ăn việc làm nhanh nhất là 2 ngày, chậm lắm là 3 ngày. Đặc biệt nếu ai trả theo trọn gói, đường bộ 15.000 đô la, đường hàng không 20.000 đô la sẽ bảo đảm thời gian là 15 ngày, đến nơi an toàn.

Thưa anh, thực chất cho đến nay mọi người ở trong rừng này, phải trả cho họ trên con số vay ban đầu là 15.000 hay 20.000 đô la và điều quan trọng là khi đến Trung Hoa, chúng em đã khai họ tên, nguyên quán và tuổi giả ít nhất khai hạ dưới một con giáp để hợp cho tuổi lao động Âu Châu. Sau khi em vào nước Nga thì mới phát hiện thân phận không còn quốc tịch và giấy thông hành, tự nhiên em trở thành vô tổ quốc, mới ngỡ ngàng, rồi đây họ sẽ muốn gì sau ngày mai!

Trước mặt và hiện nay em đã trả cho họ 17.500 đô la, đi đường bộ 1 tháng, ở trong rừng 2 tháng, chuyển hướng đi 3 lần, lần thứ nhất em ở lán 3 rừng Grande Synthe rồi chuyển đến lán 1 và chuyển đến rừng Téteghem, mỗi lần chuyển lán trại hay rừng là phải trả thêm tiền cho họ, đến nay em vẫn chưa vào được Anh Quốc.

Em có liên lạc về bên nhà cha mẹ cho biết:

― Số tiền vốn và lãi của ngân hàng đã tăng lên đến 30.000 đô la rồi, sao con chưa đi! Nhất là đứa con trai của em hỏi:

― Sao bố chưa đi ?

Lòng của em muốn đứt gan ruột ! Thưa anh, em nào ngờ lối tính tiền lãi của ngân hàng Việt Nam phi mã như vậy, theo em biết có nhiều người ở đây đã bị ngân hàng lấy sổ đỏ và phát mãi, xem như đã mất nhà, mất ruộng nương, mất đất thổ rồi!

Thưa anh những ngân hàng quảng cáo xuất khẩu lao động nước ngoài mạnh nhất hiện nay là hệ thống Ngân hàng Chính sách–Phát triển (Nhà nước) như Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Nông nghiệp, Phát triển nông thôn Việt Nam và Ngân hàng Quân Đội.

Ngoài ra còn có những ngân hàng tham gia xuất khẩu người lao động, như Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam và Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, tổng cộng 41 ngân hàng đã trở thành một tập đoàn xuất khẩu lao động nhiều hình thức, như tịch thu và thu mua bất động sản của dân để gôm về một mối mafia Việt Nam, qua cụm mỹ từ thương dân vô hạng “Xóa Đói Giảm Nghèo” và “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”.

Buồn nhất là Ngân hàng Quân Đội đi làm kinh tế “Xóa Đói Giảm Nghèo” thì còn tinh thần đâu mà giữ bờ cõi, họ chọn lấy kinh tế hoang dại này để cải thiện quân đội, bởi thế mới bị Trung Hoa xâm lăng, cướp đất, cướp biển mà trên miệng vẫn cười như gã làm hề trong đoàn trò xiếc!

Chúng tôi ngồi lắng nghe tiếng nói chân thực của Người Việt Rừng mà lòng xót xa:

― Cảm ơn em cho chúng tôi biết những chi tiết cần thiết về chuyện dài thê lương tại quê hương và tại rừng này, chúc em mạnh khỏe, may mắn cầm được số đỏ và nhanh chóng thu về sổ đỏ.

Đảng cộng sản Việt Nam và qui luật ăn thịt người

Chúng tôi trở lại rừng Grande Synthe lần thứ hai, đi thẳng vào lán thứ 4, góc bìa rừng phía Đông, đã nhận diện được người công an lần trước, đang đứng xa xa nay vẫn còn đây, chưa cầm số đỏ. Chúng tôi thừa biết người công an ẩn hiện này trong lán làm công tác kinh tế nước ngoài, vai trò của mỗi trưởng lán là “cần vụ mafia” tại địa điểm tập trung, hiện giờ ở trong rừng Grande Synthe có tất cả là 5 lán, do 5 ông trưởng lán cần vụ mafia điều phối đưa người vào Anh Quốc theo đường Cỏ hay đường Bãi.

Nếu có người vào rừng để trải tình thương, thì chỉ có cưỡi ngựa xem hoa mà thôi, không thể nào thấy người công an và biết được vai trò trưởng cần vụ mafia trong một tập thể và càng không biết phương cách sinh hoạt bí ẩn trong lán. Chúng tôi tiếp cận đã lâu ngày, tìm hiểu nhiều thành viên Người Việt Rừng, với nhiều giả cách giao tiếp, lần này thăm hỏi một trung niên:

― Xin lỗi anh có phải là trưởng lán không ?

― Thưa anh, không phải ạ.

Người thanh niên liền đưa tay chỉ về phía trước và nói tiếp:

– Thưa anh, người đứng đằng kia, mặc áo len màu xám là trưởng lán ạ.

Người thanh niên mặc áo len màu xám độ 40 tuổi, tự động đến chào chúng tôi, liền tranh thủ hỏi:

― Chào bạn, có phải là trưởng lán không ?

Người công an Cần vụ mafia đáp:

― Thưa anh đúng vậy, em là trưởng lán đây, xem ra hôm nay lại một lần nữa được tái ngộ với quý anh, hy vọng có tin vui.

Chúng tôi không chần chừ liền hỏi:

― Tin vui thứ nhất là xin bạn cho biết nguyên nhân nào bạn đi công tác đường cỏ, cũng như di chuyển lao động xuyên lục địa, từ Á qua Âu, thế thì theo qui luật tổ chức như thế nào để nhập cư được vào Anh Quốc ?

Công an Cần vụ mafia ngập ngừng, lòng ái ngại một hồi lâu suy nghĩ, rồi trả lời:

― Câu hỏi của quý anh khó trả lời quá. Theo em biết quý anh đã thăm viếng những lán khác trong rừng này, đương nhiên quý anh đã tiếp được nhiều nguồn tin khác nhau và đã đích thực tai nghe mắt thấy, cho nên em nói thẳng không lời nào dối cả và không hề sợ bất cứ ai. Chính em là Thiếu úy công an tại Đông Hà, do Tổng Cục đề cử đi công tác kinh tế nước ngoài. Trước khi đi em không nghĩ cực khổ như thế này đâu, nếu biết trước thì thà ở quê nhà còn sướng hơn vì em có thiếu thốn gì đâu, đời sống gia đình rất sung túc.

Còn về qui định làm việc thì vẫn như cũ. Ngày trước thời 9 năm kháng chiến (1945–1954) hay Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960–1975) đưa đón người từ thành phố vào bưng biền, chiến khu và trở lại thành phố, chủ yếu là bắt cóc người có máu mặt hay đưa đón những người có thoả thuận. Còn hôm nay có sự tập trung người Việt ở trong rừng Grande Synthe này, cũng chỉ lặp lại công thức qui luật ấy mà thôi. Sự khác biệt là ngày nay xuất khẩu lao động ra nước ngoài để làm kinh tế cho đảng, nói chung qui luật bí mật bắt cóc người là sao y bản chính của đảng cộng sản Trung Hoa, rồi đảng cộng sản Việt Nam chế biến lại thành phó bản. Vì thế có thể nói rằng qui luật bí mật đưa đón, di chuyển người đã trở thành bất biến.

Nói cụ thể hơn, công an là gạch nối xuất khẩu lao động của “Xóa Đói Giảm Nghèo” và “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”. Công an có mặt trong nội vụ xuất khẩu lao động là đủ chứng minh không lấy gì trong sạch cả, tự em cảm nhận được, hôm nay và ngày mai chỉ là người đi chăn bầy cừu kinh tế cho đảng mà thôi!

Để anh hình dung rõ hơn, lúc đầu em với tư cách là đi công tác nước ngoài, không biết đi nước nào, trên đường đi chỉ biết chờ lệnh để nhận công tác. Khi lên xe thì đã thấy có 5 người lạ mặt cùng lứa tuổi, em nghĩ đây là đồng nghiệp. Khi xe vào nội địa Trung Hoa, hai ngày sau đến Hồ Bắc thay đổi xe, 5 người lạ mặt ấy không biết đi đâu, thấy họ bổ sung 22 người khác, già trẻ có cả. Xe tiếp tục lăn bánh từ Trung Hoa đến nước Nga thay đổi người và xe đến 4 lần, em lại gặp được 42 người Việt mình cùng hành trình. Khi đến Nga em gặp 76 người, và trên lộ trình từ Nga đến Pháp thay đổi người và xe 3 lần, xuyên qua 4 quốc gia Ba Lan, Đức, Bỉ và Pháp Quốc, nói chung mỗi lúc thay đổi xe là em gặp người mới, còn những người cũ hoàn tòan không gặp lại, cũng không biết hiện giờ họ đang ở đâu và làm gì.
...


Xoá đói giảm nghèo thế này đây!

...


Thiên đường xanh!

Gần một tháng trôi qua, họ mới đưa em đến Pháp Quốc, cũng là người đầu tiên đến lán này vào lúc 5 giờ chiều. Họ cho biết em là người trưởng lán và cho phép em tự chọn một phó lán. Bỗng dưng nửa giờ sau có người xuất hiện, cứ tiếp nối theo vào lán, mỗi lúc càng đông hơn. Đến 8 giờ tối thì tổng số là 39 người. Tình hình ăn ở trong lán chưa ổn định thì đã có người gọi ra bãi để nhảy xe vào lúc 10 giờ đêm. Một đêm kinh hoàng mở màn cho những con thiêu thân xuất khẩu lao động nhảy xe vận tải, trong đó có em.

Thưa anh, em là Thiếu úy công an tại ngũ đã từng học chiến thuật, tác chiến nội ngoại thành, từng thảo ra kế hoạch tác chiến mà vẫn còn không biết người đưa, kẻ đón là ai. Lúc đầu em chỉ biết lệnh phụ trách tại đây, không thể biết hơn nữa, dù em có suy nghĩ nhiều cũng đành mù, bởi không định hướng được phía trước và người sau sẽ là ai. Lúc trước bố em có thuật lại những chuyến đi vào chiến khu, nay em đến rừng này cũng không khác mấy lời của bố em thuật lại về qui luật di chuyển người bí mật.

Sau 5 ngày ở đây, em mới biết được 39 người này đi trồng “cỏ”, thực ra là trồng cần sa. Sở dĩ em biết được là qua 16 người trong lán, họ đến từ Nga có nhiều kinh nghiệm sống hơn, vì họ đã ở nước Nga trên 15 năm.

Ăn thịt người, không nhả xương, không để lại dấu vết

Mỗi lần vào thăm viếng Người Việt Rừng chúng tôi đều để lại địa chỉ liên lạc nhanai@online.fr. Đến nay chúng tôi đã tiếp nhận rất nhiều e–mail của những thành viên Người Việt Rừng, một vài lời tâm tình tiêu biểu nhất qua e–mail của tonydeux1974 và minhtoi009, cho biết:

― Chào Bác. Hiện giờ thì cháu đã ở bên Anh Quốc rồi, cháu đã kiếm được việc làm sau 1 ngày nghỉ ngơi. Tuy nhiên mới chỉ là học nghề thôi, nghề gì thì Bác đã biết rồi. Đôi lúc cháu tưởng như chẳng bao giờ sang được bên Anh Quốc và nhất là thời gian ở rừng Angres thật tuyệt vọng, nhưng cháu có ý chí và cháu luôn tự nhủ sẽ cố gắng hết mình để được sang đây. Cháu cũng thật sư xin lỗi Bác và người chị đi cùng với Bác vì hôm đó cháu nói chuyện không thật sự cởi mở. Bác biết đó, hoàn cảnh sống cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý. Chắc Bác đã xem trên truyền hình Canal Plus, nội dung phim và hình ảnh nói về cháu, là một trong những chủ lán trại tại Angres.

Bác biết rồi đó, thời đại này mà vẫn còn có những con người nghị lực sống khổ hơn thời kỳ đồ đá như thế. Nhưng cháu vẫn tin vào tương lai phía trước. Thưa Bác, cháu vẫn chưa trả lời với Bác và người chị cùng đi với Bác về câu hỏi “Học vấn của em ở quê nhà thế nào?”. Bây giờ cũng muộn rồi !

Cháu rất nghiện tìm hiểu và đọc tài liệu cũng như báo chí ở trên mạng. Nay tuy phận cháu tạm ổn cũng không qua được và đồng cảm xót xa cho những người bạn đang ở lại trong rừng Angres. Dân ta có câu “Lần đầu chưa quen đường cây chưa thẳng”. Mong rằng lần đầu tiên gặp Bác cũng như vậy. Mong Bác và người chị gái đó bỏ qua.

Ba tháng sau có một Người Việt Rừng, e–mail minhtoi009 cho biết:

― Chào anh Nhân Ái, em là Mình–tôi, quê ở phường Đúc cuối đường Trần Hưng Đạo Huế. Em đã vào được Anh Quốc hơn 7 tháng rồi, nay mới nhớ đến anh liền email để cho anh biết. Hiện nay em đang sống tại một tỉnh xa, cách thủ đô London hơn 80 km, ở trong một ngôi nhà to lớn mà cứ tưởng như cái chuồng nuôi loài cầm thú vậy. Em phải sống trong nóng lạnh bất thường, trong nhà nóng trên 30 độ, ngoài nhà lạnh dưới 6 độ âm. Như vậy là anh đã biết em đang làm nghề gì rồi. Khi em còn ở trong rừng Téteghem Pháp Quốc được anh chỉ bảo rất nhiều về đời sống phương Tây và bảo em tránh nghề trồng cỏ. Em đến Anh Quốc chỉ mới 1 ngày, chân ướt chân ráo là họ chở em đi trồng cần sa liền! Những ngày tháng dài buồn vô hạn, chỉ một mình trồng cỏ. Ở đây u tịch lắm. Mỗi tháng người chủ nhà đến một lần để lấy cỏ.

À thưa anh, về căn nhà của em thế chấp cho Ngân hàng Quân Đội, nay đã bị phát mãi rồi, hiện vợ con em phải sống bên nhà ngoại. Không riêng gì em bị mất nhà, hầu như tất cả người trồng cỏ cũng đều như em. Thử hỏi lương của em mỗi tháng chỉ có 350 bảng Anh, tiền ăn và ở quá đắt đỏ, cần kiệm lắm mới còn lại 50 bảng Anh có người không còn đồng nào !

Giờ này thì em đã biết đường đến London, thường vào hộp đêm cuối tuần, mục đích là tìm lại bạn cũ để chia sẻ tâm sự buồn vui. Em đã gặp được người bạn xứ Hưng Yên, có gửi lời thăm anh đó. Em đến hộp đêm một lần để tìm hiểu tâm trạng người cùng cảnh ngộ. Nhờ vậy mới biết nhiều về sinh hoạt của giới trồng cỏ, nhân đây gửi đến anh để tường tận. Hệ thống trồng cỏ chia ra làm 3 khâu sản xuất như sau:

1. Khâu tuyển mộ lao động trồng cần sa: Nhân công trồng cần sa tuyển mộ từ Việt Nam qua thủ tục “Xóa đói, giảm nghèo” và “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”. Người được tuyển mộ phải có bất động sản trên trị giá 100.000 đô la. Bất động sản thế chấp từ 15.000 đô la đến 20.000 đô la. Bây giờ em mới biết ngân hàng đánh bẫy tài sản của em bằng một nửa giá trị hiện thời. Đây là then chốt rút ngắn thời gian sớm nhất để ngân hàng tự do phát mãi thu hồi nợ, trước khi khổ chủ chưa kịp trả lãi bằng đồng tiền lao động nước ngoài của mình là đã mất tài sản rồi !

Em được biết những ngân hàng có trương mục “Xóa đói, giảm nghèo” và “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động” lập mọi thủ tục xuất khẩu lao động. Mỗi chặng hành trình do Bộ Lao động–Thương binh và Xã hội lo toan. Tập trung và bãi đáp do Đại sứ quán nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam địa phương phụ trách. Quân đội và Công an phụ trách kinh tế nước ngoài, lo ăn ở tại địa điểm tập trung và hướng dẫn ra bãi đáp để di chuyển vào Anh Quốc. Lương lao động do người Trung Hoa phân phát.

