Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Gop Nhat gio Cat  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 
Send Topic In ra
Gop Nhat gio Cat (Read 5680 times)
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Gop Nhat gio Cat
22. Oct 2009 , 20:27
 
NN ơi
Lại một câu truyện về miền quê ,về sự nghèo khó và dốt nát nhưng thật thanh cao và cảm động ở hai tấm chân tình , một tình yêu chân thật không tính toán và một tấm lòng biết đón nhận ,cảm thông và trân quý không để lụy cho người bởi vì biết phân biệt đâu là tình yêu .Một câu truyện thật hay ,NQ đọc đoạn chót với thật nhiều cảm xúc - Thương chúc NN luôn vui trẻ cho NQ được đọc thêm nhiều tác phẩm hay và ý nghĩa - NQ


QUA CƠN SÓNG BỦA.
Trước khi từ giã Chương để xuống đò trở về Cà Mau, Nam cười cười dặn dò bạn:
“ Ông ở lại chịu khó học nghề, tôi về Cà Mau lo công chuyện một hai tuần mới xuống, có gì khó khăn đã có bác Hai, chị Tư, anh Út chỉ dẫn. Ở đây tôm cá ăn thoải mái, sông nước tràn bờ tha hồ cho ông làm thơ.”
Nam là bạn của Chương từ hồi hai người còn học chung trường Sư phạm ở Cần Thơ, Nam dạy toán còn Chương là giáo sư Việt văn. Sở dĩ giờ đây Chương trôi giạt đến vùng đất Năm Căn, vùng đất cuối Việtä với câu ca dao “ muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lền như bánh canh” để chờ một chuyến vượt biên.
Nam nhảy xuống đò, con đò xình xịch rồi tách bờ, những lượn sóng cồn lên trên mặt sông rồi lại êm đềm vỗ sóng. Nơi Chương đang đứng là một nhánh sông nhỏ, từ đây ra cửa biển còn xa, làng xóm thưa thớt, nhà cửa ở rải rác ven sông mang cái buồn tịch liêu, cô quạnh. Nhìn theo con đò nhỏ dần phía xa, tự nhiên lòng Chương quặn lên một nỗi bơ vơ.
Ðêm ấy, Chương khó ngủ vì lạ nhà, lạ chỗ, dù ở đây khoảng khoát gió lộng tư bề, nhưng chàng vẫn nhớ căn gác lửng chật hẹp dành cho chàng nơi nhà người anh. Ở đấy có một chiếc rương cũ, vài bài thơ làm từ lúc đi học, mấy xấp hình chụp với gia đình, bạn bè từ những ngày còn trẻ. Hồi tưởng lại, Chương không khỏi nghĩ ngợi đến cái số kiếp hẩm hiu của đời mình. Từ lúc ấu thơ đã mồ côi cha mẹ, ở với anh chị, được ăn học nên người tưởng đời đã khấm khá, ai ngờ lúc ra trường vừa mới dạy học được hai năm thì bị đọâng viên, Chương chấp nhận làm người lính như bao chàng trai trong thời buổi chiến tranh. Hình ảnh ông giáo sư trẻ tuổi, ngôi trường, khung cửa lớp, những khuôn mặt học trò tưởng đã xa vời trong ký ức của ông thầy trẻ tuổi của một trường Trung học tỉnh lỵ. Chương được đưa về đơn vị, làm việc trong ngành Chiến tranh Chính trị. Tiếp theo, khi có đợt giáo sư được biệt phái trở về dạy học, Chương trở về mái trường , khuôn mặt êm ả và bình yên của ngôi trường tỉnh nhỏ, với phấn trắng, bảng đen. Không phải Chương muốn trốn tránh cái vất vả của người trai trong thời ly loạn, nhưng dù là người lính cầm súng hay người thầy cầm phấn đứng trên bảng đen, đối với chàng nghĩa vụ nào cũng cao cả hết.
Mùa hè năm bảy mươi lăm, Chương nằm trong danh sách những giáo sư biệt phái phải đi trình diện cải tạo. Bốn năm trong tù đã dạy cho Chương biết phải dấu cái mớ hiểu biết của mình, chữ nghĩa chỉ là mớ giấy lộn, cần phải đậy điệm thật kỹ mới mong được trở về. Hai chữ biệt phái đã được các nhà Cách mạng suy diễn méo mó là những thành phần nguy hiểm. Không làm sao giải thích cho họ hiểu hai chữ Biệt Phái đơn giản chỉ là những ông nhà binh gốc nhà giáo, được trở về ngành nghề của họ sau khi khoác áo nhà binh.
Lúc từ giã nhà binh trở về đời sống nhà giáo, Chương cảm thấy rất thích hợp với môi trường này. Chương chưa kịp lấy vợ, dù đã yêu và có cảm tình với một cô bạn đồng nghiệp, hay là cả hai đang thời kỳ tìm hiểu và thương mến nhau. Thời buổi mà những quan súng ngắn, súng dài có giá hơn anh nhà giáo nghèo cuộc đời bằng phẳng, học trò của Chương một sáng một chiều đã trở thành phu nhân, cái thuở mà con gái thích làm vợ những người hùng, Chương cũng tìm được chỗ chia xẻ buồn vui nơi cô bạn đồng nghiệp. Một chút ấy không đáng gì để nàng hy sinh chờ đợi Chương khi chàng bị đi cải tạo, dường như cuộc tình cũng chấm dứt ngay từ đấy. Sau này , Chương nghe nói nàng đã sang ngang, với một anh nhà giáo miền Bắc vào làm hiệu trưởng, nắm đầu lũ giáo chức miền Nam. Chương không tiếc gì cả, còn có ý khen nàng đã có một chọn lựa sáng suốt, đâu dại khờ làm thân Tô Thị cho uổng một đời xuân xanh.
Gặp lại mấy người bạn còn may mắn ở lại làm nhà giáo xã hội chủ nghĩa, Chương mới thấy cái nhục nhã của những người cắn răng mà sống. Chàng bị gạt ra khỏi thành phần đó. Thành phần mà mỗi tháng làm việc cật lực, kiểm thảo liên miên để tháng tháng nhận mấy chục bạc, ngần ngừ, chọn lựa , băn khoăn trước mấy chục kí gạo hẩm, miếng thịt, con cá, gói bột ngọt như chút ân huệ bố thí của nhà nước. Ðể rồi cũng chỉ vì chút vật chất nhỏ nhoi ấy, có người đã đánh mất nhân cách của nhà giáo, sẵn sàng đấm ngã bạn bè.
Âu cũng là cái may của chàng, dù chỉ là thứ may mắn khốn khổ của một nhà giáo không còn chỗ đứng. Chương sống lang thang nhờ sự giúp đỡ của anh chị trong nhà, người nào cũng như người nấy chẳng hơn gì nhau. Lúc chạy xe đạp ôm, khi dẫn mối cho dân buôn mua máy may, tủ lạnh, kẹt lắm lại làm thợ hồ trộn xi măng, đất đá. Những giờ nghỉ trưa ăn cơm, Chương xúc những muỗng cơm vào miệng mà tưởng như mình đang ăn đá sỏi, nghe chát đắng cả lòng. Nắng trưa hừng hực, mồ hôi nhễ nhại từ trán ròng ròng nhỏ xuống, Chương cứ tưởng mình đang nếm phải những giọt nước mắt. Tự nhiên chàng ngậm ngùi, thời buổi mà người ta không còn nhận ra cái đẹp của những giọt sương long lanh trên một chiếc lá xanh.
Ðể rồi tình cờ gặp Nam, cuộc đời Chương hình như cứ đi từ cái tình cờ này đến tình cờ khác. Như lúc học hết Ðại học, làm thầy giáo, Chương đâu ngờ mình lại dây dưa với nghiệp nhà binh, rồi khi làm lính chàng không hề nghĩ mình sẽ trở lại nhà giáo, cho đến lúc đất nước hết binh đao, lại xô đẩy nhà giáo vào nhà tù. Mai kia, nếu cuộc đời không có gì thay đổi, ở tương lai Chương có thể phải vào nhà thương, rồi đi lần vào nhà xác.
Nam gốc người Cà Mau, gia đình Cách mạng, nhờ vậy sau cuộc đổi đời, anh ta bình chân như vại. Nhưng chỉ ít lâu sau, óc nhận xét bén nhậy của nhà giáo đã khiến Nam sớm nhận ra cái tệ hại của một cuộc đời không lối thoát, khi mà trí thức, phu xe, hốt rác cùng “cá mè một lứa” như nhau, nếu không có cái vỏ Cách mạng bọc bên ngoài. Gặp lại Chương, thấy bạn xác xơ như cái mền rách, Nam động lòng thương, nên bây giờ mới có chuyện đưa bạn về gởi gấm nhà bà con, tiếng là học nghề thợ mộc, đóng ghe đóng xuồng, nhưng thực ra nằm đấy chờ Nam móc nối người vượt biển.
Chương giã từ gia đình liều thân đánh ván bài chót, cùng lắm thì gởi thân vào bụng cá, đỡ phải chôn cất lôi thôi. Ðời chàng chẳng còn gì nữa ngoài chút kỷ niệm một thời làm thầy, một thời làm lính.
Trong bóng đêm, Chương trằn trọc mãi không ngủ được. Những hình ảnh chập chờn, nhảy múa theo cơn gió lùa qua cửa sổ. Ngọn đèn dầu leo lét trên bàn thờ ẩn hiện vài khuôn mặt của người khuất bóng, mấy bức tranh phong thủy màu sắc lòe loẹt trông rờn rợn trong cảnh tranh tối tranh sáng nơi bàn thờ. Sau này Chương mới biết trên ấy có cả hình anh chồng liệt sĩ của chị Tư. Anh ta chết trong một cuộc đụng độ với lính Cộng Hòa, bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ. Mãi gần sáng, Chương mới thiếp đi với giấc ngủ đầy mộng mị. . .
* * *
Thấm thoát rồi Chương ở nhà bác Hai cũng được ba tháng, Nam thỉnh thoảng có xuống lo chuyện bến bãi rồi đi, chuyện vượt biên đâu phải cứ muốn đi là được. Cũng chẳng có gì để Chương lo lắng, sống ở đâu chả vậy, có khi nơi này Chương lại đỡ băn khoăn vì chuyện cơm áo hằng ngày.
Bác Hai và thằng Út làm nghề thợ mộc, đóng xuồng đóng ghe cho những người quanh vùng. Chương làm thợ vịn, sai đâu làm đó, chàng cũng khéo tay nên chẳng bao lâu cả nhà bác Hai đều quí mến chàng. Cô con gái của bác Hai, chị Tư, đi kéo vó bắt tôm, đặt lờ bắt cá. Ông Trời dường như cũng ưu đãi cho người dân quê, chẳng có trường học cho trẻ con vì trước kia là vùng xôi đậu, năm bảy hôm máy bay đảo qua bắn phá một lần. Chẳng có đèn đóm nhưng đã có trăng sao vằng vặc đầy trời, sáng ngủ dậy không cần đánh răng, chỉ súc miệng sùng sục mấy cái, tối đi ngủ rửa chân cẳng qua loa, vỗ phành phạch mấy cái rồi đánh một giấc tới sáng. Người ta không bận tâm lắm về hai chữ văn minh, văn hóa, chỉ mong hết chiến tranh, hết bom đạn, hết chết chóc là đủ. Bác Hai và thằng Út, nay có thêm Chương, chiều nhậu sương sương mấy con khô, trái soài sống rồi lăn ra ngủ. Chị Tư chiều nào cũng un một đống vỏ dừa đuổi muỗi, căn nhà như càng mịt mùng thêm với cái buồn heo hút của miền quê.
Càng sống lâu với gia đình bác Hai, Chương mới thấy cái lối làm việc râp khuôn không sáng tạo, nghĩ ngợi gì của sự hiểu biết. Xưa làm sao thì nay vậy, họ làm không thắc mắc, không hiểu tại sao một chiếc ghe có trọng tải mười giạ lúa có đáy rộng lại không dễ chìm như một chiếc ghe lòng hẹp cũng cùng một trọng tải như thế. Chương cố cắt nghĩa cho thằng Út hiểu khi hai người làm việc chung với nhau, nó chả hiểu gì, nhe hàm răng vàng ệch khói thuốc ra cười, bụng có vẻ nghi ngờ cho những rối rắm của sự học.
Riêng hai đứa con của Tư thật tội, suốt ngày chúng đi chân đất, giang nắng trên bãi sông bắt cua, bắt còng, hái những trái ổi non, nhặt bần rụng về chấm mắm ruốc. Hai đứa nhỏ, thằng anh khoảng mười tuổi và con em lên tám, không biết một chữ i. Có lần, Chương gợi chuyện với hai đứa nhỏ:
"Ba con đâu?"
Thằng nhỏ chỉ lên bàn thờ, một khuôn mặt thanh niên còn trẻ với cái mặt khờ ệch:
"Tía hả? Chết "gồi".
Con em lanh chanh nói:
" Hi sinh "gồi".
Chương buồn cười nghe hai đứa nhỏ nói chuyện với nhau. Chúng nó chơi trò chiến tranh, hái lá cây ngụy trang trốn máy bay, súng là mấy bẹ dừa khô tuốt hết lá. Hai đứa nhỏ đối đáp với nhau:
"Anh Hai đi ngã này, coi chừng máy bay nghe."
" Mày im đi, tao rình bắn cái “tăng” này cho coi".
Chơi chán, con em nói với thằng anh:
" Má nói hòa bình "gồi", chơi "uýnh" nhau làm chi, mình chơi nhà chòi đi anh Hai".
Chương quan sát hai đứa nhỏ con anh liệt sĩ, giá anh ta còn sống đời chúng nó chắc đã có gì hơn. Một nỗi thương cảm dâng lên trong lòng chàng. Chiến tranh quả là tồi tệ, sự sung sướng, nỗi bình yên chỉ dành cho một số nào còn thì giờ đây, những đứa nhỏ trên vùng kinh tế mới, những đứa nhỏ sinh ra và lớn lên ở đây, không giày dép, không sách vở, không tương lai..
Những lúc rảnh rỗi, Chương tìm cách dạy cho hai đứa nhỏ học. Với một tập giấy trắng , cây bút chì chàng mang theo để viết thư khi cần, Chương dùng làm tập vở dạy cho hai đứa con anh liệt sĩ học chữ. Có khi thầy trò dùng những cái que viết đầy trên mặt đất, Tư rất ngỡ ngàng khi thấy con mình dùng hòn than trong bếp để viết những nét chữ nguyệch ngoạc đầu tiên trong cuộc đời . Thật cay đắng mà cũng cảm động biết bao nhiêu, Chương không ngờ có ngày chàng lại ngồi lê la trên nền đất với hai đứa trẻ thơ, để tròn môi uốn theo từng chữ o, chữ ô . Thoảng trong cái buồn heo hắt đó, Chương vẫn thấy cái vui của một việc làm hữu ích, chàng thương quá những đứa trẻ miền quê Việt Nam, dù biết rằng ngày xưa, khi tía nó còn sống, sẽ không ngại gì bắn vào đầu chàng những viên đạn.
* * *
Chương lờ mờ hiểu là Tư yêu chàng, bởi sự săn sóc lộ liễu mà Tư quá mộc mạc không che đậy, dấu diếm nổi. Có lẽ chuyện làm Tư cảm động nhất là hai đứa con của chị quấn quýt bên ông thầy giáo, đã biết đọc biết viết . Nhặt được một tờ nhật trình cũ gói hàng hai đứa nâng niu lắm, chúng cất để dành và tranh nhau đọc cho cả nhà nghe. Ông ngoại và cậu Út cũng vui ra mặt, ngấm ngầm họ cũng ước muốn, giá Chương đừng tính chuyện vượt biên, có ở với họ đến mãn đời cũng tiện.
Chương thương hai đứa nhỏ bằng cái tâm của một nhà giáo, bằng trái tim biết rung động, biết xót xa trước cái khổ, cái nghèo, cái tối tăm của đồng loại, cùng chung một giòng máu Việt Nam. Hận thù làm sao nổi trước những gương mặt ngây thơ, mộc mạc đó, dù những người phía bên kia đã có lúc hành hạ chàng, sống dở chết dở trong trại tù, vất vưởng mưu sinh giữa chợ đời đen bạc, Chương vẫn không tìm ra được lý do để không yêu thương hai đứa nhỏ.
Có dịp Nam từ Cà Mau xuống Năm Căn, Chương nhờ Nam mua hộ bàn chải đánh răng, cục sà bông thơm, ít giấy mực, bút viết. Chàng dạy cho mấy đứa nhỏ hiểu thế nào là ích lợi của sự sạch sẽ, thế nào là sự nguy hiểm của bệnh tật, phát sinh bởi bẩn thỉu mà ra. Hai đứa nhỏ chăm chú nghe, chăm chú học. Bây giờ chúng có thể biết tại sao nước lớn, nước ròng, tại sao quả đất tròn và làm sao người ta đứng vững trên mặt đất, còn một thế giới mênh mông ngoài kia và có nhiều dân tộc, màu da khác nhau trên trái đất. . . Chương biết Tư cảm động lắm về những hiểu biết của hai đứa con, lúc ấy mắt Tư chớp liên hồi, Tư có cái hiền hậu, duyên dáng của người phụ nữ miền quê, không điểm trang mà lại rất mặn mà.
Ðêm ấy là một đêm trăng sáng, bác Hai và Út đi Ông Ðốc ăn đám cưới nhà bà con, chỉ có Chương ở nhà với mẹ con Tư. Trăng sáng lạ lùng, trăng giãi trên mặt sông mông mênh, trăng huyền ảo làm cảnh vật hữu tình, làm lòng người xôn xao, lay động. Và dưới ánh trăng dịu hiền, Tư đêm ấy trông cũng lạ hẳn đi.
Cả nhà đều đi ngủ, hai đứa nhỏ đã ngủ say, Chương cố nhắm mắt mà không sao ngủ được. Bên kia vách lá, Chương nghe rõ cả tiếng thở dài của Tư. Trăng sóng sánh len vào khung cửa sổ, để Chương nhìn thấy bóng Tư đã bước tới bên chiếc chõng tre của chàng. Chương nhắm mắt lại, cố xua đuổi nỗi thèm khát một vòng tay say đắm, tim chàng đập thình thịch trong lồng ngực.
" Anh Năm".
Tư gọi khẽ, xem chàng còn ngủ hay thức? Chương cố gồng mình nằm im, chàng nghe rõ cả tiếng thở của Tư, và tiếng rột rệt của chiếc chõng tre trong đêm tối. Tư ngồi xuống mé chõng, lần mò nắm lấy tay chàng, một cảm giác kỳ lạ từ trong lòng chàng đột ngột dâng lên như một cơn sóng lớn. Dù Tư không phải là người mà chàng ước mơ, nhưng đơn giản nàng là một người đàn bà, Chương cũng đâu phải là gỗ đá, với một cuộc đời không tình yêu, không cơm áo, chàng vẫn là hiện thân của một Adam nơi vườn địa đàng trên trần thế. Tư thì thầm bên tai chàng:
"Em thương anh, anh Năm. . ."
Trong giây phút đó, Chương tưởng như mình có thể ngất lịm đi vì khát khao nhục thể. Nhưng đúng khi ấy, chàng bỗng vùng dậy, thảng thốt đẩy Tư ra như lúc rụt chân lại trước bờ vực để tránh cái chết nát thịt, tan xương. Chàng hít một hơi dài, lấy lại bình tâm, đẩy Tư ra lần nữa:
“ Không, không được, tôi sắp đi rồi, tôi không muốn làm ai khổ hết. . .”
Tư hiểu, nhưng vẫn khóc, thật thiết tha:
“Anh Năm, em biết sớm muộn gì anh cũng đi, nhưng em chấp nhận vì em thương anh. Em muốn anh cho em một đứa con, thông minh như anh, có lòng như anh. . .”
Chương lắp bắp:
“ Em có con rồi, thêm một đứa nữa làm chi cho khổ. Tôi không lo được cho ai hết. . .”
Giọng Tư chân tình:
“ Anh đừng lo, ở đây tôm cá, gạo thóc ê hề, mai đây anh có đi xa, em cũng vẫn không sợ chi mà ”.
Tư không hiểu gì hết, làm sao mà nàng hiểu nổi lương tri của một nhà giáo ở nơi chàng. Thằng đàn ông trong chàng có thể làm điều đó nhưng lương tâm nhà giáo thì không. Nếu lấy Tư làm vợ thì Chương không hề băn khoăn về chuyện đó, nhưng để trả ơn cho những tấm lòng đã thương mến chàng chân thật thì Chương không bao giờ làm thế, dẫu đời có tàn mạt đến đâu.
* * *
Ông Trời dường như cũng thấu hiểu được nỗi khổ của anh thầy giáo hết thời, nghèo kiết xác mà vẫn có số đào hoa như Chương, nên chỉ hai tuần sau, Nam báo tin cho biết chuyến đi đã sẵn sàng, chuyến tàu sẽ ra khơi vào một đêm tối trời. Chương nói dối Tư chàng sắp trở về thành phố, nàng gật đầu nhưng có vẻ hiểu kỳ này Chương sắp đi xa, rồi không bao giờ trở lại đây nữa.
Lúc sắp lên đường, tự nhiên Chương lại nao nao muốn khóc, khi nhìn thấy đôi mắt Tư đỏ hoe lúc hai người cùng ngồi với nhau trong căn bếp đầy mồ hóng, Chương chỉ nói được vài câu từ biệt ngắn ngủi với nàng, rồi vội vã theo Nam xuống chiếc vỏ lãi ra sông lớn, từ đấy mới lên tàu ra khơi. Không ngờ con tàu mỏng manh, nhỏ nhoi như một chiếc lá giữa biển khơi, liều lĩnh ra đi để rồi may mắn vượt thoát được sang bờ biển bên kia, cho Chương có cơ hội làm lại cuộc đời trên đất khách.
Chương vẫn nhớ mãi mái tranh nhà bác Hai bên giòng sông có cây trâm bầu, có rặng bần lập lòe đom đóm. Nhớ bác Hai thật thà, chơn chất, nhớ thằng Út đơn sơ, nhớ hai đứa nhỏ con anh liệt sĩ ngây thơ, trong sáng, ê a đánh vần từng chữ những ngày chàng bắt đầu khai tâm cho chúng. Ðể rồi chàng không thể nào quên, đôi mắt Tư ứa lệ khi xin chàng một đứa con, mà không đòi hỏi một trách nhiệm nào hết.
Ngày được định cư ở Hoa Kỳ, sống ở một nước văn minh mà những người đàn bà, những đứa trẻ con được tôn trọng và nâng niu, quần áo, lương thực, sách vở thừa thãi, Chương cứ ngậm ngùi nhớ mãi hai đứa nhỏ vùng Năm Căn, miền đất cuối Việt của đất nước, lòng dấy lên một nỗi xót xa.
Sau này, khi ổn định đời sống và đã có việc làm, việc đầu tiên của Chương là nhờ chị của Nam còn ở lại Việt Nam, chuyển ngay cho gia đình bác Hai một thùng quà, có rất nhiều đồ chơi, vải vóc và bút chì màu cho hai đứa nhỏ. Chàng tưởng ra ánh mắt ngạc nhiên và hạnh phúc của gia đình bác Hai khi nhận quà của chàng, hai đứa nhỏ sẽ nhẩy cẫng lên vì sung sướng, bỡ ngỡ nhìn những món mà cả đời chúng không hề thấy, không hề có. Nhất là Tư, người vợ liệt sĩ đã xin chàng một đứa con, vì nhận chân được cái đẹp của con người. Dù không yêu Tư, Chương vẫn trân quí tấm lòng của người phụ nữ quê mùa đó, chàng yêu cái tình yêu của nàng, nó hơn hẳn tình yêu của cô bạn đồng nghiệp với chàng năm xưa, vì nó không tính toán. Làm sao Tư có thể hiểu được rằng, chàng có thể tằn tiện gởi về tặng Tư và hai đứa nhỏ thùng quà ơn nghĩa, bằng chật vật của mồ hôi nước mắt, nhưng để tặng nàng một đứa con thì không.
Chương hình dung lại ngày ấy, nếu lương tri của nhà giáo đi vắng, chàng để lại cho Tư một đứa con không cha. Và giờ đây khi nó lớn lên, ở một vùng đất xa xôi bên kia tổ quốc, lại có thêm một đứa trẻ lang thang đuổi bắt những con còng trên bãi sông vắng. Chỉ nghĩ thế thôi, lòng Chương tự nhiên buồn rười rượi. . .
Nguyên Nhung.
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #1 - 22. Oct 2009 , 20:32
 
Mời đọc truyện "Hai Chie^'c Bo'ng" của NN
Cac ban hay xem chuyen va se nhin thay hinh anh do chinh la hinh anh cua ban than ,
HAI CHIẾC BÓNG
Truyện Nguyên Nhung
Cụ Khôi lập cập đứng dậy, loạng choạng bước, tý nữa thì cụ ngã nếu không vịn kịp vào mép bàn. Tính cụ vậy, lúc ốm nằm một chỗ rên hừ hừ, nhưng cứ tỉnh là gượng ngay dậy, làm như cụ sợ nếu không ngồi lên được là sẽ không bao giờ còn dậy được nữa. Có điều cụ quên, đôi chân cụ đâu phải lúc nào cũng tuân theo mệnh lệnh của trung tâm thần kinh não bộ, vì nó yếu rồi, những sợi gân chằng chịt ràng lấy chiếc xương đùi, nay đã chùng xuống kéo theo lớp da bèo nhèo bọc có tý thịt nhão nhoẹt.
Thấy có người đến thăm, cụ mừng, cơn bệnh có vẻ lui được phân nửa. Khách là một người đàn bà tuổi trung niên, cũng quanh quẩn gần nơi cụ ở, các con ở xa quá, thôi thì “bán anh em xa, mua láng giềng gần” vậy. Cụ lại ốm luôn, ốm luôn mà không chết, nhì nhằng dăm bữa nửa tháng rồi khỏi, bởi vậy đối với con cháu chuyện ấy là thường, chừng nào hữu sự thì đã có nhà thương, chết thì mang vào nhà quàn, cuối cùng đến nhà thờ rồi ra nghĩa địa là xong việc. Đấy là cụ chưa nghĩ tới cái nhà dưỡng lão, nghe thiên hạ kể khi nào đến đấy thà chết còn sướng hơn, vì vò võ nằm chờ con cái đến thăm, khi con về mắt cứ nhòa đi như trời mưa.
Cụ Khôi run run rót trà vào tách mời khách, dù sao ở đây cũng còn hàng xóm chạy đi chạy lại. Tính cụ chu đáo, lúc nào cũng có bình trà nóng đặt trên bàn, sáng nào người giúp cụ đã phải lo chuyện ấy. Một vài giọt nước rớt trên mặt bàn, tay chân run rẩy, cụ không còn vén khéo được như mấy năm trước. Cụ đẩy cuốn “album” lúc nào cũng để kề một bên đến trước mặt khách, khoe:
“Cô xem mấy tấm hình chụp hôm các cháu làm lễ kỷ niệm sáu mươi năm của tôi và ông cháu, các cháu về đủ cả. Gớm hôm ấy sao mà lắm khách thế, những là bạn bè của các cháu, hiếm khi mà vợ chồng sống đến răng long đầu bạc đấy cô ạ, không mất ông thì cũng mẻ bà, ai cũng bảo nhà tôi có phước.”
Cụ nhướng mắt lên để nhìn cho kỹ tấm hình kế bên:
“Đây, gia đình anh con cả, hai vợ chồng với bốn đứa con, thằng cháu đích tôn của tôi sắp ra bác sĩ, con em lại học dược, mấy đứa bé nay mai cũng theo các anh các chị mà tiến lên. Chỉ buồn các cháu không thạo tiếng Việt, thấy ông bà chỉ lắp bắp mấy câu rồi trơ mắt ra nhìn, mình muốn hỏi han gì cũng đành chịu, chúng nó cứ nhe răng cười”.
Thấy khách chăm chú xem, không ngớt khen những cháu xinh, cháu tốt của cụ, cụ như được uống ly nước giải nhiệt giữa trưa hè:
“Cái hình cô đang xem là nhà cô con gái thứ hai. Cô ấy tuổi Dần, cao số nhưng lại có số lấy chồng quan, mệnh phụ phu nhân đấy. Sang bên này, hai vợ chồng cũng đỗ đạt cả, các cháu tôi đứa nào cũng ăn học tử tế. Chúng nó ở tuốt bên Cali, bên ấy mát mẻ lắm cô nhỉ?”
Khách cười, khen chị con gái của cụ nay đã trung niên mà vẫn mượt mà, xinh đẹp:
“Thế cụ đã sang chơi với các anh chị và các cháu lần nào chưa?”
Nghe khách hỏi, cụ trầm ngâm một chút, giọng ngùi ngùi:
“Ấy đã, chúng tôi có ở với các cháu một thời gian, nhưng cô xem, mình thì già, chúng nó trẻ, đi làm suốt cả ngày, giờ đâu mà hỏi han đến cha mẹ, ông bà. Ở nhà buồn, vẽ ra công này việc nọ cho vui, các cháu bảo cứ để nhà cửa bề bộn, lôi thôi, bẩn thỉu. Cô xem, hai người già suốt ngày quanh ra quanh vào với cái Tivi, xong lại ngắm mấy bức tường, ông lão nhà tôi ủ rủ như tàu lá héo, ốm cũng không dám rên, sợ phiền con cái. Cửa nẻo đóng im ỉm suốt ngày như lô cốt, bịt bùng quá, chịu không nổi, khóc, chúng bảo mình dở hơi, dở hám. . .”
Giọng cụ nhão ra như sắp khóc:
“Thời buổi này nó khác rồi cô ạ, biết vậy chả sang đây làm gì, bấn thêm cho con cái”
Mắt cụ Khôi rưng rưng, như sắp khóc thật, khách vội vàng an ủi mấy câu cho cụ bớt xúc động. Cụ lại rót trà thêm cho mình, cho khách, dù nãy giờ chưa ai uống miếng nào, tự nhiên có một nỗi ngậm ngùi nào đó, khiến chủ khách cùng im lặng. Khách lại ngắm nghía hai tấm hình của hai cụ được phóng lớn ra thật rõ nét, đẹp như tranh. Trong hình, cụ bà phấn son rực rỡ, con rồng lượn trên nền gấm tía, vòng ngọc xanh biếc trên cổ cụ trông óng ánh rất mỹ thuật. Cụ ông nhỏ bé gầy gò hơn, đầu đội khăn đóng, lọt thỏm trong chiếc áo gấm xanh có những chữ thọ vàng, mặt cụ buồn buồn một vẻ chịu đựng như người bị ép ăn trong lúc đã no. Khách suýt soa khen ảnh đẹp, nét ảnh quá sắc nét làm nổi bật những quần áo, vòng ngọc lóng lánh. Cụ Khôi cười nhăn cả mặt, hàm răng giả đã được tháo ra khiến trông cụ già hơn, nhưng lại có vẻ hiền hậu hơn người trong ảnh :
“Đẹp không cô? chỉ tội ông lão nhà tôi trông hom hem quá. Sang đây đồ ăn, thức uống thiếu gì mà vẫn không nuốt được, ăn cứ như đấm vào mồm. Hai cái hình này tôi đã nhờ người phóng lớn ra, mai sau. . .”
Cụ lại cười gượng để dấu nỗi xúc động:
“Phải không cô? Mai sau mình có chết, chúng nó có cái để trên bàn thờ, chết thì cũng phải làm sao cho đẹp mặt con cái. . .”
Lần này thì cụ Khôi không cười nữa. Lâu rồi các con cụ ở xa ít đến thăm được, chỉ hỏi han qua điện thoại. Thấy con than bận, cụ đành dấu diếm không dám than thở. Các con bận bịu quá, các cháu bận bịu quá, ngay cả hôm cụ ông ngã trong nhà tắm thì cũng chỉ có người hàng xóm tốt bụng đưa đi nhà thương. Vài hôm ông lão khỏi, khi các con hỏi thăm đến cha mẹ thì mọi việc đã bình thường.
Một chốc, cụ lại lập cập đứng dậy, loạng choạng đi, khách vội vàng đỡ cụ, vẻ ái ngại. Cụ chụp lấy chiếc gậy, xua tay rồi bảo khách:
“Không sao, cô ngồi đấy chơi để tôi đi lấy cho xem hình tôi ngày còn trẻ. Bây giờ mắt mờ đặc cả, nhưng lờ mờ cũng thấy đời thay đổi nhiều, chả có gì chống chỏi nổi với thời gian.”
Cụ vào buồng, lúc trở ra, một tay chống gậy, một tay khệ nệ ôm chiếc hộp hình chữ nhật bọc vải đỏ, khách vội chạy đến đỡ lấy cái hộp hình cho cụ. Bên trong lại mấy lớp giấy đã ngả vàng, có lẽ ít khi nào cụ sờ đến, chiếc hộp gói ghém cẩn thận như những đồ tẩm liệm ràng xung quanh một xác chết, khiến khách càng ngậm ngùi. Cụ run run mở những sợi giây cột bên ngoài hộp, đẩy hộp ảnh về phía khách:
“Đây này, cô đoán xem dạo ấy tôi bao nhiêu tuổi?”
Khách nâng chiếc ảnh lên để nhìn rõ hơn. Một giai nhân của sáu mươi năm về trước, cặp mắt biếc, đôi mày vòng cung tuyệt mỹ, bờ môi mọng, mái tóc chải lượn phía trước và thả dài ra phía sau:
“Đẹp quá, đẹp quá, rõ là một giai nhân, cháu đoán độ ấy cụ chỉ mười tám.”
Cụ Khôi cười sung sướng, mặt cụ có bao nhiêu nếp nhăn:
“Hai mươi bốn, hai đứa con rồi đấy, thế mà ra đường bao nhiêu người quay cổ lại nhìn. Ông lão nhà tôi dạo ấy đang làm công chức của chính phủ, mỗi lần lễ lạc, các ông to bà lớn ngồi đặc trên khán đài. Tôi bận con ít đi đâu, phần ông ấy lại hay ghen, cứ thấy ai khen mình đẹp mặt lại sưng lên. Nhanh thật, mấy mươi năm cuộc đời trôi nhanh như bóng câu vù qua cửa sổ, ngày trẻ tôi cứ hay ra bờ hồ nhìn nước lững lờ trôi, nước thì cứ lững lờ còn người thì rõ là bao nhiêu thay đổi. Có sống được đến chừng này tuổi, trải qua bao nhiêu dâu bể cuộc đời, mới thấy chả có gì tồn tại mãi."
Giọng cụ ngậm ngùi quá, khiến lòng khách chùng xuống nỗi thương cảm. Ánh nắng chiều hắt vào cửa sổ, bụi hoa quỳnh ở góc phòng rũ xuống mấy bông hoa héo. Thấy khách nhìn, cụ lại tiếp:
“Cô có thích xem hoa quỳnh nở không? Dạo trước mỗi lần hoa nở, hai vợ chồng tôi cứ pha một bình trà thơm, nhấm nháp tý bánh đậu xanh chờ đến khi nào hoa tàn mới đi ngủ. Bây giờ chán rồi, hoa gì chỉ nở có một khắc về đêm , sáng đã tàn, người ta bảo giai nhân cũng thế, hẩm hiu bạc phận đến thế là cùng.”
Chiều nay, chỉ là một chiều chớm thu mà chừng như gió đã se sắt luồn vào lòng người một nỗi buồn vô tận, cái buồn như len vào cây cỏ, hai mảnh đời già dường như cũng muốn héo quắt lại. Khách nghe tiếng ho húng hắng của cụ ông ở buồng trong.
“Trời đổi gió là ông ấy lại ho, thuốc uống mãi đâm lờn, nhưng không uống để cả đêm cứ khúc khắc mãi như thế chịu không nổi. Ấy đấy! Cứ thấy gió thu về lại nhớ những mùa thu Hà Nội ngày xưa độ tôi còn trẻ, chiều chiều bồng con ra chờ ông ấy đi làm về, nhìn lá me bay đến thích mắt. Nhớ quê quá cô nhỉ, cả những năm ở Sài Gòn, cứ Tết đến là trời như dịu đi, gió thổi hiu hiu, bây giờ ở đây cũng gió, mà sao lòng mình dửng dưng chẳng thấy gì cả. Từ ngày sang đây đến nay tôi nào biết Tết là gì, con cái ở xa lại đi làm, khi nào tiện chúng nó mới thăm mình được. Anh con cả phải dọn tuốt trên miền Bắc, chỗ ấy mới có việc, miền này ấm áp cho nên chúng tôi đành chịu không dám theo con. Thôi, tôi chẳng đi đâu cả, trên ấy lạnh lẽo lại không có người đồng hương, mình cứ xem như vẫn ở Việt Nam, các con ở xa có gần gũi mình đâu.”
Cụ bắt đầu kể sang chuyện khác. Nào là cái chân bị bệnh phong thấp, những ngày sang đông hành hạ cụ ghê gớm. Nào là bệnh cao mỡ trong máu, không hiểu sao lại có mỡ trong máu khi cụ suốt ngày chỉ ăn có lưng bát cơm cùng một chén súp, hay tý rau luộc với muối vừng. Nào là bệnh tiểu đường, đấy là thứ bệnh gây khốn khổ cho bao người, dư cũng không được mà thiếu cũng không xong, cái nào cũng dễ dàng lăn đùng ra. Cụ trách trời sao cứ trớ trêu, đẻ ra bao nhiêu thứ bệnh tật mà bấy nhiêu thứ cụ lãnh đủ, những lúc trẻ tuổi mong đến lúc già được thảnh thơi, nhưng cứ thảnh thơi để suốt ngày nghĩ đến bệnh tật thì thà chết phứt đi cho rảnh nợ.
Nghe cụ than, khách chỉ biết an ủi:
“Người ta như cái máy ấy cụ ạ, bao nhiêu năm phải làm việc quần quật, nay đã đến lúc rệu rã, khéo tu bổ thì cũng chỉ ì ạch chạy thế thôi, chứ bảo tốt thì không làm sao tốt được.”
Cụ gật gù:
“Cũng như cái cây mình trồng phải không cô, cứ thiếu phân, thiếu đất, thiếu nước là không lớn lên được, mà già cỗi thì phải chết, có khi chưa già cũng chết. Hàng ngày, tôi nghe Đài phát thanh cái mục “Nhịp cầu thương yêu”, thì cứ y như rằng trăm cái buồn mới có một cái vui, mà tuổi nào cũng chết, lá vàng chưa rụng lá xanh đã rụng rồi. Tiếc là tiếc những người trẻ, chứ già lão như chúng tôi trời có cho về cũng có gì mà tiếc.”
Khách có vẻ muốn cáo từ ra về, nhưng cụ hình như vẫn còn nhiều nỗi băn khoăn trong lòng:
“Này cô ạ, không hiểu một cái đám ma bây giờ tốn độ bao nhiêu , nghe nói cả chục ngàn phải không cô?”
Thì ra cụ lại lo đến chuyện hậu sự, khách cũng thường thấy có những người già nghĩ ngợi cả chuyện ma chay cho mình ngay lúc đang sống. Khách còn trẻ, làm gì đã có kinh nghiệm việc này, nhưng cứ tội nghiệp hai cụ già sống thui thủi với nhau như hai chiếc bóng, lúc nào cũng vấn vương chuyện lúc nằm xuống không ai lo. Khách lựa lời an ủi:
“Những cái ấy cháu thiết nghĩ cụ không phải lo, vì lúc mình chết rồi, phần ấy để dành cho người sống. Nhiều tiền thì bày vẽ rình rang, mời năm bảy thầy tụng kinh, năm bảy cha làm lễ đồng tế, nhưng giá trị của sự cầu nguyện thì giống nhau ở chỗ lòng thành, và cũng ở cái nghiệp của mình nữa cụ ạ. Cho nên điều cụ cần nghĩ tới lúc này, là sự hỉ xả cho thân tâm an lạc, mọi sự trên đời chỉ là phù vân, có đó rồi mất đó, cụ sẽ thấy lòng nhẹ nhõm để sống nốt quãng đời còn lại.”
Cụ chép miệng:
“Ấy đấy, tôi cũng chỉ mong có thế, nhưng những lúc chỉ có hai vợ chồng già sống còm cõi với nhau, tôi chỉ sợ lúc mình nằm xuống, không có ai. . .”
Khách muốn cười to lên để lấp đi cái lo lắng, ưu tư lấn cấn trong lòng bà cụ già tội nghiệp, nhưng tiếng cười dường như nghẹn lại không thoát ra được:
“Cụ đừng nghĩ vớ vẩn cho thêm buồn. Bằng cách này hay cách khác, mộ lớn mộ nhỏ gì thì tất cả cũng chỉ là tro bụi, đất lại trở về với đất, đấy là định luật của Trời, phải không cụ? Chẳng xem đó là trọng, thì cái gì cũng nhẹ như bông, vậy lại khỏe lòng cụ ạ.”
Nắng đã đậu lại trên bực thềm, chiều xuống mau, bụi cúc vàng trước hiên vẫn rung rinh theo cơn gió may vừa thoảng qua, làm buổi chiều như rùng mình đi theo những chiếc bóng. Cụ ông từ trong nhà, nghe có tiếng nói chuyện lào xào ngoài phòng khách, cũng lần mò ra lặng lẽ ngồi vào chiếc ghế quen thuộc của cụ ở góc phòng. Khách hỏi, cụ cười ngu ngơ không trả lời, lơ đãng ngó theo một chiếc lá khô rơi ngoài sân, nhìn cụ như cậu học trò đang tuổi mộng mơ, ngồi trong lớp học mà hồn vẫn mơ theo cánh bướm bay ngoài cửa lớp. Cụ bà bảo khách:
“Ông nhà tôi không nhận ra cô nữa đâu, lẫn rồi. Dạo năm ngoái còn tỉnh táo, nhưng lúc ngã bận nữa thì từ đấy nghễnh ngãng luôn. Thấy ai đến cũng thích ra ngồi đấy, nhưng không biết ai, và cũng chẳng hiểu gì. Bảo ăn thì ăn, bảo ngủ thì ngủ . . .”Giọng cụ chừng thổn thức hơn:
“Sống như chiếc bóng, hai chiếc bóng. . .”
Âm thanh của mấy chữ “hai chiếc bóng” như dội vào lòng khách một cung đàn bi ai, khiến bóng chiều càng thêm u uẩn, có những tiếng cười, tiếng khóc âm ỉ trong lòng, không bật ra được để vơi đi nỗi hắt hiu trong những mảnh đời khi tuổi già bóng xế. Nhớ đến những tấm hình con xinh, cháu tốt của mấy năm trước, khách bỗng thấy bùi ngùi khôn tả, chỉ muốn nói với cụ rằng:
“Cụ đừng lo. Chắc chắn là khi hai cụ nằm xuống, con cháu cụ sẽ làm đám ma thật chu đáo, có đầy đủ thân bằng quyến thuộc và mọi người quen biết.”
Nguyên Nhung
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re:
Reply #2 - 24. Oct 2009 , 07:22
 
Tặng cho những người yêu nhau Nồng Nàn...Đằm Thắm...Chân Thật...
Hôm nay có nhau...chắc gì mai còn nhau !!!!!

Nhật ký người già
Tác Giả : Miêng

Ông ơi, đi ăn cơm đi, tôi mệt, nằm một lát. Ông cứ chờ vậy trẻ nhỏ lại cười bảo già rồi mà còn mùi mẫn. Con ép, ông đừng cáu nhé, cứ nói nhỏ nhẹ bố ăn đủ rồi. Nó ép mình ăn là lo đến sức khỏe của mình, là thương mình. Cứ tưởng tượng chúng nó không màng mình no đói ra sao hay thảy vào viện dưỡng lão toàn người xa lạ thì còn buồn biết mấy hả ông.   

Lát nữa tôi giấu ít quả nho. Ông bị cấm đủ thứ tội quá, nó bảo nho có nhiều đường ông à. Mà từng tuổi này rồi, chết nay sống mai biết ngày nào, kiêng cử quá cũng khổ. Mỗi lần dấm dúi chùm nho, ông mừng như con nít thấy thương quá, muốn khóc luôn. Trong ngăn đồ lót cũng còn một ít kẹo trái cây, thèm thì ăn vài cái thôi. Giấy gói kẹo bỏ lại trong bao, chiều mai tôi đem bỏ vào thùng rác công viên. Gớm, cứ phải ăn vụng. Chúng nó biết thì la tôi chết. Mà chẳng sao, miễn là ông vui. À áo ông đang bận dính kem bánh ngọt từ chiều hôm kia, thay đi kẻo lại thưa ông tui ở bụi này. Hồi trưa nghe trẻ bàn nhau may áo, cả cho ông nữa đó. Thiệt tình, tủ nào cũng treo nghinh ngang mà cứ may hoài. Trẻ nhỏ về đông đủ vui thì có vui, mà mệt, điện thoại reo liên miên, chúng nó nhỏ to nhiều quá. Muốn nghỉ ngơi cũng chẳng yên. Nãy giờ bảo mẹ mệt, bây bớt lao xao cho mẹ nghỉ một tí, vậy mà chúng cứ tới lui ra vào coi mẹ mệt ra sao. Già cả thì nay mệt mai khỏe là chuyện thường, nói vậy mãi nó vẫn tra hỏi, lo lắng khóc nữa chứ! Thật dở hơi.

Bà nói hơi mệt nghỉ một lát rồi ăn cơm sau, mà cứ nằm mãi, tôi hiểu là bà mệt nhiều, vì nếu lười thì bà đã nói lười. Tôi không thấy đói, chẳng muốn ăn. Bữa cơm không có bà lại càng không tha thiết nữa. Chúng nó hùa nhau cằn nhằn bà ạ. Rồi chắc tội nghiệp ông già, lại dỗ dành. Tôi vẫn ngồi cạnh bà, hơi thở bà mong manh quá, nhẹ như không, đặt bàn tay gần chẳng thấy gió. Nhớ mỗi lần đi biển bà thường nhắc hít thở đi ông, hít sâu vô. Và mình cùng hít ồn ào, như thể bù lại những giờ phút giam mình trong nhà hay đã tiêu phí thời gian thở không đúng cách. Những lúc đó tôi có cảm tưởng buồng phổi nở ra, căng lên, mạnh mẽ. Bây giờ lại thấy yếu hẳn đi, như thể ai đã hút hết sinh lực mình rồi, và tôi thở khó khăn, ngắt quãng. Tôi muốn mình lại ra biển cho bà hít thở. Ờ, phải chi tôi có thể hít thở cho bà để bà bớt mệt. Tôi chưa thay áo, chẳng đứa nào để ý đến tôi bằng bà đâu. Mắt bà không xoi mói mà tinh, thấy hết. Tôi cũng không ăn vụng kẹo. Có bà thì bất cứ sự vụng trộm nào cũng vui, mình chỉ mỉm cười với nhau là điều gì cũng thành trò chơi bí mật mà ngay tình. Giờ không cầm viên kẹo từ tay bà dấm dúi thì như tôi gian lận cái gì. Tôi không thèm ngọt đâu, bà đừng lo. Tôi thèm ngồi nhìn bà im lìm…Bà ơi, nói gì đi!

