Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Nếp Sống Đạo  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 4 5 6 7 8 
Send Topic In ra
Nếp Sống Đạo (Read 14005 times)
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #75 - 26. Aug 2010 , 15:33
 
...


Tiếng Hát Của Thiên Nhiên


Em ơi!  Em hãy lắng nghe đi!  Lắng nghe tiếng gọi tha thiết của thiên nhiên mầu nhiệm.  Em có nghe được tiếng chim hót hay không?  Chim sơn ca đang hót thanh thót trên cành cây phong để chào đón buổi bình minh êm đềm, tươi sáng của một ngày đầu xuân.  Em có thấy chim sơn ca bao giờ hay chưa?  Chim sơn ca là loại chim ca hát hay nhất của núi rừng có mặt khắp nơi trên trái đất thân yêu này.  Nơi đâu có rừng núi xanh tươi thì nơi đó có tiếng hát của chim sơn ca.  Sơn ca thân hình bé bỏng mà tiếng hót trong thanh và cao vút.  Nó thường nhả ra một tràng âm thanh dài cao thấp trầm bỗng hòa điệu lẫn nhau, thật thanh thót làm sao!

Em ơi!  Em có nghe được tiếng gió thì thào hay không?  Gió rừng có mặt ở trên đỉnh núi Rừng Phong thường xuyên lắm.  Gió đến đây để thăm viếng rừng cây và vuốt ve đồi cỏ xanh non tạo ra những đợt sóng chạy dài nhấp nhô khắp cả núi đồi.  Cỏ cứ reo vui đong đưa theo gió như muốn cùng nhau hò hẹn để tấu lên một khúc nhạc êm đềm.  Em ơi!  Em hãy nhìn đi!  Điệu múa của sóng cỏ thướt tha không em?  Mỗi khi gió thoảng qua rừng thông thì hàng vạn chiếc lá thon dài reo vi vút như đang cùng nhau ca lên âm điệu du dương đến thiết tha.  Thỉnh thoảng gió trở nên hung mãnh tạo ra những âm thanh réo rắc, gào thét, hú lớn một cách rùng rợn và ghê gớm như tiếng kiêu than của các loài cô hồn hay ma quỷ nào đó.  Những lúc như thế, cả rừng cây reo xào xạc, tiếng hú xé không gian rơi thẳng vào tâm hồn của em.  Em hãy nằm yên thoải mái để ý tới hơi thở thì tiếng gió ấy sẽ đưa em vào thế giới âm thanh huyền diệu của núi rừng.  Lúc ấy em sẽ cảm nhận được hồn thiêng của núi rừng.

Em ơi!  Em có nghe được tiếng côn trùng tỉ tê, tiếng dế nỉ non, tiếng nhái ọt ẹt hay không?  Tất cả đang phát ra âm thanh hòa nhịp với nhau để công nhận sự có mặt của nhau.  Hãy lắng tâm sâu hơn chút nữa đi em!  Em sẽ nghe được tiếng rắc rắc nứt nẻ của cành lá và tiếng rủ rỉ của những con sâu con bọ.  Mùa xuân là mùa mở hội cho hoa lá, chim muông và côn trùng trong ấy có cả loài bướm và loài sâu.  Nơi đây, sâu nhiều vô kể, đủ loại, đủ màu sắc.  Chúng đang thưởng thức những chiếc lá xanh non.  Chúng ăn no rồi lại đo cành, đo lá trong tiếng hát tỉ tê chào mừng mùa xuân đến để cuối cùng thu mình trong chiếc kén nằm yên nghe tiếng hát êm đềm của thời gian.  Mùa xuân năm sau, những con sâu đủ các màu sắc ấy sẽ biến thành bươm bướm bay lượn thảnh thơi vào không gian bát ngát.  Cũng có những con sâu sinh ra là để dâng hiến thịt da cho những con chim non.  Sự sống được làm bằng sự chết, con sâu làm mồi cho con chim non,  con chim non làm mồi cho con rắn, cái này đi vào cái kia, em đi vào tôi và tôi đi vào em.

Em có thấy cuộc đời mầu nhiệm lắm không?  Từ thịt da của loài sâu bọ hóa thành loài bươm bướm với đôi cánh mỏng manh, màu sắc rực rỡ có thể bay lên đến tận trời cao.  Em ơi!  Em hãy mở lòng ra để nhìn ngắm thiên nhiên.  Bãi cỏ xanh mơm mởm lung linh trong nắng chiếu ra những tia nắng vàng vọt.  Chen chốc giữa đồi cỏ xanh mênh mông ấy là những bông hoa bồ công anh vàng rực rỡ, các chị bồ công anh đang khoe hết tất cả chiếc áo vàng tươi cho ong bướm đến nô đùa.  Cạnh bên các chị bồ công anh là các anh cúc dại màu trắng tinh.  Em có biết không?  Có một độ, sư chú Thạch Lang thả thật nhiều bông hoa cúc dại màu trắng này trên hồ lớn của tu viện Rừng Phong để tưởng niệm ngày giỗ của ba.  Sư chú chèo chiếc thuyền con ra giữa hồ vừa quán tưởng tới ba vừa thả từng bông hoa xuống mặt hồ.  Mặt hồ trong vắt với hàng trăm bông hoa cúc dại trắng tinh trôi bềnh bồng trông thật dễ thương làm sao!  Bởi vì có một lần mẹ bảo rằng:  “Con hãy nhớ cầu nguyện và tụng kinh vào ngày giỗ của ba nghe con, tức là ngày 14 tháng 5 Âm Lịch.”  Đó là cách cầu nguyện của sư chú Thạch Lang và nó đem lại cho sư chú thật nhiều niềm vui.

Em ơi!  Em có thấy cuộc đời dễ thương lắm không bởi vì tất cả cái gì trong sự sống cũng có ý nghĩa thiêng liêng của nó.  Hãy mở tung cánh cửa tâm hồn, em sẽ nghe được nắng mai đang ca hát, gió chiều đang vi vu.  Em sẽ thấy được lá rừng đang vẫy gọi và em sẽ cảm nhận được tình thương của muôn loài dành cho em, một mối tình thanh thoát không cần điều kiện.

  Pháp Đăng

Vâng ,thưa Thầy, Con sẽ mở tung cánh cửa tâm hồn, lắng nghe từng tiếng gió rung động, thì thào lao xao, cảm nhận đươc tình thương yêu trong từng giot nắng ban mai, trong  vạn vật muôn loài , buông lơi hết những phiền não ....
Back to top
« Last Edit: 26. Aug 2010 , 15:33 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
Dzitgo
Gold Member
*****
Offline


Cạp cạp cạp

Posts: 1887
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #76 - 30. Aug 2010 , 09:21
 


Nghệ thuật sống khoẻ


...



Đức Đạt Lai Lạt Ma
Vị Thần Tượng Thời Nay



...


Hình 1: Phu nhân Tổng thống Pháp Carla Bruni-Sarkozy tươi cười lúc đuợc diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma.

1. Mở đầu

Trong thời gian qua, tác giả đã có duyên may được mời làm thông dịch viên Việt ngữ trong hai pháp hội lớn của ngài: một pháp hội tổ chức tại đại học Lehigh University trong tháng bảy, 2008 với đề tài "Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận [1]" ở tiểu bang Pensylvania và một pháp hội tháng tám, 2008 tổ chức tại tỉnh Nantes, Pháp quốc với bốn đề tài chính [2] nói về "Tánh Không" trong Phật giáo.

Sau hai pháp hội đó, tác giả trở về đời sống của mình thường ngày với một tâm tư xúc động và cảm tạ sâu xa. Ở mỗi pháp hội Đức Đạt Lai Lạt Ma đều đánh dấu trên tâm tư của mọi người lòng cảm phục vô vàn. Bài viết này không có ý tóm tắt về hai pháp hội mà chỉ có ý ghi lại lòng cảm xúc sâu xa đó dưới khía cạnh Ngài là vị thần tượng của thế giới ngày nay.

Ngoài giải thưởng Nobel hòa bình, ở tất cả mọi nơi trên thế giới, các vị lãnh đạo quốc gia, các trường đại học danh tiếng nhất đều tán thán và trân quý đến con người của Ngài qua những bằng tưởng lệ, huy chương hay công dân danh dự.

Với tác giả thì Ngài là vị thần tượng thời nay. Chữ thần tượng này không được dùng trong ý nghĩa thần thánh hóa, vì Ngài luôn luôn nói tôi chỉ đơn giản là một vị tỳ kheo Phật giáo.

Thần tượng trong ý nghĩa là Ngài thật sự sống cuộc đời đơn giản và bình dị, với hai bộ áo tỳ kheo, một đôi giép cao su nhật bản qua tất cả mọi lần giao tiếp chính thức với các vị lãnh đạo nguyên thủ của các cường quốc, như mới đây chúng ta có thể nhìn hình trên các báo chí đăng tải buổi diện kiến Ngài đã tiếp vị đệ nhất phu nhân Pháp quốc Carla Bruni trong bộ áo tỳ kheo và đôi giép nhật bản.

Hình Ngài thật là đơn giản bình dị như thế bên cạnh vị đệ nhất phu nhân Carla Bruni thật là sang trọng và chúng ta có thể nhận thấy rõ nụ cười nở trên đôi môi của bà Tổng Thống Pháp quốc, chứng tỏ là bà đã hoan hỷ như thế nào khi được ở bên Ngài.

Do đó chữ thần tượng ở đây không phải trong ý hướng thần thánh hóa, mà thần tượng vì con người đơn giản bình dị của Ngài đã ban cho mỗi chúng ta lòng hoan hỷ vô biên khi được sống bên Ngài, khi được nhìn sự bình dị và tấm lòng rộng lớn bao la của Ngài lúc Ngài nói câu:

Cho đến khi thế giới và các chúng sinh còn tồn tại,
Tôi xin nguyện tồn tại để phục vụ cho tất cả chúng sinh....

Đời sống của Ngài là cả sự bình dị và lòng chân thật như Ngài đã từng nói tại lần Ngài ghé thăm tu viện Ganden Ling của Dagpo Rinpoche tại ngoại ô Paris: "Điều khổ tâm nhất là phải đóng khuôn, làm vai trò giả tạo như thể mình là một vị đã đạt được một cái gì, mà cho dù có cố đóng vai trò như thế cũng không thể làm mãi mãi, vì chỉ một thời gian sau là sẽ trở thành vô cùng khổ sở...."

2. Đời sống bình dị và lòng chân thật của Ngài ban ra niềm hạnh phúc vô biên

Ở trong một thế giới hiện đại vô cùng của thế kỷ thứ 21 ngày nay, cả thế giới lao đầu vào trong cuộc sống tiêu thụ và chạy đua không ngừng nghỉ trong sự phung phí và tiện nghi.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng cảnh cáo và răn dạy là hạnh phúc không nằm trong các tiện nghi vật chất. Bởi vì càng có tiện nghi vật chất thì chúng ta càng phát triển trí thông minh và từ đó phát sinh những nhu cầu và đòi hỏi tìm kiếm về tâm linh.

Nếu chúng ta không nhận chân ra là những tiện nghi vật chất không thể giải quyết những vấn đề của tâm lý mà thể hiện chính yếu qua lòng bất an sợ hãi thâm căn cố đế của mình thì chúng ta sẽ chỉ càng ngày càng lâm vào những bế tắc của đời sống khi lao đầu vào các cuộc chạy đua hưởng thụ tiện nghi vật chất.

Thực vậy, khi chúng ta còn nghèo khổ, phải đầu tắt mặt tối để lo tìm giải quyết nhu cầu cơm áo thì những sự căng thẳng tâm lý không có cơ hội phát triển. Nhưng khi bụng đã được no đủ, có nhà cao cửa rộng, xe cộ tiện nghi thì những nhu cầu tâm lý và tâm linh phát triển mạnh mẽ hơn nhiều.

Thêm một điều nữa ta có thể thấy rõ là khi phải chịu các sự khổ đau tinh thần thì tiện nghi vật chất không giúp ta được nhiều gì để giảm thiểu các khổ đau đó. Nhưng khi chúng ta phải chịu khổ đau vật chất hay khổ đau thể xác thì một thái độ an nhiên điềm tĩnh sẽ giúp chúng ta vượt qua các khổ đau, đau đớn thể xác dễ dàng.

Như vậy thì tinh thần quan trọng hơn vật chất nhiều lắm, mặc dù các tiện nghi vật chất thực ra cũng có giúp ta phần nào trong đời sống. Nhưng trạng thái tinh thần của chúng ta mới thực sự là điều chính yếu để mang lại hạnh phúc lâu dài.

Như vậy, khi nhận ra điều căn bản đó, là thực sự chúng ta không cần nhiều nhặn gì lắm về đời sống vật chất, hai bữa cơm đơn giản một ngày và một ít quần áo ấm thân là đủ, thì chúng ta bắt đầu thực sự đi vào con đường tìm về hạnh phúc.

Chúng ta thực sự cần săn sóc đời sống tâm linh của mình nhiều hơn, để đi đến niềm hạnh phúc rất đơn giản trong sự tri túc vật chất và an vui của tinh thần. Đây là điều Ngài thường nhấn mạnh: hạnh phúc và an vui của tinh thần chỉ có thể phát triển qua lòng nhân ái từ bi, an hưởng trong niềm vui sướng khi mình nhìn thấy những việc làm của mình giúp cho những người khác đạt được an vui...

Nhưng thế nào mới là làm cho những người khác an vui... Mang lại an vui cho người có phải là ban cho họ những tiền bạc của cải hay sự thành công rực rỡ và quyền lực?

Trên thực tế, chúng ta nhận thấy là không phải như vậy. Tiền bạc của cải danh tiếng chẳng thể ban cho mọi người lòng an vui. Bởi vì nếu tiền bạc của cải danh tiếng quyền lực mang đến sự an vui thì có lẽ những vị vua chúa hay là các vị lãnh đạo nguyên thủ đều được an vui.

Trong khi ngược lại, chúng ta thấy những vị đó đều thường ăn ngủ không yên, lo lắng quá độ như ngồi trên lò lửa đốt, hoặc là làm việc quá độ và căng thẳng đến mức sinh ra bệnh tật như là đau tim và tiết ra nhiều chất cholesterol gây xơ cứng động mạch, tai biến mạch máu não và bại xuội.

Ngược lại, chúng ta sẽ hưởng nhiều sự an vui bên một người đầy đức hạnh mà lại thật là bình dị. Như là hình ảnh tươi cười của bà Tổng Thống Pháp quốc khi được diện kiến bên Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Chỉ cần được sống gần Đức Đạt Lai Lạt Ma để nhìn thấy đức hạnh và lòng nhân ái thật là sống động của Ngài sẽ mang lại niềm hoan hỷ tuyệt vời đó. Những điều tự mình mắt thấy tai nghe về lòng nhân ái và bình dị đó sẽ trở thành những bài học ghi tâm khắc cốt cho chúng ta, làm thành những bài học thân giáo [3] qua các hành động thực sự tự nhiên của Ngài. Trong hai pháp hội vừa qua đã có không biết bao nhiêu nhũng bài học sống động đó mà chúng ta có thể ghi chép lại một ít sau đây.


3. Lòng nhân ái và từ bi

Trong pháp hội tại Saint Herblain, tỉnh Nantes, một hôm Ngài đang thuyết giảng trên ngai, bỗng ngưng lại và chỉ vào hai vị nhân viên an ninh đang đứng bên dưới sân khấu và yêu cầu Ban Tổ Chức mang đến hai ghế ngồi cho các nhân viên đó vì Ngài nhận thấy họ đã đứng liên tục trong mấy ngày pháp hội để bảo đảm an ninh cho toàn thể hội trường.

Ngài nói là hãy mang cho họ ghế ngồi để được thoải mái trong việc làm của họ, và như thế họ sẽ có đầu óc tỉnh táo hơn để làm việc được vui vẻ và hữu hiệu hơn. Hai vị nhân viên an ninh sung sướng ngồi thoải mái và rất cám ơn Ngài, một cử chỉ tuy nhỏ, nhưng đã chứng tỏ là Ngài để ý và rất quan tâm đến niềm phúc lạc của người khác qua các sự để ý thật vi tế và chi tiết.

Một hôm khác, Ngài được ông thị trưởng tỉnh Nantes tên là Jean-Marc Ayrault mời đến tòa thị sảnh để dự tiệc chiêu đãi. Hôm ấy, ông thị trưởng vừa mới đọc diễn văn xong, đi xuống về chỗ ngồi của mình trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma lên nói vài lời với khán giả.

Ngài chưa kịp nói gì thì bỗng nghe ồn ào, ông thị trưởng kéo ghế ngồi chẳng ngờ vì lính quýnh thế nào mà kéo ghế quá ra phía sau cho nên chân ghế lọt ra ngoài sàn sân khấu và ông ta bị ngã nhào. Khán giả thấy cảnh hoạt náo của ông thị trưởng cũng bật cười.

Lúc ấy, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhanh nhẹn đi xuống và định đỡ ông thị trưởng lên thì các hộ vệ viên đã nâng ông đứng giậy. Nhưng Ngài cũng thân chinh mang lại một cái ghế và đặt ở giữa khán đài, đè nhấn xuống thử để xem có chắc không, rồi vừa cười vừa chỉ cái ghế và mời ông thị trưởng "an tọa!", và nói:

“Trong các buổi họp long trọng thế này tôi thuờng thấy không khí quá nghiêm trọng và hay cố tìm cách làm cho mọi người thư giãn vui vẻ hơn. Nhưng mà may quá, lần này thì tôi không cần cố vì nhờ ông thị trưởng đã chuyển đổi không khí thành thoải mái và vui hơn nhiều cho chúng ta”. Mọi người lại được dịp cười ồ lên và bầu không khí chuyển thành vui vẻ, rất là thân mật, không còn nghiêm trọng như trước

Lòng nhân ái và từ bi của Đức Đạt Lai Lạt Ma thật là vi tế, nhưng lại thật là đơn giản, không màu mè, không có tâm ý cố tạo, hoàn toàn "vô tâm" và "vô cầu", làm cho tất cả các người gần gũi Ngài đều cảm thấy tự nhiên, trừ bỏ hẳn các tâm cạnh tranh và giành giựt.

Con đường tu tập thực sự phải là tự “tạo dựng công đức mà không tạo dựng công đức, đó mới là thực sự tạo dựng công đức [4]”.

Đó là ý nghĩa của "vô tâm" và "vô cầu" trong tất cả các hành trì tích tụ công đức qua các hạnh từ bi nhân ái. Tích mà vô tâm vô cầu nên không có người tích, không có kẻ thọ báo công đức vì dù sao cũng đã hành hạnh Thập Hồi Hướng toàn bộ công đức đến mọi chúng sinh hữu tình. Cho nên khi chúng ta ở bên người tu tập mà "vô tâm" "vô cầu" thì sẽ cảm thấy vô cùng thoải mái hoan hỷ và cùng nhau hành trì để tất cả đều trọn thành Phật đạo.

4. Lòng bình dị và chân thật

Đức Đạt Lai Lạt Ma đi đâu cũng toát ra một tâm thức thực sự bình dị và chân thật. Sự bình dị và chân thật luôn được thể hiện qua các cung cách đối thoại và trả lời dí dỏm của Ngài đối với các câu hỏi của mọi người đặt ra. Trong cả hai pháp hội ở Lehigh University cũng như tại Nantes, Ngài đã cho một khoảng thời gian để trả lời các câu hỏi, và những câu trả lời của Ngài đã chứng tỏ tâm thức bình dị và chân thật của Ngài. Mọi người, ai cũng vô cùng thần tượng và thánh hóa Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đôi khi những câu trả lời của Ngài đã xóa những cách nhìn quá xa vời về Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Có một câu hỏi rất thú vị đã được đặt ra như sau: "Thưa Ngài, có khi nào Ngài mất lòng kiên nhẫn không (His Hollines, have you ever been loosing your patience) ?". Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mỉm cười và trả lời câu hỏi ấy qua một câu chuyện có thực về Ngài.

Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại: "Tôi có từng quen biết một vị phụ nữ người Mỹ và là một nhà báo của của tờ Nữu Ước Thời Báo (New York Time). Bà ta rất thích Phật giáo và hành trì theo Phật giáo. Một lần, bà ấy đã đến gặp tôi và hỏi: Khi ra đi thì Ngài để lại cho chúng con một cái gia tài gì? (What legacy you leave to us when you depart from this life?).

Tôi trả lời cho bà là tôi không cần phải nghĩ về gia tài để lại, vì như thế không đúng với giới nguyện của tôi, mà tôi chỉ hành trì đạo. Rồi bà ta lại hỏi câu ấy trong vài lần khác, và tôi cũng trả lời thêm nữa y như vậy. Sau đó bà lại đến và đặt một câu hỏi như thế, nhưng theo một kiểu khác, và lúc đó thì tôi đã không giữ được bình tĩnh nữa (nguyên văn: and I lost my temper) [5]".

Toàn hội trường bật cười lên ầm ỹ trước câu trả lời thật dí dỏm của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Câu trả lời thật bình dị và chân thật, thẳng thắn đến độ làm người nghe đôi khi cảm thấy thấy ngỡ ngàng, hồn nhiên và thú vị trước sự chân thật đó, ("và tôi đã không giữ được bình tĩnh ...and I lost my temper").

Tôi cũng ôm bụng cười lăn trước máy vi âm. Ở đây, bạn đọc thực sự cần phải sống ngay tại hội trường lúc đó mới hiểu được cung cách trả lời của Ngài, mới nhìn thẳng được vào tâm bình dị và dí dỏm của Ngài.Một sự chân thật tự nhiên thẳng thắn không hề mang cái tâm chê trách người đối diện, và nhất là không tự thần thánh hóa hay đóng vai thánh thiện, nói là mình không bao giờ mất bình tĩnh. Câu trả lời của Ngài chỉ như là một lời nhắc nhở thương yêu: hãy đừng chấp trước như thế, vì như vậy là si ngốc. Như người mẹ mắng yêu đứa con dại dột của mình: sao con lại dại ngốc thế, đâu cần phải lo lắng như vậy....

5. Lòng tôn trọng và hòa hài với các tôn giáo khác

Giữa lúc thế giới đi vào trạng thái phân hóa trầm trọng. Trước sự chia cách và bạo động tôn giáo qua những hành động của một nhóm quá khích Taliban đã đặt chất nổ tàn phá tượng Phật lớn, cao 150 bộ anh và cổ xưa đến 1700 năm trong vùng núi Hindu Kush của Afghanistan, Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn kêu gọi sự tôn trọng và hòa hài tôn giáo. Ngài vẫn thường tranh đấu cho Hồi giáo và luôn luôn tuyên bố:"Tuy có các khác biệt, nhưng tựu chung, tất cả các truyền thống tôn giáo đều có cùng một căn bản, đó là kêu gọi phát triển lòng thương, lòng nhân ái đến tất cả mọi người".

Trong cả hai pháp hội vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma đều tha thiết kêu gọi phát triển lòng tha thứ và hòa hài tôn giáo, tôn trọng tất cả các truyền thống tôn giáo khác nhau. Ở mọi nơi, Ngài luôn luôn khuyên bảo hãy tôn trọng và thông cảm lẫn nhau. Đức Đạt Lai Lạt Ma không bao giờ khuyến khích ai cải đạo. Ngài luôn luôn nói, hãy giữ truyền thông tôn giáo gia đình của quý vị, và tránh gây ra những sự xáo trộn, rối loạn tâm linh. Nhất là khi vào lúc cuối đời, ở trong tình trạng lâm chung mà bị khủng hoảng nguồn cội tâm linh (identity crisis) thì là một điều rất nguy hiểm cho thần thức người chết.

Điển hình nhất của lòng tôn trọng và hòa hài này là câu chuyện Đức Đạt Lai Lạt Ma thường kể trong các pháp hội.

Ngài nói: "Tôi có quen biết một người bạn Âu Mỹ tu trong truyền thống Thiên Chúa Giáo của giòng tu Phan Xi Canh, một giòng tu kín và thường hay nhập ẩn tu, để trầm tư mặc tưởng (thiền theo lối Thiên Chúa Giáo). Một hôm, trong lúc nói chuyện, tôi hỏi thăm là khi ông nhập ẩn tu như vậy để mặc tưởng thì ông thiền định về điều gì? Ông ta nói rằng chỉ để thiền định về lòng nhân từ (nhân ái-từ bi) [6].

Tôi thật là thích thú nhận ra rằng căn bản của các tôn giáo vẫn là lòng từ bi. Sau một thời gian quen biết và trao đổi các kinh nghiệm tu tập, ông ta càng ngày càng thích về Phật giáo. Rồi đến một hôm, ông đến gặp tôi nói rằng, thưa Ngài, tôi bây giờ đang tìm hiểu về Tánh Không. Tôi bèn cười và nói với ông ta: đấy không phải là chuyện của ông (that is none of your business)".

Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích là vì ông ta từ xưa đến giờ vẫn tu trong truyền thống tôn giáo hữu thần, nghĩa là đặt trọng tâm trên lòng tin vào đấng Thượng Đế Toàn Năng. Nếu bây giờ tìm hiểu vào Tánh Không của Phật giáo sẽ phải loại bỏ ý niệm và lòng tin vào đấng Thượng Đế, vì Tánh Không đồng nghĩa với Nhân Quả và Duyên Khởi, nói rằng không có đấng Tạo Hóa nào sinh ra mọi sự vật, mà tất cả chỉ là do nhân duyên, tùy thuộc vào nhau mà khởi sinh. Nếu tìm học thêm như thế, ông ta sẽ có nguy cơ bị mất lòng tin vào Thượng Đế và sẽ lâm vào tình rạng rối loạn tâm linh, đó là một điều rất nguy hiểm cho người tu sĩ.

Nhưng điều cực kỳ hay ở đây là Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khéo léo trả lời một cách thật là dí dỏm và bình dị: "đấy không phải là chuyện của ông (that is none of your business)". Và Ngài đã cười phá lên thật là thoải mái.

6. Tâm siêu thế gian và không màng đến quyền lợi chính trị

Trong một chương trình bình luận chính trị mới đây xảy ra trên đài truyền hình France 2 tại Paris, Pháp quốc, nhân lúc thời sự đang nóng bỏng về vấn đề Thế Vận Hội Quốc Tế [7] tại Bắc Kinh, liên hệ cả đến sự bất tôn trọng nhân quyền của và đàn áp Tây Tạng của Trung Cộng, một bình luận gia chuyên môn và nổi tiếng của Paris đã phân tích lý do tại sao Trung Cộng lại sợ hãi Đức Đạt Lai Lạt Ma như thế.

Ông ta đã giải thích cặn kẽ lý do tại sao mà Trung Cộng lại sợ hãi và nhất định không chịu công nhận quyền tự trị của Tây Tạng (Tibet autonomy), mặc dù Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ xin được có quyền tự trị và chấp nhận giải pháp Tây Tạng vẫn thuộc về nước Trung Cộng chứ không đòi độc lập thành quốc gia riêng rẽ. Đó là vì một lý do chủ yếu:

Đức Đạt Lai Lạt Ma không màng đến quyền lực thế gian. Ngài nói rằng một khi được công nhận quyền tự trị, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ từ chức nguyên thủ của chính phủ Tây Tạng và thiết lập một chính quyền hoàn toàn tự do dân chủ qua những cuộc bầu cử quốc hội và Thủ Tướng Tây Tạng. Còn Ngài thì sẽ tự mình rút lui về cương vị một tu sĩ Phật giáo đơn thuần và chuyên hành trì mà thôi.

Trung Cộng vốn là một nước đặt căn bản điều hành trên sự thống trị bằng đàn áp phi dân chủ. Những lần chính quyền Trung Cộng đã đàn áp đẫm máu trên chính người dân đồng bào của họ như vụ biểu tình của Thiên An Môn năm 1989 đã chứng tỏ điều đó.

Ngay cả trong lần Thế Vận Hội vừa qua, người ta cũng có thể thấy rõ sự điều hành của Trung Cộng đặt toàn diện trên hệ thống quân đội và công an để giữ sự thống trị trên dân chúng và áp đặt quyền hành. Trên các đài truyền hình, chúng ta đã thấy cảnh các người dân oan kêu khóc vì bị tước đoạt nhà cửa làm Thế Vận Hội mà không được bồi thường thỏa đáng.

Do đó chính quyền Trung Cộng rất sợ hãi lòng tôn trọng dân chủ không màng đến quyền lợi chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Vị bình luận viên trên đài truyền hình France 2 còn nói rằng, với đức hạnh và tinh thần siêu thế gian, không màng đến quyền lợi chính trị, nếu Đức Đạt Lai Lạt Ma thực hiện được quyền tự trị Tây Tạng sẽ làm khởi sắc lại phong trào tranh đấu cho dân chủ tại Trung Cộng, lôi kéo theo các phong trào đòi quyền tự trị khác của các vùng Tân Cương, vùng xứ Hồi, vùng Tráng tộc và Nội Mông.

Một vị Đạt Lai Lạt Ma trở về được xứ Tây Tạng tự trị, tranh đấu xây dựng cho nền dân chủ của Tây Tạng và không màng đến quyền lợi chính trị sẽ được tất cả các sắc dân Trung Hoa hướng về và chiêm ngưỡng, để từ đó sẽ khởi sắc những phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ mạnh mẽ hơn cả phong trào Thiên An Môn năm 1989.

Như thế, đó mới là điều Trung Cộng sợ hãi, Đức Đạt Lai Lạt Ma và các đức hạnh của Ngài, hơn bao giờ hết.

7. Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị thần tượng bình dị trong lòng chúng ta

Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị thần tượng của thời đại chúng ta, cái thời đại mà những giá trị của lòng nhân ái, của lòng vị tha đã bị đời sống tiêu thụ và vật chất đẩy vào quên lãng. Thời nay, tất cả đều hướng sự sống về lòng vị kỷ, cho cá nhân của riêng mình. Gia đình, cha mẹ, con cái đều quay cuồng trong cuộc sống chạy theo đồng tiền và sự thành công danh tiếng.

Thế nhưng, cho dù sống trong trào lưu tiêu thụ và vật chất đó, nhân cách của Ngài đã sáng chói qua bộ áo tu bình dị và đôi giép nhật bản cố hữu. Ngài đã nổi bật lên qua đời sống bình dị và lòng chân thật của mình khi đi khắp nơi trên thế giới thuyết pháp và tranh đấu cho nhân quyền, cho lòng nhân ái, lòng vị tha và tha thứ.

Mọi nơi đều hướng về Đức Đạt Lai Lạt Ma với lòng thành kính vô biên và chia sẻ sự tranh đấu bất bạo động cao quý của Ngài.

Một người bạn đã từng hỏi tôi: "Tại sao anh không đóng góp, làm chùa, in kinh sách cho Phật giáo Việt Nam mà lại làm việc tích cực và tu tập tích cực theo truyền thống Mật tông Tây Tạng và sùng kính Đức Đạt Lai Lạt Ma?"

Tôi trả lời: "Phật giáo giảng dạy giáo lý và hành trì để đạt giác ngộ. Nơi đâu có đấng giác ngộ thì mình hướng về nơi đó tu tập. Ngày xưa Đức Phật Thích Ca thành đạo và tất cả chúng ta bây giờ đều tu tập pháp của Ngài. Bằng chứng là chúng ta luôn luôn tụng đức Thích Ca là vị bổn sư qua câu Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Thích Ca cũng là người Ấn độ chứ có phải là người Việt Nam đâu? Là người xứ nào, đâu phải là điều ta nên phân biệt, tổ Huệ Năng ngày xưa có nói: Phật tánh đâu có phân biệt nam bắc".

Lần khác bạn tôi bảo là, có người nói một câu như sau: "Tôi tu theo truyền thống Việt Nam vì không thích hợp truyền thống Mật tông Tây Tạng với các màu sắc sặc sỡ hoa hoè hoa sói, và hỏi tôi nghĩ sao về câu này".

Tôi trả lời: "Một lần nữa, tu học Phật giáo là để đạt giác ngộ, do đó giác ngộ là điều chính yếu chứ không nên mắc kẹt vào những màu sắc để rồi quên mục đích chính là giác ngộ. Do đó, tuy màu sắc hoa hoè mà có giác ngộ thì cứ tu theo thôi, không nên chỉ vì kẹt thấy cái màu sắc đó mà bỏ cái cốt lõi là giác ngộ bên trong. Còn nếu không có màu sắc hoa hoè mà lõi bên trong không có giác ngộ thì tu theo cũng đâu có ích gì.

Tóm lại, giác ngộ mới là chính yếu, đừng quan tâm đến chuyện phụ (màu sắc) mà quên đi là mình đang đi tìm về giác ngộ. Không nên bị ngăn ngại vì chuyện phụ đó. Vả lại, theo tôi biết thì chính người nói câu không thích màu sắc hoa hoè đó cũng tu theo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, mà lại quên rằng chính bổn sư của mình là người Ấn độ và mặc quần áo hoa hoè của người Ấn độ thời xưa, và như thế đã tự mình mâu thuẫn với chính lập luận của mình.”

Và sự thực thì không thể nào phủ nhận: Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị thần tượng của thời nay. Thế giới hướng về vị thần tượng không vì thần thánh hóa, mà do sự ban phát niềm vui hạnh phúc khi được gần Ngài và sống với nhân cách cao quý đầy đức hạnh, nhưng lại thật là bình dị và chân thật của Ngài.


thanks.gif

Back to top
« Last Edit: 03. Sep 2010 , 13:01 by Dzitgo »  

...
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #77 - 30. Aug 2010 , 12:57
 
...

...

...



Hãy sống như một bông hoa




Mọi sự khởi đầu khi hạt giống được gieo trên đất. Dù muốn dù không, bạn cũng có mặt trên đời. Rồi như hạt giống ngày càng lún sâu, bám chặt đất như nền tảng, hấp thụ tinh hoa; con người cũng cắm sâu trong cội nguồn, trong một không gian và thời gian nhất định, tiếp thu văn hóa và truyền thống, lớn lên với tất cả những gì thân quen bao bọc, đất không là đất lạ, đời cũng không xa lạ với người.

Trong lòng đất hạt giống âm thầm mọc, từ tối tăm vươn ra ánh sáng, đẩy bao chướng ngại, bao gò bó chật hẹp để góp mặt với đời . Nó ngỡ ngàng khám phá ra thế giới chung quanh và bầu trời rộng lớn, thấy rõ tầm vóc bé nhỏ, yếu đuối và giới hạn của mình, nhưng vẫn tin tưởng vì có niềm hi vọng và sức sống bên trong, luôn luôn thôi thúc mình triển nở, cho tới ngày thành đạt khai hoa.
Cây trước lúc đơm hoa, còn chịu bao cắt tỉa đớn đau để nên hoàn thiện, nhận lãnh sự bổ sung của bao phân tro, nước tưới để vươn cao và đứng thẳng trong đời . Con người cũng vậy : nhờ giáo dục của gia đình, học đường và xã hội, cùng nỗ lực bản thân, bạn đã loại bỏ bao nết xấu, cắt tỉa bao cá tính gây phiền toái, chặt đi bao vướng bận thừa thãi, bao lo toan vụn vặt để sống thành toàn. Bạn cần cả những câu khen ngợi lẫn những lời phê bình chỉ trích đúng đắn để lớn lên, bạn cần gió lay để biết mình đang đứng vững và cố cắm sâu hơn trong đất sống, bạn cần ngày nắng để sống cứng cát và cũng cần đêm về để nghỉ ngơi lại sức. Bạn cần gia đình, bạn bè bên cạnh để nương tựa trong mưa gió cuộc đời . Vào một buổi sáng đẹp trời nào đó, bạn đã là một bông hoa.

Bông hoa sống rất tự nhiên, nó mở lòng đón nhận tất cả : sương mai, ánh nắng, gió xuân, mưa lũ, và cả đêm đen; không tham lam, không kiểu cách, không phàn nàn, không hãi sợ. Với tất cả vẻ đẹp duyên dáng, bông hoa biết mình hiện diện là hiện diện cho đời. Người ta dùng hoa làm ngôn ngữ trong niềm vui cũng như trong nỗi buồn , nói lên tâm hồn , ý nghĩ :

Hoa hồng biểu tượng cho tình yêu, hoa huệ tượng trưng cho sự khiết tịnh, hoa sim tím nhắc đến lòng chung thuỷ….Nếu bạn sống như một bông hoa, bạn thật có ý nghĩa đối với người khác, đem lại niềm vui, sự an ủi, nâng đỡ người khác. Bông hoa thấy mình giá trị vì đã làm cho đời có giá trị : dấu chỉ tình yêu, tình thân thiện, nét thẩm mỹ…. Bông hoa nào còn muốn gì hơn ?

Cùng tươi nở trong một khu vườn, mỗi bông hoa có một vẻ đẹp, một hương thơm, nên không so sánh mình với những bông hoa khác : hoa hồng không ganh tị với màu vàng rực rỡ của hoa cúc, hoa dạ lý không khoe mình ngát thơm hơn hương của hoa quỳnh. Chúng dễ chung sống với nhau vì chấp nhận đứng bên cạnh nhau, vì biết mình có thể bổ túc cho nhau để vườn hoa là vườn hoa muôn sắc. Vườn hoa càng lớn, càng nhiều loại hoa, thì như càng đẹp và càng nhiều khách muốn ngắm nhìn. Kìa những hội hoa xuân với muôn hồng nghìn tía, bạn muốn là bông hoa lẻ loi một mình hay thấy cần phải dấn thân trong ngày lễ hội chung ?
Bông hoa nở rộ thật vô tư, chẳng bao giờ kênh kiệu khất lần, hay hờn dỗi để mãi khép kín. Rồi khi đã tươi nở, hoa không quan tâm đến việc được nâng niu, nhìn ngắm hay không. Và nhỡ ra có bị bóp nát, hoa vẫn toả hương thơm trên tay người đã vò xé mình. Bông hoa như không biết đến giận dữ, trả thù, cho dù có bị thiệt thòi cũng vẫn hành động theo hướng tích cực. Bạn cũng vậy, tôi không biết có bao nhiêu khinh thường đã làm bạn tủi hổ, bao nhiêu bất công mà bạn đã âm thầm gánh chịu, có bao nhiêu nước mắt bạn đã đổ ra trong đau khổ, có bao oan ức đắng cay mà bạn đã phải cắn chặt môi..Nhưng tôi có thể biết được sự hiện diện và tấm lòng quảng đại của bạn khi cảm được hương thơm . Dù sao, những vấp ngã đã làm bạn thêm vững bước, những mất mát làm bạn thêm quý những gì đang có, những đau buồn làm bạn thêm trân trọng giữ gìn niềm vui dù nhỏ bé nhất, những thử thách rèn bạn thêm kiên nghị, những xúc phạm dạy bạn tập tha thứ, những thù ghét mời gọi bạn sống yêu thương. Chẳng có gì làm khó được bạn giữa một cuộc đời đang cần những con người chân chính như bạn, những bông hoa dám sống để toả hương thơm cho người .

Đời người như hoa nở, kiếp hoa đôi khi thật giống kiếp người, một số kiếp không được đo bằng thời gian mà bằng giá trị sống. Bông hoa kia dù biết sẽ "sớm nở tối tàn "vẫn cứ ngang nhiên tươi nở, trao tặng vẻ đẹp và hương thơm, được ngần nào thì hay ngần nấy, với tất cả khả năng và sức lực của mình. Bạn cũng vậy, hãy cống hiến cho đời tất cả những gì bạn có với tấm lòng yêu thương. Trên đất sống của mình, hãy cho những người chung quanh những điều tốt đẹp nhất.

Cuộc sống sẽ dễ chịu biết bao khi có nhiều hoa đẹp tỏa hương thơm, khi có những người quyết sống như những bông hoa trong vườn hoa muôn sắc mầu của nhân loại, để trao ban cho thế giới những giá trị nhân bản huy hoàng.

Hoài Nam
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #78 - 31. Aug 2010 , 21:01
 
Ngàn năm, giọt nước có buồn không


Giác Ngộ - Căn phòng lạnh. Tôi bước xuống nhà mở thêm chút sưởi và pha một tách trà cho ấm. Trăng sáng ngoài cửa sổ. Ðêm nay lạnh nên bầu trời thật trong, không một chút mây. Những vì tinh tú của dãy thiên hà trên cao trông thật tỏ, tôi cảm tưởng như mình có thể với tay lên chạm được. Trời cũng đã khuya, tôi đi thu dọn lại mấy quyển sách còn đọc dở dang, đặt lại trên kệ cho yên một ngày, sắp xếp lại những cây viết trên bàn cho gọn.

...


Tôi thích viết mực nên cứ hay mua. Những dòng chữ viết bằng mực trên trang giấy trắng là những ý nghĩ trở về nằm yên trong giờ phút hiện tại. Như mây hóa thành mưa về đọng lại trên núi cao làm hồ nước trong phản chiếu ánh trăng xanh. Mây làm sao có thể làm sáng được bóng trăng phải không bạn, nó phải chuyển hoá thành hồ nước lặng yên mới được.

Ánh trăng mùa đông


Ánh trăng dường như sáng hơn vào những đêm mùa đông. Ánh trăng màu trắng xanh. Có những đêm sau giờ ngồi thiền, bước đến cửa sổ nhìn xuống vườn, thấy những bóng cây đổ dài trên sân tôi cứ ngở là mình quên tắt đèn ngoài hiên.

Bạn có bao giờ đi dạo trên một con đường làng vào những đêm trăng sáng chưa?  Những giây phút ấy, ta cảm thấy được sự sống mãnh liệt của thiên nhiên.  Có lần tôi đi dạo với người thân trên một con đường quê. Không gian ở vùng xa thành phố thật yên tĩnh, và trăng thật sáng. Ði giữa thiên nhiên trong đêm, dường như thính giác của ta trở nên bén nhạy hơn. Tôi có thể nghe được âm thanh của lá, của mây, của gió, của sự sống trong cây cỏ. Quen sống giữa phố thị, bị giới hạn trong bốn bước tường, bạn biết không, chúng ta vô tình cô lập sự sống của mình lại mà không hay. Trong cuộc vô thường của đời sống, có bốn mùa thay đổi, có chuyện tử sinh, có những ngày mưa và tháng nắng, được nắm tay đi với người thân thương trong những bước chân thảnh thơi, là một hạnh phúc lớn. Và trên đầu chúng tôi còn có ánh trăng xưa.

Hạnh phúc bao giờ cũng có mặt, nhưng chừng như khi lớn lên rồi thì khả năng tiếp xúc với hạnh phúc của ta cũng bị giới hạn đi. Có lẽ vì ta có nhiều nỗi sợ hơn khi phải đối diện trước một cuộc sống quá nhiều thay đổi. Mà thay đổi thường có khuynh hướng đem đến những mất mát và khổ đau.  Ðức Phật dạy, cuộc đời là khổ đau. Nhưng ngài cũng nói rằng ta vẫn có thể sống hạnh phúc và an lạc, dẫu ở giữa một cuộc đời khổ đau ấy, vì những gì ta nhìn chưa chắc là những gì ta thấy.

Chiếc lá thu xanh


Mấy tháng trước đây trời còn là mùa thu. Khu rừng nhỏ cạnh nhà và con đường đi đến sở là một thế giới của màu sắc tuyệt đẹp. Tôi nghĩ mỗi chiếc lá đều có một màu sắc cá biệt mà không thể có một chiếc lá thứ hai giống như vậy, trong số vạn ngàn chiếc lá. Mấy hôm nay trên con đường thiền hành mỗi trưa, tôi vẫn thỉnh thoảng tìm thấy một vài chiếc lá thu, vẫn còn mới, chưa phai, nằm yên trên tuyết, dưới những cội cây lớn.

Bạn biết không, người ta nói vào mùa thu những chiếc lá mới bắt đầu hiện rõ màu sắc thật sự của chúng. Những màu sắc rực rỡ cam, vàng, đỏ, tím... mới chính là màu thật của lá.  Màu xanh mà ta thấy vào mùa xuân, mùa hè, là do chất diệp lục tố (chlorophyll) tạo nên nhờ sự quang hợp (photosynthesis) của ánh sáng mặt trời. Vì cường độ của màu xanh ấy quá mạnh nên nó che lấp đi màu thật của lá. Vào mùa thu, khi ánh sáng mặt trời yếu đi, khi cây không còn đủ sức sản xuất chất diệp lục tố nữa, màu xanh của nó sẽ bị phai mờ và màu sắc thật của những chiếc lá bắt đầu hiển lộ. Trời thu đẹp là nhờ có trăm ngàn chiếc lá biết phơi bày màu sắc chân thật của chúng. Bạn biết không, những màu sắc rực rỡ ấy lúc nào cũng có mặt, chứ không phải chỉ chờ đến mùa thu, nhưng chỉ vì chúng bị che khuất bởi màu xanh của mùa hè mà thôi.

Mấy tháng trước trời vẫn còn thu, tôi đi dạo trong thiên nhiên giữa một thế giới của ngàn màu sắc. Màu sắc bay trong không trung, màu sắc trải đường đi, màu sắc phủ mặt hồ, màu sắc trôi trong đáy tách trà thơm.

...


Tôi nhớ mở đầu tác phẩm Ana Karenin, văn hào Leo Tolstoy viết, "Những gia đình hạnh phúc thì đều giống như nhau, nhưng trong mỗi gia đình khổ đau thì không có khổ đau nào giống với khổ đau nào hết."  Tolstoy là một đại văn hào, ông có một cái nhìn rất sâu sắc về cuộc đời.  Có lẽ trong cuộc đời, ông đã chứng kiến quá nhiều tình cảnh khổ đau mà hạnh phúc thì chừng như quá giới hạn. Nhưng bạn biết không, tôi không nghĩ như vậy. Tôi muốn viết là, "Trong cuộc đời này những khổ đau có thể giống như nhau, nhưng mỗi hạnh phúc đều rất đặc biệt và kỳ diệu theo một lối riêng của nó."

Bạn hãy bước ra ngoài một sáng mùa thu, sau một cơn mưa sớm, nắng lên tan sương mù, có tiếng lá rơi trên lá, màu sắc trên màu sắc, mỗi tờ lá là một vẽ đẹp thiên nhiên rất công phu và nhiệm mầu, không thể so sánh được. Nhưng cuộc đời, nhiều khi ta cứ ngỡ chúng chỉ có mỗi một màu xanh tầm thường mà thôi!

Sự sống rộng lớn


Chắc bạn cũng còn nhớ câu chuyện về cô Kisagotami. Kisagotami là một thiếu phụ còn trẻ, vừa mất một đứa con chưa đầy một tuổi.  Trong cơn đau khổ cùng cực, cô cứ ôm chặt xác đứa con trong lòng và đi khắp nơi, tin rằng sẽ có một phương thuốc làm con mình sống lại. Dân làng cho rằng có lẽ cô vì quá buồn khổ nên đã hóa điên, họ trốn tránh cô. Có một người thấy vậy thương hại, đến khuyên cô hãy tìm gặp đức Phật, ngài sẽ giúp cho. Khi gặp đức Phật, Kisagotami kể lại tình cảnh của mình và cầu xin đức Phật làm cho đứa con yêu dấu được sống lại.  Ðức Phật từ bi nhìn cô bảo, "Ta biết có một phương cách, nhưng cô phải xin được cho ta một hạt cải từ một căn nhà nào mà trong gia đình chưa từng có người chết. Cô xin được rồi mang về đây, ta sẽ làm cho con của cô sống lại." Cô nghe lời đức Phật, đi vào làng tìm đến mỗi nhà. Nhưng nhà nào cô gõ cửa hỏi cũng đều có người đã qua đời. Rồi một buổi sáng cô chợt hiểu! Căn nhà mà cô muốn tìm, nó không có thật trên cuộc đời này. Cô đi vào rừng chôn xác đứa con mình và trở lại gặp đức Phật. Ðức Phật nói, "Cô đừng bao giờ nghĩ là chỉ có riêng mình mới phải đối diện với những khổ đau, cho dù nó có to tát đến đâu. Vô thường là luật tự nhiên của cuộc sống, không một ai có thể tránh được."  Và Kisagotami đã trở thành một nữ đệ tử lớn của Phật.

Khổ đau là một sự thật. Ta không nên và không thể nào chối bỏ sự thật. Nhưng ta cũng đừng bao giờ tự cô lập và cá nhân hóa khổ đau của ta, và giữ nó cho riêng mình.  Kisagotami nhờ thôi nắm giữ khổ đau của mình, cho nó là duy nhất, là cá biệt, mà cô đã được giải thoát.  Có những khổ đau rất to tát, nó có thể đè nát ta, nhưng bạn biết không, cuộc đời này rộng lớn hơn thế.  Sự sống này có thể dung chứa hết tất cả mọi khổ đau, nếu ta có khả năng nhìn sâu sắc và mở rộng được con tim của mình.

Tối nay tôi có đi nghe một nguời quen nói chuyện về vấn đề sống hạnh phúc. Chị chia xẻ với chúng tôi về kinh nghiệm làm sao ta có thể sống hạnh phúc giữa một cuộc đời bận rộn và khó khăn. Có nhiều cách để ta chuyển hóa khổ đau. Ta có thể đối diện thẳng với chúng, hoặc ta có thể cứ tiếp tục vun trồng hạnh phúc của mình. Mà tôi hiểu chị, tại sao ta lại phải nói đến khổ đau trong khi ta có thể nói đến hạnh phúc, phải không bạn! Cuộc sống này to lớn hơn những khổ đau có mặt. Mặc dầu nhiều lúc ta vẫn chưa có khả năng ý thức được sự thật ấy.

Ngoài trời đã khuya. Trăng lên cao qua những nhánh cây mùa đông khô nhỏ. Tôi thắp một ngọn nến. Một ngọn lửa nhỏ vàng yên lặng. Trên đầu tôi có vạn ngàn vì tinh tú hiện hữu. Bạn biết không, người ta nói cơ thể của ta cũng được làm bằng cùng như những nguyên tố cấu tạo nên dãy thiên hà kia!  Sự sống này đâu có giới hạn.

Giọt nước có buồn không?