Thưa anh, đầu óc của em không được minh mẫn lắm vì lúc này thường lo âu nhiều, nào là bị mất sổ đỏ, nhà và đất, bán mạng cho sinh tử mà vẫn phải trả ngân hàng 16.500 đô la. Thực tế lương lao động chính thức chỉ là 350 bảng Anh, chứ không như họ quảng cáo là 5.000 đô la! Ở đây làm việc mỗi ngày trên 12 giờ mà lương chưa tới một phần mười của vốn đã bỏ ra. Thân phận em nay là kẻ sống ngoài lề xã hội, không có hộ khẩu, thẻ tuỳ thân, quốc tịch. Sống ở xứ người em không biết ai để mà thưa kiện, em có liên lạc về quê nhà bằng điện thoại di động, cho biết số lương nhận được là 350 bảng Anh. Bây giờ thì cả gia đình đã mất hết hy vọng đổi đời. À em còn bị thê thảm hơn, vừa rồi em mắc bệnh phải tốn hao năm tháng lương mượn trước, mỗi tháng họ trừ vào tiền lương 50 bảng Anh.

Sinh hoạt ở đây cứ đều một nhịp: cuối tháng thì có một người nói tiếng Tàu, đến trả lương bằng tiền mặt, còn người Việt thì đến lấy cần sa tươi. Em được biết họ tổ chức trên 500 địa chỉ trồng cần sa rất bí mật. Giữa họ và em không nói được một lời nào, em muốn nói chuyện nhưng họ ra dấu câm như hến.

Đời em kể như chết chưa chôn, vùi thây sống ở đây rồi anh ạ. Mạng sống của em do cha mẹ cho, chưa đền ơn báo hiếu thì mắc phải suốt cả đời này làm thân cầm thú cho kẻ chưa hề ân oán. Em vẫn hy vọng ngày trở về quê hương, nhưng được tin nhà nước Việt Nam từ chối không cho hồi hương những người lao động bất hợp pháp. Thế thì hy vọng ngày trở về quê hương hay ở đây cũng là một cách đã chết, nói chung những ai đồng cảnh ngộ như chúng em đều cảm nhận được sinh ra đời để chịu thiệt thòi nhất thế gian, có ai hơn sự thiệt thòi này !

Đặc biệt có hai người trồng cỏ bị bệnh không có tiền để chữa trị, vừa qua đời cách đây 3 hôm. Em nghe họ nói mỗi tháng có ít nhất là một người trồng cỏ qua đời, phần đông là người cao niên không chịu được cái nóng của trồng cỏ và khí hậu lạnh ngoài trời .

2. Khâu chế biến cần sa: Một người bạn làm trong khâu chế biến, nhiều lần gặp em trong hộp đêm, rồi dần dà thân nhau cho biết: Anh đã làm việc trong khâu chế biến 6 năm liền không thay đổi địa chỉ. Khâu chế biến chia ra từng tổ một từ 2 người đến 3 người. Hiện nay có thể trên 150 tổ, hoạt động rất bí mật, tổ nào biết tổ đó, nghe nói người Việt Nam phụ trách khâu này.

Cũng có vài người Việt Nam sống tại Anh Quốc, chuyên trồng cần sa bỏ mối, nhờ vậy họ có đời sống khá giả, tự hào đại gia. Rồi một hôm những thân hữu đại gia muốn phất cờ tự sản xuất cần sa, thành lập sân chơi riêng, tuyên bố không còn lệ thuộc tổ chức mafia Việt Nam. Họ mới có ý định tự sản xuất và không cung cấp cần sa, tức thì họ bị mafia Việt Nam thủ tiêu, chết tại chỗ 2 đại gia, không kịp một lời trăn trối. Tiếp đó là mỗi ngày thêm một đại gia đo ván, số còn lại bỏ của lấy người, di tản đến xứ khác như Nga, Canada để sống.

3. Khâu đóng gói, bao bì thành phẩm cần sa: Trong khâu này, nhân công là những thành viên trồng cỏ lâu năm và phải người được họ tín nhiệm, phần đông là công an Việt Nam mới được làm ở khâu này.

4. “Tài gia” cần sa: Một người bạn trong họp đêm cho biết: Tất cả cần sa thành phẩm do người Trung Hoa quản lý và độc quyền kinh doanh. Họ mua bán và chuyên chở bằng cách nào không ai biết. Đặc biệt những sản phẩm cần sa hiếm thấy trên thị trường Anh Quốc.

Và một phần tin tức em biết được là do kẻ nói đi, người nghe lại, rằng: Người tài gia cần sa chính là nhà nước Trung Hoa, còn nhà nước Việt Nam chỉ là một nhân công lớn. Báo chí, truyền hình Anh Quốc thường loan tải về thời sự cần sa. Cảnh sát Anh Quốc bắt người trồng cần sa, đôi khi loan tải bắt được một vài người chế biến, đóng gói, thành phẩm nhưng chưa bao giờ loan tải bắt trọn ổ chế biến thành phẩm cần sa, không biết khi nào cảnh sát Anh Quốc rờ tới đầu của tài gia đây? Cho đến nay, các tài gia vẫn đứng ngoài vòng pháp luật Anh Quốc và cả Âu Châu.

Sống không nhà, chết không mồ

Trước đây chúng tôi và nhiều người tưởng rằng những Người Việt Rừng trả chi phí cho tổ chức xuất khẩu lao động nước ngoại từ 15.000 đến 20.000 đô la, như vậy Người Việt Rừng phải khá giả dư ăn, dư để mới có số tiền trên, chứ ai nào ngờ số tiền trên do thế chấp sổ đỏ (sở hữu chủ tài sản). Người Việt mình xem cái nhà là gia tài chính không thể thiếu được, cho nên có câu: “Sống cái nhà, chết cái mồ”. Bây giờ Người Việt Rừng gặp phải cảnh sống không nhà, chết không mồ! Quả thực chỉ có nhà nước cộng sản Việt Nam mới bùng lên quá nhiều sự lạ trên đời, khó ai mà ngờ đến được, từ sự kiện Cải Cách Ruộng Đất (1952–1956), Tết Mậu Thân (1968), dấy động cuộc tố cáo và truy nã các thành phần tư sản mại bản niềm Nam, trên thực tế là cướp tài sản của nhân dân miền Nam, đồng thời đẩy 3 triệu nhân mạng ra biển (1975–1990).

Sau 1975, đến tận bây giờ (2010), đảng cộng sản Việt Nam cứ leo thang đàng áp tín ngưỡng, người chí nghĩa Dân chủ, tù đày con dân của tổ quốc, tử hình hằng vạn người dân lương thiện, lập trại cải tạo khắp cả nước để tiện tay thù hằn, rừng già lùi bước hậu quả lũ lụt triền miên, cướp đất nhà cửa của dân để làm của riêng, tham nhũng, mua quan bán chức, bán tất biên cương biển cả, rừng vàng bạc biển về tay Trung Hoa. Thế mà đảng cộng sản Việt Nam xem ra chưa vừa túi tham. Nay thì đã rõ, bài bản mới của đảng ta là sắm vai cường hào ác đảng lột trần truồng người bị xuất khẩu lao động. Ngày hôm nay, những Người Việt Rừng đúng là sống không nhà, chết không mồ, dù các bạn biết hay không biết về chuyện đó!

Nhà nước gian thì ắt có ngày sẽ sợ dân ngay

Họ là những chuyên gia kinh tế xuất khẩu hoang dại ngoại hạng, họ là Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng Chính Phủ, Uỷ viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, đã ký nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007. Còn gọi là nghị định “Dân cười ra nước mắt”. Họ là Nguyễn Thị Kim Ngân, nguyên bộ trưởng Bộ Lao động–Thương binh và Xã hội, Uỷ viên Trung ương Đảng, chỉ biết nhắm mắt để được chia mảnh xác nhân dân Việt Nam. Họ là Đặng Ngọc Tùng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Uỷ viên Trung ương Đảng, quyết lãnh đạm để hưởng mối lợi lớn, một gật đầu muôn xác người chết mặc kệ bay. Trên đây là những người có trách nhiệm lao động, không bao giờ nghe tiếng nói của nhân dân.

Người Việt Rừng hy vọng tiếng nói của mình được những người có trách nhiệm lắng nghe, và cho biết:

― Hiện trong nước có những ngân hàng quảng cáo thế chấp và cho vay để đi lao động nước ngoài, một hình thức xuất khẩu nô lệ mới, có tất cả là 5 diện xuất khẩu khác nhau như:

1. Xuất khẩu lao động theo luật quốc tế (10,5%): Nhà nước Việt Nam tuyển mộ lao động và ký kết theo luật lao động quốc tế, cung cấp lao động cho các nước Phương Tây. Thành phần này không có chuyên môn, phần đông làm tại các nông trường, trại chăn nuôi, khai mỏ, làm đường hoả xa, công nhân kiều lộ và công nhân các hãng mổ heo, gà, vịt v.v… Việt Nam chưa xuất khẩu lao động theo dạng chuyên viên như Ấn Độ.

Đường đến thiên đường £5000/tháng!

2. Xuất khẩu lao động bán chính thức (25%): Nhà nước Việt Nam bán lao động với giá thật rẻ cho các quốc gia như Pháp Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Anh quốc v.v.

3. Xuất khẩu hôn nhân xuyên biên giới và phụ nữ bán thân nuôi miệng (0,5%): Nhà nước tổ chức bán phụ nữ cho các quốc gia Đông Nam Á như Đài Loan, Trung Hoa, Hàn Quốc, Phi Luật Tân, Singapore và lập ổ mãi dâm tại Thái Lan, Malaysia, Cambodge, Laos, Philippines.

4. Xuất khẩu lao động bất hợp pháp (10%): Những ngân hàng nhà nước Việt Nam thành lập hệ thống mafia, tuyển mộ công nhân biến thành nô lệ để sản xuất cần sa. Chủ lực sản xuất cần sa là tại các quốc gia như Anh Quốc, Canada…

5. Xuất khẩu nô lệ bất hợp pháp (40%): Nhà nước Việt Nam gia tăng xuất khẩu nô lệ và đưa người nhập cư lậu vào 40 quốc gia trên thế giới. Lao động bất hợp pháp gồm có: Albania: 25.000 người. Á–Rập–Xê–Út: 50.500 người. Anh Quốc: 32.000 người. Ba Lan: 37.500 người. Belarus: 31.200 người. Hercegovina: 34.000 người. Bungary: 45.000 người. Croatia: 10.000 người. Cộng hòa Séc: 25.700 người. Đài Loan: 175.800 người. Germany: 59.053 người. Estonia: 20.000 người. Hàn Quốc: 475.000 người. Hoa Kỳ: 20.000 người. Hungary: 20.600 người. Kazakhstan: 12.700 người. Latvia: 20.500 người. Libya: 20.800 người. Lietuva: 20.000 người. Macedonia: 20.700 người. Macao: 30.200 người. Malaysia: 650.000 người. Moldovia: 16.400 người. Mongolia: 18.000 người. Montenegro: 20.000 người. Pháp Quốc: 25.000 người. Nga: 775.000 người. Nhật Bản: 25.000 người. Romania: 29.800 người. Slovenia: 27.000 người. Serbia: 19.000 người. Singapore: 25.900 người. Thái Lan: 45.000 người. Trung Hoa: 680.000 người. Úc: 40.400 người. Ukraina: 24.400 người. Uzbekistan: 27.100 người. Ykpaiha: 19.090 người.

Thành phần lao động trên đem lại cho đảng cộng sản Việt Nam nhiều, khá nhiều tỉ đô la mỗi năm. Kinh tế này không thuộc về tài sản của quốc gia mà là tài sản của đảng cộng sản Việt Nam lưu trữ hải ngoại. Trên 40 quốc gia có mặt người Việt lao động bất hợp pháp sẽ là một thất thoát lớn về mặt kinh tế và bất ổn về mặt an ninh cho xã hội, nhưng có sao đâu, vì đó cũng là một nguồn ngoại tệ để vỗ béo đảng “ta”!

6. Bán trẻ em và sơ sinh (0,5%): Nhà nước Việt Nam thi hành đúng 12 điều luật ký kết với quốc tế về “Thủ tục nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi” như các quốc gia khác thì không có vấn đề tệ lạm bán trẻ em và sơ sinh. Việt Nam có luật pháp nhưng người nhà nước lại bước qua luật pháp một cách quá đáng mới biến Việt Nam thành chợ bán trẻ em và sơ sinh bằng những thủ tục trên trời dưới đất. Đây là môi trường sống khoẻ của tham nhũng, tự nó biến thành nơi đầu cơ hàng thịt tươi sống, cân bán bằng ký lô trẻ em. Họ còn tổ chức xuất khẩu trẻ em và sơ sinh qua Trung Hoa…Trung Hoa áp dụng chính sách chỉ có phép sinh một con duy nhất song dân số của quốc gia này vẫn đứng số 1 thế giới và sẽ tiếp tục tăng lên tới 1,5 tỉ dân vào năm 2033. Trong khi ấy tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam là 85.789.573 người, thế thì Trung Hoa mua trẻ em và sơ sinh Việt Nam để làm gì?

Tất cả những quan chức nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ xem đô la là thần tượng, họ quên đi người dân lao động nay sống tận đường cùng. Thế mà họ luôn cho mình là đảng của người lao động Việt Nam, sống cho người dân nghèo! Đúng là đảng cầm quyền có tuyệt chiêu nhất Việt Nam mới lập được hệ thống buôn người qua nhãn hiệu “Xóa đói, giảm nghèo” và “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”, lộng giả thành chân, mị dân bằng trăm ngàn kiểu mà dân thì cứ nghe ngọt thấu xương! Xem thế thì chỉ có đảng cộng sản “ta” mới dám làm chuyện bất lương phi thường!

Bản chất của đảng cộng sản Việt Nam là thế đấy, không chút mảy may tình người. Họ xem dân tộc Việt Nam như chiếc áo rách tả tơi, lúc nào phế bỏ cũng được. Họ chỉ biết chiếm đoạt tài sản của người dân qua hình thức “Xóa đói, giảm nghèo”, qua chương trình xuất khẩu lao động. Quả nhiên dịch vụ này do ngân hàng mafia trực thuộc nhà nước Việt Nam quản lý, nhà nước Việt Nam xem đây là một sáng tạo kinh tế vĩ đại nhất, thành công nhờ phương tiện lường gạt chính thống mà khá hữu hiệu.

Đảng cộng sản đã có quá nhiều nợ nần với nhân dân Việt Nam mà nay vẫn chưa trả. Năm 1975 họ tàn bạo đẩy người dân Việt Nam ra biển khơi để tịch thu tài sản, cuối cùng họ gom lại thành “khúc ruột dư ngoài ngàn dặm“. Họ tiếp tục khai thác đô la trên thân xác mỹ danh “Việt Kiều yêu nước”. Và ngày nay chiêu bài “Xóa Đói Giảm Nghèo” và “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động” cũng một phương thức cũ nhưng bằng thủ tục tréo ngoe để hợp pháp hoá việc ăn cướp nhà đất của nhân dân.

Đảng cộng sản Việt Nam không bao giờ có quyết định thông minh, cho nên không chọn niềm tin vào toàn dân để phát triển kinh tế, mà họ cứ chọn nghi ngờ để rồi đẩy đất nước vào tuyệt lộ kinh tế như ngày nay. Miệng của đảng viên lãn hđạo thì la ào ào và to tiếng nào là “Xóa Đói Giảm Nghèo” và “Đề án hỗ trợ các Huyện nghèo đẩy mạnh Xuất Khẩu Lao Động”, nghe qua thì cho nhà nước này đạo đức lắm, vì dân lắm! Nhưng hãy bình tĩnh lại, chiêm nghiệm cẩn trọng, đừng vội vã. Chỉ một khắc sau thôi mới thấy hành động của những kẻ nói năng nhân nghĩa ngọt ngào kia rất là bất lương, vô đạo đức.

Trong thâm tâm, những kẻ có chức có quyền ngày nay đều lấy đô là làm thước đo mọi chuyện, họ thà làm một đại thù của nhân dân Việt Nam còn hơn để chảy một đô la ra ngoài huyết quản. Từ đảng trưởng cho đến đảng viên tầm thường cũng vậy. Chính vì thế mà họ muốn và cần nắm giữ vận mệnh của những người khác muôn đời. Thiên hạ thường nói: Anh hùng hào kiệt tự có khí chất của dân tộc, còn tà ma ngoại đạo như đảng cộng sản Việt Nam cũng có mùi vị riêng của chúng, những thứ này đều toả ra từ trong ống xương tuỷ, dù có giải phẫu đổi khác thì cũng vậy thôi, mèo vẫn hoàn mèo!