Ðêm qua tôi khó ngủ ông ạ. Trằn trọc mãi. Rồi chợp mắt lại mơ thấy mình bay lên trần nhà, nhìn xuống ông ngủ mà mặt mày không thư dãn chút nào. Có lúc ông nấc cụt hay khóc ấm ức. Tôi vội vàng đáp xuống ôm chặt ông như mỗi lần một trong hai đứa mình giật mình trong đêm. Thấy ông nhăn nhó, lại sợ ôm chặt quá ông tỉnh ngủ, tôi buông ông ra, rồi tỉnh dậy. Tôi rón rén ra nhà ngoài, trẻ con nằm la liệt. Tôi đi một vòng hôn đám cháu nội ngoại đang say ngủ, đứa nào trông cũng bình an. Con TiTi ôm chú sư tử mình mua cho nó hôm sinh nhật. Ông đừng buồn, trẻ con mà, nó thích chạy chơi chớ có thích ngồi nghe mình kể chuyện đâu ông. Sách truyện đầy nhà, đêm nào trước khi ngủ bố mẹ cũng đọc cho nghe, toàn chuyện công chúa hoàng tử hoặc các nhà thám hiểm cực Bắc cực Nam, chuyện của mình thì từ thuở ở quê, nó có hiểu “tát nước ruộng” hay “nơm tôm” là gì, giải thích chúng cũng không hình dung ra được, nhất là mình kể đôi khi cũng chẳng đầu đuôi mạch lạc gì…

Tôi trở về phòng khe khẽ nằm xuống cạnh ông, hít mùi da thịt ông lười tắm mà vẫn thơm tho. Ðúng là vợ chồng quen hơi ông nhỉ. Tôi hôn nhẹ lên trán, tựa đầu lên vai và đan tay ông. Mình luôn luôn đan tay nhau khi ngủ mà. Tôi kéo áo và sửa lại chiếc gối ngay ngắn cho ông. Ông có giấc ngủ sâu, thường bảo “giấc ngủ của người ngay thật”, làm gì cũng chẳng thức. Qua ánh đèn hành lang rọi vào, tôi nhìn ông thật kỹ, từng nét. Người ta bảo nếu nhìn kỹ người thân mình sẽ không nhận ra người ấy nữa. Vậy mà tôi vẫn nhận ra ông, vì tôi thường nhìn mỗi khi ông ngủ. Không biết ông có nhìn khi tôi ngủ không, chớ càng nhìn càng thương ông ạ.. Tôi thấy rõ từng nếp nhăn, mỗi ngày một nhiều và sâu, nó như sợi thừng cột vợ chồng già mình mỗi lúc một chặt hơn. Cái đầu đó chịu đựng hết những lúc trái tính dở hơi của tôi. Nhớ thời còn trẻ mỗi lần ông ăn nói vụng về, nháy nhó ra dấu cho ông im lại cứ hỏi to lên em muốn nói gì, vậy là nháy nhó chẳng còn hiệu lực gì nữa. Tôi thường mong ông đi trước, tôi lo mọi thứ cho đầy đủ, và tôi xoay sở được. Còn ông thì vụng về. Trẻ nhỏ cứ nói bố không biết làm gì hết mà nói không chịu nghe. Nghĩ đến ngày lỡ ra tôi đi trước, còn ông một mình tội quá…

Bà à, lạ lùng nhỉ, đêm qua tôi thấy mình về quê. Làng xưa có khác đi nhiều nhưng ruộng đồng vẫn còn bao la tít tắp. Con đường nhỏ dẫn vào làng bây giờ đã tráng nhựa, rộng rãi. Chiếc cầu tre dập dềnh bắt qua sông đã thành cầu đá tự thuở nào, và nước sông thì trong veo thấy đáy. Mình vào làng, trẻ nhỏ chạy theo như rước đèn. Cả xóm rộn rã hẳn lên. Bà nói vui quá, chứng tỏ là hàng họ còn nhớ nghĩ đến mình. Qua cánh cổng gỗ đã mục sứt mẻ nhiều chỗ, cánh cổng nặng trịch chắc chắn mà hồi xưa mỗi lần mở ra đóng vào kêu vang cả xóm lặng yên, xuyên hết mảnh vườn, mình cùng hân hoan như trẻ nít chạy ngay vào hiên có cậu mợ đứng chờ. Ai cũng có vẻ tráng kiện trẻ trung. Mợ mặc áo bà ba màu kem nhạt bà mua hồi Tết năm sinh mẹ con TiTi, và cậu trong chiếc áo dài the đen nói sắp đi ăn cỗ. Tôi lại đòi đi theo mà cậu không cho, cười nhạo tôi như đám con thường trêu “bố giống con nít”. Nhưng mẹ và bà thì không nói gì, chỉ nhíu mắt lắc đầu nhè nhẹ. Tôi may mắn có hai người đàn bà thương yêu thông cảm. Một lát ba người nhìn nhau như ước gì riêng tư mà tôi ngoài cuộc, bà bảo “ tôi ở chơi với cậu mợ, ông về trước kẻo trẻ nhỏ nó lo”. Rồi cả ba đẩy tôi ra cổng. Tôi đi, ngoái lại thấy bà nhìn theo buồn thiu, bà nhỏ nhắn lọt thõm giữa cậu mợ. Tự nhiên tôi khóc, thiếu bà dù chỉ đoạn đường rất ngắn cũng là diệu vợi…Tôi la to lè lẹ mai mốt về nghe bà. Rồi tôi giật mình thức dậy, dưới bóng đèn mờ bà cựa mình rên khe khẽ, tôi kéo chăn ngay ngắn cho bà. Trẻ nhỏ bàn ra tán vào cái gì, vẻ bí mật như chuyện quốc gia đại sự. Tôi hỏi có chuyện gì không, đứa nào cũng lắc đầu nói không. Bà chỉ bịnh nằm đó mà tôi đã thấy không còn phương hướng nữa.. Hồi chiều mấy đứa cháu đã nghịch che khuôn mặt thanh tú của bà bằng chiếc khăn thêu trắng toát…Bà ơi!

Ông ơi tôi thấy rồi. Té ra… té ra… Coi chừng, khóc thì trẻ nhỏ nó trêu cho. Nếu hồi giờ mùa đông, ông thường vào giuờng nằm trước cho ấm chỗ rồi mới để tôi vào, thì bây giờ tôi sẽ sưởi trước chăn đệm cho ông, ông nhé. Trời đất ơi. Trời đất ơi. Thương ông quá…

Bà ạ, tôi đã bảo cho bố ngồi bên mẹ lâu lâu, nhưng chúng nó kéo tay tôi ra khỏi tay bà. Người ta đến đặt bà nằm vào chiếc giường lạ hoắc, tôi hỏi bây đưa mẹ đi bịnh viện à. Thấy chưa, rõ ràng bà bịnh nhiều mà. Tại bà cứ nói để bà gánh hết bịnh hoạn của tôi luôn. Giường chật quá, tôi cố chen vào mà nào được yên lựa thế nằm cho vừa đâu, chúng nó kéo ra ngay, cho uống thuốc gì ngủ li bì không mộng mị. Khi thức dậy, nhà rộn ràng kẻ ra người vào khiến tôi chóng mặt. Chúng nó tắm táp cho tôi như con nít, bắt uống sữa và ăn. Tôi nghẹn, không nuốt được, bảo gọi mẹ xuống ăn với bố. Bà không xuống, nói đã ăn rồi. Rồi chúng nó bận áo mới cho tôi. Ai cũng mặc áo mới. Tất cả (chắc vậy) lên xe. Tôi hỏi mẹ đâu, chúng bảo mẹ ngồi xe khác rộng hơn. Xe ngoằn ngoèo, ngoằn ngoèo đi qua nhiều con đường lạ hoắc. Cuối cùng dừng lại. Khu vườn mênh mông với lối đi ngang dọc rộng rãi toàn cổ thụ như công viên, đẹp bà nhỉ. Chắc làm pic-nic. Xuống xe. Coi chừng trợt chân nghe bà. Con cháu mình chu đáo đem sẵn ghế cho tôi ngồi.

Tôi hỏi mẹ đâu. Mẹ đi toa lét. Lõ mõ thấy nhiều người nói gì chẳng nghe rõ, thiên hạ có vẻ nghiêm túc quá. Nắng man mác. Hoa nở tưng bừng. Vậy mà tôi mệt. Bà đi toa lét lâu nhỉ…Rồi chúng đỡ tôi đứng lên, chỉ ba bốn bước mà xa tít tắp. Trước mắt là cái hố. Tôi hỏi cái hố gì đó. Chúng bảo không có gì, bố ném nắm đất này xuống đó đi. Tôi hỏi chi vậy, chúng hỏi lại bố nhớ hồi xưa dạy chúng con hạt đất quê hương là quý lắm, phải đặt nó vào nơi nào mình tha thiết nhất, đúng không bố?...Ờ đúng.- Ðây nữa, bố thảy cành hoa này xuống hố đi. – Chi vậy con?...Hồi xưa hái hoa cho mẹ, bố thường bảo tặng nhau một cành hoa vẫn hơn nói lời nặng nhẹ, đúng không?...Ờ, mà mẹ đâu?...Mẹ chờ bố ở nhà. - Tội nghiệp, đừng để mẹ chờ lâu, mau mau cho bố về với mẹ đi con…

Paris-NT, Juillet 2009


[font=Times New Roman][/font][size=12][/size]
Back to top
« Last Edit: 24. Oct 2009 , 07:23 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #3 - 01. Nov 2009 , 19:03
 

BÀ  NỘI.
                 Nguyễn thị Thanh Dương
  Ông Nội đón cu Tí đi học về, nó ngồi vào chiếc ghế sắt kê gần cửa sổ như thường lệ và đong đưa hai chân chờ đợi người cởi giầy. Bà Nội ngồi xuống nhẹ nhàng tháo cho cháu từng chiếc giầy, xong cu Tí nhảy xuống khỏi ghế, ôm lấy cổ bà, để mặc cho bà âu yếm hôn lên khuôn mặt bầu bĩnh và mái tóc thơm tho của nó. Dường như nó biết đó là bổn phận phải trả công cho bà đã hầu hạ, chăm sóc nó, là làm cho bà hài lòng sung sướng.
Bà vuốt ve bàn tay xinh của cu Tí và dịu dàng hỏi:
- Hôm nay cu Tí học vui không? Có đứa nào đánh cháu bà không?
Cu Tí tự hào khoe:
-  Không có đứa nào đánh cháu, mà cháu còn đánh thằng kia đó bà nội.
-  Ấy chết! Sao cháu lại đánh bạn? lần sau không được làm thế nữa, có gì thì mách thầy giáo, nghe chưa?
Cu Tí ngoan ngoãn gật đầu, rồi nó chạy biến vào phòng chơi game.
Bà Nội hỏi với theo:
- Cu Tí có đói không? Bà lấy cơm cho mà ăn…
- Không, không, cháu no rồi. Nó trả lời vội vàng để không bị quấy rầy khi chơi game.
Ông lên tiếng khiển trách nhẹ nhàng:
- Nó ăn ở trường mà bà lúc nào cũng lo nó đói.
Bà bèn chứng minh:
-  Trẻ con có khi mải chơi quên ăn, về nhà bụng đói là thường. Hôm nọ nó về nhà, ăn một hơi hết cả bát cơm, ông không nhớ sao? À, hôm nay tôi có làm món cá bống trứng kho tiêu, chiều mẹ cu Tí đến, cho mẹ nó một hộp mang về nhà.
-  Bà hết lo cho con lại lo cho mẹ, chẳng bù trước kia bà ghét nó đến chừng nào!
Bà chạnh lòng, ngồi im trên chiếc ghế sắt mà cu Tí vừa ngồi, và nhìn mênh mông nắng ngoài khung cửa, cũng vẫn ngôi nhà này, khung cửa sổ này, và nắng, và gió này có gì thay đổi? Vậy mà đã bao đổi thay của những người sống trong ngôi nhà.
Cách đây 15 năm hai vợ chồng bà cùng hai đứa con, đặt chân đến Mỹ, như bao nhiêu gia đình Việt Nam khác, ông bà đã đi làm chăm chỉ, dù công việc nặng nhọc, để kiếm tiền sinh sống và lo cho con ăn học. Họ kỳ vọng vào hai con, nhất là đứa con trai, ông bà mong ước chúng sẽ học lên Đại Học, có nghề nghiệp vững vàng, để ông bà được hãnh diện như người ta. Vậy mà đang học lớp 12 thì đùng một cái thằng con trai bỏ học, đòi lấy vợ, là một đứa bạn gái cùng lớp. Bà nghe như sét đánh ngang đầu, hết la mắng đến năn nỉ, và đe doạ một tương lai khổ cực khó khăn , vì cả hai cùng trẻ, học hành không đến nơi đến chốn, làm sao tạo dựng được một gia đình ? Nhưng nó khăng khăng giữ vững ý định, hai đứa đang yêu nhau, không thể sống thiếu nhau, hơn nữa cô gái kia đã có thai. Hôm thằng con dẫn người yêu về ra mắt bố mẹ chồng tương lai, bà nhìn cô gái bằng ánh mắt không thiện cảm, nó là nguyên nhân làm con trai bà mê đắm, bỏ dở học hành, tương lai mù mịt và làm tan nát ước mơ của gia đình bà. Nhưng vì thương con, bà vẫn phải chấp nhận theo yêu sách của nó. Đám cưới xong, chúng ở chung trong nhà bà, cái hạnh phúc ngây thơ ấy kéo dài cho tới khi thằng cu Tí chào đời, thì hai vợ chồng trẻ mới bắt đầu dối diện với thực tế.
Hai vợ chồng cùng đi làm, đủ thứ việc linh tinh theo khả năng của chúng, như ngồi trả lời điện thoại ở văn phòng Bác sĩ, làm ở nhà hàng hay chợ búa v..v..
Cô con dâu tuổi còn trẻ, còn mê ăn mê ngủ, lại bận đi làm, nên giao phó thằng cu Tí cho bà Nội. Bà từng là một người mẹ, có bao nhiêu kinh nghiệm, bao tình yêu thương bà đem ra lo cho cháu, dù nó vào nhà bà không đúng lúc.
Cu Tí ngủ với bà, mỗi đêm bà thức dậy mấy lần pha sữa cho nó bú, ban ngày bà chơi với cháu, tắm rửa cho cháu, hai bà cháu mà như hai mẹ con, bà thức khuya thấp thỏm lo âu khi cu Tí nóng sốt, bà quặn lòng khi cu Tí bị ho, bà xót xa khi cu Tí tập những bước đi đầu tiên, ngã sưng u cả trán.
Cu Tí giống bố như khuôn đúc, bà yêu nó như ngày xưa đã yêu thằng con trai. Nỗi thất vọng, buồn phiền vì con cũng nguôi ngoai theo ngày tháng, bà an phận, lo vun đắp cái hạnh phúc hiện tại, vậy mà hai vợ chồng trẻ cũng chẳng để bà yên, chúng thường xuyên cãi vã nhau, đánh nhau và đôi lần đòi li dị. Tình yêu tuổi trẻ nông nỗi như thế đấy, trời cũng không thể cản họ đến với nhau, nhưng rồi chóng chán, chóng vỡ mộng. Bà đã bao lần khuyên giải cả con trai lẫn con dâu, bà sợ cuộc sống gia đình tan vỡ thì tội nghiệp  thằng cu Tí bé bỏng. Nhưng họ chưa kịp chia lìa nhau thì định mệnh đã ra tay, một hôm trên đường lái xe về nhà đã xảy ra tai nạn, con trai bà qua đời, cô con dâu bị thương nhẹ, sống sót. Đứa con trai duy nhất của bà đã chết, bà tưởng như không thể sống nổi nếu không có thằng cu Tí, một hình ảnh của con trai bà, một dòng máu của gia đình bà. Bà mất con, cuTí mất cha, càng đau đớn bà càng thương yêu đứa cháu nội côi cút. Từ khi chồng chết, con dâu bà không ở chung nữa, dù cửa nhà bà vẫn rộng mở và hai ông bà vẫn rộng cả tấm lòng, muốn con dâu và cháu cứ ở chung như trước. Cũng may, con dâu thuê một căn phòng Apartment gần ngay đó, để tiện gởi cu Tí cho ông bà chăm sóc. Tội nghiệp đứa con dâu, mới 23 tuổi đầu, kiến thức, kinh nghiệm sống không là bao, làm sao nó có thể tạo dựng một cuộc sống với đứa con còn thơ dại?, nên trước mắt rất cần sự giúp đỡ của cha mẹ chồng như từ lúc cô bước chân vào làm dâu nhà này. Cô không muốn quay trở về nhà mình, mẹ cô đã chết từ lâu, cô sống với cha và bà mẹ kế chẳng vui vẻ gì.
Thế là ông bà có niềm vui là Cu Tí. Đứa con gái lớn của ông bà đã học xong đại học và lấy chồng, hiện sống ở tiểu bang khác. Năm nay cu Tí 6 tuổi và học lớp Một, ông bà đưa đón cháu đi học.Chiều, mẹ cu Tí - gìơ giấc mẹ nó cũng chẳng nhất định, khi sớm khi muộn - lại sang đón con về. Con dâu bà có đời sống riêng của nó, đi sớm về muộn là quyền của nó, bà đâu dám hỏi, miễn sao nó để yên cho cu Tí sống gần ông bà như thế này mãi mãi. Những lúc ngồi rảnh bà tính chuyện tương lai xa tít tắp của cu Tí cho ông nghe, cu Tí sẽ lớn lên trong ngôi nhà này, sẽ học trường Đại học ở thành phố này, những đồng tiền dành dụm ít ỏi của ông bà sẽ dành hết để lo cho cu Tí, nó sẽ đi vào con đường mà ngày xưa ông bà ước vọng dở dang nơi bố nó.
Ông thực tế hơn, chỉ cười thầm giấc mộng xa vời của bà, với ông, sống ngày nào biết ngày đó.
Tháng trước, con gái bà sinh đứa con đầu lòng, bà dự định đi California một tháng để thăm con, thăm cháu, bà đứt ruột khi phải rời xa cu Tí, bà dặn dò ông đủ thứ và tỉ mỉ từng chút một để ông thay bà trông cháu trong thời gian bà vắng mặt. Buổi chiều, trước ngày đi, bà đã ôm cháu vào lòng và thủ thỉ với nó: Mai bà đi California thăm bác của cu Tí có baby, cháu ở nhà với ông nội và với mẹ, ngoan nhé, một tháng sau bà lại về với cháu.
Làm như bà “xin phép” cu Tí vậy, thằng bé nghe bác nó có baby nên thích chí gật đầu và dặn dò bà đi chỉ một tháng thôi nhé, nhưng thật ra trong đầu óc ngây thơ của đứa bé 6 tuổi thì có hiểu một tháng là 30 ngày đâu. Bà mới ở California được một tuần lễ, ông đã gọi điện thoại kể cu Tí nhớ bà, gọi bà về, rồi ông đưa phone cho cu Tí, nó bật khóc nức nở trong phone : “ Bà ơi, cu Tí nhớ bà lắm, bà về đi…”
Tiếng khóc của cu Tí đã làm bà cảm động khóc theo, và không đành lòng ở lại thêm, bà thương con gái và cháu ngoại, nhưng họ còn có chồng, có cha ở bên cạnh, có một gia đình đầy đủ, họ không cần đến bà như cu Tí. Thế là hôm sau bà lên máy bay trở về nhà, mặc cho cô con gái cằn nhằn, khó chịu.
Bây giờ bà đang ngồi đây, nắng chiều đã dịu nhưng hãy còn sớm lắm, cu Tí còn đang mải chơi game nên chưa chịu đi tắm rửa thì mẹ nó đã về tới. Xưa nay giờ giấc cô bất thường, nhưng bà vẫn ngạc nhiên:  Hôm nay con về sớm thế? Cô ngồi xuống ghế, đối diện mẹ chồng và im lặng. Bà dịu dàng bảo con dâu:  Chốc con mang hộp cá bống trứng kho tiêu về mà ăn, mẹ kho khô đúng ý con đấy. Nhưng cô vẫn không có vẻ quan tâm đến món ăn mà cô yêu thích, mãi cô mới lên tiếng: Ngày mai cu Tí và con sẽ rời khỏi nơi đây!
Bà sững sờ nhìn con dâu xem nó nói đùa hay thật mà ghê gớm thế, cái điều bà không bao giờ dám nghĩ đến Giọng bà run run:  Tại sao con lại đi?... Và tha thiết:  Con hãy ở lại đây, mẹ sẽ trông thằng cu Tí cho con suốt đời, tới khi nào nó lớn thì thôi.
Cô con dâu ngại ngùng đáp: Con phải đi tiểu bang khác, hơn một năm qua, kể từ ngày cha nó mất, cu Tí đã ở bên cạnh ông bà Nội thế là đủ rồi.
Mặc cho gương mặt bà càng lúc càng thẫn thờ, cô nói tiếp những điều phải nói: Con lập gia đình khác, anh ấy chấp nhận nuôi cu Tí và xem nó như con. Mẹ cứ tin đi, cu Tí sẽ sống sung sướng, anh ấy làm nhiều tiền và thương yêu con.
Dường như không muốn nhìn bà mẹ chồng đang ngồi khóc, gương mặt bà ràn rụa nước mắt, nói xong cô đi vội vào trong phòng với cu Tí. Nửa tiếng sau, chẳng biết cô đã nói gì với con, cu Tí chạy ra hớn hở  khoe:
-     Ông nội ơi, bà nội ơi, cu Tí sắp đi xa rồi, cu Tí sẽ có Ba mới, có nhà đẹp và thật nhiều đồ chơi. Nó khựng lại, nhìn bà nội: Sao bà Nội khóc? Cu Tí đi một tháng rồi cu Tí về với bà nội mà! Nó chợt nhớ lần bà nội chia tay nó đi California và hẹn một tháng sẽ về, trong lòng cu Tí cũng nghĩ đơn giản thế, nó sẽ trở về như bà nội đã trở về với nó.
Bà ôm chặt cu Tí vào lòng, đau đớn như vừa mất thêm đứa con thứ hai. Hôm bà đi California , chia tay cháu, bà buồn biết bao nhiêu, thì cu Tí nói chia tay bà hồn nhiên và sung sướng bấy nhiêu. Nó đâu hiểu rằng chuyến đi của nó không hẹn ngày trở lại.
Ông nội đã sắp xếp tất cả quần áo và đồ dùng của cu Tí đưa cho mẹ nó, cô chào cha mẹ chồng và dắt cu Tí ra khỏi cửa.
Bà nhìn theo, bên ngoài trời vẫn còn nắng mà bỗng dưng tối sầm trước mặt bà.  Ngày hôm sau, căn nhà chỉ còn hai ông bà trống vắng mênh mông, tới giờ buổi chiều đón cháu như thường lệ, ông bà ngồi nhìn nhau, không nói mà chắc cùng đau lòng như nhau!
Đáng lẽ giờ này ông đang đứng trước cổng trường đợi cu Tí tung tăng chạy ra và đưa tay ông nắm dắt về, có khi ông xách cái túi cặp cho cháu “đỡ mệt”.
Đáng lẽ giờ này cu Tí đang ngồi chễm chệ trên cái ghế sắt, cạnh cửa sổ, đung đưa hai chân, chờ bà nội cởi từng chiếc giầy. Đáng lẽ giờ này cu Tí đang ăn cơm, đang uống sữa.  Đáng lẽ giờ này cu Tí đang… Bao nhiêu hình ảnh thằng cu Tí trong ngôi nhà này đã  không còn nữa.
Bà bất chợt nhìn thấy một thằng lính nhỏ bằng hai ngón tay, món đồ chơi bằng nhựa mà cu Tí yêu thích còn sót lại trong gầm bàn, bà cúi xuống nhặt lên và không sao cầm được nước mắt, đây là món đồ chơi của nó từ năm lên 4 tuổi cho đến giờ, cu Tí đã từng khư khư cầm trong tay, từng ấp ủ trong túi áo, túi quần, vì sợ mất. Mỗi lần nó để lạc chỗ, không tìm thấy là khóc, chính bà phải đi tìm kiếm từng gầm giường, góc tủ, lấy ra bằng được thằng lính nhựa để lòng bà cũng vui sướng thảnh thơi khi nhìn cu Tí mỉm cười.
Ông đòi lại món đồ chơi để vứt đi cho bà bớt mủi lòng, nhưng bà giữ lại, để trong một cái giỏ, cẩn thận cất vào closet. Biết đâu một ngày nào đó cu Tí sẽ trở về?
Hai tuần sau, cô con dâu gọi phone cho bà như đã hứa, cô nói mọi việc đã ổn định vào nề nếp, cu Tí đã đi học một ngôi trường gần nhà, cô không đi làm, chỉ ở nhà trông con.
Cô đưa phone cho cu Tí nói chuyện với ông bà nội, nó chỉ nói vài câu rồi thôi vì đang mải chơi game, mặc cho bà nghẹn ngào hỏi “Cu Tí ơi, cháu có nhớ bà không? Bà nhớ cu Tí lắm…” .Trẻ con chưa biết bạc bẽo, chúng ngây thơ và chóng quên . Vài ngày sau đó, bà gọi phone mong gặp cu Tí , dù chỉ để nghe nó nói vài câu ngắn ngủi , nhưng lúc thì cô con dâu trả lời lấy lệ và nhạt nhẽo, lúc thì gặp người chồng Mỹ của cô, ông ta có vẻ không hài lòng. Thế là bà ngại ngùng không dám làm phiền họ nữa, số phone ấy bà thuộc lòng, nhưng đành phải quên đi.
Cô con gái ở California một mực khuyên ông bà bán nhà về ở gần cô, nhưng bà không thể làm điều ấy.
Bà vẫn muốn ở lại đây, nơi còn ghi dấu những hình ảnh kỷ niệm của thằng con trai xấu số, nơi đứa cháu nội được sinh ra và bà đã nuôi nấng suốt 6 năm trời.
Bà vẫn muốn ở lại đây, để hi vọng, để đợi chờ mai này cu Tí trở về, nó sẽ ở ngôi nhà này, đây là gia tài của ông bà dành cho nó, rồi nó sẽ lớn lên, học đại học tại ngôi trường trong thành phố này.
Bà vẫn muốn ở lại đây, là cây cổ thụ già, để cu Tí là chiếc lá sẽ rụng về cội nguồn của nó

Nguyễn thị Thanh Dương                        
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat TÌNH NỒNG PARIS
Reply #4 - 02. Nov 2009 , 05:09
 
TÌNH NỒNG PARIS

                                       Tâm cảm Nguyễn Phan Ngọc An

 

Thời gian qua nhanh quá, mới đó mà đã hai tuần tôi rời xa kinh đô ánh sáng Paris, trở về Cali, trở về với cuộc sống thường nhật, chẳng còn đủ hấp dẫn với những người không còn trẻ nữa như tôi … Mùa Thu đã thực sự về với nhân loại, lá vàng rơi tung khắp ngã đường, tôi co ro bước từng bước một với khí trời lạnh buốt chiều nay, những khuôn mặt của khung trời ánh sáng Paris như ẩn hiện quanh tôi … tôi dừng lại bên ghế đá công viên và lấy giấy bút ra ghi vội vàng từng nhân vật vừa tiềm tàng trong tim óc của mình với cõi lòng lâng lâng khó tả …

 

Ðây là lần thứ hai tôi đến Paris, thủ đô nước Pháp, nơi được mệnh danh là kinh đô ánh sáng của thế giới – Ðoàn chúng tôi đi Pháp tham dự ngày Văn Hoá Thu Tao Ngộ gồm có 16 người : Họa sĩ Vũ Hối, Nguyễn thị Ngọc Dung, Phong Thu từ Virginia, Duy An Ðông, Tôn nữ Mặc Giao, Nguyễn Phan Ngọc An từ San Jose, Anh chị Phan Văn Thành - Tiểu Thu từ Canada, Anh chị Ðoàn Phú Lạc- Chu Kim Oanh từ Arizona, Lưu Hồng Phúc, anh Thuận từ Dallas, Anh Nguyễn Văn Nhiệm, Vũ Nam và anh chị Trúc Giang đến từ Ðức Quốc. Chị Dư thị Diễm Buồn là người phụ trách thực hiện cuốn Món Ăn Theo Bước Di Tản lại vắng mặt vì hoàn cảnh gia đình vào giờ chót, thiếu vắng chị chúng tôi rất buồn trong lòng, đã có vài người lên tiếng trách móc chị nhưng cá nhân tôi thì rất thông cảm cho sự việc xảy ra bất ngờ cho gia đình chị…

Ngồi yên lặng trên phi cơ để đầu óc tôi nhớ lại những kỷ niệm xa xưa đã trôi qua 7 năm rồi, lòng hồi hộp biết bao khi nghĩ tới ngày được nhìn lại thành phố hoa lệ nhất thế giới, gặp lại anh Ðỗ Bình, chị Thúy Hằng, anh Lê Mộng Nguyên, anh Nguyễn Thùy, anh Trọng Lễ, anh Hoài Việt, anh Huỳnh Tâm, anh Từ Trì, anh Quyện Tâm và tất cả các anh chị trong Ban Tổ Chức  mà tôi chưa được quen biết như anh chị Võ Hùng Anh, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu, N/S Phạm Ðình Liên và phu nhân Minh Cầm, B/S Nguyễn Bá Hậu, nhà văn nhà báo Tô Vũ, anh Trần Ðại Sỹ, anh chị Nguyễn Thanh …nhưng phải nói là mong nhất được gặp lại anh Hồ Trường An vì sau khi ra mắt cuốn Quê Nam Một Cõi tại miền Bắc Cali thành công tốt đẹp, anh trở về Pháp và bị stroke nằm một chỗ gần hai năm nay – Tôi còn nhớ năm 2002 tôi đến Paris với một phái đoàn hội thơ đông đảo do nhà thơ Lê Quang Sinh tổ chức thực hiện chuyến đi với 48 hội viên của hội – BTC là nhà thơ Hoài Việt, nhà văn Từ Nguyên, nhà thơ Quynệ Tâm, nhà văn Mạnh Bích, nhà văn Từ Trì và phu nhân Từ Dung, MC là phu nhân anh Mạnh Bích – Quý anh chị đã tổ chức thành công tốt đẹp với số quan khách đông đảo, nhưng vài năm sau thì anh Mạnh Bích đã từ giã trần gian, đến bây giờ nhắc đến anh Mạnh Bích lòng tôi thương tiếc vô cùng, một người chân tình đáng quý đã cùng rất nhiều anh chị khác hướng dẫn đoàn 48 người chúng tôi tham quan khắp nơi trên nước Pháp…Ngày xa xưa ấy không bao giờ phai nhạt trong tôi, nhà thơ Ðỗ Bình đã vội vàng và cấp tốc tổ chức cho tôi một buổi ra mắt sách tại quán cà phê Chiều Tím vì hội thơ chỉ ở lại Paris một tuần rồi phải đi các nước mà hội thơ phải liên tục ra mắt, họp mặt 3 ngày liền tại Paris - Nhắc đến lòng tôi cảm động vô cùng, tấm lòng và sự nhiệt tình của nhà thơ Ðỗ Bình không ai mà không biết, tôi là người đầy may mắn nên đã có cơ duyên được quen biết anh vì chung trong hội thơ tài tử - Hôm ấy tôi vẫn còn nhớ số người tham dự dù cấp bách tổ chức vẫn hơn 100 quan khách, Giáo Sư Nguyễn thị Hoàng giới thiệu tác phẩm, nữ nghệ sĩ Bích Thuận diễn ngâm và hát – Ca sĩ Thúy Hằng và một số ca nghệ sĩ Paris cùng trình diễn tân nhạc – Nhà văn Trọng Lễ độc tấu Lục Huyền Cầm, nữ giáo sư Quỳnh Hạnh Đàn Tranh – Anh Ðỗ Bình vừa là MC vừa giới thiệu tác giả…Chiều ấy đến nay vẫn không hề quên trong lòng tôi, xin mượn bài viết này gửi lời tri ân đến quý anh chị.   

Máy bay chúng tôi đáp lại Montréal Canada và sau hai giờ thì transfer qua chiếc phi cơ đến Pháp – Vui làm sao khi gặp lại các anh chị đã chờ sẵn tại phi trường, ngoài các anh đã thân quen Ðỗ Bình, Nguyễn Thùy còn có các anh Phạm Ðình Liên và phu nhân Minh Cầm, anh Minh Nhật, anh NguyễnThanh và phu nhân Mây Thu, chị Mai Ling, anh Cang là người rất nhiệt tình xách phụ những valise và đưa chúng tôi lên hai xe về khách sạn - Tại đây chúng tôi gặp thêm nhiều anh chị khác như Giáo Sư Nguyễn Ngọc Chân, anh chị Võ Hùng Anh, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu, nhà văn Phạm Văn Kiểm, anh chị Hải Yến, anh chị Thy Như, chị Vũ Lan Phương đã từng là chủ nhà hàng Ðào Viên lâu năm tại Paris nên chị quen thân rất nhiều thi văn hữu.

Ðoàn chúng tôi được BTC phân phối thành 5 nhóm – Các anh chị của miền kinh đô ánh sáng quả rất nhiệt tâm và tình cảm chứa chan - Một nhóm theo sự hướng dẫn tham quan của anh Chân, anh Minh Nhật, một nhóm theo anh chị Nguyễn Thanh và chị Mây Thu, một nhóm theo sự hướng dẫn của anh chị Hải Yến, nhóm chúng tôi theo chị Ngành, chị Lan Phương, chị Mai Ling và chị Thy Như đi lên thành phố Troyes thăm nhà văn Hồ Trường An, anh Ðỗ Bình hướng dẫn họa sĩ Vũ Hối và nhà văn Nguyễn Thùy đi xem các bảo tàng hội họa cách Paris hàng trăm cây số - Chuyến đi Troyes gồm 2 xe Van, mỗi xe 7 chổ ngồi - Ðường đi xa thẳm có đến hơn 200 cây số nhưng trong lòng ai cũng vui vì sắp gặp nhà văn tên tuổi mà con tạo sắp bày tai họa đến bất ngờ cho anh – Văn miền Nam của anh Hồ Trường An đã lừng lẫy trong giới độc giả yêu văn chương hàng mấy chục năm qua, nói đến anh là nói đến văn phong chữ nghĩa người miền Nam, tác phẩm của anh đã xuất bản có đến trên 60 cuốn, một gia tài đồ sộ, một sự nghiệp văn chương vào hàng phải nể phục.

Chúng tôi đến nơi nhà văn Hồ Trường An cư ngụ, một người Pháp tên Bernard ra tận ngoài chổ xe đậu đón chúng tôi, anh hiền lành và vui vẻ đưa chúng tôi lên lầu 2 gặp anh An - Hơn hai năm mới gặp lại, trông anh An hốc hác gầy ốm hơn xưa, ngồi trên xe lăn đôi mắt nhìn chúng tôi rưng rưng cảm động, một tay anh còn nhúc nhích cử động, tay kia thì băng kín và bất động, một chân cũng bất động như tay và chân còn lại cũng chỉ xê dịch miễn cưỡng mà thôi… Ðau lòng thay cho người anh thân thương, mới hôm nào tại San Jose oai phong lẫm lẫm, ai ai cũng trầm trồ khen anh đẹp trai tráng kiện và chen nhau tới chụp hình với anh - Ðịnh mệnh quái ác, không biết thời gian có trả lại cho anh những ân sũng một thời đã qua, trả lại cho anh nét thanh tú hoàn hảo nữa không hay phải chịu tật nguyền suốt kiếp – Ôi, nghĩ đến điều này lòng tôi chùng hẳn xuống tưởng như cơn bão táp cuồng phong đang trút xuống đầu nhân gian thảm khốc !

Chị Ngành chu đáo bày biện 2 bữa ăn trưa và chiều cho nhóm chúng tôi – Xin thành thật cảm ơn sự nhiệt tình của chị khi biết chị ở khá xa nơi này - Ði tham quan vài chổ trong thành phố Troyes, anh An vì vui cố gắng cùng đi, anh Bernard phải bế anh An lên xe cùng chiếc xe lăn, chúng tôi nhìn thấy cảnh ấy lòng bùi ngùi khôn tả, chào từ giã ra về trong nghẹn ngào rơi ngấn lệ.

Trưa hôm sau, chúng tôi gồm có anh chị Ðỗ Bình, họa sĩ Vũ Hối, nhà văn Nguyễn Thùy, nhà văn nữ Nguyễn thị Ngọc Dung và tôi được Ông bà Giáo Sư Nguyễn Ngọc Minh và phu nhân Ðỗ Quyên mời tham dự Party tại tư gia - Một ngôi nhà trên tầng 4 nằm trong khu biệt thự sang trọng, chúng tôi được chủ gia tiếp đón nồng hậu, quan khách gồm những vị trí thức và trưởng giả quí tộc, những vị phu nhân một thời vàng son trước 1975 - Ðặc biệt bà chủ nhà là một ca sĩ trình bày các bản nhạc Opéra lừng danh, tiếng hát cất lên cao vút mà không cần dùng micro, tiếng vỗ tay nồng nhiệt từng chập dành cho nữ ca sĩ Ðỗ Quyên – Nhóm chúng tôi được xem như khách quý và được trang trọng mời lên giới thiệu cùng thân hữu buổi họp mặt - Chị Ngọc Dung hát, tôi ngâm thơ, tiếng vỗ tay tán thưởng khiến chị Dung bảo thầm vào tai tôi “ vẻ vang dân Việt” khiến cả hai cùng cười xòa - Chị Vân Khanh người bạn học chung trường chung lớp với chị Ngọc Dung thời Trưng Vương áo trắng, hơn 50 năm gặp lại ôm chầm lấy nhau mừng vui vô kể - Anh chị Nguyễn Thanh – Mây Thu từ sáng sớm đã lái chiếc xe hơi nhỏ đến Hotel đón tôi và chị Ngọc Dung đến party, chủ nhà mời nhưng anh chị ngại không vào rồi không rõ anh chị đi đâu vào ngày đầu thu lạnh giá, gió thổi ào ào, anh chị là một cặp uyên ương thật đẹp đôi và thật hạnh phúc -  Ðến 4 giờ chiều anh chị trở lại đón chúng tôi khi tiệc chưa tàn, cái tình cảm thiết tha của anh chị NA không thể nào quên được. Chúng tôi chào từ giã mọi người trong khi tiếng ca hát ngâm nga vẫn còn đang vang vọng trong căn nhà ấm cúng – Chúng tôi hẹn gặp lại ông bà chủ gia và quan khách vào trưa ngày 4/10/09 là ngày chính cho buổi Văn Hóa Thu Tao Ngộ do nhà thơ Ðỗ Bình cùng quý anh chị tổ chức.

Ðường phố Paris chật và thường bị kẹt xe, hai chiếc xe hơi của chúng tôi bị kẹt cứng trên đường đến tham quan nhà thờ Sacre’- Coeur - Chị Thúy Hằng chở anh Ðỗ Bình, anh Vũ Hối, anh Nguyễn Thùy – Anh Thanh chở 3 chúng tôi - người dân Paris có cách sống không giống dân Mỹ, mà cách sống lại giống dân Việt Nam, họ thường đi bộ đông đúc ngoài đường, ban đêm tấp nập trong các quán cà phê, quán ăn đến khuya vẫn chưa tàn, khiến tôi liên tưởng đến quê hương và thấy lòng nao nao một niềm thương nhớ quê cha đất tổ, người dân Tây nơi đây họ sống rất nhàn hạ thoải mái thì giờ tuy rằng vật giá nơi đây rất đắt đỏ, tôi nhớ mãi đêm đầu tiên chị Thy Như dẫn chúng tôi đi bộ trên đường phố Paris về đêm, đi mãi đi mãi thật xa gặp các người khách nghệ sĩ Pháp chúng tôi cùng nhập vào ca hát líu lo giữa lộ về khuya, vui thật là vui … Thế rồi tất cả 9 người cùng mỏi chân quá, bảo chị Thy Như cho trở về thì mới hay không thể nào… vì quá xa đành dẫn nhau đi thêm một quảng nữa để đển trạm xe bus – Chân cẳng rã rời, gặp được xe bus trờ đến cả bọn mừng như bắt được vàng vội vã lên xe và xe chạy mãi vẫn chưa đến Hotel, nếu đi bộ trở về chắc là chết sướng hơn phải không đoàn tham quan đi bộ của chúng ta ??? Ở đây không có xe hơi tầm cỡ lớn và dài vì parking rất chật, theo cách nói của người dân bên Pháp thì xe hơi nào muốn vào Parking đậu đều phải tông đằng trước rồi tông đằng sau ầm ầm mới vào được, xe nào cũng mang dấu tích đầu và đuôi xe bởi thật sự khi chúng tôi vào chỗ đậu gian nan vô cùng, vào đã khó mà khi ra càng khó hơn, đành phải đụng cộp cộp vào đầu đuôi các xe khác thôi – Mà cũng lạ, chẳng có ai chạy ra complain hoặc cảnh sát đến phạt gì cả - Tất cả tự nhiên như chẳng có gì xảy ra trong khi chúng tôi ngồi trên xe run cầm cập bởi xứ Mỹ mà như thế là bị gọi Police làm report ngay để lãnh phạt mấy trăm đô rồi đấy !

Chiều hôm sau xe bus 50 chỗ ngồi đến đón chúng tôi tại khách sạn, một Tour đi chơi dòng sông Seine và ăn nhà hàng Ý quả tình thật vui và hấp dẫn - Chiếc thuyền chở nhóm Ban Tổ Chức và chúng tôi được ưu tiên ngồi phía trước, khách trên tàu ra ngồi phía sau  – Sông nước nhịp nhàng khiến lòng người lắng dịu, êm ả vô tư… Ði ngang chỗ công nương Diana tử nạn, tôi thấy ngậm ngùi thương xót một công nương đầy lòng từ ái sớm bạc phần – Ði tới đoạn nào là nhà biên khảo Lê Mộng Nguyên và nhà thơ Ðỗ Bình phân tích giảng giãi cho đoàn chúng tôi từng chi tiết về lịch sử các di tích thật là hấp dẫn cho chúng tôi hiểu biết thêm về những câu chuyện xa xưa huyền bí của nước Pháp - Những tấm ảnh chụp trên tàu sẽ là những kỷ niệm mang về xứ Hoa Kỳ cho chúng tôi niềm tự hào đã được tham quan Kinh Ðô ánh sáng bởi thật tình có biết bao người cư ngụ ở Mỹ thật lâu vẫn chưa đến Paris lần nào cả. Riêng bản thân tôi rất nghèo, nay làm mai off nhưng may mắn nhờ vào duyên văn nghệ mà có dịp đi đây đi đó – Âu cũng là cơ duyên cho mình vậy.

Nhà hàng Clément của Ý, tọa lạc trên đại lộ Champs Élysée nổi tiếng sang trọng bậc nhì, ba của Paris cho chúng tôi những món ăn lạ miệng, hấp dẫn du khách bốn phương đến với nhà hàng – Trên đường trở về khách sạn, xe dừng lại bên góc tháp Eiffel, tài xế rất tinh, 5 phút sau đèn tháp Eiffel bật sáng chiếu rực lên liên hồi, đẹp và ngoạn mục vô cùng khi chúng tôi ở cận kề bên chân tháp – Mãi mê với những vĩ đại và đồ sộ thắng cảnh lịch sử của nước Pháp, đoàn chúng tôi đã tham quan tháp Eiffel, nhà thờ Notre Dame, nhà thờ Sacre’- Coeur, Opera Garnier, La Conciergerie , vườn Luxembourg (Lục Xâm Bảo) … và nhiều di tích nữa mà tôi không thể nhớ hết…

 

Ngày chính thức đã đến, quan khách chật ních cả hội trường, toàn những thành phần chọn lọc :  Tôi nhìn thấy Giáo Sư Bùi Sĩ Thành gần 90 tuổi mang theo mình cả bình dưỡng khí đến tham dự mà lòng tôi nao nao xúc động trước tấm lòng yêu văn hóa Việt Nam vô bờ của Giáo Sư, vô cùng trân quý và cảm tạ sự hiện diện của ông - Giáo Sư Thái Hạc Oanh đến tham dự trên chiếc xe lăn có người đẩy, ôi nhìn cụ bà năm nay đã ngoài 90 mà vẫn yêu ngôn ngữ VN đến thế, xin ghi sâu cái tình văn học cao quý mà quý cụ đã dành cho đàn con cháu hậu sinh này - Bác Sĩ Phạm Hữu Trác, đại diện cộng đồng Canada và hải ngoại cũng đã nhín thì giờ quý báu đến chung vui, nhà văn Hồ Trường An vào hội trường với chiếc xe lăn do anh Bernard đẩy xe, trên tay cầm một khúc bánh mì và một hộp nhỏ đưa tận tay tôi - Cảm động xiết bao khi tôi mở ra thấy một thỏi son hồng rất đẹp – Tình văn hữu cao cả làm sao, xin chân thành ghi nhận tình cảm trân quý anh đã dành cho tôi. Từ cách xa trên 200 cây số, anh An và anh Bernal lái xe dìu dắt nhau đến với Chiều Tao Ngộ, xuống tầng dưới nhà thờ với chiếc xe lăn sẽ trở ngại vô cùng vậy mà anh và Bernard vẫn có mặt đúng giờ, thật tôi nhìn anh An và anh Bernal mà lòng cảm xúc dâng tràn… 

Còn nhiều lắm những niềm vui bất ngờ đến với tôi, nhạc sĩ Nguyễn Đình Tuấn tìm tôi để gửi bản nhạc mà anh đã phổ gần 10 năm nay khi tôi đến Paris năm 2002, bài thơ Rừng Thu Xưa Vẫn Nhớ đã làm cảm xúc và anh đã phổ nhạc chờ ngày gặp giao cho tôi, chương trình truyền thông văn hóa Việt do anh Huỳnh Tâm phụ trách mời tôi đến phỏng vấn, vui làm sao khi gặp lại anh Huỳnh Tâm, anh Đình Tuấn và chị Yến của truyền hình TVV, bài thơ phổ nhạc đã được tác giả hát và bài thơ mùa Thu cũng được ngâm trong chương trình phỏng vấn dài trên 30 phút – Xin đa tạ những chân tình đã dành cho tôi trong phút giây hạnh ngộ.