Có lần tôi được nghe một bài hát của Trịnh Công Sơn với những ý lạ, "Biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?  Biển sóng đừng xô ta, ta xô biển lại sóng nằm đau!" Ông kể, ông viết bài đó do cảm hứng khi nghe tụng câu kinh Bát Nhã "Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha." Ông giải thích ý mình, "Tuy là do cảm hứng bắt nguồn từ câu kinh, nhưng nó không nương tựa gì câu kinh cả. Tôi muốn nói, sống trong cuộc đời, ta đừng nuôi thù hận, đừng có ác ý trong cuộc tình. Ðừng để trong tình thương có bóng dáng thù địch, của lòng sân hận. Sóng xô ta, ta xô lại sóng. Biết bao giờ mới đến được bờ bên kia của tịch lặng, của bình an!" Ông nói về những cuộc tình, mà cuộc đời cũng thế, bạn có nghĩ vậy không?  Vì cuộc đời cũng được làm bằng những mối liên hệ giữa ta với người chung quanh. Mà nếu mỗi lần "sóng xô ta" rồi "ta xô lại sóng", thì biết bao giờ biển khổ này mới được yên, tâm hồn này mới được tĩnh lặng phải không bạn!

Tôi nghĩ sự tu tập trước hết là để đem lại cho ta một tấm lòng. Một tấm lòng, một con tim rộng lớn, không nhỏ nhen, không nghi kỵ, không xô đẩy nhau. Một tấm lòng không cô lập, không cố chấp. Một tấm lòng vững chãi và thảnh thơi có khả năng che chở và soi sáng ta giữa cuộc đời. Với tấm lòng rộng mở ấy, mọi khổ đau sẽ được chuyển hóa.

Tôi có thể nói cho bạn nghe về sự cần thiết của sự đổi thay và vô thường trong cuộc sống. Tôi có thể nói về một thực tại nhiệm mầu. Tôi có thể kể cho bạn nghe làm sao ta có thể tiếp xúc được với hạnh phúc, trong khi hiện tại là khổ đau....Nhưng tôi nghĩ chữ nghĩa thì bao giờ cũng quá dễ dàng, và nhiều khi còn là thừa thãi!  Tôi vẫn còn đang thực tập những gì mình đã được dạy. Có những ngày thân tôi đau, tâm tôi bất an, hạnh phúc dường như là chuyện của hôm qua. Những ngày ấy, tôi bước ra ngoài, tập đi thiền hành trên con đường nhỏ, nhìn trời xanh mây trắng, có những đàn ngỗng trời bay ngang qua kêu vang không trung. Tôi tập nương tựa vào sự vững vàng của con đường mình đi, vào trời xanh mây trắng, vào hạnh phúc của những người chung quanh. Hạnh phúc đâu phải chỉ có mặt trong một không gian hoặc thời gian nào giới hạn của riêng tôi! Nó rộng lớn hơn thế. Sự sống của tôi và bạn không có một đoạn cuối, dầu khổ đau hay hạnh phúc. Nó là một tiến trình tiếp tục mà ta có thể bắt đầu lại bất cứ một lúc nào!

Ðêm nay trăng sáng yên ngoài cửa sổ. Trong căn phòng viết nhỏ của tôi có một vùng ánh sáng nhỏ tĩnh lặng.  Cho rằng cuộc đời này là khổ đau, hoặc hạnh phúc, cũng còn là vội vàng và giới hạn quá. Trên bàn viết, tôi có chép lại một bài thơ của bác Ngọc Quế in trong tập sách bác gởi tặng nhà hôm nào:

Ngàn năm,
Giọt nước có buồn không
Sao vẫn long lanh
Dưới ánh hồng
Trên cánh sen vàng
Ai biết được
Ngàn năm
Giọt nước có buồn không.


Ðêm đã khuya. Tôi thổi tắt ngọn nến trên bàn. Một làn khói tỏa nhẹ dưới ánh trăng xanh.

Nguyễn Duy Nhiên
Back to top
 
 
IP Logged
 
Dzitgo
Gold Member
*****
Offline


Cạp cạp cạp

Posts: 1887
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #79 - 03. Sep 2010 , 12:59
 


Nghệ thuật sống khoẻ


...




BỨC TRANH ĐỜI NGƯỜI



Một hoạ sĩ vô danh thời Trung Cổ tóm tắt đời người thành 4 bức tranh xếp bên cạnh nhau.
Bức tranh tuổi thơ. Không gì đẹp và thanh thản cho bằng tuổi thơ. Một em bé hồn nhiên, vô tư ngồi trên một chiếc ghe buồm vừa nhổ neo ra khỏi bờ... Em bé nhìn theo sóng nước không sợ hãi bởi vì người đang cầm bánh lái là một thiên thần. Bóng đen đang ngủ một cách dịu hiền đằng sau bánh lái.
Bức tranh tuổi thiếu niên. Người ta bỗng thấy cậu bé trở thành một trang thiếu niên đang đứng nhìn chân trời xa tắp với những háo hức trước những điều mới lạ... Vị thiên thần vẫn còn cầm tay lái, nhưng sóng đã bạt đầu và bóng đen đã thức giấc.
Bức tranh tuổi trưởng thành. Bầu trời đã trở nên ảm đạm. Sóng gió ập phủ tứ bề. Bánh lái đã nằm trong tay của bóng đen. Vị thiên thần đã bị trói chặt trong một góc. Người đàn ông đã phải dùng tất cả sức lực của mình để chiến đấu, để chiếc ghe không bị lật úp...
Bức tranh tuổi già. Người ta nhìn thấy m ột cụ già đang ngồi ung dung giữa chiếc thuyền. Sóng yên, gió lặng, mặt trời xuất hiện trở lại. Vị thiên thần đã dành lại được bánh lái, còn bóng đen thì bị trói chặt đằng sau.
[Sưu tầm]


Đời là một cuộc hành trình và là cuộc chiến gay go. Mà đích đến có thể là bến yên hàn mà cũng có thể là vực thẳm của chết chóc. Có thể là hạnh phúc hoặc đau khổ, là bình an hay bất hạnh, là thành công hay thất bại, là khoẻ mạnh hay yếu đau, là giàu sang hay nghèo túng, là thánh thiện hay tội lỗi…
Hành trình này chẳng ai nói trước được, ngoài ơn trên và chính bản thân mỗi người đầu tư cho tương lai, cho cuộc đời mình ra sao.
Đời là một chuyến đi. Hướng đi của cuộc đời tuỳ thuộc ở sự định đoạt của mỗi người. Con đường dẫn đến hư đốn luôn rộng thênh thang. Con đường dẫn đến sự sống là một con đường chật hẹp, đòi hỏi nhiều chiến đấu...
Sự tốt lành và thánh thiện là một ơn Chúa ban, nhưng mỗi người phải tin tưởng và khiêm tốn đón nhận với lòng yêu mến, và gắng công thực hành, thì ta mới thấy có hiệu quả. Phải đầu tư thời gian, sức khoẻ, tiền bạc và trí khôn; phải chiến đấu và kiên trì vượt khó, thì mới mong có kết quả tốt đẹp.
Ở đời, có rất nhiều cạm bẫy đòi ta phải sáng suốt, nhạy bén mới phát hiện và có cách đối phó.Chúng như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé trong cuộc sống của chúng ta. Cạm bẫy có thể từ bên ngoài, nhưng nhiều khi lại phát xuất từ trong tâm hồn con người.
Vũ khí để chiến thắng chính mình chính là cầu nguyện. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài: chỉ có ăn chay và cầu nguyện các con mới chiến thắng được loài quỷ này...
Tương lai của ta ra sao, tuỳ thuộc vào chọn lựa và quyết định của ta hôm nay ra sao.

THANH THANH

thanks.gif


Back to top
« Last Edit: 03. Sep 2010 , 13:03 by Dzitgo »  

...
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #80 - 11. Sep 2010 , 15:45
 


Nghệ thuật sống đời hạnh phúc


...



Dala Lama (Phần 1, Ch.1)





Trích trong: Chương 1 – Sách: Nghệ Thuật Sống Đời Hạnh Phúc – của Dalai Lama
Đánh máy: Huỳnh Hoa – PD.Viên Lâm

Phần 1
Đó thực sự là một ngày dài dành cho Dalai Lama. Ngay khi Người vừa hoàn tất bữa điểm tâm đạm bạc của mình và dùng trà vào lúc 7:30 sáng, khi ấy Người đã trải qua bốn giờ đồng hồ thức giấc làm việc, hoàn tất thời gian biểu chặt chẽ của mình, gồm có đọc kinh, nghiên cứu và thiền định. Sau bữa điểm tâm Người bắt đầu công việc thường ngày của mình và một loạt những công việc trong ngày đang đợi Người: gặp gỡ hết người này đến người khác, đón tiếp một sĩ quan liên lạc thuộc chính phủ Ấn Độ, gặp gỡ vị thầy tăng dẫn đầu của một trong số những giáo phái thuộc Phật giáo Tây Tạng, gặp gỡ Tổng thống Nga, rồi đến một viên chức tha hương người Tây Tạng và nhiều thành viên thuộc văn phòng của Người. Và trong số này có những cuộc gặp gỡ cá nhân, tôi đã từng chứng kiến hình ảnh Người vui mừng đón tiếp những người Tây Tạng tha hương mới đến Ấn Độ. Họ đã thực hiện một chuyến đi gian khổ vượt qua dãy Himalayas bằng tất cả những phương tiện mà họ có thể tìm được, nếu họ may mắn thì họ có thể tìm được một chiếc xe buýt cũ kỹ nào đó, hoặc họ có thể quá giang những chiếc xe tải mục nát.


...



Một số đã phải đi bộ vượt qua biên giới gồ ghề chông gai, quyết tâm vượt qua những dãy núi cao ngất trời. thỉnh thoảng một đứa bé có thể bị mất một ngón tay hoặc ngón chân – do thời tiết quá sương giá. Nhiều người đến đây không một đồng xu dính túi, cơ cực nghèo đói trong trang phục chuba (loại trang phục truyền thống của Tây Tạng) nhàu nát và bẩn thỉu sau một chuyến đi dài. Những gương mặt già nua bởi sương gió và điều kiện khí hậu khắc nghiệt, mọi người đều thể hiện những đau khổ vô kể, tâm hồn chai sạn qua những năm tháng bị ngược đãi bởi người ngoài. Tuy vậy, tâm hồn họ như sống lại khi được trông thấy mặt Dalai Lama, giấc mơ đổi đời của họ, niềm hy vọng trong họ như chợt bùng lên khi được gặp gỡ Dalai Lama. Người trao cho họ, cả người trẻ lẫn người già, những lời hy vọng và khuyến khích, từ “Giáo dục là chìa khóa tiên quyết để thành công” cho đến “Các anh, là đàn ông, cần phải cẩn thận khi ra ngoài quan hệ với gái mại dâm – các anh có thể bị mắc bệnh đấy”.
Cuối cùng, vào lúc 2:00 chiều trong ngày của Người. Và đó là cuộc hẹn với tôi. Tôi được Người sắp xếp cho vài giờ đồng hồ vào buổi chiều để cộng tác cùng Người viết nên cuốn sách này, và tôi đã có mặt ở đây để trao đổi. Các cuộc thảo luận của chúng tôi không giống như những cuộc trò chuyện thân mật khác. Thực ra, tôi cũng không phải gây khó khăn cho Người lắm chúng tôi trang cãi nhằm hòa hợp giữa những triết lý Tây phương và Đông phương, tôi đặt ra vô số những câu hỏi khác nhau, trong số đó có một câu hỏi được Người cho là ngớ ngẩn hoặc không thể trả lời được, và chúng tôi cũng thường xuyên đùa tếu với nhau.
Đứng bên ngoài hành lang phủ đầy hoa giấy của Người, trong khung cảnh là những dãy núi Dhauladhar hùng tráng thuộc miền Bắc Ấn Độ, Dalai Lama chào đón tôi một cách nồng nhiệt khi Người dắt tôi vào trong nhà. Trong suốt hai mươi năm qua, căn phòng của Dalai Lama hầu như không thay đổi. Những bức tranh truyền thống của Tây Tạng, loại thanka, được treo rải rác trên những bức tường màu vàng xám, tại một góc phòng là bệ thờ được trang trí công phu, bên trong là một bức tượng Phật, một tấm bản đồ Tây Tạng lớn được dán lên bức tường đối diện. Thậm chí ngay cả những món trang trí nội thất cũng vẫn không thay đổi, ngoại trừ có lẽ chiếc trường kỷ đã được bọc lại.
Tôi cởi bỏ bao da chiếc máy tính xách tay của mình và dò dẫm tìm kiếm máy ghi âm của mình, chúng tôi ngẫu nhiên nói về những hoạt động của Người và những cuộc gặp gỡ của Người ở những ngày trước đó. Dalai Lama thường sắp xếp cuộc gặp với tôi vào khoảng cuối ngày của mình, vì thế tôi tha thẩn trong phòng khách để chờ đợi đến giờ gặp Dalai Lama, tôi thường có cơ hội quan sát những người đếm tìm gặp Dalai Lama. Vào ngày hôm ấy, tôi có ấn tượng với sự đa dạng về những người đến tìm gặp Dalai Lama, những người đếm tìm gặp Dalai Lama là những người đến từ mọi nơi trên thế giới.
Khi bắt đầu buổi thảo luận của mình, tôi nghĩ về điều này, và tôi nói: “ Ngài biết đấy, tôi không thể không có ấn tượng về sự đa dạng về những người đến tìm gặp ngài, mọi người ở mọi ngành nghề, mọi người ở mọi công việc. Và tôi đã suy nghĩ nhiều về việc ngài làm cách nào để có thể tham gia mọi loại hình hoạt động như thế. Vì thế, tuần này tôi muốn tập trung vào chủ đề công việc…”.
“Vâng. Tốt thôi”. Dalai Lama gật đầu.
“Và vì tuần này chúng ta sẽ nói về công việc, tôi hơi tò mò một chút, ngài nghĩ rằng đâu là công việc chính yếu của mình?”
Dalai Lama trông có vẻ bối rối. “Ý anh muốn hỏi điều gì?”
Tôi cũng bối rối vì không hiểu sao Người lại tỏ ra bối rối với câu hỏi này. Đây là một câu hỏi đơn giản thôi mà.
“Ồ, ở Tây phương”, tôi giải thích, “khi ngài gặp gỡ một người nào đó, câu hỏi đầu tiên ngài hỏi người lạ mặt đó là: “What do you do?”, câu hỏi này có nghĩa là, ‘Bạn làm nghề gì? Công việc của bạn là gì?’. Vì thế, nếu ngài gặp gỡ một người hoàn toàn lạ mặt và họ không biết ngài hoặc chưa từng bao giờ nghe nói về Dalai Lama và họ thậm chí còn không biết ngài là một thầy tăng, thì họ cũng xem là một người bình thường và họ sẽ hỏi ngài, ‘Ngài làm gì để kiếm sống?’, khi ấy ngài sẽ đáp lời như thế nào?”
Dalai Lama suy nghĩ một lúc trong im lặng và cuối cùng Người nói. “Không gì cả. Tôi không làm gì cả”.
Không gì cả? Tôi đưa mắt nhìn trừng trừng trong ngạc nhiên, còn Người lẩm bẩm với chính mình. “Nếu bất chợt tôi được người khác hỏi câu hỏi này thì có lẽ đó chính là câu trả lời của tôi. Không gì cả, tôi không làm gì cả”.
Không gì cả? Tôi không tin thế. Rõ ràng Người đã làm việc cật lực như mọi người đã biết, thậm chí là cật lực hơn mức bình thường rất nhiều. Năm ngoái, khi cùng tham gia chuyến rao giảng của Người tại Hoa Kỳ, tôi đã chứng kiến hình ảnh Người làm việc cật lực liên tục trong nhiều vai trò khác nhau: khi là một chính khách, Người đã gặp gỡ Tổng thống George W. Bush, thư ký liên bang Colin Powell, các Thượng nghị sĩ và các thành viên của Quốc hội. Khi là một người giảng dạy, Người được mến mộ vì là một học giả uyên thâm về lĩnh vực triết lý Phật giáo, Người dẫn giải các chi tiết về vô số những chủ đề khác nhau với mức độ sâu sắc lạ thường. Khi là người nhận giải Nobel Hòa bình người liên tục vận động không ngừng nghỉ vì nền hòa bình của thế giới cũng vì nhân quyền, Người đã tham gia hàng chục ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn những buổi rao giảng trên toàn thế giới. Là một nhà lãnh đạo tôn giáo Người luôn cố gắng tìm cách hòa hợp mọi tôn giáo với nhau, Người đã gặp gỡ tiếp xúc những nhân vật tín ngưỡng cấp cao từ mọi tôn giáo: linh mục, giáo sĩ Do Thái, mục sư, và các thầy giảng đạo Ấn Độ. Người đã gặp gỡ trao đổi cùng các nhà khoa học, các vị học giả, những người chiêu đãi, những người nổi tiếng và cả những người vô danh. Người làm việc từ sáng đến tối, di chuyển từ thành phố này đến thành phố khác. Và những cuộc hẹn gặp gỡ đó thường không phải là do Người chủ động sắp xếp, mà là những lời mời từ những người khác. Và một điều nổi bật hơn hết là – là bất kể thời gian biểu làm việc của mình có chặt chẽ bận rộn cách mấy, Người vẫn dễ dàng hoàn tất hết mọi công việc. Người luôn làm việc trong vui vẻ.


...

thanks.gif



Back to top
« Last Edit: 11. Sep 2010 , 15:49 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #81 - 11. Sep 2010 , 20:41
 
Bỏ đói phiền não


Những người mới bắt đầu hành thiền thường phân vân không biết hành thiền là gì. Hành thiền là cố gắng đối diện với phiền não, không nuôi dưỡng thói quen cũ. Nơi nào bất hòa và khó khăn, nơi đó là chỗ để hành thiền.

Khi hái nấm về ăn, không phải đụng thứ nấm nào bạn cũng hái. Phải hiểu loại nào ăn được, loại nào là nấm độc. Việc hành thiền cũng vậy, chúng ta phải biết mối nguy hiểm phải đương đầu khi hành thiền là phiền não. Phiền não chẳng khác nào rắn độc, phải biết nó để tránh nó.
Phiền não -- tham, sân, si -- nằm ở gốc rễ của sự đau khổ và tâm ích kỷ. Chúng ta phải học cách chế ngự chúng, chiến thắng và thoát khỏi sự kiểm soát và điều khiển của chúng, để làm chủ tâm mình. Dĩ nhiên cuộc chiến đấu này thật khó khăn. Khó khăn như phải xa rời người bạn thân đã sống với nhau từ thời thơ ấu.

Phiền não chẳng khác nào một con mèo. Nếu cho nó ăn, nó sẽ quanh quẩn bên ta. Đừng cho nó ăn, nó sẽ không quấy rầy nữa.

Lúc mới bắt đầu hành thiền không thể nào tránh khỏi nóng nực và buồn chán. Nhưng hãy nhớ rằng chỉ có phiền não nóng. Nhiều người nghĩ: "Tôi chưa bao giờ gặp phải sự khó khăn như vầy trước đây. Chắc có cái gì xẩy ra đây?" Chuyện này chẳng có gì lạ, vì trước đây khi nuôi dưỡng phiền não, bạn đã đối xử nhẹ nhàng với chúng, vuốt ve, nuông chiều chúng. Như người bị thương bên trong mà chỉ đắp thuốc bên ngoài nên chẳng có cảm giác gì. Bây giờ mổ ra để trị tận gốc thì chắc chắn không tránh khỏi đau đớn.

Muốn đề kháng lại phiền não thì bạn đừng cho chúng ăn, ngủ theo ý muốn của chúng. Nhiều người cho làm như thế là tự hành hạ mình thái quá. Nhưng đó là điều cần thiết để có sức mạnh bên trong. Bạn phải tự mình ý thức về mình. Luôn luôn theo dõi tâm, bạn có thể nghĩ rằng bạn chỉ nhìn vào kết quả mà không biết đến nguyên nhân. Giả sử cha mẹ có một đứa con, lớn lên nó không biết kính trọng cha mẹ. Cha mẹ rất đau buồn và tự hỏi, "Không biết thằng này từ đâu đến đây?" Thực ra, đau khổ của chúng ta đến từ sự hiểu biết sai lầm, từ sự dính mắc vào những hoạt động của tâm. Chúng ta phải huấn luyện tâm như huấn luyện một con trâu. Trâu là tư tưởng của chúng ta, và người chăn trâu là thiền sinh. Nuôi trâu và huấn luyện trâu là hành thiền. Với một con trâu được huấn luyện thuần thục, chúng ta có thể thấy chân lý, chúng ta có thể hiểu nguyên nhân của "tự ngã" của chúng ta và chỗ chấm dứt của nó, chỗ chấm dứt mọi sầu muộn. Nó không phức tạp đâu!

Mọi người đều có phiền não trong lúc hành thiền. Chúng ta phải hiểu chúng. Chiến đấu với chúng khi chúng hiện khởi. Đây không phải là chuyện suy nghĩ mà là chuyện thực hành. Cần phải có nhiều kiên nhẫn. Dần dần chúng ta sẽ thay đổi lối suy nghĩ và cảm giác theo thói quen của chúng ta. Chúng ta sẽ thấy biết bao đau khổ sinh ra khi chúng ta nghĩ đến danh từ Ta và Của Ta. Lúc ấy chúng ta sẽ không còn chấp nữa.

Hạnh phúc và đau khổ


Một thanh niên Tây phương vừa mới đến một trong những tu viện trong rừng của Ngài Ajahn Chah xin ở lại hành thiền.

Câu trả lời đầu tiên của Ngài là:

-- Tôi hy vọng anh không sợ đau khổ.

Hơi bất ngờ và sửng sốt một chút trước câu nói, chàng thanh niên giải thích rằng anh ta không phải đến đây để đau khổ mà muốn đến đây để học thiền và sống trong yên tĩnh trong rừng.

Ajahn Chah giải thích:

-- Có hai loại đau khổ: đau khổ dẫn đến đau khổ hơn, và đau khổ dẫn đến chấm dứt đau khổ. Nếu anh không muốn gặp loại đau khổ thứ hai thì anh chắc chắn sẽ gặp loại đau khổ đầu tiên.

Lối dạy của Ajahn Chah thường thẳng thắn và trực tiếp. Khi gặp các vị sư học trò của Ngài trong khuôn viên thiền viện, Ngài thường hỏi, "Hôm nay sư có đau khổ nhiều không?" Nếu có vị sư nào trả lời "Có," Ngài sẽ nói, "Tốt lắm, sư phải mừng và mong muốn được như ngày hôm nay" và Ngài cười với nhà sư về chuyện này.

Bạn đã từng có hạnh phúc chưa? Bạn đã từng gặp đau khổ chưa? Bạn có từng xét xem hai loại trên, loại nào thực sự có giá trị hơn chưa? Nếu đúng là hạnh phúc thì nó sẽ không bao giờ mất. Có thể như vậy được không? Bạn phải nghiên cứu điểm này để thấy sự chân xác và thực tế. Sự nghiên cứu này, sự hành thiền này dẫn đến Chánh Kiến.

Tâm phân biệt


Nghĩa rốt ráo của Chánh Kiến là không phân biệt. Thấy mọi người như nhau, không tốt cũng không xấu, không thông minh cũng không ngu dốt. Đừng nghĩ rằng mật ong ngọt và tốt, còn một số thực phẩm khác thì đắng và xấu. Mặc dầu bạn có thể ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau, nhưng khi cơ thể hấp thụ và bài tiết ra ngoài chúng đều giống nhau. Một cái ly được xem là lớn khi so sánh với một cái chén nhỏ. Nhưng khi đặt cạnh cái bình thì ly không còn lớn nữa.

Tâm phân biệt phát xuất từ tham muốn và si mê, nó nhuộm màu mọi vật bằng lối này. Đó là thế giới do chính chúng ta tạo ra. Như vậy cái ly vốn không lớn không nhỏ. Cảm thấy lớn hay nhỏ do tâm phân biệt của chúng ta. Chúng ta dùng tham ái và si mê để so sánh với cái khác nên có sự phân biệt lớn nhỏ.

Luôn luôn có sự bất đồng trên thế giới này. Xem xét sự bất đồng của chúng, đồng thời tìm hiểu luôn sự tương đồng nữa. Những người đến đây khác biệt nhau về văn hóa và ngôn ngữ. Nhưng đừng nghĩ rằng: "Đây là người Thái, đây là người Lào, đây là người Tây phương." Hãy có sự hiểu biết hỗ tương và tôn trọng lối sống của nhau. Học thấy những điểm tương đồng bên trong mọi vật, tất cả đều thật sự tương đồng, đều trống rỗng. Khi đã học được, biết được sự tương đồng bên trong mọi vật, lúc bấy giờ bạn sẽ biết cách cư xử và đối diện với những bất đồng bên ngoài một cách khôn ngoan và hiểu biết. Nhưng cũng đừng dính mắc với sự tương đồng nữa.