Mafia Việt Nam, tổ chức xuất khẩu lao động bất hợp pháp, tưởng rằng đầu xuôi đuôi lọt, mọi chuyện có liên hợp từ những ngân hàng cho đến trồng cần sa tại Anh Quốc là ổn. Họ nào biết chuyện đời này lồ lộ buổi sáng thì khắc sau cả nhân loại đều biết và thấy tất cả hệ thống tổ chức xuất khẩu lao động bất hợp pháp, đương nhiêu không qua nổi lưới thường đời này, dù mafia Việt Nam có kỳ môn thuật số cũng vô ích thôi.

Tuy hiện nay người dân Việt Nam chịu đựng khổ đau quá nhiều, rồi cũng đến cảnh giới cùng tột nào đó, bỗng thông minh ra, thử hỏi chế độ mafia Việt Nam có còn tồn tại được bao lâu nhỉ?

Sự có mặt mafia trong nhà nước đảng cộng sản Việt Nam đúng là một trái bom nổ chậm. Bọn họ thực ra chỉ là một lũ thiển cận, làm kinh tài mà mặc áo giáp hộ thể đảng cộng sản Việt Nam, bởi vậy lúc nào họ cũng mặt lạ đồng chì lạnh, họ không phải tình máu đỏ da vàng, họ là công thức tiêu diệt tất cả dân tộc Việt Nam này, cho đến nay vẫn còn bơi trong ao tù nghèo khó và mãi mãi không bao giờ ra biển khơi nếu đảng cộng sản Việt Nam còn đó!

Trong khung cảnh hiện nay, đảng cộng sản Việt Nam đang ra sức triệt tiêu những mầm chống đối trong dân chúng. Nào là quy định không được tụ họp đông người, nào là chống “diễn biến hoà bình” và “tự diễn biến” trong nội bộ đảng. Nào là bắt bớ giam cầm những người bất đồng chính kiến với những tội trạng đẫm màu sắc tưởng tượng bệnh hoạn là “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”. Thật ra, họ đang run sợ trước viễn ảnh kinh hoàng hệt như của vợ chồng nhà độc tài Romania năm nào. NHững hành vi điên cuồng chống lại trào lưu dân chủ hiện nay chỉ là thứ phản ứng tự vệ của kẻ không muốn mất quyền lợi. Chỉ có thế mà thôi! Buồn thay cho đảng cộng sản Việt Nam chỉ lo khư khư giữ cái mạng của mình chứ không lo nghĩa đồng bào. Một tập đoàn không sống vì tình nghĩa đồng bào thì sinh tồn để làm gì chứ?

Ngày nay, đảng cộng sản đã chiếm toàn cõi mảnh đất lớn của dân tộc Việt Nam và ngang tàng cho mình có quyền tối thượng, muốn dâng hiến cho ai vào lúc nào cũng được. Ngày nay đảng cộng sản Việt Nam không khác nào một Mân Việt ngày xưa dâng Hồ Nam cho người Hán…

Hy vọng mai này toàn thể nhân dân Việt Nam sẽ nhận ra dung mạo thật của cái gọi là đảng cộng sản Việt Nam mà lâu nay họ bị buộc phải gọi là “đảng và nhà nước “ta”!



Huỳnh Tâm
Những ngày Người Việt Rừng gối tuyết nằm suơng tại rừng nước Pháp



Bài liên quan:

• Huỳnh Tâm, “Những bước đổi đời gian nan”. Thông Luận, ngày 14/11/2009

• Huỳnh Tâm, “ Đi đường Cỏ, bỏ mạng đường xa!”. Thông Luận, ngày 12/12/2009

• Huỳnh Tâm, “Dịch vụ xuất khẩu lao động theo kiểu Việt Nam ta!”. Thông Luận, ngày 13/12/2009

• Huỳnh Tâm, “Nhập cư bất hợp pháp tại cảng Calais”. Thông Luận, ngày 28/12/2009
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #7 - 04. Feb 2010 , 21:03
 
Tội Ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 1968




HUẾ - TẾT MẬU THÂN 1968
http://www.youtube.com/watch?v=YHMQuyphnEY

Món Quà Chúc Tết Đầu Xuân của bác Hồ vĩ đại dành cho Dân Tộc Việt
http://www.youtube.com/watch?v=cqK4uuk8m-4&feature=channel_page
 
Tội Ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 1968 (phần đầu)
http://www.youtube.com/watch?v=ZaQOdZ6EQHs&feature=related

Tội Ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 1968 (phần cuối)
http://www.youtube.com/watch?v=eZYYwNlUzRY&feature=related

Ai Đã Thảm Sát Đồng Bào Huế 1968? Phần 1
http://www.youtube.com/watch?v=kYpaTVrE4Uk&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Ai Đã Thảm Sát Đồng Bào Huế 1968? Phần 2
http://www.youtube.com/watch?v=gIMsGIDfrbo&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&p...

Ai Đã Thảm Sát Đồng Bào Huế 1968? Phần 3
http://www.youtube.com/watch?v=sKE6INvQDAc&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&p...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 1
http://www.youtube.com/watch?v=_mE_U9TkFXU&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 2
http://www.youtube.com/watch?v=Kmu368zzoio&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 3
http://www.youtube.com/watch?v=Ub628OoqJnI&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 4
http://www.youtube.com/watch?v=HlJkaVru9sY&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 5
http://www.youtube.com/watch?v=jwRMw2zT9Yk&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 6
http://www.youtube.com/watch?v=hTejgcK8GSU&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 7
http://www.youtube.com/watch?v=aefjJQ35Tec&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 8
http://www.youtube.com/watch?v=0Qv8PfLW-0c&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 9
http://www.youtube.com/watch?v=rVNHsU4AM4o&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 10
http://www.youtube.com/watch?v=Sb6Rrxs8pF8&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Tuong Niem Tet Mau Than 1968 Part 11
http://www.youtube.com/watch?v=dK-uEHZtmw4&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Giai Khan So Cho Hue phan 1
http://www.youtube.com/watch?v=BhU4gb2vI84&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...

Giai Khan So Cho Hue phan 2
http://www.youtube.com/watch?v=kRfmwRaoWYw&feature=PlayList&p=BF07E00C9DBD0B21&i...


(Bài đọc thêm nếu ai chưa đọc)

Tết Mậu Thân 1968, VC Tàn Sát Ðồng Bào Vô Tội Tại Huế



PhoNang, 27/01/2010
MƯỜNG GIANG

Cuối tháng 12-1960, Hồ Chí Minh thành lập tại Hà Nội cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN), dùng làm bình phong lừa bịp thế giới về âm mưu cưởng chiếm VNCH bằng quân sự. Ðể hoàn thành giấc mộng nhuộm đỏ toàn cõi VN, Hà Nội bắt các cán binh, bộ đội gốc Miền Nam đã tập kết ra Bắc năm 1954 phải hồi kết , qua đường mòn Trường Sơn. Số này sẽ kết hợp với các cán binh nằm vùng năm xưa và một nhóm trí thức khoa bảng đang bất mãn chính phủ Ngô Ðình Diệm. Tất cả sẽ dấy lên một phong trào tranh đấu giả tạo, để lật đổ chính quyền hợp pháp của Miền Nam bằng kế hoạch ba mặt giáp công. Ðó là chính trị, binh vận và quân sự của Miền Bắc.

Cuộc binh biến ngày 1-11-1963 với kết quả đưa VNCH vào tình trạng vô chính phủ và gây nên những xáo trộn chính trị triền miên suốt những năm 1964-1967. Nắm lấy thời cơ vàng ròng, mà Hồ Chí Minh cho là đã chín mùi tại Miền Nam, nên đầu năm 1964, đảng ra lệnh tập trung các cán bộ Y tế, Giáo dục, Văn hóa Thể dục Thể thao, Nhà văn, Nhà báo, Nông nghiệp, Bưu điện, Tiếp vận... khắp đất Bắc để học tập, huấn luyện, lên đường vào Nam tiếp tay với bọn Việt gian bản địa, dấy lên phong trào cướp chính quyền ở Huế, Ðà Nẵng, Sài Gòn và nhiều thành phố khác. Ðợt đó có 300 người bị tập trung tại Trường Huấn Luyện Ðặc Biệt ở Phú Thọ, mang tên là Ðoàn K-33.

Ngày 22-12-1964 lớp học bế mạc, tất cả các học viên đều lên đường vào Nam. Trong số cán bộ trên, hiện còn nhiều người sống sót và được đảng thưởng công rất hậu như Nguyễn Trung Hậu (Bí thư tỉnh ủy Thuận Hải), Trần Ngọc Trác (Chủ tịch tỉnh Thuận Hải), Ngô Triều Sơn (Q..Bí thư tỉnh ủy Bình Thuận), Nguyễn Tường Thuật (Chủ tịch tỉnh Phú Yên)... Ngoài ra còn có các nhạc sĩ, nhà văn như Phan Huỳnh Ðiểu, Thuận Yến, Lê Anh Xuân, Tô Nhuận Vỹ, Dược sĩ Nguyễn Kim Hùng, Tiến sĩ Võ Quảng, Nguyễn Thới Nhậm, Nguyễn Khoa Ðiềm..

Lâu nay nhiều người thắc mắc về sự liên hệ giữa Nguyễn Khoa Ðiềm và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thậm chí không ít người quả quyết cả hai chỉ là một. Nhưng dù là một hay hai thì chúng vẫn là những ác nhân thiên cổ (trong đó có Nguyễn Ðắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan..) đã tàn nhẫn dã man mất hết nhân tính khi ra lệnh chôn sống, đập đầu và tùng xẻo hàng ngàn đồng bào vô tội tại Huế vào những ngày Tết Mậu Thân (1968).

Giống như những người Nhật còn sống sót khi đã hứng hai trái bom nguyên tử của Mỹ năm 1945. Hiện có một số lớn nạn nhân may mắn sau thảm kịch Tết Mậu Thân Huế 1968, đã quả quyết thủ phạm chính cuộc tàn sát dã man lúc đó là những thành phần trong mặt trận Liên Minh Dân Tộc Hòa Giải do Hà Nội dựng lên tại Huế vào ngày mồng ba tết (1-2-1968) gồm Lê văn Hảo,Hoàng phủ ngọc Tường, Hoàng phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, Nguyễn Ðoá, Ðào thị Xuân Yến, Hoàng phương Thảo.. Tất cả bọn nam nữ ác quỹ lúc đó đều thuộc thành phần thượng lưu trí thức, ăn trên ngồi trước, gì gì cũng thừa mứa.. chỉ thiếu có máu và xác người, nên phải giết đồng bào vô tội để cùng vui bữa tiệc thịt người.

Bia đá trăm năm có thể bị hũy diệt bởi con người và thời gian, lịch sử cũng vậy có thể bị thay đen đổi trắng bởi bọn cầm quyền và đám bồi bút vô loại nhưng bia miệng thì không bao giờ bất biến bởi chúng là những tác phẩm vô hình không chữ nghĩa. Ngoài ra còn có luật trời và tòa án lương tâm, nhất là đối với những người có lòng tin tôn giáo ‘ Quả Báo Nhản Tiền ‘ . Nên nay có mặc áo vàng, áo đỏ, áo lam , áo đen hay ở trần đóng khố thì rốt cục cuối đời cũng phải mặc áo quan để về với đất.Tất cả hãy lấy bọn ác tặc trên để sám hối trước khi ‘ về nguồn ‘ sửa soạn tái sinh và cơ duyên xấu hay tốt của kiếp tới, đều do kiếp này gieo quả.

Ai là người miền Nam VN, đã được sống sót và đầu thai trở lại khi may mắn đến được bờ đất hứa tự do, chắc không làm sao quên được sự dã man có một không hai của cán binh VC tại bất cứ nơi nào khi chúng hiện diện trước tháng 4-1975. Sau đó là những cảnh xử giảo các thành phần ‘ Quân Cán Cảnh VNCH ‘ qua cái gọi là Tòa Án Nhân Dân. Hình ảnh Cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện tại pháp trường Cần Thơ năm nào, bị VC bẽ gập gảy xương sống rồi dùng mã tấu đâm nát cơ thể trước khi bắn, vào những ngày đầu tháng 5 mất nước. Cảnh tượng dã man đó làm sao xóa được, để mà hớn hở hòa hợp, về nguồn và nối vòng tay lớn với giặc nay đã mất hết nhân tính quốc hồn, buôn, bán nước ?

Lịch sử VN đã bị đảo lộn vì sự bóp méo của ngòi bút trí thức. Dân tộc VN bị mất chủ quyền đất nước và quyền sống vào tay ngụy quyền Hà Nội, cũng chỉ vì mù quáng tin thật vào những đảo lộn của lịch sử và hậu quả dối trá trên nay vẫn là món hàng thời thượng không mất giá. Hồ Chí Minh một đời bán nước hại dân làm ngàn tội ác, nay vẫn được thành BỤT ngồi trên bồ đề trong chùa, trước các đấng thần linh. Lũ ác gian ăn ốc, dân lành VN đổ võ từ thế hệ này cho tới thế hệ khác và tới bao giờ mới chấm dứt ? VN là như vậy đó, thì làm sao mà về nguồn để tìm lại bản sắc dân tộc Hồng Lạc ngàn đời, nay đã bị tức tưởi tanh hôi dưới hố sâu máu và xác người dân Việt đói nghèo trong ngục tù nô lệ VC ?

+ LỘT TRẦN NHỮNG BÓP MÉO XUYÊN TẠC VNCH :

Ngày nay những luận điệu điêu ngoa láo bịp, bẻ cong ngòi bút của đám truyền thông báo chí phương tây mà phần lớn là Mỹ nhắm vào VNCH đã trở nên lổi thời, sau khi Bắc Việt công khai xé bỏ hiệp ưúc ngưng bắn mà chúng đã ky với Hoa Kỳ vào năm 1973. Viết về trận chiến Tết Mậu Thân (1968) Sir R Thompson, nhà bỉnh bút người Anh đã dựa vào lời kể của Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Hoàng Văn Hoan, Viễn Phương.. viết “ Ðây là ý đồ của Võ Nguyên Giáp, muốn tạo sai lầm chiến thuật, để đẩy VC miền Nam vào chổ chết. Có vậy Hà Nội mới đưa được cán binh Bắc Việt vào Nam trám chổ các đơn vị địa phương vừa bị QLVNCH và Ðồng Minh tiêu diệt , để dành lấy địa vị độc tôn sau cuộc chiến “.

Sự thật là vậy nhưng hệ thống truyền thông Hoa Kỳ đã đổi trắng thay đen, biến thất bại quân sự của CS tại miền Nam thành một chiến thắng chính trị trên đất Mỹ, gieo sự nghi ngờ tới tầng lớp dân chúng về những công bố của chính phủ trong cuộc chiến VN. Từ đầu năm 1967, Hà Nội đã ban hành nghị quyết số 13, kêu gọi đồng bào miền Nam ‘ đồng khởi ‘ để dành thắng lợi trong một thời gian ngắn. Sỡ dĩ có hiện tượng này, là vì Ðảng quá tin tưởng vào cảnh rối ren đang xảy ra khắp VNCH nhất là tại miền Trung. Vin vào đó nên Lê Duân kết luận rằng khi phát động cuộc tổng công kích vào dịp tết Mậu Thân (1968), dân chúng miền Nam sẽ đứng dậy theo chúng và lật đổ chính quyền như họ đã từng làm vào ngày 1-11-1963.

Do ảo tưởng trên, Hà Nội đã chuẩn bị sẳn chính quyền tương lai cho miền Nam bằng cái gọi là ‘ Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ‘ để làm mồi danh lợi câu bọn trí thức khoa bảng phản thùng VNCH. Ðồng thời dùng liên minh trên để thay thế Mặt Trận Ma GPMN đang hấp hối sắp bị tiêu diệt. Ngoài ra Duân còn ban lệnh cho tất cả cán binh bộ đội miền Bắc, thẳng tay tàn sát ‘ ngụy quân ‘ để làm tan rã ‘ ngụy quyền ‘.Kết quả VC đã gây nên một cuộc tàn sát có một không hai trong giòng sử Việt, mà ghê gớm nhất ở cố đô Huế.

Tất cả đều là ảo tưởng, vì chỉ có Huế bị giặc chiếm lâu ngày nên đồng bào không chạy thoát được. Những nơi khác tại VNCH kể cả hai thành đồng của ‘bác‘ là Phan Thiết và Bến Tre, cũng chẳng thấy ai đứng dây đồng khởi. Ngược lại ở đâu đồng bào đều di tản vào các vùng do QLVNCH trấn giữ, để tránh bị thảm sát vì giặc và bom đạn. VC còn hoang tưỏng tới độ cho rằng lính miền Nam đánh thuê cho Mỹ, nên không có lý tưởng do đó sẽ buông súng đầu hàng ‘ cách mạng ‘ chống lại chánh quyền. Nhưng đã không có chuyện gì xảy ra và dù quân số tại hàng rất ít. Thế mà QLVNCH vẫn giữ vửng được phòng tuyến và phản công sau đó để chiếm lại hầu như tất cả những lảnh thổ bị giặc cưởng chiếm ban đầu.