Buổi Thu Tao Ngộ thân tình và trang trọng, quý nhân sĩ thương mến BTC đã đến rất đông, được biết ngày 4/10 có đến mấy hội đoàn tổ chức, anh Ðỗ Bình rất lo lắng số quan khách sẽ bị chia nhiều nơi nhưng thật không ngờ, cái hội trường của nhà thờ nằm khuất và sâu dưới mấy tầng vẫn có những tâm hồn đồng điệu, yêu chữ nghĩa văn chương Việt Nam nên đến chung vui ngày họp mặt : ÔB Phan Khắc Tường chủ tịch cộng đồng người Việt tại Paris, nhìn thấy sự điềm đạm và mẫu mực qua tư cách, tự nhiên tôi thấy gần gủi và trân quý ông bà Chủ tịch thật nhiều - Nhà văn Tô Vũ đến với hai chiếc gậy trong hai tay, mái tóc bạc trắng, lưng đã khòm với tuổi đời chồng chất, nhưng tâm hồn ông vẫn trẻ và yêu đời, luôn nở nụ cười trên môi chào mừng xiết tay thật chặt chứng tỏ cả tấm lòng bao la ông dành cho nhóm trẻ chúng tôi -  nhạc sĩ Lê Trạch Lựu, đôi chân đi khập khiểng vì tai nạn gì thì tôi không được rõ nhưng niềm tâm cảm dạt dào vẫn hiện rõ trong đôi mắt khi anh tiếp xúc với đoàn chúng tôi – Tôi được dịp gặp gỡ anh chị tiến sĩ Võ Hùng Anh, anh thì cao lớn, chị thì thấp nhỏ nhưng dường như họ là một cặp uyên ương không rời nhau gang tấc - Một nhà Ðiêu Khắc Gia nổi tiếng của Paris, bà Anh Trần cũng đã đến chung vui với chiều Thu Tao Ngộ,  Bác Sĩ Nguyễn Bá Hậu, ôi đẹp thay một tâm hồn lương y yêu văn hóa Việt Nam, ông dành bao nhiêu thời gian có được sáng tác thơ văn nhạc để cống hiến cho đời niềm tự hào của một con người làm kinh tế vẫn không bỏ quên ngôn ngữ mẹ đẻ, xin cảm ơn Bác Sĩ đã cùng Bác sĩ Nguyễn Hoàng Việt tận tình giúp anh Ðoàn Phú Lạc với cái chân gout hành hạ và xin cảm ơn B/S đã ưu ái tặng NA 2 cuốn Hoa Tâm và Tha Hương với bút hiệu Phương Du - ÔB Bác Sĩ Huỳnh Trung Nhì  quả là đôi nhân tình cao tuổi đẹp đôi mà NA đã được gặp và chuyện trò tại nhà chị Ðỗ Quyên, hôm nay ông bà vẫn dành thời giờ quý báu đến chung vui, thật vô cùng cảm kích - Nữ ca sĩ Ðỗ Quyên, tiếng hát vang vọng cả hội trường, Opéra là loại nhạc cổ nhưng rất thịnh với giới thượng lưu nhàn nhã, trên sân khấu trông bà như một nữ ca sĩ đặc thù, chuyên nghiệp nhưng ai biết được trong gia đình bà là một người nội trợ xuất chúng, buổi party hôm chúng tôi được mời đến do một tay bà nấu nướng khoãn đãi trên 60 thực khách, tôi thầm phục một người phụ nữ tài năng ngoài xã hội và giỏi giang cả trong gia đình…

Cộng đồng Paris thể hiện cho tình người Việt lưu vong thắm thiết, chúng tôi thừa hiểu tạo được một buổi họp mặt không phải dễ dàng vì người Việt cũng không nhiều, đường xá xe cộ đi lại khó khăn, phần đông phải đi xe Métro vì không có parking đậu xe, vậy mà theo danh sách tôi ghi nhận được từ BTC thì quả thật quý vị đã quá nhiều ưu ái, hiếu khách dành cho đoàn chúng tôi từ xa đến, nói đúng hơn quý anh chị trong BTC đã được nhiều yêu thương từ quý vị nên Chiều Thu Tao Ngộ còn rất nhiều gương mặt thân thương hiện diện như : Luật sư Lương Ngọc Chấn, Tiến sĩ Trần Minh Trâm, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hướng ( nhà thơ Hoài Việt) Bà Ðỗ Quyên, ÔB K/S Võ Hoài Nam ( nhà văn Tiểu Tử) nhà văn Âu Dương Trọng Lễ, gặp lại anh Trọng Lễ, quả thật tôi không ngờ, anh trẻ ra và đẹp trai mập mạp hồng hào hơn 7 năm về trước, gặp lại NA mừng quá và cảm ơn anh đã tặng cuốn Quê Hương Và Tình Yêu gồm Thơ Truyện và rất nhiều hình ảnh quê hương gợi cho tôi niềm rạt rào thương nhớ dòng sông quê Mẹ - ÔB G/S Tiến sĩ nhạc sĩ Phạm Ðình Liên vẫn keo sơn gắn bó như thuở nào, nhìn chị Minh Cầm không thể ngờ đã 71 cái xuân xanh, trông chị rất trẻ có lẽ nhờ anh Liên có bí quyết chăm sóc - Giáo sư Như Mai, Giáo sư Phạm thị Nhung, Bác sĩ Vũ Thị Thoa, Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Ðàn, nhà báo Nguyễn bảo Hưng, nhà văn Liều Phong, K/S Nguyễn Xuân Lang, Họa sĩ  Nguyễn Ðức Tăng, Ô Bùi Hữu Tình, Bà Bích Khuê, T/S Huệ Châu, Nguyễn Thanh Vân, Bích Liên, Michel Tùng, Huy Hoàng, Minh Nhật, Minh Mạch, Trần Văn Trung, nhà báo Phạm Hữu, nhà tranh đấu Trần Hồng ( cựu TTK Văn Phòng liên lạc), ÔB B/S Tạ Thanh Minh Chủ tịch Hội Y sĩ Tự Do tại Pháp, Ông Nhất Long, nữ nghệ sĩ Diệu Khánh,  nhà văn nữ Bích Xuân, B/S Phạm Ngọc Tỏa ( Cựu Chủ Tịch Hội Y sĩ VNTD), ÔB B/S Nguyễn Ðương Tịnh hội Hành Thiện, ÔB G/S Bùi Xuân Quang, G/S Nguyễn Ngọc Chân hội Chuyên gia, ÔB tiến sĩ Võ Hùng Anh, B/S Phạm Ðăng Thiện, L/s Dương Minh Châu, K/S Ðỗ Hữu Hứa, Bác Sĩ Nguyễn Hoàng Việt, nhà văn Chu Chi Nam (Liên Ðảng), ÔB Nguyễn Minh Răn ( Chủ tịch văn phòng Liên Đới xã hội), Ô Phạm Văn Ðức( văn phòng Liên lạc quân nhân Âu Châu), Ô Châu Văn Lộc ( Hướng Ðạo VN), Ô Nguyễn Tường Long ( Tổng thư ký Văn phòng Liên lạc các Hội Ðoàn tại Pháp), Ô Lê Minh Triết ( VNQD Ðảng), Ô Lê Văn Tư (Đại Việt QDĐ), B/S Nguyễn Minh Tân (VNQDĐ), B/S Nguyễn Văn Thọ, L/S Trương Hữu Lương, Nữ Sĩ Quỳnh Liên, Nhà thơ Lê Chí Thạnh, anh chị Thanh – Mây Thu, chị Mai Ling, chị Thy Như ..…và tôi tin rằng vẫn còn thiếu sót danh sách quý vị tham dự, xin quý vị niệm tình tha thứ cho. Với một lượng quan khách tham dự hùng hậu và tên tuổi như thế quả là BTC thật tài tình và được nhiều cảm tình từ mọi phía…

Bắt đầu chương trình, nghi lễ Quốc ca VN do anh Nguyễn Hữu Xương điều khiển, tiếp theo là lời chào mừng của Ông Chủ tịch Phan Khắc Tường, Họa Sĩ Nguyễn Ðức Tăng thay mặt BTC gửi lời ngỏ thân tình đến quý quan khách hiện diện, một màn rước đèn Trung Thu do các em nhi đồng trình diễn rất vui mắt, nhà thơ Phương Du  đọc thơ Thu, nhà thơ Hoài Việt đọc thơ Thu…

Ðoàn chúng tôi rất hãnh diện được MC đỗ Bình mời lên trình diện quan khách Paris, hai MC Vân Hải & Ðỗ Bình nhịp nhàng linh động với chương trình tâm tình của các diễn giả Lê Mộng Nguyên, Nguyễn Thùy, Hồ Trường An …Tâm tình Thu Paris và Tâm Hồn nghệ sĩ, T/S Lê Mộng Nguyên tâm cảm gợi lại bao kỷ niệm về mùa Thu làm lòng tôi bồi hồi xúc động, G/S Nguyễn Thùy đôi dòng phân tích về cuốn Món Ăn Theo Bước Di Tản nội dung chất chứa bao nhiêu kỷ niệm trong tâm hồn 13 tác giả trên bước lưu vong, tình yêu Tổ quốc, yêu gia đình mãi trường tồn trong trái tim những tác giả định cư Hoa Kỳ, Đức Quốc và Canada nay không ai còn trẻ nữa, người trẻ nhất trong đoàn cũng đã trên 50 cái xuân xanh - Nhà văn Hồ Trường An lên sân khấu với chiếc xe lăn mà thấy thương làm sao, anh vẫn được ca tụng là điển trai nhất nhì trong nhóm cầm bút, thế mà hôm nay … anh tâm tình đầy xúc cảm và không quên giới thiệu hai cuốn Hoa Vàng & Nam Phong do Ngọc An thực hiện năm 2003 và 2005 với số đông tác giả chọn lọc – Cụ bà Thái Hạc Oanh lụm cụm cùng chiếc xe lăn lên sân khấu góp lời ủng hộ tinh thần văn học, khuyến khích các tài năng trẻ - Ca sĩ Ðỗ Quyên trình bày một trích đoạn Les Voiles Opéra Don Carlos của Verdi với phần đệm dương cầm nữ giáo sư nhạc sĩ người Pháp Nicole Rivière – Nữ Ca sĩ Ambrosio Laurant trình bày ca khúc Serenata của Toselh - Nhà văn Nguyễn thị Ngọc Dung được mời lên giới thiệu tờ tam cá nguyệt Cỏ Thơm mà chị là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tại vùng Hoa Thịnh Ðốn nhiều năm qua,  tiếng đàn tranh thánh thót của Nữ G/S Âm nhạc Nguyễn Thanh Vân trình bày bài Tương Tư Ngự đã làm hội trường im phăng phắc lắng nghe như đọng từng nốt đàn vào tâm khảm, dìu dặt mà trầm lắng xốn xao…Khi NA lên ngâm bài thơ Mùa Thu Trên Ðất Nước Tôi đã được tiếng đàn tranh của chị Thanh Vân và tiếng sáo trúc của anh Trần Tam Nguyên yểm trợ nên tăng thêm phần hồn cho bài thơ nói về mùa Thu của ba miền Nam Trung Bắc đã được quan khách lắng nghe và chia xẻ nhiệt tình – Tiếp theo là phần giới thiệu tác phẩm của nhà văn Âu Dương Trọng Lễ, nhà văn nữ Trúc Giang do các nhà văn Nguyễn Xuân Lang, nhà thơ Quyện Tâm và nhà báo Tô Vũ nhận định – Sau đó là bài nói chuyện của G/S Phạm thị Nhung về Giai thoại cuộc tình lãng mạn của thi sĩ Vũ Hoàng Chương cùng người đẹp Tố Uyên đầy say mê và cảm động – Xen kẻ chương trình là phần độc tấu Guitar của N/S Phạm Ðình Liên, Paris trong thi ca của G/S Từ Trì, Người Tình Trong Âm Nhạc của N/S Lê Trạch Lựu, nhà báo Nguyễn Bảo Hưng với chủ đề : Sự Huyền Diệu Của Tiếng Việt, Ca sĩ Thúy Hằng trình bày bản nhạc Sương Thu, giọng trầm buồn sâu lắng làm lắng đọng bao tâm hồn yêu nghệ thuật nước nhà, và còn nhiều lắm ca sĩ Minh Cầm, Minh Nhật, Bích Liên, Ngọc Châu…lên trình diễn những bài ca toàn về mùa thu nên buổi Thu Tao Ngộ thật hoàn toàn có ý nghĩa sâu xa và khó quên – Nhà văn nữ Trúc Giang lên sân khấu góp ý tưởng và kể lại lập trường đấu tranh sôi nổi của người dân nước Đức - Chúng tôi rất tiếc là thời gian không cho phép và chương trình đã quá dài chứ nếu còn thời gian thì các nhà thơ nhà văn của chúng tôi tuy cầm bút nhưng cũng là những ca sĩ, nghệ sĩ có hạng của  Hoa Kỳ và Canada, Ðức Quốc sẽ lên cống hiến tài năng với quý vị, thôi xin hẹn vào một dịp khác vậy, nhưng đâu dễ gì quý vị ơi, nên rất tiếc và rất tiếc…Phần văn nghệ hào hứng nên hấp dẫn quan khách ngồi lại đến giờ phút chót - Miền đất Paris theo tôi biết thì rất khó khăn tụ họp nhưng buổi tổ chức Thu Tao Ngộ đã quy tụ nhiều gương mặt sáng chói của cộng đồng Paris chứng tỏ BTC có tầm cỡ và tình cảm, tình đồng hương thâm sâu đậm đà như thế nào rồi. Một lần nữa xin cảm tạ anh chị Ðỗ Bình và quý anh chị trong BTC thật nhiều. Cảm tạ quý quan khách đã dành thì giờ quý báu đến chung vui với chúng tôi, nhất là các vị phải dùng xe lăn, mang theo cả bình dưỡng khí và các vị thật cao tuổi - Cảm động biết chừng nào với tấm lòng yêu văn hóa Việt Nam của quý vị -  Cảm ơn chị Bích Xuân đã dành cho 4 người chúng tôi: anh chị Ðoàn Phú Lạc – Chu Kim Oanh – Phong Thu và Ngọc An  những tình cảm thật đẹp khi đến trú ngụ trong “tòa lâu đài cổ” và những lời tâm tình của hai người độc thân BX- NA nên đã phải thức trắng đêm không ngủ, cảm ơn chị đã tăng mình CD nhạc do chính chị hát …Ðêm cuối cùng để từ giã Paris, NA còn được nhân duyên với chị Mai Ling, về ngủ với chị, một căn phòng dành cho người cao niên, ấm cúng và sạch đẹp với cách trang trí thẩm mỹ - Tôi đã được nghe qua tâm tình thương đau của đời chị và một quyết định về VN sống những ngày còn lại với viện dưỡng lão dù tại nước Pháp chị vẫn còn có ba người con, cái tình người Việt Nam cao đẹp và trường tồn trong xương tủy đến khi gần kề cát bụi vẫn muốn gửi nắm xương tàn trên quê hương Mẹ - Chị Mai Ling rất giỏi về Pháp ngữ, cuốn sách chị tặng tôi mang tựa đề: Le Sixième Sens De La “ Petite Souris” dày 338 trang hoàn toàn bằng Pháp ngữ, rất cảm ơn chị - Cảm ơn chân tình của anh chị Thanh- Mây Thu…Cảm ơn nhà văn Hồ Trường An đã tặng NA rất nhiều sách của anh : Thắp Nắng Bên Trời, Giữa Đất Trời Giao Hưởng, Những Đóa Hoa Nở Muộn, Truyền Kỳ Trên Quê Nam, Giai Thoại Văn Chương, Trở Lại Bến Thùy Dương, Trăng Xanh Bên Trời Huế, Vườn Cau Quê Ngoại, nhà thơ Ðỗ Bình tăng NA cuốn thơ mang tựa đề thật hấp dẫn “ Mùa Xưa Vỗ Cánh” nhà văn Nguyễn Văn Nhiệm với cuốn Ðường Vào Triết Học Việt Nam dày 486 trang với bao công phu thực hiện -  nhà văn nữ Tiểu Thu với truyện ngắn Tiếng Hót Vành Khuyên líu lo êm ả và dễ thương không khác gì tác giả - Cảm ơn hai CD của chị Minh Cầm, tuy bận rộn nhưng CD của chị và Bích Xuân NA đã nghe và rất thích – Về Cali NA còn nhận được cuốn Hoa Liên Kiều tác giả Vũ Nam gửi tặng, chỉ mới nghe tên cuốn sách là người đọc phải tò mò rồi đấy, cảm ơn Vũ Nam nhiều - Những cuốn văn thơ quý anh chị tặng sẽ là bầu bạn gối đầu giường mỗi đêm trước khi NA đi ngủ - Cảm ơn G/S Nguyễn Ngọc Chân đã hướng dẫn và giảng thích tỉ mỉ từng chi tiết lịch sử cho đoàn tham quan chúng tôi, rõ ràng ông có bộ óc không khác gì tự điển sống, quý anh chị Hải Yến, Minh Nhật, Mai Ling, Thy Như …tất cả quý vị đã bỏ nhiều thì giờ quý báu đưa đoàn chúng tôi tham quan thắng cảnh Paris, cảm ơn chị Minh Cầm và Chu Kim Oanh đãi một buổi ăn tối tại Phở Hòa trước khi rời Paris, xứ thần tiên về thắng cảnh. Chắc chắn bài viết này còn rất nhiều thiếu sót , bởi tôi từ phương xa đến không thể am tường, xin quý vị rộng lượng đừng chấp nhất, xin ơn trên ban cho tất cả đồng hương tại nước Pháp an lành hạnh phúc. Kính chúc quý vị cao niên của miền kinh đô ánh sáng Paris sống trường thọ, quý vị đang mang bệnh hoạn tật nguyền sớm trở thành lành mạnh để có ngày NA trở lại Paris còn được gặp gỡ hàn huyên cùng  tất cả quý vị…

Chiều Văn Hóa Thu Tao Ngộ tại Paris đã được ghi lại từng chi tiết, thực hiện thành những cuốn DVD thật đẹp qua các anh Ðoàn Phú Lạc, B/S Phan Văn Thành và anh Duy An Ðông, xin cảm ơn các anh thật nhiều - Về phần chụp ảnh thì dường như ai cũng mang theo máy ảnh, do đó buổi du lịch Paris quả tình không uổng phí và vô cùng ý nghĩa cho một ngày đầu thu tình thơ văn kết tụ.

 

Rồi tất cả đã trở lại bình thường, nhưng dư âm vẫn còn vang vọng, trời mùa thu Cali buồn não nuột, những chiếc lá vàng rơi lả tả, gợi lòng ta nỗi ngao ngán cho một kiếp người phù du, lá vàng rồi lá rụng …trời mùa thu mang sắc màu u ám nhưng người thơ lại thích mùa thu, nó gợi trong lòng những cảm hứng mông lung, u uẩn, tiếc nhớ, bâng khuâng…

 

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: LỄ TẠ ƠN CỦA BÀ TƯ.
Reply #5 - 05. Nov 2009 , 20:12
 
LỄ TẠ ƠN CỦA BÀ TƯ.

         Nguyễn Thị Thanh Dương

-   Má nói gì con chưa hiểu rõ?

   -  Lễ “Gà Tây” năm nay má sẽ đích thân nấu nướng, chiêu đãi các con. Má cũng mới thông báo với vợ chồng chị Hai con rồi, tụi con khỏi phải làm gì hết nghe.

Chị Bông vẫn chưa tin:

-  Má không nói đùa hả má? Nhưng má định làm món gì? Nhiều người Việt Nam mình, lễ Thanksgiving của Mỹ mà ăn bằng các món Việt Nam như phở, bún thịt nướng, chả giò v..v..không có đúng kiểu đâu má ơi.

-   Lễ Gà Tây thì má sẽ làm món gà tây, con khỏi lo.

-  Nhưng con gà tây nặng 10 pound trở lên, má bê vô lò nổi không? Cực thân má!

-   Má baby sit đàn cháu nội, ngoại, đứa nào cũng mập ú trên 10 pound, má ẵm bồng còn được nữa là. Thôi, má chuẩn bị đi chợ mua gà tây đây.

Bà Tư cúp phôn, dứt điểm, không để cho cô con dâu thắc mắc thêm nữa.

Đây quả là một chuyện bất ngờ chưa từng có, từ ngày làm con dâu nhà này, mỗi dịp lễ Thanksgiving, hoặc gia đình chị Bông hoặc gia đình chị Hai luân phiên nhau làm tiệc, để hai gia đình, cùng ba má vui hưởng ngày lễ lớn này, chứ bà Tư có bao giờ đoái hoài tới.

Chị Bông có nhiều công thức để nấu, để nướng món gà Tây, mà các con chị, cũng như con chị Hai đều rất thích. Mùa lễ nào ra mùa lễ đó, ngày Halloween thì chị cũng vác về mấy trái bí đỏ để trước cửa, dẫn hai con đi sắm quần áo, mặt nạ, quần áo hoá trang, mỗi năm mỗi kiểu. Lễ Easter thì mua kẹo bánh hình quả trứng và dẫn các con đến các địa điểm vui chơi để lượm trứng. Lễ Giáng Sinh thì chị cũng chưng một cây thông xanh bên cạnh lò sưởi, giăng hoa kết đèn, dù nhà chị không theo đạo Thiên Chúa.

Bà Tư đã nhiều lần phàn nàn:

-  Ba cái ngày lễ ở Mỹ đâu có nghĩa lý gì với người Việt Nam mình mà con bầy ra cho tốn công, tốn tiền, “Lễ Gà Tây” mình không ăn được gà tây, sao con không nấu gà ta? “ Lễ Bí Đỏ” có một ngày mà con cũng mua sắm, sao không cho tụi nhỏ dùng đồ năm trước? Còn cái màn lượm trứng mùa lễ phục sinh mới là vô duyên, người ta mất công đem trứng rải ra trên cỏ rồi cho con nít đi lượm. Có ăn gì được mấy trái trứng đó đâu?

Chị Bông phải mỏi miệng giải thích:

-  Sống ở đâu phải theo phong tục đó má ơi! Cả nước Mỹ làm sao con làm vậy.

Bà Tư đành chịu thua con dâu và con gái. Thôi thì mặc tình cho tụi nó, còn hai ông bà sống riêng, mọi việc lớn nhỏ đều theo kiểu Việt Nam, máy giặt, máy sấy có đủ trong nhà, bà vẫn ngâm đồ dơ trong chậu, và giặt giũ, đem phơi đằng sau vườn, có nắng, có gió quần áo thơm tho, chỉ khi nào vào mùa Đông lạnh lẽo hay trời mưa gió thì hai cái máy giặt, sấy đó mới được bà đụng tới.

Khi tắm thì ông bà hứng nước ra một cái thùng kê dưới vòi nước và múc từng chậu nhỏ dội lên người, khỏi cần dùng vòi hoa sen chi hết, nước giăng tùm lum. Còn cái máy rửa chén trong nhà coi như… vô dụng, suốt  nhiều năm qua vẫn mới tinh, bà để úp bát đĩa, chứ chưa bao giờ xử dụng, vừa hao nước, hao điện, vừa chờ lâu.Thà bà đứng rửa bằng tay, chỗ nào dơ thấy liền, kỳ cọ loáng một cái là xong, bảo đảm sạch sẽ hơn máy.

Bà rất ghét nhà trải thảm vì bà không tin rằng máy hút bụi có thể làm hết bụi được, nên nhà bà đã lót gạch, dễ quét dọn và lau chùi sạch sẽ tinh tươm.

Thỉnh thoảng các con đi nhà bank chở bà theo, thấy chúng ngồi ngoài xe mà rút tiền hay gởi tiền đều mau lẹ, chỉ nói vài câu vào máy, rồi viết vài chữ, bỏ tờ giấy trong cái hộp, đợi nó chạy lên vào nhà bank và chạy xuống là xong. Đối với bà, điều ấy thật “nguy hiểm” nếu trục trặc, sai trái điều gì thì thấy ai đâu mà khiếu nại? Nên ông bà cứ vô thẳng trong quầy, tiếp xúc trực tiếp với nhân viên, “ba mặt một lời” là chắc ăn nhất.

Những ngày lễ của Mỹ, bà gọi theo cách riêng của bà cho dễ nhớ, Easter là “Lễ Trứng” ngày Halloween bà thấy chợ bày bán nhiều bí đỏ, thì gọi là “Lễ Bí Đỏ” và Thanksgiving là “Lễ Gà Tây”.

Hai ông bà đều không thích ăn gà tây, mỗi năm các con mời đến dự tiệc thì ông bà chỉ nếm thử một hai miếng cho vui với con với cháu, rồi chủ yếu là ăn đồ Việt Nam kèm theo.

                                 ***       ***      ****

Ông Tư đang cằn nhằn bà Tư:

-  Người ta nói đàn bà lên cơn như thời tiết, lúc nắng lúc mưa, không sai tí nào! Xưa nay bà có thiết tha gì tới ngày lễ Tạ Ơn đâu, bà có ăn nổi món gà tây đâu? sao lần này bà nhảy ra dành làm với tụi nó? Nãy chở bà đi chợ, tôi vác con gà tây ra xe, nặng ê cả tay.

-  Thì ông không từng nói vợ chồng chia sẻ buồn vui, khổ cực đó sao? Tôi dư sức bưng con gà tây, nhưng muốn tạo cơ hội cho ông có dịp ga lăng với tôi như ngày xưa thôi.

Bà mỉm cười và liếc mắt nhìn ông, thì làm sao ông có thể cằn nhằn thêm được nữa:

-  Thôi, bà dẹp cái nụ cười nhí nhảnh ngày xưa của bà đi, tôi biết thừa cái “mỹ nhân kế” của bà rồi, muốn sai tôi làm gì là bà mang ra xài…

-   Vậy ngày mai ông lại giúp tôi bỏ con gà tây này vào lò nướng và khi chín thì mang ra ngoài nhé?

-    Biết rồi, mà bà hãy trả lời tôi tại sao bà lại rước mệt nhọc vào thân cho hai vợ chồng già chúng mình?

-   Để chiều mai bữa tiệc có đông đủ con cháu, tôi nói luôn cho long trọng. Với lại năm nào các con cũng đãi mình, năm nay mình phải đãi lại tụi nó một bữa cho bất ngờ.

-   Bà lúc nào cũng cho tôi sự bất ngờ. Hồi tôi còn trẻ, yêu bà muốn cưới bà, nhà bà giàu nhà tôi nghèo, chỉ lo sợ bà đòi hỏi nọ kia, ai dè bà đã đồng ý lấy tôi với một đòi hỏi thật dễ dàng, làm tôi bất ngờ muốn té ngửa, là phải hứa sẽ dẫn bà đến một cánh đồng mênh mông gió và hoa thơm cỏ dại. Tưởng hứa dẫn bà lên mặt trăng, mặt trời, thì tôi không dám, chứ dẫn bà ra cánh đồng cỏ, quê tôi thiếu cha gì. Thú thiệt, mới nghe tôi tưởng bà “mát” hiểu ra càng thấy thương bà, thế là lấy nhau xong tôi chở bà về quê tôi cho bà tha hồ ngắm cánh đồng cỏ, cánh đồng lúa đến phát ngán, bà phải tự nguyện rút lui, và không chịu về quê nữa.

-    Khi người ta còn trẻ ai mà chẳng lãng mạn. Thuở đó tôi chỉ ao ước được sống nơi miền quê thôn dã…

-  Thử cho bà cuốc đất trồng khoai, đêm tối không có điện, muỗi đốt tùm lum xem bà còn thích đồng quê nữa không? Mấy cô tiểu thư thành phố như bà cao lắm chỉ ở được 3 ngày.

-   Cho tới bây giờ, tôi vẫn thích những cánh đồng mênh mông gío trên đất Mỹ, thích những vườn cây trái. Ước gì tôi trẻ lại, để đi làm công việc hái nho, hái táo trên cành hay hái những trái dâu chín đỏ dấu mình trong đám lá bên bờ ruộng. Chắc là vui thú lắm!

Ông Tư kêu lên:

-  Thì ra bà vẫn chưa hết mộng mơ lãng mạn. Nhìn chùm nho, trái táo chín trên cây thì đẹp đấy, nhưng cái nghề lao động hái trái này cực khổ trăm bề chẳng ai muốn làm, vậy mà bà ao ước làm…cho vui.

Ông nói đúng quá, bà mỉm cười không cãi, lo ướp con gà xong đậy kín để vô tủ lạnh, rồi bà đi ướp con cá để ngày mai làm món cá nướng, còn bánh cake bà đã đặt ngoài tiệm, mai mới lấy về. Thế là sẽ có một bữa tiệc Tạ Ơn ngon lành, vừa Mỹ vừa Việt.

                          ***       ***    ***

Gia đình con gái và con trai bà Tư đã đến đông đủ, họ ăn mặc chỉnh tề đẹp đẽ, năm đứa cháu nội, ngoại xúm lại coi con gà tây của bà Tư vừa nướng xong bày ra bàn, chắc chúng đang tò mò so sánh có bằng mẹ chúng đã từng làm không?

Chị Bông cũng hết nhìn con gà tây nằm ngay ngắn trong cái đĩa to, bên cạnh đĩa cá nướng vàng thơm phức xung quanh có đĩa bún trắng và rau thơm xanh, với chén nước mắm tỏi ớt sóng sánh như gọi mời.

Mọi người ngồi vào bàn, anh Hai lên tiếng trước:

-  Con đại diện hai gia đình cám ơn ba má bữa tiệc Tạ Ơn hôm nay, và nhất là cám ơn ba má bấy lâu đã baby sit cho đám cháu nội, ngoại, để tụi con được an tâm đi làm, và tiết kiệm được tiền bạc.

Ông Tư giục:

-  Bây giờ đến phiên bà tuyên bố lý do bữa tiệc gà tây này cho con cháu nó nghe, mà tôi cũng đang muốn nghe đây.

Bà Tư mỉm cười nhìn chồng và nhìn các con, chậm rãi nói:

-  Đơn giản, lễ Gà Tây là lễ cám ơn chứ gì? Câu chuyện nước Mỹ tạ ơn gì đó, má không rành lắm, nhưng mình cứ lấy đó làm ngày tạ ơn nhau trong cuộc đời này đi. Những năm trước má không để ý đến ý nghĩa sâu xa của nó, dần dần má mới hiểu như Bông, con dâu má đã giải thích, sống ở Mỹ phải theo phong tục của họ, huống gì đây là một phong tục tốt đẹp. Má nhận ra rằng cuộc đời và nước Mỹ này đã cho má nhiều thứ quá, má có dâu hiền, rể thảo, có đàn cháu xinh, và chúng ta đều có cuộc sống an lành đầy đủ. Nên má làm tiệc Gà Tây này để nói lên lời cám ơn cuộc đời, cám ơn các con các cháu đã cho má niềm vui gia đình khi tuổi về già.

Rồi bà quay qua ông, dịu dàng:

-  Tôi cũng cám ơn ông luôn ở bên cạnh tôi.

Ông gật gù:

-  Luôn ở bên cạnh bà và biết điều dưới quyền sai bảo của bà chứ gì! Trời, hôm nay bà lại làm tôi bất ngờ quá!

Bà Tư  bày tỏ nỗi niềm:

-  Má cũng muốn tâm sự với các con. Trước khi toàn bộ gia đình mình ở Mỹ, đã trải qua bao gian nan, lo lắng. Không bao giờ má quên được ngày thằng Bông đi vượt biên, má như ngồi trên đống lửa, trông chờ từng ngày.

Anh Bông reo lên:

-  Con nhớ chuyện ngày ấy mà bây giờ còn tức cười đó má. Khi má sửa soạn quần áo cho con lên đường vượt biên, má cứ luôn dặn dò: “ Quần áo này thay xong con nhớ đem giặt và phơi trên boong tàu cho mau khô nghe con” Đi vượt biên, trốn chui trốn nhủi, nằm bẹp dí trong khoang tàu như cá hộp mà má cứ làm như đi du lịch trên tàu Titanic vậy đó.

Ông Tư phụ hoạ:

- Má con là thế đó, bà thương chồng, thương con đến khờ người luôn. Đi vượt biên chưa lo tới cái chết đã lo con không thoải mái, không có quần áo sạch mà mặc.

Bà Tư cãi:

-  Tôi tin sống chết là số mệnh nên chỉ biết cầu nguyện thôi, còn cái gì lo được thì cứ lo. Thế rồi ước nguyện đã thành, thằng Bông định cư ở Mỹ, lần lượt bảo lãnh ba má và chị Hai. Cả nhà đoàn tụ, có giấc mơ nào đẹp bằng giấc mơ này của má đâu?

Bà Tư nói tới đây cảm động quá, nước mắt rưng rưng. Vợ chồng chị Hai và vợ chồng Bông cùng vỗ tay tán thưởng:

-   Vậy là chúng con đã hiểu mục đích bữa tiệc gà tây của má ngày hôm nay rồi.

-  Chưa hết, còn một điều này nữa cũng quan trọng không kém. Má muốn nói một điều chân tình, không chính trị chính em gì hết nghe, ba má sang đây, đi làm đâu có là bao, không đủ tiêu chuẩn để lãnh tiền hưu, thì nhận được trợ cấp tiền già của chính phủ Mỹ, mỗi tháng đều đặn gởi tới nhà, không bao giờ sai sót, ba má tiêu xài còn dành dụm chút đỉnh thỉnh thoảng gởi về Việt Nam giúp đỡ bà con xa gần.

Ông Tư gật gù:

-  Điều này bà nói đúng ý tôi đấy, ở Việt Nam , người già sống lệ thuộc vào con cháu. Ở Mỹ, người già vẫn có “lương” cho tới chết thì thôi.

Anh Bông nâng ly bia lên cao:

-  Vậy thì chúng ta phải cám ơn đất nước tự do dân chủ này !!

Ông Tư hào hứng:

-  Cách đây vài tuần Ba có đọc một bài báo, nước Mỹ đã tìm được tàn tích của một người lính Mỹ bị mất tích trong chiến tranh Việt Nam từ năm 1971. Họ làm lễ tưởng niệm và an táng hài cốt người lính này. Người vợ goá năm xưa được trao tặng một lá cờ danh dự. Đó cũng là một cách trân trọng tạ ơn của người Mỹ cho người lính của họ đã chiến đấu, hi sinh, vì tự do dân chủ và hoà bình trên thế giới.

Bà Tư chép miệng:

-  Họ tưởng niệm vậy là đúng rồi, nhưng bà vợ goá đó chắc cũng mấy lần lấy chồng, hay bao lần hẹn hò bồ bịch, đâu có xứng đáng nhận cái vinh dự này?

-  Bà nhận xét thật là ích kỷ, chiến tranh đã cướp đi người chồng khi bà ta còn trẻ,  hạnh phúc dở dang, thì còn ai xứng đáng hơn để nhận cái danh dự này? Còn chuyện bà vợ goá ấy có đi thêm mấy bước nữa cũng chẳng nhằm nhò gì, người chết là hết, người sống vẫn phải tiếp tục cuộc đời của họ.

Ông Tư nói tiếp cho hết ý:

-  Mà tìm kiếm tàn tích một người lính Mỹ mất tích ở Việt Nam đâu phải rẻ, dưới thời ông Tổng Thống Bill Clinton, tôi đọc báo đã nói tốn hơn một triệu đô la cho một người rồi. Suốt mấy chục năm qua chính phủ vẫn mỏi mòn tìm kiếm hơn một ngàn người lính Mỹ mất tích ấy.

-  Làm gì mà tìm kiếm lâu giữ vậy cho hao tiền hao sức? bà Tư thắc mắc hỏi.

-  Thì phía Việt Nam luôn làm khó dễ, đòi hỏi điều kiện nọ kia, câu giờ để “hành” anh nhà giàu Mỹ quốc.

Chị Hai đang lấy dao cắt ra từng lát gà tây. Bà Tư trở về với hiện tại:

-   Thôi nào! chúng ta ăn gà tây trước đi, khi  ngán thì ăn tới món súp măng cua và cá nướng với bún, rau sống.

Chị Bông ăn thử một miếng gà tây và rối rít:

-  Má ướp gì mà ngon đậm đà vậy?

-  Má đọc mục nấu ăn trong báo Việt Nam , thì ra làm món gà tây nướng lò đâu có khó khăn gì! Má làm cái một.

-   Nhưng không có công của tôi thì không xong đâu nhé. Má con chỉ ướp gà thôi, còn ba là người phải đút gà vô lò, canh chừng tới giờ để mang gà ra ngoài. Nếu sơ xuất không để ý làm cháy khét là chết với má con đó.

Anh Bông thông cảm:

-   Con hiểu mà ba, vì con đã từng làm như thế những khi vợ con nướng gà tây.

Bà Tư âu yếm nói với con trai:

-  Con giống cha là nhà có phúc.

Anh Hai nãy giờ mới lên tiếng :

- Chiều vợ là thương yêu vợ đó má, cứ nhìn ba má tới giờ này còn hạnh phúc là đủ biết rồi. Con đang noi gương theo ba và chú Bông đây. Cả nhà cùng cười vui vẻ. Bữa tiệc Tạ Ơn của bà Tư càng thêm ấm cúng và ngon miệng.

                Nguyễn thị Thanh Dương            
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
CON LON VA CON HEO
Reply #6 - 29. Nov 2009 , 04:31
 
From : Nhu Nguyen* Ba Tran
 
Sự khác nhau giữa con Lợn và con Heo

- Con Lợn sinh ở miền Bắc - Con Heo sinh ở miền Nam. Cả hai đều bị Cán bộ lãnh đạo kì thị nặng lắm vì lúc nhăm nhi thì quan lớn chỉ khoái món cháo gà cháo vịt, còn cháo heo, cháo lợn nghe có vẽ đồ ăn cho bọn dơ bẩn ở trong chuồng!

- Miền Bắc không heo nhưng lại thích "nói toạc móng heo" - Miền Nam không thấy lợn lại ưa dùng "bánh da lợn"

- Miền Bắc có lợn sề, lợn nái, lợn giống, lợn cấn, lợn sữa, lợn choai, lợn tháu, lợn ỷ - Miền Nam có heo nhà, heo ruộng, heo bông, heo lang, heo cỏ, heo bò, heo đen, heo nọc, heo hạch, heo nái, heo nưa, heo lứa, heo mọi

- Con Lợn ăn Ngô - Con Heo ăn Bắp.

- Da Lợn làm bánh da Lợn - Da Heo khô dùng nấu lẩu.

- Con Lợn đóng phim thiếu nhi "Hiệp sĩ lợn" - Con Heo đóng phim người lớn "Phim con Heo"

- Phim con lợn chỉ cách chăn nuôi sinh sản cho nhi đồng - Phim con heo cũng cho thấy cảnh sinh sản nhưng lại cấm nhi đồng!

- Miền Bắc trách cô kia "béo như lợn" - Miền Nam quở chị nọ "mập như heo"

- Miền Bắc xỏ đàn ông háo sắc là lợn nọc - Miền Nam bảo đàn bà lang chạ là heo nái

-Con Lợn từ miền Bắc xuống miền Nam bị hóa kiếp thành con Heo cũng có điển tích đàng hoàng: "Paulus Huỳnh Tịnh Của là một học giả người miền Nam, trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, ông đã giải nghĩa Lợn là con Heo, là giống lục súc béo hơn hết. Đúng như con lợn tự khoe: “Nội trong hàng lục súc với nhau, Ai sánh đặng mình heo béo tốt?” (LSTC).
Đọc Việt sử, ta thấy người miền Nam phần lớn là những di dân từ miền Trung tràn xuống, tiếng nói của họ nặng, khi phải bẩm trình với quan lớn, họ lại phát âm thành “quan lợn”. Quan cho là vô phép nên sai lính lấy hèo phạt, ai bẩm “quan lợn” là phải đòn 10 hèo..
 
-Nhiều người bị phạt hèo như vậy, nên khi thấy con lợn họ hình dung ngay ra những cây hèo vút vào mông họ, họ bèn mỉa mai gọi con lợn là “con hèo”. Rồi để khỏi lầm lẫn con lợn với cây gậy quái ác ấy, họ bớt đi dấu huyền, còn lại là con heo. Con lợn từ miền Bắc đi xuống miền Nam thành con heo là như thế.

-Chế độ ăn uống của gia đình Lợn-Heo bên VN hiện giờ cũng khác biệt . Quan vẹm Lợn được độc quyền tham nhũng, ô dù, đi xe hơi ở nhà lầu, ăn toàn bào ngư vi cá . Còn đàn heo dân chỉ có cám xú, thức ăn dư thừa, nói chung là đồ ăn rất súc vật ! .../


Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Theo Gió
Reply #7 - 29. Nov 2009 , 04:35
 
   Theo Gió
Một

Năm 1944, Hà Nội đang thời tao loạn, trời cuối thu nắng hanh hanh, buồn man mác với gió heo may và lá vàng rơi ngập lối đi … Một đoàn xe tay nệm mới trắng tinh, thành xe quấn những dải lụa hồng điều, các bác phu xe tề chỉnh trong đồng phục lính trấn thủ lưu đồn. Đoàn xe kéo ấy, dài, đỏ rực, nổi bật trong màu trời ảm đạm, rợp cả phố phường, đã đưa mẹ tôi về nhà chồng, đưa mẹ tôi từ một thiếu nữ núp dưới bóng mẹ cha thành người thiếu phụ với bao trách nhiệm đè nặng trên vai. Đoàn xe rước dâu đang nghiêm trang cất bước thì chợt tiếng còi báo động hú lên, tiếng máy bay ào ào trên không. Không quân Mỹ oanh tạc các căn cứ Nhật trong thời đệ nhị thế chiến. Mọi người dáo dác định dừng xe tìm chỗ ẩn náu. Các cụ bô lão kiêng không cho xe đám cưới ngưng giữa đường nên ra lệnh cứ đi tiếp. Thế là một đoàn lính thú kéo xe chạy trối chết, chạy thục mạng để đưa người thiếu nữ vu quy.

Mẹ tôi lên xe hoa về một nơi xa lạ, sống với một người đàn ông chưa hề được một lần ngồi nói chuyện riêng, hôn lễ do hai bên cha mẹ sắp đặt, nghe các bậc trưởng thượng dặn dò đã sụt sùi rơi lệ, mới bước chân khỏi cửa đã thấy nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ các em, nhớ ngôi nhà êm ấm…
Theo tục lệ, các bà cô, bà dì cài mấy chiếc kim băng sau tà áo cưới của mẹ tôi để trừ tà ma và những điều xui xẻo, không quên dặn dò thêm:

- Đến nhà trai con nhớ đứng hai chân ngay thềm cửa, trước khi bước vào nhà nhé!
- Khi thay áo con nhớ treo áo của mình phủ lên áo của chồng!
- Khi ngồi xuống giường tân hôn nhớ ngồi phía đầu giường!
Các bà cho là làm như thế sẽ không bị chồng bắt nạt sau này. Bà nội tôi chỉ đến lễ xin dâu rồi về ngay, tránh gặp mặt con dâu, cũng là kiêng cữ để khỏi bị cảnh mẹ chồng, nàng dâu đụng chạm.

Vừa hoàn hồn sau cuộc chạy tơi tả, bước đến ngưỡng cửa, cô dâu đã thấy nhà trai để bếp lò với mấy cục than tàu cháy đỏ yêu cầu bước qua. Mẹ tôi lúng túng không biết phải đứng hai chân trước hay sau khi bước qua cái bếp than hồng. Cuối cùng mẹ tôi chẳng nhớ là có đứng một lúc hai chân trước khi vào nhà chồng hay không.

Tháng ba năm sau, ông ngoại tôi bị đau ruột thừa phải vào nhà thương, mổ xong bị nhiễm trùng, không có thuốc chữa nên đã qua đời. Bà ngoại tôi ốm yếu, cả ngày khóc thương chồng nên sáu tháng sau cũng theo ông. Bà nội của mẹ tôi thương con, thương dâu cũng lìa đời sau đó vài tháng. Mẹ tôi lấy chồng năm mười tám tuổi, chỉ mấy tháng sau liên tiếp chịu ba cái đại tang. Các cậu tôi khi ấy còn nhỏ nên hội đồng gia tộc đã họp lại để định đoạt. Hai cậu lớn, cậu Ngọc lên mười, cậu Chương lên bảy, mỗi cậu được giao cho một ông chú, còn cậu Út Thắng mới hai tuổi, Cụ Lý, bà ngoại của mẹ tôi thương quá xin đem về nhà quê để cụ nuôi. Xảy đàn tan nghé, mẹ tôi mới chân ướt chân ráo về nhà chồng, các cụ cho là nữ nhân ngoại tộc, không được quyền tham dự, không được có ý kiến gì trong việc sắp xếp, phân chia. Ruộng vườn, nhà cửa ở dưới quê của ông bà ngoại tôi được chia cho các ông chú lo phần nuôi dạy các cháu.

Mười tám tuổi bước vào đời trong thời buổi loạn ly, cả nước tang thương vì nạn đói Ất Dậu 1945. Sáng sáng có những chiếc xe bò chất đầy xác người từ nhà quê ra tỉnh kiếm ăn, chết vì đói. Miếng vỏ chuối vừa vứt ra đường thì cả đám người xúm lại giành dựt. Bà nội tôi có sạp vải trong chợ Bắc Qua, cha tôi làm y tá trong nhà thương, cô Nga, em út của cha tôi năm đó mới lên tám. Gia đình bốn người không bị đói nhưng cũng nghèo.

Ông bà ngoại tôi đã mất, mẹ tôi không còn nơi nương tựa, cậy nhờ. Với chút chữ nghĩa làm vốn, mẹ tôi đi thu mua đồ đạc của những gia đình Pháp về nước, thầu từ thượng vàng, hạ cám rồi gọi lái buôn đến lấy hoa hồng. Sau đó mẹ tôi thuê một căn nhà ở phố Huế để mở cửa hàng, mua bán đủ thứ, từ sập gụ, tủ chè đến cái bát, đôi đũa, cái búa, cái đinh, nồi đồng, sắt vụn… Tháng mười hai năm ấy mẹ tôi sinh con trai đầu lòng. Anh Dũng đem niềm vui đến cho cả nhà, bà nội tôi vui sướng xiết bao khi có cháu đích tôn, yên chí đã có người nối dõi. Mẹ tôi vì quá lao tâm, lao lực nên sau khi sanh bị hậu sản tưởng chết. Nằm liệt giường mấy tháng, mẹ lại ngóc dậy lo thu vén tiền bạc, nhà cửa lên đường chạy loạn. Cha tôi khi ấy cũng như các chàng trai yêu nước khác, làm khu trưởng tự vệ thành, khu Bảy Mẫu. Sau khi thu xếp đưa cả gia đình về Phủ Lý lánh nạn lại trở về Hà Nội theo đoàn quân kháng chiến chống Pháp.

Những ngày tháng ở nhà quê, mẹ tôi được sống trong sự săn sóc thương yêu của Cụ Lý và bà Hai Lộc, bà Tư Luân, dì ruột của mẹ. Mẹ tôi gặp lại em út, nhìn em mà thương làm sao, tội làm sao! Ở quê nghèo, nhà tranh, vách lá, nền đất, đêm nằm ổ rơm, có ngô ăn ngô, có khoai ăn khoai, khổ sở về vật chất nhưng chan chứa yêu thương. Hai mẹ con yên chỗ, bà nội tôi đưa cô Nga về làng Bồng Lai, quê của bà.

Ông bà ngoại tôi người cùng làng nên Phủ Lý là cả quê ngoại lẫn quê nội của mẹ. Cụ Lý năm ấy cũng đã già, Cụ ông là Lý Trưởng, con cuả cụ Tuần, cả hai cụ đều đã qua đời. Cụ đưa mẹ tôi xem nền nhà cũ. Từ ngày xửa ngày xưa, từ trước đời Cụ Tuần, đó là một nếp nhà ngói khang trang, tường xây bằng gạch. Vì quá cũ nên căn nhà dột nát, mới bị sập. Ông ngoại tôi có gửi tiền về để trùng tu, gạch ngói đã mua đủ cả, nền nhà được dọn sạch sẽ thì ông mất. Cụ sang ở tạm trong dẫy nhà ngang bằng lá. Tuy bằng lá nhưng cũng rộng rãi, sạch sẽ.

Ông nội của mẹ tôi là cụ Đồ, cụ Đồ quanh quẩn trong làng dạy con trẻ dăm ba chữ thánh hiền. Một tháng đôi lần cụ cắp tráp lên phủ, lên huyện làm đơn cho các bác nhà quê vô phúc đáo tụng đình. Cụ ông mất sớm, cụ bà quê mùa, hiền lành. Vì vậy em trai của cụ ông, khi ấy đang làm ở nhà máy rượu Hà Nội, về đón bốn cháu trai lên tỉnh ở với cụ để cụ trông nom và cho đi học cùng với bày con của cụ. Xảy cha có chú, ông anh mất, ông em có trách nhiệm với các cháu mồ côi. Cụ bà ở lại nhà quê với mấy người con gái. Thế là ông ngoại tôi ra Hà Nội từ bé, học ra giáo học rồi cùng với mấy người bạn mở trường tư thục Thanh Bình ở góc phố Huế, trông ngay sang Chợ Hôm.

Được vài tháng êm đềm cha tôi từ Hà Nội về đón bà và mẹ tôi, đưa cả gia đình chạy tiếp. Cứ lếch thếch, lôi thôi, bồng bế dắt díu nhau đi bộ từ làng nọ đến làng kia. Khi ấy mẹ tôi có thai người con thứ hai là tôi. Bụng mang dạ chửa, chân yếu, tay mềm… Khí hậu miền Bắc khắc nghiệt, mùa hè nóng cháy da, mùa đông rét cắt thịt. Ngoài quần áo và vật dụng tùy thân phải có chăn, có chiếu. Bà nội già, cô Nga quá bé, mẹ tôi cũng không xốc vác được, cha tôi phải theo đoàn thể không ở thường trực với gia đình nên bà tôi phải thuê chị Sửu, một cô gái quê theo để gánh gồng. Từ đó chị Sửu quảy đôi quang gánh, một thúng cho anh Dũng ngồi còn đầu thúng kia chất chăn chiếu. Mỗi người chỉ khoác một cái tay nải con.

Cứ theo dòng người mà đi, lên tận Việt Trì, Lào Cai, Yên Bái, lên mạn ngược gần biên giới Trung Quốc. Nhìn khói lam chiều buông, buồn não lòng, nhìn những người tản cư chết vì kiệt sức, chết vì sốt rét ngã nước, nhìn cháu đích tôn không có sữa mà uống, phải húp nước cháo, gặm củ khoai … thêm bụng mẹ tôi mỗi ngày một to, bà tôi thương quá. Bà bàn với cả nhà quay về miền xuôi.

Sang năm 47, gia đình tôi về đến Phú Thọ, lưng vốn đem theo đã cạn dần, bà và mẹ phải kiếm cách buôn bán, chạy chợ nọ sang chợ kia, gặp gì cũng mua, có lời là bán. Một hôm mẹ tôi tính nhẩm sắp đến ngày sanh, nghe nói bên Phúc Yên có bà đỡ từ Hà Nội mở phòng đỡ đẻ nên thu xếp dọn về đó. Cả nhà còn đang thất thểu trên con đường xuyên tỉnh, chưa đến làng mới thì nghe tiếng dội bom, ngoảnh lại Phú Thọ chìm trong cả một biển lửa. Bà và mẹ tôi quỳ ngay xuống vệ đường cảm tạ Phật Trời, nếu mẹ tôi không quyết định đi, nếu tôi chưa đến ngày sanh thì … bây giờ tôi ở đâu?