Tại sao đường thì ngọt mà nước lã thì chẳng có vị gì cả? Bởi vì bản chất của chúng là vậy. Suy nghĩ hay tĩnh lặng, đau khổ hay khoái lạc cũng thế -- muốn đừng suy nghĩ nữa là một chuyện sai lầm. Đôi lúc suy nghĩ, đôi lúc yên tịnh. Chúng ta phải thấy cả hai đều có cùng bản chất vô thường, bất toại nguyện và đều không đem lại hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu chúng ta băn khoăn lo lắng và suy nghĩ xa hơn: "Tôi đau khổ, tôi muốn không suy nghĩ," thì chúng ta đã làm mọi chuyện trở nên phức tạp bởi quan kiến sai lầm của mình.

Vào lúc chúng ta cảm thấy suy nghĩ là đau khổ, chẳng khác nào chúng ta đang bị cướp. Chúng ta phải làm thế nào để chấm dứt sự suy nghĩ đây? Ban ngày, trời sáng. Ban đêm, trời tối. Phải chăng đau khổ nằm trong sự sáng hay tối này? Chỉ khi chúng ta so sánh sự vật hiện tại với những gì mà ta đã gặp trước đây, hoặc chúng ta mong mỏi chúng xẩy ra trong chiều hướng mà chúng ta mong đợi, chúng ta mới đau khổ. Một cách rốt ráo thì sự vật là như vậy, như vậy -- chỉ vì chúng ta so sánh nên mới nhận lấy đau khổ.

Khi thấy Tâm làm việc, bạn có xem nó là chính bạn hay là cái của bạn không? Bạn sẽ trả lời: "Tôi không biết nó có phải là tôi hay của tôi không, nhưng chắc chắn là tôi không kiểm soát được nó." Nó như một con khỉ nhẩy nhót vô ý thức. Nó chạy lên lầu, thấy chán nó lại chạy xuống lầu; mệt mỏi, đi xem chớp bóng, lại chán nữa; đi ăn, cũng chán nữa. Những hành động này được điều khiển bởi những hình thức khác nhau của chán ghét và sợ hãi.

Bạn phải học cách kiểm soát. Đừng lo cho con khỉ nữa mà hãy lo cho chân lý của cuộc sống. Hãy nhìn bản chất thật sự của tâm: vô thường, bất toại nguyện và trống rỗng. Phải học cách làm chủ nó. Nếu cần thì xích nó lại. Hãy để nó tự làm mệt nhoài rồi chết. Thế rồi, bạn có con khỉ chết. Hãy để cho xác khỉ chết thối rữa ra, bạn sẽ có xương khỉ.

Giác ngộ không có nghĩa là chết và bất động như một pho tượng Phật. Người giác ngộ cũng suy nghĩ, nhưng biết tiến trình suy nghĩ đó là vô thường, bất toại nguyện, và không có tự ngã. Người hành thiền sẽ thấy những điều này một cách rõ ràng. Chúng ta cần phải truy tầm đau khổ và chận đứng nguyên nhân gây ra khổ đau. Nếu không thấy được điều đó thì trí tuệ sẽ không bao giờ nẩy sinh. Không nên đoán mò mà phải thấy sự vật một cách rõ ràng và chính xác, đúng theo thực tướng của nó -- cảm giác chỉ là cảm giác; suy nghĩ chỉ là suy nghĩ. Đó là cách thức chấm dứt mọi vấn đề của chúng ta.

Chúng ta có thể xem tâm như một đóa sen. Một số sen vẫn còn nằm trong bùn; một số vượt ra khỏi bùn nhưng vẫn còn ở dưới mặt nước; một số khác đã vươn đến mặt nước; và một số khác nữa đã nở rộ và toả hương thơm dưới ánh nắng mặt trời. Bạn muốn mình là loại hoa nào đây? Nếu bạn thấy mình còn nằm dưới mặt nước thì phải coi chừng lũ cá và bày rùa! 

Ajahn Chah
Theo: Mặt Hồ Tĩnh Lặng
Người dịch: Tỳ khưu Khánh Hỷ Aggasami Trần Minh Tài
Nguồn: Buddha Sasana
Back to top
 
 
IP Logged
 
CoiChay
Gold Member
*****
Offline


Cối Chày of the Year
2006-2009

Posts: 2263
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #82 - 12. Sep 2010 , 07:39
 
Tuyet Lan wrote on 11. Sep 2010 , 20:41:

Tâm phân biệt


Nghĩa rốt ráo của Chánh Kiến là không phân biệt.
Thấy mọi người như nhau
, không tốt cũng không xấu, không thông minh cũng không ngu dốt. Đừng nghĩ rằng mật ong ngọt và tốt, còn một số thực phẩm khác thì đắng và xấu. Mặc dầu bạn có thể ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau, nhưng khi cơ thể hấp thụ và bài tiết ra ngoài chúng đều giống nhau. Một cái ly được xem là lớn khi so sánh với một cái chén nhỏ. Nhưng khi đặt cạnh cái bình thì ly không còn lớn nữa.

Tâm phân biệt phát xuất từ tham muốn và si mê, nó nhuộm màu mọi vật bằng lối này. Đó là thế giới do chính chúng ta tạo ra. Như vậy cái ly vốn không lớn không nhỏ. Cảm thấy lớn hay nhỏ do tâm phân biệt của chúng ta. Chúng ta dùng tham ái và si mê để so sánh với cái khác nên có sự phân biệt lớn nhỏ.

Luôn luôn có sự bất đồng trên thế giới này. Xem xét sự bất đồng của chúng, đồng thời tìm hiểu luôn sự tương đồng nữa. Những người đến đây khác biệt nhau về văn hóa và ngôn ngữ. Nhưng đừng nghĩ rằng: "Đây là người Thái, đây là người Lào, đây là người Tây phương." Hãy có sự hiểu biết hỗ tương và tôn trọng lối sống của nhau. Học thấy những điểm tương đồng bên trong mọi vật, tất cả đều thật sự tương đồng, đều trống rỗng. Khi đã học được, biết được sự tương đồng bên trong mọi vật, lúc bấy giờ bạn sẽ biết cách cư xử và đối diện với những bất đồng bên ngoài một cách khôn ngoan và hiểu biết. Nhưng cũng đừng dính mắc với sự tương đồng nữa.

Tại sao đường thì ngọt mà nước lã thì chẳng có vị gì cả? Bởi vì bản chất của chúng là vậy. Suy nghĩ hay tĩnh lặng, đau khổ hay khoái lạc cũng thế -- muốn đừng suy nghĩ nữa là một chuyện sai lầm. Đôi lúc suy nghĩ, đôi lúc yên tịnh. Chúng ta phải thấy cả hai đều có cùng bản chất vô thường, bất toại nguyện và đều không đem lại hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu chúng ta băn khoăn lo lắng và suy nghĩ xa hơn: "Tôi đau khổ, tôi muốn không suy nghĩ," thì chúng ta đã làm mọi chuyện trở nên phức tạp bởi quan kiến sai lầm của mình.

Vào lúc chúng ta cảm thấy suy nghĩ là đau khổ, chẳng khác nào chúng ta đang bị cướp. Chúng ta phải làm thế nào để chấm dứt sự suy nghĩ đây? Ban ngày, trời sáng. Ban đêm, trời tối. Phải chăng đau khổ nằm trong sự sáng hay tối này? Chỉ khi chúng ta so sánh sự vật hiện tại với những gì mà ta đã gặp trước đây, hoặc chúng ta mong mỏi chúng xẩy ra trong chiều hướng mà chúng ta mong đợi, chúng ta mới đau khổ. Một cách rốt ráo thì sự vật là như vậy, như vậy -- chỉ vì chúng ta so sánh nên mới nhận lấy đau khổ.

Khi thấy Tâm làm việc, bạn có xem nó là chính bạn hay là cái của bạn không? Bạn sẽ trả lời: "Tôi không biết nó có phải là tôi hay của tôi không, nhưng chắc chắn là tôi không kiểm soát được nó." Nó như một con khỉ nhẩy nhót vô ý thức. Nó chạy lên lầu, thấy chán nó lại chạy xuống lầu; mệt mỏi, đi xem chớp bóng, lại chán nữa; đi ăn, cũng chán nữa. Những hành động này được điều khiển bởi những hình thức khác nhau của chán ghét và sợ hãi.

Bạn phải học cách kiểm soát. Đừng lo cho con khỉ nữa mà hãy lo cho chân lý của cuộc sống. Hãy nhìn bản chất thật sự của tâm: vô thường, bất toại nguyện và trống rỗng. Phải học cách làm chủ nó. Nếu cần thì xích nó lại. Hãy để nó tự làm mệt nhoài rồi chết. Thế rồi, bạn có con khỉ chết. Hãy để cho xác khỉ chết thối rữa ra, bạn sẽ có xương khỉ.

Giác ngộ không có nghĩa là chết và bất động như một pho tượng Phật. Người giác ngộ cũng suy nghĩ, nhưng biết tiến trình suy nghĩ đó là vô thường, bất toại nguyện, và không có tự ngã. Người hành thiền sẽ thấy những điều này một cách rõ ràng. Chúng ta cần phải truy tầm đau khổ và chận đứng nguyên nhân gây ra khổ đau. Nếu không thấy được điều đó thì trí tuệ sẽ không bao giờ nẩy sinh. Không nên đoán mò mà phải thấy sự vật một cách rõ ràng và chính xác, đúng theo thực tướng của nó -- cảm giác chỉ là cảm giác; suy nghĩ chỉ là suy nghĩ. Đó là cách thức chấm dứt mọi vấn đề của chúng ta.

Chúng ta có thể xem tâm như một đóa sen. Một số sen vẫn còn nằm trong bùn; một số vượt ra khỏi bùn nhưng vẫn còn ở dưới mặt nước; một số khác đã vươn đến mặt nước; và một số khác nữa đã nở rộ và toả hương thơm dưới ánh nắng mặt trời. Bạn muốn mình là loại hoa nào đây? Nếu bạn thấy mình còn nằm dưới mặt nước thì phải coi chừng lũ cá và bày rùa! 


Hello cô TL,

Đề tài Tâm Phân Biệt này xứng đáng để chúng ta dừng lại vài phút để trao đổi . Đây là một đề tài chúng ta có thể đem ra ứng dụng trong đời sống hàng ngày .

Một thí dụ : Cha mẹ thường có một "preference" đối với mấy đứa con của mình . Một số cha mẹ đôi khi thích đứa con này hơn đứa con kia và đôi khi vì không để ý đã để lộ cái "preference" này ra ngoài qua những lời nói, cử chỉ săn sóc, etc. và làm cho đứa con kia đau khổ, có khi mặc cảm trầm trọng lâu dài hay dễ phẫn nộ và càng ngày càng trở nên người "có problem" . Bạn bè cũng vậy . Và đó đã là một nguồn phiền não cho họ rồi lan ra thành phiền não của những người thân xung quanh !

Trong bài viết trên về tâm phân biệt tôi nghĩ cần nhấn mạnh ở chỗ sự khác biệt giữa sự vật, giữa người này với người kia, etc. là một thực tế (cô A chắc chắn phải khác biệt với cô B, con chó chắc chắn phải khác biệt với con mèo. Không thể nói rằng ta phải thấy con mèo giống con chó. Chúng ta thấy có sự khác biệt nhưng  điều quan trọng là ta không nên đối xử/phản ứng/yêu mến/khinh hay chuộng một cách "phân biệt" có nghĩa là đối xử/phản ứng/yêu mến/khinh hay chuộng dựa trên sự khác biệt đó !

Vài suy nghĩ sơ thiển để cô có cớ trả lời  Cheesy Cheesy Cheesy

CC
Grin
Back to top
« Last Edit: 12. Sep 2010 , 07:40 by CoiChay »  
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #83 - 14. Sep 2010 , 19:36
 
CoiChay wrote on 12. Sep 2010 , 07:39:
Hello cô TL,

Đề tài Tâm Phân Biệt này xứng đáng để chúng ta dừng lại vài phút để trao đổi . Đây là một đề tài chúng ta có thể đem ra ứng dụng trong đời sống hàng ngày .

Một thí dụ : Cha mẹ thường có một "preference" đối với mấy đứa con của mình . Một số cha mẹ đôi khi thích đứa con này hơn đứa con kia và đôi khi vì không để ý đã để lộ cái "preference" này ra ngoài qua những lời nói, cử chỉ săn sóc, etc. và làm cho đứa con kia đau khổ, có khi mặc cảm trầm trọng lâu dài hay dễ phẫn nộ và càng ngày càng trở nên người "có problem" . Bạn bè cũng vậy . Và đó đã là một nguồn phiền não cho họ rồi lan ra thành phiền não của những người thân xung quanh !

Trong bài viết trên về tâm phân biệt tôi nghĩ
cần nhấn mạnh ở chỗ sự khác biệt giữa sự vật, giữa người này với người kia, etc. là một thực tế
(cô A chắc chắn phải khác biệt với cô B, con chó chắc chắn phải khác biệt với con mèo. Không thể nói rằng ta phải thấy con mèo giống con chó. Chúng ta thấy có sự khác biệt nhưng  điều quan trọng là ta không nên đối xử/phản ứng/yêu mến/khinh hay chuộng một cách "phân biệt" có nghĩa là đối xử/phản ứng/yêu mến/khinh hay chuộng dựa trên sự khác biệt đó !

Vài suy nghĩ sơ thiển để cô có cớ trả lời  Cheesy Cheesy Cheesy

CC
Grin

Thưa anh Hai
Em gái đồng ý với anh Hai là chúng ta
cần nhấn mạnh ở chỗ sự khác biệt giữa sự vật, giữa người này với người kia, etc. là một thực tế
. Chính vì vậy, trước khi đối xử với bất cứ 1 sự vật gì , chính ta nên  nhận chân cho thật rõ sự thật như là , nhìn rõ sự vật 1 cách rõ ràng và chính xác , đúng với thực tướng của nó, ví dụ con mèo là con mèo, cô A la cô A , không có sự lẫn lộn cô A là cô B.  Giống như anh Hai nói , điều quan trọng là cách đối xử của ta đối với mọi sự vật , không dụa trên sự khác biệt .  Vấn đề là làm sao chúng ta có thể đối người xử vật với 1 cách bình đằng, không bị tâm phân biệt chi phối .
Muốn có cái nhìn chân thật chúng ta cần phải có trí tuệ , phải có chánh kiến . Khi đó ta sẽ nhận thấy rõ ràng mọi sự vật như là , vì không bị tâm tham ái, si mê chi phối .
Ngoài ra ta còn phải đối người xử vật 1 với 1 tình thương chân thật , vô điều kiên . Tập buông bỏ (Xã) hết những chấp trước, định kiến ,  dẹp đi cái bản ngã của chính mình . Khi đó trước con mắt  của chúng ta , mọi người đều bình đẵng như nhau.   
Vài giòng lẫn thẩn, mong anh Hai chi bảo thêm ah
 
Back to top
« Last Edit: 14. Sep 2010 , 19:39 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
mydung
Full Member
***
Offline



Posts: 195
Re: Vu Lan Báo Hiếu
Reply #84 - 21. Sep 2010 , 15:14
 
TL ơi, MD chay vòng vòng tìm Nếp Sống Đạo ma hổng thấy, post đại vào đây, bạn hiền biết chỗ nào thích hợp thì làm dùm MD nha, Please!!!!!
                         

                          ÂN OÁN CÕI ĐỜI



Trong phạm vi bài này, chúng ta tìm hiểu chuyện ân nghĩa và oán thù, hay chuyện thương yêu và ghét bỏ, qua giáo pháp của Đạo Phật mà thôi. Trên cõi đời này, có nhiều người làm ơn cho người khác, giúp đỡ một việc nào đó, từ việc nhỏ đến việc lớn, vật chất cũng như tinh thần, chẳng hạn như tìm kiếm công ăn việc làm, cho mượn một số tiền, đăng giúp một bài báo, viết giùm một lá thư, nhắn tin hộ một chuyện, làm chủ hôn một đám cưới, rồi chấp chặt vào việc ơn nghĩa đã làm, nghĩ rằng người kia phải có bổn phận luôn luôn nhớ ơn đã nhận, cho nên có dịp thì kể lể công ơn, có dịp thì nhắc nhở tới hoài, khiến cho người thọ nhận ơn đâm ra khó chịu, bực bội, tìm cách tránh né, không còn muốn gặp mặt người đã làm ơn giúp đỡ mình trước kia nữa. Khi đó người đã ra ơn giúp đỡ, chẳng những không nhận thấy lỗi lầm của mình, lại còn trách cứ người kia là đồ vô ơn bạc nghĩa. Kết cuộc, tình cảm bị sứt mẻ, mối giao hảo bị cắt đứt, quan hệ không còn tốt đẹp như xưa, không khí bắt đầu ngột ngạt khó thở, chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh bắt đầu, cả hai đều chìm đắm trong phiền não khổ đau, không sao thoát ra nổi.

Trong cuộc sống gia đình cũng vậy, nếu cha mẹ luôn luôn kể lể công ơn nuôi dưỡng con cái, khổ nhọc thế này, đắng cay thế nọ, gian truân thế kia, nhọc nhằn thế đấy, lặp đi lặp lại, quanh năm suốt tháng, khiến cho con cái, bực bội khó chịu, đâm ra phản ứng, chẳng thèm chịu nghe.

Quan niệm "dưỡng nhi đãi lão" của Đông Phương ngày trước, tức là nuôi dưỡng con cái từ lúc còn bé thơ, với tâm mong cầu đến ngày con khôn lớn, sẽ nuôi lại mình lúc tuổi già, có lẽ không còn mấy thích hợp ở các xứ Tây Phương ngày nay. Nuôi con với tâm từ bi thì được cảm ứng. Nuôi con với tâm mong cầu thì gặp phản ứng. Bậc làm cha mẹ, phải biết hy sinh, nuôi con vì tình, vì nghĩa cao cả, không nên trả giá, kể lể công ơn, như lời cổ nhơn, đã từng có dạy: "Thi ân bất cầu báo đáp", chính là nghĩa đó vậy.

Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:

"Nhược Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng".

Nghĩa là:

Nếu chúng ta không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí, nghĩa là bố thí với tâm lượng rộng lớn, không kỳ thị, không cố chấp, không trụ tướng, không mong cầu được đền đáp, bất tùy phân biệt, bố thí chỉ vì ích lợi của chúng sanh, không vì bất cứ điều gì khác, thì phước đức không thể nghĩ, không thể bàn, không thể đo, không thể lường được. Tại sao như vậy? Bởi vì, tâm lượng như vậy đồng với tâm Phật, không khác.

Người làm ơn quên ngay chuyện đã làm thì có phước báu vô cùng. Tuy nhiên, khi đã thọ nhận sự giúp đỡ, sự quan tâm, sự chiếu cố, bất cứ từ đâu đến, bất cứ do ai làm, dù lớn lao hay nhỏ nhặt đến đâu, người biết tu tâm dưỡng tánh, phải biết tri ân và báo ân, tức là biết ơn và đền ơn. Một lời nói ân nghĩa chí tình, một lời khuyên lơn dịu dàng, trong cơn nhiệt não, quí hơn bất cứ món quà nào khác, trong lúc bình thường. Miếng khi đói bằng gói khi no. Trên cõi đời này, chuyện ân nghĩa biến thành oán thù rất dễ dàng, như trở bàn tay. Ngược lại, chuyện oán thù trở thành ân nghĩa thực là khó khăn vô cùng, chỉ có những bực thánh hiền, hoặc những người biết tu tâm dưỡng tánh, tức là những người muốn sống an lạc hạnh phúc, mới có thể thực hành được mà thôi.

Trong cuộc sống hằng ngày, nhứt là cuộc sống của người tại gia, rất dễ đụng chạm, dễ sinh oán thù, từ những việc lớn, đến việc nhỏ mọn, từ việc cố tình, đến việc vô ý. Chẳng hạn như việc, cạnh tranh nghề nghiệp, thường đưa đến chỗ, thanh toán lẫn nhau, cá lớn nuốt cá bé, lấy thịt đè người, gài bẫy hại nhau, chẳng kể thương đau, của bao người khác, tan nhà nát cửa, gia đình ly tán, lắm khi tù tội, đến nỗi thiệt mạng. Chẳng hạn như việc, va chạm quyền lợi, lỡ lời nói chơi, đụng chạm tự ái, nói năng vụng dại, chẳng biết tán dương, tâng bốc mọi đường, đâm ra thù oán. Con người chất chứa, thù oán trong lòng, sâu như lòng sông, rộng như biển cả, suốt đời quyết trả, những mối hận thù, làm sao cuộc sống, yên vui cho được?

Nhiều khi có người, nói ra những lời, vô thưởng vô phạt, vô ý vô tứ, chẳng có dụng tâm, chẳng có tà ý, chẳng ám chỉ ai, hoặc là chẳng may, trời cho có tài, hơn nhiều người khác, khiến cho những kẻ, có tâm ganh tị, đố kỵ quá cao, tự ái mấy sào, bảo sao chẳng tức, chẳng giận cho được. Con người thường hay, trả thù báo oán, nên tìm mọi cách, trả đủa cho hơn, cho thỏa tâm tham, cho vừa tâm sân, cho hợp tâm si, người cha bị giết, người con trả thù, giết hại người kia, người con bên đó, lại cũng báo thù, thử hỏi như vậy: bao giờ oán thù, mới được chấm dứt, cuộc đời mới được, bình yên vui vẻ?

Nếu người ta chửi mình một tiếng, mình trả lại một miếng, có khi nặng hơn, thực ra quá dễ. Người ta mắng mình một tiếng, mình kham nhẫn được, không trả đũa lại dưới bất cứ hình thức nào, mới thực là khó. Người ta gửi thư chửi mình, lá thư bị quăng vào thùng rác là lẽ thường tình. Nhưng đừng lưu trữ lời lẽ khó nghe đó trong kho tàng tâm thức của mình, tức là quên luôn đi, bỏ qua luôn, không nhớ tới nữa, mới thực là khó. Tại sao như vậy? Bởi vì, lúc đó công phu tu tập của mình đã khá lắm rồi, chứ không phải mình ngu đâu! Nếu mình trả đủa, công bố lá thư, ưu tư trằn trọc, hằn học hỗn hào, nhào vô quyết chiến, khiến cho lời qua, đâm ra tiếng lại, văng bút văng mực, khổ cực tấm thân, khởi tâm nóng giận, đến chỗ đánh nhau, thưa gửi kiện tụng, kẻ bị nhức đầu, kẻ bị thương đau, người vào ngồi khám, mới đúng thực là: cả đám ngu vậy! Trong kinh sách thường gọi đó là: "vô minh".

Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành", chính là nghĩa đó vậy.

Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:

"Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng.

Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan".

Bị người thù ghét, dù thực vô cớ, vô lý quá chừng, chúng ta cũng đừng, khởi tâm tức giận, nên hiểu nguyên do, chắc chắn phải có, nhân duyên đời trước, duyên cớ đời này, chỉ vì chúng ta, không biết đó thôi. Chẳng hạn như là: lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, cũng có thể là, nguyên nhân của chuyện, thù ghét oán hờn. Cạnh tranh nghề nghiệp, hay tâm ganh tị, đố kỵ gièm pha, cũng là những nguyên nhân dễ hiểu. Tuy nhiên, nếu có dịp giúp đỡ được những người đó, trong lúc họ gặp khó khăn hay hoạn nạn, chúng ta có nhiều cơ hội hóa giải oán hờn, biến thù thành bạn. Như vậy chắc chắn tốt đẹp, hơn là tiếp tục tranh chấp, thù hận, để rồi nơm nớp lo sợ bị trả thù, phập phồng âu lo, đời sống không lúc nào được bình yên.

Có những người lầm lạc, sa chân vào vòng tội lỗi. Một thời gian sau, nhờ gặp được thiện hữu tri thức, thầy lành bạn tốt, giúp đỡ hiểu biết Chánh Pháp, giác ngộ được Chánh Ðạo, cố gắng quay về đường ngay nẽo thẳng. Nhưng người đời vì tâm cố chấp, chấp chặt những oán thù xa xưa, nhứt quyết phục thù trả hận, nhứt định không tha thứ, đòi hỏi phạm nhân phải chịu những hình phạt tàn độc gấp trăm ngàn lần, phải chịu muôn ngàn đau đớn, phải chịu tan da nát thịt, người đời mới vui lòng, hả dạ. Thử hỏi: như vậy ai tàn ác hơn ai, ai có tâm độc ác hơn ai? Thử hỏi: ai đang muốn dừng nghiệp và chuyển nghiệp, còn ai đang muốn tạo tội và tạo nghiệp?

Một con ngựa hoang muốn trở về quê xưa, phải tắm sông nhẫn nhục, mới cảm thấy ân tình mở cửa ra với mình, sau đó mới có thể tắm trong dòng sông mơ màng mát trong thơm ngọt. Tuy con ngựa hoang, quên thù oán căm, từ nơi tối tăm, về miền tươi sáng, tới bến sông rồi, cởi mở cõi lòng, trông ra với đời, nhưng đời không tha, không mở cõi lòng, từ bi hỷ xả, đón ngựa hoang về, lại cố làm cho, ngựa hoang chết gục, một cách nhục nhằn, và trên lưng nó, hằn nguyên vết thù! Cõi đời thường tàn độc như vậy! Con người thường nhân danh công lý, bảo vệ chính nghĩa, đấu tranh tự do, đòi hỏi công bình, thực thi pháp trị, nhưng thực chất chỉ thích gieo rắc khổ đau cho kẻ khác, chan rải thù hận khắp nơi nơi.