Dịp này Duẩn bắt giam Hoàng Minh Chính, Vũ Ðình Huỳnh, Ðặng Kim Giang.. đồng thời sang chầu Nga, Tàu mua chịu bom đạn súng ống. Riêng Mao tăng viện cho 300.000 quân phòng không và công binh, để giúp phòng thủ đất Bắc từ Thanh Hóa trở ra. Theo Xuân Sách thì năm 1967, không quân Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt dữ dội. Kế hoạch tổng công kích Tết Mậu Thân nhằm tấn công thẳng vào VNCH, cũng để giải vây cho Hà Nội.

Tất cả các kế hoạch đột kích miền Nam được chuẩn bị rất chu đáo và bí mật, trong đó có công tác của đội văn công trung ương. Vì quá tin tưởng sẽ chiếm được VNCH nên Duân ra lệnh cho Xuân Sách, Huy Du, Vũ Trọng Hối, Huy Thục, Doản Nho.. dàn dựng một bản đại hợp xướng với tiêu đề ‘ xuân chiến thắng ‘ , được nữ ca sĩ Kim Oanh hát và thu vào băng nhựa để phát ra khắp miền Nam sau khi chiếm được Sài Gòn vào giờ G.

Nhưng năm Mậu Thân 1968 vĩnh viển không có giờ G để đám Việt gian có dịp hát. Vì vậy cuối cùng Ðảng chỉ xài có phần 3 của bảng hợp xướng để tuyên truyền qua tựa ‘ VN trên đường chúng ta đi ‘.Chính Võ nguyên Giáp là người đã soạn thảo kế hoạch còn Hồ Chí Minh thì ban lệnh tổng tấn công , qua bài thơ Máu nay vẫn còn :

‘ Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
thắng trận tin vui khắp mọi nhà
Nam-Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên ! toàn thắng ắt về ta ‘

Giáp cũng là tác giả vụ ‘ đổi lịch mới ‘ từ 1-1-1968, để cho ngày mùng một Tết trên đất Bắc trùng với giờ giao thừa tại miền Nam, hầu đánh lừa dư luận để giữ kín bí mật quân sự. Sau tháng 5-1975, VC khoe thành tích và ăn mừng chiến thắng Mậu Thân hằng năm nhưng năm 1969, khi Giáp được một nhà báo phương tây phỏng vấn, thì cũng chính miệng hắn chối là Hà Nội không hề hay biết gì về cuộc chiến Tết Mậu Thân xảy ra tại Miền Nam. Tư cách của các chóp bu đảng CS là thế đó, nên khi chúng nắm được quyền lảnh đạo đất nước, VN không đói nghèo hèn nhục trước giặc Tàu và thế giới, thì mới là chuyện lạ.

+ THẢM SÁT TẾT MẬU THÂN TẠI HUẾ :

Tỉnh Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích 5054km2 và dân số tính đến năm 2000 là 1.045.134 người với các quận Phong Ðiền,Quảng Ðiền,Hương Trà,Phú Vang,Hương Thủy,Phú Lộc,A Lưới và Nam Ðồng. Tỉnh Lỵ là thành phố Huế hiện nay có diện tích 380km2 với 209.043 người. Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế muôn đời vẫn đẹp và thơ mộng, mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc VN, nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna nước Columbia vào tháng 12-1993, tổ chức UNESCO của LHQ đã công nhận Huế là di sản văn hóa của nhân loại cần bảo tồn

Ngược dòng lịch sử, từ năm 1366 Huế đã là thủ phủ của Ðàng Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân cuả Chiêm Thành, dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Ðại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hóa. Những gì còn lại của Huế hôm nay chỉ là một phần công trình của cố đô trong đống gạch vụn do Việt Cộng và bọn Việt Gian VNCH tàn phá vào Tết Mậu Thân 1968. Ngoài ra Huế còn nhiều nét tiêu biểu khác như chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, chợ Ðông Ba, với trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, nuí Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tĩnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt.

Từ năm 1967 Hà Nội đã quyết định tổng tấn công VNCH vào những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968. Trong số 44 tỉnh, thị tại miền nam bị đột kích, thì Saì Gòn và Huế là quan trọng hơn cả. Vì trại Lực lượng đặc biệt A-Shau rút đi, nên thung lũng A Shau bị bỏ ngõ và VC đã lợi dụng dịp này để chuyển một số lớn bộ đội vào tấn công cố đô với sự dẫn đường chỉ lối của đám Việt Gian tại Huế. Trận chiến mở màn vào sáng mồng hai Tết nhằm ngày 31-1-1968, bằng hai cánh quân : Ðoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1,K2,K6 và K12 từ phía bắc bên tả ngạn sông Hương, tấn công BT/.SD1BB tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Ðại Nội. Ðoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A,K4B,K10 và K21 từ phía nam bên hửu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở hành chánh phía nam. Ngoài ra còn có Ðoàn 9 gồm hai tiểu đoàn 416,418 hợp với một đơn vị mang tên Ðường 12 tấn công mặt tây.

Cũng nói thêm là VC đã lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965,1966, xâm nhập hoạt động cũng như móc nối dụ dổ một số học sinh,sinh viện, quá mê thầy mà phản nước hại dân. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, vì vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Ðại Nội dù thực trạng bi thảm tuyệt vọng bởi các vòng vây của quân lực Hoa Kỳ và VNCH.

Phụ trách công tác tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng kim Loan và Hoàng Lanh, đã vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc Học là Nguyễn Ðoá. Ngoài ra còn có Nguyễn trung Chính, Nguyễn hửu Vân (giáo sư trường Âm nhạc kịch nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Ngày 14-2-1968 đài VC phát thanh tại Hà Nội cho biết đã lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do Lê văn Hảo làm chủ tịch, còn Ðào thị xuân Yến và Hoàng phương Thảo làm phó. Ngoài ra còn có cái Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (1-2-1968) cũng do Lê văn Hảo, tiến sĩ giảng sư về nhân chủng học tại Ðại Học Huế và Sài Gòn làm chủ tịch liên minh.

Theo Hảo vì muốn trốn lính, nên 1953 qua Pháp du học nên bị tiêm nhiểm chủ nghĩa cọng sản của Trần văn Khê, Nguyễn khắc Viện. Vì vậy vào các năm 1965,1966 dù đang sống trong cảnh tột đỉnh giàu sang, chức trong, lại được trốn lính nhưng vẫn tán tận lương tâm, theo VC nằm vùng là Hoàng phủ ngọc Tường và Tôn thất Dương Tiềm vào MTGPMN và ra bưng cuối tháng 12/1967. Trong Liên Minh Ma này còn có Hoàng phủ ngọc Tường, Thích Ðôn Hậu, Nguyễn Ðoá, Hoàng phủ ngọc Phan, Nguyễn đắc Xuân.. Tóm lại mặt trận được chỉ huy tổng quát bởi Lê Minh, trưởng ban an ninh khu ủy Trị Thiên, còn Tống hoàng Nguyên và Nguyễn đình Bảy Khiêm chỉ lo về phần thủ tiêu, giết người vô tội tại Huế. Theo Bảy Khiêm , chính Y đã giết rất nhiều sĩ quan và cán bộ,công chức VNCH bị kẹt tại Huế, cùng các giáo sư người Ðức dạy tại Ðại học Y Khoa, qua chỉ điểm của VC nằm vùng và sau này Lê Minh lẫn Bùi Tín đều xác nhận Việt Cộng đã tận tuyệt tàn sát vô nhân đạo đồng bào vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.

Ngay từ đầu nhờ lợi dụng dịp hưu chiến, nhiều đơn vị cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đã chiếm được hầu hết các cơ sở hành chánh, khu Ðại Nội, chợ Ðông Ba, cửa Thượng Tứ, An Hòa, Chánh Tây.. ngoại trừ BTL/SD1BB tại đồn Mang Cá, cơ sở MACV,Tiêu khu Thừa Thiên, Ðài phát thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm soát.

Mồng ba Tết (1-2-1968) một ngày sau đó, Chiến đoàn Dù với 2 tiểu đoàn 2,7 và chi đoàn 2/7 Thiết giáp từ phía bắc vào giải vây Huế. Hai đại đội TQLC Hoa Kỳ cùng 4 chiến xa M48 trong Chiến doàn X-Ray đóng tại Phú Bài cũng về Huế tăng cường phòng thủ MACV.. Chiều ngày mồng 4 Tết, TÐ 9 Dù được trực thăng vận vào chiến trường, từ đây cho tới ngày 12-2-1968 , cuộc chiến trở nên khốc liệt bạo tàn với sự tổn thất nhân mạng rất cao của cả hai phía.

Cùng ngày đó Chiến đoàn A Thủy quân lục chiến VN gồm các tiểu đoàn 3,4,5 thay thế chiến đoàn Dù, tiếp tục giải tỏa áp lực VC tại sân bay Tây Lộc và Ðại Nội. Ngày 19/2 TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22/2 hai tiểu đoàn 21 và 39 BDQ được tăng cường tại Huế và VC cũng bắt đầu tháo chạy. Ngày 25/2/1968 Biệt động quân chiếm lại Khu Gia Hội, chấm dứt chiến cuộc tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường xá, biến thành tử địa với xác người nằm la liệt đã sình thối. Tất cả chỉ còn là sự tàn nhẩn, thê lương, từ bàn tay đẳm máu của VC và bọn Việt gian mang đủ loại mặt nạ gây nên. Tóm lại không còn lời nào để đủ viết về Huế đang quằn quại trong lửa máu, giống như những nhịp cầu Tràng Tiền trên Hương Giang đớn đau gãy xập. Hởi ôi sắt thép, gổ đá còn biết rơi nước mắt với Huế thê lương, trong khi đó lại có không ít người thản nhiên đứng vổ tay cười.

Những hành động dã man nhắm vào dân lành tại Huế , làm nhớ tới Nga Sô tàn sát hơn 5000 hàng binh Ba Lan phần lớn là sĩ quan vào tháng 9-1939 tại rừng Katyn ở phía tây thành phố Smolensk, chứng tỏ bản chất hiếu sát vốn tiềm tàng trong máu óc của cọng sản, dù chúng là ai chăng nửa, tất cả đều giống nhau vì cùng chung một tổ,một lò.Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như vật chất vì bị VC chiếm đóng lâu dài nhất. Riêng người Huế sỡ dĩ bị tàn sát dã man, theo một số nhân chứng , do VC được chỉ điểm bởi một số nằm vùng địa phương vì thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được tự do đi lại trong thành phố nên tự do hành động, nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng bốn, tha hồ đi từng nhà,lôi từng người ra bắn giết theo ý muốn, đúng với kỹ thuật bắt và thủ tiêu theo KGB và Maoit .

Trong số các hung thần can dự tới bửa tiệc máu tại Huế, dư luận trước sau vẫn nhắm vào Lê văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan và Nguyễn đắc Xuân. Năm 1966 khi còn là một sinh viên, Nguyễn đắc Xuân từng tổ chức đoàn “Phật Tử Quyết Tử” quậy nát Huế, sau đó trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội “Công tác thanh niên” và khuyến dụ các quân nhân VNCH bị kẹt, để lập cái gọi là đoàn nghĩa binh.. Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa,trái lại bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá,Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu,Phú Bài.. Bắt đầu ngày mồng ba Tết, QLVNCH và Hoa Kỳ phản công, ngày 7-2-1968 VC giựt xập cầu Trường Tiền. Ngày 15-2 Quân Ủy cọng sản tại Hà Nội ban lệnh cho VC tử thủ tại Huế, nhưng tình hình càng lúc càng bi đát cho VC nên Lê Minh muốn rút quân. Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú văn Lâu.

Nói chung cọng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội vì vùng này bị VC chiếm lâu nhất từ ngày mùng 2 Tềt đến 22-2-1968 mới được Biệt Ðộng Quân giải tỏa, bởi vậy giặc và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội. Cho đến nay không ai biết chính xác số người bị VC tàn sát tại Huế là bao nhiêu nhưng căn cứ vào thống kê số hài cốt tìm được trong một số hầm chôn tập thể sau khi giặc bị đánh duổi khỏi thành phố, tại các địa điểm Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bải Dâu,Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Ðức,Ðồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Ðông Ba, Trường An Ninh Hạ,Trường Vân Chí, Chợ Thông,Chùa Từ Quang,Lăng Gia Long, Ðồng Di,Vịnh Thái,Phù Lương , Phú Xuân,Thượng Hòa,Thủy Thanh,Vĩnh Hưng và Khe Ðá Mài.. tổng cộng đếm được 2326 xác.

Về câu hỏi tại sao VC tàn sát thường dân vô tội, đến nay Hà Nội vẫn tránh né, còn Võ nguyên Giáp thì đểu giả hơn khi bị các ký giả ngoại quốc phỏng vấn sau Tết Mậu Thân, đã trả lời là Bắc Việt không hề biết vì đó là chuyện của MTGPMN và VNCH. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thì động cơ cọng sản tàn sát dân chúng tại Huế, ngoài một lý do nhỏ là sự trả thù do hờn oán trước đây giữa cá nhân và cá nhân, thì tàn sát theo kế hoạch phá huỷ và làm rối loạn bộ máy cầm quyền của VNCH, điều này đã được ghi lại trong một tài liệu cuả cán bộ VC , bị SD1 Không kỵ Hoa Kỳ bát được tại tỉnh Thừa Thiên ngày 12-6-1968 .Tàn sát để khủng bố và cảnh cáo đe dọa dân chúng đừng tòng quân chống cộng. Tàn sát tín đồ Thiên Chúa Giáo để chiarẽ sự đoàn kết tại miền nam, tạo sự nghi kỵ giữa các tôn giáo cho tới ngày VC cưởng chiếm dược miền Nam mới chấm dứt vì VC độc tài đảng trị, cấm biểu tình xuống đường, nên bốn bên bốn phía bình đẳng chịu sống chung hòa bình. Từ đó mới không thấy tự thiêu, tuyệt thức và ra báo chống đối, bêu xấu, hạ nhục chính quyền như cơm bửa thời VNCH. Tàn sát dân chúng để gây tiếng vang với thế giới.

Ðem các biến cố năm1885 tại Huế và 1946 ở Hà Nội để so sánh với Mậu Thân 1968 tại Huế ,bổng thấy lạnh mình về những lời chạy tội của Ðại Tá VC Bùi Tín, khi trả lời về cuộc tàn sát của VC đối với thường dân tại Huế năm 1968. Theo nhận xét của Nguyễn đức Phương trong ‘ Chiến Tranh toàn tập ‘ thi Bùi Tín không biết gì về qui ước Geneve dành cho tù binh chiến tranh, hoặc biết nhưng giả bộ ngây thơ không biết để có lý do bào chửa sự tàn ác dã mang của cán binh VC và biết thêm về quan niệm của Hà Nội, luôn qui chụp tất cả những ai chống đối họ, đều bị gán là tù binh với kết quả như Bùi Tín nói là phải được chết để giữ gìn bí mật quốc phòng.

Theo Nguyễn Lý Tưởng, thì những hành động dã man của Việt Cộng, tại Thành Nội và Gia Hội,do cái gọi là Toà Án Nhân Dân được quyết định bởi các chóp bu trong Liên Minh Dân Chủ Hòa Bình, là Lê văn Hảo,Thích Ðôn Hậu, bà Nguyễn Ðình Chi.. nhưng chủ chốt và dã man tàn bạo vẫn là bọn theo phong trào tranh đấu chống VNCH năm 1966, sau đó theo VC và quay về Huế như Hoàng phủ ngọc Tường (giáo sư), Hoàng phủ ngọc Phan(sinh viên y khoa),Nguyễn đắc Xuân (sinh viên sư phạm),Trần quan Long (sinh viên sư phạm), Phan Chính Dinh hay Phan Duy Nhân (sinh viên).. dẫn an ninh VC như Tống hoàng Nhân,Bảy Khiêm.. đi lùng bắt bạn bè, thân nhân,các thành phần quân,công, cán,chính VNCH cũng như các đảng phái bị kẹt lại tại Huế.