Rồi một đêm không trăng, không sao mẹ tôi trở dạ. Lệnh thiết quân luật buổi tối không ai được ra đường, bà đỡ lại ở làng bên. Cả nhà cuống quýt, cha tôi đốt một nắm đuốc, bà tôi cầm cây đèn dầu, hai người dìu mẹ tôi đi. Cô Nga, chị Sửu ở lại trông anh Dũng. Trời tháng ba còn rét ngọt, rét căm căm, những bóng đen in trên lòng đường, qua ánh đèn dầu, ánh đuốc, lập lòe, xiêu vẹo như những bóng ma trơi. Và… tháng ba năm ấy, trong một chòi lá, trên một chiếc chõng tre chiều dài không vừa cho một người nằm thẳng, một người thiếu phụ trẻ oằn mình trong cơn đau đẻ … Trong đêm tối đen bà tôi phải ra ao múc từng thùng nước, lấy rổ lọc đỉa, lấy vải lọc lại rồi đun sôi, hòa với chút thuốc tím để tắm cho đứa bé gái oe oe khóc chào đời.

CUỐN THEO CHIỀU GIÓ
Nhạc và Lời: Anh Việt Thu.
Một ngày nào về thăm đất mẹ.
Đường về mưa bay giăng mắc lối đi.
Còn tìm đâu xanh xanh hoa cỏ?
Tìm đâu đêm đêm trăng tỏ?
Tìm đâu tiếng ru vào nôi?

Còn tìm đâu, tìm đâu mái nhà?
Còn tim đâu ngôi trường cũ mến yêu?
Còn tìm đâu mây buông tóc xõa?
Tìm đâu em thơ nho nhỏ?
Tìm đâu tuyết sương mẹ già?!

Gió cuốn nước chảy lạnh lùng.
Đường xưa muôn lối biết đi tìm đâu ngày thơ?
Lặng nhìn mưa, mưa rơi nức nở,
Mây trắng xây thành buồn dâng, dâng lên ngất trời!
Ngày thơ ơi đã qua mất rồi!
Còn niềm tin trong lòng vẫn nở hoa.
Còn dìu nhau trong cơn mưa gió,
Dìu nhau trong cơn giông bão,
Dìu nhau dắt nhau vào đời.
Tiểu sử Anh Việt Thu (rất chính xác):
http://my.opera. com/diemxuacafe/ blog/nh-c- si-anh-vi- t-thu
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #8 - 30. Nov 2009 , 11:31
 
Vô Danh Thị/VN.
Tôi du học Tây về! Câu đơn giản thế nhưng lanh lảnh như tiếng chuông mới đúc. Chữ “Tây” không chính xác về địa lý nhưng chuẩn xác về sự phân chia cấp bậc cũng như cái nhìn trong xã hội. Có điều tôi chỉ đi “Tây” Nga về chứ không “Tây” Mỹ, “Tây” Úc hay “Tây” Đức, Pháp... Cái “thiệt thòi” hôm nay là “ưu đãi” trước kia của Bộ đại học dành cho tôi. Chả gì nước Nga cũng “ông anh cả” của Việt nam – “nước cộng hòa thứ 16 của Liên xô”. Tôi là kỹ sư kinh tế ở Nga về. Nghe không vang như câu trên. Phải thôi.
Kinh tế Nga chục năm nay lu mu, chả ra “kế hoạch quốc gia”, chả ra “kinh tế thị trường”. Sách vở là phương tiện cãi nhau của các nhà “đổi mới”. Năm năm đèn sách nhét thứ đó vào đầu không ngớ ngẩn là may. Tôi mang chiếc bằng đi xin việc. Đầu tiên tôi mua báo, nghiên cứu “tuyển người”, đánh dấu xanh đỏ những chỗ “khả thi” và bắt đầu gọi điện. Nhà có điện thoại lợi đủ đường. Tuy nhiên, mỗi lần “bắt” được giọng đầu dây kia, hiện tượng này chiếm 30% số lần gọi, mẹ và bà chị dâu đều “ý tứ” xem đồng hồ. Nào tôi có ham “nấu cháo điện thoại” mà tại phí điện thoại “cấu” vào đồng lương gớm quá. Tôi đi Tây, tưởng “kinh tế” cho gia đình mấy năm sinh viên. Nào đâu đúng thời kỳ khó khăn. Việt nam qua thời “tem phiếu” từ lâu mà nước Nga bắt đầu “talon”*. Tháng 2 kg đường, 7 lạng thịt, 2 chai vôtka là tiêu chuẩn sinh viên! “Talon” đường, rượu tạm đủ còn thịt thiếu nặng. Ra chợ, có đấy, nhưng học bổng eo hẹp.
Chẳng nhẽ để con gái chết đói ở đất nước Xã hội chủ nghĩa, mẹ tôi đành tiếp viện. Năm năm “hạch toán” ra chắc cũng lõm của mẹ tôi ối. Biết thân, biết phận, về nước tôi không dám làm mình, làm mẩy “quen ở Tây” thế nọ, thế kia. Chỉ duy nhất cái “màn tra tấn” 6 giờ sáng bị khua bằng đủ âm thanh “nội” “ngoại” là tôi “choáng” hẳn.. “Nội” là tiếng mẹ tôi mở cửa sắt đi tập thể dục, chị dâu tranh thủ sáng có nước bơm giặt giũ. Xô chậu “duyệt binh” xủng xoảng ra trữ nước dùng trong ngày. “Ngoại” là tiếng rao bán. Từ “mỳ nóng”, “bánh cuốn”, “xôi” các loại đến gạo tẻ, gạo nếp “tên tuổi” nghe như tiếng Thổ, hoặc mắm muối kèm mùi khó tả... Điên nhất là ông mãnh “mỳ nóng” sáng nào cũng như “đồng hồ Tây”. Nó đứng dưới cửa sổ tôi gào “mì nóng” lanh lỏi, kết thúc bằng chữ “ròn”. Chao ôi, khâm phục độ nẩy của lưỡi nó. Đồ rằng, cả miền Bắc có mình nó biết phát âm chữ R! Không trốn được những âm thanh đó, tôi chúi đầu vào đống chăn chịu đựng qua “cơn bĩ cực”. Nhưng giờ “thái lai” đến là lúc mẹ tôi đi tập thể dục về. Nhìn con gái còn “giương đò”, bà lại ca “dậy sớm có lợi cho sức khỏe” là lá la... Thôi thà dậy béng cho xong. Chuyện xin việc không thể gọi điện thoại. Tôi đã qua bài học thứ nhất khi tổng kết thông tin qua điện thoại là con số 0 tròn trĩnh. Mấy người trực điện thoại hoặc nhấm nhẳng hoặc chẳng trả lời câu nào cho ra hồn. Tôi mò tới “Trung tâm giới thiệu việc làm” và thấy ngay mình là con ngớ ngẩn. Vừa lộ “tốt nghiệp ở Nga về”, họ hỏi ngay: - Sao không ở lại, về làm gì? - Làm việc. - Việc gì mà làm? Tôi trố mắt nhìn họ, thầm điểm lại xem mình có vào nhầm chỗ. - Ở đây không giới thiệu việc à? Sao ngoài kia cả chục người làm hồ sơ? - Họ làm hồ sơ xin đi ra nước ngoài lao động, làm ăn. Đi Hàn quốc, Libi, Iran... có cả đi Nga đấy. Cô có muốn... Tôi xua tay cám ơn rồi chuồn thẳng ra cổng. Bài học thứ hai. Tránh lai vãng ở “Trung tâm giới thiệu mờ ám”. Không khéo bị lẫn vào hàng ngũ các cô gái “sính” chồng Đài Loan. Sau hai bài học, 50% nhiệt tình “phục vụ đất nước” đã đi tong.
Tôi chuyển sang “xu hướng” nghe ngóng chứ không đâm đầu làm theo báo nữa. Người thân mong ngóng tôi về sau những năm xa cách, qua 5 tháng, tình cảm cũng vơi đi. Đến mẹ tôi còn sốt ruột khi thấy con gái thất nghiệp nằm chỏng gọng ở nhà. Bà rỉ rả “nhàn cư vi rồi đấy con ạ”. Đúng quá, nhàn đến “rách việc” đây. Sáng chiều cơm nước. Từ ngày tôi về, tự dưng “Osin” về quê. Chả hiểu bà chị dâu tốt nghiệp khoa kinh tế ở đâu mà giỏi tính thế. Tôi hậm hực cũng chịu, nhăn nhó mẹ tôi chả “hát” nửa tiếng đến ong thủ mất. Bạn bè, đứa có việc đi cả ngày, đứa chưa có việc lại có người yêu, chồng con. Tôi trơ thổ địa, chẳng nhẽ trách ông Trời. May còn dăm ba đứa “lơ lửng giữa trời”. Tối tối tôi xách xe chạy qua nhà chúng tán gẫu, chia xẻ “mánh khóe sống đời”. Tôi hiểu giờ người ta xin việc là xin vào chỗ có “mầu”.. “Mầu” là bổng lộc. Khoản này không thể có ngay khi mới làm mà phải nhích lên “lão làng”. Không phải ai cũng nhấp nhổm lên được. Chỉ những “tinh hoa” thôi. “Mầu” nữa là “mầu đi Tây” theo suất “nâng cao”. Tụi bạn tôi may mắn có việc thấy chí tiến thủ của chúng nhuộm sắc “hướng ngoại”. Chúng cong mông theo các lớp tiếng Anh, tiếng Pháp như lũ “sống gấp”, xem ngoại ngữ là cái “cánh” mang chúng ra bầu trời tự do. Sau mấy tháng “thất nghiệp” từ một con “Nga ngố” tôi kết hợp tính nói thẳng, nói thật của Tây với ngoa ngoắt của mấy bà hàng rau, hàng thịt mà mỗi ngày hai lần tôi nhẵn mặt thành một dạng “củ chuối” mà mẹ tôi không chấp nhận được. Bạn bè bầu tôi là “huấn luyện viên phụ huynh” tầm cỡ. Từ chỗ mẹ tôi muốn lấy lại hình ảnh đứa con gái út thùy mị của trước ngày đi Tây, chuyển sang tôi “biến” bà phải chấp nhận triết lý “cái gì cũng có thể với con gái mình”, thậm chí là cướp biển! Một kết quả đôi bên cùng có lợi.. Tôi được tự do, mẹ tôi khỏi thấp thỏm khi khuya khoắt. Nhưng một cái lợi nữa mà tôi chưa lường được.
Tình trạng “bụi đời” của tôi khủng bố tinh thần cả nhà nên họ huy động toàn bộ các mối quen biết họ hàng từ “bắn đại bác” đến “phi dao” để tìm việc cho tôi. Vào một bữa cơm chiều, ông anh trai yêu quý thông báo một tin quan trọng rằng ông giám đốc, bạn cũ hồi phổ thông, dù mới tìm lại nhưng có nhiều duyên nợ, nhận tôi vào công ty ông ta. Mà đó là công ty nhà nước trăm phần trăm, thuộc Bộ khoa học và Công nghệ môi trường cơ mà. Cả nhà xôn xao, khởi sắc. Tôi cũng hí hửng như sắp thành “ông nọ, bà kia”. Thêm bài học thứ ba. Muốn xin được việc phải quen biết. Tổng quát, muốn được bất kỳ việc gì đều phải có “quan hệ”. Cứ kiểm chứng bằng những buổi tôi “đánh quả” nhà bạn bè là biết. Chị dâu hay mẹ tôi đi chợ, y rằng bọn bán hàng nó giúi cho rau già, bí xơ, thịt dai nhoách. Không có “quan hệ khách hàng thường xuyên” tôi xây dựng mấy tháng nay làm sao có đồ ăn ngon. Tôi giờ ra chợ mua cả tuần không trả tiền là cứ vô tư. Quen thế, không chừng khi nào cưới, tôi phát đại cho chúng thiếp mời cũng chẳng có gì muối mặt hết! Ông anh giục tôi tới Bộ Giáo dục và Đào tạo xin giấy chứng nhận tốt nghiệp làm hồ sơ. Tôi ngoạc mồm cãi “bằng sờ sờ ra còn chứng nhận, chứng nhiếc gì” liền bị cả nhà xúm vào sỉ vả ác liệt. Mỗi người một giọng lên lớp hòng dẹp cái thói “ngông nghênh” của tôi. Mười giờ sáng tôi có mặt ở cổng Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” có khác, nhà cửa của Bộ đàng hoàng, khang trang. Khu vườn thênh thang giữa thủ đô tấc đất, tấc vàng nhìn sướng mắt. Tôi tiến đến khu nhà 5 tầng, bắt đầu một chuỗi những “xin lỗi chú”, “xin lỗi cô” và cuộc “việt dã” theo cầu thang. Giờ tôi mới biết người Việt nam nào có tính “nhúng mũi” vào chuyện người khác. Tất cả các câu hỏi của tôi đều được trả lời u ơ “không rõ”, “hình như”. Tôi khùng người vì leo thang nhưng ngộ ra vì sao mẹ tôi về hưu rồi còn tập chạy(!).
Cuối cùng tôi cũng mò ra phòng phụ trách lưu học sinh tốt nghiệp. Tôi gõ cửa dõng dạc, bước vào sau tiếng hừm.. Tôi chào lịch sự dù chỉ nhận lại chiếc gật hay lay động cơ cổ. - Cô cần gì?
Một trong hai người đàn ông đang đọc báo hất hàm hỏi.
   - Thưa, cháu xin chứng nhận tốt nghiệp để làm hồ sơ xin việc.
   - Về bao giờ?
   - Dạ, gần một năm.
   - Sao giờ mới lên đây?
   - Dạ... chẳng ai bảo cháu phải lên ngay cả.
   - Cô này vô tổ chức, nguyên tắc về nước phải báo cáo ngay, còn chờ ai bảo. Bị mắng “ngứa tai” lắm nhưng bài học cả nhà dạy hôm qua còn nguyên nên tôi im như hến. Tôi rút bằng, sổ điểm cùng giấy sứ quán cấp trình ông ta. Ông ta cầm tấm bằng, không đọc mà lật qua, lật lại. Lật chán ông quay nhìn tôi.. Nhìn như đánh giá mặt hàng, không khác gì tôi chọn cá. Thậm chí còn bĩu môi. Tôi nghĩ, ông này mua cá mà “thể hiện” thế, bọn hàng cá chửi cho tanh người. Nghĩ gì thì nghĩ tôi vẫn làm mặt khép nép. Chợt ông ta ném bẹt cả bằng lẫn giấy tờ của tôi xuống bàn, hỏi gọn lỏn:
   - Học gì? Ở đâu?
   - Dạ kinh tế, trường Plekhanov ở Matxcơva.
   - Học từ năm nào? Tốt nghiệp năm nào?
   - Dạ... những điều đó có cả trong bằng rồi, sao chú còn hỏi.
   - Tôi hỏi là việc của tôi. Cô không trả lời được phải không?
Ông ta ngẩng nhìn tôi mãn nguyện. Chả hiểu ông ta phát minh được cái quái gì từ mấy câu hỏi trẻ con đó mà mắt ông chợt ánh lên ranh mãnh.
   - Cô học hành cái gì. Sang chỉ lo đi buôn, bằng thì mua.
Tôi há hốc mồm còn chưa tin ông ta đang “vu cáo” mình. Ông ta dồn tiếp:  - Cô nói tôi nghe, bằng này cô mua bao nhiêu?
Đến nước này tôi chịu hết nổi. Bao kinh nghiệm cãi nhau với mấy bà ngoài chợ chợt loang loáng trở về. Tôi vênh mặt không kém ông ta, mắt cũng “đèn pha ôtô” xoáy áp đảo:
   - Chú nói bằng này giả? Chú nói bằng này mua? Nghĩa là bảng điểm cũng giả, giấy chứng nhận của chú trưởng phòng Lưu học sinh Matxcơva cũng mua nốt. Vậy chú làm ơn ghi cho cháu mấy chữ vào đây. Tiện ký và đóng dấu luôn cho cháu. “Nói có sách, mách có chứng”, mai kia có người sang Matxcơva, cháu kiểm chứng lời chú. Vừa nói tôi vừa rút xoạch tờ giấy và cây bút đặt trước mặt ông ta. Ông ta đứng bật dậy, há hốc mồm chẳng khác gì tôi lúc trước, lắp bắp:
   - Cô... cô ăn nói với tôi thế hả. Giọng lưỡi con buôn...
   - Chú nhìn người như thần. Cháu học kinh tế chú nói đi buôn. Bằng chú lật qua mà biết giả, thật kém gì người buôn “xanh”... Ông ta đập bàn đánh rầm:
   - Cô tưởng đây là chợ, cô phát biểu vô tổ chức... biết đây là đâu không?
   Tôi suýt nữa cũng học bà bán thịt bò kèm 70% thịt trâu ngoài chợ chống tay vô hông, “quạc” lại:
  - Cháu biết... thì chỉ có chợ mới nói “giả, thật, giá bao nhiêu” chứ.
Mặt ông ta đỏ rần như người có triệu chứng huyết áp “quá tải”. Tôi trót “cưỡi lưng hổ”, tự biết không đường lui.
Cuộc đấu khẩu sẽ đến đâu nếu không có tiếng cười của người đàn ông thứ hai trong phòng. Cả hai “đối thủ” cùng dồn mắt sang ông ta. Người đàn ông chậm rãi tới bên tôi. Nét mặt hòa nhã nhưng mắt giấu vẻ khoái chí sau cặp kính.
   - Cháu nói với chú Đạo thế là không được. Chú Đạo người lớn chẳng chấp cháu “trẻ người, non dạ” làm gì. Đứa nào mới đi Tây về chẳng thế. Đưa bộ copy đây chú vào sổ. Chiều mai lên lấy giấy ở phòng 32. Thôi, chưa xin lỗi chú Đạo còn chờ gì?  Nghe vậy là tôi đủ “thông minh” hiểu ý. Một trọng tài kinh nghiệm thổi còi đúng lúc nhắc hai cầu thủ “fair play”! Tôi chuyển tần số lời nói:
   - Chú Đạo bỏ qua cho cháu mấy lời láo lếu vừa rồi. Ở nhà cháu vẫn bị mẹ mắng suốt vì tội cãi bướng mà. “Chú Đạo” kia mặt vẫn đỏ nhưng lẽ nào không “miễn cưỡng bắt tay đối thủ”. Ông ta lầm lỳ chẳng ra gật, ra lắc ngồi xuống cầm tờ báo đọc tiếp. Tôi lại gần người đàn ông mang kính để ký vào sổ, khẽ nói nhỏ:
   - Cháu cám ơn chú nhiều. Ông ta mỉm cười với tôi:
   - Molodec! (Cừ lắm!)
Bữa cơm chiều, tôi “tường thuật” lại chuyện “chú Đạo”. Chị dâu tôi khoái bất ngờ tới mức trước mặt mẹ chồng dám vỗ đùi đôm đốp. Tôi ngờ rằng bà này cũng từng bị cái Bộ kia “đì” rồi nên giờ được “trả thù quá khứ”. Mẹ và anh tôi nhăn nhó. Mãi sau mẹ mới chép miệng:
  - Mày thật chả khác bố mày ngày xưa.
Bố tôi ra đi sớm khi tôi mới 10 tuổi. Tôi chẳng còn nhớ nhiều về bố. Nhưng tôi tin, nếu ông còn, ông sẽ xoa đầu con gái rượu chứ chẳng mắng đâu. Đầu tuần, theo lời ông giám đốc tôi đến cơ quan làm việc. Không biết nếu tôi đi làm dâu mẹ tôi có lo như tối hôm trước ngày tôi đi làm. Bà đi ra nhắc, đi vào dặn. Anh trai tôi răn đe:
   - Mày làm thế nào cho tao còn gặp lại được bạn bè. Bớt mồm đi. Người ta hỏi, trả lời cho ngoan ngoãn. Lớn rồi, nghe hỏi phải biết ý họ mà trả lời.
   Con bạn thân đọc “lesson” cho tôi lĩnh hội. Nào bánh kẹo, thuốc lá, trà ra sao, chào ai cô chú, ai anh chị... Đặc biệt khoản “ngoại hình”:
   - Mặc đầm cho nữ tính. Đầm dài bớt ganh ghét của đồng nghiệp nữ nhưng mất cổ động viên nam. Độ ngắn của đầm tỉ lệ thuận với trình độ văn hóa.
  Tôi lục tung valy tìm ra chiếc đầm xanh. Màu hơi ngớ ngẩn nhưng có vẻ nữ tính. Độ dài của nó vừa khéo để không sexy cái đầu gối củ lạc, lại chứng tỏ tính kín đáo của bằng Đại học. Tôi đi sớm, lởn vởn chờ phòng số 4 có người. Theo lời giám đốc, tôi xông tới “làm quen”. Ở nhà mẹ vẫn khen tôi có đức “trơ tráo”. Tôi còn nhiễm tính “tự tin mù quáng” của người Nga nên chả bối rối chút nào khi bước vào. - Chào các chị, các anh - Tôi hơi nghêng người và nở nụ cười bài bản  - Em là Thu, anh Bình giám đốc nhận em vào làm công ty mình từ hôm nay.  Năm người, định vị năm bàn quay nhìn tôi. Một giây, hai giây... năm giây. Tôi chợt thấy nụ cười trên môi mình vô duyên trước 10 chiếc mắt dọi vào. Từ hôm về nước, tôi xem nhiều phim Việt nam và không chịu được vẻ vô cảm của các “sao” điện ảnh. Giá họ học được vẻ mặt của năm người đang chiếu tướng tôi đây chắc nền điện ảnh Việt nam sẽ phất kém gì Holywood.   Sang giây thứ sáu, muốn hay không nụ cười của tôi cũng không le lói hơn được nữa. Tôi đứng đực ra chờ phản hồi nhưng hình như họ cố làm vẻ nghễnh ngãng. Tôi thầm rủa số mình đi đâu cũng không xuôi xẻ.   - Sao tôi chả biết gì nhỉ? Một giọng nam chất kim vang lên phá tan bầu không khí “mặc niệm”.
  - Ông Bình làm những chuyện lạ đời. Đùng đùng cái gì cũng theo ý mình, hay dở thế nào cho người khác đổ vỏ. Giọng nữ ồ ồ cằn nhằn.
  - Em có nghe loáng thoáng - giọng cô gái khá trẻ ngồi bàn gần cửa – Anh Bình nói nhận người về. Sắp tới công ty mình ký hợp đồng với công ty thiết bị y học của Nga. - Ôi dào, viện này thiếu gì kỹ sư học Nga về. Toàn thằng chẳng làm được việc gì lại còn nhận thêm.  Giọng kim vừa nẫy nhưng tôi đã phát hiện ra của người đàn ông ngồi góc phải. Dù cửa sổ mang ánh sáng ban mai vào nhưng khuôn mặt ông vẫn không vì thế bớt già nua và nhăn nhó như quả táo Tàu. Kinh nhất là cặp mắt kẻ chỉ, khó đăm đăm đang tranh thủ “miệt thị” tôi. Tôi vẫn đứng vì chả có ai định mời mình ngồi xuống chịu trận. May hôm nay tôi mặc chiếc đầm xanh. Tuy ngớ ngẩn nhưng theo các nhà “tâm lý học”, màu sắc có tác dụng giải tỏa. Màu xanh lờ lợ đó như lá chuối đặt trên thùng nước đang sánh qua sánh lại. Khổ nỗi “chiếc lá chuối” này không mảy may tác dụng “tâm lý” ông giọng kim. Ông chán bâng quơ, chuyển sang chĩa mũi dùi vào tôi:
   - Ai bảo cô tới đây?
  Kinh nghiệm ở Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dạy tôi chẳng nên ngạc nhiên trước câu hỏi thừa. Ngoan ngoãn như lời ông anh dặn, tôi thỏ thẻ:
   - Dạ thưa, anh Bình dặn sáng nay em tới làm quen với các anh chị.
  Tình hình nghe ra chẳng sáng sủa hơn sau câu trả lời nhún nhường của tôi. May cô gái gần cửa bước tới kéo ghế mời tôi. Tôi đầy cảm kích. Tôi liếc tìm bộ ấm pha trà, lấy mấy gói bánh kẹo, thuốc lá ra đặt trên bàn, mạnh dạn hỏi cô gái còn đang đứng gần tôi:
  - Cho mình mượn mấy chiếc đĩa được không?
“Đồng minh trong hy vọng” của tôi nhanh nhẹn mở tủ lấy đồ và giúp tôi. Tôi thầm cám ơn Trời. Dù thái độ của tôi giờ không còn tự tin như trước nhưng tôi vẫn đủ “khả năng” bê ra từng bàn mời các vị đang chiễm chệ đọc báo và bình luận chuyện không đâu. Tất nhiên họ uống trà. Tất nhiên họ gặm nhấm bánh kẹo và coi sự phục vụ của tôi là “tất nhiên” khỏi cần cảm ơn. Còn tôi “tất nhiên” phải quên thói lịch sự của Tây mà coi đó là văn hóa Việt nam!
   Người đàn ông ngồi gần cửa sổ chợt cắt ngang câu chuyện về giá xe máy Thái lan đang xuống: - Em học ngành gì bên Nga?
  - Dạ em học Kinh tế.
  - Lại Kinh tế - giọng kim lần này hơi méo có lẽ do chiếc kẹo Hải châu còn mắc trong răng – Đâu cũng nhan nhản kỹ sư kinh tế. Mang tiếng học hành mà chả biết “đếch” gì. Làm hợp đồng viết ngu bỏ mẹ. Cháu ông Viện phó học Kinh tế vừa vào Viện, con bà Hoài phòng “Công nghệ nguyên tử” cũng đang làm hợp đồng bên đó.
  Tôi khẽ nhăn mặt. “Lại gặp bạn “chú Đạo” rồi. Giờ mà ông hỏi giá bằng Đại học, mình phải hô bao nhiêu đây?”.
  - Cô ở đâu đến đây?
  Chiếc kẹo đã chui tọt vào họng nên câu hỏi vang lên lanh lảnh. Một câu hỏi đơn giản như bài học đầu tiên của chương trình học ngoại ngữ, ông có hỏi bằng tiếng Anh tôi vẫn trả lời vô tư.
  - Em ở Hà nội ạ.
Những khuôn mặt “đầy ấn tượng” hiện ra. Cáu kỉnh là của ông giọng kim:
  - Ai chả biết Hà nội. Quen ai mà tới đây?
  - Á... – hơi ngượng vì sự “chậm hiểu” nhưng tôi chữa ngay
  - Dạ, em chỉ quen anh Bình giám đốc thôi ạ.
  - Quen mỗi ông Bình mà xin được vào Viện lớn thế này.
Giọng ồ ồ thắc mắc kèm theo cái nhìn nghi vấn rất “nữ tính”. Tôi còn quen thêm được ai từ ngày về nước ngoài mấy bà buôn ngoài chợ.
  - Thế cô con ai?
Cái hất hàm đầy tính “khảo sát” của ông giọng kim chĩa vào tôi. Tất nhiên lần này tôi đã “thấu” câu hỏi. Ông anh tôi chả dặn phải xem ý người ta mà trả lời là gì. Tôi dõng dạc:
  - Dạ em không con ai cả ạ.
Có bịt tai tôi cũng nghe tiếng cô gái “đồng minh” cười váng lên. Tiếng ho khục khục giấu tiếng cười “thiên nhiên” là của ông ngồi kế cửa sổ, anh chàng trung niên từ đầu chưa nói gì chợt rút kính lau lấy, lau để. Chỉ còn lại hai khuôn mặt của hai chất giọng “ngược đời” là thộn ra. Giọng kim rít lên:
   - Cô học đâu kiểu nói trêu ngươi thế hả? Cô biết tôi là ai không?

Tôi nghệt mặt chả hiểu mình có tội gì. Tôi quay sang “đồng minh” cầu cứu nhưng cô ta còn mải cười đến mức chạy bắn ra hành lang, vội vàng lao ngay vào ông Bình đang bước tới. Cô khẽ “Ối”, ngượng nghịu. Bốn người còn lại kéo ghế đứng lên chào đồng loạt. Chỉ có tôi đang ngẩn ngơ vì “quả mắng” nên ngồi tại chỗ khẽ lúng búng.
- Chào mọi người! - Giọng sang sảng đúng chất Sếp - Làm quen vui quá. Nhân viên mới có quà cho anh em hả. Được đấy. Quay sang bên, ông giám đốc nói:
  - Anh Trung tổ chức và chị kế toán lên phòng tôi có việc cần bàn nhé!
Hai người đứng dậy theo ông lên phòng. Tôi toát mồ hôi. Thôi xong. Ông
anh nhắc “khéo lời với ông trưởng phòng tổ chức mới hòng được vào biên chế”. Loạng quạng thế nào tôi “trêu ngươi” ông ta rồi. Vụ này khéo đứt! Ngày sau, tôi đến, chẳng có chỗ riêng của mình trong phòng, chẳng có việc cụ thể. Giám đốc bảo làm quen công việc nhưng có ai nói năng gì với tôi đâu. Cô “đồng minh” trở nên giữ kẽ. Mặt ai cũng như bức tường. Cảm tưởng tôi bị tẩy chay. Tôi ra hành lang nghe chim sẻ chíu chít trên nhánh xà cừ, buồn bã như giữa đảo hoang. Vài ngày sau, giám đốc chỉ tôi phòng nhỏ, kêu dọn dẹp, kê bàn vào lấy chỗ làm việc. Sáng 8 giờ đi, trưa cơm nhà, chiều lại công ty. Việc duy nhất là ngồi và ngó qua cửa sổ. “8 giờ vàng ngọc” thoải mái tiêu. Chán, tôi lò dò xuống phố thăm tình hình Model của Hà nội. Từ ngày tôi đi làm, dù tập sự không lương, mẹ yên lòng hẳn. Tôi thành “thất nghiệp” toàn phần. Hiếm hoi gặp bọn bạn chẳng biết kể chuyện gì. Chẳng lẽ kể chuyện “năm anh em trên chiếc xe tăng” hở ra là nã đạn vào tôi. Hay kể chuyện Sếp sáng đảo qua công ty vài phút là biến. Thỉnh thoảng, ông định vị trong phòng thì toàn thấy “họp... kín”. Có lần không nén được tò mò, tôi ghé tai nghe trộm. Hoá ra các bố chơi “tá lả”. Tôi chán ngấy đóng vai người thừa. Ho hoe tính chuyện xin thử chỗ khác đã bị ông anh dạy thế nào là đức kiên tâm “trường kỳ kháng chiến”.. Tiền tiêu do mẹ tài trợ đủ ăn sáng, bơm xe, tình rỗng tuyếch, công việc đuổi ruồi. Tôi tù túng trong mọi ràng buộc từ nhà đến công ty. Mẹ tôi nhắc khéo chuyện “gia đình”. Tôi tỉnh queo:
  - Mẹ chi tiền. Con ra chợ coi thằng nào “sạch nước cản” mua về làm chồng. Bà chán. Tôi buồn, tôi nhớ nước Nga. Khi ở đó tôi chỉ nhìn thấy những điều đen tối mà chê nhưng khi về rồi, tôi biết, tôi thiếu nó. Cho dù ngày đó có bơ vơ, có khó khăn, khắc nghiệt nhưng tất cả thật rõ rằng để mình phải vượt qua. Còn sống nơi quê hương sao tôi lạc lõng. Ai giúp tôi mài bớt những sù sì, góc cạnh để có thể lăn tròn trong xã hội này? Tối thứ bảy, tôi ngồi nhà xem vở tuồng “tân cổ giao duyên”, ngoan như bà góa thủ tiết với chồng.

  Chuông điện thoại kêu, tôi uể oải nhấc.
  - Thu hả?
  - Thu đây, ai đó?
  - Còn nhớ Thắng “mập” không? Tao đây.
  - Ôi Thắng, mày đang ở đâu vậy? Tôi reo lên khi nhận ra thằng bạn thân từ ngày học phổ thông đến suốt năm tháng ở Nga.
   - Matxcơva chứ ở đâu. Mày thế nào, nghe tụi nó bảo đi làm rồi hả?
  - Làm khỉ gì, chán muốn bỏ. Tao đã thấy lời mày khuyên ở lại là “chân lý”.
   - Thế mày còn thích đến với “chân lý” không?
   - Thích cũng phải qua ối “cửa” mới tới được “chân lý”. Còn mày thế nào?  - Tao gọi về hỏi mày chịu qua giúp tao phụ trách phần kế toán cho công ty của tao ở Matxcơva không? Đồng ý tao gửi giấy tờ về làm hộ chiếu. Tao điểm ra chỉ mày đủ khả năng, đúng nghề và tính “bà la sát” của mày mới trị được bọn trong công ty. Nghĩ sao?  Tôi bất ngờ chẳng nói được lời nào. Hơn một năm qua, tôi đã biết, ở Việt Nam “nghề” sáng giá nhất là “nghề đi Tây”, “nghề xuất ngoại” dù ngắn hạn, dài hạn. Những ai chê “nghề” này chắc chắn là Sếp. Mà Sếp chỉ chê “dài hạn” vì đi lâu dễ “vênh cạ” chứ “ngắn hạn” Sếp OK đầu tiên.
  - Ê, chán nước Nga chưa mà im như thóc vậy?
   - Không... tao đang tính – tôi lúng túng không biết nên nói kiểu gì để hợp “phong cách người Hà nội”
   - mẹ tao lo đi nữa sẽ “ê sắc ế”...
   - À... mày định lấy chồng kiểu gì tao không biết nhưng nếu định lấy thằng yêu mày thì lấy tao đi. Tao yêu mày lâu rồi. Lần này tôi “cấm khẩu” hoàn toàn.
Thắng chợt chuyển giọng:
   - Nói thật đấy. Trời ạ, mẹ tôi nói cấm có sai “Ngưu tầm ngưa, báng bổ như mày, chỉ gặp thằng ngang ngửa”. Nhưng dù “củ chuối” cỡ nào tôi cũng không thể tưởng tượng ra được màn tỏ tình “mày” “tao” qua điện thoại quốc tế!  - Thu ơi, suy nghĩ đến trưa mai nhé! Thời Edison chỉ cho suy nghĩ 5 phút thôi mà -Thắng cười hì hì- không đùa đâu, 100% nghiêm túc. Hẹn mai!
  Máy bay cất cánh, mảnh đất quê hương chao nghiêng. Dòng sông Hồng kia rồi, quanh năm đỏ đậm phù sa. Hà nội li ti, nhấp nhô mái ngói. Tôi lại ra đi lần nữa. Chút nhơ nhớ, bâng khuâng về Hà nội, về mẹ. Giọng cô chiêu đãi viên Nga nhắc người ngồi cạnh đeo dây an toàn nghe quen như mới hôm qua. Nhưng hình như vẫn có gì là lạ. Có lẽ, lạ vì không ngơ ngác như khi xưa sang học. Con đường phía trước sẽ không trải thảm, sẽ không ít khó khăn, nhưng tôi biết, ở đó tôi có thể sống và làm việc mình mong muốn. Cảm giác tự do ngọt ngào. Hà nội mờ dần qua làn mây mỏng. Quê hương ơi, ta sẽ về như tìm bóng cây giữa con đường chang nắng. Sẽ về để thêm động lực ra đi. Về để hiểu ta Người Việt Nam và Quê hương ngàn đời vẫn một! ./.
Vô Danh Thị/VN



Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #9 - 03. Dec 2009 , 04:28
 
Chuong-com

Vợ Hiền                              

Tác Giả: Tràm Cà Mau      


               
Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn. Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị=2 0thì không chạy đâu cho thoát cả!


Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.  Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác.  Ngoài tình cảm thA Fm thiết chia sẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ. 


Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là 'tam thập nhi lập'. Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để dễ bề ép uổng. Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái vo`ng 'chuyên chính' của bà vợ nhà! Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng. Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rĩ nói với tôi:  - Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mày, một ngày thôi cũng đủ.  Nghe thế thì không sợ sao được? Trong sở tôi có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt! Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỷ sư giả bên Pháp về. Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi. 


Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra. Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá, chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?  Không nỡ để mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp.  Mẹ tôi đến thăm xả giao nhà Lam hai lần để dò xét gia thế, và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói:  - Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?  Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu. Tôi cố bào chữa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói:  - Mẹ thương con, mẹ không muốn sau này con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu.  Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi.  Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.  Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tôi thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt.  Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ sỉ vả tôi:  - Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả. Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi.  Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có ly' phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ.


Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu. Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng, có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau này. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.  Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc giục mãi. Tôi tâm sự với một ngưBi bạn cũ. Anh cười và nói:  - Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm.  Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép. Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo:  - Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui.  Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói:  - Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh. Em nào cũng vậy cả.  Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời:  - Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu. 


Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng. Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia đình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu và bảo:  - Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.  Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành động theo lối đó. Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng. Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại. 


Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi.Tôi thấy mình tan loãng vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo. Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ:  - Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế này, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật.  Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tích thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai20cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc. Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói:  - Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẳng làm nên được việc gì cả.  Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc này, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, ví ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định. Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn.  Tôi nghĩ, nếu những lúc này mà Mai dan vặt, nằng nặc buộc tôi tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lỗi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lỗi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mỉa, nói những lời tàn nhẫn. 


Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo:  - Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn.  Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác.  Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, đắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai than thở hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói:  - Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.  Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.  Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới. Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nổi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế gia đình.... 


Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Truớc ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi. Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tính mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẳng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia sẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy? Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam. Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức.


Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè, Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng, không tài san.


Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời.


Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền....  Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thườn g trực. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc giục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân.


Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi:  - Mình hãy xem cuộc đời này như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xảy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian này. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tư1ng lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương. Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ lạ lùng vô nhân kỳ quái này. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa trá hình. 


Khi tôi ngỏ ý tham gia một tổ chức phục quốc chống lại chính quyền cộng sản trong thành phố, thì Mai đồng ý ngay. Nàng nói:  - Chúng ta đã vất súng đầu hàng, chỉ mong được bình yên sống và góp phần xây dựng lại quê hương.  Nhưng kẻ chiến thắng đọa đày nhân dân xuống vực thẳm. Không cho ai yên sống. Chính họ đã buộc chúng ta đứng dậy, cầm lại súng. Việc đáng làm thì phải làm. Nếu ai cũng trốn tránh cả, thì đau khổ này biết bao giờ dứt được? Nhưng phải thận trọng đ=E 1 khói phí thân làm việc dã tràng.  Cùng với bạn bè cũ mới, chúng tôi tổ chức mua súng, liên lạc với các nhóm kháng chiến khác. Ra một tờ báo bí mật chuyền tay. Mai đã ngược xuôi giúp đỡ chúng tôi, mang tin tức, chuyển vận hàng hóa. Chúng tôi mơ mộng một ngày ánh sáng tự do chiếu rọi trên quê hương, trở lại đời sống không áp bức kẹp kềm.  Một vài người trong nhóm bất cẩn, tổ chức bị đổ bể, đa số anh em bị bắt. Tôi chạy thoát được với cái áo có nhiều lỗ đạn bắn thủng bên hông.


Mai nhờ người nhắn tôi bình tĩnh chờ nàng sắp đặt.  Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên....Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời. Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.  Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái, để cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tráng xa những nơi có tranh giành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn, cực khổ trong trại tỵ nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt. Những thiếu thốn khó khăn trong trại tỵ nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ công sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát tren biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tỵ nạn. 


Chúng tôi đến Mỹ vào mùa Ðông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày. Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần: hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về giúp những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới....  Hai vợ chồng dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rử a chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn.  Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà. Thư của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã... 

Nhiều đêm Mai thì thầm:  - Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không hay chỉ mải mê lo cho đời sống riêng tu. 


Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà.  Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, giành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang.  Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm. Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị tổn thương.. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyet đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẵn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm. Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền  Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng:  - Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu. Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh phuc thì đời không còn ý nghĩa gì. 

Thế là tôi tìm được nguồn vui và yên tĩnh tâm hồn... 


Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai:  - Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?  Nàng nói:  - Sách dạy cho em biết rằng, người cho thì được nhiều hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu thì sẽ được, không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình đang có, thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đa'ng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất..


Tôi thành thực mà nói rằng đã học được rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan.  Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại này cũng là bài học tốt về sau.
Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác. 


Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuan vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng.. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ.. Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều. 


Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói:  - Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau20đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học. Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng:  - Có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được phải dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trở chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền.  Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc.  Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà tr ống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy bữa cơm. Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn.  Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu mà về khuya thế.. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm. Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ anh cũng thấy việc làm của anh là có lý. Người bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, phải mất lại một con bò khác. Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân.. Ch ị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa rồi. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái.. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống . Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nghe nó gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bữa cơm.  Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe.'  Mai kết luận rằng: 'Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương'. 

Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền chân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: 'Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi'. Mai chưa hề đọc Thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #10 - 03. Dec 2009 , 19:53
 
Một Lần Chào Cuối Cùng Của Đời Quân Ngũ
Dân Văn số 79 tháng 01 năm 2001, nơi trang số 57
  “10 giờ 30 sáng ngày 29-3-1875. Tôi vẫn ngồi yên tại chỗ. Trung đội tình báo của của ban 2 vẫn đứng chung quanh tôi để bảo vệ như những lúc hành quân. Trung sĩ nhất Nguyễn Thoảng đến trước mặt tôi đứng nghiêm đưa tay chào một cách trịnh trọng rồi nói:
-     Chắc em không vào Sài Gòn đâu Thiếu tá. Cả Quân Đoàn không một trận đánh nào mà bỏ đi cả, em thấy chán quá rồi. Em chúc Th/tá nhiều may mắn, cố gắng vào cho được Sài Gòn.
Cái xác không hồn của tôi vẫn ngồi dựa vào trụ vôi, không chào lại, không bắt tay từ giã nói:
-     Tao bây giờ không biết tính sao, tao cố gắng đưa đơn vị về tới đây để cùng vào Nam, song không ngờ như thế này, tao rất thương anh em nhưng bây giờ ngoài tầm tay của tao rồi.
  Vợ Trung Sĩ Thoảng và hai con, một đứa 6 tuổi, một đứa 4 tuổi cùng đi với Tiểu Đoàn từ hôm qua; chị ta bước tới trước mặt tôi và nói: Em chúc Th/tá lên đường bình an, vào cho được Sài Gòn nghe.
  Tôi đứng dậy xoa đầu hai đứa nhỏ đang đứng cạnh mẹ, có lẽ đó là phản ứng lịch sự với đàn bà, chứ tôi đã có lần đến nhà của chị ta mấy lần rồi nên cũng thường thôi. Tôi nói:
Tôi cũng không biết có đi được hay không, đến đâu hay đó, Thoảng (Trung Sĩ  I Thoảng thua tôi 5 tuổi) thì chắc chúng nó không giết đâu vì nó cấp bậc nhỏ là Chiến Tranh Chính Trị, ăn thua gì. Cố gắng lo cho hai đứa nhỏ.
-     Cám ơn Th/tá, chúc Th/tá thượng lộ bình an.
Thoảng tiến lên một bước, đưa tay chào tôi lần nữa. Tôi cũng không chào lại, đưa tay bắt và nói:
-    Thôi mày về đi, tùy tình hình địa phương mà sống, chắc không can chi đâu.
Anh ta đến chào Đại úy Hà thúc Thuyên, Tiểu đoàn phó, Đại úy Lê Ngọc Nhựt Trưởng Ban 2 và Đại úy Hoàng Văn Quý Ban 3, rồi từ giã ra đi.

Đến lúc này, chỉ còn những Sĩ quan đó và khoảng 20 lính của Trung đội Tình báo mà thôi. Còn tôi lại ngồi xuống đất dựa vào trụ vôi. Đại úy Thuyên tới nói:
-          Thôi, mình cứ về Đà Nẵng rồi hãy tính.
-           Tôi đang chán nản chưa có quyết định nào dứt khoát thì bỗng nghe một tiếng nổ lớn phía sau nhà tôi đang ngồi. Lính tôi phản ứng, ngồi xuống trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Tôi nói:
-          Minh, mày ra xem cái gì đó.
Minh đi với hai người lính nữa, sau hơn 5 phút Minh chạy lui, trả lời:
-          Thiếu tá ơi! Ông Trung sĩ Thoảng đã tự tử bằng lựu đạn với vợ con của ông ta rồi.
Tôi quá bàng hoàng và xúc động, tự nhiên bật khóc. Tôi đã đứng trước hàng trăm cái chết, sự rên la đau đớn, sự nhắn gửi trối trăn của thuộc cấp sắp chết, mặc dù tôi rất xúc động, tôi cũng có trái tim biết đau khổ, nhưng tôi tự kiềm chế không bao giờ khóc, nhiều lắm là đỏ con mắt. Tôi cố gắng kiềm chế không để cho thuộc cấp biết sự mềm yếu về tình cảm của tôi. Thế mà hôm nay tôi lại bật khóc, có lẽ đây là lần khóc đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong 13 năm quân ngũ của tôi đối với thuộc cấp. Tôi nói:
-          Nó chết ở đâu?
-          Ổng chết ở nhà kia.
Theo tay chỉ của Minh, thì sau căn nhà tôi đang đứng cách một cái nữa. Tôi đi theo Minh, 6 người lính bảo vệ tôi cùng theo.
Căn nhà tôn nhỏ, xây vách chung quanh. Một cảnh tượng hãi hùng hiện ra trước mắt tôi. Bốn thi hài không toàn vẹn, một xách áo quần, mền, còn để lại trong một góc của căn nhà, máu đang chảy, thịt tung tóe dính cả vào tường.
Tôi không nói gì, quan sát và đứng nghiêm chào vĩnh biệt 4 anh hùng rồi ra đi. Các binh sĩ theo tôi cũng bắt chước chào rồi đi ra đường. Người lính đi theo sau tôi nói:
Ông Thoảng và vợ ông là Việt Nam Quốc Dân Đảng đó Th/tá.
Tôi cũng biết Tiểu Đoàn này 2/3 là cựu Biệt Kích Quân Tây Hồ, hoàn toàn là Việt Nam Quốc Dân Đảng, chống cộng thứ thiệt mà.
Bây giờ là 11 giờ ngày 29-3-1975. Một Trung Sĩ cấp bậc quá nhỏ so với tôi, một thuộc cấp mà trước đây tôi đã từng gọi bằng « thằng », một phần vì anh ta nhỏ tuổi hơn tôi, phần khác vì gọi như thế cho thân mật, có những lỗi lầm mà tôi đã rầy la, đôi khi nặng lời nữa, thế mà hôm nay tôi phải gọi bằng ÔNG. Ông Thoảng, với lòng tôn kính, vì đây là một vị anh hùng hơn tôi rất nhiều, ít nhất là lòng can đảm, sự thể hiện bất khuất không thể sống chung với cộng sản.
Hôm nay, tôi viết để vinh danh một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cho con cháu sau này biết đến.
Xin nghiêng mình tôn vinh một vị anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa.
Với tinh thần đó, tôi muốn viết lên sự tuẫn tiết của Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Thoảng cùng vợ con của anh trong ngày 29-3-1975 tại Đà Nẵng.
Hai giờ chiều ngày 29-3-1975. Việt cộng đã treo cờ ở Tòa Thị Chính Đà Nẵng ».
http://hon-viet. co.uk

Back to top
 
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Góp nhặt gió cát
Reply #11 - 10. Dec 2009 , 16:41
 
...

Emwhy xin mến chúc các anh chị trong Trang Truyện Góp nhặt gió cát
1 mùa lể vào năm nay thật hạnh phúc và đầm ấm.

Thân mến,

TM tulipvang
Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: :: Secret :: Truth ::Sadness ::Faith :: Happiness ::Respect :: Love ::
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #12 - 16. Dec 2009 , 23:06
 
TÔI LÀ AI  (Trần Mộng Tú)
“Tôi là ai mà yêu quá cuộc đời này” TCS

Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuộc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi đó sau một ngày nhìn vào lịch thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn. Bây giờ có ai mới quen gặp tôi, hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự nhiên là Tôi ở Seattle hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời Tôi ở Mỹ đến. Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ người ta hỏi Bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói Tôi là người Việt Nam. Để cho họ không nhầm với người Trung Hoa, Nhật, hay Phi.
Đúng, tôi ở Mỹ trên, dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ thử xem lại con người Mỹ của tôi. Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì thay đổi cả. Vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông và cái mũi tẹt khiêm tốn, tóc sợi to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải nhuộm. Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì nó vẫn cho cái căn cước là da vàng rất rõ rệt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vẫn có vấn đề, đôi khi nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói Tiếng Anh bể (Broken English) Về cách phục sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc. Nhưng khi bước vào nhà tôi; Từ những bức tranh treo ở phòng khách, bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong bếp và nhất là sách, báo tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người Seattle hay người Hà Nội, người Mỹ hay người Việt? Tôi ở đất này đến ba mươi năm rồi cơ mà.

Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận mình là người Hà Nội; Người ở Hải Phòng, Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam.

Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan, có gặp lại họ hàng nước mắt khôn cầm thì khi thăm viếng, hỏi han, họ vẫn thỉnh thoảng nói rất tự nhiên: Chị đâu có phải là người Việt nữa. Bây giờ Chị là người Mỹ rồi, chắc cái này không hạp với chị, cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu. Những lúc đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt hay nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả. Những khi cần quyên tiền đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai cũng nhắc lại cho tôi đến ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Tôi phải có bổn phận và tình thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi nghĩ lại. Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước, xương thịt của người tôi yêu nằm trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi nhà, đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Không đủ hay sao? Bây giờ tôi phải có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa đường, xây trường học và nuôi những người ở khắp nơi mới tới, như trước kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân.

Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu; Hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ. Tôi cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước mình. Chẳng có một lí do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ là mặt nước hồ gờn gợn sóng, Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa tháng Năm ở Thị Nghè, nhà mình; ở Trần quý Cáp, nhà anh; ở trước rạp ciné Eden đúng trú mưa với nhau. Nước ở hồ Sammamish trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ Thuận những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi bất chợt bắt gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình. Và kỳ diệu làm sao những cái bóng đó nó mạnh đến nỗi mình quên mất là mình đang ở Mỹ. Chắc tại tôi là người Việt Nam.

Lại có những lần tôi ở Việt Nam, bị muỗi đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi đường, ai nhìn mình cũng biết mình từ đâu đến và đang đi lạc,tiền bạc tính hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không giống Việt Nam của mình ngày trước, hình như đã có điều gì rất lạ. Ngôn ngữ Việt thì thay đổi rất nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của chữ kia, làm nên một chữ mới thật là “Ấn Tượng.” Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, và họ nói nhanh quá, tôi nghe không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích.

Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ, cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi, và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt. Chắc tôi là người Mỹ.

So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt Nam ra đi, sống ở Mỹ hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn, Ở trong nước có bài hát nổi tiếng Quê hương mỗi người có một, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưngcó người lại nói: Nơi nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh mình, hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi là quê hương mình. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?

Tôi sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình không quen. Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có sang trọng, lịch sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả.

Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với Mẹ của một người bạn, lúc đó cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con dâu cụ tự nhiên rủ nhau theo đạo Công Giáo. Găp tôi cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và may quá, cụ bị Alzheimer, cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần hồn.

Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt. Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.

Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt nhất là khi tôi nằm mơ. Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!

Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất xa xưa về người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa. Hồi đó sao mà mình thương những ông già trong thơ đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác như mình. Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay trong làng mình.

So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn nhận quốc tịch của một nước khác.

Khi về đổi họ thay tên.

Núi chùng bóng tủi sông ghen cạn dòng.(tmt)

Tôi là ai?

Tháng 4 / 2006

Trần Mộng Tú
[font=Times New Roman][/font]
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat TUC TAO HON
Reply #13 - 21. Dec 2009 , 22:58
 
Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi. Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.

1. Cảnh nghèo

Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói ph ải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.

Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.

Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả lương thực, bệnh không khỏi.

Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.

Vì thế bà mối đến, réo rắt: "Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà".

Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: "Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!".

Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!

Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha mẹ , tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.

Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.

2. Cười xót xa

Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái.

Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.

Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai.

Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v...

Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: "Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?".

Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: "Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường..."

Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:

"Chị ơi, em yêu chị!".

Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.

3. An ủi nhỏ nhoi

Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.

Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.

Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.

Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:

"Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành".

Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.

Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?

Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.

Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học Sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.

Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không20nói thêm điều gì nữa.

Nhưng anh vẫn nói: "Chị, chờ tôi quay về nhé!".

Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.

4. Kiếp này

Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.

Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.

Lúc đó chị đã 29 tuổi.

Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa.

Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!

Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: Dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: "Chị, chờ tôi quay về nhé!"hoado hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.

Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.

Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết.

Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.

Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: "Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!".

Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?

Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng cười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.

5. Xin lỗi

Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái.

Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.

Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:

"Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?".

Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:

"Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi".

Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.

6. Năm tháng như bài ca, tình yêu như ngọn lửa

Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.
Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.
Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:
"Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy". Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.

Trần Văn Khang


Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #14 - 31. Dec 2009 , 07:26
 
De : anh truong <Anhdalat23@yahoo. com>

Khổng Tử thăm xóm Bưởi
                              TCSung


Khổng Tử cùng Nhan Hồi chu du thiên hạ , ghé qua xóm Bưởi , nơi người nước Lỗ chạy loạn đến cư ngụ rất đông . Mỗi lần gặp người nước Lỗ , Khổng Tử đều xuống xe , ngả mũ chào .

Tử Lộ hỏi : '- Người nước Lỗ có gì khiến Thầy phải kính nể đến thế ? '

Nhan Hồi đáp : ' - Người nước Lỗ bỏ nước chạy đến đây mà vẫn đánh giết nhau , không ai chịu ai , là người DŨNG . Ai cũng cho mình là Vua thiên hạ , là người có CHÍ lớn . Cứ ba người là có ba đảng , ba nhóm : người nước Lỗ quyết không bỏ cái tập quán bộ lạc thời tiền sử của tổ tiên , là người TRUNG ... Người nước Lỗ có CHÍ , TRUNG , DŨNG , bảo thầy không kính nể sao được ? '

Khổng Tử khen : '-Học trò ta nhiều , nhưng đi guốc trong bụng ta , chỉ có Nhan Hồi ' .
Nói rồi lên xe, cười tồ tồ mà đi .

Lời bàn Kim Thánh Thán :

    Ta bình sinh đọc sách thánh hiền nhiều , không thấy sách nào chép chuyện này . Lại có chỗ không ổn . Khổng Phu Tử là bậc đại hiền tài , ăn nói chững chạc , có đâu lại bảo học trò 'đi guốc trong bụng' mình . Phu Tử chứ có phải Phu Gạo đâu mà 'cười tồ tồ'?

Ta e ông Khổng Tử này là Khổng Tử giả . Người ta bịa chuyện để khuyên người nước Lỗ bỏ cái thói kèn cựa lẫn nhau . Người nước Lỗ bỏ nước chạy , đến tá túc xứ người vẫn giữ thói đâp phá nhau . Ai kém mình thì khinh , ai hơn mình thì phá . Ngồi khoanh tay không làm gì , ai làm thì chê bai .

Khổng Tử (thiệt) nói 'Người nước Sở mất cung , người nước Sở lượm được cung , có đi đâu mà thiệt'. Người nước Lỗ mất cung không tiếc , chì sợ người Lỗ khác lượm được . Người Lỗ thấy người ngoại quốc thành công thì xuýt xoa khâm phục , thấy người đồng hương thành công thì khổ sở , hậm hực . Người Lỗ có tài chịu đói khổ , đến độ coi bần hàn là đức hạnh , với điều kiện là không có người Lỗ khá giả hơn mình .

*** Nước Lỗ có người vì đại cuộc lao tù . Người nước khác ắt coi là anh hùng , người nước Lỗ lại nghi là đối lập cuội . Nằm tù một phần tư , một phần ba đời người để làm 'khổ nhục kế': ai nghe cũng cho là quái gở , người nước Lỗ lại cho là rất thuận taị . Ta đi mòn gót giày , chưa thấy có dân nào kỳ dị như vậy , đúng là Nam Hải Dị Nhân . Dân trí như vậy mà nước khá được , cổ kim chưa từng có . Cái anh nào bịa chuyện trên , chắc là muốn răn đời . Nhưng người nước Lỗ thuộc loài cà cuống , chết đến đít còn cay .  Khổng Tử (thiệt) nói gặp người đáng nói mà không nói là lỡ cơ hộị , gặp người không đáng nói mà nói là phí lời .Người Lỗ còn thở thì còn phá nhau , nói cũng như nước đổ đầu vịt , ich gì ?

Lời bàn của kẻ hậu sinh

Đọc sách cổ , không gì thú hơn lời bàn của Kim Thánh Thán . Văn Thánh Thán sắc như dao , viết như đâm vào ruột gan người ta . Đọc Thánh Thán , ta hiểu người xưa , việc xưa hơn cả Sử Ký Tư Mã Thiên .

Có điều Kim Đại Nhân là người uyên bác , lẽ nào không biết rõ rằng người nước Lỗ là con rồng cháu tiên , làm gì có chuyện thối thân của loài cà cuống .

Thì ra cái ông Thánh Thán này cũng là Thánh Thán giả . Khổng Tử giả , Thánh Thán giả , hàng hóa giả , người giả , cả đến chữ nghĩa thánh hiền cũng giả . Đúng là thời đại loạn
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #15 - 01. Jan 2010 , 08:00
 
Than chuc tat ca cac ban anh chi em mot mua Giang Sinh va nam moi day suc khoe vui tuoi va hanh phuc.
CÂU CHUYỆN ĐÊM GIÁNG SINH

            Như thường lệ, mỗi mùa giáng sinh, tôi đều nhận được quà từ anh trai của tôi.  Giáng sinh năm ấy tôi cảm thấy vui nhất không phải chỉ vì món quà anh tôi tặng, một chiếc xe hơi, mà vì tôi đã học được một bài học rất thú vị vào cái đêm đông lạnh lẽo ấy...
            Đã 7 giờ tối, mọi người trong công ty đã ra về gần hết, tôi cũng đang đi đến gara để lấy xe và về nhà ăn Giáng Sinh.
            Có một cậu bé, ăn mặc rách rưới, trông như một đứa trẻ lang thang, đang đi vòng quanh chiếc xe tôi, vẻ mặt cậu như rất thích thú chiếc xe.  Rồi cậu chợt cất tiếng khi thấy tôi đến gần:
-          Đây là xe của cô ạ?
     Tôi khẽ gật đầu:
-          Đó là quà Giáng sinh anh cô tặng cho.
     Cậu bé nhìn tôi tỏ vẻ sửng sốt khi tôi vừa dứt lời.
-          Ý cô là... anh trai cô tặng chiếc xe này mà cô không phải trả bất cứ cái gì?  Ôi! Cháu ước gì...
     Cậu bé vẫn ngập ngừng.
            Tất nhiên tôi biết cậu bé muốn nói điều gì tiếp theo.  Cậu muốn có được một người anh như vậy.  Tôi chăm chú nhìn cậu bé, tỏ vẻ sẵn sàng lắng nghe lời nói của cậu.  Thế nhưng cậu vẫn cúi gằm mặt xuống đất, bàn chân di di trên mặt đất một cách vô thức.
-          Cháu ước..., cháu có thể trở thành một người anh trai giống như vậy.
     Tôi nhìn cậu bé, ngạc nhiên với lời nói vừa rồi.  Bỗng nhiên tôi đề nghị cậu bé:
-          Cháu nghĩ sao nếu chúng ta đi một vòng quanh thành phố bằng chiếc xe này?
     Như sợ tôi đổi ý, cậu bé nhanh nhảu trả lời:
-          Cháu thích lắm ạ!
Sau chuyến đi, cậu bé hỏi tôi với ánh mắt sáng ngời đầy hy vọng:
-          Cô có thể lái xe đến trước nhà cháu không?
     Tôi cười và gật đầu.  Tôi nghĩ mình biết cậu bé muốn gì.  Cậu muốn cho những người hàng xóm thấy cậu đã về nhà trên chiếc xe to như thế nào.  Thế nhưng tôi đã lầm...
-          Cô chỉ cần dừng lại ở đây, và có phiền không nếu cháu xin cô đợi cháu một lát thôi ạ...
            Nói rồi cậu bé chạy nhanh vào con hẻm sâu hun hút, tối om, tưởng chừng như chẳng có ai có thể sống trong ấy.  Ít phút sau tôi nghe thấy cậu bé quay lại qua tiếng bước chân, nhưng hình như lần này cậu không chạy như lúc nãy mà đi rất chậm. Và đi theo cậu là một cô bé nhỏ nhắn, mà tôi nghĩ đó là em cậu, cô bé với đôi bàn chân bị tật.  Cậu bé đẩy chiếc xe lăn em cậu đang ngồi, một chiếc xe cũ kĩ, xuống những bậc tam cấp một cách rất cẩn thận, và dừng lại cạnh chiếc xe của tôi:
-          Cô ấy đây, người mà lúc nãy anh đã nói với em đấy.  Anh trai cô ấy đã tặng một chiếc xe hơi cho cô nhân dịp Giáng sinh mà cô chẳng phải tốn lấy một đồng.  Và một ngày nào đấy anh cũng sẽ tặng em một món quà giống như vậy.  Hãy nghĩ xem, em có thể tận mắt thấy những món quà, những cảnh vật ngoài đường phố trong đêm Giáng sinh, và anh sẽ không phải cố gắng miêu tả nó cho em nghe nữa!
      Tôi không thể cầm được nước mắt, và tôi đã bước ra khỏi xe, đặt cô bé đáng thương ấy lên xe.  Ánh mắt cô bé nhìn tôi đầy vẻ cảm phục và thân thiện.
            Ba chúng tôi lại bắt đầu một chuyến đi vòng quanh thành phố, một chuyến đi thật ý nghĩa và tôi sẽ không bao giờ quên, khi những bông tuyết lạnh giá của đêm Giáng sinh bắt đầu rơi.
            Và cũng trong đêm Giáng sinh ấy, tôi đã hiểu được sâu sắc ý nghĩa một câu nói của chúa Giê-su: "Không gì tốt đẹp hơn việc làm cho người khác hạnh phúc."
 
Sưu tầm


Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #16 - 01. Jan 2010 , 18:48
 
...
TL xin kính chúc anh Lam Sơn 1 năm mơí an lạc - Những mẫu chuyện của anh trong trang Góp Nhạt Gió Cát ...quả thật là góp nhăt ...gió cát ... Cám ơn anh rất nhiều ....
TL
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #17 - 01. Jan 2010 , 23:56
 
Chi Lan than,
Cac mau chuyen tren day ma toi da nhat nhanh dươc tu tren net, do mot so than hưu chuyen den , ma thuc ra co nhieu ngươi toi cung chua tung gap mat hay quen ten , chinh thuc chi la mot dong gop nho nhat, vi toi co quan niem , rang khi chung ta chua lam dươc dieu gi trong dai nhung chuyen quoc gia dai su, thi chung ta nen lam nhung gi that nho be, doi khi dieu do dem lai ngươn vui nho nhoi cho ngươi khac , vay thi nhan dip dau nam dương lich 2010 nam Canh dan, cung xin Kinh chuc Quy Thay va Quy Co , cung voi cac Chi thuoc trương Nu trung Hoc le Van Duyet nam xua , mot nam thinh vương , day suc khoe an lanh , va gap dươc nhieu van dieu nhu y , tiep theo day la cau chuyen cam dong dươc ghi lai tren net
Tác Giả : O. Henry    
(1862-1910)

Một đồng tám mươi bảy xu ,đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.

Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa.Không hề có sự nhầm lẫn,chỉ có một đồng tám mươi bảy xu ,và ngày mai sẽ là lễ giáng sinh. Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi.ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở. Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK.
Hè có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ốm Jim', James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.
Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.
Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món qùa. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa ,một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh. Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tường. Mắt cô sáng lên. Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh ta. Thứ còn lại là mái tóc của Della.Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.
Della buớc chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu 'Madame Eloise'. Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp,bà ta chẳng có một chút vẻ 'Eloise' nào cả.
Della cất tiếng hỏi: 'bà mua tóc tôi không?'
'Tôi chuyên mua tóc mà, bà ta đáp và bảo: 'hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi' Suối tóc nâu đẹp tụyệt vời buông xuống.
'Hai mươi đồng' bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.
'Hãy cắt nhanh đi! và đưa tiền cho tôi' Della nói.
Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ.Ŀó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại. Đến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm: 'mình có thể làm gì với nó đây?'. Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ tòan những sợi quăn quăn khắp đầu. 'Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!'. Cô tự nhủ :'Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?'
Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.
Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cát áo khoác mới.Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: 'Đừng nhìn em như thế ,anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói 'giáng sinh vui vẻ', em có một món quà rất hay cho anh này!'
'Em đã cắt mất tóc rồi à?' Jim hỏi
'Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? em vẫn là em mà!' Della nói.
Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: 'em nói là em đã bán tóc à?'
'Đúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?'
Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: 'anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy.
Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống.Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!
Della nâng niu món quà ,mắt tràn đầy hạnh phúc. 'Tóc em sẽ chóng dài ra thôi Jim', nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.
'Đẹp không anh? em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này'

Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cười nói: 'Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu.Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em yêu' ...đó là một câu chuyện cảm động về tình yêu của hai bạn trẻ đã hết lòng yêu nhau.
     



Back to top
« Last Edit: 01. Jan 2010 , 23:58 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat TRANG THU TINH HAY NHAT
Reply #18 - 30. Jan 2010 , 23:26
 
Em yêu quý,

Anh ngồi bấu tay vào thành giường nhìn ra ngoài trời.

Hình như mưa... Mắt anh  mấy ngày nay thấy nắng loà nhoà lại tưởng mưa, thấy mưa thì nhìn như đang nắng xuống.

Thằng chắt nội nói, mắt cụ nhìn không rõ nữa, cụ đi đâu để cháu dắt.

Nó nói thật em nhỉ? nhưng mình cần gì nó dắt, ví thử có em đến ngoài ngõ kia, anh chẳng nhìn thấy rõ mồn một sao?

Anh vẫn khoẻ !

Mỗi ngày các cháu nó cho ăn năm bữa, mỗi bữa một bát cháo đã nát nhừ.

Anh chỉ dám viết thư cho em mà không dám gọi điện vì tiếng của anh nói em chỉ có thể nghe như tiếng rừng phi lao xào xạc....

Sáng nào anh cũng đi thể dục, đi từ mép giường ra tới... bậc cửa sổ, vị chi là bốn bước !!!  Bốn bước mà đi mất hai giờ, mồ hôi đổ vã ra, sảng khoái ghê!

Nay con cháu đông rồi, anh không phải đánh máy như ngày xửa ngày xưa nữa, các cháu giúp ông.

Nhưng khi viết thư cho em, anh phải tự đánh máy lấy. Thư này anh viết từ mùa hè! đến... đúng mùa đông thì xong !(mỗi ngày anh viết quần quật được.... hai dòng )

Ngày nào viết đến ba dòng thì anh phải truyền một lọ sérum.

Nhớ cách đây chừng 50 năm em nhỉ, chúng mình chạy ào ào trên bãi biển Nhatrang...

Em thì lúc nào cũng hét lên: Thích quá cơ !

Còn anh thì chạy theo sau nhìn em, thấy đôi chân em trắng loáng trong ánh chiều hoàng hôn ở bãi biển Nhatrang mà nhớ mãi....

Giờ vẫn nhớ đấy ! em có tin anh ?

Hôm rồi, nhớ em quá bảo đứa cháu nó đưa ra biển.

Ðịnh nhấc chân bước, định hổn hển nhắc lại lời em nói: thích quá cơ! nhưng suýt nữa người anh đổ chúi xuống vì... gió biển thổi !!!

Nay anh nhận được tin em đã hết ốm, đã ăn được mỗi bữa... năm thìa cháo bột mà anh mừng quá ! Ăn năm thìa là tốt rồi, ăn nhiều quá không nên em ạ!

Anh khoẻ thế này mà chỉ ăn... bốn thìa thôi là thấy no căng.

Nhớ ngày xửa ngày xưa vẫn thích ăn cơm nguội với nước cá kho. Vừa rồi, tự dưng thèm cơm nguội cá kho, ăn một chút thôi mà miệng anh như ăn phải đá hộc, đau tê tái!

Anh nhắc nhé, nếu ngoài trời có gió là em không được ra ngoài.

Hôm qua, mấy đứa cháu bảo ông ơi, ra sân hóng mát, gió nồm mát lắm ông ạ! Theo chân nó vừa ra tới sân, ngọn gió nồm suýt thổi anh... bay lên nóc nhà, may có hai thằng cháu giữ chặt.

Sắp tới ngày sinh nhật em nhỉ. Thế là em đã tròn tuổi 80.

Hôm đó anh sẽ cố gắng điện thoại. Nhưng anh nói trước, nếu em nghe tiếng xào xào tức là anh nói rằng:

Em đấy hả ?

Khi nghe tiếng thùm thùm tức là: Anh đang chúc em sinh nhật vui vẻ.

Ðến khi nghe tiếng phù phù nhiều lần là: anh đang hôn em.                                                 

Nhớ hồi ấy, anh đưa hai tay lên nhấc bổng em quay mấy vòng giữa trời, em cười rất to.

Giờ anh nhìn lại đôi tay mình, hình như tay ai, nhìn rất tội.

Hôm qua anh cố nhấc con búp bê bé tý lên cao mà nghe tiếng xương cốt kêu răng rắc, sợ quá nên thôi.

Em ngủ ngon không?

Anh chợp mắt từ chập tối. đến khoảng 9 giờ là dậy, ngồi, nhìn ra trời đêm.

Mấy đứa cháu nói ông ngủ ít quá!

Anh bảo: thì đến khi ông ra đi, xuống đất, ông ngủ cả ngày lo gì ?

Thỉnh thoảng, anh vẫn mở máy tính, xem lại mấy bài viết trên Blog hồi ấy,. thấy rất vui.

Chắc giờ mấy ông, mấy bà Blogger cũng không còn mấy ai nữa, lâu chẳng thấy ai vào blog nữa.

Lũ cháu hỏi, ông ơi: Blog là gì ?

Thời buổi tân tiến mà! Chúng nó bây giờ chẳng có Blog.

Ngồi bô đi ị mà vẫn có màn hình máy tính ở miệng bô, thích thật!

Thời buổi giờ hiện đại quá, mình chẳng biết gì.

Nhà anh, có cái máy giặt, con cháu nó đi làm, điều khiển từ xa, điều khiển cả robôt.

Anh ngồi, rôbốt nó đến, nó cởi áo anh ra, nó gội đầu cho anh, tắm táp, rồi còn mang áo quần đi giặt.

Lũ trẻ bây giờ yêu nhau cũng nhờ rôbôt làm hộ.

Máy chữ không cần đánh, muốn viết gì, chỉ cần đọc là máy tính tự gõ chữ. Nhưng tiếng anh phì phèo quá nên máy chữ nó đánh sai hết cả.         

Ai đời anh viết:
Em ơi, anh nhớ em lắm!

nhưng vì miệng anh móm mém phì phò nên máy nó nghe không rõ, nó đánh thành:

Phem phơi, phanh phớ phem phắm!

Thế mới bực !!!

Anh không muốn gọi em là bà. Cứ gọi nhau bằng anh, bằng em thế nghe ngọt ngào...

Hai ngày nữa anh tròn 90 tuổi.

Anh đợi thư em.

Mà nếu không gửi được thư thì bảo Rôbôt nó mang thư đến cho anh em nhé.

Anh dừng bút.

Thắng chắt nội đang mang chén cháo bột đến để cho anh ăn.

Chúc em ngủ ngon nhé. Nhớ đừng ra gió nghe em !

Anh
Doc xong cau chuyen nay , toi da cươi mot luc, roi sau do toi da khoc , vi do chinh la hinh anh cua chinh ban than minh trong nhung nam thang sap va se den, co ai cươi o day , hay co ai khoc o day khong??
Lam son
Back to top
« Last Edit: 30. Jan 2010 , 23:39 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: GOI QUA DAU NAM
Reply #19 - 09. Mar 2010 , 02:49
 
Tôi phải ngồi lại trên các bậc đá nghỉ chân đến ba lần trước khi bước vào cổng chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm trên một triền núi, được phủ mát bởi những tàng cây. Ngôi nhà khách bằng gỗ, khá xinh xắn, nằm trong một khu vườn toàn hoa vạn thọ. Phía trước là một tượng Phật ngồi dưới gốc cây bồ đề, cành lá được cắt tỉa công phu. Chung quanh là cả một vùng núi trời tĩnh mịch.Tôi không phải là phật tử, nhưng ngồi nghe tiếng mõ và lời cầu kinh trong chùa vọng ra, cũng thấy lòng nhẹ hẳn đi trước bao nhiêu điều phiền não.
Hôm nay là mồng một tết, nhưng cảnh chùa khá im vắng, bởi chùa nằm khá xa khu dân chúng. Ngày hôm qua tôi có đến đây, nhưng thầy trụ trì đi vắng. Tôi đã để lại tấm danh thiếp của chồng tôi, viết vài dòng phía sau xin hẹn thầy hôm nay trở lại.
Chú tiểu còn rất trẻ, mang trà ra mời và xin tôi chờ thêm mươi phút nữa vì thầy trụ trì đang khai kinh cho buổi lễ tân niên. Tôi nôn nao muốn sớm được nhìn mặt vị ân nhân của mình, nhưng cũng dặn lòng phải kiên nhẫn và cẩn trọng ý tứ trước một nhà sư.
* * *
Hơn ba mươi năm trước. Lúc ấy tôi còn là cô bé học trò trường trung học An Túc, nằm giữa thị trấn An Khê, bên quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn với Pleiku. Chiến tranh đang thời kỳ ác liệt. Tuổi còn nhỏ, nhưng ngày nào tôi cũng nghe cha mẹ và các thầy cô bàn chuyện chiến trường: đánh lớn ở Pleime, Dakto, Tân Cảnh. Mấy năm nay, An Khê tương đối bình yên, nhờ Sư đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ có căn cứ ở đây, và dọc theo đèo An Khê có đồn bót của các đơn vị thuộc Sư đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Giữa lúc chiến tranh ngày khốc liệt, bất ngờ lực lượng đồng minh rút quân về nước, làm dân chúng ở đây hoang mang, lo lắng. Xứ họ đạo của tôi cũng được cha chánh xứ tổ chức những toán tự vệ, phối hợp với quận, lo canh gác khu vực của mình.
Chiều ba mươi Tết, được thông báo của tỉnh, các cơ quan trên quận phối hợp với các thầy cô giáo và cả Hội Đồng giáo xứ đi mọi nhà kêu gọi đóng góp những gói quà tượng trưng dành tặng cho anh em chiến sĩ của một đơn vị từ xa tới đồn trú ở đây để thay thế lực lượng đồng minh.
- Tội nghiệp, nghe nói anh em đã phải rời căn cứ từ sáng sớm 30 để chiều mồng một Tết có mặt ở đây. Họ có biết tết nhất gì đâu! Ông cha xứ nói với chúng tôi như thế.
Cả quận vui mừng, nô nức trước tin vui. Riêng tôi còn vui hơn khi tưởng tượng sẽ có nhiều anh lính đến cái thị trấn nhỏ xíu buồn tênh này, nên rất sốt sắng trong việc gói quà. Tôi tự tay thực hiện được hai gói quà, gồm một số bánh mức, chiếc khăn tay do tôi thêu lấy, kèm theo lá thơ chúc mừng năm mới tới hai anh chiến sĩ vô danh nào đó. Tôi nắn nót viết thật đẹp rồi đề tên, lớp và trường học phía dưới. Vì “sao y bản chánh” từ một bài luận văn tháng trước, nên hai lá thư giống nhau như đúc. Nhìn hai gói quà tôi mỉm cười, khi nghĩ sẽ có hai “người tình không chân dung” nào đó nhận được lá thư nồng nàn của một cô “em gái hậu phương”. Ban đầu, các thầy cô cho biết, đám học trò chúng tôi sẽ được hướng dẫn vào căn cứ để tận tay tặng quà cho các anh chiến sĩ. Bọn tôi đứa nào cũng hớn hở, lăng xăng giặt ủi lại chiếc áo dài trắng ưng ý nhất. Nhưng sau đó dưới tỉnh cho biết là trước khi vào An Khê, các đơn vị này còn phải hành quân mở đường, giải tỏa một số đồn bót của lực lượng Đại Hàn nằm dọc theo đèo An Khê bị địch quân bao vây đã ba hôm nay. Cuối cùng tất cả quà đều được nộp cho trường, và thầy hiệu trưởng cùng các thầy cô giáo sẽ mang vào cho đơn vị để trao lại cho anh em chiến sĩ khi tình hình an ninh cho phép. Bọn học trò chúng tôi tiếc hùi hụi vì mất một dịp được vào xem căn cứ và ủy lạo các anh chiến sĩ.
* * *
- Nam mô A Di Đà Phật. Xin chào bà. Xin lỗi, chắc là bà đã chờ tôi lâu lắm phải không?
Câu hỏi của thầy trụ trì cắt đứt dòng hồi tưởng của tôi. Tôi đứng lên, vụng về chấp hai tay trước ngực chào lại thầy. Tôi muốn nhìn thật kỹ khuôn mặt của thầy, nhưng thấy ái ngại, nên chỉ cúi đầu im lặng.
- Cái cổng tam quan, ngôi nhà khách này, và những bậc đá trên con đường mà bà vừa đi lên là do tiền cúng dường của ông bà. Chúng tôi xin tán thán công đức và cầu xin chư Phật gia hộ cho ông bà cùng gia đình. Bà có muốn đi một vòng xem cảnh chùa không? Xin mời bà.
Thầy vừa nói vừa chỉ tay về phía cổng tam quan.
- Dạ, công ơn của thầy đối với gia đình tôi lớn lao quá. Biết làm sao đền đáp. Xin thầy đừng nhắc tới công đức, làm tôi thêm xấu hổ. Tôi vừa bước theo phía sau thầy, vừa nói.
- Mô Phật! Giúp người, đó là nhiệm vụ của kẻ tu hành, dù là tôn giáo nào. Sao bà lại gọi là công ơn. Thầy nở một nụ cười độ lượng.
Đi phía sau, nhìn dáng đi khoan thai của thầy, tôi băn khoăn suy nghĩ: Khuôn mặt thì có nhiều nét giống, nhưng với cái dáng đi thì lại khác hẳn. Có thể ngày xưa là lính nên cần phải nhanh nhẹn. Tôi nghĩ thầm như thế.
Khi đến cửa tam quan, thầy dừng lại và chỉ tay về hướng bờ biển, nơi có mấy tảng đá ở triền núi, phía dưới là một khu rừng rậm:
- Chính ở nơi đó, tôi đã tìm gặp chồng của bà.

Năm ấy, khi chồng tôi vừa mới trốn về từ trại tù cải tạo Gia Trung (anh chỉ là thầy giáo, dạy một trường trong khu người Thượng, bị bắt năm 1979 vì bị kết tội hợp tác với lực lượng Fulro chống lại nhà cầm quyền Cộng sản), được một người bạn thân cho đi theo một chuyến vượt biển do gia đình anh ta tổ chức. Lúc ấy ai cũng nghĩ ra đi là không bao giờ gặp lại vợ con, mà có ở lại cũng sống không yên, chỉ làm khổ cho gia đình. Hơn nữa lúc ấy tôi vừa mới sanh đứa con đầu lòng, nên không thể đi cùng. Chúng tôi đành gạt lệ chia tay mà không dám nghĩ sẽ có ngày tái ngộ.
Tàu vừa ra khơi hơn một ngày thì bị hỏng máy, trong lúc gió mưa tầm tã. Tất cả mọi người phải đem sinh mạng chống chọi với phong ba. Cuối cùng, sau gần ba ngày bềnh bồng trên biển, nhờ những cơn gió nhiệm màu đã đẩy chiếc tàu với hơn một nửa số người sống sót, giạt vào một ghềnh đá lúc trời nhá nhem tối. Tưởng đã thoát chết, nào ngờ khi vừa leo lên bờ thì bị một toán công an biên phòng vây bắt. Một số người yếu sức thì đành đưa tay cho họ trói. Chồng tôi cùng một vài thanh niên khác dùng hết tàn lực chạy trốn trong các hốc đá bên triền núi. Mấy lần thoát chết dưới những tràng đạn. Nhờ trời tối anh chạy thoát vào khu rừng trước khi kiệt sức. Khi tỉnh lại, anh thấy mình nằm trong ngôi chùa nhỏ nằm bên triền núi. Anh được vị trụ trì săn sóc và che dấu chu đáo, mặc dù biết anh là người công giáo, bởi trên cổ có đeo thánh giá. Sau hơn một tuần, nhờ thầy giúp cạo đầu, cho áo quần để cải dạng một thầy tu, và gởi theo một chiếc xe đò của một phật tử thân quen, chồng tôi mới trốn được vào nhà bà cô ruột ở Cam Ranh. Sau đó nhờ chính bà cô này tìm đường để vượt biển tiếp. Và lần này anh đã được tàu Pháp vớt, nên được sang định cư bên Pháp. Ba năm sau, tôi và đứa con được anh bảo lãnh với diện đoàn tụ gia đình.

- Mô Phật! Tội nghiệp, ông ấy đã về tìm thăm tôi hai lần, và giúp cho tôi khá nhiều tiền để lập lại ngôi chùa này và một nhà từ thiện nuôi các em bé tật nguyền dưới xóm. Công đức của ông bà thật lớn lắm.
Tôi nhớ lại tấm ảnh mà chồng tôi chụp chung với thầy trong lần thứ nhì về thăm thầy. Bao nhiêu lần tôi đã nhìn kỷ tấm ảnh, lại nghe chồng tôi bảo, ngày xưa thầy cũng là lính, nên tôi đã ngồi hằng giờ hình dung, nhớ lại một người quen lúc trước.
- Thực ra anh ấy ngại không muốn về, nhưng vì nhớ ơn thầy mà anh ấy mới về gặp thầy. Lần này chính tôi đề nghị được thay anh về thăm thầy, nhân dịp thăm mẹ của tôi đang ốm nặng.
- Mô Phật! Tôi hiểu nỗi khổ tâm của ông ấy.
Tôi nghe tiếng thở dài của vị trụ trì, và thấy thầy đưa mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Từ lúc mới gặp nhau trong ngôi nhà khách, tôi nghĩ là thầy đã nhận ra tôi. Tôi chờ thầy hỏi, nhưng có thể thầy đã quên hay bây giờ là kẻ tu hành, nên thầy không muốn nhắc lại chuyện thế tục ngày xưa. Không để lỡ mất cơ hội, tôi lên tiếng:
- Tôi về đây, gặp thầy cũng để muốn xin được hỏi thầy một điều, mà bấy lâu nay cứ băn khoăn mãi trong lòng, nhưng ngại thầy là bậc tu hành, nên tôi không dám.
Thầy nhìn tôi, im lặng giây lát rồi lên tiếng:
- Mô Phật! Kẻ tu hành lúc nào cũng muốn đem ánh sáng cho chúng sinh hầu giải tỏa những lo âu phiền não. Xin bà cứ tự nhiên
- Xin thầy tha lỗi, nếu có điều gì không phải. Có phải thế danh của thầy là Quế, Lê Phương Quế?
Thầy ngạc nhiên nhìn tôi, rồi nhìn lên khoảng không, nhíu mày.
- Mô Phật! Làm sao mà bà biết được tên của tôi?
- Thầy còn nhớ anh Lân, trung sĩ Đỗ Lân, ở Sư đoàn 23 Bộ binh, có đóng quân ở An Khê vào những ngày tết năm 1972?
- Bà còn biết cả bạn tôi? Anh Lân đã tử trận ở Kontum từ mùa hè 72. Bà có biết không?
Tôi có một thoáng giận thầy, vì nghĩ là đến bây giờ ông vẫn chưa nhận ra mình. Chẳng lẽ thầy vô tình đến thế. Nhưng ngay sau đó tôi hối hận về ý nghĩ của mình. Sao lại đem chuyện đời để mà trách một vị chân tu, một người đã xa lánh chuyện hồng trần, thế sự. Thầy đã cho mình hỏi và sẵn sàng tâm sự đã là một điều hỉ xả rồi.
- Dạ, tôi có biết, và tôi cũng có đến Kontum thăm mộ anh mấy lần. Sau này tôi về tìm để xây lại ngôi mộ cho anh, thì nghĩa trang không còn nữa, và không ai biết mộ anh đã chuyển đi đâu.
Đôi mắt của vị trụ trì sáng hẳn lên. Thầy mở đôi mắt thật to nhìn tôi, đưa tay lên định nắm vai tôi, nhưng rồi kịp khựng lại.
- Vậy là Xuân? Bà là cô Xuân ngày xưa? Mô Phật! Sao lại có chuyện kỳ ngộ lạ lùng này!

Vâng, tôi chính là Xuân, cô bé học trò trường trung học An Túc ngày xưa. Người đã gói hai gói quà Xuân ủy lạo cho những chiến sĩ đến giữ an ninh cho quê tôi vào đúng chiều ngày mồng một tết. Hai gói quà được nộp cho trường để chuyển tới cho các anh, vì lúc ấy đơn vị đang hành quân mở đường để đến nơi trú đóng.
Sau một cái tết an bình, cả thị trấn nhỏ của tôi nhộn nhịp hẳn lên bởi sự có mặt của một trung đoàn lính chiến, ngày mồng tám tết, đám học trò chúng tôi trở lại trường, nhưng các thầy cô biết là trong lòng đám học trò ai cũng còn dư âm ngày tết, nên cho chúng tôi tập họp lại hát hò và kể chuyện vui. Trong lúc thầy hướng dẫn đệm đàn cho cả đám học trò ca hát, thầy giám thị đến tìm tôi, bảo tôi lên văn phòng có người nhà muốn gặp. Bước theo thầy giám thị mà lòng tôi lo lắng không biết ở nhà có chuyện gì, thì ông đưa tay chỉ hai anh lính đang ngồi chờ trên chiếc ghế đá trong sân trường.
Hai anh lính thật trẻ đứng lên chào tôi, nhoẻn miệng cười:
- Hai đứa tôi đến để cám ơn Xuân và chúc mừng Xuân năm mới.
Tôi thoáng một chút ngạc nhiên và bẽn lẽn:
- Em có làm gì đâu mà hai anh cám ơn? Mà sao hai anh biết được tên em?
Hai anh cùng mở túi áo lấy ra bức thư. Vừa kịp nhận ra đó là hai bức thư mà tôi đã “sao y bản chánh” bỏ trong hai gói quà ủy lạo, thì một anh lên tiếng:
- Tôi là Đỗ Lân, và người bạn thân của tôi đây là Lê Phương Quế. Trông anh hiền như con gái, nhưng Xuân đừng nhầm với nữ ca sĩ Phương Hồng Quế nghe, mặc dù anh Quế bạn tôi cũng có giọng hát rất hay, không thua gì Phương Hồng Quế. Hai đứa tôi nhận hai gói quà của Xuân. Quà cáp như nhau và lời lẽ trong cả hai bức thơ cũng giống nhau như đúc. Cô Xuân thật công bình. Cám ơn nghe!
Tôi hơi quê, nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên:
- Hai anh tới trường tìm Xuân, không sợ thầy giám thị la Xuân hà?
Anh lính thứ nhì, tên Quế, lên tiếng:
- Bọn tôi bảo là anh em bà con với Xuân, đi lính xa nhà bây giờ mới gặp. Thầy giám thị coi bộ cũng thương lính lắm, nên chắc không nở la rầy người yêu, à xin lỗi, người em của lính đâu!
Mặc dù thấy hai anh chàng có vẻ thư sinh, vui tính, nhưng nhớ lời bà chị thường bảo mấy ông lính bạo dạn và tán gái hay lắm. Phải coi chừng. Tôi nhủ thầm như thế. Và để xem hai anh chàng này có thực sự bạo dạn hay không tôi khoanh tay:
- Nghe nói anh Quế hát hay không thua gì Phương Hồng Quế, em xin mời hai anh vào lớp em chơi. Bọn em cũng đang ca hát trong đó, chứ không có học hành gì đâu. Đám bạn em sẽ mừng lắm đó.
Hai anh nhìn nhau cười, rồi gật đầu, theo tôi vào lớp.
Cả đám bạn học trò im bặt, tò mò nhìn ra khi thấy tôi dắt theo hai anh lính trẻ. Tôi nói với vị giáo sư hướng dẫn:
- Thưa thầy, có hai anh lính nhận được quà tết của lớp mình, đến cám ơn và xin hát cho cả lớp mình nghe.
Thầy hướng dẫn lớp gật đầu, đến bắt tay hai anh, tươi cười:
- Hồi nãy tới giờ mấy cô chỉ hát những bài tình yêu lính chiến, bây giờ đích thân lính chiến hát tặng mấy cô thì còn gì hay bằng, phải không?
Cả lớp vỗ tay.
Anh lính tên Lân bước lên bục giảng, hai tay mân mê chiếc nón bê-rê:
- Kính thưa thầy, thưa các bạn. Tôi không biết hát, nên xin dành phần nói trước. Chúng tôi xin cám ơn những gói quà Tết của nhà trường, của các bạn. Trong không khí Tết, vì nhiệm vụ phải xa nhà, được những món quà của các bạn chúng tôi thấy ấm áp nhiều lắm. Đặc biệt hai đứa tôi đây đã nhận được quà của cô Xuân. Chỉ cần cái tên của cô là hai đứa chúng tôi cũng đã có cả một mùa xuân rồi. Xin cám ơn và kính chúc thầy, chúc các bạn một năm mới vạn điều như ý.
Cả lớp lại rộn lên tiếng cười và những tràng vỗ tay không dứt. Một con bạn có tiếng nghịch nhất lớp quay về hướng tôi ngồi:
- Xuân ơi, mày chỉ được chọn một trong hai thôi. Còn để dành cho đứa khác nữa chứ!
Đúng là nhất quỉ nhì ba, còn thứ ba là bọn này. Tôi đoán hai anh chàng lính sữa đang nghĩ như thế. Anh lính tên Lân bẽn lẽn, ngừng lại đôi phút rồi đưa tay về hướng người bạn, tiếp tục:
- Bây giờ, xin giới thiệu anh bạn thân nhất của tôi, Lê Phương Quế, mà chúng tôi thường gọi là Phương Hồng Quế, tiếng hát hàng đầu của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sẽ lên hát một vài bài tặng thầy và các bạn.
Tôi cũng phục tài ăn nói khá “tâm lý chiến” của anh chàng Lân này. Cái giọng Huế nghe cũng êm ái, cứ như rót mật vào tai người ta. Bây giờ nhìn kỹ thấy anh ta cũng đẹp trai, nụ cười cũng có duyên ghê lắm. Lính cỡ này chắc sẽ làm khổ vài cô em gái hậu phương đây. Tôi mỉm cười với ý nghĩ vừa thoáng trong đầu.
Anh Quế bước lại chỗ thầy hướng dẫn để xin nhờ thầy đệm đàn. Anh hát bài Xuân Này Con Không Về của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Trông anh có dáng dấp thư sinh và khuôn mặt hiền lành như một thầy tu.
Tiếng hát cất lên làm cả lớp im bặt. Đúng là giọng hát của anh rất hay, điêu luyện, lúc réo rắt lúc trầm buồn không thua một ca sĩ chuyên nghiệp. Dường như có cùng tâm trạng với nội dung bài hát, nên anh đã hát với tất cả cảm xúc, làm giao động trái tim mọi người. Bài hát chấm dứt, mà cả lớp dường như còn thẫn thờ, yên lặng. Sau đó bùng vỡ bởi những tràng vỗ tay và nhiều tiếng la: bis, bis...
Anh cúi xuống một lúc, hình như để dấu sự cảm xúc, rồi ngước lên nói nhỏ hai tiếng cám ơn và xin hát tiếp bài Chiều Trên Phá Tam Giang, thơ của Tô Thùy Yên phổ nhạc.
Lần này, chính tôi không cầm được nước mắt. Không chỉ vì anh hát hay, nhưng tôi thấy xúc động, thấm thía hơn cuộc đời của những người lính chiến.

- Thưa thầy. Bây giờ đã đi tu rồi, thầy có còn hát những bản nhạc tình lính ngày xưa? Tôi vẫn còn nhớ cái cảm xúc khi thầy hát cho cả lớp tôi nghe, sau cái tết năm nào ở trường An Túc. Thầy hát thật hay và truyền cảm. Hôm ấy là lần đầu tiên tôi được gặp thầy và anh Lân.
- Mô Phật! Bây giờ tôi chỉ còn biết tụng kinh gõ mõ, cầu cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc. Nhưng những gì bà vừa nhắc lại, cũng là con người, làm sao tôi có thể quên.
- Xin thầy thứ lỗi, nếu tôi đã nhắc thầy nhớ lại chuyện đời để làm bận lòng một bậc chân tu.
- Mô Phật! Đạo ở trong Đời, cũng như hai kẻ đồng hành. Hành đạo là để giúp đời. Kẻ tu hành như chúng tôi cũng chỉ là “cư trần lạc đạo” mà thôi, thưa bà.
- Cư trần lạc đạo là sao, thưa thầy?
- Có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo, vui đạo. Chứ không phải xa lánh trần thế đầy khổ nhục để tìm sự thanh thản riêng cho bản thân mình.
- Cám ơn thầy. Thầy giảng hay quá. Ngày đầu tiên gặp thầy, và nhất là lúc nhìn thầy đứng hát trên bục lớp, tôi đã thấy thầy giống một nhà tu. Có lẽ thầy đã có căn duyên từ trước, phải không thầy?
- Mô Phật! Ai cũng có thể tu hành, và bất cứ ai cũng có thể thành Phật được, thưa bà.

Không ngờ lần gặp gỡ đầu tiên năm ấy lại mang đến cho tôi mối tình đầu. Sau vài lần gặp nhau, tôi biết Lân và Quế là hai người bạn thân thiết từ lúc còn học trong trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Ra trường về cùng đơn vị, nên sống với nhau như anh em, mặc dù tôn giáo khác nhau. Quế đạo Phật còn Lân là tín đồ Công giáo. Những ngày chủ nhật không bận hành quân, Lân đều đi lễ nhà thờ, nên chúng tôi thường gặp nhau hơn. Và lần nào tôi cũng mời Lân về nhà. Cha mẹ tôi cũng rất thương quí Lân, nhất là sau khi biết cha mẹ Lân đã chết trong biến cố tết Mậu Thân. Tính tình Lân lại hiền lành chân chất và hiếu học. Dù bận hành quân liên miên, nhưng anh vẫn cố gắng tự học để thi tú tài vào mùa hè năm đó. Cũng có đôi lần Quế theo Lân đến nhà tôi chơi. Càng lúc chúng tôi càng thân nhau hơn.
Tôi biết là Lân cũng thích tôi. Trong túi áo của anh lúc nào cũng có chiếc khăn tay tôi đã tặng anh trong gói quà Xuân. Mỗi lần chia tay, anh bịn rịn lưu luyến không muốn rời tôi. Còn tôi, cũng thấy nhớ anh da diết và mong chờ anh từng ngày trong các lần anh đi hành quân. Tối nào tôi cũng đọc kinh cầu nguyện cho anh được bình yên trở về.
Bây giờ tôi mới biết tình yêu là gì. Tôi bắt đầu biết tương tư, mơ mộng, nhớ nhung và man mác buồn khi thiếu vắng anh. Những bản nhạc tình lính, người yêu của lính, dường như càng lúc tôi càng thấy hay hơn, và tôi hát nhiều hơn. Sau mỗi lần hành quân, Lân đều mang về tặng tôi những cánh hoa lan rừng. Tôi nghe nói vùng núi rừng An Khê này có nhiều hoa lan. Có những loại hoa lạ, thật đẹp mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy hoặc biết tên. Chỉ sau hai tháng, trong phòng tôi treo đầy hoa lan rừng. Tôi thích nhất là những cánh hoa màu tím. Có lẽ tôi nhớ tới màu tím hoa sim trong một bản nhạc mà tôi thường hay hát…
Chiến tranh lại ngày càng ác liệt. Ngồi trong lớp học, bọn tôi vẫn thường nghe tiếng súng, tiếng máy bay vần vũ trên bầu trời. Ban đêm, nhìn qua cửa sổ, những trái hỏa châu lơ lững giữa trời, soi sáng cả một vùng núi non nào đó. Rồi tôi nghe tin Dakto mất, Tân Cãnh thất thủ, thành phố Kontum bị pháo kích… Một số người đã phải bỏ nhà chạy xuống Pleiku, sống trong các trường học được chính quyền dùng làm trại tiếp cư.
Hơn một tuần, tôi chưa gặp Lân bởi đơn vị anh có lệnh cắm trại, ứng chiến. Bất ngờ gặp lại anh trong lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ. Khi tôi đang quỳ gối cầu kinh, Lân đến sau, quỳ xuống bên cạnh. Tan lễ, vừa bước ra khỏi nhà thờ thì chúng tôi gặp anh Quế đứng đợi từ lúc nào. Tôi mời hai anh về nhà. Trên đường đi, cả hai anh im lặng, không nói một lời gì. Nhìn nét mặt thật buồn, tôi nghĩ là họ đang ưu tư điều gì. Tôi hỏi, nhưng hai anh chỉ nhìn nhau rồi lắc đầu, không nói.
Suốt ngày hôm ấy hai anh ở lại nhà tôi. Mẹ tôi đãi hai anh một con gà tơ. Trong lúc Lân và Quế trong vườn, tôi tìm hái mấy trái cà, trái mướp và rau thơm. Cả ba chúng tôi cùng làm bếp, đùa giỡn, ca hát líu lo, không còn chút ưu tư nào trên khuôn mặt của mọi người. Ăn cơm xong, chúng tôi rủ nhau ra ngồi dưới những cây dừa rợp bóng, nghe Quế hát, rồi chúng tôi cùng hát theo những bài tình ca quen thuộc. Buổi chiều, Quế cáo từ tôi, chào ba mẹ tôi xin về trước. Trong phòng tôi chỉ còn có tôi và Lân. Lần đầu tiên tôi nghe Lân rụt rè tỏ tình. Anh bảo, đời chiến binh rày đây mai đó, rồi có một ngày, anh sẽ phải đi xa, nhưng lúc nào cũng mang theo bóng hình của tôi vào những nơi gió cát. Những lời anh nói làm tôi nhớ tới những câu thơ Chinh Phụ Ngâm thật hay của bà Đoàn thị Điểm mà tôi đã học. Những câu thơ thật buồn bây giờ lại càng buồn hơn. Tôi khóc. Lần đầu tiên tôi khóc, không biết là vì hạnh phúc đến bất chợt của mối tình đầu hay là vì nghĩ tới nỗi cô đơn của người Chinh Phụ. Tôi giật mình, khi Lân ôm tôi vào lòng. Tôi đứng im, bất động, đón nhận nụ hôn tình yêu đầu đời trong hai hàng nước mắt. Tôi tiễn Lân ra đầu làng, hai đứa ôm lấy nhau khi bóng chiều vừa tắt.
Sáng hôm sau, ngồi trong lớp học, khi thấy từng đoàn xe nhà binh chở đầy lính chạy về hướng Pleiku, lòng tôi thẫn thờ khi nghĩ là Lân đã đi xa... Tôi vội lên xin phép cô giáo ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa chạy đến hàng thông phía trước, thì đoàn xe cuối cùng đã chạy qua bên kia cầu.