Nếu con người biết sẵn sàng tha thứ cho người khác, cũng như đã từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân mình, thì cảnh giới thiên đàng niết bàn cực lạc chính là đây!

Trên cõi đời này, cũng có những người phát tâm xin tha thứ cho phạm nhân đã sát hại thân nhân của mình, được khỏi tội chết. Tại sao như vậy? Bởi vì, người đó đã thấm thía hoàn cảnh, đã thấu rõ cảm giác của sự mất mát người thân như thế nào, cho nên không muốn gia đình người khác, dù là phạm nhân, tức là kẻ thù, phải lâm vào cảnh ngộ như vậy. Thường chỉ có những người đã từng rơi vào hoàn cảnh khốn khổ, khốn nạn, mới phát tâm cảm thông, thương xót người khác. Những người có tâm đại từ đại bi dường ấy mới có cuộc sống an lạc, không hận thù, không phiền não và khổ đau, đồng thời tạo được an lạc cho những người chung quanh. Ðó những người hành Bồ Tát đạo, biết sống với tâm Phật, không phải sống với tâm ma. Ðó chính là những người biết sống với Chân Tâm Phật Tánh của mình.

Ngày xưa, vị Tổ Sư thứ hai mươi bốn Aryasimha, trước khi bị vua Kế Tân chém đầu, đã phát nguyện: Ngay khi đắc thành đạo quả sau này, người đầu tiên tôi sẽ độ, chính là bệ hạ! Tại sao vậy? Bởi vì, có gặp tai nạn lớn lao, tai họa khủng khiếp, thậm chí mất mạng, mới có thể chứng minh trình độ tu tập của con người. Không phải chúng ta mong cầu khổ nạn đến để thử thách công phu tu tập của mình. Tuy nhiên, một khi khổ nạn xảy ra, chúng ta biết ngay: đã đến lúc phải trả nghiệp quả, từ nghiệp nhân, do chính mình tạo tác, từ nhiều kiếp trước hoặc kiếp này. Cho nên, chúng ta vẫn giữ được thái độ bình tĩnh thản nhiên, chấp nhận đền trả quả báo, mới là đáng quí, chứ van xin cầu nguyện, có được gì đâu?

Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:

"Dù có lên non, xuống biển, vào hang,

Nghiệp báo vẫn theo con người như hình với bóng,

Không ai có thể tránh khỏi được".

Người thế gian thường nói rằng: "trời kêu ai nấy dạ!", hoặc "lưới trời tuy thưa mà không lọt", chính là nghĩa đó vậy.

Tuy nhiên có người thắc mắc: có thù không trả sao đáng làm người? Chúng ta nên biết: Không có việc gì, trên thế gian này, tự nhiên sanh ra, hoặc là xảy ra, ngoài luật nhân quả. Nói một cách khác:

Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên sanh ra.

Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên diệt đi.

Có người ngày nay gặp vạn sự may mắn, tốt đẹp yên vui, làm ăn phát đạt, thuận buồm xuôi gió, nhà cao cửa rộng, con cháu hiếu thảo, bạn bè thân thiết, mọi người mến thương. Ðó chính là phước báo, là kết quả của cái nghiệp nhân thiện lành, người đó gieo từ nhiều kiếp trước, và trong kiếp này, cho nên bây giờ được hưởng kết quả tốt đẹp đó. Có người ngày nay gặp nhiều xui xẻo, tai nạn liên miên, thậm chí chết người, tàn tật suốt đời, trục trặc trắc trở, thưa gửi kiện tụng, làm ăn thất bại, nợ nần tứ tung, nhà tan cửa nát, con cái hoang đàng, bạn bè phản phúc, mọi người ghét bỏ. Ðó chính là nghiệp báo, là hậu quả của cái nghiệp nhân bất thiện, người đó gieo từ nhiều kiếp trước, và trong kiếp này, cho nên bây giờ lãnh đủ hậu quả không tốt đó.

Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:

Dục tri tiền thế nhân, đương kim thọ giả thị.

Yếu tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.

Nghĩa là:

Muốn biết kiếp trước mình đã làm gì, hãy nhìn cuộc sống của mình hiện tại.

Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao, hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại.

Nếu hôm nay mình dốt nát nghèo nàn khốn khổ, gặp tai nạn oán thù liên miên, thì đó là hậu quả của cái nhân tạo ác nghiệp và không biết làm việc phước thiện trước đây, chứ không có chuyện ân oán, thương ghét tùy tiện của thượng đế nào cả. Nếu hôm nay mình thông minh, đủ ăn đủ mặc, gặp thực nhiều ân đức, thì đó là kết quả của cái nhân tu tâm dưỡng tánh, tích phước tích đức nhiều đời trước và đời này. Hôm nay mình được bình an là quả của cái nhân mình không tạo sự bất an cho kẻ khác, dù đó là kẻ thù. Hôm nay mình được hạnh phúc là quả của cái nhân mình không phá hoại hạnh phúc kẻ khác, dù đó là kẻ thù.

Người biết tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ được luật nhân quả một cách chắc chắn, không bao giờ nghĩ đến chuyện trả thù, đừng nói đến chuyện thực hiện việc trả thù. Tại sao vậy? Bởi vì, những oán thù mình gặp hôm nay, chính là hậu quả của cái nhân xấu ác, do chính mình đã tạo đã gây ra trước đây, chứ chẳng phải ai khác làm, bây giờ mình phải gánh chịu. Nếu không sáng tỏ được điều này, con người cứ mãi chìm đắm trong oán thù khổ đau, trong vòng sinh tử luân hồi, biết đến bao giờ mới thoát ra được? Chỉ cần giác ngộ, biết quay đầu lại, thì bến bờ giải thoát là đây, phiền não khổ đau chấm dứt!

Chúng ta cũng không nên bi quan với số phận đã an bài, chấp nhận cái gọi là định mệnh, hay định mạng, hay số mạng. Trái lại, chúng ta có thể tích cực chuyển hóa cuộc đời của mình, sửa đổi cái nhân đã gieo, đã tạo trước kia. Tùy theo "cái nhân" là hạt giống loại nào, sau khi được gieo xuống đất, phải chờ đủ thời tiết nhân duyên, mới gặt hái "cái quả" của nó, có khi sớm tức thời, cũng có khi trổ muộn. Có khi gặt phải quả chanh chua, nhưng có thể đem bán đi, mua quả cam ngọt.

Ðó là trường hợp chúng ta đã "lỡ" gieo nhân xấu, kiếp trước hay kiếp này, nhưng nhờ gặp được thiện tri thức nhắc nhở, khai ngộ, khuyến khích, chúng ta biết phục thiện, quay trở về chánh đạo, chuyển ba nghiệp thân khẩu ý xấu ác, thành ba nghiệp thanh tịnh thiện lành, làm nhiều việc phước đức, tu tâm dưỡng tánh, chúng ta có thể gặt "quả tốt", hay ít ra cũng giảm bớt được "quả xấu". Chẳng hạn như: chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Ví như gieo nhân biết tiết kiệm, con người có thể gặt quả giàu có, hay ít ra cũng giảm bớt được nợ xưa đó vậy. Ví như biết chịu khó học hành, cũng có ngày đỗ đạt, thành danh, hay ít ra cũng bớt ngu dốt hơn trước, trí tuệ nhờ đó sáng tỏ hơn.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt thiết duy tâm tạo".

Nghĩa là tất cả mọi sự mọi việc trên thế gian đều do tâm của chúng ta tạo ra. Muốn có quả thiên đàng trong tâm, chúng ta hãy gieo nhân từ bi hỷ xả, bác ái vị tha, thi ân bố đức, dĩ ân báo oán. Gieo nhân ích kỷ, hận thù, tham lam, sân hận, si mê, nhứt định gặt quả địa ngục trong tâm, phiền não khổ đau, chắc chắn không sai, chỉ có sớm hay muộn mà thôi.

Trong sách có câu:

Thiên đàng địa ngục hai bên.

Ai ngộ thì nhờ, ai mê thì sa.

Thiên đàng chẳng chứa quỉ ma.

Ai người tâm thiện tìm ra thiên đàng.

Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật của cuộc đời là vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự nhiên sanh. Luật nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.

Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm thời mà thôi. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng hay địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở trong thâm tâm của tất cả chúng ta mà thôi. Cũng ví như biển động hay biển lặng, đều là hai trạng thái của biển mà thôi vậy.

Có điều thắc mắc quan trọng, đó là: "Con người thương ai nhiều nhứt và ghét ai nhiều nhứt?". Nếu như được hỏi: mình thương ai nhiều nhứt, thường thường con người sẽ đáp: thương cha mẹ nhiều nhứt, hoặc thương vợ hay chồng nhiều nhứt, hoặc thương con cái nhiều nhứt. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu những người thân đó làm chuyện gì mích lòng trái ý, hoặc không có tình thương yêu đáp lại như mình mong muốn, thậm chí còn đem lòng thương yêu kẻ nào khác, con người sẽ đổi lòng thương yêu nhiều nhứt thành ra thù ghét nhiều nhứt! Như vậy, thực sự con người trên thế gian này thương chính bản thân mình nhiều nhứt, chứ không phải người nào khác!

Còn nếu như được hỏi: mình thù ghét ai nhiều nhứt, thường thường con người sẽ đáp: thù kẻ này hại mình, ghét người kia hơn mình, nhiều nhứt. Tuy nhiên, trên thực tế, con người thù ghét chính bản thân mình nhiều nhứt, chứ không phải người nào khác! Tại sao vậy? Bởi vì, con người vì lòng tham lam vô hạn, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả không tốt sẽ đến với mình. Bởi vì, con người vì lòng sân hận vô biên, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả hiểm nguy sẽ đến với mình. Bởi vì, con người vì lòng si mê vô cùng, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả khó lường sẽ đến với mình.

Nghĩa là con người thù ghét chính bản thân mình nhiều nhứt, bởi vì sự vô minh từ nhiều đời nhiều kiếp, cho nên luôn luôn duyên theo cảnh trần, tạo tội tạo nghiệp không ngừng, do đó lãnh đủ nghiệp báo, hậu quả nặng nề, trầm luân sanh tử, mà vẫn không thức tỉnh tìm đường giải thoát!

 

Cổ nhơn có dạy: "Người chê ta mà chê phải tức là thầy ta. Người khen ta mà khen phải tức là bạn ta". Ðối với người đời, quan niệm này quả là kim chỉ nam cho bực quân tử, trong việc xử thế ở đời. Tuy nhiên, đối với người biết tu tâm dưỡng tánh, theo quan điểm của Đạo Phật, người khác khen hay chê, dù phải hay không phải, chúng ta đều tôn trọng họ như bực thầy lành hoặc bạn tốt. Còn hơn thế nữa, chúng ta nhìn họ như những bực bồ tát. Tại sao vậy? Bởi vì, người giúp đỡ phương tiện cho mình tu tập, hoằng pháp lợi sanh, cũng như người chuyên phá rối, bằng hành động cũng như bằng lời nói, đều là bực "thiện hữu tri thức" của mình.

Hạng người thứ nhứt được ví như bồ tát thuận hạnh, chẳng hạn như thầy dạy học hay bạn hữu hằng giúp đỡ chúng ta, thường ban cho những lời khen thưởng thực tình, đúng lúc, để khuyến khích, động viên tinh thần, hoặc chê trách hay quở phạt với tất cả tấm lòng từ bi, vì sự tiến bộ của chúng ta, chứ không vì bản ngã của họ. Hạng người thứ hai được ví như bồ tát nghịch hạnh, chẳng hạn như giám khảo trường thi hay trường đời. Những người này nhiều khi khen chê không phải lúc, không phải vì thiện tâm, lại có dụng ý, ác tâm, không phải vì chúng ta, mà vì bản ngã của họ.

Nhờ hạng người thứ nhứt, chúng ta có được sự hiểu biết, có được kiến thức, đạt được giác ngộ, vững tâm tu học, biết đường ngay lẽ phải để noi theo. Nhờ hạng người thứ hai, chúng ta có được bằng cấp ở đời, nếu vượt qua được sự khảo hạch và thi đậu, hoặc chúng ta biết được trình độ tu tâm dưỡng tánh của mình đã đến đâu, đạt được trình độ nào, chăn trâu tới giai đoạn thứ mấy.

Theo kinh điển nhà Phật, sống ở trên cõi đời này, người nào cũng thọ nhận bốn thứ ơn lớn, lúc nào cũng phải nên biết lo đền đáp, bằng sự cung kính, cúng dường và phụng sự. Bốn thứ ơn lớn, cũng gọi là tứ trọng ân, đó là: 1. Ơn cha mẹ 2. Ơn chúng sanh 3. Ơn quốc gia 4. Ơn Tam Bảo.

1. Cha mẹ sanh thành dưỡng dục rất khổ công, cực nhọc, trong nhiều năm tháng dài, chúng ta mới có được như ngày nay. Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn cha mẹ, bằng sự cung kính, phụng dưỡng vật chất cũng như tinh thần, nhưng quan trọng hơn cả, chính là giúp đỡ cha mẹ hiểu biết Chánh Pháp, sớm ngộ Chánh Ðạo, vĩnh viễn thoát ly phiền não khổ đau, sống đời an lạc hạnh phúc. Chỉ vì bênh vực vợ con, bênh vực chồng con, hoặc chỉ vì một lời khiển trách, một sự bất như ý, chẳng hạn như cha mẹ chia của cải không đồng đều như ý muốn, nhiều người trên thế gian này phủi sạch tất cả những ân nghĩa của cha mẹ từ xưa đến nay, từ cha bỏ mẹ, không nuôi không dưỡng, không thèm săn sóc, không hề thăm viếng, không muốn nhìn nhận, đôi khi còn trở mặt oán thù, thậm chí sát hại, tranh giành tài sản! Ðó là trọng tội hàng đầu trong ngũ nghịch tội.

2. Chúng ta đang sống trong xã hội, tức là có vô số chúng sanh sống chung quanh, giúp đỡ chúng ta đủ mọi phương diện, vật chất cũng như tinh thần. Chẳng hạn như nhờ người nông dân chúng ta có cơm ăn, nhờ người công nhân chúng ta có áo mặc, có xe đi, có đồ dùng, có nhà ở. Chẳng hạn như nhờ người thầy thuốc, y tá, sức khỏe chúng ta được chăm sóc, nhờ người thầy giáo, kiến thức chúng ta được mở mang, trí tuệ sáng suốt. Ðó là chưa kể trâu bò cày ruộng, con ngựa kéo xe, con chó giữ nhà, lạc đà vận chuyển. Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn xã hội, bằng sự siêng năng làm việc, giúp người giúp đời, làm tất cả mọi sự mọi việc ích lợi cho mọi người, không phung phí thực phẩm, sản phẩm, của cải, vật dụng, dù do chính mình bỏ tiền ra mua. Tại sao vậy? Bởi vì, đó là công lao của xã hội, và nhiều người khác đang thiếu thốn, nhiều chúng sanh khác đang cần những thứ đó, dùng không hết thì đem cho, không nên phí của!

3. Chúng ta sống trong một quốc gia thái bình thạnh trị, có nhiều phúc lợi xã hội, cơm no áo ấm, sung túc tiện nghi, an cư lạc nghiệp. Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn quốc gia, bằng sự cố gắng làm một người dân lương thiện, làm người có lương tâm chức nghiệp, góp phần xây dựng đất nước, không phá rối trật tự trị an của xã hội, không gây đau khổ cho những người khác sống chung quanh, không làm những chuyện lợi mình hại người, không lợi dụng kẽ hở của luật pháp để hại người, kiếm tiền bạc triệu, sống cho sung sướng, không viết thư rơi, không đâm bị thóc, không chọc bị gạo, không tạo tranh chấp, không gây oán thù. Mình muốn sống đời an lạc hạnh phúc, nên giúp đỡ người khác cũng sống an lạc hạnh phúc như mình. Nhờ đó tâm trí được thanh tịnh, sống được an vui, thác về cõi lành, cực lạc thiên đàng, khỏi sợ địa ngục, không cần chúc tụng, ở trên mặt báo!

4. Sau hết trên hết, những người trải đời, dù già hay trẻ, thấy được vô thường, hiểu biết nhân quả, tội nghiệp phước báu, có được chánh kiến, hành bát chánh đạo, do ơn Tam Bảo, chỉ dạy thực rành, giúp đỡ chúng sanh, thoát ly sanh tử, luân hồi nghiệp báo, tránh khỏi khổ đau, hãy mau thức tỉnh, tu tâm dưỡng tánh, đừng đợi đến ngày, nhắm mắt xuôi tay, chẳng may phải đọa, vào ba đường ác, địa ngục ngạ quỉ, hoặc là súc sanh, không ai cứu được, dù có niệm Phật, cho đủ mười tiếng, hoặc mười ngàn tiếng, cũng vậy mà thôi, đã quá muộn rồi! Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn Tam Bảo, bằng sự tinh tấn tu tập, cung kính cúng dường, bằng cách dừng nghiệp và chuyển nghiệp, chấm dứt tạo tội tạo nghiệp, bằng cách giúp đỡ người khác tu tâm dưỡng tánh, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn.

Tóm lại, chuyện ân oán là chuyện dài của con người, của cõi đời phiền não khổ đau, nói mãi không bao giờ cùng. Cho dù suốt đời, chúng ta luôn luôn, làm chuyện ân nghĩa, cho bất cứ ai, nhưng nếu chỉ cần, một lần mà thôi, từ chối giúp người, lập tức chúng ta, gặp ngay oán thù! Người đời phủi sạch tất cả những gì tốt đẹp người khác đã làm cho họ, trong suốt một khoảng thời gian dài, chỉ ghi nhớ một việc bất như ý sau cùng mà thôi, xong rồi dứt đẹp!

Trên cõi đời này, chữ "Ân" ít gặp, chữ "Oán" khắp nơi. Chính vì những quan niệm như vậy, cho nên con người luôn luôn lăn lộn trong sanh tử luân hồi, trong phiền não khổ đau, vay trả trả vay, triền miên suốt đời, không bao giờ dứt.

Trong kinh sách, Chư Tổ có dạy:

Tác hữu nghĩa sự. Thị tỉnh ngộ tâm.

Tác vô nghĩa sự. Thị cuồng loạn tâm.

Cuồng loạn tùy tình niệm. Lâm chung bị nghiệp khiên.

Tỉnh ngộ bất do tình. Lâm chung năng chuyển nghiệp

Nghĩa là:

Làm việc có nghĩa, đem lại an lạc hạnh phúc, cho mình và cho người. Là tâm tỉnh ngộ.

Làm việc vô nghĩa, đem lại phiền não khổ đau, lợi mình hại người. Là tâm cuồng loạn.

Cuồng loạn theo tình niệm: thương ghét ân oán. Lâm chung bị nghiệp lôi.

Tỉnh ngộ không theo tình, tâm bình tĩnh thản nhiên. Lâm chung chuyển được nghiệp



Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #85 - 29. Sep 2010 , 13:59
 
Hạnh nguyện lắng nghe

Đào Văn Bình

Bạn ơi, trong bao nhiêu điều có thể nói về Đạo Phật, chỉ xin bạn nhớ cho “Đạo Phật là đạo của những người biết lắng nghe.”

Nghe là sự vận hành tự nhiên của một cơ thể bình thường. Thế nhưng sự vận hành này tuy tự nhiên nhưng không phải hoàn toàn phóng túng, bừa bãi, vô tổ chức…mà có chọn lọc.

Chúng ta có thể ví lỗ tai (nhĩ căn) của chúng ta giống như một chú lính. Khi nhận được một tín hiệu, một thông điệp, một tin tức nào…thì chú vội vàng báo ngay cho chủ tướng của mình - không ai khác hơn là chính Ta. Mà cái Ta này chính là cái Tôi hay cái Ngã do Nhãn (Mắt), Nhĩ (Tai), Tị (Mũi), Thiệt (Lưỡi), Thân, Ý (Ý thức) kết hợp lại mà  thành.

Khi một “tin tức” tốt được “báo cáo” thì vị chủ nhân hân hoan nói, “Được, chú  tiếp tục nói đi.” Lúc đó vị “chủ tướng” tức cái Ngã, lim rim tận hưởng khóai cảm của những lời tán tụng, những lời du dương, những lời ngon ngọt gửi tới. Thật sướng lỗ tai!

Thế nhưng khi một lời nói khó chịu, một lời nói bất ưng được báo vào thì ông tướng lập tức nổi giận, quát tháo ầm ĩ “Cút đi! Ta không muốn nghe nữa!” Thật tội nghiệp cho chú lính. Chú chạy biến ra ngòai, ngồi xuống rầu rĩ bịt kín lỗ tại lại.

Trong khi đó thì “ông tướng” có thể vẫn tiếp tục nổi trận lôi đình, chửi bới rân trời và chú Khẩu (Miệng) bị vạ lây.

Nghe lời nói ngon ngọt thì dễ, nhưng nghe, hoặc lắng nghe lời nói nghịch nhĩ thì thật khó khăn. Đối với chúng sinh bình thường, sự lắng nghe đã khó, còn đối với những nhân vật gọi là quyền cao chức trọng, giầu có, tăm tiếng, thế lực, nổi tiếng v.v..thì sự khó khăn đó còn tăng gấp bội, bởi vì cái Tôi, cái Ngã của những vị này rất lớn.

Nhìn vào lịch sử Trung Hoa, chúng ta thấy biết bao trung thần, nghĩa sĩ đã chết vì những lời tâu trình nghịch ý vua. Khá hơn là những ông vua, tuy không ra lệnh chém đầu nhưng lại bỏ tù, hoặc tước hết phẩm trật, đuổi về quê những ông quan dại dột tâu lên những điều mà nhà vua không muốn nghe.

Còn tại triều đình Âu Châu, các ông vua Tây Phương tuy không đến nỗi ác độc như vậy, nhưng lại có một lối “bịt tai” một cách rất “thông minh”. Các ông vua này nuôi mấy anh hề, chạy lăng xăng trước ngai vàng. Khi có quan đại thần nào tâu trình điều gì thì mấy anh hề làm trò khiến vua cười sặc sụa. Và dĩ nhiên như thế vua có thể “đổ thừa” là “Trẫm có nghe gì đâu!”. Quan đại thần lúc đó chỉ có nước lạy tạ mà lui ra.

Còn tại Hoa Kỳ, một quốc gia được coi như triệt để bảo vệ quyền tự do ngôn luận và mọi người thảo luận trong tình thần ôn hòa, tương kính. Tuy nhiên không phải tất cả đều như vậy. Quý vị nào theo dõi các buổi hội luận, phát biểu ý kiến trên các đài truyền hình lớn như Fox News, CNN…chắc đã thấy rất nhiều trường hợp, các người tranh luận không thèm lắng nghe người đối diện mình nói, hoặc chờ cho đối thủ của mình nói xong. Cả hai người đều tranh nhau nói, khiến khán giả chẳng biết ông nói gì, bà nói gì, và dĩ nhiên chỉ có nước lắc đầu cười trừ.

Ở đây sự xung đột ý kiến lên tới mức trầm trọng khiến người ta không thèm lắng nghe nhau mà chỉ muốn phát biểu ý kiến của mình.

Thế nhưng trong số vô lượng chúng sinh đã và đang ngụp lặn, luân hồi trong Thế Giới Ta Bà này, có một nhân vật rất lạ lùng, đó là Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát đã phát hạnh nguyện lắng nghe; lắng nghe sự khổ đau cũng như nỗi bất ưng của muôn lọai chúng sinh mà đến cứu giúp. Mà ngài đã thể hiện hạnh nguyện đó từ vô lượng kiếp trước.

Do đâu mà chúng ta biết được hạnh nguyện của vị đại Bồ Tát hi hữu này?

Trong pháp hội tại Núi Kỳ Xà Quật của Thành Vương Xá, Ngài Vô Tận Ý Bồ  Tát, từ trong đại chúng đã đứng lên thưa hỏi Phật như sau: “Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”

Phật đã bảo ngài Vô Tận Ý Bồ-tát như sau:  “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ-tát này một lòng xưng danh, Quán Thế Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát” (Kinh Pháp Hoa)

Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát tương truyền đã và thường thị hiện thành hình tướng người nữ với tướng mạo thật đoan nghiêm, hiền từ, được gọi một cách thân thương và giản dị là Phật Bà Quan Âm để cứu độ bất cứ ai lên tiếng kêu khổ và niệm danh hiệu ngài. Câu niệm đầy đủ nhất là “Nam Mô Tầm Thanh Cứu Khổ, Cứu Nạn Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát!”.

Do đó mà hình tượng của Phật Bà Quan Âm đã được dựng lên khắp nơi, được kính ngưỡng, thờ phượng. Tại sao vậy? Bởi vì khi chúng ta niệm danh hiệu ngài, hoặc trông lên tượng Phật Bà Quan Âm, chúng ta cảm thấy bình an, được cảm thông, thấy tin tưởng và không còn sợ hãi.

Mới đây nhất một pho tượng Phật Bà Quan Âm, 17 tầng, cao 69.7 m, được xem là tượng Phật cao nhất Việt Nam đã được dựng và khánh thành tại Chùa Bãi Bụt hay Chùa Linh Ứng nhìn xuống Bãi Biển Sơn Trà, Đà Nẵng, không ngòai mục đích tôn kính biểu tượng của Từ Bi, Cứu Khổ, Hạnh Nguyện Lắng Nghe và Khát Vọng Bình An của mọi người.