Hiện nay tất cả những bí mật của lịch sử gần như được khai quật trong đó có cuộc thảm sát thường dân tại Huế năm Mậu Thân. Những tội nhân thiên cổ ngoài bản án của lương tâm, đạo đức và sự nguyền rủa của đời, nên không ngớt tìm đủ mọi cách để biện minh về tội lỗi của mình. Năm 1988,trên báo Sông Hương và được dịch đăng lại trên tờ Newswwek ở Hoa Kỳ, Ðại Tá Bắc Việt Lê Minh, nguyên chỉ huy mặt trận Thừa Thiên-Huế, xác nhận và chịu trách nhiệm về việc tàn sát dân chúng Huế nhưng vẫn đưa ra lý do là lúc đó VC đang ở vào giờ thứ 25, nên không kiểm soát được .

Còn thủ phạm chính Hoàng phủ ngọc Tường thì đổ thừa cho cục bộ, địa phương chứ không phải tại đảng, vẫn giữ nguyên ý là miền nam mất vì cách mạng chứ không bị cộng sản quốc tế xâm lăng, và trên hết vào ngày 12-7-1997 Tường công khai chối tội là không tham dự mặt trận Huế, vì lúc đó y đang trốn tại địa đạo trong quận Hương Trà,tỉnh Thừa Thiên. Còn nhân vật bị bia miệng nhắc tới là Hoàng phủ Ngọc Phan.. mà người Huế tưởng lầm ? Lê văn Hảo hiện đang sống tại Pháp cũng chối tội. Sau rốt chỉ có Hoàng phủ Ngọc Phan và Nguyễn đắc Xuân vì lúc đó gần như là công an, cai tù, chánh án và đao phủ thủ.. nên người Huế ai cũng nhận được,vì vậy phải chịu tai tiếng nhơ nhớp muôn đời.

Ngày nay ai cũng biết Tết Mậu Thân VC thua lớn và Tổng thống Hoa Kỳ là Johnson phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước lịch sử vì đã cố tình tạo nên một lỗi lầm nghiêm trọng về đạo đức., gây tử vong cho nhiều người có thể tránh khỏi nếu được báo trước sự thật.

Tóm lại dù Hà Nội đã chuẩn bị kế hoạch cưởng chiếm VNCH thật chu đáo, cũng như đã tin tưởng tuyệt đối vào đám Việt gian Miền Nam nhưng cuộc tổng tấn công đã hoàn toàn thất bại về quân sự. Chúng cũng thua VNCH về phương diện đạo đức và chính nghĩa, khi đã tàn nhẩn bất lương xô đẩy hàng trăm ngàn người vào cỏi chết, kể cả bắt các thiếu niên đi lính đở đạn ‘ sanh bắc tử nam ‘.Hồ, Duẩn lẫn Giáp đã phỉnh gạt cán binh chết lót đường cho chúng khi nói láo rằng ‘ Miền Nam đã được giải phóng, nên miền Bắc chỉ vào tiếp thu mà thôi ‘.

Viết tại Xóm Cồn Ha Uy Di
Tháng 1/2010

Mường Giang

http://www.lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=2064:20...
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #8 - 08. Mar 2010 , 10:39
 
Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam


Kính gởi:
Đồng bào trong nuớc và hải ngoại
Các hệ thống truyền thông
Các Diễn Đàn Internet
Các hội đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại
Các hội đồng hương người Huế tại hải ngoại.

Thưa quý vị,
Nhằm phổ biến rộng rãi và truy tìm mọi tin tức liên hệ đến tội ác của đảng Cộng Sản Việt Nam, Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam xin gởi đến công luận lời tường thuật của một nhân chứng và cũng là nạn nhân vụ tàn sát Mậu Thân, hiện còn sống, về hành động giết người man rợ của hai tên sát nhân Việt Cộng nằm vùng: HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN, và NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH.

Bà Nguyễn thị Thái Hòa Là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế, gia đình trước 1975 ở tại đường Hàm Nghi, Huế, vừa là nạn nhân và thân nhân của những nạn nhân đã bị Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh sát hại tại Huế trong Mậu Thân năm 1968. Bà hiện đang sống tại hải ngoại.
Chúng tôi xin tóm tắt lý lịch của hai tên nầy như sau:

1-HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Thời điểm năm Mậu Thân 1968 Hoàng Phủ Ngọc Phan là sinh viên y khoa năm thứ 2, đại học Y Khoa Huế.
1966 Phan là thành viên tranh đấu đắc lực trong lực lượng tranh đấu lãnh đạo bỡi Thích Trí Quang, trực thuộc lực lương Sinh Viên Quyết Tử của Nguyễn Đắc Xuân.
Y là cơ sở VC nằm vùng trong Tổng hội Sinh viên Đại Học Huế, cán bộ điều khiển y là Trung Tá điệp viên VC Hòang Kim Loan.
Cuối tháng 6 năm 1966, lực luợng phản loạn miền Trung của Thích Trí Quang bị Chính Phủ trung ương dẹp tan, Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng với anh là Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ly lên mật khu.
Mậu Thân 1968 Phan cùng với Tường nằm trong đoàn An Ninh Bảo vệ Khu Phố theo chân quân chính quy của Quân Khu Trị Thiên và ban An Ninh Quân Khu Trị Thiên của Tống Hoàng Nguyên cũng như Ban An Ninh Tỉnh Thị Ủy Huế của đại Tá Công An Nguyễn Đình Bảy trở lại thành phố Huế, thẳng tay tàn sát đồng bào. Y là tòng phạm trong vụ bắt và đem đi chôn sống 4 giáo sư Y khoa người Đức, là giáo sư Y khoa của trường Đại Học y khoa Huế, họ cũng chính là thầy dạy của y.
Cũng cần nói thêm, anh ruột của Y là giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, cơ sở trí vận của cơ quan Thành ủy Việt Công Huế từ trước 1963. Hoàng Phủ Ngọc Tường tham gia trong phong trào Phật Giáo đấu tranh lật đổ Đệ I Cộng Hòa, hoạt đông tích cực cho Trí Quang trong cuộc dấy loạn miền trung năm 1966. Tháng 6 /1966 thoát ly lên mật khu. Mậu Thân 1968 trở lại Huế với chức vụ Tổng Thư Ký Lực Lượng Liên Minh Dân Chũ Hòa Bình mà Giáo Sư Lê văn Hảo là chủ Tịch, bà Đào Thị Xuân Yến, tức Tuần Chi làm phó chủ Tịch.
Quan trọng hơn cả chính Hòang Phủ Ngọc Tường ngồi nghế chủ tịch Tòa án Nhân Dân tại trường Trung học Gia Hội và đã ra lệnh cho Ban An Ninh và Đội Tự Vệ khu phố của Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan chôn sống 204 thường dân vô tội tại trong khuôn viên của trường.
Hiện Tại thì Hoàng Phủ Ngọc Tường bị bán thân bất toại, sống tàn tạ tại Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Phan sau 1975 được làm ở Ban kiểm duyệt báo chí của Thành Ủy Sài Gòn

2-NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH:
Y thị là sinh viên dược khoa Đại Học Sàigòn, trước Mậu Thân 1968. Y thị về Huế nghỉ Tết để nhận trách nhiệm trong Mậu Thân. Y thị tham gia đoàn An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan. Cha của y thị là Nguyễn Đóa, Anh rễ là Tôn Thất Dương Tiềm. Cả ba, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Duơng Tiềm đều là những tên đại đồ tể, những kẻ giết người không kể xiết trong Mậu Thân 1968 tại Huế.
Còn nhớ rõ trong suốt thời gian Việt Cộng chiếm Huế, y thị mặc bộ đồ màu hồng , mang súng AK 47, đi xe Honda lùng bắt Ngụy Quân Ngụy quyền. Gặp bất cứ thanh niên , đàn ông nào, y thị cũng chận lại xét hỏi. Nếu ai vô phúc trả lời là Quân Nhân hay Cảnh sát, y thị nổ súng hạ sát ngay lập tức.
Sau Mậu Thân, y thị thoát ly ra Bắc, tiếp tục học dược khoa. Sau 1975 vào sinh sống tại Sài Gòn. Hiện nay Nguyễn Thị Đoan Trinh là một đại thương gia giàu có, sống nhỡn nhơ trên tội ác năm Mậu Thân

Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam thiết tha mong mõi sự hợp sức của quý vị , bằng cách phổ biến sâu rộng mọi nơi, mọi giới đồng bào, lời tự thuật của Bà Nguyễn Thị Thái Hoà.

Những ai biết thêm về hành động sát nhân của Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, hoặc những tên khác, xin cung cấp tin tức cho chúng tôi, hầu có thêm những dữ kiện, bằng chứng cụ thể để, chúng tôi thiết lập hồ sơ đưa các tên sát nhân này ra tòa án Hình Sự Quốc tế và các tòa án quốc tế khác
Vì trách nhiệm phải bảo vệ an toàn cho nhân chứng, Ủy Ban chúng tôi không thể công khai phổ biến địa chỉ và số phone của bà Thái Hòa trong lúc này. Trong tương lai, bà Thái Hòa sẽ ra trước công luận để trình bày với quý vị và tòa án
Mọi chi tiết quý vị, nhất là các hệ thống truyền thông có uy tín, muốn biết thêm hoặc nói chuyện qua phone với bà Thái Hòa, xin liên lạc với UBTTTACS để sắp xếp.
Email: uybantruytotoiaccongsan@gmail.com
Hoặc email cá nhân tôi: nguyenphuclienthanh@gmail.com

Trận trọng
Thừa Ủy Nhiệm Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Liên Thành.
------------------------
File# 2:
Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Cộng Sản Việt Nam

Thừa ủy nhiệm UBTTTACS, chúng tôi xin gởi đến đồng bào Việt Nam khắp thế giới nguyên văn lời khai của một nạn nhân vụ Mậu Thân, bà Nguyễn Thị Thái Hòa, nguyên sinh viên trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế, trước ngụ tại đường Hàm Nghi quận 3, thị xã Huế.

Nhân Chứng, Nạn Nhân Tội Ác Việt Gian Cộng Sản Tết Mậu Thân 68.


Kính thưa Ông Liên Thành,

Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi,
ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống
sót sau tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cã những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đãng Việt Gian Cộng Sãn, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…

Thưa Ông,

Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế.  Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8- đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.

Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương … thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm … Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau. Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.

Hai tuần trước Tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn vào ca đêm.

Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết. Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…
Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30 Anh hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.

Tối mồng một tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.

Nhưng qua nữa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng . Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…

Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết tứ ngỏ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai , bị rết ngang hông. Họ bắt tất cã chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa ..v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cã những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.

Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nỗ rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba…rớt ngay con đường phía trước cổng chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.

Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nỗ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn , rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người, định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi  “ con ở mô chạy lại đây?”.  Tôi nói “từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chổ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà xơ dòng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có xơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.

Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà xơ, và mấy người nữa.

Bốn năm ngàyliền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nỗ tư bề nên ai ở thì cứ đâu ở đó.

Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết. Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy xơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…

Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm… cầm hơi!

Tôi quyết định chạy về tìm gia đình .Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu , tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run , hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng, Không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây.
Quá sợ hải, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.

Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao , hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẫy, tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gấn. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai đứa tôi run rẫy ngồi sát vào nhau.  Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa, { nhà thờ Phủ Cam } nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu.  Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi. Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết. Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.

Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn thị Đoan Trinh cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với HPNP. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.

Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên VănKhoa tập trung ở đó để đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.

Bọn Trinh , Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải ,Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.

Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chổ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng , tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.

Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô Bv cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chổ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vùa khóc vừa chạy.  Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.

Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt.Người nào mặt mày đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần , em qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương !

Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt HPNP, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “ tranh dấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.

HPNP to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.

Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp.  Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.

HPNP vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa , mi gặp lại tau là mi chết! Văn run rẫy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quảng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.

Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng,tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi rán sức đẩy chíếc xích lô, trong lúc HPNP cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên.  Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt , Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.

Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhã đạn xuống, Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều. Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại nồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.

Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn , Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.

Tôi định dừng lại hỏi thăm thì HPNP trờ xe tới nạt nộ “ đi, mau ngó chi!”

Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng. Súng nỗ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cã.Chỉ thấy lính bộ dội Bắc Việt khắp nơi.

Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết…Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…

Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.  Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì HPNP và con hồ ly Trinh rà xe lại gần bảo tôi, không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!

Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.


Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cãnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưỏng khi HPNP biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này.

Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà , nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẫy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không
? Lạy Chúa , lạy Mẹ phù hộ.

Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nổi ni…

Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.

Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống.
Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn HPNP cũng vừa vào đến.


Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi.Ông nội đứng im không nói.Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi , thằng Lộc, thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẻ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!

Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.

Tôi đứng núp sau lưng ông nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!

Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô. Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti. Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba… Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống…


Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc tìm cách tuột xuống,thò hai chân xuống trước,hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP đã nỗ súng, đạn trúng ngay chính giửa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.
Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẫy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cã quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đỗ xuống bên cạnh anh Kính.

Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo.Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẩm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẩm ướt. Tôi không còn sức đễ ngồi lên.

Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm nữa của với ông nội đang ở trong nhà.

Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi.Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rủ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hởi, trời ơi!

Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muổng bộ bích chi ép tôi uống. Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hâu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.

Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hâu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một
buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.

Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nĩ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui dào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt.  Bảo đem cã bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…

Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chổ nhưng tai tôi vẫn nghe rỏ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đũ can đãm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồn ông bà nội nhưng tôi nghe rỏ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm rí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu ? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…

Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp,thì tôi nghe tiếng súng nỗ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.

Tôi nghe tiếng mấy thắng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu Và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu ,bức tai, giọng tức tửởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác
như rứa… Tôi lặng người,nghe bác Hậu khóc anh Văn.

Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại , kễ cã tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cãi chi dễ mà cướp nữa.

Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai vợ chồng bác Hậu không nỡ bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng
và biết đa số dân Phủ cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương.
Bác năn nĩ tôi rán ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?

Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói
lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chổ tránh đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọnVC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy
người ta cứ chạy bất kể , dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.

Cuối cùng thì tôi cũng vềđến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạtôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít
lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lưong.

Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cãi táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cữ hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn đươc nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.

Ba tôi được giải ngủ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không
thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi { gần dường rầy xe lửa } thì bán cho ai đó tôi không rỏ.

Thưa ông Liên Thành,

Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau dớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cã đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân , buôn bán ở chợ An Cựu.

Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tãn mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…

Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Việt Gian
Cộng Sãn ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.

Đã 40 năm qua những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.

Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo
Tội Ác của Việt Gian Cộng Sãn, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát. Tôi sẳn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.

Xin trình ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại :

Tên ông nội : Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh : Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.
Nguyễn Xuân Lộc. sinh viên luật, sinh năm 1946
Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.

Địa chỉ hiện tại của tôi :
Nguyễn thị Thái Hòa …
Back to top
« Last Edit: 08. Mar 2010 , 10:39 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #9 - 20. Apr 2010 , 20:59
 
Tội ác Cộng Sản...


...

Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Của Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
NgocDoa
Gold Member
*****
Offline


I Love Me Now!

Posts: 1704
U S A
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #10 - 22. Apr 2010 , 08:11
 
Chẳng lẽ chỉ có mông và cổ ?


Hà Văn Thịnh


Khu tập thể mà tôi sống có thằng bé tên Tèo, 8 tuổi. Một hôm, Tèo đố tôi: “Cháu đố chú có nơi nào mà người ta không có mắt, không có đầu, không có tim…?” Điên tiết, tôi vặc: “Làm gì có chuyện đó” ! Tèo tỉnh bơ : “Chú dạy đại học mà ngu như bò. Đó là nước Mông Cổ. Ở đó con người chỉ có mông và cổ”. Xin thưa đây là chuyện thật 100%.

Chuyện đã lâu rồi vì Tèo nay đã lớn, đã có vợ, sắp có con. Tôi nghĩ đó là câu chuyện vừa vui vừa để răn mình, vì quả thật đôi lúc tôi thấy mình cũng giông giống như Tèo đã nói.

Hôm nay, lướt qua mạng thấy hai chuyện không thể tin vào mắt mình nữa: Một, Vietnamnet cho biết tỉnh Quảng Nam cho công ty Trung Quốc thuê đất rừng 1m2/1 năm với giá không mua nổi một… cọng rau muống – tức 27,5 VN đồng/m2??? Tiếp đó, lại được biết là Ủy ban Nhân dân tỉnh Lạng Sơn có công văn yêu cầu các cấp thuộc quyền chuẩn bị chu đáo cho việc đón người Trung Quốc đến dâng hương tưởng niệm “liệt sĩ” Trung Quốc chết ở Việt Nam (1979) nhân dịp Tiết Thanh Minh!!! Đọc mà bủn rủn cả chân tay vì nói thật, dù có sợ chính quyền, công an đến mấy, tôi cũng buộc phải nói rằng lãnh đạo cấp tỉnh Quảng Nam và Lạng Sơn… đúng là một lũ người chỉ có mông và cổ (!) Tèo đúng, tôi đã sai.