Xuân ơi,
Anh đang ở phi trường Pleiku để chuẩn bị được không vận lên Kontum. Chiến trường đang ác liệt. Căn cứ Tân Cảnh vừa thất thủ. Địch quân đang tràn xuống uy hiếp thành phố Kontum. Thành phố đang bị cô lập nởi những cái chốt của địch quân trên đỉnh núi ChuPao, cắt đứt quốc lộ 14 nối liền với Pleiku. Sợ lên Kontum rồi, anh không liên lạc được với em, nên viết vội ít dòng tin em và cũng xin lỗi em vì hôm qua, khi chia tay ở nhà em, anh không nói chuyện anh đi. Mong em thông cảm bởi đó là bí mật quân sự, anh không được phép tiết lộ, mặc dù anh rất yêu em và tin em…
Không biết đến bao giờ mình mới gặp lại, nhưng dù bất cứ hoàn cảnh nào, anh vẫn luôn mang theo trong tim mình hình bóng của em. Em nhớ cầu nguyện cho anh nghe.
Xin cho anh kính lời hỏi thăm hai bác cùng gia đình. Cầu xin Chúa và Đức Mẹ Maria luôn che chở em cùng tất cả mọi người.
Hôn em.
Đỗ Lân.

Không ngờ lá thư này là lá thư cuối cùng tôi nhận được của Lân. Chỉ ba tuần sau, Lân hy sinh. Người báo tin buồn này chính là Lê Phương Quế, người bạn chí thân của Lân và sau này cũng là bạn của tôi. Lá thư có kèm theo vài di vật, Quế đã nhờ một anh phi công gởi cho tôi từ Pleiku, sau một chuyến đổ quân cho đơn vị của Quế ở Kontum. Lân đã bị thương rất nặng khi cùng với vị tiểu đoàn trưởng chui qua hàng rào phòng thủ, mở đường vào giải cứu Bệnh Viện 2 Dã Chiến, đang bị địch quân xua xe tăng đánh chiếm, với ý đồ lợi dụng những thương binh nằm trong bệnh viện, làm bàn đạp tấn công vào khu phi trường nằm sát thị xã Kontum. Lân chết lúc chờ máy bay tản thương. Chính Quế là người đã vuốt mắt cho Lân và nghe những lời trăn trối cuối cùng. Anh nhờ Quế giữ để trao lại cho tôi cái dây chuyền có mang thánh giá cùng mấy tấm ảnh có hình của cha mẹ anh và của anh mặc lễ phục trắng đội bê rê đỏ khi còn là thiếu sinh quân. Những tấm ảnh ấy bây giờ vẫn còn trong nhà thờ An Túc, và sợi dây chuyền tôi vẫn còn cất giữ đến hôm nay. Anh Quế còn cho biết thêm, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Lân còn thì thào gọi tên tôi, và khi lục trong túi áo, anh Quế còn thấy cái khăn tay và lá thư của tôi tặng Lân trong gói quà tết hôm nào.

- Thưa thầy, cuối năm 1973 tôi có nhận được thư của thầy. Lúc ấy thầy bị thương nặng, nằm ở quân y viện Pleiku. Tôi có tìm đến thăm, nhưng người ta bảo là thầy đã được chuyển về quân y viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang, để được gần nhà. Lúc ấy đoạn đèo An Khê lại bị địch chiếm, nên xe đò không chạy được. Mấy tháng sau, khi đi được xuống Nha Trang tìm thăm thầy, thì thầy đã xuất viện. Tôi có hỏi nhưng bệnh viện không biết thầy ở đâu.
- Mô Phật! Đúng như bà nói. Tôi được Hội Đồng Giám Định Y Khoa cho xuất ngũ, vì thương tích. Tôi về sống với mẹ già. Lúc ấy bà cũng đang tu tại gia, ăn chay trường. Suốt một đời bà đã lo lắng cầu nguyện cho cha tôi, rồi đến tôi. Cha tôi cũng đã tử trận năm 1965, trong trận Đồng Xoài, khi ấy tôi chỉ vừa 11 tuổi.
- Nhờ vậy mà thầy đã đi tu.
- Lý do đó chỉ một phần. Cái chính là do tôi đã sống trong chiến tranh, chứng kiến bao nhiêu cái chết quá đau lòng, như cái chết của những người còn quá trẻ như Lân. Họ đâu có tội tình gì. Tôi nghĩ tới cuộc chiến phi nghĩa, khi mà anh em cùng một nhà lại chém giết thù hận lẫn nhau. Nhất là những người lính miền bắc, chỉ vì một số người cầm quyền nhân danh các thứ chủ nghĩa này nọ, để xua họ vào miền nam chém giết chính đồng bào mình. Trước khi nhắm mắt, có lẽ họ chẳng biết họ chết trong núi rừng, trong đói khổ, để cho ai và được điều gì? Gia đình, cha mẹ hay vợ con họ ra sao? Tôi nghĩ tới cái Vô Thường, Vô Minh mà Đức Phật đã dạy, nên tôi đã tìm tới cửa Thiền để mong trút bỏ mọi ám ảnh, oan khiên.
Như vừa nhớ ra một điều gì, thầy chỉ tay về hướng sau chùa:
- Mời bà đi theo tôi. Mong bà sẽ tìm thấy một điều kỳ diệu.
Tôi theo thầy đi dọc theo triền đồi, đến một nơi tương đối bằng phẳng. Lại một khu vườn nhỏ toàn hoa sim. Tuyệt diệu hơn, bên trên các khung cây được treo đầy những cánh lan rừng. Tôi nhớ tới những cành lan mà Lân thường mang về tặng tôi sau các cuộc hành quân. Ngày xuân, tất cả đang nở rộ một mùa hoa. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn là giữa khu vườn là một ngôi mộ, trên tấm bia lại có cây thánh giá. Tôi thắc mắc hỏi thầy.
Thầy im lặng, không trả lời, ra dấu bảo tôi cùng thầy đến gần ngôi mộ. Tôi bàng hoàng khi đọc mấy dòng chữ trên mộ bia:
Giuse Đỗ Lân
Sinh ngày 10.7.1953 tại Huế
Tử ngày 11.5.1972 tại Kontum

Tôi quỳ trước ngôi mộ, đưa tay lên ngực làm dấu thánh giá rồi khóc sụt sùi. Một cơn gió xào xạc làm chao động cả rừng cây. Dường như tôi đã ngồi ở đây lâu lắm. Khi lau nước mắt đứng lên tôi không còn thấy thầy trụ trì. Có lẽ thầy muốn để tôi ngồi khóc một mình mà thổn thức với người xưa, hay là muốn tránh xa chuyện vui buồn của thế tục.
Khi trở lại chùa, tôi có cảm giác như chân mình đang bước vào khoảng không, hụt hẫng. Chú tiểu chờ tôi trong căn nhà khách, chuyển lại lời xin lỗi của thầy trụ trì và trao lại cho tôi một tờ giấy học trò được xếp làm đôi. Thầy trụ trì đang cúng ngọ. Tôi mở tờ giấy ra đọc, trong lúc tiếng chuông chùa ngân nga như muốn làm dịu đi phần nào những cơn sóng đang bềnh bồng trong lòng tôi. Trên tờ giấy chỉ có mấy dòng chữ: Xin chào bà và cám ơn bà. Chính tôi đã mang hài cốt của anh Lân về cải táng trong vườn chùa, khi được tin nghĩa trang trong thành phố Kontum bị giải tỏa. Anh Lân mồ côi, không còn ai thân thích. Từ nay, xin bà hãy cầu nguyện cho anh Lân, theo nghi thức tôn giáo của bà. Nam mô A Di Đà Phật.

phạm tín an ninh

(Tác giả viết lại phỏng theo lời kể của một nữ độc giả. Độc giả này sau khi đọc bài Trên Chiến Trường Xưa (Kontum) của tác giả, được phổ biến trên nhiều số báo nhân ngày 30.4.2008, đã tìm cách liên lạc với tác giả để tìm hiểu vế cái chết của người tình cũ. Anh đã tử thương trong trận tái chiếm Bệnh Viện 2 Dã Chiến, Kontum ngày 11.5.1972)
Cùng một tác giả Phạm Tín An Ninh

Back to top
« Last Edit: 09. Mar 2010 , 02:52 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #20 - 07. Apr 2010 , 08:21
 
Cái hộp đựng giầy

                                                    
...

  Hai ông bà cụ nọ ,đã sống vơi nhau hơn 60 năm. Họ chia xẻ ngọt bùi ,dủ mọi thứ.Duy chỉ có cái hôp đựng giầy  mà bà cụ để ở  dưới gầm tủ là ông cụ không hề biết trong đó đựng cái gì. Và cũng tôn trọng riêng tư của bà,ông chẳng bao giờ hỏi tới  cái hôp đó.

Năm  này qua năm nọ,một ngày kia cụ bà bổng bệnh nặng.Biết vợ mình không qua khỏi ,cụ ông chợt nhớ tới  cái hộp giầy bí mật.Bèn lấy đem đến bên giường cụ bà,cụ bà cũng đồng ý  cho ông mở cái hộp ra.

Khi chiếc hộp được mở ra,bên trong chỉ vỏn vẹn  có hai con búp bê bằng len nhỏ va một số tiền là 95.500 đô. Ông cụ ngạc nhiên hỏi vợ" Thế này là sao?"

    "Khi chúng ta mới lấy nhau", cụ bà nói" Bà nội của em có dặn em rằng: Bí quyết để giữ hạnh phúc gia đình là đừng bao giờ cãi nhau.Nếu lỡ chồng con có làm  điều gì  khiến con bực mình,tức giận. Con nên im lặng và bình tỉnh,đi ra chỗ khác  lấy len đan một con búp bê nha con".Và anh thấy đó...

... ...

      Cụ ông  không cầm được nước mắt. Cả suốt cuộc đời ,sống chung với nhau  người vợ thân yêu của mình chỉ giận mình chỉ có hai lần thôi ư? Ông cảm thấy  hạnh phúc vô cùng.

      "và còn món tiền lớn nay thì sao?" Ông cụ hỏi.

  Cụ bà mắt đỏ hoe trả lời:" .Và đó là.. số tiền  em đã bán những con búp bê mà em đã đan.."
Back to top
« Last Edit: 07. Apr 2010 , 08:24 by dacung »  

dacung
WWW  
IP Logged
 
HOANG LAN
YaBB Newbies
*
Offline



Posts: 6
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #21 - 29. May 2010 , 11:23
 
xin dươc chan thanh ngươi da poste len cau chuyen nay , sau khi xem xong , Lan da cươi len mot luc , cươi ra nươc mat , vi cau noi cươi cung :

Cụ ông  không cầm được nước mắt. Cả suốt cuộc đời ,sống chung với nhau  người vợ thân yêu của mình chỉ giận mình chỉ có hai lần thôi ư? Ông cảm thấy  hạnh phúc vô cùng.

      "và còn món tiền lớn nay thì sao?" Ông cụ hỏi.

  Cụ bà mắt đỏ hoe trả lời:" .Và đó là.. số tiền  em đã bán những con búp bê mà em đã đan.."
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #22 - 11. Jul 2010 , 14:32
 
LÒNG TỰ TRỌNG CỦA LOÀI CHÓ

NGÔ NHƯỢC TĂNG (Dịch giả Nguyễn Hải Hoành
Loài chó còn biết tự trọng hơn con người - câu nói này rất đúng với những người đạo đức giả, nhất là với các người tham nhũng, vừa bóp nặn vơ vét tiền của dân, vừa lên mặt lãnh đạo dân.



Năm ấy tôi quen một huấn luyện viên dạy chó nghiệp vụ trong quân đội. Tôi hỏi anh:

- Loại chó thông minh nhất có thể đạt được tới trình độ như thế nào?

Anh trả lời:

- Trừ chuyện không biết nói ra, chúng không khác gì người.

Câu trả lời của anh khiến tôi sửng sốt. Tôi hỏi tiếp:

- Phải chăng câu này của anh có lẫn lộn nhiều màu sắc tình cảm?

- Không đâu ! Anh nói.



Rồi anh kể cho tôi nghe dăm ba câu chuyện về loài chó, đều là những chuyện chính anh từng trải qua. Có mấy chuyện tôi đã quên, duy chỉ có một chuyện sau đây thì cho đến nay tôi vẫn còn nhớ như in.



Trong doanh trại của anh có một con chó cực kỳ thông minh tên là Đen. Để trắc nghiệm năng lực phản ứng của nó, một hôm mấy huấn luyện viên dạy chó nghĩ ra một biện pháp đặc biệt. Họ chọn hơn chục người xếp thành một hàng, sau đó cử một người trong số đó vào trong doanh trại "lấy cắp" một vật đem giấu đi, rồi lại trở về đứng trong hàng. Khi mọi việc đã xong xuôi, huấn luyện viên dạy chó dắt con Đen đến, bảo nó đi tìm vật bị mất. Con Đen chạy đi, chỉ một loáng sau đã thấy nó ngoạm vật kia mang đến. Huấn luyện viên dạy chó cả mừng vỗ vỗ lên đầu nó tỏ ý khen ngợi. Rồi anh chỉ tay vào hàng người kia, bảo con Đen đi tìm kẻ đã lấy cắp vật ấy. Nó chạy đến dí mũi hít hít ngửi ngửi hết người này đến người khác, chẳng mấy chốc đã cắn quần một anh lôi ra ngoài hàng. Anh chàng này đúng là anh "kẻ cắp".



Phải nói rằng như vậy con Đen đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thế nhưng huấn luyện viên dạy chó lại cứ một mực lắc đầu bảo nó: "Không, không phải người ấy ! Tìm lại đi !"



Con Đen tỏ ý hết sức ngạc nhiên, mắt nó ánh lên nỗi nghi hoặc, thắc mắc, vì nó tin chắc rằng mình không hề tìm nhầm người; nhưng mặt khác nó lại tuyệt đối tin tưởng vào huấn luyện viên của mình. Đây, đây là chuyện thế nào nhỉ ? - nó nghĩ. "Không phải người ấy! Đi tìm lại đi!" Huấn luyện viên cứ khăng khăng bảo. Con Đen tin vào huấn luyện viên, nên nó quay lại tìm .. Nhưng sau nhiều lần thận trọng ngửi đi ngửi lại, cuối cùng nó vẫn cứ cắn quần anh chàng kia lôi ra. "Không! Không đúng!" Huấn luyện viên lại lắc đầu. "Tìm lại đi!"



Con Đen mỗi lúc một thêm nghi hoặc, đành chạy lại chỗ hàng người kia. Lần này nó đánh hơi ngửi rất lâu, rất lâu để xác định ai là kẻ cắp. Sau cùng, nó đứng lại bên cạnh anh "kẻ cắp" kia rồi quay đầu nhìn huấn luyện viên, tỏ ý, "Làm sao tôi lầm được nhỉ? Tôi biết chắc chính người này đã lấy đồ mà .." "Không ! Tuyệt đối không phải người ấy !" Huấn luyện viên lại quát to, nét mặt trở nên nghiêm nghị. Lòng tự tin của con Đen bị đập tan tành ! Dĩ nhiên nó tin vào huấn luyện viên hơn là tin vào bản thân nó. Nó không hề nghĩ rằng, huấn luyện viên có thể mang niềm tin tuyệt đối của nó đối với ông ta ra làm trò đùa. Rốt cuộc nó bỏ tên kẻ cắp kia và đi tìm người khác. Nhưng ai đây ? Bản năng của một con chó và khả năng đã được người huấn luyện cho nó biết, chỉ có người đó là tên lấy cắp. Nhưng người huấn luyện viên nhất định bảo không phải, thì ai đây ? .. Con chó Đen lưỡng lự ..



"Nó ở trong hàng người ấy đấy ! Mau tìm ra ngay !" Huấn luyện viên quát lên. Con Đen vô cùng thất vọng chán nản. Nó dừng lại bên chân mỗi người một lúc, nhìn nhìn ngó ngó xem người đó có giống tên kẻ cắp hay không, rồi quay đầu nhìn ánh mắt của huấn luyện viên, hy vọng có thể tìm thấy chút ít tín hiệu hoặc biểu thị gợi ý gì đấy .. của chủ. Cuối cùng, khi nó nắm bắt được một chút xíu biến đổi trong ánh mắt của huấn luyện viên, nó cắn quần người đứng bên cạnh và kéo ra. Tất nhiên, lần này thì nó đã nhầm, hay đúng hơn, nó bị buộc phải nhầm.



Nhưng huấn luyện viên của nó cùng mấy người kia thì lại cười ha hả. Tiếng cười khiến con Đen trở nên lú lẫn. Sau cùng huấn luyện viên gọi "kẻ cắp" bước ra ngoài hàng, rồi bảo con Đen: Lần đầu mày tìm đúng rồi, nhưng mày sai ở chỗ không kiên trì bảo vệ niềm tin của mày.



Một điều khiến huấn luyện viên và tất cả mọi người có mặt lúc ấy không thể hiểu được và vô cùng kinh ngạc, vô cùng ân hận, là ngay trong khoảnh khắc ấy họ đã nhìn thấy: Khi con Đen hiểu ra chuyện vừa rồi là một vụ lừa dối, nó "ngoào" lên một tiếng vô cùng đau khổ, mắt ứa ra những giọt nước mắt nóng hổi. Sau đấy nó ủ rũ gục đầu nặng nề, thui thủi từng bước bỏ đi ..



"Đen ! Đen ! Mày đi đâu thế hả ?" Huấn luyện viên sợ hãi đuổi theo hỏi tới tấp. Con Đen chẳng hề đoái hoài tới người rèn dạy nó, cứ cắm cúi đi ra khỏi doanh trại. "Đen ! Đen ! Tao xin lỗi mày !" Huấn luyện viên òa khóc.



Nhưng con Đen chẳng hề xúc động, nó không thèm ngoái lại nhìn chủ mình. "Đen ! Đừng giận ! Tao chỉ đùa mày một tí thôi mà !" Huấn luyện viên chạy đến ôm chặt lấy con chó, nước mắt nóng hổi từ mặt anh lã chã rơi xuống con Đen.



Con chó giãy giụa tuột ra khỏi vòng tay của huấn luyện viên, rồi nó thủng thẳng, lừ đừ từng bước đi lên quả đồi ở bên ngoài doanh trại, tìm một chỗ khuất gió xoài bốn chân nằm xuống đất ..



Mấy ngày sau đó con Đen không ăn không uống, ủ rũ chán chường. Mặc cho huấn luyện viên dỗ dành, nựng nịu thế nào đi nữa, nó cũng nhất định không chịu tha lỗi cho anh.



Lúc bấy giờ mọi người mới hiểu ra: Dù chỉ là con chó thôi, nó cũng có lòng tự trọng của nó.Hoặc nói ngược lại, chúng còn biết tự trọng hơn một số người ! ..



Chuyện về sau ư? Sau này con Đen không còn tin tưởng vào huấn luyện viên của nó nữa, thậm chí không tin bất cứ người nào. Đồng thời tính tình của nó cũng thay đổi hẳn, mắt không còn sáng quắc như trước, bốn chân không còn phi như bay nữa, mất hẳn dáng vẻ oai vệ dữ dằn của một con chó nghiệp vụ .. Cuối cùng, huấn luyện viên chẳng còn cách nào nữa, đành đau xót cho nó giải nghệ ..



Ôi, con Đen, chao ôi !


NGÔ NHƯỢC TĂNG (Dịch giả Nguyễn Hải Hoành
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat TRUYEN LINH TRANG
Reply #23 - 11. Jul 2010 , 14:54
 
Nhớ lời thơ Chinh Phụ nâm khúc ,
Ngàn xưa da ngựa bọc thây
Xưa nay chiến trận mấy ai trở về
Kính giới thiệu một bài rất hay và có nhiều chi tiết thú vị về Iraq.
Bài được giới thiệu là một chuyện có thật.

Đường ra khỏi B asra
Nguyễn Thị Thảo An

 

Kính tặng Sgt. Nguyễn Khắc Bình & gia đình



Khi tôi đặt bàn chân đầu tiên chạm xuống đất Mỹ, tôi đã để ý rất kỹ, cái cảm giác đầu tiên bao giờ cũng vậy, nó gây một ấn tượng sâu sắc lâu dài trong ký ức. Vậy mà trong giây phút đó tôi chỉ ngẩn ngơ một chút, một chút thôi rồi bị đẩy theo dòng người… Cái cảm giác bàng hoàng, sâu sắc nhất phải kể là lúc máy bay cất cánh rời Việt Nam . Khi chiếc máy bay United Airline nhấc mình rời phi đạo, tôi ý thức được mình không còn đặt chân trên mảnh đất quê hương nữa. Tôi lơ lửng, bay cao và bay cao mãi. Đột nhiên tôi có cảm giác xác thân không còn tồn tại, tôi giống như một thứ linh hồn đang lơ lửng rời bỏ trần gian.

Mẹ tôi nói, đặt chân lên đất Mỹ tức là đặt chân lên tới thiên đàng. Cha nói, hãy bám trụ, đừng trở về cái địa ngục này. Tôi hiểu, cha mẹ đang cắt ruột đấy, và tôi cũng đang quặn lòng phải rời bỏ gia đình để đi du học.

“Phải bám trụ.” Ba cái chữ này ám ảnh và mọc rễ trong tâm trí tôi. Nhưng mà làm thế nào để bám trụ? Để được ở lại nước Mỹ, vào quốc tịch, và sau này kéo hết gia đình sang, đó là mục tiêu tối thượng, và cũng là niềm mơ ước của cả gia đình, điều đó thật không dễ. Con đường tắt là kết hôn với người có quốc tịch. Ở ký túc xá, trong lớp, đi shopping, đi làm thêm, hay bất cứ lảo rảo nơi đâu tôi cũng dán mắt vào những đứa con gái. Tôi đoán và xác định mục tiêu, con nhỏ này còn Việt Nam quá, chắc chỉ có thẻ xanh, con nhỏ kia có vẻ Mỹ hóa chắc chắn là có quốc tịch rồi hay nó đẻ ở đây. Tôi bất kể tuổi tác, nhan sắc, trong đầu vẽ ra một cuộc tình chớp nhoáng, mà cái nào cũng kết thúc bằng một buổi lễ tuyên thệ tại sở Di Trú. Nhưng mà thực tế, chưa có lần nào tôi mở miệng làm quen, tôi vẫn đứng đó với một tâm trạng xuôi xị, hèn hèn. Tệ hơn nữa, trước mặt họ, tôi có cảm giác mình là người làm bằng thủy tinh trong suốt, họ nhìn thấy tâm địa bất chánh, những ý đồ đen tối rõ mồn một như một vết mực đen vấy bẩn khắp người. Những thằng du học sinh khác bảo, hãy coi chừng, léng phéng với họ có ngày ăn dao, ăn đạn đấy. Chúng nó bày, muốn ở lại, chỉ có nước kết hôn giả. Kết hôn giả ngốn rất nhiều tiền. Cha mẹ tôi đã phải cầm cố nhà cửa, tài sản duy nhất để lo chuyện du học rồi, đánh chết tôi cũng không dám nghĩ tới tạo một gánh nặng nữa cho gia đình. Một thằng bạn khác bảo, đăng lính đi, phục vụ trong quân ngũ một thời gian vừa được quy chế vào quốc tịch, vừa được học bổng học đại học, nhất cử lưỡng tiện. Chiến tranh Iraq mới bắt đầu, nhu cầu cần lính đang cao. Và tôi, quyết định ngay, mở một con đường máu, vào quân đội để thoát hiểm.

Quyết định vào lính làm mọi người kinh ngạc. Bạn tôi nói, “Đi lính bây giờ là nhảy vô địa ngục.” Tôi cười cười, vò vò cái đầu gần như trọc lóc. Không, tôi chỉ muốn làm một cú “vượt vũ môn” thôi. Tương truyền ngày xưa có một loài cá chép, cứ ba năm thì được vượt vũ môn để hóa thành rồng. Từ dân Việt để trở thành công dân Mỹ cũng giống như đi đầu thai kiếp khác, tôi cần phải “vượt vũ môn” như một con cá chép thật.

Tôi không kể cho ai nghe về thời huấn nhục ở quân trường. Làm thế nào để từ một người dân trở thành một người lính? Nó đã tóm gọn trong hai chữ huấn nhục. Người ta huấn luyện người lính đứng vững trong mọi tình thế, kể cả khi địch bắt, bị tra khảo và chịu nhục hình.

Tôi gửi cho gia đình một tấm hình lễ mãn khóa. Tôi trong bộ quân phục bộ binh, vác súng, qua nhiều tư thế. Mẹ tôi khóc. Mẹ đã vất vả nuôi ba tôi trong tù nhiều năm. Còn cha, tuy là lính trơn nhưng lúc xe tăng T.54 tiến vào Dinh Độc Lập, cha cùng đồng đội còn đang lập chốt làm tuyến phòng thủ ở phía Tây Sài Gòn. Cha bị bắt ngay mặt trận vào giờ thứ 25 nên tù lâu là chuyện thường. Trong thư cha viết, “Cha tôn trọng quyết định của con. Phải nhớ rằng, một ngày làm lính, cả đời là lính. Người lính không sử dụng quân đội như một phương tiện… Khi con có mục tiêu thì phải chiếm cho bằng được.” Kể từ đó, cha không viết về những chuyện đã rồi, thư cha toàn là những trang liệt kê về những ưu điểm của đủ thứ vũ khí các loại, và cách đối phó những tình thế nguy hiểm. Không nói ra, nhưng tôi hiểu cha muốn truyền hết nội lực, tâm huyết cho tôi, không giữ lại một chút gì.Tôi nghĩ, những vũ khí xưa ở chiến trường Việt Nam hiện nằm trong viện bảo tàng. Chiến trường Iraq ở sa mạc, trong lòng núi, ngoài thành phố, chợ búa, và bên vệ đường. Nguy hiểm nhất là những “road bomb”. Nó chỉ là những chất nổ tự tạo, rất đơn sơ, nằm lẫn trong gạch đá, rác rến phế thải ở ven đường. Ở một nơi mà kẻ thù không những chỉ là con người, mà còn là gạch đá, rác rến, cỏ cây thì đó là nơi tối nguy hiểm. Nhưng tôi không nói với cha điều này.

Ra trường một năm đơn vị tôi mới tới phiên qua Iraq . Trước đó, chúng tôi đã được thao tập nhuần nhuyễn về chiến trường mới, thực tập trên các địa hình sa mạc Black Rock ( Nevada ), leo lên những mỏm núi chót vót ở những vùng thạch sơn kỳ vĩ của Arizona . Mùa Đông chúng tôi len lỏi hành quân trên những rặng núi trắng xóa trên Canada . Hè, chúng tôi xuống Texas , lang thang lạc lối trên sa mạc miền viễn tây, chịu đựng cái nóng và khát cả tuần để tự mưu sinh thoát hiểm. Bộ chỉ huy đơn vị nói, phải biết sinh tồn trong “tủ lạnh” và trên “lò nướng” để khi qua Iraq làm tụi Al- Qaeda “lé” mắt.

Chiến tranh Iraq bắt đầu vào ngày 20 tháng 3 năm 2003 và ngày 1 tháng 5 khi viếng thăm chiến hạm USS-Abraham Lincoln ông Bush tuyên bố chiến tranh chấm dứt. Chính quyền độc tài bị lật đổ, chuẩn bị cho một nền dân chủ đang được tiến hành, mọi đảng phái đều được tham chính thông qua bầu cử. Ngày 13 tháng 12 cùng năm đó, Saddam Hussein bị bắt, hy vọng phục quốc tiêu tan.

Nhưng mà ở Iraq súng vẫn nổ khắp nơi. Từ thành phố đến thôn quê, rừng núi, sa mạc, nhà thờ, trường học, chợ búa, đâu đâu cũng có những ổ kháng cự. Nhỏ thì dăm ba người, lớn lên đến vài trăm. Thoạt trông họ là thường dân, cầm súng lên họ là giặc. Không phải dân Iraq chỉ chống Mỹ, mà xem ra họ chống nhau còn tàn tệ hơn. Quân kháng chiến có thể xả súng bắn vào chợ búa, nhà thờ, trường học, thậm chí đám cưới hay tang lễ.

Khi tôi đặt chân đến Mosul , pháo đài kiên cố nhất của đảng Baath do giáo phái Sunni phe Saddam thì giao tranh vẫn còn ác liệt.

“Sức mấy mới hết chiến tranh.” Thằng Michael Tea, tiểu đội trưởng mới của tôi nói. “Mỹ có rút hết quân thì chiến tranh vẫn còn.”

“Tại sao còn?” Tôi ngạc nhiên.

“Mày tưởng tụi Iraq chỉ có chống Mỹ hả? Tụi nó chống nhau còn dữ hơn chống Mỹ.” Thấy mắt tôi vẫn tròn xoe, nó nói. “Cùng là dân Iraq, gốc Ả Rập, cùng Hồi giáo, nhưng phe Sunni chống phe Shi’a, hai phe này lại cùng chống người Kurd ở miền Bắc, người Kurd lại chống chánh quyền Iraq bất kể phe nào cầm quyền, người Turkman cũng chống chánh quyền Iraq, chống Sunni, chống phe Shi’a, chống người Kurd, người Assyrian Christian chống hết tất cả các phe khác họ.”

“Trời ơi, nhức đầu quá.”

“Tao điên mất.” Mấy thằng trong đơn vị tôi ôm đầu la.

Tôi bình tĩnh hỏi, “Trong các nhóm, nhóm nào đông nhất?”

“Giáo phái Shi’a đông nhất, chiếm gần 60% dân số. Phái Sunni 20% đứng nhì. Thứ ba là người Kurd miền Bắc cũng khoảng 20%. Mấy nhóm còn lại chừng 3%.”

“Dễ ợt. Chỉ cần ổn định các phe phái lớn trước thì các phe nhỏ phải chịu phép thôi. Iraq sẽ thái bình”

Michael Tea cười lớn, “Chuyện đó con nít cũng biết. Nhưng mà làm sao để họ ngồi lại với nhau họa chăng chỉ có Trời mới biết.”

“Nhưng tại sao họ chống nhau?” Thằng Ted hỏi.

“Nguyên nhân bắt nguồn từ Giáo chủ Muhammad. Sinh năm 571, nhưng mãi đến năm 610, bốn mươi mốt tuổi, ngài mới bắt đầu rao giảng kinh Qur’an và thành lập Hồi giáo. Đến năm 632, ngài bị bệnh và nghĩ tới việc truyền ngôi. Bấy giờ, trong hàng tín đồ bắt đầu chia ra hai phe. Một phe theo kiểu cha truyền con nối, Giáo chủ không có con trai nên ủng hộ người con rể tên Ali Abu Talid nối ngôi. Nhưng phe khác cho rằng, Giáo chủ là người thừa sai của Chúa, vậy người đại đệ tử Abu Bakr mới đủ đạo hạnh tiếp tục ngôi vị đó. Cuộc tranh chấp dẫn tới việc Giáo chủ phải ra phán quyết cuối, nhưng cả hai phe đều không chờ được nên xảy ra bạo loạn và khi ấy đã có kẻ ra tay giết Giáo chủ. Từ đó đến nay không thấy ai thắc mắc, điều tra hung thủ đã sát hại Giáo chủ. Người ta bận lo tới việc tranh ngôi. Cho tới bây giờ kể như bất phân thắng bại.”

“Hơn cả ngàn năm trôi qua, Ali và Abu cũng không còn, ai lãnh đạo thì cũng đọc kinh Qur’an thôi, có chi mà tranh chấp.” Tôi nói.

“Đạo Hồi có một tỷ ba dân số khắp thế giới, giáo quy gắt gao, người lãnh đạo quyền hạn hơn Tổng Thống, vua chúa một nước. Chính Ali và Abu chắc cũng không ngờ, nếu biết trước họ đã tận diệt nhau chứ không chịu chia thành hai phe, di họa tới bây giờ.” Michael Tea nói, “Mày không tranh chấp, dễ thua thiệt lắm.”

Tôi vào quân đội, rồi được nhập tịch, tương lai đem cả gia đình sang, nghĩ tới cảnh đoàn tụ, tôi “lời” quá cỡ, thua thiệt chỗ nào. Tôi tiếp tục thắc mắc.

“Vậy giáo phái Sunni của Saddam thuộc dòng nào?”

“Họ là truyền nhân của đại đệ tử Abu Bakr, là thiểu số. Còn phái Ali con rể Muhammad là phái Shi’a thân Iran chiếm đa số.”

“Trời đất!” Tôi kêu lên, “Làm thế nào mà Saddam lấy thiểu số thắng đa số ?”

“Lấy bàn tay sắt.” Michael Tea trả lời tỉnh bơ. “Chính nghĩa, công lý hay gì gì nữa cũng bị đè bẹp thôi. Trong 25 năm, Saddam xử tử cả trăm ngàn người.”

“Ối trời ơi.” Cả tiểu đội kêu lên, thật kinh khủng.

Đêm đó, tôi trằn trọc nghĩ về Saddam. Iraq là một vùng đất cổ, có hai con sông Euphrates và Tigris vắt qua. Nơi đây được mệnh danh là cái nôi của nhân loại, bởi người ta tìm thấy dấu vết con người xưa nhất trái đất ở đây. Vì sống giữa vùng đất được bồi đắp phù sa của hai con sông nên người ta gọi nền văn minh này là nền văn minh Lưỡng Hà. Thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt được dùng làm vũ khí. Các công trình nghệ thuật kiến trúc như thành Babylon , vườn treo sau này trở thành kỳ quan thế giới cũng phát xuất từ đây. Văn hóa phát triển rực rỡ như thế nhưng dân cổ đại Iraq yếu xìu, đánh giặc dở không thể tả. Liên tiếp trải mấy ngàn năm Iraq luôn bị các chủng tộc khác xâm chiếm và cai trị. Iraq chưa bao giờ giành được độc lập, tự vẽ biên giới cho mình. Sau thế chiến thứ nhất, đế chế Ottoman thống trị Trung Đông bị Anh, Pháp, Mỹ đánh bại. Chính người Anh đã vẽ lại bản đồ cho Iraq . Nhưng Saddam và đảng Baath mới giành độc lập cho Iraq từ Anh. Như vậy kể ra Saddam là một anh hùng, chưa chắc là tội nhân. Nghĩ tới đó, không chịu nổi, tôi hỏi Michael. Nó bật cười lớn.

“Ya, ya. Saddam là anh hùng, nhưng là anh hùng của 20% dân số thôi.” Nó nạt tôi, “Ngủ đi. Sống ở đây, khóa miệng lại. Tuyên bố bậy bạ, sáng mai 60% dân số còn lại sẽ giết mày đó.”

Nhưng mà tôi vẫn không tài nào ngủ được. Nếu Saddam là người Shi’a có thể tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không độc tài, tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không xâm chiếm Kuwait , không mơ làm Thành Cát Tư Hãn thống nhất Ả Rập, tình thế sẽ khác. Và nếu tôi không mất ngủ, tình thế cũng sẽ khác.

Mới mờ sáng, đơn vị tôi nhận lệnh tới Haji Ibrahim. Đây là vùng núi cao nhất Iraq , trên 11 ngàn feet, nằm sát biên giới Iran . Bộ chỉ huy đơn vị nói, những tổ chức người Sunni đang rút về đây, họ sẽ truy quét người Kurd ra khỏi vùng núi để chiếm lấy địa bàn. Nếu để họ chiếm được khu vực này sau rất khó kiểm soát. Đây cũng có thể là con đường vận chuyển vũ khí lậu từ Iran chuyển cho khủng bố. Nhiệm vụ chúng tôi là bảo vệ người Kurd, chận đứng con đường tiếp tế vũ khí từ Iran .

Mặt trời chưa lên, ba phi đội UH-60 Black Hawk bay hàng một luân phiên thả chúng tôi xuống chân núi. Chân vừa chạm đất, chúng tôi vừa lăn vừa chạy. Phải biết biến mình thành một mục tiêu luôn luôn di động. Có thể những tay bắn tỉa của địch đang phục kích đâu đây. Cuộc hành quân bắt đầu từ giữa hai khe núi thấp nhất và tỏa ra những vùng phụ cận. Núi Iraq rừng lơ thơ, cỏ không cao quá gối, nhiều nơi chỉ có toàn đá trọc. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh, tất cả tản ra, kiểm soát những hang động trước khi tiến lên núi, chú ý hầm hố và những bãi mìn.

Tiểu đội dàn ngang, ghìm súng chầm chậm tiến lên. Kiểu đội hình này, cha tôi viết, là thế tiến nguy hiểm, vì địch nấp ở đâu đó quạt một tràng là tiểu đội tiêu. Tôi đâm sợ, thằng Michael Tea không có kinh nghiệm, đáng lẽ nên dàn hàng một tiến lên mới đúng. Tôi kêu Michael trong earphone. Nó la, “Nhìn vô ống nhắm, quan sát những điểm đen kìa.” Những điểm đen thường là những cửa hang, lấp bằng vải bạt hay ván tạp. Tôi rùn mình xuống, lò dò tiến. Mắt dán vào ống nhắm và điều chỉnh. Cái ống nhắm này tôi nài nỉ mãi mới được loại 50MM có thể phóng mục tiêu lớn ra từ 3 đến 9 lần, rất rõ. Tôi gắn ống nhắm trên khẩu M4A4 có 2 cò, vì bên dưới còn thêm bộ phận phóng lựu M203, sức công phá mạnh và xa hơn M.79 ở chiến trường Việt Nam . Tiểu đoàn trưởng nói, hành quân 2 ngày, quân trang gọn, nhẹ để dễ leo núi, không quân yểm trợ nếu có tình thế bất ngờ. Nhưng cha tôi viết, nếu đụng trận diễn tiến không lường được, cuộc hành quân có thể kéo dài. Vì vậy, hành trang của tôi nặng trĩu như một cuộc chuyển quân xa hay sắp đụng một trận lớn. Ngoài ra, cái áo khoác tactical vest nhiều túi của tôi nhét đủ thứ, 4 băng đạn dự trữ 1,800 viên, 10 quả M203, dao găm Ka-Bar bén ngót, kính hồng ngoại tuyến ban đêm, một canteen nước, hai phần MRE thức ăn liền, mặt nạ chống hơi gas vì người Kurd đã từng bị Saddam tấn công bằng hơi độc Sarin chết hàng loạt.

Lúc ngồi trên trực thăng, thấy tôi vũ trang đến tận răng, cả đội nhìn tôi như quái vật.

“Ê, mày định một mình tiêu diệt hết một tiểu đoàn hả?” Thằng Ted xỏ ngón tay tìm coi có cái túi nào còn trống trên cái áo vest phồng cứng của tôi.

“Oh! My heroes” Thằng Robert láu lỉnh, giả vờ chắp tay ngưỡng mộ. “Có mày, chắc tụi tao ở không quá.”

Tôi nổi sùng, hất tay tụi nó, nạt. “Kệ tao.” Nhưng mà nhìn lại, tôi thấy mình giống như “Cái Bang Tám Túi” thật. Đem nhiều thứ quá cũng không giống ai. Lần sau tôi sẽ rút kinh nghiệm.

Có một bàn to lớn mò mẫm bóp cái ba-lô sau lưng tôi.

“Trời ơi, nó đem theo mền nữa đây này.” Thằng Ed cười hô hố, “Mày tính định cư trên núi luôn à?”

“Câm miệng.” Tôi quát lên một tiếng, bực tức, thằng này lớ quớ khi xuống đất tôi sẽ đá cho nó một cái để đời. Nhưng mà nhìn lại, nó bự hơn, bàn tay của nó to gấp ba lần tay tôi.

Michael Tea, tiểu đội trưởng, nạt, “Shut up.” Đôi mắt nó rà một lượt, tia nhìn phát ra lửa, chúng tôi nóng ran cả người.

Có tiếng súng M4 “tạch, tạch, tạch… ” ròn rã. “Đụng rồi.” Có tiếng la sau lưng tôi. Cả bọn nằm rạp xuống. Chừng ba mươi giây, Michael ở đằng trước quay đầu ra hiệu, chúng tôi tẻ hai bên, nhường cho hai thằng mang M249 đi giữa, một thằng lui ra sau dự bị. Chúng tôi bò lên, ép sát hai bên, tiến gần cửa động. Chắc chắn có người, tôi thấy tấm bạt rung rinh, nhất định không phải dân, có lẽ tụi Baath đã đi trước một bước.

“Marhaba” Tiểu đội trưởng cầm micro gọi lớn ba, bốn lần, không ai trả lời.

Qua kính nhắm, tôi thấy tấm vải bạt nhúc nhích như có người đứng ngay sau đó. Tôi đặt tay vô cò sẵn sàng, thằng nào lú ra, tôi nả liền. “Tiên hạ thủ vi cường.” Tôi nghĩ, “Thà bắn lầm còn hơn bị bắn chết.” Tôi không muốn chết, nhất là chết ở đây. Mặc kệ ông Bush muốn xây dựng dân chủ hay phát huy tự do gì gì đó, tôi không “ke”. Tụi Iraq có chết khô trên giếng dầu, tôi cũng không “ke”. Tôi chỉ muốn sống để trở về. Để mơ, một ngày nào, cha mẹ em út tôi được đặt chân lên miền đất hứa.

“Hello. Hello. Anybody’s there?” Thằng Michael kêu muốn tắt hơi.

Cửa hang vén khẽ, một nhánh cây ló ra, đầu có cột một miếng vải trắng. Đầu hàng rồi, chúng tôi thở phào, không cần phải nổ súng. Nhưng vì đề cao cảnh giác, biết đâu địch trí trá khó lường, Michael vẫn kêu họ bằng tiếng Ả Rập.

Họ bắt đầu đi ra, dè dặt từng người một. A! tôi nhận ra, đây là dân quân Kurd, họ trang phục khác người Iraq , đàn ông mặc quần phùng (kiểu Thổ), áo sơ mi, đầu quấn khăn xếp, râu tóc ngắn gọn. Tất cả hai mươi bảy người, kể cả bốn đứa trẻ chỉ độ 12,13 tuổi. Trong bộ tộc Kurd, người nào vác nổi súng, người đó là lính, bất kể nam phụ lão ấu.

May quá, người Kurd ở đây, có nghĩa vùng này an toàn. Trong khi tiểu đội liên lạc cấp trên, tôi đi một vòng khảo sát.

Chỉ suy diễn từ cái hang này tôi cũng thấy vấn đề kiểm soát an ninh, hay ngăn chận sự chuyển vận vũ khí qua lại biên giới là một chuyện nan giải. Cửa hang nhỏ, nhưng càng vào trong càng rộng, khuôn viên chính giữa có thể chứa vài ngàn người. Ở giữa động có một hồ nhỏ, nước trong vắt. Họ nói, mùa Xuân tuyết trên núi tan, nước theo khe chảy xuống tích tụ nên hồ, đủ dùng quanh năm. Đàng sau còn có một cửa khác ăn thông, có thể thoát ra bằng vách khác. Cái cửa hậu này không phải do thiên nhiên mà do họ đào phá từ năm này qua năm khác mà thành. Tôi đi vòng lòng xem qua nơi ăn, chốn ở của họ. Có lẽ đây là trạm trú quân của quân du kích nên đồ đạc, bếp núc không có dấu vết đàn bà. Nồi niêu xoong chảo, ấm chén của họ có lẽ toàn là đồ từ thời Adam, Eva, cũ kỹ thấy phát sợ.

Người Kurd có mặt ở Iraq có lẽ từ thời khai thiên lập địa. Họ không phải giống dân Ả rập, không theo đạo Hồi. Sự khác biệt văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, trang phục, biến họ thành cái gai trong mắt dân Ả Rập. Trải qua hàng ngàn năm, họ đã bị các chủng tộc, các thời đế chế, vua chúa khắp nơi truy sát. Nhưng mà, với sức chiến đấu dẻo dai, khả năng sinh tồn mạnh mẽ, họ đã trốn chạy liên tiếp từ đời này qua đời khác. Khi bị truy sát ở Iraq, họ bồng bế nhau qua Thổ, khi Thổ đánh đuổi, họ chạy qua Syria, khi bị Syria càn, họ trốn qua Iran, bị Iran đánh, họ lại chạy về Iraq. Họ sống du mục và chạy loanh hoanh khắp biên giới bốn nước. Lịch sử của người Kurd là lịch sử chạy. Cho tới bây giờ họ chưa có điểm dừng chân.

Tôi nghe nói, sau thế chiến thứ I, người Anh ký hiệp ước giúp họ thành lập quốc gia Kurd, thủ đô đáng lẽ là Mosul . Đổi lại, người Kurd ký kết cho Anh khai thác mỏ dầu lớn ở miền Bắc, lãnh địa Kurd. Hiệp định đã ký kết, năm 1927, Anh đã khai thác dầu. Nhưng quốc gia Kurd đến nay vẫn còn nằm trên giấy. Không phải người Anh bội ước mà người Kurd đã bỏ mất cơ hội lập quốc có một không hai. Vì đây là thời gian, Anh cũng đang thành lập Iraq . Do trốn chạy khắp nơi, người Kurd đã bị phân hóa từ đời nào cũng không biết. Khi tiến hành việc thành lập quốc gia, người Kurd ở Thổ thích chính sách của Thổ, người Kurd ở Iran thích theo khuôn mẫu Iran , người Kurd ở Syria thích theo chế độ như Syria , người Kurd ở Iraq lại không thích ý kiến các nhóm khác. Không ai nhường ai. Mấy năm sau, Iraq tuyên bố độc lập, biên giới bao trùm luôn phần đất Kurd. Và người Kurd từ đó lại tiếp tục: Chạy.

Nghe tới đoạn này, tôi cảm thấy buồn. Mong rằng người Việt tỵ nạn khắp nơi Mỹ, Anh, Úc, Pháp, sau này trở về sẽ tránh vết xe đổ như người Kurd.

Tiểu đội ra lệnh tập hợp, chúng tôi trở vào trong hang. Một vòng tròn, nửa là Kurd, nửa Mỹ. Tiểu đoàn mới thả dù một quân nhân thông dịch tới. Người Mỹ sẽ bảo vệ người Kurd, tạm thời vẽ một khu tự trị cho họ. Từ thành phố Tikrit trở lên là khu Cấm Bay , ngoại trừ máy bay Anh Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Phía Mỹ sẽ cung cấp khí giới và huấn luyện dân quân Kurd. Đổi lại, Kurd kiểm soát và phát hiện những con đường vận chuyển vũ khí lậu qua biên giới. Vũ khí và toán huấn luyện sẽ tới sau. Nhiệm vụ chúng tôi rời khỏi nơi đây và tiếp tục hành quân sau lưng núi.

Thằng Ted chửi, Robert chửi, Ed cũng chửi, còn tôi chửi… thầm.

“Tại sao họ không để tụi mình ở lại huấn luyện?” Thằng Bob cự nự.

“Đây là lệnh. Chấm hết.” Tiểu đội trưởng kết thúc.

Chúng tôi đi vòng sau lưng núi. Núi này tiếp ngọn núi kia. Màu đá tim tím, phẳng lì, dốc cao thoai thoải. Ba-lô trên vai tôi chĩu xuống, oằn vai. Mới 17:00 tức năm giờ chiều, trời đã nhá nhem. Gió thổi buốt mặt. Chúng tôi dừng lại bên một khe trũng, mấy lùm cây thưa cao quá đầu người, che khuất một cái hang. Tôi mệt đứ đừ. Tựa vào gốc cây, tôi đứng thở dốc. Mấy thằng kia quân trang nhẹ hửng, cũng mướt mồ hôi. Khi thằng Michael chạy tới, nó xua tụi tôi như xua tà.

“Đi, đi vào trong kia kiểm soát trước.” Nó chửi te tát, “Chưa kiểm soát mà đứng đây chơi, tụi bây muốn chôn thây ở đây chắc?”

Cái thằng này có thể lên tới tướng đây. Nó không hề biết thương anh em đồng đội. Mồ hôi người ta mà nó tưởng như nước lã.

Chúng tôi chạy vào trong hang, kiểm soát. Tôi mệt muốn xỉu, từ sáng tới giờ chỉ đi và chạy, chưa có hột cơm nào. Đã vậy, đôi mắt chập chập cứ muốn ríu lại. Nếu gặp địch, tôi cũng phải ngã ra ngủ một giấc cái đã, chuyện đánh đấm tính sau.

May quá, cái hang cạn, không có người. Michael nói, khi nào chắc chắn an toàn mới được nghỉ ngơi, ăn uống. Thằng Ted giỡn, “Sao nó không nói, khi nào bắt được Bin Laden, ăn cơm cũng chưa muộn.”

“Clear.” Thằng Bob từ bên sườn chạy vòng qua nói.

“Clear.” Thằng Tom ở vách sau hay đâu đó cũng la lên trong máy.

“Clear, clear.” Hai ba tiếng nữa của ai đó vọng ra. Tiểu đội trưởng liên lạc với trung tâm hành quân rồi phân công. Chúng tôi đóng chốt ở đây. Một, hai, ba, thằng Michael chỉ tôi, Ed và Ted, ba đứa bây: chốt Một. Rồi nó khoác tay, kéo một đám theo sau, đi đóng chốt Hai. Nhưng mới vài ba bước nó quay lại, chỉ xuống chân núi.

“Đêm nay, tụi bây chia nhau canh giữ hẻm núi phía dưới. Có phát hiện gì báo ngay, không được tự ý hành động.” Nó quay qua tôi, “Còn mày, tối nay, không được làm thơ, không được ngủ.”

Chưa kịp phản đối, nó khóa miệng tôi. “Đây là lệnh.”

“Yes, sir.” Tôi gào lên, tức muốn ói máu.

Ted và Ed bảo, “Ăn cái đã, từ sáng tới giờ tao đói muốn rã ruột.” Tụi nó ăn, tôi kê đầu trên ba-lô ngủ. Có nhiều khi ngủ ngon hơn ăn gấp cả ngàn lần.

Ngủ được ba tiếng, thằng Ted lôi tôi dậy. Đổi phiên. Trời bây giờ tối đen như mực. Tôi có cảm giác bị người ta quẳng vào cái lỗ đen trong vũ trụ. Vừa nằm xuống, thằng Ed, thằng Ted đã ngủ say như chết. Tôi dụi mắt, mắt cay xè. Tôi uống một hớp nước, cũng chưa tỉnh nổi. Bây giờ thiên đường không phải là thành Babylon, không phải là vườn treo Hanging Garden, không phải ở Địa Đàng, hay trên Thiên Đàng, mà là ở trong cái mền bông mềm như nhung, mướt rượt, mượt mà. Tôi đang ước được chui đầu vào đó, đánh một giấc trăm năm.

Tiếng Michael léo nhéo trong máy. Tôi trả lời rồi lôi trong ba-lô một tấm ponchos, một lọ thuốc Alert. Thuốc này uống vào bảo đảm tỉnh như sáo suốt 48 tiếng đồng hồ. Tấm ponchos, tôi trải ra tủ đều cho hai đứa bạn. Đêm trên núi cao, sương xuống lạnh lắm.

Tôi ngồi thu lu trong bóng tối. Một chút sau mắt quen với màn đêm, tôi thấy đêm không đen như tôi tưởng. Trời trong và cao vút, đêm có ngàn sao lấp lánh, một mặt trăng lưỡi liềm chênh chếch hướng Đông. Trăng lưỡi liềm cong vút, bóng nguyệt treo ơ hờ, sắc trăng mờ nhạt lung linh làm đêm trở nên huyền ảo. Không hiểu sao trong tất cả truyện cổ Ả rập người ta chỉ thấy bầu trời và ánh trăng lưỡi liềm. Bây giờ, tôi ngó trăng. Trăng cũng ngó tôi. Mà không, trăng ngó vạn vật. Tôi cũng ngó vạn vật. Đêm thật yên tĩnh. Tôi lắng nghe tiếng gió mơn man vuốt ve lưng núi, tiếng cỏ lao xao, rì rào chen lẫn trong tiếng đập đều đặn của trái tim tôi.

Ba tiếng đồng hồ trôi qua. Tôi ngồi im trong một tư thế gần như bất động. Nhìn xuống khe núi bên dưới, bốn bề vắng tanh. Có ai biết nỗi khổ của một con sói rình mồi? Phải kiên nhẫn lắm. Tôi nhìn vào khe núi như nhìn vào một khoảng không vô định.

Hai giờ sáng. Giờ này là của thằng Ed đây. Nhưng tôi tỉnh táo lắm, cho hai đứa nó ngủ thêm một chút. Bây giờ, trăng chếch về Tây. Đêm Iraq thật huyền diệu, nhưng mà tôi vẫn nhớ một vầng trăng vằng vặc xa tít ở quê nhà.

“Trời xanh, trăng có tự bao giờ?
Ngưng chén, đêm nay hỏi một câu
Người với lên trăng, vin chẳng được
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.”*1

Có phải ánh trăng này từ Việt Nam đã theo tôi tới đây chăng? Còn sao nữa? Sao Hôm, sao Mai đâu? Tôi nhìn trời rồi nhìn điểm “nóng” dưới khe núi. Một vì sao đang rơi trong lùm cỏ. Sao nhấp nháy, nhấp nháy. Thật vô lý. Tôi dụi mắt mình mấy lượt. Quả thật, có một ngôi sao đang rơi trong lùm cỏ. Cái gì đó hả? Tôi chộp khẩu súng, mở kính nhắm, điều chỉnh tầm nhìn. Không phải ánh sao. Điểm sáng là ánh đèn pin đang vẫy qua, vẫy lại. Tôi lấy googles*2 nhìn, đèn tắt. Nghe tiếng lách cách, thằng Ted, thằng Ed đồng nhỏm dậy. Chúng bò lại bên tôi, thì thầm.

“What’s up?” Nó hỏi, “Cái gì vậy?”

Không đợi tôi trả lời, nhanh như cắt, nó chộp súng, quan sát qua ống kính, “Oh, men.”

Tôi gọi máy, báo cáo tình hình. Michael lệnh, theo dõi mục tiêu, khoan nổ súng. Nó báo cáo về Trung Tâm hành quân. Ba thằng tôi xác định tọa độ, theo dõi địch. Có thể đây là tụi vận chuyển vũ khí tiếp tế cho khủng bố. Có một đường hầm hay hang động bí mật nào đó đi ngang qua eo núi này. Có lối vào ắt phải có lối ra. Không biết phía trước núi có ai phát hiện gì không? Không biết số lượng vũ khí là bao nhiêu và số người tham dự đường dây này? Của tổ chức nào?

Mười phút sau, tiểu đội tôi tề tựu. Vì hang động ăn sâu trong núi, không thể tiêu diệt hết nếu chỉ tấn công bên ngoài. Các đơn vị khác cũng đang bao quanh trước và sau núi. Trung Tâm sẽ chi viện một phi đội trực thăng AH-64 Apache để tấn công cả hai cửa hang. Nếu sức kháng cự lớn, trung tâm sẽ gọi các loại F mang bomb bunker*3 yểm trợ sau.

Trong khi chờ đợi chúng tôi di chuyển vào vị trí phối hợp. Mắt tôi không rời mục tiêu. Bên dưới một toán người sắp hàng một, lặng lẽ trước và sau đẩy những thùng sắt to và dài bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nóng ruột. Có thể là những air-missile SA-7B hay SA-14, dễ di chuyển. Cả đoàn khoảng hai mươi người đã bắt đầu đi vào cửa hang. Trời ơi! Không khéo họ sẽ mất hút trong ấy hay cố thủ sẽ khó đây. Cần phải tấn công ngay. Nhiều họng súng chĩa ngay về phía họ.

Trong phút chốc, tiếng máy bay vần vũ ngay trên đầu. Cả chục chiếc đèn cực mạnh sáng rực như ban ngày. Có tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Phía địch bỏ chạy tán loạn. Có kẻ chạy thẳng vào hang, có kẻ trở đầu súng chĩa lên bắn máy bay. Những chiếc Apache đảo vòng vòng. Chúng tôi nổ súng bắn địch. Họ buông súng, thân xác ngã vật ra. Tai tôi không nghe thấy gì. Tiếng nổ chát chúa, liên tục. Trên không, máy bay nả những chiếc rocket AGM-114 Hellfire bay liệng vô hang. Ầm. Ầm. Những tiếng nổ lớn, mặt đất rung rinh, lửa vụt sáng chóe và những luồng khói đen bốc lên cuồn cuộn. Tôi xoay nòng súng bắn như điên vào những lùm bụi gần cửa hang. Không thể để chúng bắn tỉa máy bay vì họ đang bay rất thấp.

Khi trận công phá kết thúc, tôi đi xuống dưới coi. Xác địch ngổn ngang, không biết tên nào do tôi bắn chết. Những kẻ này mặt mũi bình thường, nhưng giờ đã là những cái xác vô tri. Nếu sống, có thể có một ngày nào đó dám tôi mời hắn uống café trên đường phố Baghdad . Xem chán, tôi vào hang động, nhưng bị chận lại. Người ta đang đưa những chuyên viên vũ khí tới đây. Cũng có thể có mìn hay chất nổ tự hủy đã được gài sẵn.

Đơn vị tôi được lệnh trở về, tuy cuộc hành quân vẫn còn tiếp diễn. Về sau quân đội phải khóa kín biên giới Iran , Syria ngăn chận vũ khí đổ vào Iraq .

Từ mùa Xuân năm 2004, tổ chức Al-Qaeda với Musab-al-Zarqawi, dân quân vũ trang Mahdi của phái Shi’a, phe giáo sĩ Al- Sadr, tổ chức tấn công dữ dội khắp nơi. Trong đó Musab al-Zarqawi là tên khủng bố kinh hoàng nhất. Hắn dùng kiểu hành hình thời thượng cổ, lấy lưỡi gươm Sinbab chặt đầu tất cả các con tin ngoại quốc để áp lực Mỹ rút quân vô điều kiện. Các nạn nhân trước khi chết đều sợ hãi. Nhưng những người chưa bị bắt, chưa bị chặt đầu, chưa sợ. Thế giới Hồi giáo khắp nơi cũng phản đối. Al-Zarqawi bôi nhọ Hồi giáo. Hồi giáo không man rợ như Zarqawi. Phải chống Mỹ kiểu khác. Lực lượng vũ trang Sunni tổ chức phản công mạnh mẽ ở Fallujah bắt đầu tháng 3 năm 2004, giết bốn nhân viên an ninh cung cấp lương thực của tổ chức Blackwater. Họ cột bốn cái xác vào một chiếc xe, diễu lê khắp phố phường Iraq . Chủ ý răn đe buộc Mỹ rút quân. Nhưng cách đó thất bại. Người ta nhìn thấy tổ chức Sunni dã man, cần phải tiêu diệt. Trận đánh đẫm máu với Sunni là trận 46 ngày đêm ở Fallujah. Người Mỹ so sánh với trận Mậu Thân Huế năm 1968. Mỹ mất 95 binh sĩ, và địch bỏ lại 1,350 xác chết đủ mọi sắc tộc như Chechnyan, Iran, Syrian,… Ả Rập,…… Sau tháng 11 năm 2004 trở đi, tình hình có vẻ lắng xuống.

Người Iraq xoay qua chống Mỹ theo kiểu khác: Kiểu Việt Nam . Trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ “thua” không phải trên mặt trận quân sự, mà “thua” trên mặt trận tâm lý. Chiến tranh tâm lý mở rộng. Phong trào phản chiến, những vụ Mỹ Lai được khai thác triệt để. Các tổ chức chống Mỹ, tổ chức nhân quyền đua nhau tố cáo những vụ vi phạm nhân quyền. Nổi tiếng nhất là cô Lynndie England và anh lính Charles Graner của trại tù Abu-Ghraib. Bức hình nổi tiếng tình tứ nhất của họ là bức hình lột truồng sáu người tù và bắt họ chồng chéo nhau xếp thành hình Kim Tự Tháp. Thế giới phẫn nộ, người Mỹ phẫn nộ, lính Mỹ phẫn nộ, chính quyền Mỹ rất phẫn nộ, nhưng tôi không… phẫn nộ. Tôi nghi, cặp tình nhân này điên ư? Họ không biết hành động vậy là vi phạm nhân quyền, vi phạm quân kỷ à? Tù như chơi. Họ biết, nhưng vẫn làm. Và ai là người đang đứng chụp hình cho họ đấy? Một nhân vật thứ ba. Rõ ràng đây là một vụ vi phạm nhân quyền có dự mưu. Cặp Lynndie và Charles đã lãnh bao nhiêu tiền? Khác với vụ Mỹ Lai, tòa án quân sự Mỹ làm rùm beng chuyện này. Họ xử nặng và tuyên bố sẽ lôi hết các vụ vi phạm nhân quyền ra công lý.

Cuối năm 2005, chúng tôi được lệnh điều về miền Nam . Mười lăm ngàn quân nhân canh giữ an ninh cho các thùng phiếu. Tất cả các tổ chức, giáo phái, phe phía chủng tộc, ghét Mỹ hay thân Mỹ đều được mời tham chính. Tất cả do người dân quyết định bằng lá phiếu. Ông Bush tin, với cách này, mọi người đều có mặt trong chính quyền, người dân sẽ quyết định chính thể của họ. Chúng tôi nghĩ, ông Bush lầm. Mọi phe nhóm đều không có ý định hợp tác tham chính, mỗi một phe đều muốn giành lấy độc quyền cai trị và tiêu diệt đối lập. Họ muốn dùng bàn tay sắt như Saddam. Họ chống Mỹ vì Mỹ không để điều đó xảy ra.

Sau bầu cử, người Iraq mở những mặt trận mới. Họ tiêu diệt nhau tận tình. Người Sunni xả súng bắn vào chợ búa người Shi’a, 65 người chết. Người Shi’a ném bom vào đám cưới Sunni, 124 người chết. Người Sectarian (không biết từ đâu tới) đánh bom vào thánh đường Al-Askari của người Shi’a ở Samarra , 165 người chết. Người Sunni lái xe bom lao thẳng vào lãnh địa Sadr giết chết 215 người. Con số người chết tăng đều như người ta nhân các giải độc đắc lotto hàng tuần. Đây chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc nội chiến tương lai.

Đầu năm 2007, ông Bush tuyên bố tăng quân, tăng chi cho cuộc chiến Iraq . Mặc, trong khi người ta phản chiến khắp nơi. Tình hình Iraq không thể ổn định, nhưng cũng không thể rút quân. Tiến thoái lưỡng nan. Mỹ rút, một cuộc nội chiến chắc chắn sẽ xảy ra. Tàn khốc còn hơn thời Saddam và chiến tranh hiện tại. Người Iraq giết người Iraq . Và mọi tội lỗi sẽ đổ lên đầu người Mỹ.

Giấc mơ ổn định Iraq giống như chuyện nằm mơ ban ngày. Mọi hận thù sắc tộc, tôn giáo gì đó là những mối thù truyền kiếp có thể sẽ kéo dài cho tới ngày tận thế. Đồng minh các nước lục tục rút quân về. Người Anh cũng bắt đầu giảm quân ở căn cứ Basra .

Tiểu đoàn tôi được lệnh di chuyển từ Samarra tới Basra . Khi ngang qua Baghdad chúng tôi được viếng thủ đô, thăm thắng cảnh trong 48 giờ. Nhiều người không đi, họ ở lại trong đơn vị, chỉ ra ngoài khi có nhiệm vụ. Baghdad là tụ điểm của khủng bố, phá hoại, bắt cóc, của “road bomb” và “tự sát”. Bởi đây là nơi gây nhiều tiếng vang, lấy thành tích dễ nhất. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở, tiểu đội tôi quyết định ra ngoài. Viếng thăm xứ Ngàn Lẻ Một Đêm là điều tối ư cần thiết.

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat TRUYỆN LÍNH TRÁNG TIẾP THEO
Reply #24 - 11. Jul 2010 , 14:57
 
Chúng tôi mặc thường phục, lận súng ngắn, máy định vị, rồi ra đường. Baghdad lớn lắm, người đông, có con sông Tigris bắc ngang chia thành hai khu vực. Thủ đô đầy nhà cửa dinh thự, kiến trúc cổ công phu rất đẹp, khu dân cư tầm thường đơn giản, và đường sá xây dựng rất cẩu thả. Những người trẻ mặc âu phục, đa số trung niên người già ăn vận theo truyền thống. Đàn ông mặc thawbs (áo dài chấm chân), đội mũ kufiyah (mũ úp) hoặc gutra (khăn trùm) có egals (vòng vải quấn quanh đầu). Đàn bà mặc abaya (áo đen trùm kín thân người), đầu quấn khăn choàng lớn.

Bỗng dưng, thằng Ted hỏi đố, “Thằng nào thấy đứa con gái Iraq đi giày cao gót đầu tiên, tao tặng $100 dollars.”

Cả bọn xôn xao, cười như Tết. Giải thưởng hấp dẫn đây. Nhưng làm sao kiếm ra. Bọn tôi chúi mắt vào chân tụi con gái. Thật đáng kinh ngạc. Lòng vòng nãy giờ, thấy hơn trăm đứa, chẳng có mạng nào mang giày cao gót cả. Mà đàn bà đẹp là nhờ giày cao gót. Giày cao gót làm dáng đi yểu điệu, mảnh mai. Bây giờ tôi chợt hiểu ra, trông con gái Iraq không có nét dịu dàng, mềm mại là bởi tướng đi chắc nịch, hơi giống tướng đàn ông. Đã vậy, khăn áo kín mít, trông như những con quạ di động, chẳng có gì hấp dẫn. Vòng qua nhiều đường phố, cả thành phố chỉ có một loại cây duy nhất là cây Chà là. Chúng tôi lẩn quẩn khắp nơi, đường phố Iraq rất dễ lạc, nhà cửa cây cối các nơi đều giống nhau. Chiến tranh, khủng bố, bom nổ làm khắp nơi tiêu điều. Iraq ít có nhà hàng, quán xá, café… như các thành phố khác. Tiếp xúc người dân ở đây cũng đáng ngại. Họ sợ bị nghi ngờ, bị trả thù. Chúng tôi cũng sợ hỏi trúng những người ôm bom tự sát.

Chúng tôi quyết định trở về khu trung tâm, viếng dinh Saddam. Nghe nói, Saddam cũng chán đàn bà trùm chăn, trong dinh treo toàn hình Marilyn Monroe vén váy. Nhưng mà Saddam có tới 23 cái dinh, luân phiên ngủ mỗi ngày, vậy cái nào mới có hình các kiều nữ Hollywood khỏa thân, ở truồng.

“Mày tưởng Saddam có dành một cái dinh để tu chắc?”

Cả bọn cười sằng sặc.

Chúng tôi quay lại con sông Tigris , băng qua cầu. Tại đầu cầu này, năm đó, khi tiến vào Baghdad , sư đoàn 3 đã dừng lại mấy ngày chờ lệnh. Người ta đợi một sự thỏa thuận buông súng của lực lượng Vệ binh Fedayeen trung thành với Saddam, để tránh những tổn thất nhân mạng không đáng có. Lúc đó Baghdad có tin đồn, Mỹ hết đạn. Một số tay súng lập lô cốt phòng thủ ngay trên đường phố, dùng AK-47 chống xe tăng M1Abrams. Trong chiến tranh đôi lúc cũng khiến người ta chết vì những tin đồn nhảm nhí như thế.


Bốn mươi tám giờ ở Baghdad qua mau, đơn vị gấp rút chuyển quân xuống Basra . Cách 55 dặm về phía Nam Baghdad là thành Babylon . Đoàn quân xa chầm chậm qua khu vực này. Thành Babylon cổ xưa, rộng tới mười cây số vuông, nơi cách đây gần ba ngàn năm người ta đã xây dựng đền đài cung điện cao ngất để lên trời. Năm 1258, Hốt Tất Liệt đã dẫn đại quân Mông Cổ đánh chiếm một nửa Châu Âu, rồi tràn qua Iraq . Lịch sử ghi, người Mông Cổ đi tới đâu, cái gì không cướp được là phá hủy. Kinh sách không đọc được đều bị đốt, kể cả những thứ về kiến trúc, y học, thiên văn. Ngọn lửa đốt cháy thành Babylon và tất cả sách vở hơn ba tháng mới tắt. Dân trong thành cũng chết sạch. Người Mông Cổ đã tiêu hủy cả một nền văn minh cổ xưa, phát triển rực rỡ nhất của loài người. Bây giờ, gạch đá ngổn ngang, phế tích tang thương, khiến chúng tôi không khỏi ngậm ngùi.

“Ôi, bên bờ sông Euphrates
Thành Babylon đổ nát
Mà ta còn ngồi đây
Đàn đã lỡ lên dây
Kẻ thù còn bắt hát,
Ngợi ca về Zion
Làm sao ta hát được
Bài ca trên đất lạ…”
(Psalm 137)

Nhưng mà, đáng lẽ người Iraq phải thù Mông Cổ mới đúng. Đằng này, họ đi thù Mỹ. Tôi nghĩ, có thể bắt đầu do một sự hiểu lầm nào đó. Năm 1927, khi người Anh phát hiện mỏ dầu ở Kirkuk , lần đầu tiên khoan giếng, một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Dầu bắn mạnh và phun cao như một thứ nham thạch vọt ra từ trong miệng núi lửa. Ngọn cao tới 15 mét, dầu tràn như lũ lụt. Chỉ cần một que diêm cả thành phố sẽ ra tro. Sau chín ngày, người Anh mới dập tắt được ngọn lửa. Mặc dù đó là một tai nạn, nhưng người Iraq vẫn ngờ, đó là một đòn dằn mặt. Chớ có tự ý khai thác dầu. Kỹ thuật khoan dầu, xưa nay vẫn được giữ kín như một thứ bí mật quốc phòng.

Đoàn quân xa theo quốc lộ chạy thẳng xuống Basra . Chúng tôi vượt qua nhiều khúc sông, hồ và đầm lầy. Nơi đây là bình nguyên trù phú nhất của Iraq , nhưng đất đai không màu mỡ. Cỏ lún phún thưa, gần đầm có lau sậy, có nơi có những hàng Chà là rợp bóng như hàng dừa của Bến Tre. Vùng cằn cỗi vậy mà là cái nôi của con người ư? Thủy tổ của loài người, dấu tích ông Abraham đã từng sinh sống nơi đây. Vùng đất nghèo dân khó, nông dân ở đây đi xuồng thô, ở lều vải, chẳng có ai cất nổi một căn nhà.

Bây giờ là tháng Sáu, trời vào Hè. Nhiệt độ 120F, Iraq trở thành một cái lò nướng khổng lồ. Nóng rát mặt, rộp da. Chúng tôi băng qua một khu sa mạc. Gió bắt đầu nổi lên. Bộ chỉ huy báo động, khoảng một tiếng nữa sẽ có bão. Bão sa mạc đến bất ngờ và qua cũng trong chớp mắt. Chúng tôi dừng lại và chờ đợi. Những tấm bạt, lều, ponchos được trưng dụng tối đa. Chúng tôi phủ lên những vũ khí, đạn dược và bịt chặt các nòng súng. Cá nhân đeo mặt nạ, và chui vào xe trú ẩn. Hơn một tiếng sau, bão rú. Tiếng gió rít như xé lụa tận trên cao, rồi bão ầm ầm xô tới. Một con sóng màu vàng cuồn cuộn cuốn tung đất cát ngùn ngụt lăn qua sa mạc. Chúng tôi khum đầu xuống, đất cát đổ xuống mình lộp độp nghe như tiếng mưa rào. Khi trời im bão, chúng tôi đứng lên, rũ cát, nhìn ra xa. Mặt đất như mới thay da, một màu cát mới tinh khôi trải dài ngút tận chân trời.

Cách Basra hơn 46 dặm, chúng tôi dừng lại nghỉ. Lính đua nhau nhẩy ào ào xuống, chạy vào làng. Đây là Al-Qurnah, Vườn Địa Đàng của Adam và Eva, thủy tổ của loài người. Tất cả kinh thánh viết, trong vườn Địa Đàng đầy cây trái và bát ngát hương hoa, duy chỉ có mỗi một thứ Trái Cấm của cây Tree of Life là không ăn được. Ai ăn Trái Cấm sẽ bị đuổi ra vườn Địa Đàng, tự trồng trọt để nuôi thân, rồi sẽ già và chết. Nhưng Eva hàng ngày nhìn quả Cấm trên cây và thắc mắc. Satan dụ dỗ, Chúa cấm ăn vì ăn Trái Cấm con người sẽ thông minh như Chúa, sẽ làm được những điều Chúa muốn làm. Eva cắn ngay một miếng và nàng dành một trái cho Adam. Ăn xong, khi đến trước Chúa, lần đầu tiên Adam bỗng mắc cỡ vì thấy mình lõa lồ. Chúa biết hai người đã phạm điều cấm nên đày họ ra khỏi vườn Địa Đàng…

Bây giờ, tôi cũng muốn chạy tới xem cây Tree of Life, bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ trộm cắn một Trái Cấm. Xin Chúa hãy đày tôi ra khỏi Vườn Địa Đàng hay nói đúng hơn đày tôi ra khỏi Iraq, tránh xa cuộc chiến này. Tôi chưa muốn chết, nhất là chết ở một đất nước không có dây mơ rễ má nào với tôi. Nhưng khi vào làng, tôi thấy một đám đông chùm nhum chờ đợi để chụp hình dưới cây Tree of Life. Một gốc cây sù sì không có lá, đang giơ những cành khô hiểm hóc nổi bật dưới trời xanh.

Tháng 7 năm 2007, 441 lính Anh thuộc nhóm Danish rời Basra . Đây có lẽ là nhóm thứ chín rời trại. Những chiếc trực thăng bốc họ rời căn cứ. Tôi ngó lên bầu trời nhìn cho tới lúc dấu trực thăng mất dạng. Tôi thèm có một ngày tôi cũng bay bổng để ra khỏi vùng đất Basra .

Chúng tôi đóng quân gần căn cứ Anh. Nơi này là ngoại ô bảo vệ Basra , bảo vệ các giếng dầu và hệ thống dẫn xuất, hệ thống khí đốt quan trọng của Iraq . Ngoại trừ thủ đô, đây là thành phố lớn nhất Iraq , dân số một triệu rưỡi. Basra còn nhiều ngành hóa học, công nghiệp khác. Chỉ nói về dầu, Iraq đã cung cấp 20% năng lượng cho thế giới. Trong cuộc chiến với Iran năm 1980, do lượng định sai, Iraq đã bất ngờ tấn công và bao vây nhiều làng mạc Iran , tiêu diệt hàng trăm binh sĩ. Nhưng sau đó Iran tập trung lực lượng phản công, đánh thẳng vào Basra, giết chết hàng ngàn lính Iraq, phá hủy hệ thống dẫn dầu của Basra. Tuy vậy, Saddam vẫn tuyên bố chiến thắng. Để bù đắp chiến phí và thiệt hại chiến tranh, Saddam quyết định cần phải nâng cao giá dầu gấp bốn, năm lần. Thế giới phải trả giá cho những sai lầm của Iraq . Nhưng Kuwait , một quốc gia kề cận Basra vẫn bán dầu với giá rẻ. Saddam lên án Kuwait phá giá dầu. Hơn nữa mỏ dầu Kuwait có một phần nằm dưới lòng đất Iraq . Năm 1990, Iraq xua quân xâm chiếm Kuwait . Cả thế giới nổi giận. Mỹ và đồng minh đánh vào Iraq . Trước khi rút quân, Saddam ra lệnh đổ hàng triệu thùng dầu xuống vịnh Persian và đốt 700 giếng dầu của Kuwait . Đầu năm 2003, để tử thủ Basra , Saddam cũng ra lệnh quấn mìn dầy đặc chung quanh 400 giếng dầu của Basra . Nhưng người Mỹ mua dầu bằng dollars, họ không bao giờ đi đốt tiền, dù là tiền của người khác. Mỹ bao vây giếng dầu, lính Iraq cũng không thể uống dầu để chiến đấu. Họ lục tục theo nhau kéo cờ trắng.

Chiến tranh kéo dài đến mệt mỏi. Để áp lực nước Mỹ rút quân, khối Ả Rập dùng đủ mọi cách tăng giá dầu. Thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ khủng hoảng năng lượng. Giá dầu nhích dần. Chính phủ mới của Iraq đã thỏa thuận ký hiệp khai thác dầu với Mỹ, Anh, Trung Quốc.

Ước mơ kết thúc cuộc chiến là ước mơ chung của tất cả mọi người. Hơn thế nữa, nó là nỗi hy vọng lớn nhất của những người lính, nhiều khi còn vui hơn niềm vui chiến thắng.

Ngày 10 tháng 9 Tư lệnh chiến trường Iraq General David Petraeus tuyên bố, Hè năm tới sẽ rút 30,000 quân số. Ông Bush cũng hứa, cho phép 5,700 quân nhân từ các đơn vị được về đón Giáng Sinh. Chao ơi! Chúng tôi nhẩy cỡn vì sung sướng. Niềm vui như được ngồi trên một tấm thảm thần của xứ sở Aladin bay lượn ra khỏi nơi đây.

“Kỳ này về, tao sẽ đi học trở lại.” Thằng Ted nói, nó vào lính để được hưởng học bổng toàn phần.

“Tao sẽ ứng cử nghị viên thành phố.” Michael Tea, đúng là con nhà nòi, ba nó là Thượng nghị sĩ.

“Tao sẽ lấy vợ và đẻ một chục con.” Edward tuyên bố thẳng thừng.

Tụi tôi hè nhau thụi nó. “Ê, mày muốn quân đội phá sản vì đám con của mày à?” Ed cười hô hố.

“Còn mày?” Tụi nó quay qua tôi.

“Ước mơ lớn nhất của tao là được nhập quốc tịch, rồi bảo trợ gia đình sang.” Tôi cười ngượng nghịu.

Cả bọn vỗ vai tôi, “Ô! Chuyện nhỏ.” Chúng nó cười khuyến khích, “ Mày sẽ được như ý.”

Hôm sau, đúng vào ngày thứ Sáu, tiểu đội nhận lệnh trực. Tiểu đội trưởng huấn thị, theo báo cáo Bộ chỉ huy tuy cường độ khủng bố giảm nhẹ, nhưng số thương vong do các vụ tấn công vào mục tiêu dân sự vẫn còn nhiều. Ở Baghdad 265 người, Kirkuk 450 người,… Dự báo, khắp nơi sắp có nội chiến.

Tôi mặc kệ nội chiến. Cứ giết nhau đi. Saddam này chết, sẽ có một Saddam khác lên thay. Còn tôi sẽ rời khỏi nơi đây, bằng cách này hay cách khác.

Chúng tôi bốn thằng, hai thằng trên lô cốt, hai thằng ở ngay cổng. Vai đeo súng, mắt nhắm ra xa, chúng tôi rảo bước trước doanh trại. Đi lính, tôi ghét nhất là đi tuần và canh gác. Nhiệm vụ chán chết người. Mà trong phim mấy thằng lính gác đều là mấy thằng chết trước.


Hai tiếng đồng hồ trôi qua. Trời ơi, khát. Uống bao nhiêu đi nữa, nước cũng bốc thành hơi trong bụng.Tôi nhìn qua thằng Ted, mặt mày nó khô khốc, đôi môi rộp, da đỏ bừng. Tôi tưởng tượng, chỉ cần bật tí lửa nó sẽ bốc cháy như cây đuốc sống. Nhìn nó, tôi thông cảm được tâm trạng người lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam . Tại sao tôi lại đổ mồ hôi và máu tại chiến trường này? Vì lý tưởng tự do dân chủ ư? Hai phần ba thế giới không có dân chủ, đâu phải chỉ mỗi mình Iraq ? Vì Saddam độc tài, sở hữu vũ khí giết người hàng loạt à? Mỗi một nước thuộc thế giới thứ ba đều có một thằng lãnh đạo độc tài như thế. Hay vì dầu hỏa? Phong trào phản chiến ở tại nước Mỹ lên án, chính phủ đem sinh mạng người lính đi bảo vệ túi tiền cho các hãng dầu. Nhưng muốn ký kết hiệp ước khai thác dầu, hay hạ giá dầu có nhiều cách, không nhất thiết phải mở một cuộc chiến. Tổn phí cuộc chiến Vùng Vịnh lần I, sáu tuần lễ, ngốn hết 61 tỷ dollars, buôn bán dầu hỏa đâu giàu mau thế; chiến tranh Vùng Vịnh lần II trong 5 năm tiêu hết 577 tỷ. Thế giới nói, người Mỹ đánh giặc theo kiểu con nhà giàu. Nhưng trong chiến tranh Việt Nam , Mỹ keo kiệt đến mức độ kinh tởm. Mỹ chi 111 tỷ cho cuộc chiến 20 năm. Lấy 111 tỷ chia cho 20, mỗi năm 5 tỷ rưỡi. Và trong thời kỳ cuối, quốc hội Mỹ đã từ chối 300 triệu dollars viện trợ để cứu lấy đồng minh.

Trưa đúng Ngọ, mặt trời đang đứng ở đỉnh đầu. Tôi đứng tỳ tay vào thành cổng, ôm chặt khẩu M4A4, đây là loại tối tân nhất, chỉ thiếu bộ phận hồng ngoại tuyến IRIS như đội đặc nhiệm. Còn cha tôi, và những người lính miền Nam chỉ được dùng loại M1 Garant hay Carbine, bắn từng phát để chống với AK-47 tối tân, hiện đại nhất Liên Xô. Dùng xe tăng M41, thiết vận xa M113 để dàn trận đánh nhau với T.54 của địch. Ví như người ta dúi cho lính miền Nam một con dao cùn trong trận tử chiến. Mãi đến sau Tết Mậu Thân, miền Nam mới được tiếp viện giới hạn M.16 và chiến xa M.48. Nhưng, đã quá muộn.

Người ta ví, chiến tranh Việt Nam là nơi tiêu thụ vũ khí thừa từ thế chiến thứ II, cứu các xưởng vũ khí Mỹ bị thua lỗ. Chiến tranh Iraq là nơi thử nghiệm những thứ vũ khí mới. Và những người lính miền Nam chết trong tay đồng minh nhiều hơn trong tay địch.

Ôi! Việt Nam . Ôi cha ơi! Những người tù sau chiến tranh bị đày đi chém tre, đẵn gỗ trên ngàn và bỏ xác trên núi rừng xa lạ.

Nước mắt tôi rơi, trái tim tôi vỡ.

“Khát quá.” Tiếng thằng Ted khàn đục. “Nước đâu?”

Nó chụp chai nước suối của thằng Ed quăng xuống, chuyền cho tôi một chai.

Không. Tôi không khát. Nước ở đây này. Nước mắt tôi rơi như mưa, và tôi đang nhấm từng giọt mằn mặn trên môi như người ta nhấm rượu.

Từ xa, một chiếc xe vận tải xuất hiện. Thằng Ted chộp ống nhìn, quan sát. Nó nói, xe giao sữa. Nó lui vào trong, ra sau cổng, lấy máy rà mìn. Tôi cũng ngó qua ống nhìn. Xe chạy băng băng. Tôi nhận ra, thằng lái xe là Abu gì đó, tôi quên mất. Nó vẫn thường giao sữa mỗi thứ Hai, thứ Năm. Nhưng hôm nay là thứ Sáu mà. Ngày thứ Sáu người Hồi giáo đồng loạt nghỉ, không có ai làm việc vào ngày này. Tôi dán mắt vào ống nhìn. “Trời ơi!” Tôi kêu lên, gần đến cổng, mà nó xả hết tốc lực.

“Xe bomb.” Tôi thất thanh kêu. Không còn kịp nữa, tôi lao ra về phía trước, đưa khẩu súng nhắm. Trong trại, đơn vị đang ăn trưa, hơn 400 lính đang ngồi đầy trong đó. Nếu bắn, thật nguy hiểm. Có thể tôi bị thương hoặc sẽ chết. Bắn thằng Abu, xe vẫn lao tới. Không suy nghĩ nữa, tôi quyết định trong nháy mắt.

Tôi bóp cò phóng lựu bên dưới khẩu M4, một quả M203 bắn vọt ra như hỏa tiễn, đâm ngay thùng xe. Tôi nhìn thấy một đường khói còn chưa tan hẳn. Một tiếng nổ kinh hồn rung chuyển mặt đất. Lô cốt rung rinh. Cát và đá mịt mù. Mà lạ quá, bỗng nhiên tôi thấy mình nhẹ hửng, bay lên, bay lên cao. Tôi nhìn xuống. Ôi, thân xác tôi kia. Tôi nằm bất động. Những mảnh kim loại cắm đầy người. Chiếc xe bomb nát như tương. Thằng Abu mất xác.

Khi cả đơn vị chạy ra, tiếng xe cứu thương kêu inh ỏi. Họ khiêng xác tôi lên. Cả tiểu đội khóc cuống cuồng.

“Còn nước còn tát.” Michael đập đập tay vô xe cứu thương.

“Hãy cứu nó đi.” Tụi nó gào lên, chạy theo xe.

“Cứu cái gì?” Tôi la lên, nhưng chúng không nghe. “Tao ở đây nè.”

Bây giờ, thế giới hai nơi. Tôi bắt đầu mơ màng chìm trong giấc ngủ. Đâu đây văng vẳng bài hát tôi yêu.

“… Trả súng đạn này. Ôi, sạch nợ sông núi rồi
Tôi trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất, năm nao… ” *4

Cuối cùng thì tôi cũng tìm được con đường ra khỏi Basra.

Nov. 10/2008
NTTA
Back to top
 
 
IP Logged
 
Eva
Senior Member
****
Offline



Posts: 425
Gender: female
Re: Gop Nhat gio Cat TRANG THU TINH HAY NHAT
Reply #25 - 11. Jul 2010 , 18:30
 
LAM_SON wrote on 30. Jan 2010 , 23:26:
Em yêu quý,

Anh ngồi bấu tay vào thành giường nhìn ra ngoài trời.

Hình như mưa... Mắt anh  mấy ngày nay thấy nắng loà nhoà lại tưởng mưa, thấy mưa thì nhìn như đang nắng xuống.

Thằng chắt nội nói, mắt cụ nhìn không rõ nữa, cụ đi đâu để cháu dắt.

Nó nói thật em nhỉ? nhưng mình cần gì nó dắt, ví thử có em đến ngoài ngõ kia, anh chẳng nhìn thấy rõ mồn một sao?

Anh vẫn khoẻ !

Mỗi ngày các cháu nó cho ăn năm bữa, mỗi bữa một bát cháo đã nát nhừ.

Anh chỉ dám viết thư cho em mà không dám gọi điện vì tiếng của anh nói em chỉ có thể nghe như tiếng rừng phi lao xào xạc....

Sáng nào anh cũng đi thể dục, đi từ mép giường ra tới... bậc cửa sổ, vị chi là bốn bước !!!  Bốn bước mà đi mất hai giờ, mồ hôi đổ vã ra, sảng khoái ghê!

Nay con cháu đông rồi, anh không phải đánh máy như ngày xửa ngày xưa nữa, các cháu giúp ông.

Nhưng khi viết thư cho em, anh phải tự đánh máy lấy. Thư này anh viết từ mùa hè! đến... đúng mùa đông thì xong !(mỗi ngày anh viết quần quật được.... hai dòng )

Ngày nào viết đến ba dòng thì anh phải truyền một lọ sérum.

Nhớ cách đây chừng 50 năm em nhỉ, chúng mình chạy ào ào trên bãi biển Nhatrang...

Em thì lúc nào cũng hét lên: Thích quá cơ !

Còn anh thì chạy theo sau nhìn em, thấy đôi chân em trắng loáng trong ánh chiều hoàng hôn ở bãi biển Nhatrang mà nhớ mãi....

Giờ vẫn nhớ đấy ! em có tin anh ?

Hôm rồi, nhớ em quá bảo đứa cháu nó đưa ra biển.

Ðịnh nhấc chân bước, định hổn hển nhắc lại lời em nói: thích quá cơ! nhưng suýt nữa người anh đổ chúi xuống vì... gió biển thổi !!!

Nay anh nhận được tin em đã hết ốm, đã ăn được mỗi bữa... năm thìa cháo bột mà anh mừng quá ! Ăn năm thìa là tốt rồi, ăn nhiều quá không nên em ạ!

Anh khoẻ thế này mà chỉ ăn... bốn thìa thôi là thấy no căng.

Nhớ ngày xửa ngày xưa vẫn thích ăn cơm nguội với nước cá kho. Vừa rồi, tự dưng thèm cơm nguội cá kho, ăn một chút thôi mà miệng anh như ăn phải đá hộc, đau tê tái!

Anh nhắc nhé, nếu ngoài trời có gió là em không được ra ngoài.

Hôm qua, mấy đứa cháu bảo ông ơi, ra sân hóng mát, gió nồm mát lắm ông ạ! Theo chân nó vừa ra tới sân, ngọn gió nồm suýt thổi anh... bay lên nóc nhà, may có hai thằng cháu giữ chặt.

Sắp tới ngày sinh nhật em nhỉ. Thế là em đã tròn tuổi 80.

Hôm đó anh sẽ cố gắng điện thoại. Nhưng anh nói trước, nếu em nghe tiếng xào xào tức là anh nói rằng:

Em đấy hả ?

Khi nghe tiếng thùm thùm tức là: Anh đang chúc em sinh nhật vui vẻ.

Ðến khi nghe tiếng phù phù nhiều lần là: anh đang hôn em.                                                 

Nhớ hồi ấy, anh đưa hai tay lên nhấc bổng em quay mấy vòng giữa trời, em cười rất to.

Giờ anh nhìn lại đôi tay mình, hình như tay ai, nhìn rất tội.

Hôm qua anh cố nhấc con búp bê bé tý lên cao mà nghe tiếng xương cốt kêu răng rắc, sợ quá nên thôi.

Em ngủ ngon không?

Anh chợp mắt từ chập tối. đến khoảng 9 giờ là dậy, ngồi, nhìn ra trời đêm.

Mấy đứa cháu nói ông ngủ ít quá!

Anh bảo: thì đến khi ông ra đi, xuống đất, ông ngủ cả ngày lo gì ?

Thỉnh thoảng, anh vẫn mở máy tính, xem lại mấy bài viết trên Blog hồi ấy,. thấy rất vui.

Chắc giờ mấy ông, mấy bà Blogger cũng không còn mấy ai nữa, lâu chẳng thấy ai vào blog nữa.

Lũ cháu hỏi, ông ơi: Blog là gì ?

Thời buổi tân tiến mà! Chúng nó bây giờ chẳng có Blog.

Ngồi bô đi ị mà vẫn có màn hình máy tính ở miệng bô, thích thật!

Thời buổi giờ hiện đại quá, mình chẳng biết gì.

Nhà anh, có cái máy giặt, con cháu nó đi làm, điều khiển từ xa, điều khiển cả robôt.

Anh ngồi, rôbốt nó đến, nó cởi áo anh ra, nó gội đầu cho anh, tắm táp, rồi còn mang áo quần đi giặt.

Lũ trẻ bây giờ yêu nhau cũng nhờ rôbôt làm hộ.

Máy chữ không cần đánh, muốn viết gì, chỉ cần đọc là máy tính tự gõ chữ. Nhưng tiếng anh phì phèo quá nên máy chữ nó đánh sai hết cả.         

Ai đời anh viết:
Em ơi, anh nhớ em lắm!

nhưng vì miệng anh móm mém phì phò nên máy nó nghe không rõ, nó đánh thành:

Phem phơi, phanh phớ phem phắm!

Thế mới bực !!!

Anh không muốn gọi em là bà. Cứ gọi nhau bằng anh, bằng em thế nghe ngọt ngào...

Hai ngày nữa anh tròn 90 tuổi.

Anh đợi thư em.

Mà nếu không gửi được thư thì bảo Rôbôt nó mang thư đến cho anh em nhé.

Anh dừng bút.

Thắng chắt nội đang mang chén cháo bột đến để cho anh ăn.

Chúc em ngủ ngon nhé. Nhớ đừng ra gió nghe em !

Anh
Doc xong cau chuyen nay , toi da cươi mot luc, roi sau do toi da khoc , vi do chinh la hinh anh cua chinh ban than minh trong nhung nam thang sap va se den, co ai cươi o day , hay co ai khoc o day khong??
Lam son


Cám ơn Lam Sơn thật nhiều về Câu chyện mà  Sơn đã nhặt về cho. Cám ơn nhiều lắm. Tôi đã ứa nước mắt trước khi truyện  chấm dứt lận kia. Và sau khi đọc hết thì vừa khóc vừa cười, nhưng thật nhẹ thôi, vì khóc to và cười to thì nó đã trào ra hết. Còn chỉ nhè nhẹ thì cái hạnh phúc ấy , của nhân vật trong truyện truyền sang và niềm hạnh phúc ta nhận được từ người cho ta món ăn tinh thần nữa, cứ thấm đẫm vào ta và ở lại cùng ta trong cái khóc cười như có như không ấy. Cám ơn nhiều lắm một lần nữa khi đã cho tôi tìm thấy tôi ở ngày qua đã  qua và ở ngày mai sẽ tới. Nha Trang tôi ơi ! Một thời thơ ấu, cũng bãi biển ấy , bờ cát ấy và trái tim non thơ ấy...

Eva.
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #26 - 11. Aug 2010 , 00:33
 
Ngày đó, khi xem xong mẩu chuyện nầy , mình đã thực sự không ngăn được cảm xúc , vì đó củng chính là hình ảnh cuả bản thân , Sinh Lảo Bệnh Tử , là chuyện mà không một ai trong chúng ta đều có thể tránh được, hy vọng những mẩu chuyện trên sẻ hửu ích cho chúng ta để có chút gì suy ngẩm khi có chút thời gian , trong quảng đời còn lại , vì thời gian qua rất nhanh , mà tuổi thọ không là thiên thu ,
Tiếp theo sau đây là một chuyện ngắn thời con gái , thử xem lại coi , mình có là một người nào trong số :
Nhất quỷ , nhì ma , thứ ba học trò
lam Sơn

Viết Thư Tình

( chuyện bây giờ mới kể)

NN


Có vài nhỏ bạn cùng lớp năm xưa, sau khi đọc mấy truyện ngắn tôi viết cho Trườnghay đăng báo, bèn hỏi tôi không sợ nghèo,  dính chi nghề cầm bút. Nghe bạn hỏi tôi không khỏi tức cười, nếu cầm bút ngon lành chắc tôi đã tập viết văn ngay từ lúc còn đi học, thuở viết thư tình giùm cho mấy nhỏ "xí xọn " trong lớp, để kiếm bánh bò và đá đậu mỗi giờ ra chơi, và kẹt kẹt thì chúng nó cho tôi “copy” mới đủ điểm lên lớp. Đa phần các anh nhà thơ, nhà văn đều nghèo, có anh chết không có hòm chôn, có anh cuối đời ngồi bán thuốc lá lẻ, có anh không nhà để ở phải ra khu nghĩa địa ở chung với ma. Hoá cho nên nghề cầm bút là nghề bạc bẽo, may khi "chó ngáp phải ruồi " được một bài hay, thấy người ta khen cứ tưởng bở, viết nữa, hớ hênh là bị chửi, bị chê "viết gì dở ẹt ".
Cho nên câu trả lời cuả tôi cho mấy đứa bạn năm xưa, tôi không hề là nhà văn, nguyên nhân cầm bút để viết chẳng qua vì quen tay, như người hay hát khác với người hát hay là vậy. Rồi cũng tại mấy "con ranh con " bắt đầu những năm học lớp mười, mười một, mười hai , đã biết ghiền đọc thư cuả mấy "cây si " học trò gửi tới. Đọc thư nhưng bảo đảm chưa biết viết thư, nếu là những đứa chăm học không mê đọc tiểu thuyết, nhưng vẫn thích đọc thư, thì phải biết viết thư hồi âm mới có cớ để thư qua, thư lại. Nói nhỏ với các anh bạn cùng trường ngày xưa, hay các anh Sinh Viên, Chiến sĩ gì cũng vậy, thư cuả các anh ít khi chỉ có một người đọc, đã có cả nhóm đọc chung, và nếu chờ thư hồi âm thì cũng có một đám chờ đọc ké, cho nên các anh đừng “tưởng bở”  chỉ hai đứa mình thôi nhé, đừng cho trăng nép sau hè...".
Trong đám bạn chơi thân với nhau, có lẽ tôi là đứa khá văn chương hơn cả, cho nên dù học dở nhất bọn, nhưng vẫn được chúng nó tôn làm "sư phụ ". Mỗi lần thảo xong một lá thư, giờ ra chơi tôi có quyền no nê bánh bò, đá đậu, bánh mì thịt v. v . . . . . Đó là những đứa con nhà khá giả biết yêu sớm, chứ mấy đứa nhà nghèo, sáng cơm rang cơm nguội làm chuẩn, nếu không chịu học hành, sớm vướng vào yêu đương, mai sau chỉ có nước ăn cơm rang với cơm nguội mãn đời. Vì phải nhịn cho tôi ăn, đi học chỉ được phát tiền quà đâu có dư mà đãi bạn, cho nên tụi nó mình hạc xương mai, tướng đi yểu điệu trong tà áo dài trắng, các anh nhìn lại càng mê, bởi vậy người ta mới hay nói " yêu quá yếu " là vậy.
Tuổi học trò, nhận lá thư xanh chị nào chị nấy cảm động và bối rối lắm. Lá thư được ép vào tập vở, cho nên khi thấy đương sự lúc nào cũng chúi đầu vào cuốn sách hay tập vở, là phải biết "cô bé " biết yêu rồi đấy, chứ không phải vì siêng học đâu. Tuy thế, ít đứa nào dám " thơ thới hân hoan " đi " sô lô" với bạn trai ngoài đường, dị chết, chẳng may ông bà già bắt được, bị ăn đòn là cái chắc.
* * *
Viết thư tình coi vậy đâu phải dễ như mình đọc ké thư cuả người ta, trước khi viết hồi âm, còn phải tìm hiểu xem đối tượng thuộc giới nào, học sinh, sinh viên, lính chiến, hay là. . .thầy giáo cũng không chừng ( xin các thầy tha thứ, sống trên đời ai cũng là người, cũng có trái tim bằng thịt) cho nên, trong đám nữ sinh thế nào cũng có người được gọi thầy bằng " anh ".
Không phải đám con gái tụi tôi dở nghề viết lách đâu, mà cũng có những anh tuổi học trò  mới biết yêu, viết thư rất ngố. Có anh sao y bản chính một lá thư tình trong tiểu thuyết, viết toàn chuyện tưởng tượng, dù còn lâu lắm mới được " người đẹp" chiếu cố cho một lần hò hẹn. Theo lá thư anh gửi, hôm ấy là một buổi chiều vàng, có lá thu rơi, có hai người hò hẹn nơi ghế đá công viên . . . Trước khi trả lời, tôi phải điều tra con bạn một chút:
" Ê, như vậy là hai anh chị có ra công viên rồi phải không?"
Con nhỏ lắc đầu quầy quậy:
" Đâu có . . ."
" Vậy mày quăng lá thư này vô sọt rác nghe, ba má mày mà đọc được là ốm đòn nghe con."
Nhỏ mở to đôi mắt nai ngơ ngác:
" Uả, sao kỳ vậy?"
" Chứ không à, mới tý tuổi đầu, học không lo học lại còn hẹn hò nhau ra ghế đá công viên cho lá rớt đầy người. Đây này, đọc kỹ lá thư này đi, tao nhớ nó ở đâu, thôi rồi, trong tiểu thuyết Thứ Tư đây mà."
Con bạn chưng hửng:
" Ừ há, viết gì kỳ quá, cho anh chàng đi chơi chỗ khác."


Thế là chấm dứt một chuyện tình, không phải hồi âm hồi iếc gì cả. Sau chuyện đó, tôi mất cơ hội ăn món đu đủ bò khô tương ớt cay xé miệng mà mình thích, nhưng là kẻ có "lương tâm" , tôi chỉ trả lời giùm bạn bè những lá thư viết đàng hoàng, viết bằng trái tim cuả người gửi, để sau này dẫu có người phát giác ra tôi là tác giả cuả những lá thư tình học trò, cũng không nỡ trách tôi gian dối.
Tôi có con bạn thân, lấy chồng cùng trường khác lớp, bây giờ đã có một bầy cháu nội, ngọai, nó cũng là thân chủ cuả tôi trong dịch vụ viết thư tình thuở đi học. Người yêu cuả N.V. là anh H., quê Cái Răng, nơi có món nem nướng nổi tiếng, vì nhà anh ở ven sông Cái Răng, cho nên thỉnh thoảng tôi cũng được hân hạnh tháp tùng cô bạn quý vào chơi, lúc về anh đưa hai kiều nữ qua cầu ăn nem nướng, còn xách về nhà bao nhiêu là sa bô chê và nấm rơm, vì nhà anh ủ rơm trồng nấm. Lần đầu tiên tôi được thấy những ụ rơm nhỏ có bao nhiêu cái nấm xinh xinh mọc chi chít bên dưới, tôi thích lắm, vườn nhà anh xoài, ổi không thiếu, tôi tha hồ " xực " đầy bụng . Sau này, bạn tôi về với anh, anh mới biết những lá thư tình làm anh mất ngủ nhiều đêm , là do kẻ này cũng mất công bỏ học bỏ hành để viết giùm cho cô bạn, anh càng cảm động , khi tôi nghèo, thỉnh thoảng từ quê ra, hai người vẫn xách cho tôi buồng dừa, bịch gạo.
Chẳng mấy khi mà tình học trò lại nên duyên cầm sắt, chỉ đếm trên đầu ngón tay, bây giờ tôi có thấy vài anh chị yêu nhau thuở học trò mà nên vợ, nên chồng, không biết sao dù nay đầu hai thứ tóc, họ vẫn yêu nhau lắm. Có lẽ trong tim hai người vẫn là hình ảnh cuả họ thời đi học, cho nên vẫn " tương kính như tân " , đáng phục thay.
TH cũng là một người đẹp cuả lớp, cho nên nàng nhận nhiều thư xanh lắm, đặc biệt là một người hùng Không Gian đeo đuổi nàng suốt mấy niên học, những lá thư xanh viết từ KBC, có con tàu cuả chàng vút lên từng mây biếc. Viết những lá thư tình cao cấp đâu phải dễ, nhờ vậy TH chiều tôi lắm, nghiã là sau người yêu cuả nó thì tôi là người được nó nhớ nhiều nhất, vì nó tiết kiệm được bao nhiêu thì giờ nghĩ ngợi để viết thư hồi âm, chỉ việc “copy” gửi cho chàng, được chàng khen hay, đã đẹp lại văn hay chữ tốt thì dĩ nhiên, bao nhiêu yêu dấu cuả con tim, chàng đâu dám san xẻ cho ai. Sau này hai người cũng nên duyên cầm sắt, tôi cũng được mời đi dự đám cưới, nhìn hai người tay trong tay, mắt ngời ngời hạnh phúc, trong âm thầm lặng lẽ, tôi cũng cảm thấy cái vui cuả người đã góp phần làm nên hạnh phúc cho bạn bè. Đồng thời cũng nhớ lại vài nhỏ bạn khác, không được cái may mắn đó, cho nên có lúc tôi cũng phải nhức đầu khi viết những lá thư giận hờn, trách móc, chả ăn nhập gì đến mình cả.
Đâu phải con trai  anh nào cũng chung tình, như MV bạn tôi có anh bồ tên T nhà hàng xóm, hai nhà chỉ cách nhau có giậu mùng tơi, mà cũng bày đặt thư xanh với thư hồng. MV không đẹp, nhưng tính tình thật thà dễ thương, ông già nó là dân nhậu cho nên con nhỏ làm đồ nhậu thiệt khéo, rắn, ruà, lươn gì vào tay nó là hấp dẫn liền. Tuy bạn học không giỏi nhưng theo thiển ý cuả tôi, anh nào lấy được bà xã có khiếu nấu ăn, lại khéo chiều chồng như bạn tôi là số một. Vậy mà anh chàng T không có mắt nhìn người, đứng núi này trông núi nọ, núi nào cây cũng xanh rì như nhau.  Thư từ qua lại ít lâu, lắm tối ngồi viết thư tình giùm bạn tôi cũng tự nhiên thấy lòng bâng khuâng như mình đang yêu thật mới chết tiệt mà quên ráo cả chuyện học bài.  Anh T lên Đại Học cho nên bỏ cô bạn nhỏ hàng xóm, quen một cô sinh viên cùng lớp. MV đau khổ đến mất ăn mất ngủ, bởi vậy nó nài nỉ tôi thảo một lá thư hỏi " người bội bạc " cho ra lẽ. Lá thư kèm theo mấy vần thơ con cóc mà tôi còn nhớ lõm bõm:


" Rồi bỗng dưng một dạo,
Thư hồng anh thôi trao,
Nụ cười thôi đưa đón,
Gặp nhau anh chẳng chào...


Thư không trao, gặp chẳng chào thì đúng là tình đã " chấp cánh bay đi " rồi, có ai ngớ ngẩn như bọn tôi không? Vậy mà tôi cũng è cổ, ngồi chống tay vào trán suy nghĩ, mới đẻ ra một bài thơ để bạn tôi gửi " người bội bạc". Sau này, bạn tôi cũng có chồng là một anh nhà binh vùng sông nước, sản xuất cho anh hai tý nhau, anh được ăn ngon, vợ cưng, bà xã lo lắng tần tảo rất ngoan. Còn anh T " tham vàng bỏ ngãi ", nghe nói sau này anh sa cơ thất thế, mất vợ đẹp, cho nên cái bài học giờ Hán Văn cuả thầy tôi dạy, tôi vẫn nhớ như in :
"Thiện hữu thiện báo,
Ác hữu ác báo,
Nhược bằng bất báo,
Thì thần vị đáo."


Chẳng biết có phải vậy không vì tôi nhớ có mỗi bài này trong giờ Hán Văn, vài năm sau không thấy có môn này nữa, chắc mấy thầy đồ nho “tiêu diêu miền cực lạc” hết rồi. Bạn tôi nhờ nấu nướng khéo, làm chủ một quán phở ở đường Pasteur, vẫn áp dụng câu: " nhất nghệ tinh, nhất thân vinh ", thỉnh thoảng hai đứa gặp nhau, cũng có tô phở đãi bạn. Còn hơn những đứa cùng mài đũng quần năm xưa, nay may mắn thành công trong cuộc đời, gặp bạn cũ lạt như nước ốc, thì với tôi đứa bạn nghèo vẫn quý hơn.
* * *
Dịch vụ " viết thư tình " đang ngon lành, nếu không có cái thư cuả nhà trường gửi về thông báo điểm học tập cuả tôi thì có lẽ tôi đã thành văn sĩ từ lâu. Kết quả khi anh tôi mở tập vở ra kiểm soát thì cha chả, chỉ toàn thư với thư, bản thảo lưu giữ trong khi thư đã phát hành. Cả nhà đều lạ cho tôi , người ngợm chẳng giống ai, sao một lúc mà lại có nhiều người yêu đến thế. Thư thì gửi cho anh nam sinh cùng trường, khi lại anh phi công người hùng cuả thời đại, anh sinh viên năm thứ Ba trường Luật, nào đã hết đâu nếu trong bọn có đứa quen thêm anh chiến sĩ xình lầy,  mỗi lá thư tôi lại phải viết một kiểu khác nhau. Tôi bị nghi ngờ là chơi mục " Tìm Bạn Bốn Phương ", không lo học hành nên bị rủa một trận tơi bời, chưa kể bị anh tôi “ thương cho roi cho vọt” một trận kinh hồn, từ đấy cạch luôn nghề viết mướn.
Thật ra tôi vẫn nhớ nghề viết thư tình mướn của mình, nó cũng có cái vui khi được đọc những lá thư cuả người khác, mà cứ ngỡ là mình cũng đang được yêu. Sau tôi mới phát hiện là lũ bạn hại mình quá, đã không học hành được vì đầu óc cứ lởn vởn chuyện tình yêu cuả người khác, mà còn vì một lý do quan trọng hơn, đó là tôi phát tướng tròn quay như hạt mít. Để trả công viết lách cho tôi, như nhà báo trả tiền nhuận bút, chúng nó phải nhịn để nhường cho tôi những ổ bánh mì thịt, xôi lạp xưởng, bánh bò, đậu đỏ bánh lọt , công viết mướn những lá thư tình, nhờ thế đứa nào cũng yểu điệu thanh tân, còn tôi đi đứng ục ịch, tròn quay như cái cối xay. Mỗi lần đi học, đứng ngắm nghía trước gương, tôi biết lũ bạn nó hại tôi rồi, tất cả vòng số nào trên người tôi cũng “over” hết. Bây giờ dù rất muốn từ chối những món quà hấp dẫn trước cổng trường, nhưng rồi lại mềm lòng khi chúng nó nhất định ấn vào tay tôi bắt ăn cho bằng được, hoá ra con người từ lúc còn trẻ đã biết hối lộ cho những việc lặt vặt, trách chi sau này ra đời, tôi thấy chỗ nào người ta cũng hay biếu xén.
Suốt một, hai niên học đệ nhị cấp, tôi chỉ toàn viết thư tình cho thiên hạ, và đi "đỡ đạn" cho bạn bè mỗi lần hò hẹn. Nào là phải đi xin phép cho nhỏ bạn đến nhà ăn Sinh Nhật ( làm gì mà mỗi năm mẹ tôi đẻ tôi đến mấy lần), để làm cái "đuôi" cho hai đứa nó tâm tình với nhau trong Vườn Thầy Cầu, Đàn Tiên, Vườn Ổi. Tôi đã xực biết bao nhiêu mận, ổi với muối ớt, uống nước dừa đầy bụng mà "hai đứa chúng nó cứ rủ rỉ rù rì toàn chuyện tào lao mãi chưa chịu chia tay, dường như chúng nó cố tình “ấn” cho tôi ăn để được rảnh rang tâm tình mí nhau,  những người trẻ tuổi yêu nhau hình như không ai muốn biết thời gian nó ra làm sao. . . Tôi vừa buồn vưà đau bụng vì xơi nhiều cuả chua, vừa nghĩ đến phận mình, học hành chẳng giống ai, một mảnh tình vắt vai cũng chẳng có, lúc ngồi một mình cu ky chờ đợi, tôi cũng có ý định bỏ luôn nghề viết thư tình mướn, rồi chăm chỉ học hành và bỏ dần " tâm hồn ăn uống ", may ra rồi cũng tìm được người trong mộng.
Nhỏ H có ngưòi yêu là anh Sĩ Quan Bộ Binh , đơn vị trú đóng bên kia bờ sông Hậu, thỉnh thoảng tôi lại phải làm tài xế chở nó qua Bến Bắc Cần Thơ sang Bình Minh ( Cái Vồn) thăm người yêu chiến sĩ. Thực ra vì tôi ăn nhiều, đớp kỹ cho nên có sức khoẻ để chở nhỏ H vượt gió sông Hậu Giang sang thăm người yêu, chứ tôi cũng chả ham gì cái cảnh ngồi chờ người ta tâm tình chuyện thương nhớ nhau. Bởi vì tôi rất tương tư món bánh xèo ở chợ Cái Vồn, nhung mẹ tôi ở nhà lại dặn dò rất kỹ lưỡng: "Con gái không được lê la ăn quà ngoài chợ". Ăn bánh xèo mà không ngồi bệt xuống cái ghế đẩu thấp, thoải mái bốc bằng tay, cuốn miếng bánh vàng óng, nóng ròn vào lá cải bẹ xanh, ăn với nước mắm chua ngọt có đồ chua kèm theo thì mất thú đi nhiều lắm. Sau buổi hẹn hò, nhỏ H đãi tôi một bữa bánh xèo ở chợ Bình Minh, có lẽ chưa bao giờ tôi thấy cuộc đời đẹp cỡ đó. Tôi ăn ngồm ngoàm, tôi đớp thoải mái, tôi không còn ngán bất cứ ai trên cõi đời này, cũng chả nghĩ gì tới anh SQ xình lầy mà người yêu cuả H, cũng như nó vừa gán ghép cho tôi. Ăn là trên hết, là chân lý cuả cuộc đời(chỉ riêng tôi thôi nhé!). Cho nên sau này sống dưới chế độ xã nghĩa, con người được quản lý bằng bao tử, tôi mới thấy sự suy nghĩ cuả tôi thời đi học quả là ưu việt.
May là tôi đã kịp nhận ra rằng, con người không phải "sống để ăn " và để "yêu giùm người khác", cho nên không có chi là muộn hết. Tôi bắt đầu tu tỉnh, chăm chỉ học hành, và trời ạ, cũng có một người cảm được tấm thân " bồ tượng " cuả tôi. Khi biết yêu thật tôi cũng từ từ ốm bớt, người thon thả mảnh mai hơn, dù rằng thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ cái thời vàng son trong sự nghiệp văn chương cuả mình. Lúc đó tôi đã phát hiện ra chân lý cuả tình yêu, dẫu có làm ông to bà nhớn gì, sống không có tình yêu thì cũng như chết mà biết thở.
Người đời vốn hay xấu che tốt khoe, cho là mình cái gì cũng ngon lành hết, hôm nay ngồi viết lại chuyện thời đi học, tôi có sao viết vậy. Mấy nhỏ nhờ tôi viết thư tình giùm năm xưa nay có đứa đã ra người thiên cổ, làm bà nội bà ngoại cũng đông, dăm đứa phiêu bạt xứ người, còn một số sống vất vả nơi quê nhà. LTS ngồi bán bánh mì kiếm cơm thật vất vả, MV vẫn bán phở và vì xực nhiều phở quá, giờ này béo quay hơn tôi ngày xưa. Bạn bè chung lớp có đứa bác sĩ, giáo sư, có đứa giàu, có đứa nghèo, có đưá goá bụa vì "ông xã" vội bỏ cuộc chơi leo lên bàn thờ ngồi, giờ này không biết chúng nó có đứa nào còn nhớ đến tôi không nhỉ?
Bao nhiêu tháng năm dài biền biệt trôi đi, đôi khi tôi vẫn hồi tưởng lại những bạn bè học chung lớp năm ấy. Đời quả là một sân khấu lớn và định mệnh cuả từng số phận con người thì hệt như số đo cuả giày dép, mỗi bạn là một cảnh ngộ đầy vui, buồn đến cười ra nước mắt. Khó hình dung được bao nhiêu cô nữ sinh ngồi cùng lớp năm xưa, lại là bấy nhiêu cảnh đời không ai giống ai, nhưng sự may mắn thì thật hiếm hoi đến ngậm ngùi. Thôi thì ít ra trong quãng đời học sinh hoa mộng, đứa nào cũng có một mảnh tình thơ mộng để nhớ, một trái tim biết yêu đương , biết mộng mơ. Tình yêu thuở học trò đâu có gì tội lỗi, chỉ tội nghiệp cho những đứa bạn năm xưa, giờ này vẫn còn phòng không chiếc bóng.
NGUYÊN NHUNG.

Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat / CHUYỆN TRONG QUÁN CÀ PHÊ
Reply #27 - 13. Aug 2010 , 09:00
 
   
Câu chuyện trong quán cà phê
Lê Việt Điểu
,





Chiếc bàn nhỏ luôn luôn di chuyển chỗ đứng tùy theo mùa. Mùa Hè, mùa Xuân nắng ấm; nó được ung dung đứng thoải mái ngoài khoảng sân vuông, bên cạnh lối đi dành cho người đi bộ. Mùa mưa, nó vào lặng lẽ trốn, những cơn mưa vỗ vào mặt, dưới hàng hiên bằng vải bố màu xanh lá cây, ngay trước cửa lối ra vào.
Hôm nay sắp mùa Xuân, có vài hôm nắng có vài bửa mưa nên chiếc bàn được ngồi luôn trước cửa ra vào.
Ánh nắng cuối Đông không đủ nóng nhưng đủ ấm, đủ làm hồng đôi má của cô chủ quán, Debbie. Phúc làm ly cà phê như thường lệ. Chàng cho vào ly 3 viên đường nâu, hai viên đường trắng, môt ít cream - Không biết tại sao và từ bao giờ chàng đã có thói quen uống cà phê như thế nầy.
Những ngày đầu di chuyển về đây, chàng đã khốn khổ với ly cà phê mỗi sáng. Cà phê Việt Nam. Cà phê sửa đá đậm đặc. Với Phúc chỉ có cà phê sữa đá pha chế theo "kiểu Việt Nam" mới làm chàng tỉnh ngủ, yêu đời, và làm việc hăng. Hôm nào không có ly cà phê là y như rằng chàng gục gà gục gặt như con gà nuốt dây thun. Những hôm đầu, Phúc còn siêng năng thức sớm chạy đi mua một ly ở phố Việt Nam. Nhưng mỗi sáng đi và về hơn nửa giờ, chàng thấy sự vô lý của mình. Chàng tự hỏi "Cà phê Mỹ đã chết thằng Tây đen nào đâu" Phúc làm thử một ly...Chàng phun phèo phèo "Chua lè". Chàng đổi cách. Ra chợ mua cà phê "từ Việt Nam" cà phê "Buôn Mê Thuộc đàng hoàng theo lời ông chủ chợ. Và ở nhà, mỗi sáng, chàng chịu khó bỏ vào Microwave ly nước, mua vài lon sửa đặc có đường. Tự pha ly cà phê sữa đá. Hôm nắng, hôm mưa. Đực cái bất thường. Đâm chán. Thêm vào đó "mình pha đâu có ngon bằng người ta "chuyên môn". Thế là chàng đành tìm cách khác.
Quán cafe bên đường, trong khu Shopping Center. Mỗi sáng đi làm ngang qua, mùi café thơm sực nứt tràn ngập không gian, thọc sâu vào phế phủ làm chàng ngầy ngật.
"Tại sao không thử nhỉ?"
Phúc tấp xe vào chỗ đậu, một buổi sáng thứ Bảy có nắng ấm. Cô chủ quán, tóc vàng, dáng người thon nhỏ, đôi mắt lá răm xếch ngược, cằm vuông, đôi môi nhỏ hồng hào, năm ngón tay trắng ngần... Và nhất là bộ phận nằm dưới cằm, trên khoảng bụng làm chàng xốn xang nhất. Lầu đầu tiên chàng có cảm giác "rạo rực" xâm nhập đầu óc.
Quán bán đủ loại. Donuts, Bánh ngọt. Bánh mì. Cà phê Mỹ cũng tùy loại cà phê. Có thứ phải xay tại chỗ, có thứ cách pha chế cầu kỳ, Moka hay là Espresso lại thêm single hay double, French Roast Vanila Dark or Light. Cream or not...Đại loại là như thế.
"Rắc rối. Ngon hay không chưa biết; nhưng việc trả lời không thôi đã mất cha cái hứng thú rồi"
"Good morning Sir. What can I do for you this beautiful morning Sir."
Phúc lầu bầu trong miệng "Khéo lẽo lự. Xơ với múi. Tụi mầy chỉ được cái mồm" nhưng ngoài miệng, theo thói quen vẫn cười - Nụ cười tươi như lúc nào cũng sẵn sàng.
Sau câu chào, sau nụ cười; Phúc đứng im nhìn chăm chú lên tấm bảng sau lưng cô chủ quán. Hàng chục loại cà phê...ly nào ly nấy "cắt cổ" Chàng phân vân. Uóng gì bây giờ. Người con gái tóc vàng kiên nhẫn đứng nhìn ông khách lạ. Chờ đợi. Dường như cô ta biết ông khách nầy bối rối.
"Ông là người Việt Nam?" Cô hỏi.
Phúc quay lại, gật đầu thay cho câu trả lời. Nhưng liền sau đó:
" Đúng như thế. Nhưng sao cô biết?"
Cô chủ quán cười lắc đầu:
"Tôi không biết. Có lẽ theo phản ứng tụ nhiên." Ngừng một chút như để giải thích cho "phản ứng tự nhiên’ rất chính xác. Cô tiếp "Cha tôi đã từng chiến đấu cho hòa bình của nước ông"
"Ô, thật thế ư"
Phúc chưa kịp nói thêm, cô chủ quán đề nghị:
Tôi nghĩ rằng ông nên thử Moka cho biết. Nó giống cà phê của xứ ông.
Cử chỉ của Phúc đã nói lên sự ngạc nhiên, cô chủ quán cười dễ thương:
Ba tôi nói như thế. Ông thử đi.
Phúc thích thú:
"Oh! Tôi thử ngay.
Chàng chìa chiếc ly giấy, nàng bấm nút lấy cà phê. Tiếng cô chủ sau quày hàng:
"Nhớ cho đường 2 viên, một hay hai muỗng cream thì vừa. Nó không đậm đặc như ông muốn nhưng sẽ làm ông thích thú."
Phúc yên lặng làm theo lời chỉ dẫn. Tiếng cô chủ quán tiếp:
"Ông mới về đây? "
"..."
"Ông vào đây lần đầu?"
"Vâng, thưa cô."
Còn quá sớm cho một ngày thứ Bảy, dậy muộn. Quán vắng. Cô ta tiếp tục bắt chuyện..."Người Việt thích uống cà phê đậm. Tại sao không thử cái mới? Như thử uống cà phê Châu Mỹ coi thế nào. Đi mãi đường mò Đường mòn dễ đi thiệt đấy ...nhưng nhàm chán, nếu không nói là phản khoa học và không tiến bộ tí nào."
Phúc im lặng. Theo thói quen "phòng thủ". Sợ mắc hởm. Chàng chưa biết đối đáp với cô gái này ra sao.
Chàng mang ly đến quầy trả tiền. Khi nhận tiền thối, Phúc ngạc nhiên và nếu không kịp nén, tiếng Ồ đã tuột ra từ cửa miệng chàng. "Mắc thiệt. Chưa biết ngon không đây."
Trên chiếc bàn nâu gắn vào tường, từng bình cà phê với đủ tên gọi ...Colombia House Dark, French Roast, French Vanila Dark, Hazel Nut, Vanila, Kenya...Bên duới mỗi bình có một dĩa vuông chứa cà phê đã rang, chưa xay - Có lẽ muốn minh chứng đây là "thứ thiệt"
Chiếc bàn kê dọc hành lang, ngồi nơi đó chàng có thể nhìn toàn cảnh khu phố nhỏ. Khu phố cổ với những căn nhà và con đường đầy bóng cây-giống những con đường làng Việt Nam- khu phố được chính phủ bảo vệ cho nét lịch sử của nó. Từ ngoài xa lộ đi vào exit, du khách có thể nhìn thầy tấm bảng nhỏ "Historical City". Mọi kiến trúc ở đây đều được giữ vẻ nguyên thủy. Từ cái bòn chứa nước cao nghêu, cũ kỷ, đến nhà thợ rèn đóng móng ngựa, trạm bưu điện, nhà in...và căn nhà mái lợp bằng những miếng gỗ đẻo gọt khít khao, rêu phong phủ kín mái nhà...Tất cả đều mang bóng dáng của thành phố thời xưa bên Anh Cát Lợi.
Phúc về thành phố nầy làm việc, tuy có hơi xa khu chợ đồng hương sinh hoạt, nhưng nó đem cho chàng những cảm giác bình yên.
Thành phố nằm ở phiá Tây thung lũng, dựa lưng vào cánh rừng thông ngút ngàn, những mùa gió chướng rừng thông reo vi vu xoa dịu những nhớ thương. Bên kia rừng thông là biển. Biển Thái Bình Dương.
Dân số phỏng chừng vài chục ngàn; là những người về hưu và gia đình của họ. Những con đường, những kiến trúc, những căn nhà mang đậm nét cổ kính mà người dân ở đây - (phần đông) là di dân từ Anh Cát Lợi - mang đến từ quê hương của họ. Những căn nhà nho nhỏ dễ thương, hàng rào thấp (trang trí nhiều hơn là ngăn cách) ngang đầu gối, sơn trắng, những hàng cây bươm bướm che rợp bóng trên dường, và những tên đường Westminster, Birmingham, Liverpool... ghi dấu quê huơng bỏ lại sau lưng.
Thành phố có đủ những hàng quán, nhà bưu điện, tiệm giặc, quán chơi bi da, nhà in và đặc biệt là nơi thờ phượng. Có rất nhiều nhà thờ lớn hoặc nhỏ. Và một nhà thờ chung cho thành phố với ba gác chuông...Khi mới đến Phúc thích thú gọi nó là Nhà Thờ Ba Chuông".
Thành phố là những kiến trúc tân kỳ và những di sản thời Tân Thế Giới
Thành phố là một tổng hợp cổ kính/tân thời/bảo thủ. Của những người tuổi trẻ và những ông già bà cả.
Phúc đốt một điếu thuốc, nhấp ngụm cà phê, mùi cà phê thơm dịu nhưng chàng suýt phun ra :
"Đắng quá..."
Quay vào tiệm lấy keo đường và bình cream nhỏ. Trở ra ngồi xuống. Phúc pha chế ly cà phê. Thêm viên đường, thêm muỗng sữa ...thử ...Cho đến một lúc vừa miệng. Chàng làm công việc nầy thích thú như trẻ con chơi đồ hàng. Ly cà phê đậm đặc, thơm lừng. Phúc nhiểu từng giọt Cream vào ly khuấy đều. Màu đen cà phê nhạt dần biến thành màu vàng nhạt, màu ruột củ khoai lang. Cream không đặc giống sửa Ông Thọ, Con Chim; nhưng có mùi thơm đặc biệt. Phúc làm công việc chăm chú.
"Có giống cà phê của xứ ông không? Tiếng nói đến từ trước mặt. Mãi chú tâm vào công việc pha chế cà phê Phúc không biết cô chủ quán ra từ lúc nào ...
"Không tệ lắm. Nhưng có lẽ tôi chưa quen.
Chủ quán ngồi xuống, chìa tay ra:
- Debbie, hân hạnh biết ông.
- Tôi tên Phúc.
Mím môi như giữ lại một tiếng kêu ngạc nhiên sắp thoát ra khỏi miệng. Nàng cười xin lỗi "Tôi chưa nghe kịp"
Phúc hơi khựng. Nhưng chàng chợt nhớ ra. Tên của chàng đã từng làm chàng điêu đứng, khó xử nhiều phen chớ không phải hôm nay lần đầu. Chàng không ngạc nhiên chỉ hơi khựng người vì sự vô tâm của chính chàng-phát âm không để ý.
Người em trai -Đức- cái tên cũng khó nghe khi người Mỹ phát âm. Chàng là Thiên Phúc, em trai , Lập Đức. Hai tên rất có ý nghĩa trong ngôn ngữ Việt Nam; nhưng trở thành nổi khó khăn khi qua đất Mỹ. Người Mỹ phát âm PH thành ra F...Tên chàng thật khó nghe. Còn tên người em trai biến thành tên gọi một sinh vật không cần "cúng cơm"
Chàng mĩm cười nhắc lại. Và thêm:
- Tên tôi khi phát âm cô phải ngậm miệng lại, lấy hơi trong cổ thổi ra nhè nhẹ và hơi vừa thoát ra cô ngậm ngay lập tức hai vành môi. Bằng không là cô chưỡi cha tôi đấy.
Nàng theo lời...vui vẻ:
"Sao mà khó thế nầy?"
Nhưng đâu có khó khăn như ngôn ngữ cô đang nói. Tiếng nước cô mới là khó, xì xèo phun cả nước miếng ra ngoài. Chuyện gì cũng vậy thôi. Luôn luôn. Đổi mới, hay theo cái mới là chuyện khó khăn.
"Ông nói là nói thế thôi. Tôi không tin mọi sự đổi mới đều khó khăn.
Phúc nhắc lại:
"Khi nãy cô nói không tìm cái mới như là đi theo lối mòn. Không tiến bộ. Tôi chưa hiểu hết ý của cô."
"Có gì mà không hiểu. Đi theo lối mòn là theo những gì có sẵn. Là bảo thủ. Là ù lì. Là chấp nhận sự đứng lại. Nếu thế giới này không có những tìm tòi thì làm sao ông có nhiều phương tiện như hôm nay?"
"Theo tôi thấy...thành phố này không chịu đổi mới đó. Cô có nhận thấy thế không."
"Đó là một chứng minh cho ông. Như thế hiểu rồi chớ gì. Chỉ làm để trang sức thôi. Già nua, cũ kỷ, hết xài. May là còn có những đầu óc tiến bộ, sáng tạo ra được những phương tiện để giữ cho cái hết xài có giá trị."
Nàng bỗng chuyển đề tài:
"Ông làm gần đây?"
Dạ, cách đây chừng 5 phút"
Ông có buồn không khi ông ở cái thị trấn nhỏ nầy? Nghe nói bên East Side đồng hương của ông đông lắm"
Phúc ngạc nhiên:
"Cô có vẽ rành về cộng đồng chúng tôi"
Debbie cười theo -Trên má nàng có hai đồng tiền. Ngây thơ, thật dễ thương:
"Không có đâu ông. Tôi đọc báo và biết như thế."
"Cô! Dường như cô cũng có chút quan tâm đến cộng đồng người Việt chúng tôi?"
"Đă nói rồi. Ba tôi là cựu chiến binh Việt Nam. Ông đã tiêu thời gian tuổi trẻ của ông ở đó. Ông mang theo nó bên người. Tôi quan tâm đến chuyện đó cũng là do ba tôi."
"Chắc cô yêu ba cô nhiều lắm"
Debbie mơ màng:
"Không những tôi yêu ba tôi, mà tôi còn phục ông nữa. Một người đàn ông rất đàn ông trong mắt tôi"
Phúc cười với câu nói ngộ nghĩnh của Debbie. Chàng lặp lại:
"Rất đàn ông?"
Nàng nhìn thẳng mắt chàng:
"Đúng thế."
Phúc không hỏi thêm. Chàng im lặng nhấp từng ngụm cà phê. Debbie đứng lên quay vào quán:
"I ll be right back."
Buổi sáng thứ Bẩy mọi nhà ngủ dậy trễ. Thành phố còn lản đản chút sương mù. Con đường im vắng, ống khói trên nóc nhà thờ "Ba Chuông" thở khói. Tiếng đọc kinh văng vẳng đến tai chàng. Cánh rừng thông chìm ngập trong màn sương đục, những đọt cây thông cao ló ra khỏi sương mù, như bồng bềnh trôi trong biển nước. Phúc dựa người vào lưng ghế, hai chân lười biếng duỗi thẳng. Khi chàng sắp đứng dậy ra về, Debbie quay trở lại:
"Xin lỗi để anh đợi hơi lâu. Hôm nay anh không đi chơi đâu à? Sương mù nhiều báo hiệu một ngày nắng ấm đó." Nàng đổi ngôi ông sang anh không cần chớp đèn báo hiệu.
Phúc lơ đảng:
"Vậy sao?"
"Anh không làm gì thì ngồi đây chơi. Lát nữa tôi ra với anh?"
Nàng hỏi nhưng trong câu hỏi đã hàm ý quyết định rồi. Phúc không có gì vội, chàng nhún vai ra vẽ "Ô, nếu cô thích."
Debbie nheo một bên mắt trở vào quán.
Quá đã đông khách. Những người khách nhàn rỗi muốn tắm nắng. Những cặp vợ chồng già dắt chó đi chơi. Nắng đã ra khỏi hàng cây phía Đông. Mù sương tan dần về Tây. Bóng nắng chảy dài khắp thành phố. Chan trên mỗi con đường. Buổi lễ sáng chấm dứt. Người lũ lượt kéo ra. Những người đi bộ nhàn tản. Những em bé trong bộ áo đủ màu sắc tung tăng trên đường. Sau lễ Giáng Sinh nhưng nhiều cây thông trước sân nhà vẫn còn đèn chớp nháy. Những trang trí ngày lễ vẫn lưu luyến chưa muốn bỏ đi.
Quán cà phê của Debbie nằm ở vị trí thuận tiện, khách vào ra nhộn nhịp. Tiếng chào hỏi râm rang.
"Hôm nay đi ra biển trượt nước em nhé?"
"Lạnh lắm đó anh. Đợi nắng ấm thêm một chút."
"Ông có ý định đi đi trượt tuyết hôm nay không? Sắp sang Xuân rồi, không đi là hết đó. Sang tôi đi chung. Bà ấy đi Châu Âu đã về chưa?"
Nè em. Lát nữa nhớ mua thêm thức ăn. Anh vừa gặp gia đình thằng bạn về thăm người quen. Anh đã mời nó đi cắm trại với chúng mình hôm nay"
"Hôm nay anh đưa em ra thương xá, để em đổi lại cái áo dạ hội hôm nọ anh chê màu sắc không hợp với em đó nhé."
Những âm thanh mang âm sắc của vui mừng, cường độ của thỏa mãn đập vào tai Phúc. Chàng nghe như đâu đây những tiếng nói khác.
"Nhà mình lúc nầy cũng tạm đủ ăn. Chị Quỳnh Như còn làm giáo viên cấp II, chịu đi dạy thêm cho tư gia. Lúc nầy nhiều nhà cần người kèm trẻ, nhất là môn Anh Văn."
" Anh Tư ạch đụi làm thợ máy, cái bằng Phú Thọ xin việc hoài không được. Các công ty nước ngoài vào Việt Nam, nhưng không dễ gì xin vô. Phải cổ cánh lắm mới được vào."
"Thời nào cũng vậy anh ơi. Có quyền sẽ có tiền, mà có tiền là có tất cả."
" Nhà cao tầng mọc lên nhiều lắm. Anh đừng hỏi xây cho ai"
"Xóm mình vẫn không có gì đổi thay. Bà Năm vẫn bán cháo vịt. Ông Mười càng say xỉn nhiều hơn. Bà vợ hết được bán chuối ở chợ rồi. Ông Ba hớt tóc có con đi cách mạng về tưởng đâu là khá. Nhưng ổng bả phải đóng cửa tiệm về quê sản xuất, và nghe đâu sắp trở lại thành phố. Mấy chuyện này tụi em đã kể anh nghe rồi"
"Anh cũng biết đó mà. Khẩu hiệu, bích chương không đẻ ra no ấm. Làm dân thì lúc nào hết khổ. Kiệt hay Trụ cũng vậy thôi"
Phúc đốt thêm điếu thuốc. Những giọt nắng chạy lăn tăn trên bồn cỏ bên cạnh quán. Những giọt sương long lanh màu cầu vồng bảy sắc như những viên kim cương. Nắng vờn trên mặt bàn hắt vào mặt chàng hơi chói chang. Phúc kéo chiếc ghế núp dưới chiếc dù màu xanh lục, duỗi dài đôi chân ra ngoài. Gió mơn man da thịt.
"Có đứa em ra thế rồi. Bây giờ em có thể ngồi đây tắm nắng với anh nếu anh thích"
Phúc nhún vai:
"Sao cũng được."
Debbie cười:
"Anh lười biếng quá"
"Là thế nào?"
"Em nói gì anh cũng gật. Không một lời phản đối."
"Tại cô không biết đó thôi. Kính người đẹp sống lâu"
Cả hai cùng cười. Và như thế là họ quen nhau. Đơn giản. Bình thường. Không cần nại ra lý do.
Chiều hôm đó Phúc bỏ xe ở nhà, leo lên chiếc mui trần BMW của Debbie đi ăn ở khu phố Việt Nam. Khi họ bước vào nhà hàngđã gây sự chú ý cho mọi người vì sự chênh lệch tuổi tác và dáng vẽ bên ngoài. Chàng đã đọc được trong ánh mắt của vài người sự thán phục-ganh tị- có mang cái tín hiệu "có tiền mua tiên cũng được" "nước Mỹ loạn thật"
Chàng chậm bước đi bên Debbie phớt lờ. Và bất chợt chàng quay mặt ngó vào đôi mắt Debbie. Nàng tinh nghịch nháy mắt và bước sát vào chàng hơn.
Phúc không hiểu mình đang ở trong hoàn cảnh nào? Vị trí của chàng với người con gái Mỹ bên cạnh. Như một sự thu hút? Như miếng gỗ trong giòng nước lũ cuốn trôi? Chàng không biết, và chàng không cưỡng lại được.
Phúc chọn một vài món khai vị, một chai vang đỏ, mấy món cho bữa ăn tối mà không hỏi ý Debbie. Người con gái ngồi im ngó quanh trong khi chàng chọn thức ăn. Nàng không thắc mắc hay ngạc nhiên.
Nhạc nhẹ phát ra êm dịu từ những chiếc loa gắn trên trần. Những bản nhạc Việt không lời, bằng lục huyền cầm, tây ban cầm, sáo trúc, tỳ bà...
Buổi ăn tối chấm dứt vào lúc nhà hàng đóng cửa. Họ nói chuyện với nhau thật tâm đắc, họ cùng cười nho nhỏ. Debbie hai má ửng hồng. Đôi mắt mơ màng. Phúc ngây ngất trong hạnh phúc đến bất chợt. Chàng nắm tay Debbie, nàng để yên trong tay chàng....Họ nhìn nhau không nói.
Debbie bấm nút, chiếc cửa nhà xe mở lên từ từ. Phúc lái xe vào trong. Debbie bật công tắc đèn:
"Đèn còn sáng. Má chưa ngủ. Anh đi theo em. Em muốn làm họ ngạc nhiên vào sáng ngày mai."
Căn phòng rộng, có bồn tắm nước nóng. Chiếc giường lớn, nệm dày nửa thước thơm sực nước hoa. Thân thể Debbie tròn lẳng, chắc nịch. Cả hai chìm trong đống chăn lông dày. Phúc nhận rõ từng cảm giác chạy dài trong cơ thể khi những tế bào xúc giác truyền về trung khu thần kinh những tê mê. Chàng tan loãng, mất hút, nhập thể cảnh giới thứ 9, tầng 36, khi một phần thân thể của chàng đẫm mình trọn vẹn trong vùng địa đàng ấm áp. Ở chỗ, nơi đó, mọi sự sinh ra. Phúc thiếp đi mộng mị. Chàng chẳng thắc mắc. Mọi chuyện như một giấc mơ.
Tiếng của Debbie kèm theo mùi thơm da thịt, kéo Phúc về thực tại.
"Sáng rồi đó anh. Chúng ta đi tắm và xuống nhà. Ba em đang đợi"
Phúc làm theo lời nàng trong cơn mộng du.
Khi hai người theo đường cầu thang hình vòng cung đi xuống phòng ăn. Phúc hồi hộp. Hồi hộp như trai mơi lớn. Có cái gì xôn xao trong lòng Cổ họng như thiếu nước.
"Mầy đi đâu tối hôm qua thế con?"
Tiếng người đàn ông đứng tuổi đầy quyền uy như người quen ra lịnh. Nhưng mang thông điệp của quan tâm lo lắng.
"Con về nhà ...nhưng trể thôi ba" Debbie nhỏng nhẻo trả lời.
"Mom! Daddy !"
"Lynda không đi chơi đâu à?"
Căn phòng có ánh nắng dọi qua cửa sổ thành những vệt sáng dài vắt ngang, bài trí đơn giản nhưng thoạt trông có cái cảm giác chủ nhân nó là một người Á Đông.
Ông bà quay lưng lại cầu thang. Lynda đang đọc sách cạnh cửa sổ. Trong lòng nàng con mèo nằm im liếm lông.
"Thưa Ba Má. Anh Phúc bạn con. Anh Phúc, Ba tôi-ông David, má Diệu Phúc. Con em Lynda."
Nàng kéo ghế :
"Chúng ta sẽ làm quen với nhau trong khi ăn điểm tâm nhé."
Phúc bắt tay ông David, cuối đầu chào bà Diệu Phúc. Chàng khựng lại. Đôi chân như không muốn giữ nổi thân thể chàng. Tay bà chưa rút tai lại sau cái bắt tay. Ông David nhìn hai người. Debbie trợn tròn đôi mắt.
"Anh sao thế...hai người biết nhau? Vậy thì tốt quá. Đỡ bở ngở."
Bà Diệu Phúc thở nhẹ. Vầng trán bà dản ra, trở lại bình thường. Bà hắng giọng:
"Uh huh. Mom có quen ông Phúc đây. Quả đất tròn, và nhỏ lắm.
Phúc đến quán trước giờ hẹn. Chàng không thể nào ngờ gặp Diệu trong hoàn cảnh này. Nàng là bà David, với cái tên là Diệu Phúc. Bây giờ chàng mới để ý "Diệu Phúc" là tên của hai người ghép lại. Trái đất quá nhỏ. Tại sao hai người gặp nhau trong hoàn cảnh này. May hay rũi. Hai mươi lăm năm. Cả một quảng đời trong quá khứ hiện ra như cuốn phim chiếu chậm. Phúc chưa biết phải làm sao. Ngày chia tay Diệu cho chàng biết "Em đã có thai" Hai mươi lăm năm ám ảnh. Hai mươi lăm năm chàng không biết "mẹ con" nàng trôi dạt nơi đâu. Chàng nghĩ đến câu nói của Diệu... Rồi một đêm với Debbie. Phúc không cảm giác, lưng chàng chợt oằn xuống như đeo ngàn cân đá.


Lê Việt Điểu


--
Life is short,
make it useful and meaningful!
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Gop Nhat gio Cat
Reply #28 - 07. Mar 2011 , 10:33
 
TRÍCH TRONG GÓP NHẶT CÁT ĐÁ
KHÔNG QUÁ MUỘN ÐỂ NÊN THÁNH

Người Nhật Bản có kể một câu chuyện như sau:
Zenkai là một thanh niên con của một hiệp sĩ Samourai. Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cao cấp trong triều đình. Không mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người chủ và đem người đàn bà trốn sang một vùng đất lạ. 
 
Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống qua ngày bằng nghề hành khất. 
 
Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai đã bắt đầu hồi tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình. 
 
Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy. 
 
Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong 30 năm trời. 
 
Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia bỗng tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho cha mình. Biết trước mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin: 
 
"Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu hãy giết tôi". 
 
Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha. 
 
Nhưng chỉ một năm sau cùng làm việc với kẻ đã giết cha mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai. 
 
Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây dân chúng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng. 
 
Giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy vừa nói trong tiếng khóc: 
 
"Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của tôi?" 
 
                                                    ♦♦♦
 
Câu chuyện trên đây hẳn hàm chứa được nhiều bài học. Ngạn ngữ Latinh thường nói:
 
" Sai lầm, vấp ngã là chuyện thường tình của con người, nhưng ngoan cố trong sai lầm là bản chất của ma quỉ".
 
Nét đẹp quí phái nhất nơi lòng người đó là còn biết hồi tâm, còn biết nhận ra lỗi lầm và từ đó quyết tâm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Trong câu chuyện trên đây hẳn phải là hình ảnh của sự phục thiện mà Thiên Chúa vẫn luôn khơi dậy trong lòng người.
 
Nhưng bài học đáng chú ý hơn trong câu chuyện trên đây có lẽ là: tình liên đới xóa tan được hận thù trong lòng người. Người thanh niên đã khám phá ra giá trị ấy khi bắt tay làm việc với Zenkai, con người mà trước đó anh đã quyết tâm tiêu diệt cho bằng được.
 
Quả thực, tình liên đới, sự đồng lao cộng khổ, sự hiện diện bên nhau có sức tiêu diệt được hận thù trong lòng người.

Tác giả Veritas
Nguồn : Tủ Sách Mạng Lưới Dũng Lạc.org
Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 
Send Topic In ra