Mẹ Hiền Quan Âm không tạo ra dông bão, lụt lội, động đất, cuồng phong, bệnh dịch, chiến tranh, chết chóc để lòai người sợ hãi mà van vái cầu xin. Hình ảnh đẹp của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống này ở nơi các bà mẹ hiền thương con vô bờ bến, không bao giờ giận hờn con, không bao giờ làm khổ con mà chỉ biết lo cho con.

Bạn ơi!

- Bạn không thể phát khởi Tâm Đại Bi, tức lòng xót thương người nếu bạn không lắng nghe những lời than van, kêu khổ của người khác.

- Bạn không thể chia sẻ nếu như bạn không nghe được nỗi lòng thầm kín, nỗi oan ức của người khác.

- Bạn không thể an ủi người khác nếu bạn bịt kín lỗ tai lại.

-  Hãy để cho người khác trút hết nỗi niềm tâm sự và bạn là người lắng nghe. Chỉ cần lắng nghe, lắng nghe một cách cảm thông và hiểu biết, thì nỗi khổ của người đối diện đã vơi đi rất nhiều.

- Ngày nay các nhà tâm lý trị liệu, các nhà cố vấn tâm lý chỉ là những người biết lắng nghe bạn trút hết nỗi lòng, những ý nghĩ thầm kín mà bạn không biết tâm sự cùng ai.

- Thật vĩ đại và nhiệm màu thay hình ảnh của Phật Bà Quan Âm chỉ vì ngài là bậc biết lắng nghe.

Để tìm hiểu thêm về sự tuyệt vời của hạnh nguyện lắng nghe, chúng ta kiểm điểm lại xem trong quá khứ đã bao lần chúng ta im lặng để lắng nghe lời kêu than của người khác? Phải chăng lúc đó chúng ta thấy chúng ta thật bao dung cởi mở? Phải chăng lúc đó cử chỉ và ngôn ngữ của chúng ta thật dịu dàng? Phải chăng lúc đó trái tim chúng ta không dung chứa gì, ngòai sự cảm thông? Chúng ta đã hiển lộ Phật tánh lúc nào mà chúng ta không hay.

Chính vì thế mà bạn ơi, hãy là một người biết lắng nghe, Be a good listener!

- Trong những đêm khuya thanh vắng, hãy im lặng để lắng nghe tiếng con cú đang gọi bạn.

- Tiếng vạc kêu sương,

- Tiếng con cò lặn lội bờ sông,

- Tiếng côn trùng rên rỉ,

- Tiếng dế nỉ non,

- Tiếng cóc, nhái, ễnh ương âm vang một hợp tấu tuy đơn điệu đối với chúng ta, nhưng vô cùng quyến rũ đối với loài lưỡng cư để mời gọi con mái,

- Tiếng mưa rơi trên mái ngói hay trên những mái nhà dột nát,

- Tiếng bà mẹ ru con,

- Tiếng than van của những người nghèo khó trong những khu lao động,

- Tiếng nhạc khích động vọng ra từ những phòng trà ca vũ của những người nhiều tiền lắm của tìm thú vui hoặc của những người cô đơn phải tìm một nơi giải trí cho vơi sầu muộn,

- Và cả tiếng cô ca sĩ đang cố ru hồn người bằng những cung bậc nỉ non, da diết,

- Tiếng nhạc Rock, nhạc Pop, nhạc Rap xập xình,

- Trong khi đó tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng hiền từ của ni cô đang ngồi tụng Kinh Cứu Khổ nghe rõ giữa canh khuya để cho thấy tình thương của nhân lọai vẫn còn đây,

- Tiếng đại bác từ chiến trường vọng về cho thấy nỗi gian nan của người chiến sĩ,

- Tiếng lá cây xào xạc theo ngọn gió đong đưa,

- Tiếng sóng vỗ rì rào như tiếng lòng của biển,

-  Rồi bất thần tiếng xe cứu thương rú lên như muốn xé tan màn đêm u tịch để cảnh báo cho mọi người đừng quên con người từng giây từng phút bị chi phối bởi luật Sinh, Lão, Bệnh, Tử,

- Và cả nhịp đập của trái tim mình.

Trong không gian bao la và tịch mịch đó, tất cả đều bình đẳng, tự do hiển lộ trong thế giới trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm. Lúc đó mọi tư tưởng đều vắng bặt, chỉ còn sự quán chiếu, cảm nhận và cảm thông. Phải chăng trong thế giới này chúng ta không cần chân lý mà cần sự cảm thông? Ít ra là trong giây phút này đây. Lắng nghe là một sự cảm thông kỳ diệu nhất.

- Chư Phật trong hằng hà sa số thế giới đều lắng nghe lời diễn nói của chư Phật ở thế giới khác.

- Trong nhiều pháp hội có khi Đức Phật chỉ lắng nghe những vị Bồ Tát rồi ấn chứng.

- Trong nhiều pháp hội, thính chúng chỉ lắng nghe Phật nói không thôi mà cũng đắc quả.

- Trong khi các vị thần chỉ biết ra oai và trừng phạt thì các Bồ Tát, A La Hán, Bích Chi Phật và  hàng Đại Sĩ trong vô lượng kiếp lại biết lắng nghe.

Trong bối cảnh đầy bạo lực và có nguy cơ hủy diệt của thế giới ngày hôm nay, Đạo Phật đang trở thành ngọn đuốc lương tri cho nhân lọai. Mặc dù Đạo Phật chưa ảnh hưởng tới những thế lực chỉ muốn dùng sức mạnh để giải quyết những vấn đề của con người, nhưng Đạo Phật đang từ từ thấm dần vào hàng ngũ trí thức khắp mọi nơi.

Là Phật tử chúng ta hiểu rằng sinh mệnh của Đạo Phật nằm ở hai chữ Từ Bi. Từ Bi là xót thương, là cứu độ, là không làm người khác khổ, là cảm thông và biết lắng nghe. Khi mọi người không còn muốn nghe người khác nói nữa thì đó là lúc mà sự ghét bỏ, nghi kỵ, hận thù, xa cách lớn dần lên.

Không biết lắng nghe, hoặc không thèm lắng nghe người khác cũng là một hình thái xây đắp hoặc bảo vệ một ngục tù tư tưởng hay một “Tử Cấm Thành” của cái Tôi.

Sự vĩ đại của Đạo Phật hay của Đức Phật là sự giải phóng trí tuệ và “viễn ly mọi điên đảo, mộng tưởng” (*). Chính những điên đảo mộng tưởng này đã đưa tới vọng động làm khổ mình và làm khổ nhân lọai.

Bạn ơi, trong bao nhiêu điều có thể nói về Đạo Phật, chỉ xin bạn nhớ cho “Đạo Phật là đạo của những người biết lắng nghe.”

Đào Văn Bình

Tháng 9 năm 2554.PL- 2010. TL

(*) Bát Nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
Back to top
 
 
IP Logged
 
Hoa Hạ
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 1628
CA, USA
Gender: female
Thiền là gì?
Reply #86 - 02. Oct 2010 , 20:15
 
Thiền là gì?
Ajahn Sumedho


Trong Phật giáo, chữ Thiền được dùng để chỉ định hai cách thực tập sau đây. Cách thực tập một gọi là "Thiền định " (samatha), và cái thứ hai gọi là "Thiền Minh Sát " (Vipassana).

Hiện nay, chữ "Thiền" được sử dụng rất nhiều để diễn tả nhiều cách thực tập.

Trong Phật giáo, chữ Thiền được dùng để chỉ định hai cách thực tập sau đây.

Cách thực tập một gọi là "Thiền định " (samatha), và cái thứ hai gọi là "Thiền Minh Sát " (Vipassana).

Thiền định (Samatha) là cách tập trung ý tưởng vào một vật và không để bị chi phối bởi gì khác. Ta chọn một đề mục như hơi thở chẳng hạn, và chú tâm theo dõi hơi thở ra vào. Trong cách thực hành nầy sau một thời gian huân tập, tâm trí của bạn sẽ được an lành, yên tịnh, vì những ý tưởng lăng xăng lộn xộn đến từ những cảm thọ đã bị cắt đứt. Không cần phải nói, muốn được yên tịnh, bạn cần phải sử dụng những gì có thể mang lại sự yên tịnh. Nếu bạn muốn náo nhiệt thì đừng tìm đến thiền viện, mà hãy đi vào vũ trường. Sự náo nhiệt hay làm chúng ta chú ý, phải không nào ? 

Sự náo nhiệt có những rung động rất mạnh và chúng hút bạn vào trong đó. Nếu đi xem phim mà phim sôi động thì bạn cũng náo nức không kém. Bạn chẳng cần chút cố gắng nào. Nhưng nếu bảo bạn phải chú tâm vào cái gì yên tịnh thì thiệt là chán, phải vậy không ? Còn gì chán bằng khi phải theo dõi hơi thở khi mà bạn đã từng quen chú ý đến những cái náo nhiệt hơn ? 

Vì thế đối với sự thực tập nầy, bạn cần phải có một sự cố gắng lớn nơi tâm trí của bạn, vì hơi thở không có gì đặc biệt, không lãng mạn, không phiêu lưu, hay hấp dẫn... hơi thở rất là tầm thường. Nó chỉ có như thế, vì vậy bạn phải cố gắng nhiều hơn. 

Trong cách thiền nầy, bạn không cần phải sáng tạo bất cứ một hình ảnh nào. Chỉ cần chú tâm theo dõi hơi thở. Sau một thời gian theo dõi hơi thở, dần dần hơi thở sẽ trở nên nhẹ nhàng, đều đặn, và bạn sẽ trở nên trầm lặng hơn... Tôi biết có những lời khuyên nên tập thiền định để giúp không bị áp huyết cao, vì thiền định làm cho nhịp tim đập tốt hơn. Ðây là một cách thực tập để được yên tịnh. Bạn có thể chọn những đề mục khác nhau để tập trung sự chú tâm cho đến khi mà bạn cảm thấy mình và đề mục chú tâm trở nên Một. Sau một thời gian tập luyện đến mức độ nầy thì gọi là "sự hòa nhập."

Trong khi Thiền Minh Sát (Vipassana) hoặc "Thiền quán" thì với cách thực tập theo cái nhìn thấu đáo thì tư tưởng của bạn sẽ được mở rộng.


Bạn không cần phải chọn những đề mục đặc biệt để tập chú tâm, hoặc phải hòa nhập với chúng. Nhưng bạn chỉ cần nhìn, quan sát để hiểu rõ sự vật như nó là. Khi nào bạn thấy rõ sự vật như nó là thì bạn sẽ thấy những cảm xúc thật là vô thường. Mọi thứ bạn thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm; tất cả những khái niệm trừu tượng... những cảm giác của bạn, ký ức hay ý nghĩ -- đang trên đà thay đổi, và tâm tưởng của bạn cũng vì thế mà đổi thay... Chúng xuất hiện một lúc rồi chúng biến mất. 

Trong Thiền Vipassana, chúng ta giữ ý niệm của sự vô thường (hoặc thay đổi) như là một cách để quan sát những cảm thọ. Ðây không phải là một triết lý hay một sự tin tưởng có tính cách Phật học, mà đây là thấy được Vô thường -- thấy mọi vật một cách thấu đáo, với cặp mắt của hiểu biết, để biết rõ mọi sự vật như nó là. 

Ðây không phải là cách phân tách những sự vật để đánh giá rằng chúng như thế nầy hay thế khác - và khi sự vật không như ta nghĩ, ta lại tìm cách suy đoán nguyên nhân tại sao. Với sự thực tập về "cái thấy rốt ráo", chúng ta không phân tách hay thay đổi sự vật theo ý của mình. 

Trong cách thực tập nầy, chúng ta chỉ kiên nhẫn quan sát để thấy những gì xuất hiện sẽ biến mất, cho dù trên phương diện tinh thần hay vật chất. Khi 'căn' và 'trần' duyên với nhau thì ý thức liền xuất hiện. 

Sau đó là cảm giác thương hoặc ghét đối với những gì chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm. Tất cả những tên gọi, những ý tưởng, những chữ và khái niệm, chúng ta đặt ra theo kinh nghiệm của sự cảm thọ.

Phần lớn đời sống của chúng ta được dựa trên sự phán đoán sai lầm vì chúng ta không hiểu cũng như không chịu tìm tòi sự thật. Vì vậy đối với một người không "tỉnh thức", cuộc sống dường như chán chường, lộn xộn, nhất là lúc mà những thất vọng hay đau buồn xảy đến. Và như vậy, người đó dễ bị khủng hoảng thần kinh, vì họ đã không quan sát được sự vật như chúng là.

Trong danh từ Phật giáo, chúng ta dùng chữ Pháp (Dhamma or Dharma) có nghĩa "sự thể như nó là" - "luật thiên nhiên". Khi chúng ta quan sát và "thực tập pháp", chúng ta mở rộng tư tưởng của chính mình để hiểu rõ sự vật như nó là. Như vậy, chúng ta sẽ không còn phản ứng mù quáng, chạy theo những cảm thọ; chúng ta đã hiểu được, và với sự hiểu biết nầy, là một bắt đầu cho sự từ bỏ chạy theo cảm thọ. 

Chúng ta không bị bề ngoài của sự vật làm mờ mắt, và chúng ta bắt đầu giải thoát cho chính mình khỏi sự ràng buộc. Ðể được tỉnh thức không phải là để trở thành như thế nào mà là "sống như thế". 

Vì vậy, chúng ta hãy tập quan sát ngay bây giờ xem làm thế nào để trở nên như thế trong tương lai. Ngồi nơi đây, chúng ta quan sát thân thể như nó là. Thân thể thuộc về thiên nhiên, phải không nào ? 

Cơ thể con người thuộc về đất, nó cần được nuôi dưỡng bằng những thức từ mặt đất. Bạn không thể sống bằng không khí hoặc thực phẩm nhập cảng từ hành tinh hay vệ tinh. Bạn cần phải ăn những thức ăn được nuôi dưỡng và lớn lên từ trái đất nầy. Khi mà cơ thể hư hoại, nó trở về cát bụi, nó hư thối, mục rửa và trở nên một với đất. Nó chỉ theo chu trình tự nhiên của sinh và diệt, của thành và hoại. Tất cả những gì sanh ra sẽ lớn lên, già đi và rồi chết. Tất cả mọi thứ trong thiên nhiên cho đến vũ trụ, cũng có thời hạn của chúng; sanh rồi chết, bắt đầu và kết thúc. Tất cả những gì chúng ta nhận thấy và có khái niệm đều trên đà thay đổi; chúng vô thường, vì thế không có gì có thể làm bạn hài lòng lâu dài. 

Với sự thực tập pháp, chúng ta quan sát sự bất như ý của các cảm thọ.


Bạn hãy để ý xem, trong cuộc sống của bạn, khi bạn muốn được như ý từ những cảm thọ thì sự thỏa mãn nầy chỉ ngắn hạn, dù hạnh phúc, cũng chỉ trong giây phút -- và rồi thì nó cũng thay đổi. Bởi vì trong ý thức cảm thọ, không có tính chất thường còn. Vì vậy cảm thọ luôn đổi thay và vì si mê, thiếu hiểu biết, nên chúng ta hay đòi hỏi quá đáng nơi những cảm thọ. 

Chúng ta hay hy vọng, đòi hỏi, tạo ra đủ mọi thứ để rồi sau đó cảm thấy thất vọng, chán chường, hối tiếc, với nỗi thống khổ già, bệnh, chết. 

Ðây là cách xem xét ý thức của cảm thọ. Tư tưởng có thể suy nghĩ một cách trừu tượng, có thể tạo ra đủ thứ ý kiến và hình ảnh, có thể làm cho mọi vật trở nên xinh đẹp hay thô xấu. Nó có thể biến một trạng thái từ sang đẹp, hạnh phúc tới đau đớn, thô kệch, khổ sở : từ thiên đàng đến địa ngục. Nhưng không có thiên đàng hay địa ngục thường trực, bởi vì tất cả đều là vô thường. Trong lúc chúng ta thực tập thiền, chúng ta bắt đầu biết được những giới hạn, thấy rõ sự bất như ý, tính chất thay đổi của cảm thọ; chúng ta cũng bắt đầu hiểu rằng không có gì là "tôi" hay "của tôi", tất cả chỉ là "anatta", vô ngã.

Vì vậy, khi hiểu rõ điều nầy, chúng ta bắt đầu giải thoát cho chính chúng ta khỏi những ràng buộc với những trạng thái của cảm thọ. Không phải là chúng ta chán ghét chúng nhưng để hiểu rõ thực chất của chúng.

Ðây là một sự thật cần được thấu hiểu, không phải là niềm tin.


"Anatta" không phải là niềm tin của Phật giáo nhưng mà là một chứng nghiệm thực sự. Bây giờ nếu bạn không chịu bỏ thời gian để tìm hiểu điều nầy, và vì thế suốt cuộc sống của bạn, bạn tin rằng bạn là thân thể nầy. Măc dù đôi lúc bạn cũng chợt nghĩ, "Ô, tôi không phải là thân nầy" trong lúc bạn đọc một bài thơ gây hứng khởi hoặc một đoạn về triết lý mới. 

Bạn có thể nghĩ thật là hay quá, vì mình không phải là thân thể nầy, nhưng chính bạn đâu có chứng nghiệm được điều đó. Cho dù có những người rất thông thái sẽ nói, "chúng ta không phải là thân thể, thân thể không phải là ta." - Nhưng thật ra, nói thì dễ, thật sự Biết thì là việc khác. 

Xuyên qua việc thực tập Thiền, khi có được sự hiểu biết về tính chất thật của sự vật, chúng ta bắt đầu cởi trói cho chính chúng ta khỏi những ràng buộc tham đắm. Khi chúng ta không còn đòi hỏi, ham muốn thì chúng ta sẽ không còn hối tiếc hay chán nản, đau buồn khi chúng ta không được những gì chúng ta muốn. 

Và đây là mục đích -- Niết bàn (Nibbana hay Nirvana), là sự thấu hiểu về không ham muốn bất cứ điều gì có bắt đầu và có kết thúc. Khi chúng ta bỏ đi những ham muốn thường hằng, chúng ta bắt đầu thấu hiểu được sự bất tử.

Nhiều người chỉ sống một cuộc sống giống như con chó của Pavlovian.


Dù có thông minh nhưng chỉ là sự thông minh được "uốn nắn" sẵn. 


Nhìn xem con chó của Pavlovian, chảy nước dãi khi nghe tiếng chuông - chúng ta cũng có hơn gì đâu. Bởi vì với kinh nghiệm cảm thọ, tất cả chỉ là được "uốn nắn" sẵn. Thân thể, cảm giác, ký ức, ý nghĩ là những khái niệm đã ''có sẵn '' trong tâm thức, xuyên qua cuộc sống làm người. 

Ðược sanh ra trong một gia đình, chủng tộc, quốc tịch, thuộc về một giai cấp nào đó, dựa trên cơ thể đàn ông hay đàn bà, xấu hay đẹp, vân vân và vân vân. Ðây là tất cả những trạng thái ''có sẵn'', không phải là của chúng ta, không phải Tôi hay Của tôi. 

Những trạng thái nầy theo quá trình của quy luật thiên nhiên, chúng ta không thể nói, "Tôi không muốn già đi" -- Chúng ta có thể nói như thế, nhưng mà cơ thể vẫn cứ già. Chúng ta không thể nào đòi hỏi cơ thể không bao giờ đau đớn hay đừng bịnh, lúc nào cặp mắt cũng thấy rõ, tai lúc nào cũng nghe rõ.

Chúng ta thường hy vọng như vậy, có phải không nào?

"Tôi mong sao cho tôi luôn khỏe mạnh, không bao giờ bị tàn tật, luôn luôn có mắt sáng, không bao giờ bị mù lòa; có tai thính để luôn luôn nghe rõ, không như những người già lãng tai, luôn bị người la vào mặt; và tôi sẽ không bị lãng trí, lúc nào cũng điều khiển được các giác quan của mình cho đến 95 tuổi, vẫn còn lanh lẹ, sáng suốt, yêu đời, và được chết trong giấc ngủ không đau đớn." 

Chúng ta ai ai cũng đều mong muốn như vậy cả. Có những người trong chúng ta có thể sống lâu và chết an lành. Cũng có thể xảy ra như thế, nhưng mà khó nói trước lắm! 

Tuy nhiên, gánh nặng cuộc sống sẽ nhẹ đi nhiều nếu chúng ta biết được giới hạn của chính mình. Chúng ta biết được chúng ta làm được gì và học được gì trong đời sống nầy. Những nỗi khổ đau của con người đều bắt nguồn từ những ham muốn quá đáng, muốn được hết những gì mình đòi hỏi.

Do đó, khi thực tập thiền, thì chúng ta sẽ thấu hiểu rõ ràng về sự vật cũng như tính chất thật của chúng. Chúng ta có thể thấy vẻ đẹp, vẻ cao quý, sự sung sướng, cũng như sự xấu xí, sự đau đớn, nỗi khổ đau, là những trạng thái vô thường. 

Nếu bạn thật sự hiểu điều nầy thì bạn có thể sung sướng và chịu đựng tất cả những gì có thể xảy ra cho bạn. Thật ra, bài học của cuộc sống là học chịu đựng những gì chúng ta không thích nơi chúng ta cũng như nơi cuộc sống, để trở nên kiên nhẫn và tử tế hơn; và sẽ không quá chú trọng đến những gì bất toàn nơi những cảm thọ. Chúng ta có thể thích ứng và chịu đựng cũng như chấp nhận tính cách đổi thay của sự vật, để không còn bám víu vào chúng nữa. Khi chúng ta không còn đồng hóa mình với sự vật, chúng ta sẽ kinh nghiệm được bản chất thật của mình. Một cái gì đó trong sạch, sáng suốt, hiểu biết. Không còn sự lệ thuộc giữa ta và vật. Không có "của tôi" hay "tôi"... không có gì để bám víu vào hay phải đạt cho bằng được.

Những lời dạy của Ðức Phật giúp chúng ta thấy rõ được sự vật như nó là. Những lời dạy đưa chúng ta đến sự hiểu biết. Những lời nầy không phải là những lời răn hay giáo điều mà chúng ta buộc phải chấp nhận hay tin tưởng. Chúng ta không học những lời dạy của Ðức Phật như học bài; nhưng mà học những lời nầy để tự nhắc nhở mình phải luôn tỉnh thức, sáng suốt và chú ý đến những gì đang xuất hiện cũng như biến mất.

Ðây là một cách luôn luôn theo dõi và quan sát không ngừng nghỉ về những hiện tượng của cảm thọ. Khi có được thân thể nầy và sống trong một xã hội như hiện nay, ai ai trong chúng ta cũng cảm thấy bị "bực bội" phần nào.


Mọi sự diễn biến rất nhanh... truyền hình và máy móc hiện đại, xe cộ... mọi thứ dường như tiến triển ở mức độ khá nhanh. 

Thật là hay, thật là náo nhiệt và thích thú, và mọi thứ hình như thu hút mọi giác quan của chúng ta. Chẳng hạn ở Luân Ðôn, để ý xem, chúng ta sẽ thấy những bích chương quảng cáo mời gọi chúng ta dùng rượu và thuốc lá! 

Sự chú ý của chúng ta được mời gọi để tiêu thụ, các giác quan luôn luôn tìm kiếm những kích thích mới cho sự cảm thọ. Xã hội vật chất luôn kích thích lòng tham của chúng ta, để cho chúng ta phải xài tiền, và sẽ không bao giờ hài lòng với những gì mình đang có. Lúc nào cũng phải có gì khác hơn, tốt hơn, đẹp hơn, ngon hơn, mới hơn những thứ của ngày hôm qua....
Và cứ tiếp tục như thế, các giác quan của bạn bị bao thứ mời gọi, lôi kéo...

Nhưng khi chúng ta bước vào thiền phòng, chúng ta không đến đây để nhìn nhau, hoặc để cho những đồ vật trong phòng lôi cuốn. Nhìn mọi vật để nhắc nhở lấy mình, nên tập trung tư tưởng vào một vật an lành, hoặc tìm hiểu và suy ngẫm về bản chất của sự vật. Chúng ta cần phải chứng nghiệm điều nầy tự nơi bản thân mỗi người. Không có sự giác ngộ của ai khác có thể làm cho mình trở nên giác ngộ. Ðây là một việc làm đòi hỏi nơi tự tâm. Không thể nào đem sự giác ngộ của người khác để giúp mình giác ngộ. 

Ðây là một cơ hội để khuyến khích và chỉ dẫn cho những ai muốn "tự thức tỉnh". Nơi đây, thường thì không ai giựt bóp của bạn cả! Vì đây là Thiền Viện nên vẫn an toàn hơn ngồi ở gánh xiếc phải không nào ? Thiền Viện là nơi tạm trú để khai thị tư tưởng của chúng ta. Ðây là một cơ hội duy nhất của chúng ta để thực tập Thiền khi chúng ta đang mang được thân người.

Ðược làm người chúng ta có được tư tưởng có thể suy ngẫm và quan sát. Bạn có thể quan sát sự giận dữ, hay ghen tuông, hoặc sự lộn xộn nơi tư tưởng của mình. Khi bạn ngồi xuống và cảm thấy thật sự lộn xộn hay tức giận, có một cái gì nơi bạn đang biết được điều nầy. 

Nếu bạn không thích nó thì bạn sẽ phản ứng một cách mù quáng.


Nhưng nếu bạn kiên nhẫn và quan sát thì bạn sẽ thấy sự tức giận, lộn xộn, hay tham lam đều là những trạng thái luôn thay đổi, không thường hằng.

Như một con thú thì không thể quan sát như chúng ta được. Khi nó giận thì nó chỉ biết giận. Thử bảo một con vật nào đang giận, quan sát cái giận của nó xem! Dĩ nhiên là không thể nào được. 

Nhưng chúng ta có thể quan sát được con mèo, và luôn cả những ham muốn của nó khi nó nhìn thấy đồ ngon. Chúng ta thấy đồ ngon, thích thú những đồng thời cũng thấy được cái ham muốn nơi chính mình. Và đây là cách dùng sự sáng suốt của chính mình để theo dõi cái ham muốn và để hiểu rõ nó hơn. Cái mà đang quan sát sự ham muốn. Sự ham muốn không thể quan sát lấy chính nó. Vì thế cái mà đang quan sát theo dõi sự vật, chúng ta gọi là "Phật" hay "Phật tánh" -- "Cái biết" , sự chú ý về những gì đang xảy ra.

Trích trong "The meditation teaching of Ven. Sumedho."
Mindfulness : The Path to the Deathless

From: tuan le

Back to top
« Last Edit: 02. Oct 2010 , 20:16 by Hoa Hạ »  
 
IP Logged
 
Hoa Hạ
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 1628
CA, USA
Gender: female
]Phương pháp thiền
Reply #87 - 02. Oct 2010 , 20:18
 
Phương pháp thiền (Thiền minh sát: Vipassana) cơ bản cho mọi người
Mahasi Sayadaw



Thiền Minh sát là một trong những phương pháp thiền cơ bản, thực hành phương pháp thiền này giúp thiền sinh có một cách hiểu đúng đắn về bản chất của tinh thần và thể lý trong thân thể người tu tập. Hiện tượng thể lý là những việc hay vật mà người tu nhận thức một cách rõ ràng quanh mình và bên trong mình.

Toàn thể thân xác người tu gồm một nhóm các phẩm chất thể lý. Hiện tượng tinh thần là hoạt động của ý thức hay cái biết. Những điều này được nhận thức một cách rõ ràng bất cứ khi nào các pháp được nhìn thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, hay được nghĩ tới. Chúng ta phải tỉnh thức về các hiện tượng tinh thần này bằng cách quan sát chúng và ghi nhận [niệm về] chúng như: “[đang] thấy, thấy”, “nghe, nghe”, “ngửi, ngửi”, “nếm, nếm”, “sờ, sờ”, hay “nghĩ, nghĩ”.

Mỗi lần bạn thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ, hay suy nghĩ, bạn hãy niệm [ghi nhận] về việc đó. Tuy nhiên, khi mới tập, bạn không có thể niệm tất cả các việc đó. Do đó, bạn nên bắt đầu bằng cách niệm những việc dễ dàng nhận thấy và dễ dàng nhận thức.

Với từng hơi thở, bụng của bạn phồng lên và xẹp xuống – chuyển động này luôn luôn là hiển nhiên. Đây là phẩm chất thể lý được biết như phần tử của chuyển động. Bạn nên bắt đầu bằng cách niệm [về] chuyển động này, điều có thể làm được bằng cách để tâm quan sát vùng bụng. Bạn sẽ thấy bụng phồng lên khi bạn hít vào, và xẹp xuống khi bạn thở ra. Việc phồng lên nên được niệm trong tâm là “phồng”, và việc xẹp xuống thì niệm là “xẹp.” Nếu chuyển động không được nhận ra rõ ràng, bạn cứ đặt lòng bàn tay lên bụng để nhận ra. Đừng đổi cách bạn thở. Cũng đừng thở chậm lại hay thở mau hơn. Cũng đừng thở quá mạnh bạo gấp gáp. Bạn sẽ mệt mỏi nếu bạn đổi cách bạn thở. Hãy thở đều đặn như bình thường, và hãy niệm nơi bụng đang phồng và xẹp. Hãy niệm trong tâm, đừng nói thành lời.

Trong Thiền Minh Sát, điều bạn gọi tên hay nói thì không quan trọng. Điều thực sự quan trọng chính là biết, hay nhận thức. Trong khi niệm bụng phồng lên, hãy làm như thế từ lúc khởi đầu cho tới khi hết chuyển động [phồng] này, y hệt như bạn đang nhìn nó bằng mắt. Hãy làm tương tự với chuyển động xẹp. Sự chuyển động [phồng, xẹp] và nhận biết về nó nên xảy ra cùng lúc, hệt như một viên đá được ném trúng mục tiêu. Tương tự, với chuyển động xẹp.

Tâm của bạn có thể lang thang chạy lạc nơi khác, trong khi bạn niệm về chuyển động của bụng. Điều này cũng phải được tâm ghi nhận rằng, “[niệm] lạc, lạc [rồi].” Khi điều này đã được niệm một lần hay hai lần, thì tâm ngưng lang thang chạy lạc, rồi bạn trở lại niệm về chuyển động phồng, xẹp của bụng. Nếu tâm chạy tới nơi khác, hãy ghi nhận là “[niệm] tới, tới”. Rồi thì hãy quay về phồng, xẹp của bụng. Nếu bạn chợt nghĩ tới việc gặp một người nào, thì hãy niệm là “gặp, gặp”. Rồi hãy trở về phồng, xẹp. Nếu bạn chợt nghĩ tới chuyện gặp và nói chuyện với ai đó, thì hãy niệm “nói, nói”.

Ngắn gọn, bất cứ những gì mà ý nghĩ và trí nhớ xảy ra, đều hãy được niệm [ghi nhận]. Nếu bạn tưởng tượng, hãy niệm là “tưởng, tưởng”. Nếu bạn suy nghĩ, hãy niệm “nghĩ, nghĩ”. Nếu bạn hoạch định kế họach, hãy niệm “hoạch, hoạch”. Nếu bạn nhận thức, hãy niệm “thức, thức”. Nếu bạn đang nhớ, hãy niệm “nhớ, nhớ”. Nếu bạn thấy hạnh phúc vui vẻ, hãy niệm “vui, vui”. Nếu bạn thấy chán nản, hãy niệm “chán, chán”. Nếu bạn cảm thấy hài lòng ưa thích, hãy niệm “thích, thích”. Nếu bạn cảm thấy phiền lòng, hãy niệm “phiền, phiền”. Ghi nhận tất cả các hoạt động của ý thức được gọi là quán sát tâm (quán tâm, cittanupassana).

Bởi vì chúng ta không ghi nhận được về các sinh họat này của ý thức, chúng ta có khuynh hướng nhận diện chúng với một người hay một cá thể. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng đó là “tôi” đang hình dung, nghĩ tưởng, hoạch định, biết về hay nhận thức. Chúng ta nghĩ rằng có một người, mà người này từ thời thơ ấu trở đi, đã đang sống và nghĩ ngợi. Thực sự, không có ai như vậy hiện hữu. Thay vậy, chỉ có những sinh hoạt ý thức nối tiếp liền nhau. Đó là tại sao chúng ta phải niệm về các sinh hoạt ý thức này, và biết chúng như chúng là. Cho nên, chúng ta phải nhận biết từng và tất cả các sinh hoạt ý thức khi nó dấy khởi. Khi niệm như thế, nó có khuynh hướng biến mất đi. Rồi chúng ta trở lại niệm phồng, xẹp nơi bụng.

Khi bạn phải ngồi thiền tập trong một thời gian lâu, cảm giác tê cứng và hơi nóng sẽ khởi lên trong cơ thể bạn. Những điều này cũng phải được [niệm] ghi nhận kỹ càng. Tương tự với cảm thọ về đau đớn và mỏi mệt. Tất cả những cảm thọ này là khổ (cảm giác không thỏa mãn), và niệm [ghi nhận] về chúng là niệm khổ thọ. Bỏ qua hay không ghi nhận được các cảm thọ đó sẽ làm bạn nghĩ: “Tôi tê cứng rồi, tôi đang cảm thấy nóng, tôi đau đớn này. Tôi mới hồi nảy còn thoải mái. Bây giờ tôi chịu khổ với các cảm thọ khó chịu này.” Việc căn cước hóa các cảm thọ này với tự ngã là nhầm lẫn rồi. Thực sự không có cái “tôi” nào liên hệ tới, mà chỉ là một chuỗi liên tục các cảm thọ khó chịu nối tiếp nhau.

Nó y hệt như một chuỗi nối tiếp các [chu kỳ] dao động điện khí nối nhau và làm bật sáng ngọn đèn điện. Mỗi lần các chạm xúc khó chịu tới với cơ thể, các cảm thọ khó chịu khởi lên cái này sau cái kia. Những cảm thọ này nên được niệm [nhận ra] kỹ càng và chú tâm, cho dù chúng là cảm thọ về sự tê cứng, về hơi nóng, hay về đau đớn. Lúc mới đầu tập thiền, các cảm thọ này có thể có khuynh hướng tăng thêm và dẫn tới ước muốn thay đổi tư thế ngồi của người tu. Ước muốn đó nên được [niệm] ghi nhận, sau đó học nhân nên trở về việc niệm các cảm thọ về sự tê cứng, về hơi nóng, vân vân.

Có một câu nói, “Kiên nhẫn dẫn tới Niết Bàn.” Câu nói này đặc biệt liên hệ tới tu tập thiền định. Bạn phải kiên nhẫn thiền tập. Nếu bạn chuyển hay đổi tư thế quá thường xuyên bởi vì bạn không thể chịu nổi cảm thọ về sự tê cứng hay hơi nóng phát khởi, thì đại định không thể hình thành. Nếu không có định, thì sẽ không có huệ, và không thể có thành đạo, mà quả chính là niết bàn. Đó là lý do vì sao cần kiên nhẫn trong thiền tập. Đó hầu như là kiên nhẫn với các cảm thọ khó chịu trong cơ thể như sự tê cứng, hơi nóng, sự đau đớn và các cảm thọ khó chịu khác. Khi xuất hiện các cảm thọ như thế, bạn đừng ngay lập tức đổi thế ngồi. Bạn nên tiếp tục một cách kiên nhẫn, chỉ niệm nó như là “tê, tê” hay “nóng, nóng”. Các cảm thọ khó chịu trung bình cũng sẽ biến mất nếu bạn niệm [ghi nhận] chúng một cách kiên nhẫn. Khi định lực vững vàng, thì ngay cả các cảm thọ căng hơn cũng có khuynh hướng biến mất. Rồi thì bạn trở lại niệm về bụng phồng, xẹp.

Dĩ nhiên, bạn sẽ phải đổi thế ngồi nếu cảm thọ không tan biến ngay cả sau khi niệm chúng một thời gian lâu, hay là khi chúng trở thành hết chịu nổi. Rồi thì bạn nên bắt đầu bằng cách niệm “muốn thay đổi, muốn thay đổi.” Nếu bạn đưa cánh tay lên, hãy niệm rằng “lên, lên”. Nếu bạn cử động, hãy niệm rằng “động, động”. Thay đổi này nên làm cho dịu dàng, và niệm như là “lên, lên”, “động, động” và “chạm, chạm”.

Nếu thân bạn nghiêng ngả, hãy niệm rằng “nghiêng, nghiêng”. Nếu bạn nhấc chân lên, hãy niệm rằng “lên, lên”. Nếu bạn cử động nó, hãy niệm rằng “động, động”. Nếu bạn thả nó xuống, hãy niệm rằng “thả, thả”. Khi không còn động chuyển nữa, hãy trở lại niệm về phồng, xẹp nơi bụng. Đừng để cho có khoảng cách nào, mà cứ để có liên tục giữa niệm trước và niệm kế liền đó, giữa trạng thái định trước và trạng thái định kế liền đó, giữa một tuệ trước và một tuệ kế tiếp liền đó. Chỉ khi đó mới có các bước tiến liên tục trong hiểu biết của người tu. Kiến thức về đạo và quả chỉ thành đạt được khi nào có các đà tiến liên tục này. Tiến trình thiền tập thì y hệt như tiến trình làm ra lửa bằng cách tận lực và liên tục chà xát hai thanh gỗ vào nhau để tạo ra đủ hơi nóng mà bật ra lửa.

Trong cùng cách đó, hành vi niệm [ghi nhận] trong Thiền Minh Sát phải được liên tục và không ngừng nghỉ, không có bất kỳ khoảng cách nào giữa việc niệm, bất kể có hiện tượng nào sinh khởi. Thí dụ, nếu cảm thọ về ngứa khởi lên và bạn muốn gãi bởi vì nó rất khó chịu đựng, thì cả cảm thọ và ước muốn gãi cũng phải được niệm tới, mà không tức khắc xóa bỏ cảm thọ bằng cách gãi.

Nếu bạn kiên trì chống lại thì cảm thọ ngứa nói chung sẽ biến mất, bạn lại trở về niệm phồng, xẹp nơi bụng. Nếu ngứa không biến mất, bạn có thể gãi cho hết, nhưng trước tiên là ước muốn làm thế phải được niệm ghi nhận. Tất cả các chuyển động trong tiến trình gãi ngứa phải được niệm ghi nhận, đặc biệt là các chuyển động sờ, kéo và đẩy, và gãi, rồi lại trở về niệm phồng, xẹp nơi bụng.

Bất cứ khi nào bạn đổi thế ngồi, hãy bắt đầu bằng cách niệm về ý định hay ước muốn thay đổi, và hãy niệm từng chuyển động. Thí dụ như việc nhấc lên từ tư thế ngồi, nâng cánh tay, cử động và duỗi cánh tay, bạn nên niệm các chuyển động cùng lúc với khi đang làm các chuyển động đó. Khi cơ thể bạn nghiêng về phía trước, hãy niệm để ghi nhận nó. Khi bạn nhấc lên, cơ thể trở nên nhẹ nhàng như đang nhấc lên, hãy tập trung tâm bạn vào điều này, bạn nên nhẹ nhàng niệm như là “lên, lên”.

Một thiền gia sẽ cư xử hệt như một người yếu đuối vô tích sự. Những người sức khoẻ bình thường nhấc lên một cách dễ dàng và mau chóng, hay đột ngột. Người yếu bệnh thì không như thế, họ làm điều đó một cách chậm chạp và dịu dàng. Cũng tương tự như thế với người đau lưng; họ nhấc lên dịu dàng, nếu không thì lưng lại thương tổn và đau đớn. Những thiền gia cũng như thế. Họ sẽ đổi thế ngồi một cách dịu dàng và từ từ; chỉ lúc đó thì sự tỉnh thức, định và tuệ mới hiển lộ rõ ràng. Do vậy, hãy khởi đầu với các cử động dịu dàng và từ từ. Khi nhấc [người] lên, hãy làm như thế một cách dịu dàng như người yếu bệnh, trong cùng lúc niệm “lên, lên”. Không chỉ như thế, xuyên qua mắt nhìn, bạn phải làm y hệt như đang bị mù. Và làm tương tự như thế, với khi tai nghe. Trong khi thiền tập, quan tâm của bạn chỉ là niệm ghi nhận thôi. Cái gì bạn thấy và nghe không phải là quan tâm của bạn. Cho nên, bất cứ thứ gì kỳ lạ hay bất ngờ mà bạn có thể thấy hay nghe, bạn phải xem như bạn không thấy hay không nghe chúng, mà chỉ đơn giản niệm một cách cẩn trọng.

Phan Tấn Hải (dịch)
Back to top
 
 
IP Logged
 
mydung
Full Member
***
Offline



Posts: 195
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #88 - 06. Oct 2010 , 09:19
 
Niệm Phật
 
Niệm Phật không phải…:
1)      Niệm Phật không phải để cầu xin Phật ban cho một điều ước nào đó.
2)      Niệm Phật không phải để tăng thêm sức mạnh, thêm can đảm để đối phó với kẻ thù. Cho nên trong Phật Giáo trải qua hơn 2500 năm, không hề có chuyện một đòan quân lâm trận dương cao biểu tượng hay hình Đức Phật để hăng máu, can đảm xông lên chém giết kẻ thù.
3)      Niệm Phật không phải là để van xin Phật ban cho môt giải pháp để giải quyết một tình thế khó khăn.
4)      Niệm Phật không phải để xin Phật ban bố phép mầu, vặn cổ kẻ thù giúp chúng ta.
5)      Niệm Phật không phải là quỵ lụy khóc than, trở nên hèn kém đối với Phật.
6)      Niệm Phật không phải xin Phật chỉ lối, đưa đường cho chúng ta buôn may, bán đắt.
7)      Niệm Phật không phải để dông dài kể lể, tâm sự chuyện kín, chuyện riêng tư với Phật.
8)      Niệm Phật không giống như cầu nguyện, van vái Thần Linh.
9)      Niệm Phật không phải để trở nên đời đời kiếp kiếp làm tôi đòi cho Phật.
10)  Niệm Phật nhất thiết không phải để quên đời.
 
Niệm Phật để…:
1)      Niệm Phật để tâm hồn thanh thản.
2)      Niệm Phật để an trụ tâm. Đang nóng nảy, niệm Phật lòng dịu hẳn xuống. Đang tức giận niệm Phật, lửa Sân từ từ hạ. Đang điên cuồng, niệm Phật tự nhiên bớt điên cuồng. Đang thù hận, niệm Phật hận thù hóa giải. Tham lam, niệm Phật bớt tham. Kẻ hung hăng, niệm Phật bớt hung hăng.
3)      Niệm Phật để không cho niệm Ác nảy sinh. Nếu niệm Ác đã nảy sinh thì không cho nó phát triển. Do đó Chư Tổ nói rằng “Niệm Phật quên niệm Ma”. Khi niệm Phật thì tà ma, quỷ thần sẽ lánh xa.
4)      Niệm Phật để giữ gìn Thân-Khẩu-Ý.
5)      Niệm Phật là phương thuật giữ gìn Chánh Niệm.
6)      Niệm Phật tới vô niệm chính là Thiền. Lúc đó sẽ không còn Chỗ Niệm (năng) và Người Niệm (sở),  hành giả hiển lộ Phật tánh có sẵn trong con người mình và đi vào trạng thái Định.
7)      Niệm Phật để nuôi dưỡng lòng Từ Bi.
8)      Niệm Phật riết rồi trở thành Phật chứ không phải trở thành nô lệ hay tôi tớ cho Phật.
9)      Niệm Phật cũng là phép điều hòa hơi thở cho nhẹ nhàng. Đi, đứng, nằm ngồi đều có thể niệm Phật. Cho nên niệm Phật cũng là phép trị liệu, bảo vệ sức khỏe.
10)  Niệm Phật để giải trừ bớt Ác Nghiệp gây tạo trong quá khứ.
11)  Niệm Phật để lúc lâm chung chẳng còn lo sợ. Chẳng cần phải nhờ ai cứu rỗi. Một mình thẳng tiến lên Thế Giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.
12)  Càng niệm Phật đầu óc càng trong trắng, lòng dạ thảo ngay, tâm tính hiền từ.
13)  Kẻ ác khẩu, nói năng hung dữ chuyên niệm Phật sẽ giải trừ được khẩu nghiệp. Niệm Phật khiến ta không vấp ngã trong lời nói. Một lời nói lầm lỡ có thể tiêu tan sự nghiệp. 
14)  Niệm Phật khiến lời nói dịu dàng, khiếm tốn do đó không gây thù chuốc oán, không bị “vạ miệng”.
15)  Mặt mày hung dữ, niệm Phật trở nên hiền từ, dễ coi. Niệm Phật để chuyển nghiệp.
16)  Niệm Phật khiến đi đứng dịu dàng, cử chỉ khoan thai.
17)  Niệm Phật có thể ngăn chặn được cám dỗ điên cuồng.
18)  Chán nản, thất vọng não nề, cùng đường không lối thoát muốn tự tử chết cho rồi, niệm Phật khiến tâm địa bình ổn từ đó mà tìm ra giải đáp hợp lý.
19)  Lâm vào vòng lao lý, tù tội mỗi tối nên ngồi ở tư thế “bán già”, xoay mặt vào tường niệm Phật khoảng nửa tiếng đồng hồ, sẽ thấy tâm hồn thanh thản, thời gian ở tù qua nhanh, không phạm thêm tội lỗi, may mắn ân xá, giảm án sẽ tới. Nhờ niệm Phật mà sau khi ở tù ra lấy lại tự tin để xây dựng cuộc đời mới. Đây không phải là chuyện bịa đặt vì người viết bài này đã từng ở tù 9 năm. Những năm cuối cùng, tuyệt vọng, chán nản muốn tự tử chết, sau trở sang nghiên cứu Phật pháp, chuyên chú niệm Phật, kể cả tụng kinh và giờ đây dù bao gian khổ vẫn sống khơi khới và sống đẹp.
20)  Trong một đám đông hỗn lọan, đâm chém, phẫn nộ, cuồng điên, niệm Phật khiến ta bình tĩnh, không hăng máu lao vào chuyện thị phi, hoặc a tòng theo phe này phe kia, bênh-chống, khiến sau này hối không kịp. Tâm bình thế giới bình là như thế. Xin nhớ cho bình an là chân hạnh phúc.
Back to top
 
 
IP Logged
 
mydung
Full Member
***
Offline



Posts: 195
Re: Nếp Sống Đạo
Reply #89 - 18. Oct 2010 , 22:14
 
MỘT CHỮ XẢ



Giảng tại Thiền viện Chân Không - 1998.



Vấn đề tôi nói hôm nay là một chữ XẢ. Quí vị biết ngược với xả là gì không? Là cố chấp, nắm chặt. Cố là chặt, chấp là nắm; cố chấp là nắm chặt. Khác với nắm chặt là buông bỏ.


Mới nghe đơn giản quá nhưng xét kỹ, quí Phật tử sẽ thấy tất cả chúng ta sống trên thế gian này, ai cũng than buồn than khổ, gốc tại cố chấp thôi, chớ không có gì khác. Bây giờ muốn hết buồn, hết khổ thì chúng ta phải làm sao? Phải xả, phải buông bỏ. Buông bỏ thì hết khổ. Như vậy quá giản đơn, quá tầm thường. Chỉ cần quí Phật tử thực hiện được điều chúng tôi nhắc thì sẽ bớt khổ ngay trong cuộc sống hiện tại này.


Lâu nay chúng ta cố chấp những gì mà bây giờ phải buông xả? Trước hết là chúng ta cố chấp những điều phải, quấy. Thường thường ở thế gian ai cũng nghĩ điều mình nói, mình làm là phải, nhưng nếu người khác nói ngược lại, làm ngược lại thì cho là người khác quấy. Mình phải, họ quấy mà họ không chịu nghe, không chịu làm theo mình nên mình giận. Nhất là trong gia đình, cha mẹ thấy điều đó phải mà bảo con cháu không chịu làm theo thì nhất định là giận. Mà giận là vui hay buồn? Giận là buồn, buồn rồi khổ.

 

Có một Phật tử nói với tôi thế này:
- Con cháu của con bây giờ khó dạy quá!
Tôi hỏi:
- Sao đạo hữu nói khó dạy?
- Thưa Thầy, mình là cha nó mình hớt tóc ngắn. Mình thấy hớt tóc ngắn dễ chịu, mát mẻ. Bây giờ nó để tóc tới cổ mà rầy nó không chịu nghe. Nó còn nói: 'Bây giờ thanh niên ai cũng để tóc dài mà ba biểu hớt ngắn, giống ông già quá, sao con làm được.' Chúng nó còn nhỏ mười chín, hai mươi tuổi mà đeo kính trắng, mình rầy nó: 'Bộ mày mù sao mà đeo kính?' Nó nói: 'Ba không thấy sao, người trí thức họ đeo kính trắng. Con lớp mười hai rồi, con trí thức rồi, con đeo kính trắng có sao đâu?!'


Ðó, ông than con cháu ngày nay dạy không được. Quí vị thấy thế nào? Bởi vì thường lúc nào chúng ta cũng có cái nhìn theo quan niệm của mình. Quan niệm của mình như vậy là phải, con cháu không chịu nghe theo thì mình giận, cho nó là quấy, là con ngỗ nghịch, con bất hiếu v.v... Khi đã như vậy rồi thì gia đình còn đầm ấm không, còn vui không?

 

Tôi mới giải thích cho Phật tử đó nghe:
- Ðạo hữu nhớ như ở lứa tuổi của tôi, ông thân tôi hồi xưa để tóc bới như củ tỏi phía sau. Tới chừng lớp của tôi lớn lên thì hớt tóc, ông tôi không vui. Ông nói bọn nhỏ văn minh quá, không có theo ông bà và dẫn sách Nho nói: 'Thân thể phát phu thọ ư phụ mẫu, bất thương cảm hiếu chi thỉ giả.' Nghĩa là râu tóc da thịt này là nhận nơi cha mẹ, gìn giữ nó đừng cho thương tổn là cái hiếu đầu. Bây giờ mình cạo nó là bất hiếu rồi. Như vậy ông già nhìn lại mình hớt tóc thì ông già buồn, còn mình nhìn lại ông già thì thấy ông già lạc hậu phải không? Thế thì ai đúng? Ðể tóc bới đúng hay hớt ngắn đúng? Nếu hai bên cứ cố chấp, ông già nghĩ ông già đúng, người con nghĩ người con đúng thì gia đình có bình an không? Chắc là bất an.


Chúng ta phải hiểu thời xưa học theo Nho giáo thì để râu để tóc là phải. Nhưng thời sau này khác hơn vì nước mình lệ thuộc Pháp, người Pháp đi làm việc hớt tóc ngắn cho sạch sẽ mà mình cứ bảo như ông già để tóc, vậy thì lạc hậu mất rồi. Ở lứa tuổi của mình ai chấp nhận như thế? Cho nên người cha phải thông cảm hoàn cảnh của con, người con phải hiểu hoàn cảnh của cha. Hai bên thông cảm nhau, đừng cố chấp thì bớt khổ. Nếu cố chấp là nhất định khổ. Cha bất bình con, con bất mãn cha, cứ như vậy sanh ra chuyện rối rắm trong gia đình.


Rồi đến thời này mấy đứa nhỏ để tóc dài, có khi tới cổ thì mình không chấp nhận? Mình để tóc ngắn mát mẻ, còn nó để dài lù xù nhưng nó lại thấy đẹp. Nếu đem cái nhìn của người cha mà trách đứa con thì đứa con cũng nhìn lại người cha bằng cặp mắt lạc hậu. Bây giờ phải xử làm sao? Thôi, ba muốn mát mẻ ba hớt ngắn, con thích để dài cho đẹp thì con cứ để dài. Chuyện tóc tai, mỗi người mỗi sở thích riêng, bắt nó giống mình sao được?


Quí Phật tử nhớ, mỗi lứa tuổi là qua một thế hệ khác nhau, không giống nhau được. Không giống mà mình đem ý của mình, cái phải của mình áp đặt cho nó thì nó không chịu. Mà không chịu thì sanh ra giận hờn, buồn trách, khổ sở. Vậy thì muốn cho hết khổ thì mình đừng cố chấp, phải buông bỏ. Buông nghĩa là xả. Quan niệm của con thì con làm, quan niệm của ba thì ba giữ. Phần ai nấy giữ, người này đừng áp đặt người kia. Như thế chúng ta sống rất là thoải mái, nhẹ nhàng. Còn nếu mình cố chấp thì sống bực hoài, lúc nào cũng bất như ý. Như nó thích mang kính trắng thì để nó mang, mình không thích thì thôi chớ mình không thích mà bắt nó theo mình sao được? Ðó là quan niệm của mỗi người, miễn làm sao con biết kính trọng, thương cha, cha thương con là đủ. Tình thương mới là quan trọng, còn những cái bên ngoài đâu có quan trọng.


Vậy mà nhiều người vì cố chấp hình thức bên ngoài làm cho mất hết tình nghĩa trong gia đình, khiến cha con phiền muộn, vợ chồng không vui với nhau. Ðó là tại cố chấp. Quí Phật tử nghĩ mình xả bỏ, đừng cố chấp có bớt khổ không? Còn cố chấp như câu chuyện tôi vừa kể khổ không? Lúc nào cũng buồn bực. Vì vậy cha mẹ nên thông cảm với con, con thông cảm với cha mẹ. Mà muốn được thông cảm thì hai bên đều xả, xả cái phải của mình thì thông cảm. Ngược lại, nếu không chịu xả, tự nhiên là khổ.


Ðó là nói về lứa tuổi giữa người lớn và người trẻ. Còn nếu vợ chồng mà cố chấp thì sao, có khổ không? Như bên phái nữ lâu nay quen rồi, nào là lọ tương, hủ tiêu, hủ ớt v.v... Những cái nhỏ họ coi chừng từng chút để nấu nướng. Còn người đàn ông đâu có để ý đến những thứ đó, mà họ nghĩ chuyện xã giao bên ngoài người này người nọ. Cho nên người chồng vì xã giao bạn bè nhiều, thành ra chi phí hơi rộng. Người phụ nữ chỉ lo chi tiết nhỏ trong nhà nên tiết kiệm, thấy chồng xài lớn một chút thì càm ràm. Còn chồng thấy vợ keo kiệt, nhỏ nhít quá cũng không bằng lòng. Như vậy vợ trách chồng lãng phí, chồng chê vợ keo kiệt. Ðã thế thì gia đình có vui không? Không bên nào bằng lòng bên nào hết vì ai cũng nghĩ mình đúng.


Như vậy nếu người vợ bắt người chồng phải theo ý của mình, ngược lại người chồng bắt vợ phải theo ý của mình thì gia đình đó nhất định cãi lộn hoài. Nếu hai bên chồng và vợ cảm thông nhau, người chồng nghĩ rằng cô ấy lo chuyện bếp núc cho nên quen cái nhỏ nhặt, hủ tương, hủ ớt v.v... thành ra xài lớn cô không đồng ý cũng phải. Còn vợ thông cảm cho chồng, bởi vì anh ấy làm bên ngoài, giao thiệp kẻ này người nọ thì phải rộng rãi một chút người ta mới vui. Nếu bắt chồng hẹp hòi quá thì bạn bè khi, không chơi với mình, như vậy tội nghiệp. Hai bên thông cảm thì gia đình sống sẽ vui, không chống chọi nhau. Ðó là tôi nói những việc nhỏ thôi, còn những việc lớn khác nữa, quí vị nghiệm xét rồi thông cảm, hiểu biết nhau đừng cố chấp, cố chấp thì khổ.


Như vậy xả bỏ là tu, còn cố chấp là chưa biết tu. Thế gian do cố chấp nên người nào cũng thấy sống trong gia đình không có hạnh phúc. Ðã cố chấp thì làm sao hạnh phúc được? Chồng chấp theo chồng, vợ chấp theo vợ, cha chấp theo cha, con chấp theo con, thành ra không ai thông cảm ai. Mà không thông cảm thì tự nhiên là phải buồn phải khổ. Bây giờ mỗi người tự xả bỏ cố chấp của mình để thông cảm với những người thân thì tự nhiên gia đình an vui hạnh phúc. Ðó là bước thứ nhất xả chấp phải, chấp quấy theo quan niệm của mình.


Ðến thứ hai nữa là xả oán hờn. Người thế gian luôn luôn nghĩ ai làm trái ý mình thì mình buồn, mình giận. Buồn giận nên bỏ liền hay nên giữ mãi? Có người thường hay nói: 'Con giận người đó hai, ba chục năm không quên.' Giận hai, ba chục năm không quên thì nghe như khẳng khái lắm nhưng thật ra là dại, là khổ, chớ có hay gì đâu.


Quí Phật tử nghĩ trên thế gian này chung quanh mình nào xóm giềng, thân tộc v.v... có bao giờ hoàn toàn không đụng chạm nhau đâu? Người ta nói vợ chồng như chén trong sống. Chén úp trong sống thế nào cũng có khua, huống là xóm giềng, thân tộc làm sao vừa ý mình hết, mà trái ý thì mình giận. Giận rồi chứa trong tâm. Chứa là cố chấp. Giận một người chứa trong lòng, giận hai người cũng chứa trong lòng. Nếu giận một trăm người thì sao? Chứa cả một trăm cái giận trong lòng, làm sao chịu nổi.


Quí vị xét khi mình đang vui vẻ mà bỗng nhớ tới người mình giận thì lúc đó gương mặt quạu xuống liền. Sở dĩ chúng ta ngủ không ngon là cũng tại giận đó. Khi nào nằm nhớ lại hôm qua, hôm kia ai làm trái ý mình liền nổi giận lên, thì hết ngủ. Ðó là chứa chấp oán hờn. Chứa chấp là khổ. Ta đang vui vẻ tươi mát mà chứa một cái giận, cũng như đem cục than bỏ trong tay hay trong da, trong thịt mình vậy. Nếu cục than bỏ trong tay, trong da, trong thịt thì sao? Nóng, khó chịu. Vậy mà lòng mình chứa một trăm cục than thì người này khổ nhiều ít? Khổ thứ nhất là khô héo vì ngủ không ngon, ăn không ngon. Giận quá làm sao ăn ngon, ngủ ngon được. Khổ thứ hai là giận làm cho mình dễ xấu. Quí vị thấy mỗi lần nổi giận lên gương mặt mình thế nào? Nổi giận lên thì con mắt đỏ ngầu, mặt đổi màu đổi sắc, không còn tốt đẹp nữa. Cả trăm cái giận ở trong lòng thì nó đốt riết mình khô héo, xấu xa. Như vậy ôm ấp cái giận mấy chục năm là khôn ngoan hay thiếu khôn ngoan?


Bởi vậy nên người biết tu ai nói gì trái ý, mình giận chút rồi bỏ đi, xả đi. Giận làm chi, ngu! Ôm cái giận là ngu chớ không phải khôn, tội gì ôm cho khổ. Trong nhà Phật có câu: 'Tăng hận bất cách túc' nghĩa là Tăng (người tu) giận không quá một đêm. Chúng ta là Phàm tăng nên tham sân si cũng còn, vì vậy gặp việc trái ý cũng giận, nhưng giận chút thôi rồi bỏ, chớ không nên chấp chứa.


Người thế gian thường thích chứa, chứa năm này qua năm nọ. Họ tưởng như vậy là hay, là khôn mà không ngờ đó là tự chuốc họa vào mình, tự đeo khổ cho mình chớ không có lợi gì hết. Vì vậy nên Phật dạy phải xả hết những giận hờn. Chứa chấp vừa bị khổ trong hiện tại, mà còn khổ cả vị lai nữa.
Trong kinh Phật dạy, người khi sắp bỏ thân này qua đời khác thì nghiệp thương và nghiệp ghét sẽ đi theo. Bởi vì thương ai thì ta nhớ người đó, ghét ai cũng nhớ kẻ đó. Như chúng ta ngồi ôn lại trong lòng, thì nhớ những người mình thương và những người mình ghét nhiều nhất phải không? Ghét không mất, thương cũng không mất. Vì vậy càng chứa sâu thì khi nhắm mắt các nghiệp đó dẫn mình đi đến chỗ thương hoặc chỗ ghét.


Do đó khi chúng ta thọ thân sau, nếu ôm ấp nghiệp ghét nhiều quá thì đến những gia đình gặp toàn chuyện buồn phiền, hờn giận, không vui. Có bao giờ chúng ta muốn gặp những người mình ghét không? Không muốn. Ai cũng muốn gặp người mình thương. Nhưng trong lòng thù oán nhiều quá thì nó sẽ dẫn mình gặp lại những người thù oán. Nên hiện tại khổ mà vị lai cũng khổ luôn. Ðiều này rất thiết yếu.


Chúng ta phải khéo đừng nuôi dưỡng oán thù trong lòng, nên buông bỏ hết. Cái gì qua rồi không chứa chấp nữa. Hơn thua, phải quấy, chuyện đó không có gì quan trọng. Quan trọng ở chỗ làm sao cuộc sống mình bình an, thanh thản, tươi vui. Ðó mới là điều đáng lưu tâm. Chúng ta sống muốn hạnh phúc, muốn được an lạc thì nên giữ hay nên xả? Nên xả. Vì vậy tôi nói tu muốn cho hết khổ thì phải xả, đừng chứa chấp. Ðó là điều thứ hai.


Ðiều thứ ba, chúng ta đừng cố chấp ý kiến mình là đúng, ý kiến người khác là sai. Bởi vì ở thế gian này không có gì là đúng cố định mà cũng không có gì là sai cố định. Chúng ta mở miệng nói với ai cũng 'Tôi nghĩ thế này là đúng'. Nếu nói tôi nghĩ như vậy là đúng, người thứ hai nói tôi nghĩ thế khác mới đúng, thì hai cái đúng nó đụng nhau. Mình đúng theo cái nghĩ của mình, người khác đúng theo cái nghĩ của họ. Ai cũng đúng hết thì cãi lộn hay huề? Thế gian không ai chịu thua ai, mình đúng thì người khác sai, mà người khác đúng thì mình sai. Cho nên khi người ta nghĩ khác với mình, mà họ cho rằng họ đúng thì mình bực lên liền, và người kia cũng nổi tức vậy. Hai cái nổi tức sẽ đi đến khẩu chiến. Khẩu chiến không xong thì tới thân chiến.


Quí vị thấy những người cãi nhau, đánh nhau khi được hỏi: 'Tại sao quí vị đánh nhau?' Họ nói: 'Tôi nói cái này đúng mà nó cứ cãi hoài.' Có khi nào hai người cãi lộn mà chúng ta hỏi 'tại sao', họ nói 'tại tôi sai' đâu. Nhất định là đúng. Hai cái đúng không giống nhau thì nhất định cãi lộn, cãi lộn không xong thì tới đánh lộn. Như vậy thì khổ hay vui? Không bao giờ vui được. Những điều này xảy ra rất nhiều.


Gia đình vợ chồng, mỗi người thấy một lối, ai cũng cho là đúng thì gia đình đó cãi lộn hoài. Trong xã hội, nhóm này thấy thế này là đúng, nhóm kia thấy thế khác là đúng thì cũng gây ra cuộc đấu chiến. Cả trên thế gian đều như vậy. Nếu cố chấp cái nghĩ của mình đúng, cái nghĩ của người khác sai là gốc của đấu tranh, của tiêu diệt nhau. Cho nên chúng ta đừng có cố chấp. Cái đúng này là đúng của tôi, cái đúng kia là đúng của anh. Mỗi người giữ phần của mình, cãi nhau làm chi. Vậy là yên.


Xả hết cố chấp, đừng bắt người khác phải nghĩ, phải thấy như mình mới đúng. Ðó là điểm đặc biệt của đạo Phật. Trong đạo Phật có câu: 'Phật hóa hữu duyên nhân', đức Phật giáo hóa người có duyên với Ngài mà thôi. Ai có duyên thì đến với Phật, chớ Phật không nói đạo Phật là đúng, đạo khác là sai. Theo đạo nào cũng tốt. Mình thích đạo Phật vì đạo Phật thích hợp với tâm tư nguyện vọng của mình nên mình theo, người khác không thích thì thôi. Chúng ta không nên nói theo đạo Phật chết được về Cực lạc, còn theo đạo khác chết nhất định đọa địa ngục. Không nên như vậy.


Trong kinh Phật nhất là các bộ A-hàm, Phật thường nói: 'Người tu theo đạo Phật làm lành, tu Thập thiện được phước sanh cõi trời. Người không tu theo đạo Phật mà làm mười điều lành cũng được sanh cõi trời.' Không phải cõi trời chỉ dành cho người tu theo đạo Phật. Bởi vậy người không tu theo đạo Phật mà làm lành, làm tốt họ vẫn có phước. Mình tu theo đạo Phật mà mình làm xấu làm ác thì mình cũng bị tội như thường. Chúng ta mới thấy rằng chủ trương của đức Phật rất rõ ràng, rất thấu đáo. Phật không bắt ai phải theo mình dù biết rằng làm như vậy là tốt, là có lợi. Nếu người ta không thích thì thôi, không ép buộc.


Chúng ta học Phật phải tập tâm cởi mở, xả bỏ những cố chấp riêng tư, dù chấp tôn giáo mình cũng là bệnh nữa. Những gì chúng ta thấy đều do Phật dạy, mình biết mình tu. Ai thấy hợp thì tu theo, còn thấy không hợp thì thôi, ta chỉ cười chớ đừng giận. Ðạo mình kính trọng mà nghe ai nói ngược lại, mình nổi sùng lên thì chưa gọi là hiểu đạo. Không cố chấp thì cuộc đời an vui, hạnh phúc, sống với mọi người rất hòa nhã.


Ðiều thứ tư là Phật dạy xả đừng chấp thân của mình nữa. Quí vị thấy dễ hay khó? Xả mấy điểm kia thì còn khả dĩ, xả chấp thân mình thì hơi khó. Tôi hỏi quí vị trong tất cả cái sợ của mình hiện giờ, cái sợ nào là số một? Sợ chết là số một. Tại sao mình sợ chết? Vì cố giữ thân, cố chấp thân, nên nghe nói mất đi thì hoảng sợ. Do đó khi cái chết đến mình khổ vô cùng.


Chúng ta xét kỹ thân của mình, ai cũng muốn cho nó được tròn một trăm năm. Hồi xưa còn tham hơn nữa, hàng quần thần chúc vua chúa đến vạn tuế, tức là muôn năm. Chúc muôn năm, mà có ông vua nào sống được muôn năm đâu. Mấy ông còn chết sớm hơn ai hết. Như vậy để thấy lòng tham sống của con người quá lớn. Bởi tham sống cho nên chết là cái khổ nhất.


Nếu người không tham sống thì chết có khổ không? Ðâu có khổ vì họ đâu có sợ. Nên quí vị cố chấp thân, muốn giữ cho nó lâu dài, mà lỡ nó bại hoại thì đau khổ vô cùng. Thân mình đâu có nguyên vẹn từ thỉ chí chung, mà nó đổi thay từng tháng, từng ngày. Như vậy muốn nó còn hoài, chẳng khác nào mình nắm một cục nước đá trong tay mà muốn nó đừng tan. Thân này cũng vậy, luôn biến chuyển từng phút giây. Ðó là nói bình thường, còn nói theo khoa học là nó sanh diệt từng tế bào. Lúc nào, phút nào cũng sanh sanh diệt diệt, không dừng. Sanh diệt luôn luôn mà bảo nó còn hoài làm sao được. Chấp như vậy có phải là ảo tưởng không? Ảo tưởng sai lầm mà chúng ta cứ chấp giữ, cho nên khổ vô cùng.


Vậy mà trăm người như một, ai cũng muốn giữ thân lâu dài. Nhiều khi bảy, tám mươi tuổi vẫn muốn sống hoài, không muốn chết. Muốn giữ hoài mà có giữ được đâu. Giữ không được thì khổ hay vui? Người lớn tuổi nào cũng thở dài than vắn, khổ quá! Già yếu bệnh hoạn, khổ quá!


Thật ra già yếu, bệnh hoạn có khổ không? Có gì đâu mà khổ, nó là như vậy. Hết thời ấu niên đến thời tráng niên, hết thời tráng niên đến thời trung niên, hết thời trung niên đến thời lão niên. Cứ thế mà đổi dời. Nên khi trẻ mình vui với tuổi trẻ, lúc già mình vui với tuổi già. Mai mốt chết thì cười với cái chết, sướng không? Chớ ngồi đó mà than, ai cứu mình được. Không ai cứu được thì than hoài làm chi cho khổ vậy? Cứ cười vui. Ờ! Già tốt. Nếu đi hai chân không vững thì thêm chân thứ ba nữa. Cứ như vậy mà chống gậy, có gì đâu phải buồn. Xả được cố chấp thì vui, còn nếu giữ thì khổ. Lẽ thật là như vậy.

Con người sợ chết nhưng có giữ cho khỏi chết được không? Nếu giữ được thì cũng nên sợ. Giữ không được thì cứ cười vui cho rồi. Quí vị nghĩ nếu lát nữa chết, chúng ta sẽ có cái gì vui? Hiện tại mình biết hết các việc trên thế gian rồi, biết sự sống này rồi. Người ta nói đi du lịch vui chơi đó đây là tới những chỗ mình chưa biết, còn những chỗ nào biết rồi, đi chán lắm. Chúng ta đã ở trên thế gian mấy chục năm, chán quá rồi. Bây giờ đi tới chỗ khác chơi cho vui thì sợ gì. Khi sắp chết, mình tự nghĩ ta sẽ biết thêm một chỗ mới nữa. Vậy là vui chớ không sợ. Chúng ta sống vui với cái sống, chết cũng vui với cái chết, như vậy là an vui, tự tại.


Người không sợ chết thì chết không phải là khổ. Sở dĩ khổ là vì người ta chấp chặt phải sống, sống chừng nào cũng được, sống hoài. Chấp chặt vậy cho nên lỡ ai coi tuổi hoặc bắt mạch nói bệnh sắp chết liền quên ăn, quên ngủ. Nếu hiểu được lẽ thật thì chết là vui thôi. Ờ, tôi ở đây mấy chục năm chán rồi, đi chỗ khác chơi cho vui. Ðó, nghĩ vậy thì cứ cười mà đi, có tự tại không? Rõ ràng nếu buông xả cố chấp thì chúng ta an vui. Còn bám chặt giữ mãi thì chúng ta đau khổ.


Cuộc đời là một dòng biến chuyển từ ngoại vật cho tới con người. Nó biến chuyển mà chúng ta cố giữ thì có phải là si mê không? Cho nên Phật nói người trí biết được vô thường biến chuyển nên không khổ. Còn người ngu, đối với vô thường biến chuyển mà muốn còn nguyên vẹn nên khổ. Bản thân mình nó phải biến hoại, phải mất; chúng ta biết rõ rồi cười với nó, không sợ, là chúng ta khéo tu.


Tu là như vậy, chớ không phải vừa mới bệnh liền chạy tới cầu Phật cho con sống được năm năm, mười năm. Phật tử bệnh tới chùa nhờ quí thầy cầu an. Quí thầy cầu cho Phật tử an, còn quí thầy không an thì cầu ai? Nếu tất cả người bệnh cầu đều được an thì không ai chết hết. Nhưng thật ra đâu có chuyện đó. Kỳ này cầu an là tại họ chưa chết, kỳ sau tới lúc chết thì cầu gì cũng chết thôi, cầu an cũng không khỏi.


Như vậy để thấy chúng ta tu là phải nhận ra lẽ thật của cuộc đời, thấy rõ được lẽ thật của bản thân mình. Ðừng lầm lẫn mới an vui, khỏi phải nhờ ai cầu gì hết, cũng khỏi cần coi tướng coi số làm chi. Cuộc đời là như vậy, không có gì phải lo. Năm mươi tuổi chết cũng tốt, bảy mươi tuổi chết cũng tốt, tám mươi tuổi chết cũng tốt, không sao hết. Tôi thường hay nói ai rồi cũng chết một lần, chớ có ai chết hoài đâu phải không? Thì thôi lúc nào tới thì đi một lần, chớ đâu có đi hoài mà sợ.


Phật dạy khi bỏ thân này, muốn có thân khác đẹp hơn thì phải tạo duyên tốt. Như giữ được năm giới trọn vẹn thì đời sau trở lại làm người đủ năm điều kiện tốt: Không sát sanh thì tuổi thọ dài. Không trộm cướp thì có nhiều của. Không tà dâm thì đẹp đẽ trang nghiêm. Không nói dối thì ngôn ngữ được lưu loát. Không uống rượu, xì ke ma túy thì trí tuệ thông minh. Nếu thiếu một trong năm giới thì đời sau bất hạnh một phần. Ai muốn đời sau được thân tốt đẹp hơn thân người thì tu Thập thiện.


Như vậy chết không đáng sợ mà chỉ sợ mình không chuẩn bị được khi mất thân này. Ðến lúc ngã ra chết không làm điều lành, không tạo phước đức thì chừng đó khổ hơn nữa. Cho nên biết tu thì trong cuộc sống hiện tại chúng ta được an vui tự tại, khi nhắm mắt chúng ta đã chuẩn bị cho đời sau được tốt đẹp hơn nên chúng ta càng vui, không có gì phải buồn sợ.


Cũng như mình đi chiếc xe cũ, lâu quá nó hư mòn, cứ đẩy hoài rất chán. Bây giờ mình dành dụm tiền, bỏ xe cũ mua xe mới đẹp hơn. Như vậy buồn hay vui? Nhưng muốn mua xe khác đẹp hơn thì phải chuẩn bị tiền. Chuẩn bị trước rồi mới bỏ xe cũ mua xe mới được. Chớ không chuẩn bị thì xe cũ bỏ rồi, không biết làm sao mua xe mới. Cho nên người biết tu là người biết lo xa, biết chuẩn bị sẵn; bỏ thân này qua thân khác khỏe hơn. Ðó là bước tiến của người tu.


Như vậy chỉ một chữ Xả mà chúng ta được an ổn vui tươi. Cần gì phải nhiều. Một chữ mà biết tu là cả cuộc đời sống thoải mái, an vui. Ngược lại quí vị sẽ thấy mặt mày nhăn nhó hoài, bất mãn cái này, bất mãn cái nọ, bất mãn con cái, bất mãn vợ chồng, bất mãn xã hội... Mấy chục năm cứ nhăn nhó hoài, uổng một cuộc đời. Cho nên mình phải vui tươi xả bỏ, có mấy mươi năm ngắn ngủi, sống làm sao cho thảnh thơi, tạo phước lành để khi nhắm mắt được đến cõi lành, ở đó mà buồn giận làm chi cho khổ.


Vậy mong quí Phật tử nghe hiểu, ứng dụng tu để tất cả chúng ta sống trên thế gian này lúc nào cũng tươi cười, không còn buồn bực.

Ðến lúc nhắm mắt ra đi chúng ta cũng vui luôn. Ðó là kết quả tốt đẹp của người Phật tử khéo tu.


Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 4 5 6 7 8 
Send Topic In ra