Làm sao có thể buộc tôi tin và kính trọng những người nắm cương vị lãnh đạo mà lại u mê, xuẩn ngốc như thế ? (Có thể bạn đọc cho rằng tôi xuẩn ngốc vì đã không biết suy luận rằng một mét đất không mua nổi một cọng rau bởi “chúng nó” đút túi mỗi mét vuông đất hàng ngàn bó rau, nhưng vì chưa có bằng chứng nên tôi chưa thể nói được, theo nguyên lý bút sa, là ta chết chắc).

Tại sao ở thời đại thông tin và hiểu biết đủ chiều, nhiều cách mà lại có thể tồn tại những lãnh đạo cấp tỉnh không hề biết dù chỉ là một chút sự liêm sỉ, lòng tự trọng như thế? Tại sao các cơ quan có thẩm quyền không cho người dân biết những việc làm đó sai, đúng ra sao, trừng phạt như thế nào mà điệp khúc “im lặng” theo kiểu “không ai điếc bằng kẻ cố tình không muốn nghe – None so deaf as one won’t hear” cứ kéo dài mãi hoài? Tại sao chúng ta có thể im lặng khi càng ngày sự lộng hành, lạm quyền, coi thường dân, khinh thường đất nước, tổ quốc, giống nòi càng trắng trợn hơn?… Những câu hỏi đó nhức nhối tâm can và đẫm dài nước mắt.

Tôi đã đọc hàng trăm, hàng ngàn cuốn sử nhưng chưa hề thấy ở đâu, thời nào có những sự việc chướng mắt, nghịch tai đến mức ấy. Không lẽ ai cũng u mê, ai cũng ngậm miệng để ăn tiền? Những sự việc như đã nêu trên là không thể chấp nhận được dù biện minh theo bất kỳ góc độ phủi bụi nào.

Hàng vạn người Việt Nam đã chết trong cuộc chiến tranh năm 1979 phải đội mồ mà sống dậy khi biết lãnh đạo Lạng Sơn tôn vinh “liệt sĩ” Trung Quốc “hy sinh” vì xâm lược Việt Nam. Chẳng lẽ tư duy kinh tế – xã hội – chính trị của những quan chi phụ mẫu lại không hề biết rằng nếu một mét đất không mua nổi một cọng rau muống thì thà để vậy còn hơn – để ta được yên tâm, không phải giật mình, mất ngủ vì lo đến hậu họa lâu dài ?

Không hiểu nổi và không chịu nổi là tâm trạng của người viết bài này. Chúng ta đã nguy lắm rồi khi “đứng mũi chịu sào” vận mệnh của giang sơn, xã tắc là những cán bộ “vì dân, của dân” theo cái cách mà mọi tư duy tỉnh táo đều bất lực. “Thịt với xương, tim óc dính liền” thì làm sao biết nghĩ ? Cái túi tham và sự u mê chỉ tư duy một nhiệm kỳ, chỉ nghĩ đến chân ghế, thì đất nước làm sao hưng thịnh, an lành ? Đánh trống rồi bỏ dùi là điều cha ông đã cảnh báo từ lâu. Chẳng lẽ có loại người chỉ có mông và cổ thôi sao ?
Back to top
 

-“Kẻ nào chấp nhận cái ác mà không phản đối chắc chắn là tiếp tay cho cái ác lộng hành” (He who accepts evil without protesting against it is really cooperating with it)
Given by Martin Luther King
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #11 - 25. Apr 2010 , 20:46
 
Không Sẵn Tay Sai Hẳn Khó Có Quan Thầy!


Đinh Tấn Lực

Trang mạng http://bauxitevietnam.info/ lại phải cố khắc phục thêm một sự cố “bất thường”, sau gần một năm hoạt động vượt mặt tất cả các trang mạng chính quy trong nước, với lượng truy cập kỷ lục cả về số lượt, tốc độ, lẫn mức độ hiệu quả trên tổng số nhân sự hoặc chi phí.

Sự cố “bất thường” từng nhiều lần xảy ra đó, âu cũng là điều có thể mường tượng được từ đầu, hoặc, chí ít là chẳng mấy ai coi đó như một “bất ngờ” trên cái nền tảng sinh hoạt chính trị nghiệt ngã  Thậm hèn với giặc-Cực ác với dân như Rứa. Và chẳng phải đó cũng chỉ là hiệu ứng/hệ quả của một nền ngoại giao mẫu-tử/thầy-trò/chủ-tớ hay sao?

Hãy cùng lược xem mối quan hệ này “hữu hảo” tới đâu trong năm 2009?
*



Thiên Tuế Ta – Lục Tuần Tàu -



Đáp ứng lời thỉnh cầu của Hà Nội (ngày 15/1/1950), Bắc Kinh là chính phủ đầu tiên trên thế giới đã chính thức công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (ngày 18/1/1950). Sau đó mới lần lượt tới Liên Xô và các nước Đông Âu cũ (mà nay đã cực lực dân chủ hóa để cất cánh). Tức, chỉ còn dăm ngày nữa là đến dịp kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ bang giao giữa Việt Nam với các nước vừa kể.

Tuy nhiên, xem ra, chỉ riêng đối với Trung Quốc (TQ) là có phần đặc biệt nổi trội hơn cả: đảng và nhà nước ta đang cất công đề xuất/ráp nối/phối hợp với đại lễ 1000 năm Thăng Long, gọi là để cho dịp kỷ niệm 60 năm hữu nghị này gia tăng thêm bội phần long trọng!

Kể cũng là “có cơ sở”! Bởi, công lao của Bắc Kinh đã từng đỡ đầu/trợ giúp/chỉ đạo cho đảng và nhà nước ta, tính từ thời Điện Biên cho tới Mậu Thân, tính từ chiến dịch biên giới tới cải cách ruộng đất, tính cả nhân/vật/tài lực, tính cả cố vấn/chuyên gia lẫn tham mưu/chỉ huy, tính cả kinh viện lẫn quân viện… hẳn phải ví như Thái Sơn/Nam Hải. Và bởi, quan trọng hơn cả, hiện chỉ có TQ là còn chút khả năng trước một nhúm đầu cúi tay ngửa, như chủ nhiệm một trại mồ côi trông coi toàn bộ cộng đồng cộng sản còn sót lại, sau khi các chế độ thuộc Quốc Tế III đành buông thắt lưng nhau mà tan rã.

Cách tính “1000 tuổi Ta-60 tuổi Tàu” đầy ắp chất cảm kích/cúc cung/sáng tạo như trên, hóa ra, cũng là một cách báo đền ơn sâu nghĩa nặng. Rứa là tròn chữ quân thần. Rứa là phải đạo bề tôi. Rứa là đẹp lòng thiên tử.

Trong bản Thông cáo báo chí chung hồi cuối tháng 8/2006, nhân chuyến khấu kiến Bắc Kinh của vợ chồng Nông Đức Mạnh, TQ đã khẳng định sự hài lòng về mối quan hệ giữa hai đảng và nhà nước.

Sự hài lòng đó, nhờ nỗ lực phi thường của lãnh đạo đảng và nhà nước ta, đã kéo dài và gia tăng gấp bội trong năm 2009 này:



1. Thăm Thẳm Mốc Biên Giới


Theo TTXVN: “Vào những giây phút giao thừa chào năm mới 2009, các lực lượng tham gia phân giới cắm mốc Việt-Trung có thể tự hào báo cáo với Tổ quốc Việt Nam yêu quý đã hoàn thành nhiệm vụ được lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước giao phó: kết thúc phân giới, cắm mốc biên giới đất liền Việt-Trung…”.

Biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc dài khoảng 1.406km, giữa 7 tỉnh cực Bắc của VN là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, tiếp giáp với 2 tỉnh cực Nam của TQ là Vân Nam và Quảng Tây. Toàn tuyến biên giới Việt-Trung được đánh dấu bằng 1971 mốc, bao gồm 1378 mốc chính và 593 mốc phụ.

Trong đó, một số cột mốc mới cáu đã nhanh chân chạy vào cương thổ nước ta, trong lúc hơn bảy trăm cây số vuông đất cũ đã cùng ải Nam Quan và một phần thác Bản Giốc đã theo quyết định của “trên” mà âm thầm trườn sang nước bạn.

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?



2. Mênh Mông Tình Hữu Nghị


Kỷ niệm 30 năm cuộc chiến đấu vệ quốc oai hùng của quân dân ta gìn giữ biên cương phía Bắc hồi tháng 2/1979, với núi xương sông máu của hàng chục vạn thanh niên rường cột nước nhà đổ ra bảo vệ từng tấc đất dọc biên trước cuộc tiến công vũ bão gọi là “giáo trừng” của bọn giặc bá quyền nước lớn… đã chìm sâu vào một cõi im lặng gần như tuyệt đối của hàng ngàn cơ quan báo đài chính quy của đảng và nhà nước ta. Lý do? Đã có chỉ thị của Ban Tuyên Giáo Trung Ương nghiêm cấm hệ thống báo đài ở đây đưa tin/viết bài đề cập đến cuộc xâm lăng 1979 của TQ.

Quyển “Sách Trắng 1979” của Bộ Ngoại Giao đã mất biến theo những dòng sử cải biên. Quyển “Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh” (Nxb Khoa Học Xã Hội - Hà Nội, 30/08/1979), và cả bộ sách “Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua” (Nxb Sự Thật, Hà Nội 10/1979)… đều đã được thu hồi và tiêu hủy sạch.

Tất cả các bài ca biên giới hào hùng một thời, đã theo lệnh “trên”, cũng từ lâu tắt tịt (Ngày ra đi, hướng biên cương, gió bấc tràn về lòng anh lạnh buốt. Nòng súng đen dán câu thơ, Ý thơ thiệt hay là thơ Lý Thường Kiệt…/Và anh lại ra đi, vui như ngày hội, Mùa xuân biên giới, súng anh gác trời xa…). Ngay cả “Những đôi mắt mang hình viên đạn” cũng đã im lìm nhắm kín.

Đối với mối quan hệ “mênh mông tình hữu nghị” của đảng và nhà nước ta, sự hy sinh bảo vệ Tổ quốc của họ không chỉ đơn thuần là vô nghĩa, bởi chẳng từng có một lời tri ân nào được lãnh đạo ta nhắc tới vào dịp kỷ niệm 30 năm giỗ họ. Sự hy sinh đó còn biến thành lớp lá mục lót đường từ lâu để đón nhận 16 chữ vàng của thiên triều.



Năm nay, sự hy sinh đó đã bị phũ phàng xóa sạch bằng những bài báo ca tụng viên tướng tư lệnh quân khu Quảng Châu từng chỉ huy trận chiến bành trướng xâm lăng VN 1979 là Hứa Thế Hữu, ngay trên cơ quan ngôn luận/tuyên truyền của thành ủy thủ đô là tờ Hà Nội Mới.

Sự hy sinh đó cũng đã ngậm ngùi chìm mất tăm bên dưới những vòng hoa tưởng niệm “Ðời đời nhớ ơn các liệt sĩ TQ” ở nghĩa trang biên giới Long Châu thuộc tỉnh Quảng Tây…

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?



3. Ngoại Xâm Đích Thực Anh Hùng?


Nguyên tác là quyển Chiến hữu trùng phùng, của tác giả Mạc Ngôn. Nội dung là nhằm xiển dương chủ trương “phá sạch-giết sạch” của quân đội nhân dân TQ trong cuộc chiến xâm lược VN năm 1979, dưới tên gọi là cuộc chiến “giáo trừng bọn man di” ở phương Nam (Chính Đặng Tiểu Bình, trên truyền hình trực tiếp, đã công khai gọi “VN là bọn côn đồ. Phải dạy cho chúng một bài học”. Rồi tới lúc nối lại bang giao 1991, Giang Trạch Dân đã mắng xéo Nguyễn Văn Linh là “quân vô ơn”, bằng cách xén tặng một câu trong bài thơ đểu của Giang Vĩnh đời Thanh).

Quyển sách kể lại diễn tiến cuộc xung đột vũ trang khốc liệt giữa 2 nước từng là “bầu bạn anh em” và từng sát vai tiến tới một thế giới đại đồng: Chỉ trong vòng một tháng, quân đội TQ đã san bằng 6 tỉnh biên giới của VN; đã chặt đầu, mổ bụng, cưỡng hiếp và chôn sống vô số thường dân VN ở dọc biên giới…

Quyển sách đã được các dịch giả Trần Trung Hỷ, biên tập Triệu Xuân, và Cty Văn hóa Phương Nam tổ chức chuyển ngữ, đặt lại tựa đề là Ma chiến hữu, rồi liên kết với Nxb Văn Học để ấn hành rộng rãi, nhằm mục đích phổ biến “một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng” phá sạch/giết sạch của TQ. Trong lúc có khá nhiều quyển khác, cho dù được độc giả bình chọn hay hơn, nhưng đều bị ngăn chận/trù dập/thu hồi, như: Thời của thánh thần, Dưới chín tầng trời, Rồng đá…

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?



4. Không Có Gì Ghê Gớm Hơn…


Trang mạng vietnamchina.gov.vn, thuộc hệ thống Cổng thông tin Điện tử Chính phủ, cụ thể là của Bộ Công Thương VN, từng đăng nhiều tin/bài sử dụng các địa danh lãnh thổ của ta bằng tên gọi của TQ, lại còn khẳng định đoàn tàu Ngư Chính đến biển Ðông là để bảo vệ lãnh hải nước Tàu! Rứa mà, Nguyễn Thanh Hưng, Cục trưởng cục Thương mại Điện tử và Công nghệ Thông tin, bộ Công Thương, cơ quan chịu trách nhiệm về trang web này, đã thản nhiên nhận định rằng “Không có gì quá ghê gớm cả… (bởi nó là) của mình nhưng mà là phía TQ phụ trách”!

Ngư dân VN, sau khi bị hải quân TQ bắt giam/đánh đập/cướp bóc trên đường tránh bão tại vùng biển Hoàng Sa, đến hàng tháng sau mới được thả về. Thông Tấn Xã Việt Nam lập tức đưa tin “Ngư dân về từ Trung Quốc”. Bài báo được gần 700 cơ quan ngôn luận các thứ ở đây đăng/đọc lại. Không một tổng biên tập nào dám lên tiếng rằng chính TTXVN đã mặc nhiên xác nhận đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi TQ chiếm đóng và giam giữ những ngư dân này là lãnh thổ Trung Quốc!

Tổng Cty Than Khoáng Sản VN (TKV) đã dành mọi ưu đãi để các nhà thầu TQ tự quyết đưa hàng ngàn lao động phổ thông TQ vào làm việc tại Tây Nguyên và nhiều nơi khác. Đến mức TS Phạm Chi Lan đã phải lên tiếng báo động về tình trạng sinh hoạt “tự trị” gây xung đột áp đảo đối với người Việt sở tại. Bất kể những bản tin nóng dồn dập trên báo, PTT thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã tự nguyện bênh vực là lao động phổ thông TQ các nơi được quản lý đúng “theo pháp luật Việt Nam”.

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?



5. Vang Rè Một Điệp Khúc


Vào dịp kỷ niệm 55 năm chiến thắng Điện Biên, Bắc Kinh đã tự ý tổ chức họp báo kể công của TQ là chính yếu. Đại sứ quán và các Tổng lãnh sự quán của ta tại TQ đều im ắng y hệt Bộ Ngoại giao của ta ở Hà Nội, dù không ai thấy trong 16 chữ vàng có từ im lặng.

Trong suốt cả năm, qua nhiều lần tàu cá VN bị tàu chiến cải trang của TQ đâm chìm, toàn bộ dàn báo đài chính quy của ta chỉ được phép đưa tin về “tàu lạ”. Ngay cả khi TQ ra lệnh cấm ngư dân VN đánh cá trên ngư trường quen thuộc của họ thuộc lãnh hải VN, người phát ngôn Lê Dũng của ta vẫn chỉ nhiều lần lặp lại một điệp khúc (cũng quen thuộc không kém) rằng VN: “có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý…”. Trong lúc tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh từ đường dây nóng: “không làm phức tạp thêm tình hình!”.

Vào cuối tháng 11/2009, Học viện Ngoại giao và Đoàn luật sư VN đã long trọng tổ chức một hội nghị theo kiểu workshop hoành tráng và tầm cỡ quốc tế mệnh danh là “Biển Nam Trung Hoa: Hợp Tác Vì Sự Ổn Định Và Phát Triển Khu Vực”. Cụm từ “Biển Nam Trung Hoa” không chỉ chễm chệ trên chủ đề hội nghị, mà còn được lặp lại thêm 22 lần nữa trong toàn bộ 3 tệp hồ sơ “Ý Niệm”, “Chương Trình”, và “Danh Sách Khách Mời”. Có phải đây là 1 tấu sớ kín đáo của nhà nước ta dâng trình thiên triều, thông qua ban tổ chức hội nghị, là: Chính thức nhìn nhận danh xưng và chủ quyền “Biển Nam Trung Hoa” này trên vùng biển mà TQ từng vẽ 9 gạch hình lưỡi bò?

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?



6. Lưng Cong Như Lưỡi Uốn…


GS Brantly Womack, trong tác phẩm China and Vietnam: The Politics of Asymmetry, đã nhận định quan hệ Việt–Trung “là một ca thú vị của mối quan hệ bất tương xứng lâu dài”:

Ở trong nước, đại lễ 1000 năm Thăng Long đã được Bộ chính trị định hướng sao cho hoành tráng xứng tầm với dịp kỷ niệm 60 năm quan hệ Việt-Trung. Hà Nội rốt ráo lo cải tạo các dòng sông bẩn; xây dựng các tượng đài, công viên, bảo tàng, thư viện; tổ chức nhiều buổi hội thảo “Tăng cường niềm tin trong quan hệ Việt-Trung”…

Riêng TT Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ thị cho PTT Nguyễn Thiện Nhân chỉ đạo việc thí điểm xây dựng Học viện Khổng Tử, vốn là “cơ quan truyền bá văn hóa Trung Quốc ở nước ngoài”, song song với một Cung Hữu nghị Việt-Trung, cũng do Bắc Kinh tài trợ, một công trình mà Lỗ Kiến Hoa, trợ lý Bộ trưởng bộ Thương mại TQ, trang trọng gọi là “điểm sáng” của “Năm Hữu nghị Việt – Trung 2010”.

Ở ngoài nước, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của VN tại Bắc Kinh là Nguyễn Văn Thơ (từng đoạt cờ thi đua của TT Nguyễn Tấn Dũng ngày 30/8/2009), đã cật lực ngợi ca mối tương quan vương-hầu/chủ-tớ đó, bằng cách:

- Mô tả mức độ hoàng tráng của đại lễ quốc khánh TQ ngày 1/10/2009 là: “Hết sức huy hoàng… Đây là niềm tự hào của nhân dân Trung Hoa, cũng là niềm tự hào của các nước châu Á trong đó có Việt Nam”.

- Chúc tụng đài phát thanh Tiếng Nói Vịnh Bắc Bộ của TQ trong ngày đầu khai mở chương trình tuyên truyền bằng Việt ngữ: “Chúc đài thành công trong sự nghiệp của mình”.

Còn Tổng lãnh sự Nguyễn Anh Dũng ở Nam Ninh thì “Chân thành mong ‘Tiếng nói Vịnh Bắc Bộ’ sẽ truyền đi những thông tin góp phần tăng cường quan hệ cùng có lợi giữa nhân dân hai nước, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị đời đời xanh tươi giữa nhân dân hai nước chúng ta”.

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?



7. Biểu Tình Lợi Hay Hại???


Hệ thống mạng của ta quả cực an toàn, cả ba mặt:

Một là, nhà nước ta đã ban hành biện pháp tường lửa ngăn chận các thao tác truy nhập vào các trang mạng “phản động”, hay, đột nhập bằng kỹ thuật số vào các trang webs/blogs thiếu thiện chí và kém thiện ý với xã hội chủ nghĩa, quan trọng nhất là triệt để ngăn chận các trang mạng Cửu Bình và Pháp Luân Công tiếng Việt.

Hai là, các trang mạng có tính phản biện chắc cú và đại trà mà chính phủ ta không trả lời nổi thì đều có nhiều cơ hội ngang nhau để xảy ra các sự cố “bất thường”. BauxiteVietNam hay Talawas chỉ là những tiêu biểu làm nền.

Ba là, chính lãnh đạo ở cấp thượng tầng đảng ta đã cho duyệt đăng ngay trên cpv.org.vn (trang mạng chính thức của toàn đảng và là cơ quan ngôn luận của trung ương đảng) những bài viết ca tụng thiên triều, nhằm bình thường hóa những địa danh đất nước ta theo tên gọi của Tàu, và bình thường hóa cả những động thái/đối sách “mềm mỏng” của lãnh đạo ta.

Thêm vào đó, chính đích thân một trong những lãnh đạo tư tưởng/lý luận ở cấp cao nhất của ta cũng đã quát tháo những câu hỏi chất vấn thanh niên rường cột nước nhà: “Làm cái gì? Để làm cái gì? Tôi hỏi các anh các chị: Các anh các chị làm như thế, biểu tình Trường Sa Hoàng Sa là của Việt Nam như thế là lợi hay là hại? Lợi hay hại???”.

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?



8. Biển Đông Là Của Nước Nào?


Ấn phẩm Chào mừng ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam của báo Phụ nữ Thành phố có đăng một bài viết về những chàng thủy thủ, kèm theo một bức ảnh độc đáo, đã khiến độc giả cực hoang mang, không rõ đối tượng ca ngợi Hải Quân là Hải Quân nào? Hoá ra, đó là bức ảnh lính thủy của TQ, với một dòng chú thích bồi hồi cực tả bên dưới: “Lâu lắm rồi mới thấy lại những hình ảnh này. Rất đông những chàng trai. Họ đi theo hàng theo khối, từ từ tiến vào sân ga”…

Họ không chỉ quanh quẩn ở sân ga của ta, theo bài báo Phụ Nữ. Họ đâm chìm tàu cá của ngư dân ta và ít lâu sau mới được báo đài ta loan tin mơ hồ về những con “tàu lạ”.  Họ ra lệnh cấm đánh cá trên một diện tích 130 ngàn cây số vuông Biển Đông của ta. Họ bắt giam/đánh đập/cướp bóc/giữ tàu/thu lưới của ngư dân ta và công khai đòi tiền chuộc…

Họ đã khiến cho Bộ Ngoại Giao của ta có thêm tên mới là Bộ Giao Thiệp. Họ đã hạ tầng các công hàm ngoại giao của ta thành những bản kiến nghị. Họ đã khiến cho lãnh đạo sở tại của ta nhận định rõ ràng chắc cú về biển đảo của đất nước chỉ là những “bãi hoang chim ỉa!”. Và khiến cho QH ta nhanh chóng/hồn nhiên kết án tử hình tập thể ngư dân ta bằng cách thông qua dự luật dân quân tự vệ biển.

Họ đã giúp cho Bộ Công an của ta sớm ban hành/áp dụng luật mới: Thanh niên VN không được mặc áo có in dòng chữ “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam”! Đã có những bloggers bị bắt giam về tội này, và cũng đã có những thanh niên bị công an lột áo ngay giữa những buổi tọa đàm. Trong ngành giáo dục, thậm chí, đã có lệnh Học sinh không được phép phản đối lính Trung Quốc cướp bóc/đánh đập ngư dân Việt Nam!..

Ở cấp vĩ mộ, đã có QĐ 97 cấm trí thức VN công khai phản biện các chính sách của đảng và nhà nước ta. Gọi là để phòng chống mọi khả năng/xác suất làm mích lòng/phật ý Bắc Kinh.

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?



9. Bùn Đỏ Là Chủ Trương Lớn!


Có 3 câu nói được nhiều giới quan sát ghi nhận là “phát ngôn ấn tượng” vào bậc “top 10” của VN trong năm 2009:

1> TT Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ ngày 4/2/2009: “Khai thác bô-xit Tây nguyên là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”. Lời phát ngôn này không chỉ “ấn tượng” suông. Nó đáng giá 150 triệu USD.

2> Bên lề Diễn đàn xúc tiến đầu tư Tây Nguyên ngày 5/9/2009, tại Buôn Ma Thuột, PTT Trương Vĩnh Trọng đã trịnh trọng phát biểu một quan điểm áp đảo: “Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên là đúng đắn và đang gặp thuận lợi”, bất kể những đợt triều cường phản biện của trí thức/thanh niên/bloggers cả nước.

3> Chủ nhiệm VPQH Trần Đình Đàn cho tổ chức họp báo để gióng tiếng tuyên bố: “Quốc hội hoàn toàn ủng hộ chủ trương lớn này… Chắc chắn Quốc hội sẽ  hoàn toàn ủng hộ”! Những hai ngày trước khi chính thức khai mạc kỳ họp thứ 5 khóa XII nhằm phê chuẩn dự án bauxite Tây Nguyên!

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?



10.  Ảnh Vi Phạm Tác Quyền


Không hề vi phạm tác quyền, ngay trên trang mạng Chính phủ, là tấm hình PTT Hoàng Trung Hải cầu lộc cầu tài khúm na khúm núm bắt tay Ôn Gia Bảo, thể hiện toàn cảnh một nền văn hóa đối ngoại nô dịch dễ bảo/sẵn sàng lệ thuộc/chầu chực liếm giày. Nói theo kiểu ẩn dụ của nguyên Trưởng ban biên giới Lê Công Phụng trả lời phỏng vấn báo Văn Hóa (California) thì là “Phải biết sống với họ!” (vừa là đồng chí-vừa là con em?).

Còn chính thức “vi phạm tác quyền”, và chỉ mắc mỗi lỗi công khai “vi phạm tác quyền”, theo lời khẳng định của nhà chức trách TS Nguyễn Thành Rum, chính là bức ảnh quân đội nhân dân TQ được dùng làm tiền cảnh cực hoành tráng cho loạt panô đại trà kỷ niệm 65 năm quân đội nhân dân và 20 năm ngày quốc phòng toàn dân VN.

Vào ngày kỷ niệm lẽ ra không thể kém tính hào hùng này, không ai thấy người anh cả 5 sao của quân đội nhân dân xuất hiện/phát biểu trên bất kỳ một trang báo nào. Cũng không thấy một bài viết nào phản bác luận điệu cướp công chiến thắng Điện Biên về tay các tướng Tàu (Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Lã Quý Ba…).

Ngược lại, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của VN tại Bắc Kinh là Nguyễn Văn Thơ, nhân dịp này đã long trọng tuyên bố: “Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn và quý báu của Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc anh em” (trong mấy mươi năm cương quyết hy sinh đến người VN cuối cùng để đánh Mỹ!).

Cứ ngỡ như xưa nay cái hình ảnh quân đội ta là một biểu trưng Hồn Trương Ba-Da Hàng Thịt đối với quân đội nhân dân TQ. Nay, với những chuyến “giao lưu sĩ quan trẻ” cộng thêm đợt cải tiến quân trang/quân phục mới, cả hai đã thực sự đã “sắt cầm hảo hợp”…

Còn Đại tá Tiến sĩ Dương Văn Lượng, trong bài phân tích “Âm Mưu, Thủ Đoạn Diễn Biến Hoà Bình Trong Lĩnh Vực Đối Ngoại”, đã cực lực khẳng quyết tâm ý bảo vệ thiên triều: “Các thế lực thù địch chống phá nhà nước CHXHCN Việt Nam đã lợi dụng những vấn đề do lịch sử để lại về chủ quyền biên giới, hải đảo nhằm chia rẽ quan hệ khăng khít giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhằm biến Việt Nam thành con đê ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc tràn xuống các nước phía dưới vùng Đông Nam Á, nơi ảnh hưởng của thế lực tư bản đang ngự trị…”.

Rứa không là cái cốt tay sai rất đáng cho quan thầy hài lòng hả dạ đó sao?

*

- Chung Ý, Chung Lòng, Chung Một Biển Đông? -


Trong cả kho tàng âm nhạc Việt, ngay từ giữa thế kỷ trước và trong đầu thế kỷ này, có lẽ không có bài hát nào có khả năng lột tả toàn bộ tính chất phấn khích môi răng của mối quan hệ Lãnh Đạo Việt-Trung như bài “Việt Nam–Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận: “Việt Nam-Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông, chung một biển Đông, mối tình hữu nghị sáng như rạng đông. Bên sông, tắm cùng một dòng, tôi nhìn sang đấy, anh nhìn sang đây, sớm sớm, chung nghe tiếng gà gáy cùng. A…a… a… nhân dân ta, chung một ý, chung một lòng, đường ta đi hồng màu cờ thắng lợi. A…a… a…  nhân dân ta ca muôn năm: Hồ Chí Minh – Mao Trạch Đông…”.

Không chỉ vậy, bài hát còn tiên tri/phóng họa ra cả toàn cảnh một mối tương quan chính trị trùm lấp mà lắm tay phân tích (thiếu thiện chí và kém thiện ý) người nước ngoài đã xách mé gọi cái chủ nghĩa bành trướng/đại hán/bá quyền/nước lớn đó là “cái bóng của Trung Quốc”!

Cái bóng râm bá quyền đó không tự nó trên trời rơi xuống. Lãnh đạo TQ chỉ giản đơn búng tay gieo hạt. Chính dàn lãnh đạo Ba Đình của ta, dù được hay không được nêu tên trong bài hát nói trên, đã tự nguyện phấn đấu cắm cúi cặm cụi bón phân tưới nước cho nó rộng tàn vững gốc như ngày nay.


- Không Sẵn Tay Sai, Há Dễ Có Quan Thầy? -


Hiện tượng “bóng đè” đó chính là nguồn cội của bức công hàm 1958. Nó chính là cơ sở của động thái bàng quan tọa thị trước sự kiện biển Đông dậy sóng năm 1974. Nó chính là nguyên ủy thấy trước của các trận địa chiến 1979 và hải chiến 1988 khốc liệt kinh hoàng. Và nó cũng chính là điều cắt nghĩa trọn vẹn/sâu sắc nhất về tất cả những quyết định/chính sách/chỉ thị áp đảo/giải tán/bịt miệng/dập tắt/(và thậm chí cả) khép án… lòng yêu nước cùng sự thể hiện niềm tự trọng dân tộc của trí thức/thanh niên/bloggers Việt Nam trong suốt mấy năm qua.

Nhìn về tương lai, nếu cả thế giới nói chung và TQ nói riêng có thể tiến tới những mục tiêu phát triển của họ, thì chính căn bệnh “bóng đè tự nguyện” của lãnh đạo ta sẽ không chỉ che mắt chính họ đến chẳng thể có được một viễn kiến nào, mà còn ngáng chân cột cẳng cả dân tộc ta đến không còn một ai được phát huy cá nhân để thăng hoa xã hội.

Đảng và nhà nước có bắt giam/áp án hết cả những trái tim khẳng định “Hoàng-Trường Sa là của Việt Nam” thì cũng chẳng khiến nổi Bắc Kinh từ bỏ/ngừng nghỉ cái tham vọng độc bá của nó hoặc là sẽ bớt coi thường giới lãnh đạo CSVN. Bởi, không có một ai coi trọng tính hèn và lời van, ngay cả kẻ thù cũng Rứa. Huống gì ở đây lãnh đạo ta đã hình thành trong tàng thức của họ một tính khí đê hèn có hệ thống và thành truyền thống!

Ngày nào căn bệnh “bóng đè tự nguyện” của lãnh đạo ta còn đó thì sẽ vẫn còn đó nguyên xi một guồng máy thiển cận/tham ô/nô dịch chuyên chú phục vụ cho quyền lợi của ngoại bang để xây riêng nhà thờ tổ. Hà Nội sẽ trở thành phủ  lỵ một châu huyện của Tàu. 46 Hoàng Diệu sẽ là dinh Thái Thú. Hệ quả của nó, do đó, chỉ có thể là một cấp số nhân mới cáu của các chỉ số tụt hậu/đội sổ của một xứ sở từng có tên gọi là Việt Nam. Đất nước sẽ khó vượt thoát ra khỏi các lũy tre gia công. Con người sẽ không dứt nỗi kỳ vọng vào những tờ vé số.

Hãy tận lực giúp nhau để giúp cho đất nước có được một chính quyền nhân dân đích thực: Giàu lòng tự trọng – Vững chí tự quyết – Bền gan tự lập – Chính tâm tự hào.


Blogger Đinh Tấn Lực
Back to top
« Last Edit: 25. Apr 2010 , 20:51 by admin »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #12 - 26. Apr 2010 , 20:55
 
Mời cả   nhà  xem   3  đoạn  phim  Cứơp đất


http://rictrn.multiply.com/links/item/37/37
Back to top
« Last Edit: 26. Apr 2010 , 21:00 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #13 - 26. Apr 2010 , 23:31
 
“Ai Đã Giết Người Dân Huế?” Câu Hỏi 40 Năm Chưa Trả Lời

2008-02-02
Thiện Giao, phóng viên đài RFA

Hôm nay, chúng tôi xin trình bày bài cuối cùng trong loạt bài gồm 5 phần, do biên tập viên Thiện Giao thực hiện, trong chương trình Tưởng Niệm Cuộc Thảm Sát Mậu Thân tại Huế năm 1968. Trong 4 phần trước, chúng tôi đã lần lượt điểm qua các giai đoạn của cố đô những ngày trước, trong và sau cuộc thảm sát.

Nhiều ngàn người Huế đã bị giết trong vòng chưa đầy 1 tháng phía quân đội Bắc Việt chiếm đóng Huế. Cuộc thảm sát chỉ kết thúc khi quân đội Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ tiến đánh, vãn hồi an bình cho Huế ngày 24 tháng Hai với đỉnh điểm là hai trận đánh tại Đại Nội và Kỳ Đài Phu Văn Lâu.

Trong phần trình bày sau đây, qua lời kể của các nhân chứng và cả những người đã từng tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lúc ấy, chúng tôi sẽ đặt lại câu hỏi: cuối cùng thì, ai sẽ phải chịu trách nhiệm về vụ thảm sát Mậu Thân. Xin theo dõi qua phần trình bày của Việt Long.

Các nạn nhân xấu số

Cuối cùng, mặt trận Mậu Thân 1968 tại Huế cũng chấm dứt. Ngày 25 tháng Hai năm 1968, những lực lượng cuối cùng của phía Bắc Việt bị đẩy lui ra khỏi thành phố. An bình được vãn hồi. Cờ Việt Nam Cộng Hoà được kéo lên trên tháp Kỳ Đài Phu Văn Lâu thay cho cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chễm chệ giữa cố đô trong hơn 3 tuần trước đó.

Nỗi kinh hoàng đối với dân Huế qua đi, nhưng trong lòng họ, vẫn còn nỗi đau. Người còn sống vẫn đau với vết thương chưa lành, trong khi người đã khuất vẫn chưa được giải oan. “Vết thương đó vẫn chưa khô máu, vết sẹo đó mỗi lần trái gió trở trời vẫn đau xót xa.”

Cho đến nay, chưa bao giờ chính quyền Hà Nội chính thức lên tiếng giải trình những thảm sát xảy ra cho Huế mùa Xuân năm 1968. Nhiều câu hỏi được đặt ra liên quan đến cuộc thảm sát kinh hoàng này: Ai sẽ chịu trách nhiệm cuối cùng trong Biến Cố Mậu Thân? Những cuộc thảm sát xảy ra trong hoàn cảnh nào? Các nạn nhân xấu số đã bị giết ra sao?

“Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5,300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên.” (Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại Thừa Thiên)

Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5,300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên.

Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia Đình Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu.

(Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân Biểu khu vực Thừa Thiên)

Thủ phạm của vụ thảm sát

Nhiều nguồn dư luận được đưa ra, liên quan đến thủ phạm của vụ thảm sát. Có người nói rằng, chính những thành phần thiên Cộng tại Huế, đa số là sinh viên, đã thoát ly lên mật khu năm 1966 trong các phong trào sinh viên tranh đấu phải chịu trách nhiệm. Trong số này, những tên tuổi được nhắc đi, nhắc lại gồm có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Văn Hảo.

Thật sự, một số thành viên trong nhóm này đã về lại Huế trong những ngày Mậu Thân. Điều này được khẳng định bởi ông Nguyễn Phúc Liên Thành, vào thời điếm 1968 là Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại Thừa Thiên.

“Năm 1966, như Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân… đã vượt thoát lên mật khu, đã xâm nhập vào thành phố Huế trong thời gian đó.”

Trở về Huế, họ có tham gia vào các cuộc thảm sát trong 25 ngày thành Huế thất thủ? Ông Nguyễn Phúc Liên Thành tin rằng, trên thực tế, trong thành phần sinh viên trở về Huế, một số người đã thực hiện các vụ hành quyết, nhưng chỉ là một số rất ít, vì tư thù cá nhân.

“Trường hợp đó chỉ là 1 phần trăm. Như trường hợp các sinh viên tranh đấu cũ, nay trở lại, vì thù hận bạn bè, nay mang ra xử và chôn sống, nhưng rất ít, chỉ khoảng 1 phần ngàn.”

Trong khi đó, ông Lê Văn Hảo, từng là Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên – Huế vào thời gian ấy, khẳng định về sự vô tội của ông.
Các quan tài của những nạn nhân chưa nhận dạng nằm trong một trường học tại Huế, Tết Mậu Thân, 1968. Photo courtesy of Wikipedia.

“Đó không phải là sự thật lịch sử. Tôi chỉ là một con tin trong thế kẹt, phải nhận một chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mong có ngày về với vợ con thôi. Chứ tôi nói thật, trong Tết Mậu Thân, vai trò của tôi hoàn toàn thụ động, chỉ ngồi trên núi thôi. Lâu lâu, các ông lãnh đạo, như Trần Văn Quang, ghé qua thăm, an ủi là thôi, sự việc diễn tiến như vậy thì mình đi theo Cách Mạng thôi.”

Ông Hảo, trong cuộc trả lời phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do hồi năm 2006 cũng nói về vai trò bù nhìn của Mặt Trận Giải Phóng.

“Khi lên trên núi, tôi biết ngay Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam chỉ là một trò bịp bợm, một tổ chức hữu danh vô thực của Cộng Sản thôi, do Hà Nội chỉ đạo. Mà họ có dấu điều đó đâu.”

Ai chịu trách nhiệm

Như vậy, thì câu hỏi là: Ai sẽ phải chịu trách nhiệm cho những cái chết oan khuất của nhiều ngàn người Huế cách đây 40 năm? Trước khi thử tìm cách đi vào trả lời câu hỏi này, hãy nghe những phát biểu nói về cố gắng che dấu, hay chính xác hơn, xúc phạm vào nỗi đau của các nạn nhân, từ phía chính quyền Hà Nội. Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên chiến trường Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 nhớ lại.

“Một bản tin của đài Giải Phóng mà về sau tôi nghe được qua kiểm thính của nhân viên của đài (Truyền Thanh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà) thì họ nói đó là cảnh sát và quân đội VNCH khi thua, rút đi thì làm điều đó. Chuyện đổ vạ là điều bình thường của Cộng Sản từ trước đến giờ. Nhân chứng vẫn còn sống đây thôi, cả trong lẫn ngoài nước. Họ không thể xoá được những điều ấy.”

Trong những trận đánh tại chiến trường Huế, người dân cố đô đã chọn cho mình phía bên nào? Một trung uý tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân đã tham gia trận tái chiếm Huế, ông Trần Tiễn San, kể lại:

“Lúc đánh ở Vỹ Dạ, lực lượng chính của Việt Cộng không còn nữa. Nhưng khó đánh vô cùng. Mình tiến từ nhà này qua nhà khác, nhà thì có kẽm gai, bờ tường. Mình bên này thì dân chúng bên kia thấy là họ đâm đầu họ chạy qua. Không biết làm sao. Dân thì ở giữa làn đạn. Mà họ thấy mình thì họ đâm đầu chạy qua.”

Câu hỏi lại được đặt ra lần nữa: Ai đã giết người dân Huế năm 1968?

“Người chịu trách nhiệm cuối cùng về vụ thảm sát

Vụ này không do một cá nhân nào chủ trương, không do một sự tình cờ hay hoàn cảnh bó buộc nào bắt buộc phải làm như vậy cả. Đây là chủ trương của Hà Nội, là dùng bao lực cách mạng trấn áp dân Huế. Hà Nội tin là khi họ chiếm Huế, người dân Huế sẽ nổi dậy theo họ. Đó là một đánh giá sai lầm.

Người Huế sợ cộng sản vô cùng. Vô cùng sợ. Khi Việt Cộng tràn vào Huế, họ đến đâu, dân chúng bỏ chạy đến đó. Mà chạy thì họ bắn. Đó là sự thật không hề nói thêm một lời nào hết. Những ai sống tại Huế thời đó điều biết.”

...
Phu Văn Lâu trong Đại Nội Huế. Photo courtesy of wikimedia.

Họ đã bị giết trong hoàn cảnh nào?

“Năm 1972, tôi bắt được một trung tá Việt Cộng, tên Hoàng Kim Loan, là thành uỷ viên hoạt động bí mật tại Huế 20 năm. Tôi hỏi: tại sao các anh thảm sát đồng bào Huế man rợ đến như vậy? Thì Loan nói đây là chủ trương bạo lực Cách Mạng của cấp trên chỉ thị. Thứ hai, khi trên đường rút lui, do không thể đem theo tù nhân, nên phải giết. Loan nói, người Cộng Sản chúng tôi có chủ trương thà giết lầm còn hơn bỏ sót.”

Và, họ đã bị giết ra sao?

“Tôi hỏi tại răng không bắn họ, cho họ viên đạn còn dễ hơn lấy búa, dùng vật cứng đập đầu họ và đẩy xuống hố. Loan nói: Đạn chúng tôi để bắn Mỹ Nguỵ. Đạn đâu để bắn những đám người như vậy.”

Một vết thương chưa lành

Rồi đến năm 1975, khi quân đội Bắc Việt tiến vào miền Nam, một lần nữa, những người đã khuất vẫn không được yên nghỉ. Nghĩa trang trên núi Ba Tầng, còn gọi là núi Bân, nơi an táng khoảng 400 thi hài tìm được nơi Khe Đá Mài vùng Đình Môn Kim Ngọc tháng 9 năm 1969 bị đập phá cả tấm bia và các bàn thờ. Linh mục Phan Văn Lợi kể lại.

“Năm 1975, sau khi chiếm được miền Nam, Cộng Sản đã phá ngay tấm bia dựng ở phía sau và phá hai bàn thờ nằm ở phía trước. Từ đó về sau, người ta có đến cũng chỉ đến trong âm thầm lặng lẽ hoặc cá nhân mà thôi, không dám công khai.”

Đã 40 năm trôi qua kể từ Biến Cố Mậu Thân 1968, vụ thảm sát vẫn là một vết thương chưa lành, vẫn còn là đau mỗi khi trái gió, trở trời. Người dân Huế sẽ vẫn tiếp tục sống, tiếp tục vươn lên, đó cũng chính là cá tính của người dân đất thần kinh.

“Thân nhân bị mất, tài sản bị mất, trong một hoàn cảnh như vậy, nhưng người Huế khi nào họ cũng cố gắng vươn mình lên để sống. Thành ra, đời sống ở Huế trở lại rất là nhanh. Khoảng 5, 6 tháng sau, đời sống trở lại bình thường.”

Riêng đối với người dân Huế, với sông Hương, với núi Ngự, với Nam Dao, với thành vách kinh thành cũ, mùa Xuân 1968 vẫn luôn luôn là một ngày đại tang. Đến bao giờ, công lý và công bằng sẽ được trả lại cho người đã chết?

Đến đây là kết thúc bài thứ 5, cũng là bài cuối cùng trong chương trình phát thanh tưởng niệm các nạn nhân của vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế năm 1968. Tưởng cũng xin nhắc lại những gì đã được trình bày trước đây, cuối cùng, sẽ không một ai có đầy đủ thẩm quyền để trả lời câu hỏi: ai, bằng cách nào, và tại sao đã giết nhiều ngàn người Huế chỉ trong vòng vỏn vẹn chưa đến 1 tháng?

Có lẽ, chỉ có người dân Huế, với tư cách là nạn nhân của thảm kịch, mới có quyền đòi hỏi công lý, đòi hỏi sự phán xét, và cả quyền đưa ra những lên án. Loạt bài tưởng niệm Biến Cố Mậu Thân tại Huế, xin hãy được xem là một nén hương, được thắp lên, để tưởng niệm những người đã chết, và cũng để chia buồn cùng tất cả những thân nhân đang còn sống, trong một biến cố đã bị chính quyền Hà Nội giữ kín gần nửa thế kỷ qua.

© 2008 Radio Free Asia
Back to top
« Last Edit: 26. Apr 2010 , 23:32 by dacung »  

dacung
WWW  
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: TỘI ÁC CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Reply #14 - 06. Jun 2010 , 20:06
 
21 NĂM VỤ THẢM SÁT THIÊN AN MÔN

Hãy ghi tạc tội ác của chủ nghĩa cộng sản!


Lê Diễn Đức Weblog News


Vào ngày 4/06/1989 dân chúng Ba Lan lần đầu tiên sau 44 năm đất nước nằm trong vòng kìm kẹp của Moskva, đã tiến hành cuộc bầu cử tự do, mở màn cho chuỗi phản ứng giây chuyền làm sụp đổ toàn bộ hệ thống cộng sản tại Đông Âu và sự phá sản hoàn toàn của Liên Xô.
.
Lo sợ một cuộc cách mạng tương tự có thể xảy ra, Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc bị khuynh loát bởi Đặng Tiểu Bình, bất chấp phản đối của Tổng bí thư Triệu Tử Dương, đã điều động quân đội cùng với xe tăng, thiết giáp thẳng tay đàn áp cuộc biểu tình đòi dân chủ của sinh viên học sinh.

Con số cụ thể về các nạn nhân của vụ thảm sát vẫn bị nhà cầm quyền Bắc Kinh giữ bí mật. Theo các nguồn tin của báo chí, người ta ước tính chỉ trong vòng một đêm đã có hàng ngàn người, thậm chí đến chục ngàn người bị chết, hàng ngàn người khác bị thương và hàng ngàn khác bị bắt giam và đưa đi cải tạo.

Đã 21 năm trôi qua, một trong những cuộc thảm sát vô cùng tàn nhẫn và đẫm máu nhất trong lịch sử của chế độ cộng sản vẫn là đề tài cấm kỵ đối với dân chúng tại Trung Quốc.

Hàng năm, người Trung Quốc tại Hongkong đốt nến cầu nguyện tưởng niệm sự kiện Thiên An Môn đẫm máu vào mồng 4 tháng 6 với sự tham gia của hàng chục ngàn người.

Tuy nhiên, năm nay, hôm 29/05, cảnh sát đã tịch thu bức tượng “Nữ thần Dân chủ” – một bản sao của một bức tượng tương tự, được dựng lên vào năm 1989 tại Thiên An Môn. Bức tượng mô tả một người phụ nữ đang nắm giữ một ngọn đuốc và một cuốn sách với dòng chữ “tự do”, “dân chủ” và “công bằng”. Họ cũng tịch thu bức phù điêu miêu tả hành động của công an quân đội đàn áp người biểu tình.
.
Cảnh sát Hongkong bắt giữ 13 người biểu tình hôm 29/05/2010 - Ảnh: AP
http://ledienduc.files.wordpress.com/2010/06/thienmon.jpg?w=295&h=263
.
Cảnh sát Hong Kong đã đưa ra một tuyên bố ngắn gọn nói rằng, bức tượng và phù điêu bị tịch thu vì các nhà tổ chức biểu tình đã không có giấy phép trưng diễn chúng ở nơi công cộng. Họ cũng nói 13 người bị bắt vì kháng cự lại cảnh sát trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên tất cả đều đã được trả tự do trong ngày.

Các nhà phê bình cáo buộc chính quyền của Hong Kong dưới bị áp lực của Bắc Kinh đã giảm dần quyền tự do dân sự trong thuộc địa cũ của Anh được hưởng quy chế đặc biệt, kiểu bán tự trị.
.
Nhân kỷ niệm 21 năm 04/06/1989 – 04/06/2010, chúng ta cùng xem lại các clip phim tư liệu về sự kiện này:
Tiananmen Square Massacre
http://www.youtube.com/watch?v=AGJoaHr2QdM&feature=player_embedded
.
BBC News - June 4, 1989, Tiananmen Square Massacre
http://www.youtube.com/watch?v=XJBnHMpHGRY&feature=player_embedded
.
1989 Tiananmen Square Protests
http://www.youtube.com/watch?v=9-nXT8lSnPQ&feature=player_embedded
.
Bộ phim dài 1h18' về Thiên An môn
Tiananmen Massacre - Tank Man: The 1989 Chinese Student Democracy Movement
http://www.youtube.com/watch?v=s9A51jN19zw&feature=player_embedded
.
Back to top
« Last Edit: 06. Jun 2010 , 20:08 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra