Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 3 ... 8
Send Topic In ra
TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ (Read 18174 times)
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
11. May 2010 , 00:23
 
...


NGÕ TRÚC


Phong Vũ        

Bước qua hết chiếc cầu xi măng, bắc ngang con rạch nhỏ nằm núp bóng dưới bụi trúc um tùm, đã thấy mẹ đợi tôi nơi đó tự bao giờ. Nước lên đầy rạch. Hai bên bờ, những khóm điêng điểng trổ bông vàng đung đưa trong gió như vẫy chào người trở lại, sau hai mươi năm dài. Tôi nghe tiếng lá trúc xào xạc bên hiên nhà của Mẹ. Gốc ổi già nua, thân còm cõi đứng bên cửa sổ lặng thinh. Vườn rau xanh, các bụi bạc hà với những chiếc lá to tướng nghiêng đầu bàn tán thì thào - chàng trai bao năm rồi lang bạc nơi đâu, bây giờ về nhà với mẹ đây rồi!

Mẹ nghiêng đầu nhìn tôi mĩm cười; nụ cười vẫn đầy ắp bao dung như thuở nào! Ánh mắt mẹ trìu mến, long lanh sáng niềm vui hội ngộ; trong đó tôi thấy ý nghĩ của Mẹ:
"Ôi con trai yêu dấu của Mẹ đã trở về từ nơi xa xôi "

Tôi mĩm cười mừng rỡ, vội bước đến bên bà. Tôi ôm chầm lấy Mẹ. Nước mắt tôi chảy thành dòng, nói trong nghẹn ngào:
" Mẹ ôi, con đã về với Mẹ đây. Ngày ấy con đi, mà giờ đã hai mươi năm rồi! Thời gian dài đăng đẳng, con luôn trông mong có một ngày về thăm Mẹ. Bây giờ thì con đã về đây, Mẹ ơi! "

Mẹ tôi vẫn cười hiền từ, nhưng sao tôi thấy nụ cười của bà quá xa xăm và buồn bã. Tóc mẹ bạc nhiều hơn xưa. Mẹ gầy và mong manh vì cuộc đời gian nan. Nắng trưa chiếu lung linh trên tóc mẹ. Bóng lá trúc chập chờn nhảy múa trên mặt nước. Những con chuồn chuồn bay lượn, vụt thoáng vụt hiện trên các ngọn sậy.

Hàng dừa xanh nghiêng mình sầu tư quay ra mặt rạch; bên dưới có chiếc xuồng ba lá của ai đang cột hờ hững...Con rạch nầy chạy dài theo con lộ tẻ trước mặt nhà Mẹ tôi. Đây là ngôi nhà bà cất trên thửa đất ruộng của ông nội, vào cuối năm bảy mươi lăm. Mẹ đưa ba đứa em tôi về đây trú ngụ, sau khi ngôi nhà lầu ở Vĩnh Long đã bị tịch thu vì qui vào thành phần tư sản. Cha tôi lúc đó đã đi tù cải tạo; một chuyến đi cuối cùng không về trong cuộc đời đầy thăng trầm của ông. Tôi nhớ các em tôi, tôi thương cho chúng phải lỡ vỡ cuộc đời. Cuộc sống buồn như những câu thơ..

Từ khi chạy giặc rồi xa xứ,
về đất làng quê trọ nhà người .
Đây xứ buồn thiu tôi biết lắm,
em vẫn ngồi nhớ phố chợ vui...

Những ngày tháng gian nan đó, Mẹ tôi đã gồng gánh một mình với ba đứa con chưa hết tuổi trung học. Tâm trí bà lúc nào cũng quay quắt nhớ đến thằng con cả đã biệt tăm từ cuối tháng tư định mệnh. Cha tôi đã vào trại tù cải tạo. Bà bươn bã nuôi con. Bà buôn đầu này, bán đầu kia, xoay xở đủ cách để sinh tồn trong cái xã hội đang bị lộn ngược từ vật chất đến tinh thần, cuộc đổi đời. Trong một bức thư, em gái tôi kể một câu chuyện về mẹ tôi. Câu chuyện khôi hài nhưng đầy nước mắt:

...Trong những năm kinh tế quá khó khăn, thực phẩm không được vận chuyển qua vùng khác. Chợ không còn gạo bán, mẹ tôi và các em phải chia nhau đi về các miền quê tìm mua gạo. Một lần kia, mẹ tôi trở về sau một chuyến qua Cần Thơ tìm gạo. Chiếc ruột tượng đổ đầy gạo bà thắt chặc chung quanh bụng bên dưới lớp áo trong để che dấu. Khi qua phà Hậu Giang, bà lẵng lặng theo đoàn người bộ hành bước qua một trạm kiểm soát kinh tế. Toán công an hạch hỏi từng người một, và lục xoát hành lý, rỗ thúng của đoàn người qua phà. Mục đích họ là tìm thực phẩm, gạo thóc mua lậu về từ các nơi bị phong tỏa. Đến phiên mẹ tôi hồi hộp bước đến. Một gả công an đáng tuổi con cháu bà với đôi mắt cú vọ nhìn chằm chặp, thình lình lớn tiếng hỏi:
- Ê bà kia đứng lại. Bà đi đâu qua đây?

Mẹ tôi giật nảy người, hồn vía lên mây và chợt trả lời (rất) thật:
- Dạ, dạ...Tôi đi mua gạo bên Cần Thơ !!

Các người công an chợt buông tiếng cười rộ, nhìn nhau lắc đầu và khoác tay cho Mẹ tôi đi qua.
Mẹ tôi về đến nhà hoàn hồn, kể lại câu chuyện. Hàng xóm ai cũng cười và cho rằng mấy người công an thả mẹ tôi đi, không tịch thu số gạo dấu trong người, vì thấy một bà quá thiệt thà, không dám che dấu ..dù rằng đang đi mua gạo lậu!

Đọc thư, nghe em gái kể mà tôi thấy nghẹn ngào thương cho mẹ và các em tôi ngày đó quá vất vả gian truân để tìm sống. Cũng như câu chuyện đứa em trai tôi đôi khi phải giả làm người đi hát dạo, dấu gạo trong thùng đàn khi qua các trạm kiểm soát. Đứa em gái kế tôi thì phải bỏ học để theo các chuyến xe đò sớm lên Sài Gòn tìm mua hàng vải, dấu diếm đem về đi đò dọc vào các vùng xa xôi để bán kiếm lời nuôi mẹ và các em. Tôi nhớ hai câu thơ thật buồn không biết của ai đó, giống như thân phận em gái tôi:

"Áo có trắng những ngày lên khoắc khoải,
Đường xưa đi tập vở lãng quên rồi"

Thỉnh thoảng tôi nhận được thư và hình của mẹ gởi qua. Trong hình tôi thấy mẹ đã quá gầy so với ngày tôi còn ở nhà. Miếng đất vườn, mẹ tôi đã công lao vun quén để trồng nhiều loại cây có trái. Bà vẫn bảo để cho các cháu con thằng Hai ăn sau này khi nó về thăm xứ!
Xưa gia đình tôi tuy không giàu có nhất nhì thành phố nhưng cũng đầy đủ vật chất. Xe cộ, phòng ốc riêng biệt cho từng người một. Bây giờ, mẹ và các tôi phải tự mình làm ruộng để có gạo ăn. Đến khi đời sống dễ dàng đôi chút thì đứa em gái kế của tôi đi lấy chồng, và về lại thành phố buôn bán. Mẹ tôi lại sống đơn chiếc một mình với hai đứa con. Các gốc dừa bà trồng quanh nhà đã cao lớn và đầy trái. Các bụi nhản cũng đầy quả khi tới mùa. Cây soài tượng cũng đã cao quá nóc nhà, tỏa bóng mát đầy sân.
Gốc mai trồng trước ngõ cũng đơm đầy hoa vàng những độ Tết về, khiến lòng người mẹ càng buồn hơn khi đứa con xa xứ vẫn biền biệt chưa trở về. Bà ra vào trước sân quét lá, đếm từng tháng, rồi từng năm để trông con. Con rạch nhỏ trước nhà thủy triều lên xuống,lúc đầy lúc cạn, nhưng bà vẫn chưa có đứa cháu nào về ăn trái cây bà trồng để dành.
Cha tôi đã qua đời vì bệnh trong trại giam. Ông được đưa về, chôn cất nơi khu vườn hoang của quê nội. Trong một vài bức thư sau này, tôi nhìn giòng chữ của mẹ tôi run rẫy, đôi lúc không còn đọc được rõ ràng. Trong một câu bà viết mà tôi vẫn nhớ:...Bây giờ tay mẹ đã quá yếu, không biết lần tới mẹ còn viết cho con được nữa hay không?

Tôi khóc thầm vì nhớ mẹ, vì biết rằng trên đời này không ai thương mình hơn mẹ. Mẹ sinh ra ta, nuôi dưỡng bồng ẩm từ lúc lọt lòng. Con lớn lên đến trường, rồi ra đời, và tình mẹ vẫn mãi tha thiết trông ngóng bên con. Rồi chiến tranh cuốn hút con vào vòng lửa đạn. Lòng mẹ lại khoắc khoải từng ngày. Mẹ đi lễ từng ngày, cầu nguyện từng đêm, xin ơn trên che chở cho đứa con mình bình an. Có lần tôi được đơn vị đề cử để đưa quan tài của một sĩ quan bạn vừa tử trận về cho gia đình chôn cất. Đến nơi, nhìn thấy người mẹ của bạn khóc than vật vã, nước mắt bà như nhòa nhạt cả chiếc lá quốc kỳ bao phủ áo quan; lòng tôi cũng thấy tan nát, đớn đau theo. Tôi tự nghĩ, nếu là tôi nằm đó, và nỗi đau này là của chính mẹ tôi thì ôi càng thê thiết biết chừng nào...

Những năm tháng sau này tôi vẫn chưa về thăm mẹ được. Đại dương đã thăm thẳm chia cách đôi bờ. Tôi mãi canh cánh bên lòng mối u hoài nhớ đất nhớ quê, nhất là nhớ người mẹ thương yêu đang trông ngóng mình. Mẹ chờ đợi tôi từng ngày nơi ấy !

Nước lại dâng đầy con rạch. Chiếc xuồng nhỏ không biết ai đã tháo dây và bơi đi tự bao giờ. Gốc mai trước ngõ đang trổ những nụ đầu xuân. Nắng đang chiếu nghiêng, trời đã xế. Có tiếng đứa em trai tôi gọi anh Hai vào nhà uống nước. Tôi chậm rãi đứng lên, nói với mẹ:
" Mẹ ơi, lần này con về với mẹ rồi dăm bửa nửa tháng con sẽ lại đi. Mẹ đứng buồn nữa nhé. Cha đã về nằm trong thửa đất nhà mình, không còn lạnh lẽo trong khu vườn vắng ngắt ở Cầu Đôi nữa. Mẹ cũng không còn cô đơn nơi đây. Những đêm trăng sáng , các cháu sẽ đốt nến, thắp trầm, nô đùa bên cạnh mẹ. Những ngày mát trời chúng sẽ đến bên mẹ, chăm bón các bụi cúc vàng mà mẹ ưa thích. Con thích thấy mẹ nơi đây, khoảnh vườn thật đẹp..."

Tôi bước vào nhà, quay lại nhìn mẹ tôi. Bà vẫn mĩm cười dõi mắt theo tôi trong chiếc ảnh cẩn đá hoa, lung linh trong ánh sáng chiều, trên chiếc bia trước đầu mộ. Bụi trúc đang hát những hợp khúc với gió, xôn xao trong nắng vàng, như ru giấc ngủ thiên thu của Mẹ tôi ...

Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #1 - 22. May 2010 , 01:13
 
           
Chuyện Đọc Trước Khi Ngủ
:GẢ BẤT CẦN      


Trước khi làm bản tự khai, tên quản giáo ngồi một chân để thổng, một chân chỏi trên mặt ghế. Hắn ngồi bật ngửa hút thưốc.Vài đám du kích mặt non choẹt mang vủ khí đủ loại đứng vòng ngoài phòng họp của trường trung học. Hắn từ từ đứng lên nói: Tất cả hồ sơ các anh chúng tôi đã nắm. Tội các anh theo Mỹ Ngụy đá nh phá cách mạng là tội chết

, nhưng nhờ lượng khoan hồng của nhà nước cách mạng các anh được tha và cho tập trung về đây để học tập chánh sách của nhà nước một thời gian ngắn rồi cho về với gia đình, làm công dân tốt của một nước Việt Nam dưới sự lảnh đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa và đảng Việt Nam quang vinh…..Hắn nói tràng giang đại hải như con vẹt, cuối cùng hắn gằn giọng: Các anh phải thật thà khai báo, các không qua mặt được chúng tôi, nhớ đó… Mọi người được cấp hai mảnh giấy trắng làm tờ khai lý lịch.

Trong bản tự khai gã ghi sơ sài tên họ cấp bực, công vụ và địa chỉ tận miền Trung. Tư Cần trong ban quản giáo trại tù đọc tờ khai của gã và bắt gã làm lại có hơn ba lần, lần nào gã cũng khai y như củ. Tư Cần gọi gã lên la lối:
- Anh chưa thành khẩn khai báo. Các anh khác khai đầy đủ còn riêng anh cứ còn dấu diếm. Tội không khai báo thành khẩn là tôi nặng anh biết không? gã thản nhiên trả lời:
- Thưa anh, tôi đã khai đủ.
- Anh không có thân nhân họ hàng?
- Dạ đúng.
- Ai sinh anh ra anh, anh không biết nửa hả!
- Tôi không biết, hồi nhỏ tôi sống trong cô nhi viện nên không biết cha mẹ là ai. Tư Cần ngó anh luờm lườm và hỏi gằn:
- Còn hoạt động đánh phá cách mạng anh ghi có bao nhiêu, đâu đủ!
Gã nhỏ nhẹ:
- Dạ đủ lắm rồi cán bộ. Cán bộ không tin cứ coi lại hồ sơ mà cán bộ có….
Tư Cần bực tức, nhưng không biết phải làm gì với gã. Tư Cần đưa gã miếng giấy trắng khác và nói: Anh về khai lại cho đủ hơn, chưa thành khẩn…anh hiểu chưa???.Gã mang giấy về và vẩn khai y như củ. Tư Cần ra lệnh nhốt gã vào phòng tối hai tuần. Hôm tên du kích mở cửa phòng giam đặc biệt, tống anh về lại phòng, người anh xanh xao và hôi thúi. Mọi người dìu anh về chỗ nằm. Anh em trong phòng bịt mũi vì chịu không nổi mùi hôi thúi bốc ra từ cơ thể của anh. Suốt hai tuần ở trong phòng tối gã ăn, ỉa tại chổ. Với mỗi ngày một lon nước trong phòng tối om làm gì để có cái sạch sẽ. Hồi ở ngoài phòng anh cũng là chúa nhát tắm gội rồi. Thế là vài ba anh đề nghị góp nước và lót miếng nylon ra giữa phòng, mời kéo gã ngồi vào để lau chùi, kỳ cọ cho gã hết mùi hôi. Gần ba tháng trong phòng giam ai ai cũng có người thân gởi đồ ăn vào bằng cách nầy hay cách khác, riêng gã thì không thấy ai gởi. Anh em hỏi gã thì gã cười mĩm nói: Tôi con bà phước làm gì có ai gởi. Gã ít khi quan đến sinh hoạt trong phòng, ai kêu làm gì thì làm không thì nằm phì phà hút thuốc một mình, không tâm s ự với ai, ai hỏi gã điều gì thì gã nói cái kiểu trớt quớt không đâu vào đâu. Ngày tháng bị giam tù không biết rồi sẽ ra sao? Mọi người buồn bã ra mặt, riêng gã thì không ai đoán được gã có buồn hay không. Gã sống lè phè với cơm phát, nước đong. Anh em thấy vậy nên chia sẽ với gã khi có đồ ăn gởi vào. Gã không bao giờ từ chối món gì cả. Ai cho cái gì thì ăn cái đó, ăn không hết thì dồn hết vào lon Guigoz để dành ăn từ từ. Anh em thương gã vì biết gã chẵng có ai thăm nuôi, nhưng tin vào lời khai của gã thì chắc không ai tin, hoặc có tin cũng ở một giới hạn nào đó. Riêng về ban quản giáo thì thôi hạch hỏi gã từ khi gã từ hầm tối ra.Chắc họ có điều tra, nhưng không moi được gì thêm. Hồ sơ quân bạ ở tỉnh Chương Thiện b=E 1 đốt hết. Họ cứ dằn mặt: Các anh phải khai thật thà, hồ sơ của các anh chúng tôi nắm hết cả, đừng hòng khai gian! Thế nhưng cho đến khi chuyển trại lên Cần Thơ, mặc dù cũng qua nhiều lần làm lại tờ tự khai, gã cũng chỉ viết có bấy nhiêu mà chẵng thấy họ hạch hỏi gì thêm.

Cũng như còn ở trại giam tỉnh, ở đây gã cũng lè phè, lếch thết. Mọi người được vợ con tiếp tế thăm nuôi, còn gã thì vẩn mồ côi như củ. Gã tự đi “Cải hoạt” với cái bẩy chuột tự sáng chế. Đó là chiếc cần bằng tre với sợi dây nhợ. Gã đánh bắt chuột cống trong trại, vì là chuột chui nhủi trong các hang dơ dáy lông lá bị rụng, da trầy trụi lỡ lói. Khi bắt được con nào gã cắt đầu, lột da, bỏ bộ ruột, đem nướng hoặc kho mặn. Anh em thấy gã ăn mà thương hại và thường có ý ngăn cản vì sợ gã bị bệnh. Mọi người chia phần ăn cho gã và khuyên gã nên ngưng ăn chuột, nhưng gã vẫn tiếp tục bẩy chuột. Nhiều đêm cái bẩy sập đưa cần không? Gã tức lắm và cho là có người nào đó ăn chận, bắt lén. Để phát giác khi bẩy sập. Gã cột thêm mấy miếng nhôm để khi bẩy được chuột, chuột giẩy dụa sẽ kêu leng keng. Có hôm vừa mỗ bụng chuột xong, gã cười khà khà: Ê bắt được chuột có chửa, ăn chuột hà nàm bổ lắm. Gã lôi ra từng con chuột con trong bọc bỏ vào miệng ăn ngon lành  mấy anh bạn trong phòng bụm miệng, nôn ói. Chẵng ai cản được gã nên cứ để gã tùy tiện. Anh em đồn đại: Tay nầy đúng là một tên khật khùng…! Cán bộ trại gọi gã lên hỏi:
- Chúng tôi lo cho các anh thức ăn đầy đủ, sao anh lại ăn chuột dơ bẩn như thế?
Gã cười cười trả lời:
- Thưa cán bộ thêm thịt…
- Thế chúng tôi cung cấp không có thịt cho anh à?
- Dạ không có.
- Cá nục…rau cãi, nước mấm đấy.
- Dạ thịt cá đâu phải thịt heo.
- Anh còn muốn ăn thịt heo… tư sản nhỉ?
- Dạ ăn để sống mà cán bộ.
- Thế chúng tôi có để cho các anh chết à….?
Gã cúi đầu ngưng nói. Tên cán bộ tức khí:
- Thôi anh về đi…cấm không cho anh bắt chuột. Gã làm thinh quay đầu đi
ra khỏi phòng.
Gã cùng đoàn quân xuôi Nam vào tuốt tận vùng sâu rừng U Minh, nơi mật khu củ của mặt trận trá hình “Mặt trận giãi phóng miền Nam” dựng trại, phát hoang làm ruộng. Gã lè phè như bè trôi sông. Hồi mới tới U Minh mỗi tốp 10 người ngủ trong lều nilon, có đêm gió tốc mạnh mọi người thức dậy lo tu sửa căng lều lại. Gã vẩn nằm yên ngủ ngáy kho kho. Anh em cằn nhằn quá. Gã phân trần:
- Ngủ quên mà, sao không kêu tui.
Ít lâu sau gã xin được một miếng nilon nhỏ che đủ một bên gần kế lều chung, để khi mưa gió, khỏi lo anh em cầu nhầu. Có hôm mọi người thấy gã ngủ với nửa người ướt nhem vì miếng vải che bị tróc một phần. Mặc kệ! Gã ngủ với cơn ngáy đều đều!!!

Trong lao động hằng ngày hể gã đi chung với nhóm nào là các bạn trong nhóm nhăn mặt cười. Thế nào cũng phải gánh thêm để cho xong việc. Gã làm từ từ, đôi lúc nửa chừng than mệt, lên bờ ngồi vấn thuốc rê hút thở phì phèo. Anh em biết gã như vậy nên riết rồi cũng để mặc gã làm gì thì làm. Ai phàn nàn, nặng nhẹ, gã cười trừ: Làm gì mà dử vậy ông? Gã luôn tA B tốn, hề hà không giận ai cho dù có bị nặng nhẹ, nên chẵng ai ghét gã được…?

Công việc đi vào rừng sâu chặt cây và bè về để dựng trại thì được phân theo đầu người. Mỗi người mang về ba cây đước hoặc cây vẹt. Mỗi nhóm 10 người của ai nấy lo. Cây đốn xong dùng giây chạy cột lại và thả xuống lạch nước kéo về. Anh em đốn cây theo tiêu chuẩn, cây to, dài suông thỏng, còn gã thì chả cần miển có ba cây là được. Gã thả rề rề dB 0ới nước và luôn luôn là người về rất trể. Có hôm anh em trong nhóm phải quay lại kéo phụ với gã về chổ tập trung. Có một lần vì không bó chặt, lúc kéo về bó cây bị sút ra, gã rị mọ cột lại, nhưng vì nước lớn cây trôi theo dòng chảy. Gã giử cây nầy thì cây khác bị trôi đi, phần vì không biết lội nên cứ loay quay mãi mà không gom được cây để cột lại. Một chị bơi chiếc ghe tam bản ghé lại và giúp gã thu gom. Chi kêu gã lên xuồng ngồi, be bó cây vào xuồng, chèo về hướng trại. Bàn tay gã bị xướt, máu chảy ướt đẫm, gã xé một bên áo cột rịt vết thương. Khi xuồng vào đến khúc kinh nhỏ gần khu vực trại. Chị bơi tấp xuồng vào bờ ra hiệu cho gã xuống xuồng. Chị nói: Em giúp anh tới đây thôi, em không được phép vào khu vực trại. Chị bảo: chờ em một chút  em đem đồ ra băng bó vết thương cho anh. Chị chống sào giử xuồng, lên bờ đi vào cái chòi lá mang ra một nhúm gòn, chai thuốc sát trùng và miếng băng vãi. Chị kêu gã đưa bàn tay bị thương ra. Chị dùng bông gòn thấm thuốc sát trùng chổ bị trầy, bôi vào một chút thuốc đỏ và băng bó vết thương cho gã. Chị làm công việc rất thuần thạo. Gã đoán chắc bà nầy làm y tá. Gã muốn hỏi nhưng thôi. Gã lại lí nhí nói cám ơn và lội xuống nước kéo bè gổ về điễm tập trung. Hôm nay gã là người về sớm hơn mấy người bạn, ai cũng hỏi: Sao hôm nay tài quá vậy? Gã cười mĩm không trả lời.

Thời gian cứ trôi qua với những ngày những tháng tù đày nơi rừng U Minh. Lao động cực nhọc với mưa nắng, muổi, vắt, tuy nhiên ăn uống ở đây được tạm đủ nhờ rau hoang và bầy cá bạc ngàn đổ ra từ phía rừng sâu khi mùa mưa tràn đồng lênh láng. Hồi mới xuống đây vào đầu tháng tư, cơn mưa mới rỉ rả. Bây giờ cơn mưa đã tạnh, các láng trại được thành hA Cnh, mùa lúa gặt đã xong. Nông trường 30 tháng tư được thành lập.Tin tức chuyển trai đi nơi khác được anh em rỉ tay nhau…đi đâu…về đâu…??? Lại có tin đồn lần nầy trại sẽ thả một số người…Ai đây…???.Mọi đồn đại rồi cũng đi qua. Một hôm gã được gọi lên C với vài anh bạn khác. C trưởng cho hay toán nầy được cho về đoàn tụ với gia đình. Anh em trong nhóm ai cũng vui mừng, còn gã thì tỉnh bơ và nói với C trưởng:
- Cho tôi ở lại được không cán bộ…?
- Không được, có lệnh là phải rời trại.
Gã làm thinh với mặt buồn buồn lầm lủi về láng. Anh em trong nhóm ngạc nhiên hỏi:
- Ai cũng muốn về…còn mầy…điên hả!!! Gã cười méo mó và im lặng vấn
thuốc hút…Đó là cuối năm 1980.
Ngày được thả về, tất cả nhóm hơn 12 người lên phòng họp của trại để làm lể và lảnh giấy lệnh rời trại. Tất cả mọi người ai cũng được thông báo cho thân nhân vợ con vào ký vào giấy bảo lảnh nhận chồng về. Chỉ trừ anh chẵng có ai. Ban chỉ huy trại hỏi anh, anh nói: Xin cho tôi ở lại nông trường, tôi không còn ai là thân nhân. Cuối cùng ban chỉ huy trại cấp cho gã một công rừng ngoài nông trường gần phía trạm xá. Khi được cán bộ trại chỉ cho gã miếng đất được cấp, gã nhìn cái chòi lá mà trước đây chị y tá băng vết thương ở tay, chỉ cách độ một vuông đất. Chuyện gã xin ở lại lan truyền khắp nông trường. Mọi người cho gã là thằng khật khùng mới chọn ở lại cái nơi cùn khốn nầy. Nhưng người vui nhất khi nghe tin gã ở lại là Lượm.

Buổi sáng Lượm đứng trước cửa trạm xá nhìn mấy chiếc võ lãi chở mấy gia đình được cho về chạy ngang trước con rạch. Nàng nghĩ nếu gã mà có trong chuyến về nầy thì chắc nàng buồn lắm. Một cãm giác nôn nao truyền khắp cơ thể khiến Lượm mơ màng một đều gì đó không rỏ…. Lượm nghĩ trong những ngày sắp tới nàng sẽ còn được gặp gã.

Cuộc đời nàng rất hẫm hiu đau buồn, từ nhỏ tới giờ có khi nào nàng được cái cãm giác như bây giờ đâu. Mới 10 tuổi nàng đã mồ côi mồ cút vì ba má chết trong trận chiến Mậu Thân. Mười lăm tuổi đã vào đội giao liên. Nàng được nhào nặng hận thù Mỹ, Ngụy, học tập chiến đấu hy sinh theo các gương anh hùng mà nàng chỉ nghe thôi chớ chưa thấy tận mặt. Từ ngày vào đội giao liên tới giờ cứ luồn lách, chốn trui chốn nhủi khi lính đi càn. Nàng chỉ nghe báo cáo thành tích diệt địch, nhưng chưa bao giờ tham gia trận đánh nào.Trình độ thì chỉ nhá nhem đủ để có thể đọc được các chỉ thị công tác. Một hôm trên đường đi công tác với một anh bạn. Lính càn nhiều quá, hai đứa chém vè ở một cái hầm chìm dưới đám dứa gai. Cái hầm chật nứt hai đứa phải áp sát nhau suốt buổi. Hơi nóng hai cơ thể cứ như rang rang truyền vào nhau. Có lúc hình như thằng bạn để tay vào ngực áo đang bật khuy gần hết. Lượm vờ như không biết nhưng thấy rộn rả một thứ gì đó rất mơ hồ, cổ họng nàng như khô, nước miếng chực chờ chảy ra. Nàng nuốt một cái ực vào. Thằng bạn th y nàng để yên nên làm tới. Nó đưa tay luồng xuống thấp và thấp hơn. Không biết tại sao nàng vẩn để yên cho nó làm gì thì làm. Buổi tối hôm đó khi vừa ra khỏi miệng hầm thì nó đè bật Lượm ra trên miệng hầm…Nàng nằm im, một lúc Lượm nghe gió thỗi lạnh khắp người, nàng ôm riết nó sát hơn…nàng tê dại và cãm thấy đau nhói như có một cây gai nhọn vừa đâm vào phía dưới…Tối hôm đó du kích xã phải đốt rọi đi tìm. Hai đứa rón rén về chòi canh. Mỗi đứa nằm một gốc ngủ say.

Vài tháng sau, cũng trong chuyến công tác giao liên. Khi lính bố ráp. Lượm nhanh chân trốn được dưới hầm trú, nhưng thằng bạn bị bắn phơi thân ngoài đám dứa gai. Thấy cái xác bị bắn lòi ruột Lượm trừng trừng nhìn nó rồi bật khóc. Những ngày tháng sau đó Lượm ăn nằm hết với chủ tịch xả, tới xả đội trưởng. Hình như họ biết Lượm ăn nằm với thằng bạn du kích hôm ó. Họ tạo điều kiện đề gần nàng. Hình như nàng cũng hực nóng khi nghĩ tới chuyện làm tình. Nàng sẳn sàng nằm ra khi có cơ hội. Thật ra mấy anh ở trên cứ tạo cơ hội để được ngủ với Lượm. Các anh nói: Ủng hộ sinh lý cho các anh cũng là một công tác. Lượm tin như vậy, cho nên chuyện ăn nằm với mọi người là chuyện giống như thi hành nhiệm vụ. Sự ăn nằm quen dần cho đến nổi Lượm không biết cái thai chình ình càng nở to ra của nàng tác giả là ai. Lượm có bầu thì bị lôi ra xử lý. Chính anh Tư Hồng chủ tịch xã đã ngủ với Lượm không biết bao lần. Anh gay gắt phê phán trước buổi họp kiễm điễm nàng: Đồng chí đã làm mất tư cách một cán bộ cách mạng. Anh nhấn mạnh: Phụ nữ cách mạng luôn trong sạch để làm gương cho chị em trong đoàn ngũ, chưa có gia đình mà để có bầu là vi phạm điều lệ… Vợ của Tư Hồng là chủ tịch hội phủ nữ cách mạng, sau khi kiễm điễm gay gắt chuyện nàng có bầu và cuối cùng chị đề nghị thuyên chuyển Lượm sang cơ quan y tế khi sinh nở xong. Sau nầy Lượm biết được là bà vợ của Tư Hồng nghe phong phanh chuyện anh có ăn nằm với Lượm nên nhân cơ hội nầy đẩy Lượm đi xa. Còn Tư Hồng thì thở ra nhẹ nhõm.

Lượm bị sẩy thai trong một chuyến đi công tác. Nàng được nằm tại bệnh xá huyện và chuyển đi học y tá vài tháng thì ngày ba mươi tháng tư đến.

Chuyện gần đàn ông của Lượm như một đòi hỏi của cơ thể chứ không có một chút tình cãm gì ở trong đó. Ăn nằm xong thì nàng lồm cồm ngồi dậy mặc quần áo và mạnh ai nấy đi. Cho tới khi gặp được gã. Một người tù cãi tạo làm lì, hiền hậu, ăn nói từ tốn. Khi gặp nàng gã dững dưng chẵng nhìn nàng như mấy lão ở trong nầy, khiến nàng cứ muốn lấn tB Bi với gã trong nỗi xuyến xao kỳ lạ. Lượm thường đứng nhìn gã kéo gổ dưới lạch nước trước trạm xá với cái vẻ cô độc kham khổ thấy mà thương. Nàng tìm hiểu và biết gã chẵng có ai thăm nuôi. Nàng đoán chắc gã chưa vợ con nên đâm lòng yêu thầm.

Khi cái chòi lá của gã khởi công thì mọi người trong trại phụ dựng nhà cho gã, chỉ trong hai ngày là xong. Miếng đất được nông trường cấp cho gã một công gần khu trạm xá cho nên Lượm có nhiều cơ hội đến giúp gã nhiều việc. Ngày tháng trôi qua, khi thì nàng mang cho gã một vài món ăn, vá cho gã manh áo rách…nhưng chưa bao giờ nàng nói được cái đều nàng nghĩ trong đầu. Lượm n=C 3i thầm: Đàn ông gì mà kỳ lạ…mình muốn ảnh mà ảnh ...cứ lơ lơ chẵng để ý gì hết ráo…

Một buổi tối, Lượm nhìn qua kẻ hở của chòi tắm, thấy phía nhà gã chưa thắp đèn. Nàng quơ bộ quần áo mặc vào và thắc mắc: Cái anh nầy đi đâu, tối mò mà chưa zdìa để nhà tối om. Trạm xá cách nhà gã một vuông ruộng nhỏ cho nên nàng hay châm chú theo dõi sinh hoạt đi đứng của gã hằng ngày. Có hôm thấy gã ở trần trùn trụt phơi cái lưng vạm vở với màu da tr ng muốt. Nàng thấy nôn nao một ham muốn dâng tràn, toàn thân nàng nóng rang. Luợm ước gì được nằm sát với gã. Khi ấy nàng nhấm mắt mơ màng nghĩ đến một một dòng ái ân tràn ngập trong đầu… Lượm quyết định sang nhà gã xem gã có ở nhà không? Trời mới nhá nhem tối nhưng Lượm cũng cầm theo cây đèn pin. Bước ra khỏi trạm xá, cơn gió chiều hôm thổi lùa, nàng nghe lành lạnh ở vùng ngực. Lượm chợt nhớ ra mình quên mặc áo lót. Nàng đưa đôi tay bắt chéo trước ngực khi đứng trước cửa nhà gã. Nhà tróng trơn không có cửa trước. Nàng nhìn suốt vào nhưng chẵng thấy ai bên trong. Lượm đi vòng ra phía sau, thì bất chợt nhìn thấy gả vừa mới ở dưới mương nước bước lên.Toàn thân trần truồng. Một bóng trắng c hập chờn trước mắt. Nàng vội trở ra phía trước gọi: Anh ơi có nhà không, sao nhà tối om zdậy? Gã nghe nàng gọi thì vội đi ngay vào nhà lấy bộ đồ bà ba đen mặc vào và nói vói ra: Có tôi…chờ chút nha ? vừa nói gã vừa mò tìm cái ống quẹt mồi cây đèn. Căn nhà sáng lên. Lượm đứng ngay khung cửa. Ánh sáng làm lộ thân hình người con gái với bộ đồ bông hường nhô cao đôi vòng ngực. Gã tằn hắn:
- Có gì hong cô Lượm.
- Thấy nhà tối em tưởng anh không có nhà nên đi qua coi thử anh zdìa chưa?
- Tôi tắm ở dưới mương nước phía sau nhà.
Nàng vờ như không biết gì và nói: zdậy mà em tưởng anh đi đâu? Nàng bước hẳn vào bên trong. Nhà tróng trơn chưa có bàn ghế gì ráo. Gã nói: Cô ngồi lên gường đở. Lượm ngồi lên mép gường nhìn quanh quất căn nhà rồi nói: Mai em đi chợ mua đồ cho trạm, chắc em mua cho anh một ít đồ xài, anh cần món gì cho em biết. Gã đứng xớ rớ một gốc nhà nói: Chưa biế t cần gì nửa cô ơi?. Lượm dượm người đứng lên bước vài bước, rồi nhìn trước, ngó sau xem có gì mua được cho gã đây? Nàng chột dạ nói trong lòng: Nhà thiếu đàn bà có khác và cãm thương cho gả một cách chân thành. Lượm hỏi:
- Anh ở như vầy…hỏng ai lo cho anh hết.
- Tui quen rồi cô.
- Em muốn lo cho anh...lo hoài hoài được hôn?
Gã xua tay:
- Không được đâu. Cô là cán bộ, tôi là tên tù mới được thả ra...nếu người ta biết cô lui tới như thế nầy có hại cho tui. Tui cám ơn sự lo lắng và sự giúp đở của của cô.
Lượm trân trân nhìn gã và nói:
- Anh...! em thương anh mà. Không ai có quyền cản ngăn em hết á! Em là một người con gái...không là cán bộ gì ráo, em chán cái luận điệu của mấy ông trong bưng nầy lắm rồi. Thời gian qua nhìn các anh sinh hoạt mọi người ở vùng nầy đều biết các anh là ai...là những người tử tế chứ không như những điều bôi xấu mà em và các người ở đây nghe về các anh... Dường như có một cơn sục sôi bùng cháy trong lòng. Lượm bước tới ôm chầm lấy gã và nói: Em thương anh!. Mùi thơm bồ kết từ mái tóc mới gội của nàng cộng lại với sự cọ sát vòng ngực nóng ran làm gã boàng hoàng lo sợ hơn là cãm xúc... gã vội tỉnh trí đưa hai tay lên hai vai nàng đẩy nhẹ ra và nói: Không được đâu...cô về đi...! Không được đâu....! Bỏ Lượm đứng khóc trong nhà, gã chạy ra phía sau ... Cánh đồng mênh mông loáng nước trước mặt gã đã tối sầm. Gã khom lưng vóc một bụm nước úp vào mặt.

Vào một buổi trưa ngày.. tháng ...năm 1984 một chiếc võ lãi chở một thiếu phụ sang trọng và hai người con tấp vô trạm xá. Người tài công bước lên hỏi Lượm nhà của anh T.... ở đâu? Lượm nhìn xuống chiếc võ lãi, lòng tự hỏi: Ai zdậy kìa???

Khi chiếc võ lãi tấp vô nhà của gã. Lượm ra đứng ngoài sân bệnh xá nhìn sang đấy, thấy gả chạy ra ôm chầm lấy người thiếu phụ, còn hai đứa nhỏ thì kêu ba ơi ba...! Gã quay sang ôm hai đứa nhỏ hôn lấy hôn để... Tất cả gia đình gã di tản sang sống ở Mỷ. Sau khi liên lạc được với những người bạn còn ở Sài Gòn có chồng bị tù ở vùn g U Minh. Vợ gã biết gã còn ở Năm Căn. Chị xuống Cà Mau dò la tin tức và biết gã đang ở nông trường Thống Nhất. Hôm nay chị mướn chiếc võ lãi vào rước gã về. Lượm đứng như trời trồng và ôm mặt khóc: Trời ơi! vợ con của ảnh!!!!!

Chiều đó chiếc võ lãi quay mủi chạy ra khỏi nông trường, đi ngang trạm xá. Gã nhìn vào một lúc rồi vội quay mặt về phía vợ nói: Anh có nhiều kỷ niệm với cái trạm xá nầy. Người thiếu phụ nói: Vậy hả...? Chiếc võ lãi chạy khuất ra vàm kinh lớn. Tiếng bành bạch của chiếc máy đuôi tôm dội trong Lượm nỗi đau xót tận c ng buồn bã. Anh đi thật rồi! Em mất anh thật rồi...!Nàng đứng khóc một mình trong buổi chiều U Minh lặng lẻ.

Bẵng đi một thời gian rất lâu. Lúc nầy Lượm làm y tá cho một bệnh xá ở huyện...Một hôm nàng nhận được một món quà từ bưu điện. Đó là một sợi dây chuyền bằng vàng với hai trái tim kề nhau, kèm thêm có bức thư của gã bất cần năm nào gởi từ Mỹ về.

Cali..ngày... tháng....năm......
Lượm thương mến,
Tôi hiểu rỏ tấm lòng của em dành cho tôi và luôn ghi nhớ những sự giúp đở của em trong những ngày tháng ở rừng. Chiếc võ lãi chở vợ con của tôi vào ngày hôm đó cũng là một bất ngờ cho tôi. Trong cơn biến động trước ngày 30 tháng tư năm 1975. Gia đình tôi lo di tản trước đó vài ngày.Vợ tôi từ Sài Gòn xuống Chương Thiện ngày 28 tháng tư để đón tôi về c ùng di tản ra hạm đội Mỹ, nhưng không gặp được tôi. Mọi người trong gia đình tôi đã ra đi trong lúc chúng tôi được lệnh tử thủ của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Chúng tôi đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng...và rồi những gì em biết sau đó. Chúng tôi đành thua trận. Người anh đầu đàn của chúng tôi hiên ngang gục chết trước pháp trường. Tôi mất liên lạc với gia đình và không biết họ về đâu trong cơn biến động đau đớn đó. Tôi đành chịu số phận chung cuộc của những người bại trận. Chúng tôi hèn nhát hơn vị Đại tá của chúng tôi! Chúng tôi buông súng, nạp mình cho kẻ chiến thắng là phía của em. Tôi phó đời trong bất cần số phận...và cuối cùng tôi gặp lại vợ con trong bất ngờ như chiêm bao. Tôi cám ơn ơn trên đã cho tôi hồi sinh được cuộc sống và xin cám ơn em đã tân tụy giúp tôi trong cơn khốn cùng đã qua. Tôi nhận biết rằng: Từ trong trái tim yêu thương chân thành thì không có lòng thù hận. Xin gởi em món quà từ đất Mỹ. Mong em vui lòng nhận cho, trong đó có tấm lòng của tôi.

Thương mến,
Lê văn T...
Riêng Lượm từ hôm nhận được quà và thư của gã nàng khóc thật nhiều. Sau đó nàng rời bỏ bệnh xá. Người ta không biết nàng đi đâu...?

HUỲNH TÂM HOÀI
( DUY QUANG chuyển )

*
Nếu chưa buồn ngủ...Xin đọc thêm:


Một anh giàu có ... có 4 bà vợ.
Ông yêu người vợ thứ tư nhất, luôn mua sắm cho bà ta những bộ đồ sang trọng đắt tiền. Ông nâng niu chiều chuộng, "Coi người vợ thứ tư như một món đồ trang sức quý ...".
Ông cũng rất yêu người vợ thứ ba. Ông tự hào về người vợ này và luôn muốn “khoe” vợ với bạn bè. Tuy nhiên, trong ông luôn thường trực nỗi lo sợ bà bỏ đi với người đàn ông khác.

Ông cũng yêu người vợ thứ hai. Ông coi bà như người bạn tâm tình, người giúp ông vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Bất cứ khi nào gặp khúc mắc, ông đều tìm đến bà.

Người vợ thứ nhất lại là người rất chân thành, chung thuỷ, luôn kề vai sát cánh bên ông lo toan chu đáo chuyện gia đình. Tuy nhiên, ông lại không yêu bà vợ thứ nhất. Mặc dù bà rất yêu ông, ông hầu như chẳng bao giờ chú ý đến bà.

Một ngày, ông ngã bệnh. Ông tự biết rằng mình sắp từ giã cõi trần. Ông nghĩ về cuộc sống giàu sang xa hoa và tự nhủ : “Hiện mình có 4 bà vợ. Nhưng khi mình chết, lại chỉ có một mình. Thật cô đơn làm sao !”.

Ông ta hỏi bà vợ thứ tư : “Tôi yêu mình nhất, luôn dành cho mình sự quan tâm đặc biệt và những điều tốt đẹp nhất. Tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa, liệu khi tôi chết, mình có nguyện đi theo tôi không ?”.

“Không đâu” - Bà vợ thứ tư đáp lại và bước đi.

Câu trả lời như một nhát dao cứa vào.

Ông hỏi người vợ thứ ba : “Tôi yêu bà nhiều lắm, tôi sắp chết rồi, bà có nguyện theo tôi không ?”.

“Không, cuộc sống vẫn đang đẹp mà. Sau khi ông chết, tôi sẽ tái hôn”.

Trái tim ông run lên đau đớn.

Sau đó, ông hỏi người vợ thứ hai : “Bất cứ khi nào gặp vấn đề khó khăn rắc rối gì tôi cũng đều tìm đến bà. Bây giờ tôi xin bà hãy kề vai sát cánh cùng tôi lần cuối cùng. Khi tôi chết, bà có nguyện đi theo tôi không ?”.

Bà vợ thứ hai trả lời : “Xin lỗi, lúc này tôi không thể giúp ông được. Nếu có, tôi chỉ đưa linh cữu ông ra mộ thôi”.

Ông nghe câu trả lời mà như sét đánh ngang tai. Ông thực sự quá đau đớn vì người mà ông nghĩ có thể tin tưởng nhất cũng bỏ rơi ông.

Bỗng có một giọng nói cất lên : “Tôi sẽ đi cùng ông, đi đến bất cứ nơi nào ông tới”. Ông dáo dác tìm kiếm chủ nhân của giọng nói và nhận ra đó chính là người vợ thứ nhất, người mà chẳng mấy khi ông để ý tới.

Trông bà gầy và xanh xao quá. Rưng rưng xúc động, ông nói : “Đáng lẽ ra trước đây tôi phải chăm sóc bà nhiều hơn nữa”.

Mỗi chúng ta ai cũng có 4 bà vợ.

Bà vợ thứ tư chính là thân thể của chúng ta. Cho dù ta có chăm chút, trau chuốt đến mấy, rồi nó cũng rời bỏ ta khi ta chết.

Còn bà vợ thứ ba ? Đó chính là của cải, địa vị ... Khi chúng ta chết, chúng sẵn sàng đi theo người khác.

Bà vợ thứ hai chính là gia đình và bạn bè. Cho dù có thân thiết đến mức độ nào, khi ta chết, họ cũng chỉ khóc đưa ta ra mộ mà thôi.

Bà vợ thứ nhất chính là tâm hồn ta, thường bị lãng quên khi ta chạy theo tiền tài, địa vị, danh vọng, của cải, nhưng nó sẽ theo ta suốt cuộc đời. Tốt hơn hết là nuôi dưỡng tâm hồn ngay từ bây giờ, vì đó là “người” thân tín nhất bên ta. Đừng để phải hối hận vì đã lãng quên nó.

Cuộc đời như mây nổi,
như gió thổi, như chiêm bao..."
(Nguyễn Công Trứ)
Back to top
« Last Edit: 22. May 2010 , 01:16 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #2 - 25. May 2010 , 23:47
 
Người Tử tù Câm_


Nguyễn Hoàng Linh 
               

Hắn bị giam ở cạnh buồng của tôi. Gần một tháng trời kể từ ngày tôi bị giam vào đây, hắn không nói một lời nào. Dãy buồng B lẻ lặng như câm, như điếc. Theo số suất cơm của người “tù tự giác” bê vào thì cả dãy chỉ có hai người, tôi và hắn.
Thời gian lặng lẽ trôi đi như dòng nước chảy ngược. Tương lai chẳng thấy đâu mà chỉ toàn hiện lên quá khứ.

Cái buồng giam bé hẹp chưa đầy 6 mét vuông, hai bệ xi măng lạnh ngắt, một bệ xí và một chiếc bể nước con khiến lồng ngực như khép lại, tức thở. Đêm đến, giấc ngủ chập chờn toàn những bóng ma và ác quỷ.
- Nó câm đấy! án “dựa cột”. Đang chờ ngày hành quyết.
- Trẻ lắm, mới 27 tuổi. Đẹp trai.
- Quê ở Thái Nguyên. Vừa cướp của, vừa giết người.
- Thỉnh thoảng khóc một mình. Tội nghiệp lắm!

Mỗi lần đưa cơm, người “tù tự giác” chỉ kịp thông tin từng mẩu về hắn như vậy. Cứ như người gom nhặt từng mẩu bánh mì rơi vãi để chắp thành một chiếc bánh mì, tôi mường tượng ra gương mặt và số phận của hắn.

***

“Có ai còn sống khô… ô… ông!”. Thình… Thình… Thình… Tôi giật mình tỉnh dậy. Đêm lặng ngắt, chỉ có tiếng o… o… của chiếc chấn lưu đèn ống mắc ngoài hành lang vọng vào. Cánh cửa sắt vẫn đóng im ỉm. Hình như có tiếng người, lại cả tiếng đập cửa? Không thể thế được. Đương nhiên không phải tiếng thằng câm. Vậy thì ai gọi? Vọng từ đâu đến? Hay là tiếng của những oan hồn?… Tim tôi đập thình thịch. Tôi khẽ nghiêng người, đưa mắt nhìn sang bệ xi măng bên cạnh. Không có gì. Không có bóng áo trắng nào nằm ở đấy cả. Người “tù tự giác” thỉnh thoảng nói với tôi rằng ở đây nhiều ma lắm. Hôm nào nghe tiếng chó tru lên ngoài xa là có ma về. Nhiều người tù đang đêm tỉnh dậy, thấy một bóng áo trắng nằm ngay bên cạnh mình. Rồi lại có người nhìn thấy ma đi lũ lượt ngoài hành lang, tay dắt cả chó ngao… Tôi không tin là trên đời này có ma và cũng chưa bao giờ gặp ma. Nhưng tôi vẫn cho rằng có một “thế giới vật chất phi truyền thống” nào đó, tồn tại ở một dạng sóng hạt nào đó mà chỉ một số người “bắt” được tần số mới cảm nhận được. Trường hợp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ngồi tại Hà Nội mà hướng dẫn người tìm mộ tận trên rừng Trường Sơn, nói đâu đúng đấy trong hàng trăm trường hợp thì đâu còn là sự ngẫu nhiên. Có lẽ ma đang nằm bên cạnh mình thật, đang nói, đang gọi thật, đang đập cửa thật mà mình chỉ cảm nhận được khi ngủ chứ không cảm nhận được khi thức. Tôi cứ tự an ủi mình bằng cách nghĩ như vậy và yên tâm quay mặt vào tường ngủ tiếp.

“Có ai còn số… ố… ống khô… ô… ông!”. Thình… Thình… Thình… Tôi lại choàng tỉnh. Song lần này khác với lần trước, sau tiếng “khô… ô… ông” cuối cùng ấy là một tiếng nấc vô vọng. Tôi tỉnh hẳn, ngồi bật dậy, lao ra cửa, tay nắm lấy song sắt. Ngoài hành lang vẫn vắng lặng. Ánh đèn nê-ông nhợt nhạt như màu của xác chết. Tôi lấy hết can đảm thì thào “Ai đấy! Có tôi đây!”. Tôi linh cảm thấy rằng đấy là tiếng gọi của thằng câm.
- Anh ở phòng nào? – Tiếng người reo lên nho nhỏ.
- B13! – Tôi thầm thì.
- Tôi B15. Tôi là thằng câm đây!
- Câm sao lại nói được?
Lặng đi vài giây, thằng câm khe khẽ:
- Chuyện dài lắm. Có lẽ tôi sắp phải “đi” rồi.

Rồi thằng câm kể: Quê tôi ở Thái Nguyên. Anh đã lên Thái Nguyên bao giờ chưa? Vùng đất đồi núi, chó ăn đá, gà ăn sỏi ấy, chẳng có cái gì tồn tại được trừ cây chè và cái đói, cái nghèo. Nhà tôi có sáu người. Nói là sáu song thực chất chỉ có năm: bố, mẹ và ba anh em tôi. Tôi ở giữa. Còn đứng thứ sáu là một con chó. Nó tên Tu Tu, bảy tuổi. Nhà tôi nghèo, thiếu đủ thứ song không thể thiếu con Tu Tu. Nó cùng vui, cùng buồn với tất cả mọi người trong nhà, nó thân thiện với bạn bè, người thân của gia đình nhưng cực kỳ hung dữ với những kẻ có tâm địa ác độc. Ai đến nhà chơi, nếu con Tu Tu nằm ngay bên cạnh khách, thỉnh thoảng gầm gừ, ấy là báo hiệu người nhà phải cảnh giác người đang ngồi chơi đấy mà tâm địa tối tăm. Còn những người khác, nó lảng ra ngoài cổng. Nó biết cảm thông, chia sẻ cái nghèo với chủ. Nhà tôi một tháng, năm thì mười họa mới có một bữa cơm có thịt, và hôm ấy, bao giờ con Tu Tu cũng biến mất, không ngồi chồm hỗm, vui vẻ với chủ như những bữa khác. Chỉ khi cả nhà ăn xong, bưng cái mâm bát ra bờ giếng để rửa thì nó mới len lén xuất hiện, la liếm những mẩu xương thừa một cách ngon lành. Có lẽ nó hiểu rằng có nó trong bữa ăn, số thịt ít ỏi kia sẽ phải chia làm sáu chứ không phải làm năm. Hành động “nghĩa hiệp” của nó khiến cả nhà tôi càng thương nó hơn, gặm miếng xương cũng gặm dối hơn, miếng thịt cũng cấu lại một ít giả vờ là xương để lại góc mâm dành cho nó.

Thế mà một hôm, đến bữa cơm chiều không thịt, không cá, con Tu Tu biến mất. Cả nhà tôi bàng hoàng, biết sự chẳng lành đã xảy ra với nó. Một tai họa khủng khiếp mà gia đình tôi chưa bao giờ gặp phải. Không thể ai bắt trộm được nó vì nó rất khôn và rất dữ. Nó không thể bỏ chúng tôi được vì cũng như chúng tôi không thể bỏ nó. Thế mà suốt từ trưa đến lúc cả nhà ngồi quanh một mâm cơm toàn ngọn rau lang luộc với muối vừng, nó vẫn không về. Cả nhà chẳng ai nuốt nổi lưng bát cơm. Bố tôi ngồi thẫn thờ trên chiếc phản cũ kỹ giữa nhà, rít thuốc lào sòng sọc. Mẹ tôi kê đôi dép nhựa rách, ngồi đầu thềm vừa ngóng con Tu Tu vừa lau nước mắt. Thằng em trai tôi bưng mâm cơm ra bờ giếng, khóc ti tỉ. Chỉ riêng ông anh tôi, mặt lì lì, chẳng nói chẳng rằng. Cả nhà nặng nề như có tang.
Khoảng 10 giờ đêm, anh tôi lôi tôi ra đầu nhà, giọng lạnh sắc:
- Thanh! Mày còn giữ con dao găm hồi trước không?
Tôi hơi chột dạ:
- Còn. Nhưng anh cần làm gì?
- Đi cứu con Tu Tu.
Tôi mứng quýnh:
- Sao? Anh tìm được con Tu Tu rồi à? Anh biết chỗ con Tu Tu à? Nó bị bắt trộm hay sao?
- Lấy con dao găm ra đây – Giọng anh vẫn lạnh ngắt.
Tôi cuống lên:
- Thế thì phải cứu bằng được nó – Nói rồi, tôi vội chạy vào bếp, lấy con dao giắt trên mái, giấu trong một ống tre.
Anh tôi bảo:
- Phải mang theo cái kìm cắt nữa. Nó đang bị nhốt ở trong một chiếc cũi mắt cáo.
Chúng tôi chuẩn bị xong xuôi và lặng lẽ ra đi trong đêm tối, hướng về thành phố. Hôm ấy trời đầy sao. Từ nhà tôi ra đến thành phố chưa đầy 6km. Gió heo may mát lạnh của mùa thu không làm giảm khí thế hừng hực trong tôi. Song tôi có biết đâu rằng, đó là một đêm tối định mệnh, một đêm không bao giờ xảy ra lần thứ hai trong đời.
- Sao anh tìm ra đứa bắt trộm con Tu Tu?
- Nó không bị bắt trộm. Tao đã bán nó.
- Trời! – Tôi kêu lên và đứng sựng lại giữa lưng chừng dốc một quả đồi – Không thể có việc đó được. Anh nói dối.
Anh tôi kéo tay tôi lôi đi:
- Tao nói thật đấy.
- Anh không phải là người vô lương tâm. Nếu vô lương tâm, con Tu Tu nó đã biết, nó sẽ không bao giờ chơi với anh. Nhưng đằng này, nó quý anh nhất nhà…
Anh tôi vẫn lầm lũi đi về hướng thành phố. Đường đồi gập ghềnh, mấp mô, chỗ lồi chỗ lõm. Thỉnh thoảng chúng tôi lại bị vấp ngã chúi mũi.
- Anh bán cho nhà nào?
- Tuấn thịt chó.
Mấy tiếng “Tuấn thịt chó” khiến tôi choáng váng. Con Tu Tu mà vào tay nhà ấy chắc gì giờ này còn sống. Như hiểu được tâm trạng của tôi, anh nói:
- Hôm nay đầu tháng, khách ăn thịt chó ít, nó chưa bị giết đâu. Tao vừa đi quan sát về.
- Sao anh lại bán nó? – Tôi hỏi và hồi hộp đợi câu trả lời.
Bóng đen bên cạnh tôi vẫn lầm lũi di chuyển, rồi phát ra những âm thanh cục mịch, khô khốc như những viên sỏi ném vào màn đêm:
- Tao cần tiền. Thằng Tiến bị tai nạn gãy chân. Không có tiền chạy chữa. Tao chẳng còn cách nào khác.

Tôi thở dài và thấy thương anh tôi. Anh Tiến là bạn nối khố của anh tôi từ nhỏ, cùng học với nhau, cùng đi làm thuê với nhau và cùng cảnh nghèo với nhau. Chỉ khác một điều bố mẹ anh Tiến mất sớm, để lại 3 đứa em nhỏ, nhà nghèo đến sát tận xương tủy. Quả thật, đối với anh tôi, giữa anh Tiến và con Tu Tu, chẳng thể phân biệt bên nào hơn bên nào, chỉ có điều một bên là con chó và một bên là con người. Anh Tiến hơn phân có lẽ là vì cuộc sống của 3 đứa em nhỏ. Anh Tiến sống thì chúng nó sẽ sống…

Nhà Tuấn thịt chó ở ngoại thành, bên con đường đá lẫn nhựa lổn nhổn. Đằng sau nhà là một cái ao lớn, xung quanh trồng chè lúp xúp. Trong bóng đêm, anh tôi chỉ cho tôi chỗ nhốt con Tu Tu, phần chái nhà sau bếp. Từ chỗ hàng rào bên hông nhà, qua vườn chè là tới bếp. Cũi chó đặt ở đó. Tôi được phân công đứng ngoài hàng rào nghe ngóng.

Anh tôi như một con mèo, nhẹ nhàng nhảy qua hàng rào cao ngang lưng, lom khom vượt qua vườn chè, tiến về phía bếp. Có tiếng “ư ử” khe khẽ của con Tu Tu. Nó đã đánh hơi được chủ. Tim tôi như muốn vỡ ra. Con Tu Tu vì vui mừng mà làm lộ thì không còn cách nào cứu thoát. Thật may, con Tu Tu đã im bặt, chỉ còn tiếng thở của nó. Rồi tiếng lách cách kìm cắt dây thép… Bỗng có tiếng kẹt cửa. Tôi nín thở. Cửa nhà trên mở. Ông chủ thịt chó từ từ tiến về phía nhà bếp. Nguy mất rồi, ông ta đã chặn đường ra. Nếu lộ, chỉ còn một nước là nhảy xuống ao, mà xuống ao là đường tử.

Có tiếng vật nhau uỳnh uỵch. Tiếng kêu thất thanh. Tiếng ú ớ. Tiếng chân người chạy sầm sầm trong nhà, ngoài bếp. Tôi đang loay hoay chưa biết làm thế nào thì thấy bóng con Tu Tu vút qua hàng rào. Tiếp là anh tôi vụt qua theo, ngay chỗ tôi ngồi náu. Một bóng đen đuổi sát. Theo phản xạ tự nhiên, tôi vụt dậy, lao ra ôm chặt lấy bóng đen. Sau mấy giây vật lộn, giằng ra không được, bóng đen liền ôm chặt lấy tôi và hô lớn: “Cướp! Cướp! Bà con ơi, bắt lấy nó”. Dân chúng vây quanh tôi, đèn pin loang loáng. Tôi bị đánh một trận nhừ tử. Mặt mũi, tay chân chỗ nào cũng sưng húp, đau nhừ. Họ dùng dây thừng trói gô tôi lại như bó giò, kéo lê tôi tới đồn công an…

* * *
Cửa sắt nhà giam ken két mở. Tiếng kể chuyện của thằng câm im bặt. ở trong nhà giam này, mọi người ai mắt cũng kém đi và tai lại thính lên, thính nhạy không kém gì tai chó, tai mèo. Chỉ nghe tiếng chân người đi ngoài hành lang là biết đó là ai, quản giáo hay “tù tự giác”, người chữa điện hay người đưa cơm. Tiếng mở cửa, đóng cửa sắt cũng như giới thiệu được tên người, tính cách. Hôm nay, đang nửa đêm có cán bộ quản giáo đi tuần thế này, chắc là có vấn đề nghiêm trọng.

Tiếng giày của người cán bộ quản giáo rõ dần. Tôi vội chui vào màn, nằm im giả vờ ngủ. Ông quản giáo này tên là Duy, quê ở Bắc Ninh. Ông có gương mặt đầy đặn, phúc hậu, song đôi mắt hơi buồn, khi nói chuyện, đôi chân mày hơi nhíu lại. Người ta bảo những người như thế thường đa cảm, thương người, số sẽ vất vả. Riêng với ông quản giáo Duy, tôi có cảm tình với ông ngay từ đầu, không phải chỉ vì tướng mạo mà vì cách cư xử. Ông quan tâm đến tù nhân như bác sĩ quan tâm tới bệnh nhân, hỏi han, chăm lo từng tí một. Chính ông đã khiến tôi xoá hết những gì ác cảm từ xưa đến nay về nhà tù. Thì ra, nơi nào cũng có những người tốt, thậm chí rất tốt nữa là đằng khác.

Quản giáo Duy đến trước cửa buồng giam chúng tôi thì dừng lại, nghe ngóng một hồi rồi lẩm bẩm:
- Quái, rõ ràng có tiếng người rì rầm ở chỗ này. Chẳng lẽ lại có ma?
Ông nghé vào buồng tôi, sang buồng thằng câm đứng một lúc, lẩm bẩm thêm vài câu gì đó rồi quay trở lại phòng trực ban.
Một lát sau, tiếng thằng câm thì thầm:
- Anh vẫn còn thức đấy chứ?
- Còn! Tôi vẫn nghe đây. Anh không giết người sao lại nhận án tử hình?

- Tôi không giết người nhưng anh tôi giết. Tôi không thể ngờ được rằng anh tôi đã đâm chết ông chủ hiệu thịt chó. Đêm hôm ấy, họ hỏi cung tôi. Tôi nói tôi là người qua đường, thấy tiếng í ới, nhộn nhạo, rồi thấy có người nhảy qua hàng rào. Tôi nghĩ là kẻ trộm nên ôm chặt lấy người đó. Tôi không hề biết đấy là con trai ông chủ hiệu thịt chó. Cũng không biết là trong nhà có vụ giết người. Nói rồi, nói mãi, công an họ vẫn không tin. Họ cho xét nghiệm hiện trường, xét nghiệm tất cả những thứ trên người tôi có. Họ nói rằng mấy sợi tóc rơi trên nền bếp nhà ông chủ hiệu thịt chó chính là của tôi. Vết máu trên áo tôi là máu của ông chủ hiệu thịt chó. Tất cả mọi chứng cứ đều chống lại tôi. Vợ chồng con trai ông chủ thịt chó quyết tâm trả thù cho cha bằng cách dựng hiện trường giả. Ngay sau khi tôi bị dẫn lên đồn công an, nó lập tức về mở tung cửa tủ, vứt mấy cái nhẫn vàng vung vãi khắp nhà. Lấy ngay cái gậy mà nó đã đánh vào đầu tôi làm tang vật để lấy mẫu máu và tóc của tôi tại hiện trường. Vết máu trên áo tôi chính là vết máu trên áo nó dây sang. Khi vật lộn trong bếp, máu của bố nó đã thấm đẫm vào nó. Rồi khi vật lộn với tôi, máu ấy lại dây sang tôi. Cái bản tự khai của vợ chồng nó mới ác độc. Nó mô tả rằng khi nghe tiếng cạy cửa, vợ chồng nó đã biết là kẻ trộm, song khi thấy tay tôi lăm lăm cầm dao, nên không dám động tĩnh gì. Đến khi tôi cạy tủ, lấy hết vàng bạc nhà nó chuồn ra sau bếp thì chẳng may đúng lúc ông bố ở nhà dưới dậy ra vườn đi tiểu đêm bắt gặp, thế là tôi bỏ của chạy lấy người, đâm chết bố nó. Chạy ra đến hàng rào thì nó đuổi bắt được tôi.

Trong vụ việc này, chỉ có hai người biết chắc chắn tôi không phải là kẻ giết người, cướp của, đó là con ông chủ thịt chó và anh trai tôi. Tôi đã từng hy vọng lương tâm con ông chủ thịt chó sẽ cắn rứt, sẽ tự đứng ra rút lời khai bịa đặt kia. Nhưng việc ấy đã không xảy ra. Tôi không trách gì anh ta. Nỗi đau mất cha của anh ta quá lớn. Đời anh ta lại quá quen với mùi tanh của máu, dù đó là máu chó. Nếu một chút nào vô lương tâm, độc ác và tàn nhẫn thì cũng là điều dễ hiểu. Còn anh trai tôi, sau khi nghe tôi bị kết án tử hình, anh trở nên điên loạn, lúc khóc, lúc cười, thỉnh thoảng lại đập đầu vào bất cứ thứ gì có thể đập được và kêu đến khản tiếng: “Tôi giết em tôi rồi! Tôi giết em tôi rồi!”. Một ngày kia, anh viết đơn tự thú kể lại tất cả. Từ việc bán con Tu Tu, đi cứu con Tu Tu, rồi bị dồn vào tình thế quẫn bách, vô thức nên đã vô ý giết người. Trong đơn, anh xin chịu tội chết thay cho tôi vì tôi không có tội. Tôi không hiểu cái đơn tự thú ấy có làm ai tin không, song tại buổi thẩm vấn gần đây nhất, tôi đã viết bản lời khai xác định rằng tôi là kẻ giết người. Anh ấy thương tôi mà nghĩ ra câu chuyện ấy. Lời khai của tôi được các cơ quan pháp luật tin ngay lập tức, vì tất cả các sự kiện được khớp vào nhau đến mức không thể còn một khe hở nghi ngờ nào lọt qua. Người tố cáo có, người làm chứng có, người nhận tội có, vật chứng có… tất cả đều y như thật.

Tôi làm việc này vì đã nghĩ kỹ lắm rồi. Ở đời, ân oán phải sòng phẳng. Nhà mình đã giết chết một người của nhà người ta thì nhà mình phải có một người đền mạng. Mình không đền rồi cuộc đời cũng sẽ bắt mình phải đền. Việc đã lỡ rồi, làm sao bây giờ. Cả nhà tôi bây giờ chỉ có tôi là đáng đền mạng nhất. Bố mẹ tôi thì già rồi, bao nhiêu năm nuôi chúng tôi khôn lớn, vất vả nhọc nhằn từ mờ sáng đến tối mịt, không đáng phải chịu đựng thêm bất cứ một bất hạnh nào của cuộc đời. Em trai tôi còn nhỏ dại, nó cần phải được học hành nên người. Còn anh tôi. Anh ấy lại càng đáng được sống hơn, vì anh ấy đã mất cả cha lẫn mẹ. Từ nhỏ đến lớn, nỗi đau mất mát luôn luôn đeo đẳng anh ấy mặc dù gia đình tôi, kể cả con Tu Tu, đã dành cho anh tình thương lớn nhất.

***

Lại có tiếng lách cách khoá cửa sắt phía đầu hành lang. Vẫn tiếng giày của quản giáo Duy. Chúng tôi im bặt và chui vào màn giả vờ ngủ. Tiếng ngáp dài và tiếng lầu bầu vọng vào: “Đúng là có ma. Hay mình mơ ngủ. Vớ vẩn thật”. Tiếng giày xa dần, xa dần.

* * *

Câu chuyện của chúng tôi lại tiếp tục.
Bố tôi và bố anh ấy cùng chung đơn vị bộ đội. Trong một trận chiến đấu, bố anh ấy bị thương nặng. Trước khi mất, ông nắm tay bố tôi vừa nói vừa ứa nước mắt: ”Tôi chỉ có duy nhất một đứa con trai. Nó mất mẹ từ nhỏ. Nó không thể không có bố. Anh hãy là bố nó thay tôi”. Nói rồi, ông tắt thở. Anh tôi lớn lên trong gia đình tôi như người con đẻ. Anh thương bố mẹ nuôi, thương các em, thương con Tu Tu hơn cả thân mình.

Anh sống tự tin và hiếu thảo. Anh chưa làm điều ác với ai bao giờ. Với bạn bè, anh không tiếc một thứ gì. Như việc của anh Tiến đấy, anh đã phải đứt ruột bán con Tu Tu để cứu lấy bạn, cứu lấy cuộc sống của ba đứa em nhỏ của bạn. Rồi lại phải làm cái việc vô cùng độc ác để cứu con Tu Tu. Anh ấy đang có người yêu. Anh ấy sẽ lấy vợ, và sẽ có con. Bố anh ấy dưới suối vàng chắc sẽ mãn nguyện lắm…

***

Câu chuyện của thằng tử tù câm cứ thì thầm, thì thầm như một huyền thoại. Lời kể của hắn tuôn như suối chảy, rì rào, trong vắt, thanh thản, không giận hờn, không nuối tiếc. Cuộc sống bình dị của một gia đình nghèo vùng bán sơn địa thấp thoáng trong trí tưởng tượng của tôi. Một mái nhà tranh thưng ván gỗ nằm nép dưới chân một đồi chè. Từ đỉnh đồi, những hàng chè mềm mại như sóng biển lan dần xuống chân đồi. Nắng sớm nhuộm vàng xanh những đồi chè lô xô. Nhìn màu nắng, người ta liên tưởng đến bát nước chè xanh cắm tăm, đượm chát và ngọt hậu. Nếu không có câu chuyện của thằng câm, tôi không thể nghĩ rằng ở đó có những con người sống cao nghĩa đến như thế. Tôi hỏi vọng sang:

- Thế anh bị câm từ khi nào?

- Ngay tại phiên tòa, sau khi nghe tuyên án: “Chịu mức hình phạt cao nhất: Tử hình!”. Tôi muốn thốt lên một lời nào đấy song lưỡi cứng lại, cổ họng nóng ran như bị đứt một cái gì đó. Và từ đấy, âm thanh duy nhất của tôi có thể phát ra được là tiếng ú ớ. Bản năng sinh tồn đã khiến có một phần nghìn tia hy vọng loé lên trong tôi, rằng sự thật và sự trong sáng của lương tâm sẽ phán quyết tại tòa. Thế nào tòa cũng tìm ra được một dấu vết nào đấy của sự thật. Chân lý sẽ được khẳng định, nhưng tôi đã nhầm. Tất cả đã được định sẵn. Đã sáu tháng rồi, không hiểu tại sao hôm nay tôi lại nói được. Có lẽ điềm trời báo trước là tôi sắp đi rồi.

***

Quả đúng như thằng câm dự đoán. Khoảng 4 giờ sáng, tiếng khóa hành lang lách cách. Tiếng chân rậm rịch, toàn người lạ, đi về phía chúng tôi. Cửa buồng giam thằng câm được mở. Tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng trao đổi thì thầm. Tôi nhổm dậy, nhìn qua song sắt và nổi gai khắp người: “ Đội thi hành án”.

Thằng câm đi qua buồng tôi, gương mặt trẻ trung, cương nghị, thông minh hiện ra trước mắt tôi. Trong giây lát, tôi thoáng thấy hai giọt nước mắt lăn trên gò má như còn lông măng của hắn. Tôi hai tay nắm chặt chấn song sắt nhà tù, muốn hét lên một câu: “Thả người ta ra, người ta không có tội” nhưng không phát ra được lời nào. Lưỡi tôi cứng lại, cổ họng tôi nóng ran như bị cứa đứt một cái gì đó. Tôi gục vào cánh cửa. Nước mắt cứ thế trào ra…
Back to top
« Last Edit: 25. May 2010 , 23:47 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #3 - 30. May 2010 , 21:52
 
CHÀO LỄ MEMORIAL DAY 2010 - HƯƠNG KHÓI ĐỪNG QUÊN NẤM MỘ NÀO

Trần Củng Sơn, May 28, 2010

...


...


Cali Today News - Hàng năm cứ đến ngày lễ Memorial Day – Chiến Sĩ Trận Vong của Hoa Kỳ, lòng tôi chợt bồi hồi nhớ đến hòan cảnh đất nước Việt Nam dù cuộc chiến đã chấm dứt nhiều năm rồi. Năm nay lễ nhằm Thứ Hai cuối tháng 5 tức là ngày 31-5-2010, người dân Mỹ được nghỉ ba ngày thứ bảy, chủ nhật và thứ hai, không khí lễ hội rộn ràng khắp nước.

Những lá cờ Hoa Kỳ được cắm trên các ngôi mộ nói lên sự kính nhớ những người chiến sĩ đã hi sinh cho tổ quốc này trong các cuộc chiến tranh. Cho dù những cuộc chiến tranh đã xảy ra đúng hay sai, vô lý hay hữu lý, thắng hay bại thì những người đã chiến đấu vì lý tưởng của họ đều được đồng bào cùng chiến tuyến vinh danh.

Cuộc nội chiến của hai miền Nam và Bắc của Hoa Kỳ xảy ra vào tháng 4 năm 1861 và kết thúc vào tháng 4 năm 1865 khi tướng Ulysses S Grant đánh bại tướng Robert E. Lee ở Virginia. Mặc dù thua trận nhưng sau này quốc hội Hoa Kỳ cũng đã công nhận đại tướng Lee là anh hùng của dân tộc, và nước Mỹ đã thóat khỏi ám ảnh của quá khứ nội chiến để tòan dân đồng lòng xây dựng trở thành siêu cường của thế giới.

Cuộc nội chiến Việt Nam đã chấm dứt vào tháng 4 năm 1975 nhưng vết thương chiến tranh cùng hận thù vẫn còn ray rức.

Lịch sử ghi lại vào thời nhà Trần khi đuổi được quân nhà Nguyên ra khỏi bờ cõi thì vua đã ra lệnh đốt hết tất cả các giấy tờ có liên quan đến những người đã cộng tác với giặc ngọai xâm, nói lên sự độ lượng tha thứ để mọi người cùng đòan kết tái thiết lại quê hương, cũng giống như trứơc đó vua đã mở hội nghị Diên Hồng để các bô lão đồng lòng nói lên tiếng nói chống giặc xâm lăng.

Trong hòan cảnh hiện nay khi mà mối nguy cơ bành trướng của đế quốc Trung Cộng qua việc lấn chiếm đất, rừng, đảo, biển của Việt Nam thì việc đòan kết tòan thể dân tộc mang dòng máu Lạc Hồng rất cần thiết để tạo nên sức mạnh để phát triển và sống còn trước các thế lực quốc tế xâm lấn.

Người Cộng Sản Việt Nam, kẻ chiến thắng trong cuộc nội chiến vừa qua, đã từng gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa là Ngụy nhưng mới đây thi sĩ Trần Mạnh Hảo đã viết bài thơ Người Anh Hùng Họ Ngụy ca ngợi trung tá hải quân Ngụy Văn Thà, hạm trưởng đã hi sinh trong trận hải chiến tháng 1 năm 1974 giữa hải quân Việt Nam Cộng Hòa và hải quân Trung Cộng tại đảo Hòang Sa: “Người yêu nước không thể nào là ngụy. Người chết vì nước như anh không thể nào là ngụy. Nhưng anh là Ngụy Văn Thà… Tên anh là lời thề độc. Phải dành lại Hoàng Sa.”

Luật sư Cù Hà Huy Vũ, con trai của thi sĩ Cù Huy Cận, ngày 5 tháng 3 đã phổ biến một bản Kiến Nghị Xây Dựng Đài Liệt Sĩ Hi Sinh Vì Sự Nghiệp Bảo Vệ Hòang Sa Và Trường Sa Của Việt Nam, trong đó có 58 công dân Việt Nam phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng hi sinh trong chiến đấu chống ngọai xâm để bảo vệ quần đảo Hòang Sa. Kết thúc trận chiến, tòan bộ quần đảo Hoàng Sa đã bị nước ngoài xâm chiếm.

Người Cộng Sản Việt Nam lúc nào cũng nói câu hòa hợp hòa giải dân tộc nhưng thực tế họ chưa bao giờ thật tâm làm điều này. Trong một lần trao đổi câu chuyện với một nhà báo, anh này nói một ý tưởng đáng chú ý. Anh nói là ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, khi về cộng tác với với chế độ hiện tại, đã có ước muốn là được Hà Nội cho phép công khai thắp nén nhang tưởng niệm các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Dĩ nhiên đây là chỉ là một giả thuyết, có thể là tưởng tượng.

Nhưng nếu điều này xảy ra trong tương lai thì cũng là một điều nói lên sự thật tâm muốn hòa giải dân tộc của kẻ đang nắm quyền ở Hà Nội. Ngày đó đóa hoa đoàn kết dân tộc nở rộ. Nước Mỹ cả trăm năm trước đã làm được để hàn gắn cuộc nội chiến. Nước Đức đã làm được mặc dầu Tây Đức đã chịu nhiều thiệt thòi để bảo trợ cho Đông Đức khi cả hai miền thống nhất, bức tường Bá Linh xây năm 1961 đã bị đập bỏ vào năm 1989.

Mới đây nhất, Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn là Kenneth Fairfax cho biết là tình hình đấu tranh dân chủ nhân quyền tại Việt Nam sẽ còn tồi tệ cho đến khi nào đại hội đảng Cộng Sản lần 11 năm 2011 chọn được lãnh tụ mới. Trong lúc này, không cán bộ cao cấp nào muốn bày tỏ lập trường cởi mở vì khí thế bảo thủ đàn áp đang mạnh mẽ với sự ủng hộ của thế lực Trung Cộng. Mười mấy năm trước, ủy viên bộ chính trị Trần Xuân Bách, ứng viên sáng giá của chức tổng bí thư, người có đầu óc cởi mở đã bị hạ bệ, tiêu tan sự nghiệp chính trị.

Phong trào cởi mở và đổi mới từ thời Nguyễn Văn Linh năm 1986 đưa đất nước phát triển một phần và người tiếp tục phong trào này là Võ Văn Kiệt. Khi ông này chết một cách bí ẩn hai năm trước thì phong trào dân chủ bị đàn áp dữ dội, chủ quyền dân tộc bị đe dọa từ vụ bô xít tây nguyên đến việc ngư dân miền Trung bị Trung Cộng bắt giết ngoài khơi gần đảo Hòang Sa…

Câu nói dân gian thật chí lý: “Đi với Mỹ thì mất Đảng, đi với Tàu thì mất nước”. Lịch sử dân tộc đang đến một bước ngọăc quan trọng.

Đang là ngày thứ sáu, Rằm Tháng Tư Canh Dần, ngày Phật Đản, không khí hòa dịu lan khắp với tinh thần từ bi hoan hỉ của đạo Phật. Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong- Memorial Day 2010 đang tới.

Vẫn nhớ tới bài thơ thật cảm động, bài thơ này đọat giải ba trong một cuộc thi của báo văn nghệ quân đội thập niên 90 tổ chức, tình cờ đọc trên báo mua được từ trong nước gởi ra. Dù đọat giải ba, nhưng bài thơ thật hay, nhớ tới bây giờ hơn là hai bài giải nhất giải nhì kia.

Xin chép lại để cùng thưởng thức:

Vạt đồi yên nghỉ bao đồng đội.
Nhang còn một thẻ biết làm sao.
Thắp lên đành cắm nơi đầu gió.
Hương khói đừng quên nấm mộ nào”.

Người bạn nhớ ý thơ này, trong một lần về quê tảo mộ miền Trung, chỉ có trong tay một thẻ nhang và đã theo cách làm của tác giả bài thơ, cắm tất cả nhang ở đầu gió để hương thơm tỏa khắp các ngôi mộ.

Cũng mong là hương khói nhang thơm tỏa khắp các ngôi mộ của các chiến sĩ hai miền Nam Bắc trong chiến tranh Việt Nam vừa qua, tỏa khắp các ngôi mộ từ ngàn năm trước của những chiến sĩ vô danh đã hi sinh để bảo vệ giang sơn tổ quốc được như ngày hôm nay trên mảnh đất hình chữ S.

Xin cám ơn tác giả không nhớ tên của bài thơ bốn câu, tạo thi vị cho mấy dòng chữ này nhân mùa lễ Memorial Day 2010.

San Jose, 28-5-2010
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #4 - 30. May 2010 , 22:03
 
TB mời cả nhà dành ít phút để tưởng nhớ đến các chiến sĩ VNCH



Back to top
« Last Edit: 14. Apr 2014 , 22:39 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #5 - 31. May 2010 , 21:31
 
 
Tâm sự của những bà Mẹ các binh sĩ Mỹ gốc Việt


Mỗi người một cách, những thanh niên gốc Việt luôn mong muốn làm được một điều gì đó để trả ơn cho nước Mỹ, quê hương thứ hai của họ, đất nước đã mở rộng vòng tay đón nhận gia đình họ nhiều năm trước đây. Nhiều người trong số họ đã tham gia quân đội Hoa Kỳ và sẵn sàng đi tới những chiến trường khốc liệt mà chẳng hề nao núng lo sợ cho tính mạng của mình. Vậy còn những bà Mẹ có con đi lính, họ có tâm sự gì khi biết con mình quyết định dấn thân vào con đường chông gai và đầy nguy hiểm đó? Mời quí vị nghe tâm sự của hai bà mẹ có con từng tham gia chiến trường Iraq trong tiết mục Câu chuyện phu nữ kỳ này với Minh Anh.

Minh Anh | Washington, D.C. Chủ nhật, 30 tháng 5 2010
...

Thiếu tá Christopher Phan và Mẹ


Bà Thạch Thị Ngọc có hai người con trai, người con lớn của bà là đại úy James Văn Thạch, từng là quân nhân Hoa Kỳ gốc Việt đầu tiên đảm nhận chức vụ cố vấn quân sự cho quân đội Iraq, người mà đài VOA đã có dịp phỏng vấn gần đây.

Bà Ngọc cho biết khi còn nhỏ James là một đứa trẻ thích đùa nghịch chứ không có tính hung hăng, nên bà không nghĩ rằng lớn lên anh lại muốn nối nghiệp cha, vốn là một trung tá của quân đội Hoa Kỳ.

...

Ðại úy James Văn Thạch và Mẹ

Chỉ đến khi học trung học và đại học ý định ấy mới được James bộc lộ.  Sau khi tốt nghiệp đại học luật, anh James đã quyết định tham gia lực lượng bộ binh Mỹ.  Bà Ngọc tâm sự bà đã từng chứng kiến cảnh chiến tranh ở Việt Nam, bà hiểu thế nào là sự tàn khốc và nguy hiểm của chiến trường nên khi biết được ý định sẽ tham gia bộ binh Mỹ của con, bà và chồng đều rất lo lắng:

“Có hai đứa con thôi thì cố gắng cho nó học ra thành tài, nhưng ở Việt Nam mình kêu con mình làm gì thì nó nghe, còn ở Mỹ nó có ý riêng của nó, mình nói nó “yeah, yeah” nhưng rồi nó làm theo ý của nó. Chồng tôi hồi đó làm trong bộ binh Mỹ, ông biết bộ binh rất nguy hiểm, với lại ông nói nó có bằng luật rồi thì nó đi theo ngành thẩm phán thì thoải mái hơn với lại nó không có nguy hiểm, nhưng nó không có nghe lời, nó nói hồi đó ba làm sao thì con làm vậy.”

Bà Lưu thị Ngọc Trinh, Mẹ của thiếu tá Christopher Phan, người đã tốt nghiệp luật tại trường đại học Southern Illinois University năm 1999 và sau đó đã tham gia luật sư đoàn của Hải Quân Hoa Kỳ.

Từ Tháng Năm, 2005 đến Tháng Năm, 2007, Luật Sư Christopher làm cố vấn pháp luật cho chỉ huy trưởng của Đơn vị Chiến tranh đặc biệt của Hải quân Hoa Kỳ (Naval Special Warfare Group One). Trong thời gian này, luật sư Christopher được điều động sang chiến trường Iraq và công tác với lực lượng Hải Quân Đặc Biệt (SEAL) trong sáu tháng. Nhiệm vụ chính của luật sư là cố vấn và bảo đảm các binh sĩ Hoa Kỳ hành động theo công ước Geneva. Luật sư Christopher Phan được phong hàm thiếu tá vào tháng 11 năm 2008.

Bà Trinh tâm sự:

“Đầu tiên thì nói thật sự thì cũng không thích lắm nhưng tại Chris nói lý tưởng của nó là vậy thì thành ra thôi để chiều theo ý nó. Lúc đó thì thiệt tình rất là lo, nhưng cũng tự an ủi là nó đã ý thức được cái việc nó muốn làm, với lại ngoài cái lo mình cũng có một chút nào tự hào là con mình nó có trách nhiệm”.

Còn với bà Ngọc, khi anh James thực sự ra chiến trường và hàng ngày nghe tin tức nói về cuộc chiến ở Iraq thì lòng người Mẹ luôn thấp thỏm không yên. Bà Ngọc kể:

“Tôi không có ngủ được, hai đêm thức trắng, rồi một đêm thì ngủ. Mỗi lần tôi có thời giờ rảnh thì cứ vặn CNN lên rồi coi tin tức bên Iraq ra làm sao. Coi có ai bị thương không, có bao nhiêu người lính bị thương, mỗi ngày đọc báo thì coi có bao nhiêu người bị thương, bao nhiêu người bị chết, tôi lo sợ rất là nhiều.”

Cũng như bà Ngọc, bà Trinh cũng thường nghe ngóng tin tức về cuộc chiến tranh Iraq, về những vụ đánh bom hàng ngày, nhưng bà luôn tự an ủi mình với tinh thần lạc quan để bớt đi phần nào nỗi lo lắng:

“Dạ lúc mà Chris ở bên Iraq thì nói thiệt là tình hình Iraq tôi theo dõi rất là kỹ, mỗi lần thấy như vậy thì rất lo lắng, nhưng mà cũng tự an ủi là thôi mọi người đều có số hết và cũng thấy là con mình nó có lý tưởng như vậy thì cũng đỡ lo chút chút”.

Bà Ngọc kể rồi đến lượt bà cũng nghe tin con mình bị thương tới hai lần, trong đó lần thứ hai đại úy James bị thương khá nặng:

“Nguyên đêm đó, chồng tôi với tôi cùng đứa em gái thức trắng nguyên đêm, không ngủ chờ điện thoại. Mà mình điện thoại xuống Pentagon (Ngũ Giác Đài) đó thì người ta nói là chưa liên lạc được. Chồng tôi mới nói là ‘đừng lo rồi họ sẽ gọi’, tôi mới nói ‘sao kỳ vậy ở đây là Pentagon mà không liên lạc được là nghĩa làm sao, chắc là bị tai nạn dữ lắm’. Chồng tôi nói là thôi chờ đến 9 giờ sáng nếu họ không gọi lại cho mình thì ông chồng tôi sẽ tới Congressman (dân biểu) để khiếu nại. Đến 9 giờ thì họ nói bây giờ họ đã đưa sang, hình như là Kuwait, rồi họ hỏi chồng tôi và tôi có hộ chiếu sẵn chưa, từ đó họ đưa qua Đức luôn. Lúc đó tôi mong qua bên đó, rồi con mình qua đó coi xem làm sao. Nhưng mà 6, 7 tiếng đồng hồ sau thì nghe điện thoại gọi qua là con tôi nó tự nguyện quay trở lại Iraq mà không chịu qua Đức.”

Sau khi hết một năm tình nguyện, đại úy James lại xin gia hạn thêm một năm ở chiến trường Iraq với lý do:

“Nó nói rằng họ cần giúp đỡ bên đó, thành thử để cho nó ở lại rồi giúp đỡ bên kia, cũng như bước đầu cho người ta đứng vững. Giống như mình cất căn nhà, mình phải có cái nền tảng thì nó mới đứng vững, chứ mình không có nền tảng thì làm sao nó đứng vững”

Bà Ngọc cũng nói rằng con bà cũng mong muốn làm được điều gì đó để đóng góp cho quê hương thứ hai của mình:

“Nó muốn rằng làm được chuyện gì đó để người ta biết rằng những người có gốc Việt Nam sẽ giúp đỡ được đất nước là quê hương thứ hai của mình để làm gương cho những người sau này nối chân bước tới. Cũng như nói tới người Việt Nam là người ta nói người Việt chăm chỉ, người Việt Nam không phải tới mà ăn cơm đá bát mà chỉ có tận hưởng chứ không làm được gì cho quê hương thứ hai của mình”.

Cuối cùng hai bà Mẹ cũng muốn nhắn gửi tới những người Mẹ có con cái đang tham gia quân đội hay đang chiến đấu tại các chiến trường khốc liệt:

Bà Ngọc: “Cũng như kinh nghiệm của tôi đã qua, biết rằng mình lo lắng, nhưng mình chỉ biết cầu cho con trở về bình yên thôi. Mình chỉ hỗ trợ con mình hết sức để chúng có thể làm hết khả năng của mình”.

Bà Trinh: “Mình cũng phải chấp nhận vậy thôi, con mình nó có lý tưởng tốt thì mình cũng phải ủng hộ, mặc dầu có lo thì rất là lo vì người Mẹ nào cũng lo hết nhưng mà thấy là mình cũng phải hy sinh cho con mình, với lại cho con mình nó có lý tưởng tốt, nó làm điều tốt thì mình nên ủng hộ nó. Ở bên đó thì chắc chắn là cực rồi, nguy hiểm nữa, nhưng mà mình cũng chỉ biết khuyên là cố gắng hy sinh mỗi người một chút. Bên đây mình không phải ở chiến trường nhưng mình giúp được gì thì mình cũng phải cố gắng chia sẻ với nhau vậy thôi.”

Chính tình yêu, sự hy sinh và những lời động viên khích lệ của những người Mẹ ấy đã tăng thêm sức mạnh để những binh sĩ người Mỹ gốc Việt vững tin vào lý tưởng của mình, không quản ngại hiểm nguy, khó khăn hay gian khổ để đem lại sự bình yên và một tương lai tươi sáng hơn cho những người dân ở những đất nước vẫn còn đang chìm trong lửa đạn.
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4017
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #6 - 04. Jun 2010 , 22:31
 


Đừng Yêu Người Làm Thơ

 
Đợi cho Quang ra khỏi nhà là mẹ tôi nói ngay:
- Anh Quang này trông đứng đắn đàng hoàng đấy, vậy con liệu mà bảo nó tính đến chuyện hỏi cưới đi.


Tôi đáp với lòng hãnh diện:
– Sớm muộn gì anh ấy cũng phải lên tiếng thôi, con việc gì phải bảo người ta cho nó mất giá trị!
– Mẹ thấy mấy đám trước cũng tử tế như thế này, cứ kéo dài hò hẹn, tìm hiểu mãi rồi ai cũng rút lui, chẳng hiểu họ chê con vì điểm gì? nên lần này con phải chủ động giục cưới cho chắc ăn, kẻo lại thêm một mối tình lỡ.
– Mẹ yên tâm, đây sẽ là mối tình cuối cùng của đời con.
Mẹ tôi cũng không quá lo xa đâu, có nhiều mối tình đến với tôi, nồng nàn tha thiết bao nhiêu nhưng vẫn không đi đến kết quả tốt đẹp. Mẹ tôi bảo tại tôi lãng mạn quá, trái tim dễ rung động quá, nên yêu nhiều mà chẳng được bao nhiêu, yêu chưa đúng người.
Tôi đã biết yêu từ năm 12 tuổi, hồi đó ở Việt Nam vẫn còn là tuổi của ngây thơ khờ dại. Tôi rất thích ăn mì của cái tiệm ở đầu đường nhà tôi do một người Hoa làm chủ, đứng nấu mì là một anh ba Tàu trẻ, thường thì mẹ dẫn tôi đi hay có khi tôi thèm thì xin tiền mẹ chạy đến tiệm ăn một mình. Dù đi với mẹ hay không, tôi đều thích đứng cạnh xe mì để nhìn ngắm anh Tàu trổ tài nấu mì, anh để một vắt mì vào thùng nước sôi và nhanh chóng vớt lên bằng một cái vợt lưới, bàn tay anh thao tác nhuần nhuyễn, hất tung vắt mì lên vài lần cho ráo nước và sau cùng hất vào tô, bao giờ cũng chính xác, không rớt ra ngoài… Xong anh bày lên những miếng thịt heo nạc thái mỏng còn viền màu đỏ vì đã được ướp xá xíu, một thìa tóp mỡ thái hột lựu, và một thìa củ cải mặn cũng thái hột lựu, rồi mới đến những cọng hẹ cắt khúc ngắn. Anh mở nắp vung thùng nước lèo, cả một mùi thơm bát ngát theo hơi khói bay ra, thuở đó trong mắt tôi thùng nước lèo to, sâu thẳm ấy là một công trình vĩ đại và kỳ bí như trò ảo thuật, vì chẳng biết anh Tàu nấu bằng xương thịt gì, bí quyết gì mà nước lèo thơm ngon thế? Có bao giờ tôi ăn tô mì mà chẳng húp hết nước sạch sẽ đâu!
Khi thì anh Tàu bê tô mì ra bàn cho tôi, khi anh bận thì tôi tự làm lấy vui vẻ. Tôi thích ăn mì và yêu cả anh Tàu nấu mì, không biết vì anh tre trẻ đẹp trai vui tính hay vì anh là người đã nấu cho tôi những tô mì ngon?
Tôi đến tiệm mì thường xuyên đến nỗi anh Tàu nhớ mặt tôi, có lần anh vừa vung vẩy biểu diễn hất vắt mì vào tô vừa cười cười với tôi: “Hày, con nhỏ này là khách quen của bổn tiệm mà, để tao cho mày thêm vài miếng thịt”.
Hôm ấy tôi ăn tô mì đặc biệt nhiều thịt, vừa sung sướng vì anh nhớ đến tôi, vừa buồn buồn vì anh gọi tôi bằng “mày” và xưng “tao”. Anh Tàu chẳng biết rằng con bé ranh này đang yêu anh, hôm nào không có tiền ăn mì, đi học về qua tiệm tôi đi chậm lại một chút để nhìn thấy anh rồi mới chịu đi nhanh về nhà, tương tư anh nên tôi đã nói với mẹ: “Lớn lên con sẽ lấy anh Tàu bán mì”.
Mối tình đơn phương đầu đời có liên quan đến vấn đề ăn uống ấy chỉ tồn tại được một hai năm, không phải vì có vài lần tôi thấy vợ anh đứng nấu mì thay cho anh, là một chị mập ú, luôn luôn mặc áo sát nách để hở hai cánh tay béo mỡ, vừa nấu mì vừa xổ một tràng tiếng Tàu với hai đứa con nhỏ đang luẩn quẩn bên cạnh, mà vì càng lớn tôi càng có nhiều sở thích khác ngoài ăn mì. Tôi thích đọc sách báo, thơ truyện, tôi biết tưởng tượng đến một người yêu thanh tao gấp mấy chục lần anh Tàu của tôi thuở tôi 12 tuổi.
Năm tôi học lớp 11, đã có vài bài thơ đăng báo nên cả lớp “nể mặt” và đồng loạt bầu tôi làm Trưởng ban báo chí của lớp, sau khi tôi đi họp để bầu Trưởng ban báo chí của toàn trường, tôi phải đứng trước lớp báo cáo lại kết quả buổi họp đó. Tôi đâu có tài ăn nói trước đám đông, trong khi bao nhiêu con mắt đang đổ dồn vào tôi, làm tôi bối rối thì ít mà thằng lớp trưởng đứng bên cạnh làm tôi bối rối thì nhiều, vì tôi yêu và nể nó, tính tình nó hiền lành, ăn nói lưu loát và có tài lãnh đạo. Tôi lí nhí kể lại buổi họp cho thằng lớp trưởng, khi một người ngồi dưới hỏi chị trưởng ban báo chí lớp ơi! đã bầu xong trưởng ban báo chí toàn trường chưa? Thì thằng trưởng lớp dõng dạc trả lời giùm tôi “Chị cho biết là chưa có bầu”. Cả lớp cười ồ lên còn tôi thì đỏ mặt. Lớp trưởng vội vàng sửa lại, nói đầy đủ hơn: “Chị cho biết là chưa có… bầu trưởng ban báo chí toàn trường”.
Tình yêu là một trò chơi quanh quẩn, trong khi tôi yêu thầm thằng lớp trưởng, nó chẳng thèm để ý đến tôi, (bụt nhà không thiêng?) thì một thằng bên lớp 12 lại trồng cây si tôi mê mệt, luôn luôn tôi thấy có cặp mắt nào đó đang nhìn mình, những lúc tôi đang ăn chè đá đậu hay chấm mút trái cóc chua ngọt với muối ớt trước cổng trường đều bị nó bám sát không rời, làm tôi phải nhịn thèm các món đó luôn vì mắc cỡ, cho đến cuối năm đó nó rời khỏi trường tôi mới được tự do ăn uống trở lại. Lá thư tỏ tình nó gởi tôi do một đứa bạn cùng lớp đưa lại chẳng bao giờ tôi trả lời vì tôi không yêu nó. Sau 1975 nó đi vượt biên với vợ con và mất tích ngoài biển khơi.
Tôi nghĩ đời tôi có hai cái may, nếu mối tình với anh ba Tàu mà thành sự thật thì bây giờ tôi đã là chị ba Tàu, chắc cũng mặc áo sát nách đứng nấu mì thay cho chồng và quát tháo lũ con om sòm bằng tiếng Tàu rồi! hoặc nếu tôi lấy anh chàng lớp 12 si tình kia thì giờ này tôi cũng mất tiêu trên biển với nó rồi!
Cho đến năm tôi 20 tuổi, trước khi đi định cư ở Mỹ thì trong tâm hồn tôi đã có một đống những người tình lý tưởng lấy ra từ trong tiểu thuyết và phim ảnh, Rhett Butler của “Gone With The Wind”, Zhivago của “Dr. Zhivago”, hay ông linh mục Ralph của “The Thorn Birds” hay “chú” Sách tử tế và bao dung yêu vợ trong “Tình nghĩa vợ chồng” của Leon Tolstoi do Bảo Sơn dịch..v..v… Tôi từng bị tiếng sét ái tình với người trong phim truyện, thì với người đời bằng xương bằng thịt là lẽ đương nhiên, nhưng dù sét đánh dữ dội thế nào tôi cũng không bao giờ chết, yêu nhanh và quên cũng nhanh. Mẹ tôi bảo tính tôi lãng mạn, mê làm thơ, mê đọc thơ nhiều quá rồi nó vận vào người, toàn là những mộng mơ ảo tưởng! Đã hơn 30 tuổi rồi mà vẫn chưa “tỉnh” người ra để kiếm một tấm chồng, để sinh con đẻ cái như người ta. Tôi chống chế, thời buổi này người ta lập gia đình trễ sau khi đã có công danh sự nghiệp. Mẹ tôi lẩm bẩm, nhưng con không bận học hành, không làm ăn buôn bán, chỉ đi làm hãng xưởng thì sự nghiệp gì mà chờ đợi cho nó già cả người hở con?
Ba mươi mấy tuổi ! chưa già, nhưng cũng không còn trẻ ! Tôi không “nhìn lên trời” để tìm Rhett Butler hay Dr. Zhivago nữa, mà đã hạ tiêu chuẩn, tìm những người thường xung quanh tôi, lần này tôi sẽ không để mất Quang vì tôi yêu anh và anh cũng yêu tôi như thế.
** ** **
Đã mấy tuần trôi qua, chẳng hiểu sao Quang không liên lạc với tôi, cell phone và e-mail đều im lặng. Lạ quá! Những tín hiệu tôi gởi đi nhưng anh vẫn không hồi đáp.
Một người bạn thân của tôi báo cho tôi một tin không thể tin nổi là Quang đang quen với một người con gái khác, tôi cười khỉnh vào mặt bạn tôi rằng, đó là tin đồn thất thiệt, mày phải nhớ là Quang yêu tao như thế nào! chiều chuộng từng sở thích của tao như thế nào! và nhất là Quang yêu thơ của tao nữa ! Anh tìm đâu ra một người yêu vừa lãng mạn vừa biết làm thơ? người nào mà lấy tao thì cuộc đời sẽ đẹp như thơ.
Tôi bỗng nhận được lá thư của Quang gởi từ bưu điện. E-mail tiện lợi, anh không dùng, hay anh muốn cứu giúp ngành bưu điện đang ế ẩm, để các mailman có việc làm?
Thái độ im lặng thật lâu đã lạ, cách liên lạc của anh càng lạ hơn làm tôi hồi hộp khi bóc thư ra, nhưng tôi vẫn tin rằng đó là một lá thư dài tràn đầy lời thương nhớ và tới tấp xin lỗi em yêu! Tôi trải tờ thư phẳng phiu ra và khoan khoái đọc:
Thương gởi em ! (biết ngay mà, tôi nghĩ)
Suốt mấy tuần qua, anh đã suy nghĩ rất nhiều trước khi viết lá thư này. Anh phải viết bằng thư tay để em đọc xong và suy ngẫm, chứ gởi qua e-mail coi chừng em xóa mất !
Em ơi, chúng mình đã yêu nhau hơn một năm trời, đã bao lần hò hẹn, gặp gỡ tìm hiểu nhau, đủ để đi đến một quyết định… (đọc đến đây tôi nhắm mắt lại, thở phào một cái sung sướng trước khi đọc tiếp lời cầu hôn năn nỉ của anh ta)…
Anh nhận thấy một điều rất rõ ràng là: Anh không thể lấy em ! Có nghĩa là chúng mình sẽ chia tay từ đây! Vì em lãng mạn quá, em như sống ở trên mây, anh đã cố gắng chiều chuộng em, nhưng thà chiều chuộng một đứa trẻ, khi nó lớn lên một chút là thôi, còn chiều chuộng những đứa làm thơ như em thì phải cả đời.
Em đâu có biết, anh đã mệt mỏi căng thẳng biết bao để chiều lòng em ! Nửa đêm anh đang ngủ ngon để mai đi làm sớm thì em gọi cell phone đánh thức anh dậy để… khoe một câu thơ vừa hiện ra trong đầu, em đọc cho anh nghe, anh mắt nhắm mắt mở chỉ thèm ngủ chứ đâu có thèm nghe thơ, dù hay cỡ nào cũng không thành vấn đề đối với anh trong lúc này. Vậy mà anh phải khen hay, nhưng em không tin, còn bắt anh phân tích hay ở chỗ nào? Anh đành làm nhà phê bình văn học thơ em cho tới sáng, cho tới giờ đi làm. Anh không lạng quạng lái xe đụng người ta trên highway đầy nghẹt xe là may phước cho nhà anh rồi.
Những lúc hai đứa mình đi chơi, anh đang lái xe đến một địa điểm nào đó đã định trước, thì em chỉ huy anh phải quẹo hết con đường này đến con đường khác, mặc dù em không biết nó về nơi đâu! Nhưng đó là những con đường có hàng cây đẹp làm em mơ mộng, nổi máu muốn làm thơ.
Cái hôm mình đi ăn đám cưới một người bạn, em còn nhớ không? Chỉ vì anh đi theo những con đường thơ mộng đó theo bất chợt cảm hứng của em, mà đến trễ 3 tiếng đồng hồ, vượt hẳn kỷ lục đi trễ của người Việt Nam mình khá xa!
Yêu em nên anh ráng hy sinh, nhưng chuyện chiều chuộng em cuối cùng vừa rồi thì anh chịu hết nổi, và em có còn nhớ không? Đó là một buổi chiều Chủ Nhật, ngày vui của Weekend đã tàn, ai cũng cần nghỉ ngơi để thứ Hai đi làm, trời lại đang gió mưa, thật ấm cúng khi được ngồi ở nhà ăn bữa cơm chiều, hay xem tivi, đọc báo… thì em phone cho anh, đến gặp em gấp. Anh vội vàng thay đồ đến nhà em, tưởng em đang gặp chuyện gì khó khăn, cần có anh giúp một tay. Thì ra em rủ anh đi dạo phố chiều mưa với em cho… vui, cho romantic. Em ơi, lúc đó mẹ anh mà bị bệnh, kêu anh ra chợ mua cho bà hộp thuốc, chưa chắc gì anh muốn đi, nhưng vì yêu em, thấy em phấn khởi, thích thú quá, anh đành chiều.
Trời mưa rả rích, gió lạnh từng cơn, trên con đường lá rụng ướt đẫm nước mưa, anh cầm dù che cho em là chính, còn anh hứng toàn bộ cơn mưa, ngày xưa còn bé, anh khoái tắm mưa, còn hôm đó anh tắm mưa bất đắc dĩ, mưa ướt anh từ đầu đến chân, người anh run lên vì lạnh, nhưng anh không dám kêu ca, để tôn trọng tâm hồn thi sĩ của em, để cho em hoàn tất được ý thơ cho bài “Hai đứa đi trong chiều mưa gió”.
Khi bài thơ ấy được đăng báo, may ra có một vài người cảm động vì thơ em, nhưng anh phải đánh đổi với cái giá rất đắt, suýt nữa bằng cả một sinh mạng! Anh về nhà, tối hôm đó bị cảm lạnh, lên cơn sốt cao hừng hực, mẹ anh biết chuyện vừa xót xa thương con vừa tức giận, mắng anh là thằng ngu! Nó đã dở hơi mà mày cũng dở hơi theo nó đi trong mưa như thế à? Tao nói cho mày biết nhé, dù con dở hơi ấy có giàu, có đẹp đến đâu cũng không bao giờ tao muốn nó về làm dâu nhà này (Anh xin thề đây là nguyên văn lời của mẹ anh, chứ anh không nỡ gọi em là “con dở hơi”, cho dù anh thấy điều ấy cũng… không sai).
Hôm sau anh phải nghỉ làm, đi Bác sĩ và nằm nhà suốt tuần.
Em, một người làm thơ, có tâm hồn nhạy cảm vô song, một chút nắng đổi màu, một cơn gió xao xác chuyển mùa, hoa lá kia đang nở hay héo tàn… em biết ngay, em sản suất ra thơ ngay. Nhưng anh nằm ốm bệnh lu bù ở nhà thì em không biết, em chẳng đoán ra, chỉ gởi những lời nhắn khơi khơi trên e-mail hay cell phone là “Gọi lại cho em gấp ! Đến nhà em gấp!”.
Em không hề thắc mắc là vì sao anh vắng mặt, vì sao anh im lặng, mà chỉ ra lệnh cho anh đến với em.
Sau trận ốm suýt chết oan đó, đọc thấy lời nhắn của em, anh sợ quá, sợ em lại rủ anh đi trong một cơn mưa gió cho một bài thơ khác sắp hiện ra trong đầu em, hay bắt anh chở đi lòng vòng khắp các nẻo phố phường có hàng cây lá đẹp, đến chóng cả mặt, và tốn cả xăng, thời buổi kinh tế khó khăn, giá dầu thô lên 82 đồng một thùng, em biết chưa?
Nhờ trận ốm đó, anh đã tìm ra một chân lý là “Đừng yêu người làm thơ”, những đứa làm thơ như em, chỉ làm thiệt hại đến người khác, chỉ nương tựa vào người khác. Anh đến nhà em, lần nào cũng thấy mẹ em đang nấu cơm, chưa bao giờ anh thấy em đứng trong bếp, dù chỉ để cắt một cọng hành! Anh dám chắc là trong đời em chưa bao giờ biết luộc rau muống, chứ đừng nói tới các món cầu kỳ khác! Thế mà đã mấy lần em mời anh đến nhà ăn cơm chiều, em tự hào khoe, mẹ em kho cá, mẹ em nướng thịt ngon lắm, hay bất cứ món gì khác, mẹ em đều nấu ngon hết.
Em ơi, nếu anh lấy em, ai sẽ nấu cơm cho anh ăn? Nên anh đã tưởng tượng ra thảm cảnh tương lai, anh sẽ phải làm bếp và nếu có con anh sẽ kiêm luôn phần trông con, giặt giũ, quét dọn nhà cửa, để cho em rảnh tay làm thơ. Vì thế, anh quyết định chia tay em để quen với người khác, một con người thực tế 100%, không biết làm thơ gì cả ! Chẳng sao, anh mở báo, mở net ra, có cả đống nhà thơ cho anh đọc, cần gì phải cưới một nhà thơ về để phải chiều nó cho mệt cuộc đời? Còn người vợ thực tế của anh sẽ biết đi chợ, sẽ biết lo cho anh miếng ăn, giấc ngủ.
Anh may mắn thoát khỏi tay em, nhưng anh chưa yên tâm đâu, sau này anh sẽ để di chúc truyền đời cho các con, các cháu anh để cho chúng biết mà tránh xa “Đừng yêu người làm thơ”.
Hôn em lần cuối.
Tái bút: Dù sao anh cũng luôn cầu mong em sớm kiếm được một người khác để thay anh dìu em đi trong mưa cho những bài thơ sắp tới của em (anh tin rằng cuộc đời này lúc nào cũng có sẵn những thằng ngu như anh).
Đọc xong lá thư tôi vừa tức vừa đau khổ, yêu tôi được lãng mạn thế, anh không happy thì thôi, mà còn kết tội tôi và chấm dứt mối tình đang tha thiết . Tôi vùi đầu trong chăn, trong gối, để mặc cho nước mắt tuôn rơi và cõi lòng tan nát.
Nhưng tôi chợt vùng dậy, chạy ra lấy giấy bút ghi vội một đề tài, một câu thơ vừa xuất hiện trong đầu, vì trong đau khổ hồn thơ bỗng lai láng, nên dù buồn đứt ruột vẫn có xen lẫn một chút vui thú vì câu thơ vừa ý. Nay mai tôi sẽ có bài thơ đăng báo là “Hai đứa chia tay trong chiều mưa gió”. Và nếu đúng như lời Quang đã nói trong thư, tôi lại chờ đợi một anh chàng ngu ngơ, lù khù nào đó sẽ đi vào đời tôi, để tha hồ mộng mơ tiếp, và hi vọng lần này sẽ… kiếm được một tấm chồng có tâm hồn đồng điệu, biết yêu người làm thơ.
Nguyễn Thị Thanh Dương
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #7 - 05. Jun 2010 , 23:05
 

NỮ CAI TÙ DỄ THƯƠNG_

Hạ Vũ       

Trung úy Không quân Thành vuốt cho thẳng nếp áo quần để vào trình diện ông tướng nổi tiếng "mặt sắt đen xì" nhưng chịu chơi. Anh phân vân và hồi hộp không biết vì chuyện gì mà ông tướng kêu mình trình diện gấp, đến đổi bắt ông Phi Đoàn Trường của anh cắt đặt người khác bay thay thế anh, để anh trình diện tức khắc ông tướng.

Trước khi đi, ông xếp Phi Đoàn Trưởng của anh hỏi đi hỏi lại anh có đụng chạm với ai không, và hẹn anh phải rất bình tĩnh, nói năng cẩn thận.

    Sau khi trình giấy tờ, anh được ông Thiếu tá Chánh Văn Phòng của Ông Tướng đón vào. Anh hít nhẹ một hơi dài, rồi cố bình tĩnh đường hoàng bước vô.  Ông Thiếu tá đứng lại bên ngoài, còn một mình anh với ông tướng.  Ông tướng đang chờ anh. Trong khi anh chào thì ông quan sát anh kỹ lưỡng từ trên xuống dưới.  Anh hơi khớp.  Tuy rằng anh ăn mặc chỉnh tề đúng quân cách lắm rồi,  nhưng mà vạch lá tìm sâu thì thế nào mà chẳng có con sâu bé tí tẹo vừa chui ra từ vỏ trứng.  Anh nhìn lên bàn, chợt lạnh người.  Trước mặt ông tướng là hồ sơ lý lịch cá nhân và quân vụ của anh bị gạch xanh đỏ khắp nơi. Chợt ông tướng hỏi:

- Anh nhận xét tôi là người thế nào?
Anh ú ớ.  Nói thật mất lòng!  Anh đánh bài "ầu ơ dzí dầu":
- Thưa Thiếu Tướng, ông muốn tôi nói cái nhìn của thuộc cấp đối với cấp trên hay với cái nhìn của người dân đối với một tướng lãnh, hay...
Anh định nói: "hay cái nhìn của một phụ nữ đối với một đấng mày râu", nhưng kịp ngậm miệng.

Ông tướng hỏi cho có hỏi, chứ không quan tâm tới câu trả lời. Ông không chờ anh dứt câu, hỏi tiếp:
- Anh bao nhiêu tuổi, có vợ chưa?
Thành nghĩ ông này thật lẩm cẩm. Hồ sơ mình nằm trước mặt, ông đã gạch xanh gạch đỏ đầy ra đó rồi mà còn hỏi, nhưng anh cũng nhã nhặn đáp:
- Thưa Thiếu Tướng, tôi 30 tuổi, chưa vợ.
- Anh có người yêu chưa?

Anh nghĩ: "ông tuớng này quá đáng, gọi mình trình diện gấp, bỏ quân vụ để hỏi mấy vụ này!"  Anh nổi sùng, nhưng nhớ lời dặn của xếp nên dằn xuống. Chợt một ý nghĩ loé lên trong đầu anh: "Hay là ông chọn mình làm ứng viên em rể/ cháu rể... vì ông có người em gái/ cháu gái lỡ vác "ba lô ngược" với thằng cha căn chú kiết nào đó"?  Để không bị "ép duyên", anh nói:
- Thưa Thiếu Tướng, tôi có người yêu rồi.
-  Người yêu của anh tên gì? Bao nhiêu tuổi? Còn đi học hay đi làm rồi? Làm nghề gì? Ở đâu?
Anh quyết định nói thật, để ông khỏi "ép duyên" anh:
- Người yêu của tôi tên Trần Hạ Vy, 25 tuổi, là cô giáo dạy Việt văn ở trường trung học..., tỉnh ....
- Còn người yêu thứ hai, thứ ba, thứ tư..., kể hết ra.
- Thưa Thiếu Tướng, không có ai nữa cả.
- Thật hết?  Vậy tại sao già rồi (!) mà chưa chịu lập gia đình?

Anh nghĩ: "Ông này có lẽ "mát giây thần kinh"!   Hỏi nhiều chuyện không dính dáng gì tới nhiệm vụ công tác của anh."  Nhưng, anh cũng  bình tĩnh đáp:
- Thưa Thiếu Tướng, vì tôi không muốn người tôi yêu thương goá bụa khi còn quá trẻ, và con tôi mồ côi cha khi còn quá nhỏ.
     Ông gật gật đầu, nói:
- Anh ngồi xuống.
Anh than thầm: " Sao ông tử tế bảo mình ngồi?  Chắc ổng "chấm" mình, rồi sẽ bắt mình bỏ con "Đệ Nhất Đào Thương" của mình, và làm "tấm bình phong" che cho cái "ba lô đeo ngược" nhà ông đây."  Anh dặn lòng quyết tâm không tuân lệnh.  Đột nhiên  ông  lớn  giọng nhưng ánh mắt có điều gì là lạ.
- Anh có biết anh phạm một tội tày trời không?
- Ơ... ơ...ơ... Thưa Thiếu Tướng, tôi không biết.
- Tôi đưa anh ra tòa án quân sự.  Tội của anh có thể từ chung thân đến tử hình.  Anh chọn cái nào?

Nghe đến đây, anh nghĩ chắc chắn ông gài tội để "ép duyên".  Văn phòng chỉ hai người.  "Không ai làm nhân chứng cho cuộc "kỳ(cục) ngộ" này!"  Anh than thầm nhưng cũng gắng bình tĩnh trả lời:
- Thưa Thiếu Tướng, tôi nghĩ tôi không có phạm tội gì cả.
- Anh dám nói với tôi là anh không có tội?  Anh mang tội cố ý giết người, biết không? Anh trả lời thẳng câu hỏi của tôi: Chọn bản án nào?
- Con người ai không sợ chết... thưa Thiếu Tướng.
- Vậy anh chọn tù chung thân phải không?
- Nếu tôi phạm trọng tội, bị toà án xử tù chung thân thì tôi phải chấp nhận vậy.
Anh có biết bây giờ Hạ Vy ra sao không?

Thành thất sắc, mặt không còn chút máu.  Anh nghĩ ngay Hạ Vy có thể tự tử vì anh.  Tuần rồi, nàng nhắc anh chuyện làm đám cưới, anh hẹn nàng chờ vài năm.  Anh kêu Trời trong bụng:  ”Hạ Vy !  Sao em dại dột vậy?  Sao đành lòng chết trước bỏ anh vậy, Trời!  Anh sẽ xin tòa bản án tử hình để theo em.”
- Nếu vì anh nó chết, có phải là anh giết nó không?
Anh lắp ba lắp bắp trả lời:
- Phải... phải... tại tôi.
    Tới đây thì ông cười ha hả, nói:
- Toà án là tôi đây. Người thi hành án cũng là tôi. Tôi tuyên án: "Vì bị cáo thành thật và ăn năn nhận tội nên bổn toà khoan hồng giảm án còn 50 năm tù, cho đặc ân chọn "cai tù."
  Quả thật ông này chịu chơi như tin đồn mà!  Ông nói kiểu này là chuyện đẹp đây.  Anh nhẹ nhỏm người, và bắt đầu ởm ờ:
- Vậy Thiếu Tướng cho tôi chọn cai tù như ý tôi phải không?  Ở tù 50 năm cũng hết đời tôi rồi. Tôi chỉ sợ tôi chưa thi hành hết bản án thì đã về đất.
- Được.  Tôi cho anh chọn cai tù nhưng trong vòng một tháng phải thi hành
- Thưa Thiếu Tướng, Hạ Vy bây giờ ra sao?
-Anh còn hỏi?  Nó đang chết lên chết xuống chứ sao?
-Vì bịnh gì, thưa Thiếu Tướng?
-Anh khéo giả vờ, vì bệnh tương tư thất tình chứ còn bệnh gì nữa?   
Ông đứng dậy, vỗ vai anh , đổi giọng thân mật:

- Hạ Vy là con của một người bạn thân.  Vợ chồng tôi đã coi nó như con cháu trong nhà từ lúc nó chập chững biết đi.

Anh lẩm bẩm: "Hạ Vy ơi!  Em có biết ba của em hay mẹ của em là bạn thân (!) của ông tướng chịu chơi này?  Sao em không cho anh biết, làm anh muốn rớt tim từ nãy giờ." Ông tướng nói tiếp:

- Nó dễ thương lắm, cũng tới tuổi chín chắn để lập gia đình rồi. Có công ăn việc làm vững vàng, không là gánh nặng cho anh đâu.  Nó nhờ tôi điều tra xem anh có người yêu nào khác không mà chưa chịu làm đám cưới, và nhờ tôi gởi cho anh hai câu này: "Đi đâu cho thiếp đi cùng, Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp không."  Anh đừng để lỡ làng đời nó.  Anh làm nó khổ, tôi đì anh ngóc đầu không nổi.  Được nữ "cai tù" khả ái này cũng tốt phước lắm đấy.  Chúc anh được ở trong nhà tù êm ái hạnh phúc. 

    Thế rồi, vì ông tướng "ép duyên" nên ông giúp đỡ anh sửa soạn căn phòng ngủ trong cư xá của anh thành "phòng tù"  tử tế để  "đưa nàng về dinh" làm cai tù.  Từ khi có nàng, anh có nhiều "cái được", đồng thời cũng có nhiều "cái mất" cùng lúc. Cái "được-mất" đầu tiên là bà tướng tặng cho bếp lò, nồi niêu xoong chảo, chén bát đũa muổng, mắm muối, tương chao, mỡ dầu..., khạp gạo đấy ắp.  Ông tướng cho thêm cái bàn phấn để nàng trang điểm, một tủ đứng để đựng quần áo của nàng, còn quần áo của anh  cũng được ké một góc nhỏ trong tủ.  Không sao! Quần áo anh chỉ vài bộ, đâu cần chiếm nhiều diện tích. Nàng cần nhiều quần áo để mỗi khi ra đường, anh mát mặt, nở mày vì có con "dzợ" ăn mặc đẹp.  Căn phòng của anh bỗng nhiên như trở nên nhỏ hẹp.  Ai đi mà thiếu cẩn thận có thể không đụng cạnh bàn thì cũng chạm cạnh tủ, bầm tay bầm chân.  Tuy nhiên nó rất tươm tất và đầy đủ tiện nghi.  Cái gì cũng có, gần như một tiêm tạp hóa nho nhỏ.  Anh cần đường có đường, cần muối có muối, cần cà phê có cà phê.  "Áo anh sứt chỉ đường tà", có ngay kim chỉ để cho nàng sử dụng. Bao nhiêu áo quần sứt chỉ, đứt nút anh bỏ một đống trong góc tủ được nàng lôi ra khâu lại hết cho anh, và giặt ủi thẳng thớm, xếp vào  tủ ngăn nấp.  Anh vô cùng sung sướng và hãnh diện vì mình hơn hẳn ông Hữu Loan, tác giả bài thơ "Màu tím hoa sim" lừng danh cả nước.  Anh không phải than thở thảm thiết như ông:  " Vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu."   Mỗi lần "vá cho chồng tấm áo ngày xưa", nàng hay gọi anh đến ngồi bên cạnh để quan sát nàng may vá và "học lý thuyết" may.  Nàng là cô giáo mà, nên mắc bệnh nghề nghiệp, thích dạy người, và có tật hay hỏi " hiểu chưa."  Không sao, biết thêm một việc cũng tốt thôi, để phòng khi "hữu sự" mà vắng nàng thì biết cách "đối phó".  (Xin mở ngoặc nói thêm, nhờ vậy mà sau này khi ngồi tù dài hạn, anh biết vá quần áo cho đỡ sexy khêu gợi.)

    Chiếc giường cá nhân của anh bây giờ thêm một người chia sẻ.  Tuy chật một chút nhưng bù lại anh có "gối ôm mềm mại, ấm áp 37 độ C"  cho... "dễ  ngủ" (!).  Từ hôm có nàng, anh trở thành một anh pilot thich làm ca sĩ.  Đêm nào anh cũng hát bài Ngậm Ngùi, trong đó anh ưa hát đi hát lại hai câu: "Tay anh, em hãy tựa đầu, cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi".  Số giờ ngủ bị giảm đáng kể vì không những anh không chỉ cảm nhận "trái sầu" rụng rơi mà còn  lăn qua lăn lại trên tay anh làm tê cóng, nhưng anh không dám nhúc nhích sợ làm tan giấc mộng vàng của cô nàng "be bé xinh xinh". Dẫu sao anh cũng hơn hẳn anh chàng trong bài ca dao được Phạm Duy phổ nhạc: "Lấy chồng thì em cũng lấy, Nằm chung thì em chẳng nằm."  Nhưng cái mất đáng kể là từ ngày nàng âu yếm tặng cho anh "cái còng" bằng vàng, mấy "em gái hậu phương" nhìn anh bằng nửa con mắt và xa lánh anh.  Đại danh từ anh-em được một vài cô thay vào bằng đại danh từ chú-cháu.   

      Từ khi có nữ cai tù khả ái này, ngày naò anh cũng được ăn cơm canh nóng sốt, thật ngon miệng!  Bù lại, tháng nào nàng cũng ngọt ngào: "Anh ơi, đầu tháng rồi.  Lãnh lương chưa, đưa em cất cho.  Anh có tật bỏ bậy, xài bậy(!), phí đi."  Thế là anh đều đặn nộp lương cho nàng để được nàng cho ăn cơm hằng ngày.  Cơm nàng nấu thanh đạm, ăn tốt  hơn "phở" nhiều, vì phở lắm  cholesterol  dễ bị heart attack (!) chết sớm.

    Sau vài tháng tạm nghỉ nhảy nhót, anh nhớ vũ trường.  Một bữa đẹp trời, anh dụ dỗ:
- Em ơi, anh dạy em vài điệu nhảy để đi vũ trường với anh cho vui.  Ở nhà miết, phờ người ra, đâm khù khờ mất.
- Đươc.  "Lên non, thiếp cũng lên theo", huống chi là vũ trường!

Thế là đêm đó anh cho mấy cái ghế và bàn "tạm trú" vài tiếng đồng hồ ngoài sân để anh dạy nàng học nhảy. Anh tưởng có thể dẫn nàng đi vũ trường ngay hôm sau nhưng không ngờ nàng là cô giáo "thông minh mà sao... chậm hiểu" quá, phải mất mấy tuần chân anh mới hết  bị nàng giẫm cho bầm tím.  Thấy tạm được, tuy dáng nhảy cũng còn  cứng còng cứ như nhảy cò cò, anh dẫn nàng tới vũ trường.   Được vài lần.  Một hôm trong vũ trường, nàng được vài cậu choai choai tới "chào cô", và anh được lên chức "thầy".  Thế là từ đó nàng không tới vũ trường nữa.  Nhiều khi bạn bè rủ rê anh và nàng đi nhún nhảy cho dẻo chân ở club này club kía, nàng lắc đầu quầy quậy bảo anh cứ đi với anh em, khi thì "em bận chấm bài luận",  khi thì "em mắc soạn bài dạy học", khi thì nàng nói thẳng: "Em sợ gặp học trò."   Lần nào anh về cũng thấy nàng ngồi ngủ gục ở bàn, cạnh cửa sổ chờ anh. Sao mà thấy thương đứt ruột!  Do đó, anh cũng tìm cách từ chối khéo léo với bạn bè và ở nhà "đánh cờ" với nàng.  Tụi bạn đã không thông cảm thì chớ, lại gieo tiếng xấu cho anh. Tụi nó đặt cho anh biệt danh "Thành sợ dzợ". 

    Ngoài nghề nghiệp chính thức "tài xế máy bay", anh kiêm luôn "tài xế xe ôm".  Mỗi ngày hai cuốc xe, anh chở nàng đi và về từ trường tới "tổ uyên ương yêu quới" của mình.  Nghề nghiệp phụ này, anh làm việc cũng rất nhiệt tình, phải nói là hơn nhiệt tình nhiều, vì anh được rửa mắt trước một rừng hoa muôn loài, muôn sắc, muôn hương.  Cám ơn "dzợ cô giáo"!   Nhờ nàng, anh được công khai đứng trước cổng trường trung học mà ngắm nghía, không phải e dè đứng ở gốc me, hay vờ vĩnh làm như vừa ở đâu đi ngang qua.  Có điều anh lên chức "Thầy" hơi oan uổng, vì chỉ là chức "hàm" thôi.  Anh vẫn thích các em nữ sinh trường này gọi bằng "anh" ngọt ngào hơn.  Nàng là cô giáo mà lại sợ học trò!  Anh nhớ lúc còn đi học, anh sợ thầy cô giáo một phép, còn nàng thì: "coi chừng học trò thấy, học trò cười kia kìa, em sợ gặp học trò..." làm anh cụt hứng nhiều phen khi muốn biểu lộ công khai tình yêu đối với nàng.

    Vào một ngày nắng... nóng bở hơi tai, nàng thỏ thẻ:
- Anh ơi, bác sĩ bảo em đang mang "ba lô ngược".  Em phải vô cùng cẩn thận trong thời gian mang thai, nhất là ba tháng đầu rất dễ bị mất em bé.
Anh nghe tin mà mát cả ruột gan. Anh sắp được thăng chức nữa: chức "cha chính thức", không phải chức "cha hàm" (!).   Anh âu yếm ôm nàng, thưởng một nụ hôn.
- Oẹ...oẹ... oẹ...
Anh trố mắt nhìn chưa kịp hỏi chuyện gì làm nàng khó ở thì nàng bảo:
- Em không chịu được mùi thuốc lá.
Thế là anh bỏ thuốc lá.
Vài ngày sau nàng oẹ... oẹ... oẹ... "em không chịu được mùi rượu", anh lại bỏ rượu. Oẹ... oẹ... oe..., "em không chịu được mùi cá", anh phải vào bếp nấu món thịt.  Oẹ...oẹ...oẹ "em không ăn cơm được", anh lại chạy mua phở hay hủ tiếu hay mì vịt tiềm cho nàng v. v.  Việc công lẫn việc tư làm anh phờ phạc cả người. Hết thì giờ để nhảy nhót đàn đúm với bạn bè!  Lại thêm, vì sợ nàng ngồi cửa sổ trông đợi, lo lắng, buồn bã...rồi sanh ra thằng con mặt nhăn nhó như khỉ ăn ớt làm sao nó "cua gái", anh mất người thừa tự sao!  Nếu là con gái thì hết hi vọng đoạt vương miện hoa hậu!  Anh đành từ giã "nghiệp" nhảy nhót.  Còn nữa, tối anh phải ngủ ghế bố vì "Ơ... anh ơi!  Coi chừng đụng móp cái "ba lô" của em!"  Chưa hết!  Không lâu sao đó, đang ngồi đọc báo, nàng ôm đầu anh hôn vào trán một cái, rồi thủ thỉ:
- Anh yêu ơi, em đau lưng quá!  Ngồi lâu không được.  Anh làm ơn, cộng sổ điểm, chia lấy trung bình, rồi sắp thứ hạng cho học trò lớp em hướng dẫn.  Không mất nhiều thì giờ đâu.
Anh hào hứng nhận lời:
- Chuyện nhỏ!  Ngày xưa anh là học trò giỏi toán mà.  Yên chí!  Anh làm một loáng là xong ngay.
- Cám ơn anh yêu!  Em biết anh là một người chồng tốt nhất trên thế gian!
- Anh quen lái máy bay thật, em đừng cho anh đi tàu bay giấy chứ.
Nàng phụng phịu, làm mặt giận:
- Con ơi, ba con muốn mẹ lúc nào cũng không vui để sanh con ra thành "Quỷ kiến sầu" khiến con tuyệt đường có "dzợ".
Nàng đánh đòn tâm lý chiến, anh chịu thua.

    "Cái ba lô ngược" của nàng mỗi ngày một lớn thì nàng đau lưng và mỏi mệt càng nhiều.  Anh lại làm ông Ba Tàu hành nghề đấm bóp.  Thương nàng ốm yếu mà mang vác nặng nề nên khi nàng kêu gọi giúp đỡ chấm giùm môt xấp luận văn của học trò, anh nhận lời liền.  Nhận lời rồi mới thấy khổ.  Anh là dân Đại Học Khoa Học mà phải chấm văn!  Anh phải vận dụng tất cả vốn liếng Văn chương thời trung học, cộng thêm "tài năng văn thi sĩ mầm non" thời mới lớn của anh để làm "thầy" Việt văn.  Vừa chấm bài anh vừa tra tự điển để kiểm lại chính tả vì sợ nàng bị học trò khiếu nại: "Cô sửa ... sai bài của em".  Cặm cụi mãi rồi cũng xong được một xấp.  Sau khi nàng "duyệt" lại kết quả công việc "phụ giáo" đã giao, thấy không tệ, nàng đưa thêm xấp khác, rồi xấp khác nữa...  Tổng cộng 4 xấp. Từ đó, cứ mỗi hai tuần anh phải đọc, sửa chữa lỗi chính tả, chấm câu, hành văn, tứ văn... của khoảng 240 "tác phẩm" không phải là thư tình, truyện tình đầy ướt át lãng mạn mà là bình luận, giải thích... khô khốc.  Mỗi "tác phẩm" từ 4 đến 8 trang giấy học trò.  Từ đó, anh làm "phụ giáo" cho nàng mà không đòi hỏi thù lao. Anh không còn là "thầy hàm" nữa, mà "thầy thực thụ", tuy không có giấy tờ công nhận chính thức.  Anh kiêm một lúc mấy công việc.  Ngoài việc chính là "tài xế máy bay" có lương, anh còn kiêm "tài xế xe ôm", ông Ba Tàu đấm bóp, phụ giáo...gian, và nội trợ v. v... không lương.  Hết giờ ở phi đoàn, anh lật đật về nhà làm những jobs không lương.  Thì giờ rỗi rảnh để tán gẫu với bạn bè cũng "nói lời chia tay" với anh. Tiền lương của anh còn phải giao nộp đúng hạn cho nữ cai tù kiêm giám đốc "ngân hàng gia đình".  Anh trở thành vô sản đúng nghĩa!  Anh còn gì đâu, ngoài tấm thân xơ xác, tóc tai bù xù này!  Không sao!  Đội nón bay và mặc áo liền quần, thì người nào cũng như người nấy.  Trông ai cũng... đẹp trai và oai phong cả!  Ôi!  Thời oanh liệt của một anh chàng pilot hào hoa, phong nhã của anh nay còn đâu!"
   
    Nhờ cái "ba lô ngược" của nàng, anh được cấp cho một căn nhà trong khu gia cư dành cho Sĩ Quan có gia đình.  Nhờ vậy, khi đưá con ra đời có chỗ để chơi đùa, không sợ u đầu mẻ trán.  Đứa con đầu lòng là một Công Chúa xinh xinh, có cặp mắt long lanh, sắc sảo như mẹ. Kiểu này có khối thằng "chết chìm trong mắt em" đây.  Anh lên chức cha thì phải có bổn phận và trách nhiệm của ngưòi cha.  Thương nàng ốm yếu, lại phải làm việc kiếm sống, không được làm mệnh phụ phu nhân như một số phụ nữ may mắn khác, anh gánh lấy phần lớn việc gia đình. Từ ngày có thêm nàng Công Chúa bé nhỏ, ngoài những jobs chính và phụ kể trên, anh còn thêm job vú em: thay tã, giặt tã, pha sữa, cho con bú, dỗ con ngủ.  Rồi, "đêm về nghe con khóc... điên... triền miên."  Sáng, anh phải thức sớm giặt một thau tã dơ và quần áo xong mới được ăn sáng.  Nhiều khi, anh phải nhịn đói vì không kịp giờ.   Anh trở thành một anh chàng "bá nghệ", một người chồng lý tưởng!

     Hết được tán gẫu với bạn bè, không còn thì giờ lả lướt ở mấy cái club thì anh "Khi vui nước nước non non, Khi buồn lại giở bàn son quân ngà", cùng với nàng "quân thiếp trắng, quân chàng đen."
Nhờ vậy anh có thêm hai Hoàng Tử nữa.
Nhà anh trở nên đông vui, ồn ào như ngày hội.  Khi về nhà, anh làm ngựa cho hết Công Chúa, tới Thái Tử, rồi Hoàng Tử cỡi. Hết đứa này đến đứa kia nắm tóc, bứt râu, níu áo, níu quần anh.  Cha con anh lấy gối, chăn, mền chơi trò Quốc Gia đánh nhau với VC.  Mỗi lần như thế, anh thường nghe nàng rên rỉ: "Thượng bất chính, hạ tắc loạn!"  Anh như thế này, con lớn thêm chút nữa thì làm sao dạy đây!"  Cha con anh mặc kệ, để cho lời than của bà cai tù đi từ lỗ tai này sang lỗ tai khác rồi chạy rong ngoài đường.  Anh biết nhược điểm của nàng là ưa ngọt. Tối đến anh cho nàng uống nước đường thì mọi việc xong ngay.

    "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả" thì chuyện nàng cai tù của anh có thể chấm dứt nơi đây.  Nhưng... cuộc đời của anh không êm ả như mặt nước hồ thu.
     Khi anh báo tin ông tướng "ép duyên" cho cha mẹ anh hay, thì mẹ anh có đi so tuổi đôi trẻ. Ông thầy bói ở xóm anh "phán" rằng nàng có số "vượng phu ích tử" nên cha mẹ anh tích cực cùng ông tướng "mặt sắt đen xì" của nàng hợp  tác "ép" anh "đưa nàng về dinh".  Nhờ số tốt của nàng, anh không chết sớm, tai qua nạn khỏi trong tích tắc, chỉ bị "muỗi cắn" hai lần thôi, và lên lon đều đều giữa hàng quân, không phải giữa "hai hàng nến trong".  Sau ngày 30-4-1975, khi "anh em ruột thịt" miền Bắc vào, anh được ưu ái cho "đi học đại học" ở núi rừng thượng du rồi trung du "mát mẻ" Miền Bắc.  Ngày anh ôm quần áo, từ giã cô giáo, giã từ chức "hàm thầy" để  đi  làm  "xanh (xao) viên trường Đại Hộc Máu" được thành lập vội vàng ở Miền Bắc, anh "bước đi một bước, dây dây lại dừng".  Thật là đau lòng xót dạ!  Anh mang theo hình ảnh nàng cai tù của anh "vai em gầy guộc nhỏ", vác thêm một cái "ba lô" thứ tư, tay mặt nắm Thái Tử, tay trái nắm Hoàng Tử, còn Công Chúa đứng phía trước.  Cả bốn người rưỡi nhìn theo bước anh đi làm cho ruột anh như đứt từng khúc từng đoạn.  Hai vợ chồng hai đầu lương với ba đứa con mà gia đình anh sống chật vật.  Bây giờ chỉ còn một đầu lương với bốn đứa con làm sao nàng xoay sở đây?  Nàng đi dạy, bỏ con cho ai trông?  Nàng "bể bầu" không có anh trông nom phụ giúp con cái thì nàng làm sao?  Cơm nước cho đứa lớn, săn sóc đưá mới ra đời, rồi dạy học, soạn bài, chấm bài, cộng điểm..., còn chợ búa cơm nước nữa. Tưởng tượng đến đây anh không dám nghĩ thêm vì chỉ thấy trước mặt là màn đêm dày đặc.  Càng nghĩ tới càng thương nàng đứt ruột nát gan!   Nhớ lời Tổng Thống Thiệu: "Đừng nghe những gì Cộng Sản nói.  Hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm", nhớ tới ông bác của thằng bạn thân Bắc Kỳ, bị kẹt lại Miền Bắc sau 1954 và bị đi tù "mút mùa Lệ Thủy", đến nay (1975) chưa về, chỉ vì có tí chút chức vụ trong chính quyền của Quốc Trưởng Bảo Đại, anh lạnh xương sống.  Kiểu này anh đi không có ngày về, không phải một tháng như chúng thông báo đâu.  Nếu nàng ôm cầm sang thuyền khác để có nơi nương tựa mà nuôi con, anh cũng cám ơn người đàn ông can đảm đó.  Nhưng mà đâu có thằng nào khùng đút đầu vô "lãnh đạn" một cách lãng xẹt vậy.  Không có thằng khùng thì... anh cầu nguyện "đừng đi du lịch âm cung sớm, bỏ anh và bỏ con, nghe em."

    Rồi một ngày... thân thể cao lớn, đẹp trai của anh và các đồng đội của anh trở thành những con khô cá lóc, nhà nước Cách Mạng XHCN  "nhân đạo" nên có chính sách cho gia đình đi thăm nuôi.   Các gia đình của những "xanh viên" Đại Hộc Máu này đã vỗ béo người thân của mình.  Và "Nhà Nước ta" lấy đó làm thành tích rêu rao với thế giới sự nhân đạo khoan hồng của họ để "bọn phản động, và đế quốc" không lấy cớ  lèm bèm, bêu rếu Cách Mạng nữa.  Anh biết thân, biết phận, biết hòan cảnh gia đình mình nên không hi vọng nàng thăm nuôi anh.  Nhưng mà... vào một ngày đẹp trời có nắng nóng, có mây bay, có chim trốn nắng trong lùm cây, anh nằm trong danh sách "trúng số": được gia đình thăm nuôi.  Anh đứng lóng nhóng tìm nàng.  Những người mẹ, người vợ đủ lứa tuổi tay xách, vai mang, lưng đèo lủ khủ bao bị, giỏ xách... lũ lượt kéo vào.  Nàng khệ nệ mang vác, lệch bệch đi vào cuối cùng.  Trứơc mắt anh là một nàng nông dân trong quần đen, áo bà ba màu đậm, không còn "áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc, áo nàng xanh anh mến lá sân trường"!  Vai em không phải "gầy guộc nhỏ", mà là vai em xương nhấp nhô lồi lõm.  Em như một con cá sặc bị người ta làm khô, phơi mấy lứa nắng hết cả nước.  Tay chân khẳng khiu, đen đúa, trán đẫm mồ hôi.  Em, người cai tù khả ái của anh, từ ngày nàng bớt cái job cai tù, giao người khác đảm nhiệm, tưởng nhẹ đi một phần, ai ngờ...  Bây giờ nàng trở thành người vợ thủy chung "trước sau như một" của anh.  Thương quá là thương "con khô cá sặc" này!  Anh ứa nước mắt, nghẹn lời, nhưng không dám khóc.  Không phải anh sợ mấy con khỉ Trường Sơn lên làm người... ngợm, hách dịch la mắng, mà sợ nước mắt anh đeo đẳng nàng trên đường về nhà, và trở thành ác mộng cho nàng mỗi đêm. 

    Với đồng lương "khiêm tốn" của nhà giáo, nàng bươn chải kiếm thêm tiền để nuôi con, nuôi chồng.  Từ đó, mỗi khi hè về, nàng đi thăm nuôi anh.  Trong năm, nàng bận dạy, con bận học thì mỗi tháng nàng gởi một gói quà 5 kí lô cứu đói cho anh.  Anh nhớ tới ông tướng, chú của nàng (chú hay cha?  Bấy giờ anh vẫn còn thắc mắc điều này).  Anh chân thành cám ơn ông  đã se duyên cho anh với một người vợ dễ thương, tình nghĩa thủy chung như thế.  Vậy mà, ngày xưa đã có lần dại dột, anh than phiền với chú: "Cực quá chú ơi!  Kiếp sau cháu thề không lấy vợ làm cô giáo nữa!"  Ông chú đã cười cười an ủi anh: "Ráng đi cháu!  Chú cũng không hơn cháu đâu.  Bóng câu qua cửa sổ, 50 năm nhanh lắm!"

    Thời gian trôi qua... Rốt cuộc rồi anh cũng lãnh "bằng tốt nghiệp"  Đại Hộc Máu, sau mười năm "học tập và lao động là vinh quang".  Anh trở về nhà.  Vừa bước tới cửa, chưa kịp gõ thì anh nghe giọng cô chị đang "lên lớp" người em:
- Này, em lớn rồi, phải biết nên thân một chút, chăm chỉ học hành, sách vở áo quần phải ngăn nắp để làm gương cho hai đứa em.  "Thượng bất chính, hạ tắc loạn" hiểu không? 
Câu nói quen thuộc này cả chục năm nay anh mới được nghe lại, nhưng không phải do nàng nói mà do "truyền nhân" của nàng. Anh giơ tay gõ cửa.  Một cái đầu xuất hiện nơi của sổ nhìn ra.  Ôi!  Công Chúa bé nhỏ của anh!  Bây giờ là một thiếu nữ tuy gầy guộc nhưng xinh đẹp, cặp mắt long lanh sáng rỡ không khác cặp mắt nàng cai tù của anh.  Anh lẩm bẩm:
-Em ơi, con khô cá sặc của anh, em đâu rồi?  Con khô cá lóc về rồi đây!
Con bé trả lời:
- Thưa ông, ở đây không bán cá khô, chỉ có chè thôi, nhưng buổi chiều mới có.
Anh biết con gái anh nhìn không ra cha.  Ngày anh đi, con anh mới 6 tuổi, bây giờ đã là thiếu nữ 16 rồi.  Anh bây giờ hom hem, gầy đét như con khô cá lóc, trông già trước tuổi nhiều làm sao nó nhận ra.  Anh liền nói:
- Ba về rồi đây.  Công Chúa Lớn, Thái Tử, Hoàng Tử, Công Chúa Út của ba, mở cửa cho ba vào, mẹ các con đâu?
Nghe gọi, thêm ba cái đầu xuất hiện nơi cửa sổ, ngó anh lăm lăm.  Công Chúa Lớn dè dặt nhìn hình anh treo trên tuờng rồi nhìn anh, hỏi:
- Ông nói ông là ba của cháu, có gì chứng minh?
Anh chợt có ý nghĩ muốn thử xem các con anh được người mẹ cô giáo dạy dỗ như thế nào.  Anh nói tên họ và tuổi tác từng đứa con thì được con bé trả lời:
- Thưa ông, cả xóm này, ai cũng biết tên tuổi của chị em chúng cháu.  Xin lỗi, cháu không dám cho nguời lạ vào nhà.
Anh đưa giấy ra trại của anh, con bé cầm lên đọc, vẻ xúc động rõ rệt trên khuôn mặt nhưng nó xem tới xem lui rồi đưa cho mấy đứa em xem.  Xong, trả lại anh.  Hai đứa lớn đưa mắt nhìn nhau.  Anh thấy đứa con gái khẽ lắc đầu.  Đứa con trai lớn ra dấu đồng ý với chị.  Con bé nhã nhặn nói:
- Xin lỗi... bác (từ ông qua bác), bác chịu khó chờ một chút, mẹ con (từ cháu qua con) đi chợ sắp về rồi.  Con không biết giấy của bác thật hay giả.  Bác không giống như trong hình của ba con.
Nói xong, nó chạy vào bếp mang một chén chè đầy ắp lòn ra cửa sổ đưa cho anh.  Anh vô cùng cảm động.  Người vợ cô giáo của anh dạy con vừa cẩn trọng, vừa ăn nói lễ phép, khôn ngoan. "Cám ơn em.  Mười năm không có anh, em đã hoàn thành xuất sắc việc nuôi nấng và dạy dỗ các con. Anh mang món nợ ân tình này lớn lắm."  Đang xúc động vì hạnh phúc này, nàng về tới, ôm lấy anh khóc vùi.  Các con lật đật mở cửa, đứa nắm tay, đứa kéo áo, lôi vào nhà.  Hạnh phúc đoàn viên thiết tưởng không cần thiết nói ra.

    Ngay chiều đó, anh có job "bưng bê" mặc dầu nàng và các con không cho.  Nhằm nhò gì cái job nhẹ nhàng này so với job "học hành" ở đại học Made by Trung Ương Đảng CSVN.  Sau thời gian ngắn được nàng và con tẩm bổ bằng chè bán ế, anh tìm được vài mối làm "gia sư" Anh văn tại những gia đình có nhu cầu đi nước ngoài, cho nên cuộc sống cũng dần dần đỡ ra.  Cám ơn nước Mỹ ngày xưa đã cho anh hai lần tu nghiệp nghề "tài xế máy bay" nên anh có một số vốn Anh văn kha khá để làm thầy thực thụ.  Nhà anh bây giờ có thêm "cai tù con", truyền nhân chính thức của cai tù mẹ, nên các con anh đi vào nề nếp tốt.  Anh làm đơn xin đi Mỹ, vì anh không muốn con anh đứa thì "Chị Út Tịch còn cái lai quần cũng đánh", đứa kia "Đêm nay Bác không ngủ" ( Bác đi tìm ai?), đứa nọ "Mẹ Suốt đưa đò" (đò ngang hay đò dọc?)... mà không thấy Bà Trưng, Bà Triệu, Hưng  Đạo Vương, Vua Lê Lợi,  Quang Trung Đại Đế... đâu cả.

     Với "Mảnh bằng tốt nghiệp Đại Hộc Máu", vài năm sau, gia đình anh đành vĩnh biệt "Thiên Đàng" hạ giới được xây dựng bởi những "đỉnh cao trí tuệ" của loài người, đi sang một nước Tư Bản đang "giẫy chết", để chết theo "Đế Quốc Mỹ" cho "dzui dzẻ" cuộc đời.  Ở nơi đây anh mới thấy hết khả năng ẩn tàng của hai nàng cai tù lớn, nhỏ nhà anh. Nàng lớn lãnh hàng may gia công, một ngày làm việc từ 15 đến 20 tiếng đồng hồ.  Nàng nhỏ vừa đi học, vừa quán xuyến việc lớn việc nhỏ trong nhà, vừa chăn dắt mấy đứa em.  Anh lại nghe thường xuyên câu danh ngôn "thượng bất chính, hạ tắc loạn" nhưng giờ đây xuất phát từ cô Công Chúa Lớn.  Phu quân của một người đồng nghiệp may gia công với nàng cho anh cộng tác cắt cỏ thuê.  Nói cộng tác cho oai  một chút, chứ thật ra làm công cho anh ta.  Được vài tuần.  Một buổi sáng đẹp trời, anh đến cắt cỏ cho căn nhà đẹp mà chủ nhân là một phụ nữ goá chồng, thường vắng nhà luôn.  Người chủ thầu cắt cỏ bảo anh phải gỏ cửa để lấy cái check mà mấy tuần qua rồi chủ nhân chưa đưa.  Một mệnh phụ đẩy đà mở cửa.  Anh khựng lại, chủ nhân cũng khựng lại. Thôi chết anh rồi!  Đây là một "em gái hậu phương" mà anh phải chạy trốn khi bị ông tướng "ép duyên".  Em, nay tuy có tuổi nhưng cũng còn mượt mà lắm, con mắt lá răm còn tình tứ vô cùng... Nàng mời anh vào nhà, rót cho anh  một  ly  đầy  rượu Martel, thứ rượu ngày xưa anh khoái khẩu.  Nhưng anh vội từ chối vì... phải lái xe.  Nàng bảo:
- Anh ở lại đây, chờ tan rượu hãy về.
- Cám ơn em, cho anh về.  Anh còn phải cắt cỏ (xin độc giả hiểu nghĩa đen) nhiều nhà lắm.  Hôm nào rảnh, anh sẽ ở lại chơi lâu hơn.
- Anh cho em xin số phone.
- Em ơi, tha cho anh.  Con "sư tử" nhà anh bắt phone thì xé xác anh chết mất.
Thật ra, không phải anh sợ  "sư tử già" xé xác, mà anh sợ "sư tử con" với câu danh ngôn chân truyền "thượng bất chính, hạ tắc loạn".

    Về nhà, anh "thật thà khai báo" với hai nữ cai tù.  Anh bị buộc thôi việc, ở nhà, phụ cắt chỉ với nàng, không phải "xe chỉ... ố mấy kim... luồn kim".  Mắt anh lèm nhèm lắm rồi, luồn kim sao được nữa!  Sau đó, anh xin được job coi kho trong hệ thống Costco. Nhờ siêng năng và có trình độ lẫn kinh nghiệm điều hành, dần dà anh được thăng chức Manager.  Cuộc sống dần dần ổn định và thoải mái. Miểng đạn còn sót lại trong thân thể làm anh đau nhức muốn chết khi "gió mùa đông tới" cũng được "chế  độ đang giẫy chết" cứu anh sống.  Mấy đứa con của anh dưới tay "quản lý" của Công Chúa Chị đều học hành tử tế.  Nhờ xã hội "Tư Bản đang giẫy chết" cho các con anh nhiều cơ hội tốt nên các con anh thành đạt, có cuộc sống vững vàng.  Hai "Công chúa" được mẹ truyền cho chức cai tù đi nhận "nhiệm sở mới".  Thái tử và Hoàng tử nối gót cha vào "nhà tù mới". Bây giờ chỉ còn mình anh ngày nào cũng đụng mặt cai tù già.  Càng già cai tù càng khó tính, càng khe khắc.  Mỗi lần anh nói đùa như những ngày xưa thân ái thì nàng chận lại: "Ăn nói cẩn thận "hoạ tòng khẩu xuất" đó, mình à."  Nàng dùng chữ "mình" của người Miền Nam, nghe sao ngọt ngào chi lạ!  Nàng bắt anh kiêng hết thức này, đến món kia vì sợ "bệnh tòng khẩu nhập".  Nàng giảng giải cho anh:  "Bệnh nhập không chỉ vì đưa vào miệng thực phẩm thiếu vệ sinh, thức ăn mất quân bình dinh dưỡng, hay không có gì đưa vào miệng như những ngày "mài miệt" trong Đại Hộc Máu, mà bệnh còn nhập theo thức ăn thừa mứa nữa.  Hiểu chưa, mình?"  Ôi!  Lại bệnh nghề nghiệp: "Lên lớp" và "hiểu chưa"!  Nhưng chữ "mình" ngọt như mía lùi, làm sao giận nàng cho được!  Mỗi lần nàng tìm được phương thuốc "thần kỳ" nào trên internet là anh được làm "người thí nghiệm" ngay.  Nàng lập luận: "Không bổ bề ngang thì cũng bổ bề dọc,  không ích lợi cái này thì cũng ích lợi cái kia."  Cũng không thể giận được trước tấm lòng "ưu ái" của nàng dành cho anh!  Anh "tự nguyện" bị bắt buộc làm theo nàng.

     Vợ chồng anh được các con tặng mỗi người một laptop.  Ngồi trước laptop, anh nhớ lại những ngày ngồi trước nồi chè ở Thiên Đàng XHCN quạt lửa phành phạch, nóng rát chảy mồ hôi mà thương cảm cho những người bất hạnh còn ở lại "Thiên Đường".  Anh cám ơn nước Mỹ đã đem đến cho vợ chồng anh điều kiện để tiếp cận nền khoa học kỷ thuật hiện đại của nhân loại.  Nhờ đó, anh liên lạc thường xuyên đồng đội của mình trên toàn thế giới. Nàng cũng vậy, liên lạc, "chit chat" với đồng nghiệp và học trò cũ,  cho nên sau này, thời gian bị kềm kẹp của anh cũng ít lại.  Hôm kỷ niệm 50 năm hoàn thành xuất sắc "nhiệm vụ cai tù và tù nhân", con cháu quây quần tụ hợp đông vui.  Anh chợt nhớ tới chú Thiếu Tướng, anh thắp cho chú một nén nhang và khấn:
- Thi hành án lệnh của chú năm mươi năm rồi, sao cháu chưa được "mãn án"?
Trên thinh không, anh nghe tiếng ông tướng văng vẳng:
- Xin lỗi cháu.  Chú tính sai bản án vì chú không biết có ngày cháu sống ở nước Tư Bản Mỹ.  Thôi ráng chịu đựng  bị "bóc lột" của bọn Tư Bản và bị "kềm kẹp" của nữ cai tù nhà cháu  thêm một thời gian nữa, cháu nhé!!!
- Xin chú trả lời cháu một thắc mắc kéo dài nửa thế kỷ: " Hạ Vy là cháu của chú hay là con?"
- Này!  Hỏi vớ vẩn!  Bộ nhà ngươi muốn ta bị ...bầm mình hay sao??? 

                                                    Hạ Vũ
( Bài do VHP chuyển )
Back to top
« Last Edit: 05. Jun 2010 , 23:06 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #8 - 13. Jun 2010 , 23:26
 
ĐÀN BÀ
_
Nguyễn Thị Thanh Dương        
Tôi đi chợ về với nét mặt xơ xác chồng tôi nhận ra ngay:
-         Em trúng gío hay sao mà thần sắc bơ vơ thế?
Tôi bực mình gắt: - Anh trù ẻo em đấy à? Anh muốn em trúng gío chết bất đắc kỳ tử để anh lấy vợ khác hả?  Anh ta luống cuống chống đỡ:

-         Không đời nào thế. Anh chỉ muốn lo cho em thôi mà. Hay người ta tính lộn tiền của em? Hay em để quên món gì ở chợ như mọi khi để anh sẽ chạy ra giải quyết ngay bây giờ?
-         Hôm nay những chuyện ấy không xảy ra, vấn đề là em tình cờ gặp lại một cô bạn cũ làm chung hãng trước kia.
Anh ta reo lên:
-         Thế thì em phải vui lên chứ, cuộc sống bận bịu này không hẹn mà gặp một người bạn cũ là may mắn đấy. Ai vậy em?
-         Kim Chi. Tôi đáp cộc lốc.

Anh ta lại reo lên:
-         A, cái cô Kim Chi xinh đẹp có cái răng khểnh dễ thương mà ngày xưa hay đến nhà mình chơi ấy hả?
Tôi hậm hực nhìn ông chồng “ngây thơ”. Kim Chi đến nhà mình để xem xét, để đánh gía cuộc sống của mình, chứ không phải thân tình đến chơi đâu.

Nhìn nét mặt vui mừng và vô tư của chồng, kèm với câu khen “ngốc nghếch” ấy đủ để xếp anh ta đứng đầu vào hạng mục ăn nói thiếu suy nghĩ nhất thế giới. Câu nói này đủ để cho tôi làm đơn li dị nếu muốn. Gía tôi có bị tai nạn, bị thương cũng còn đỡ đau hơn khi nghe chồng tôi nhiệt tình khen một người đàn bà khác xinh đẹp trước mặt mình, mà lại là người đàn bà nguyên nhân làm tôi kém vui ngày hôm nay.

Khi tôi ở chợ, đang lúi húi trong đám đông để lựa mua trái vải tươi gía on sale chỉ có $1.99 một pound. Tôi đã kinh nghiệm rồi thấy cái gì rẻ là mua ngay, không ai biết trước ngày mai, chuyện “bể dâu” đổi thay là thường tình, chân lý này áp dụng cho chợ này không sai tí nào, gía cả của chợ luôn “bất bình thường”. Chiều thứ Sáu một thùng xoài gía $4.99, tưởng là rẻ tôi bưng vể 3 thùng, ngày mai thứ Bảy cô em chồng đi chợ về khoe một thùng xòai y chang chỉ có $3.99. Thế là tôi bị “lỗ” mất 3 đồng chỉ vì lanh chanh mua sớm.
Một cú hích vai làm tôi giật mình quay lại, thoát ra khỏi đống trái vải trước mặt, để ngỡ ngàng khi nhìn ra cô bạn cũ làm cùng hãng với tôi trước kia, tôi ngỡ ngàng vì xa nhau mấy năm mà trông nó trẻ đẹp hơn trước.

Kim Chi nói:
-         Không ngờ gặp bà ở đây.
Rồi nó nhìn tôi từ đầu đến chân:
-         Trông bà vẫn thế không có thay đổi gì cả.

Tôi cay cú nghĩ thầm “ý nó nói mình vẫn xấu như xưa đấy”. Còn nó càng ngày càng đẹp ra, có tiền có khác vì tôi đã nghe vợ chồng nó đang làm chủ hai tiệm nail, kiếm bộn bạc.
Tôi ráng nở một nụ cười:
-         Kim Chi vẫn …dễ thương ghê ( tôi tránh dùng chữ “đẹp” dù điều đó tôi không thể chối cãi được)
Nó vừa khiêm nhường vừa khoe:
-         Mình lo làm ăn qúa đâu có thì giờ để ý đến nhan sắc, trông coi hai tiệm nail, quản lý mười mấy người thợ mệt muốn chết. Có tiền nhiều cũng cực nhiều. Hôm nay sẵn đi công chuyện ghé vào chợ cho…vui, chứ vợ chồng mình từ giờ trở đi coi như suốt đời ăn cơm tiệm, thời gian đâu mà chợ búa với nấu nướng? Còn bà vẫn làm ở hãng cũ hả?

Nó “sâu sắc” thật, chia ra hai cảnh đời khác biệt, nó thì nhiều tiền lắm bạc, đang làm chủ có một đống nhân viên trong tay, còn tôi thì vẫn đi làm hãng xưởng, đồng lương ba cọc ba đồng, có nghĩa là nghèo suốt đời, không có cơ may nào mà ngóc đầu lên nổi !!

Tôi lạnh nhạt :
-         Ừ, mình không có gì thay đổi cả.
Kim Chi nhìn tôi đầy vẻ “xót thương”:
-         Hay bà nghỉ hãng đi làm nail đi? Về làm tiệm mình bảo đảm bao lương bà từ 700 đến 800 một tuần tùy theo tay nghề, không kể tiền tip.
-         Cám ơn Kim Chi, mình làm ở đây lâu năm quen rồi
-         Từ ngày mình đi làm nail hai đứa mình ở hai thành phố, chỉ cách nhau hơn 1 giờ lái xe mà ít có dịp gặp nhau. Mình mới xây một ngôi nhà sơ sơ nửa triệu, hàng xóm của mình toàn là dân Mỹ trắng trung lưu bác sĩ, kỹ sư không à…
Kim Chi móc bóp lấy ra một business card đưa cho tôi:
-         Đây là số phone của mình, bữa nào rảnh bà đến nhà mình chơi nhé? Mà phải gọi trước… lấy hẹn nhé, vì mình bận lắm, mình sẽ xắp xếp thời gian ở nhà đón bà. Thôi, mình đi mua đồ, có dịp sẽ nói chuyện sau.

Sao mà nó chảnh đến thế! mời bạn cũ đến nhà bắt phải lấy hẹn trước, y như khách đến tiệm của nó làm móng tay vậy. Tôi đứng lặng người khi Kim Chi đi khỏi, $1.99 một pound trái vải tươi không làm tôi hớn hở nữa, sự xuất hiện của Kim Chi đã làm tôi mất hứng, tôi vốn không ưa những người đàn bà…đẹp hơn tôi, giàu hơn tôi và chảnh hơn tôi.

Tôi nhìn theo Kim Chi, đi giữa chợ một bên là hàng cá, tôm, thịt, một bên là dãy hàng nước tương, chao, nước mắm, xì dầu đủ loại, và kẻ qua người lại nhốn nháo như ong vỡ tổ mà nó đi như người mẫu đang biểu diễn trên sàn catwalk, bàn chân nọ đặt trước bàn chân kia, để tạo dáng đi yểu điệu, cho thân mình mềm mại uyển chuyển, làm tôi ngứa cả mắt.

Tôi bĩu môi lẩm bẩm một mình:
-         Cái nhan sắc ấy thế nào chẳng nhờ vào thẩm mỹ viện ! còn tiền bạc trên cõi đời này chỉ là phù du, có nhiều tiền càng phù phiếm xa hoa, càng hư hỏng con người chứ…ích lợi gì? Căn nhà nửa triệu ở Texas chỉ bằng căn nhà cũ rích tồi tàn ở Calif. chứ hơn ai.

Mua đồ xong, ra tới bãi đậu xe tôi vẫn chưa hết tức, chưa thoát khỏi nỗi ám ảnh xinh đẹp tươi trẻ của Kim Chi, thì nó lại lù lù xuất hiện một lần nữa. Tại sao trong đời tôi lại có hai lần…xui cùng một lúc đến thế!
Ác ghê, xe nó đậu cạnh xe tôi, hai cái xe cũng khác biệt như hai người chủ, cái xe Toyata của tôi đời…nào tôi cũng không nhớ nổi, nằm cạnh cái xe Honda Acura đời mới bóng lộn của Kim Chi.

Tôi thấy Kim Chi đang lúi húi xếp đồ vào trunk xe, bây giờ tôi càng nhìn nó kỹ hơn, toàn bộ hơn, nó diện cái quần lưng lửng qua đầu gối một tí, vải hoa màu xanh màu đỏ làm nổi bật cái áo đen hai dây kiểu thời trang ôm gọn thân hình thon thả, trông nó trẻ trung, nhí nhảnh và tươi mát giữa mùa hè nóng bức. Nó biết tôi không thể nào không nhìn nó nên càng cố tình xếp đồ thật chậm, thật lâu, điệu bộ và đỏm dáng như một nàng qúy tộc. Có lẽ nó đã quên cái thời còn ở apartment, hai vợ chồng và một đứa con chỉ có một phòng ngủ, trông nó lôi thôi, nhếch nhác thế nào!

Ngay giây phút này đầu tôi lóe ra một kế hoạch tập thể dục để giảm cân, để sẽ có một thân hình đẹp…hơn nó. Hai đứa bằng tuổi nhau, cùng nghèo mạt rệp như nhau mà sao tôi gìa hơn nó, xấu hơn nó? Và bây giờ nó đổi đời, giàu hơn tôi? Thật là bất công.

Dù tôi cứ suốt đời cho rằng tiền bạc là phù du, nhưng cũng chính giây phút này tôi thừa hiểu rằng những đứa nhiều tiền lắm bạc vẫn sướng, tha hồ mua sắm quần áo và mọi thứ trên cõi đời, tha hồ vào thẩm mỹ viện mà tu bổ nhan sắc. Thế nên chúng nó càng trẻ ra, càng đẹp ra. Còn tôi, mỗi lần đi chợ phải tính toán từng đồng một và như ngày hôm nay hí hửng với gía trái vải tươi onsale rẻ hơn bình thường chỉ có mấy chục xu một pound.
Tôi và Kim Chi lại chào chia tay nhau lần nữa. Chắc Kim Chi đang nghĩ thầm cả cái xe của tôi cũng vẫn thế, mấy năm nay từ ngày nó chia tay tôi đến giờ vẫn không hề thay đổi, ngoài cái việc cũ kỹ thêm, tàn tạ thêm.
Thật là một cuộc gặp gỡ bất ngờ và cay đắng!
Chồng tôi phụ xếp đồ vào tủ lạnh. Anh ta nhấc bịch trái vải lên ngắm nghía, nói một câu chắc nịch như đinh đóng vào cột:
-         Hôm nay trái vải onsale đấy !
-         Ủa, sao anh biết? Tôi lơ đãng và ngạc nhiên hỏi.
-         Khi nào em mua món gì nhiều là món ấy đang onsale. Tuần trước em khuân về một lúc 3 thùng xoài, trời mùa hè xoài mau chín, ngày nào anh cũng phải hối hả ăn xoài cho kịp với tốc độ chín của nó, cho nên cứ nhìn xoài là anh hoa cả mắt, và tối ngủ anh còn…ác mộng, thấy những trái xoài chín vàng…hiện về lửng lơ ở đầu giường.
-         Anh đừng có nói là anh sẽ nằm ác mộng thấy những trái vải hiện về nhé, vì hôm nay em mua 10 pound trái vải đấy.
-         Bất qúa coi như anh ăn trái vải…trừ cơm.
Tôi nghi ngờ:
-         Anh ngụ ý chê em nấu cơm dở phải không? Anh đừng “cay đắng” thế, những người vợ nấu ăn ngon chỉ…hại chồng thôi anh ạ, hết bày ra món này tới món kia, chồng con tha hồ ăn thỏa thích, rồi béo phì, rồi tiểu đường, cao máu, cholesterol. Anh có muốn thế không? Có muốn chết sớm không?
-         Em lúc nào cũng đa nghi, suy nghĩ “negative” cho người khác. Thế em và Kim Chi có chuyện gì mà em không được vui?
Tôi nhún vai:
-         Cuộc đời là gỉa dối !
-         Tại sao em lại triết lý thế sau một buổi chiều đi chợ?
-         Kim Chi đấy, nó gặp em làm bộ vồn vã hỏi thăm nhưng chỉ để khoe khoang về mình. Đi chợ gì mà ăn diện như đi thi hoa hậu.
-         Đàn bà mà em, ai chẳng thích ăn diện, ai có tiền mà chẳng thích khoe khoang!
-         Nhưng em tức lắm, nó nhìn em bằng ánh mắt tội nghiệp, làm em chịu không nổi.
Tôi kể lại chuyện gặp Kim Chi ở chợ cho chồng nghe, và kết luận:
-         Một ngày nào đó em sẽ…trả thù!
-         Trời ơi, em định làm gì?. Anh van em hãy suy nghĩ lại..
-         Sao anh hoảng hốt đến thế? Em có định giết nó đâu. Một ngày nào đó em sẽ sửa sang nhan sắc, ăn diện thật đẹp, thật thời trang, và đi xe đời thật mới để đến nhà  thăm nó cho nó bất ngờ và cay đắng giống như em chiều nay. Đó là cách trả thù của em.
-         Nhưng tiền ở đâu ra cho em đi thẩm mỹ viện, sắm quần áo và mua xe đời mới? Ant ta hồi hộp nhìn tôi và chờ đợi.
Tôi thở dài:
-         Chính em cũng đang tự hỏi câu đó và chưa có câu trả lời.
Chồng tôi đến bên tôi và ôm vai tôi, dỗ dành:
-         Em ơi, hãy tập bao dung đi, nếu em còn tức giận, còn ghanh ghét là còn “tham sân si” đấy. Ở đời, người nọ hơn người kia là thường, mình hãy sống cho mình, hạnh phúc với những gì mình đang có. Đó là vẻ đẹp và sự giàu có trong tâm hồn, thật bền vững và vô gía đó cưng. Cũng như…
Anh ta chợt ngưng bặt, tôi phải giục giã:
-         Anh cứ thoải mái nói tiếp đi.
-         Em cho phép nhé. Cũng như…anh lấy phải cô vợ đanh đá, chanh chua, mà còn nấu ăn dở ẹc nhưng anh vẫn sung sướng được chung sống với cô ta cho đến hết đời.
Tôi vùng vằng:
-         Anh bảo em tha thứ cho Kim Chi là bênh vực nó, một người chồng yêu vợ là phải…về phe vợ trong bất cứ hoàn cảnh nào chứ?
-         Anh kể cho em nghe một bài anh đã đọc trên báo. Lâu ngày gặp nhau thì hai người đàn ông vồn vã nhau hỏi thăm nhau về sức khỏe, công việc, còn hai người đàn bà thì…trước hết nhìn nhau xem nó có đẹp hơn mình không? Có giàu sang  hơn mình không? Nếu nó hơn thì ghét nó, nếu nó thua kém mình thì sung sướng và thương hại nó. Đó chính là Kim Chi và em trong buổi gặp gỡ chiều nay, nói tóm lại đàn bà là thế cả.
Thấy chồng nói đúng tim đen của mình tôi quay mặt đi dấu nụ cười cho đỡ…quê. Chồng tôi trở về thực tế:
-         Thôi bây giờ em nấu gì để ăn đi chứ?
-         OK em sẽ nấu bún riêu. Tôi đáp ngay không cần suy nghĩ.
Anh ta ngạc nhiên:
-         Tại sao hôm qua nấu bún riêu rồi, hôm nay lại ăn bún riêu?
-         Thế anh không đoán ra à? Tại vì… cà chua onsale, một đồng 2 pound em mua từ tuần trước. Em phải ráo riết nấu bún riêu để xài cho hết một đống cà chua đang đua nhau chín đỏ trong tủ lạnh đó.
Anh ta biết điều:

-         Ừ nhỉ, thế mà anh quên mất. Ăn bún riêu xong vợ chồng mình sẽ ăn trái vải tráng miệng phải không em? mỗi ngày mỗi ăn để cho hết đống trái vải em mới mua về đó.
Hai vợ chồng tôi nhìn nhau như nhìn thấu tim gan nhau. Có lẽ chúng tôi là cặp vợ chồng ăn ý nhất trên cõi đời này. Tôi sung sướng ra điều kiện:
-         Nếu anh còn yêu em say đắm như nãy anh đã nói thì hãy chiều em…
Anh ta nhìn tôi bằng ánh mắt ướt át, tình tứ rồi ngọt ngào nói:
-         Lúc nào anh cũng sẵn sàng chiều em, yêu em say đắm như thuở ban đầu. Anh sẽ hôn em, ôm em trong vòng tay, anh sẽ…Vậy em muốn gì hả cưng?
-         Ngày mai chúng mình lại…ăn bún riêu để thanh toán nốt chỗ cà chua chín mùi trong tủ lạnh, anh nhé.

                              
Nguyễn Thị Thanh Dương
Back to top
« Last Edit: 13. Jun 2010 , 23:27 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #9 - 14. Jun 2010 , 23:06
 


Chuyện Buồn Người Vợ Tù        


Một ngôi biệt thự nhỏ khiêm tốn cuối đường Hoàng Diệu, Đà Lạt. Phía sau là vườn hồng và có thể nhìn thấy trường Couvent thấp thoáng aó xanh lam của các nữ sinh nội trú. Đó là “ngôi nhà hạnh phúc” của chúng tôi cũng là tên do các bạn yêu thương đặt cho nó. Chúng tôi sống êm đềm hạnh phúc với ba đứa con thật dễ thương và một em bé còn đang trong bụng mẹ. Căn nhà lúc nào cũng rộn rã vui tươi nhất là Tết đến còn thêm “những con bà phước” (tức là những sỹ quan Võ bị không được về Sài Gòn ăn Tết vì cấm trại) tất cả đều quay quần vui chơi như chính nhà của họ, bởi vì các anh thích cái không khí thoải mái và thân thương nhất mà chúng tôi đã thật thân tình đón tiếp. Nếu cuộc sống ấy được kéo dài thì thật đúng là chúng tôi đã có một thiên đàng hạnh phúc thật sự rồi. Nhưng đâu có ai ngờ rằng Buôn Mê Thuột mất, mọi nơi di tản về Sài Gòn. Gia đình tôi cũng trong làn sóng kinh hoàng đó. Tôi và các con được ông bà nội các cháu yêu thương đùm bọc, và tôi đã sinh cháu bé ngay tháng tư năm đó . Cũng vì thế mà chồng tôi không thể ra đi một mình. Anh đã lên được tàu nhưng anh lại nhảy xuống bơi về . Nếu anh biết trở về rồi lại phải xa mẹ con tôi vĩnh viễn chắc anh đã chẳng quay về . Đó cũng chính là nỗi đau ray rứt, niềm ân hận khôn nguôi của chúng tôi .

Tháng sáu anh đã đi trình diện học tập cải tạo, với hy vọng sau mười ngày sẽ trở về ….. Không có chồng tôi ở nhà, tôi rất sợ hãi và buồn lo. Anh đã cho tôi một đời sống ổn định vững vàng. Nay không có anh tôi không thể làm gì hết, tôi đã mất hết, mất cả những ước mơ toan tính của chúng tôi cho con cái sau này. Tôi không còn gì hết ngay cả mạng sống của tôi cũng rất mong manh vì mới sanh cháu còn quá nhỏ. Rất may nhờ sự lo xa của bà nội các cháu nên mẹ con tôi còn được ăn cơm thêm vài tháng. Toàn dân ở thành phố đã phải ăn khoai lang, khoai mì và bo bo. Lương thực bán theo sổ gia đình, hoàn toàn không có gạo. Khi nào được mua bột mì thì sung sướng lắm. Vì có thể đổi bột lấy bánh mì (món ăn ngon nhất lúc bấy giờ) Nhờ có bánh mì tôi có thêm việc làm để kiếm được vài đồng đi chợ. Tôi phải lo làm nước sốt (muối + cà chua) thái cà rốt củ cải dưa leo làm đồ chua mang ra trước cửa bán từ 4 giờ sáng.

Ngày tháng cứ qua đi với buồn lo nặng trĩu vì 4 đứa con cần ăn để sống . Tôi như con chong chóng hết bán bánh tôm bánh cuốn tại đường Duy Tân lại quay ra bún ốc bún riêu ở đường Gia Long. Nhưng cũng không được bao lâu vì “chiến dịch dẹp lòng lề đường”. Tôi lại phải chạy thuốc tây, ai cần bán cần mua là có tôi làm chân chạy. Tôi còn nhớ một lần có người cần mua 5 chai nước biển, mà tôi chỉ có đủ vốn cho 2 chai, thế là tôi phải chạy làm 3 lần từ chợ Vườn Chuối qua chợ Bà Chiểu mới giao đủ hàng được . Đạp xe đạp muốn kiệt sức vì mồ hôi và nước mắt nhoè nhoẹt đến không thấy đường đi. Nhiều lúc đầu óc tôi muốn vỡ tung ra vì những tính tóan cho cuộc mưu sinh, vì những thay đổi khôn lường của xã hội chủ nghĩa và nhất là vì những hoang mang lo sợ cho chồng tôi đã bao lâu biệt vô âm tín. Ban đêm, nhìn những khuôn mặt ngây thơ của các con tôi trong giấc ngủ say sưa; tôi yên tâm vì tôi vẫn còn có chúng ở bên tôi. Nhưng chồng tôi nay ở đâu? Đói no ấm lạnh ra sao? Anh là người nặng tình chồng vợ, yêu qúy các con, liệu anh có yên giấc được không? Hay cũng như tôi thao thức suốt đêm thâu với bao nỗi lo âu tắc nghẽn không phương giải thoát. Chỉ có lúc này tôi mới được tự do khóc nức nở để vơi bớt nỗi buồn lo nặng trĩu bên mình. Tôi không dám khóc trước mặt các con vì chúng sẽ òa khóc theo ngay khi thấy tôi chảy nước mắt.

Mãi gần một năm sau tôi mới được tin chồng tôi dù chẳng phải là tin vui. Anh đang bị một cơn sốt rét ác tính và thiếu thức ăn trầm trọng có thể chết bất cứ lúc nào. Mong ước của anh là muốn biết tin tức của mẹ con tôi trước khi anh nhắm mắt. Trời đất như sụp đổ dưới chân tôi. Tôi lạy van người đưa tin xin chỉ đường cho tôi đi gặp anh.

Sau cuộc hành trình khá vất vả, lội suối băng rừng, những con vắt cắn tôi chảy máu tùm lum mà tôi không hề biết sợ biết đau. Quần áo ướt hết, gió lạnh làm tôi rét run, xanh mét. Tới nơi chưa kịp mừng thì đã bị cán bộ trưởng trại tra hỏi lâu ơi là lâu. Cuối cùng vì “cảm phục lòng yêu chồng của phụ nữ miền Nam ”. Họ cho tôi gặp mặt. Vì chồng tôi đau nặng nên anh em cùng “láng” cho mắc võng ở giữa còn các anh mắc võng chung quanh để che gió lạnh. Thật sự thì có che được bao nhiêu đâu vì mỗi khi gió tạt vào thì tất cả đều lãnh gió cát đầy cả mặt mũi. Tôi chết đứng khi thấy chồng tôi chỉ còn là bộ xương sơn đen, hàm răng trắng nhô ra vì đôi má đã hóp lại, cặp mắt lõm sâu không còn thần sắc. Tôi khóc lặng lẽ nước mắt như mưa nhào tới bên anh, ôm lấy tay anh, còn anh thì không còn đủ sức để nắm tay tôi nữa. Thời gian như ngừng lại, các anh xung quanh cũng yên lặng ngậm ngùi.

Tôi không thể nào quên được đêm hôm ấy, trước đống lửa bập bùng, mấy chục khuôn mặt mà tôi chắc trước kia đẹp đẽ oai phong lắm trong bộ quân phục VNCH, bây giờ thì chao ơi là tội nghiệp, họ chỉ còn là những bộ xương người biết cử động . Thương người, thương mình tôi khóc đến đau nhức cả hai mắt. Chồng tôi thì nằm thoi thóp, miệng vẫn cố cười, chắc anh đã mãn nguyện? Đứa con gái út của anh mới tám tháng nên hãy còn bú mẹ. Hai bầu sữa căng nhức, tôi chợt tỉnh táo để xin lỗi mọi người ra xa để vắt sữa. Tôi bưng chén sữa bỏ thêm hai muỗng đường rồi đổ cho chồng tôi từng muỗng một.

Chồng tôi có lẽ nhờ vào mấy chén sữa của tôi mà tới sáng anh đã tỉnh hẳn. Mấy anh bạn cứ chọc anh là uống sữa tiên nên mới được như vậy .

Sau chuyến đi ấy tôi ngã bệnh cả tuần lễ . Vừa khỏi là tôi lại sửa soạn đi một chuyến nưã vì tôi biết chồng tôi rất cần thuốc men và tẩm bổ. Hai chân anh ấy không mang nổi tấm thân gầy chỉ còn 40 ký lô. Nỗi buồn lo này chưa hết, lại đến nỗi buồn vì con bé không thèm sữa mẹ nữa. Thế là tôi mất thêm niềm hạnh phúc vô biên là dược ôm con, ngắm cái miệng xinh xinh của con như gắn liền với bầu vú mẹ để dược mẹ chuyền cho giòng sữa chan chứa yêu thương. Các cụ đã nói là khi dang cho con bú thì không được cho ai sữa của mình kẻo trẻ sẽ chê sữa mẹ. Tôi cũng tin như thế nhưng biết làm sao hơn khi thấy chồng tôi cũng đang cần sức sống.

Muốn có thuốc men và đồ ăn cho chồng thì phải lo tiền nhiều hơn. Bán ngoài đường bị đuổi , tôi soay ra làm bánh croissant ở nhà . Tối nào tôi cũng nhờ mấy cậu hàng xóm sang nhào bột hộ, xong bắt bánh rồi chờ bột nở cho vào lò. Lúc đầu tôi tự làm, tự bán nhưng sau tôi để bà con lối xóm lấy bánh đi bán các nơi, bán nhiều thì lời nhiều. Nếu không bán hết thì tôi lấy lại để nướng khô bán cho các chị đi thăm nuôi. Vậy mà cũng chẳng được bao lâu thì hết vốn vì bánh thì vẫn phải làm mà tiền thì không thu về được vì ai cũng nghèo nên dù bánh bán hết cũng không đủ tiền mua gạo nên lại khất tôi lần sau, rồi lần sau nữa … .Dù sao tôi vẫn phải cố xoay sở cho có đủ tiền đi thăm nuôi chồng.

Tới năm 1977, chồng tôi bị “biên chế” chuyển từ Kà Tum qua Trại An Dưỡng Biên Hòa . Lúc đó chúng tôi mới được đi thăm chính thức. Cán bộ trong trại đã gửi giấy về nhà, cho phép thân nhân đi thăm sau gần hai năm biệt tăm tin tức. Có được đặc ân này là do những xôn xao, bất mãn của gia đình tù nhân cải tạo. Sau lần thăm đó, anh bị đưa ra Bắc lúc nào tôi không hay .

Thời gian này là khủng khiếp nhất vì họ đổi anh đi lung tung, nào Lào Cai, nào Yên Bái, nào Lạng Sơn ! Vừa được tin ở nơi này thì đã bị chuyển đi nơi khác, không có cách nào thăm nuôi được . Tôi phải mua chui những tấm phiếu để được phép gửi quà, mỗi gói chỉ có 3 kg thôi, địa chỉ phải viết theo ám số. Tôi phải làm thịt kho với cả chai nước mắm, hy vọng mặn thì để được lâu vì không biết bao giờ gói quà mới tới tay người nhận. Trông thấy tôi kho thịt, các con tôi nói: “Bố sướng quá, có nhiều đồ ăn ngon hơn tụi mình!” Còn gì đau khổ và xót xa hơn cho tôi khi nghe thấy câu so sánh thơ ngây này!!

Cuối cùng tôi cũng tìm ra được họ chuyển anh về Vinh-Nghệ Tĩnh. Tôi và chị anh vội ra thăm. Vì không có giấy phép nên chúng tôi phải đi tàu với giá chợ đen, nghĩa là đi từng chặng một và giá vé gấp đôi . Tới nơi tôi sẽ vào báo công an là tôi bị mất cắp nên mất luôn cả giấy phép thăm nuôi và xin họ chứng nhận cho. Phải có giấy đó tôi mới được phép vào trại thăm chồng tôi. Tôi đã phải nói dối mới thoát qua ải lính gác.

Vừa xuống tàu là tôi đã hoảng sợ vì dân địa phương đứng chỉ chỏ bọn tôi: “Vợ ngụy kìa!” Cũng may họ không ném đá chúng tôi như đã ném đá các anh khi phải chuyển ra Bắc. Chúng tôi tới nơi là chiều thứ Bảy, họ không kiếm được chồng tôi. Qua ngày Chủ Nhật tôi vẫn còn hy vọng gặp mặt vì họ nói anh đi xa làm việc, đã cho gọi rồi, thứ hai sẽ gặp. Đêm Chủ Nhật, tôi nằm mê thấy anh về báo cho tôi biết là anh đã chết!? Anh linh thiêng như vậy chăng? Tôi tỉnh dậy khóc quá trời làm thức giấc mọi người. Các chị đi thăm nuôi an ủi tôi “ Sinh dữ tử lành, yên chí đi, mai được gặp”. Tôi không thể nào tả được hết nỗi buồn lo, bối rối của tôi đêm đó và thức luôn đến sáng, không thể nào ngủ lại được. Mờ mờ sáng tôi đã dậy . Mọi người lo nấu cơm vì nghe nói ở đó không bao giờ tù nhân có cơm ăn. Trời sáng hẳn. Dưới lớp sương mù của núi, từ trên nhìn xuống, tôi thấy từng toán người đi ra lao động. Tôi như người mộng du, như có ai đẩy tới, tôi từ từ đi xuống chân núi, nơi cấm các thân nhân tù cải tạo tới gần. Toán 1 đi qua, rồi toán 2, rồi toán 3, tôi nghe thấy tiếng gọi “Chị chung, chị Minh” và tiếp theo tiếng ai la to: “anh Chung chết rồi!” Tôi ngã xuống và không còn biết gì nữa .

Khi tỉnh lại, tôi thấy tay chân bị trói vao trõng tre, y sĩ đang chích thêm hai mũi thuốc

khoẻ. Tôi nghe kể là tôi đã ngất đi và họ khiêng tôi lên núi cả tiếng đồng hồ qua rồi. Họ phải trói tôi lại vì sợ tôi vật vã làm gẫy kim chích. Tôi nói tôi không sao, cởi trói ra cho tôi . Sau cơn choáng quá đau tôi lại trở thành bình tĩnh quá làm họ cũng phát hoảng luôn. Tôi yêu cầu gì thì họ cũng cho phép hết. Tôi xin được gặp bạn bè thân của chồng tôi, trao lại cho các anh hơn 120 kí lô quà tôi mang đến. Ai cần gì thì lấy rồi viết thư về nhà nhắn vợ con đem tiền trả tôi. Cuối cùng cán bộ mang đến cho tôi một cái túi xách tay, trong chả có gì ngoài bộ bà ba cũ mèm của chồng tôi. Họ cho tôi một chén cơm hẩm, hôi mùi gạo mốc, trên có quả trứng luộc dể mang ra mộ. Trẻ em theo sau để nhìn bát cơm, trầm trồ: “ cơm kìa! cơm kìa!” tôi di như một thây ma sống, mắt mở to mà nào có nhìn thấy gì, tai cũng chẳng nghe thấy gì, bước thấp bước cao theo hai người dìu tôi đi, tim như đau buốt, nước mắt chảy không ngừng. Khi ra tới mộ tôi lại ngất đi một lần nữa. Giá mà khi ấy tôi dược đi luôn theo chồng tôi thì hay biết mấy!

Tôi trở về nhà với một thân xác rã rời, một đầu óc rỗng không, biếng ăn, mất ngủ, chả nói năng gì, mắt mở to mà chả nhìn thấy gì. Tôi đã phải ra, vào nhà thương Chợ Quán mấy lần . Rất may cho tôi và các con tôi là lúc đó tôi có một cô em và một người bạn lo lắng và chăm sóc mẹ con tôi tận tình.

Vài tháng sau, tôi nhận được 2 thùng quà trả lại với hang chữ “Người nhận đã chết. Trại yêu cầu hoàn.” Ra bưu điện lĩnh 2 gói quà xong, vừa ra đến cửa tôi lại ngất đi . Rất may có anh bạn hàng xóm đạp xe xích lô đang chờ để chở tôi về nhà. Tới bữa ăn, nhìn bốn đứa con ngồi ăn ngon lành với tóp mỡ ngào đường và nước mắm, quà của bố trả lại, nước mắt tôi lại chảy như mưa . Rồi tới gần cả năm sau, phường trưởng mới cử đại diện đến chia buồn và đưa cho tôi biên bản “phạm nhân chết”. Nhờ mảnh giấy này mà mẹ con tôi mới được đi Mỹ theo diện HO. (Tôi vẫn còn giữ mảnh giấy này, xin gửi kèm theo đây để mọi người biết “tội ác” của chồng tôi!) Can tội: Giảng viên tâm lý chiến xã hội học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà lạt. Án phạt tù: 3 năm; nhưng khi chết đã 3 năm 7 tháng. Nếu họ đúng lời chắc chồng tôi không thể chết.

Thế là xong là tuyệt vọng cả đời. Lúc đó tôi sống cũng như chết rồi, nhưng vì bốn đứa con nhỏ, chúng đâu có tội tình gì. Bên nội bên ngoại ai cũng muốn nuôi dùm 1, 2 đứa nhưng tôi không thể nào chịu được nếu để 1 đứa con xa tôi . Tình thương con đã thắng cái “điên” của tôi để lo lắng cho chúng nhưng với phường khóm thì tôi thật là một “mụ điên dữ dằn”. Tôi không chịu đi họp tổ họp phường gì cả . Công an khu vực tới tận nhà bắt đi họp. Tôi nói: “Người mà các anh thấy có tội là chồng tôi thi anh đã chết rồi, tôi và 4 con nhỏ không còn gì phải họp với hành nữa”.

Lúc trước mình ngu nên cứ tin là phải họp hành cho tốt thì họ xét cho chồng về sớm. Nay tôi không còn gì để sợ nữa thì họ lại để tôi được yên thân.

Tôi bắt đâu tính chuyện vượt biên, mấy mẹ con dắt díu nhau đi tìm đất hứa không biết bao nhiêu lần. Hết đi từ Nhà Bè, Vũng Tàu, Mỹ Tho đến Rạch Giá, Sóc Trăng nhưng đều không thoát, ở tù cũng mấy lần. Xuống ghe ra biển lại thấy hối hận vì thương con, chưa thấy thoát mà chỉ thấy chết tới nơi. Bị bắt tù đày thì lại càng hối hận hơn vì các con không có thức ăn, nước uống chỉ có một ca nhỏ. Trong trại chỉ có 1 cái ao tù, ăn cũng đó mà tắm giặt cùng nơi. Bẩn thỉu không thể tả cho nên trẻ con không bị đau bụng ỉa chảy thì cũng ghẻ lỡ ghê hồn. Tôi sợ quá đến không dám nghĩ đến đi nữa . Phải cậy nhờ xin đi dạy lại dù biết là nhà giáo chỉ húp cháo thôi. Nhưng dù sao đi nữa cũng còn có chỗ để mua “nhu yếu phẩm” và được “thầu” để bán quà cho học trò trong trường.

Thời gian này tạm ổn định, lo cho các con tới trường cũng phải chạy chọt vì “nhất thân, nhì thế” của xã hội lúc bấy giờ. Phận mình thì xong rồi, bạn bè tôi còn rất nhiều có chồng dang tù tội. Thỉnh thoảng chúng tôi họp nhau để “lá rách nát đùm lá tả tơi” đứa nào có thứ gì cho tù ăn được thì mang tới gom lại để chia cho những bạn sắp đi thăm. Trong cái tình đó tôi lại thấy được nhiều sự đau khổ mà người vợ tù phải chịu đựng nhục nhằn mà không ai có thể chia xẻ với họ. Chẳng hạn như một chuyện rất thật của một người bạn thân của tôi, chúng tôi đã chia sẻ từng bó rau muống từng chén nước mắm “muối + nước màu” cho các con ăn. Từng viên đường thẻ để mang vào tù cho chồng. Chỗ chồng bạn tôi ở lại có “nhà hạnh phúc” và các anh tù phải làm việc thật tốt thì cán bộ mới cho phép gặp vợ tại đó. Lẽ dĩ nhiên chồng bạn tôi làm khổ sai cật lực để được ân huệ đó . Chị cũng là một cô giáo, sống rất đạo dức và thành tín, thương chồng vô cùng, nhưng khi vào thăm đã thấy “nhà hạnh phúc” có mấy cái trõng tre và mấy anh cán bộ ngồi canh. Chị đã không thể “cho anh” và điều này đã khiến anh nổi giận nghĩ là chị đã có “ai khác” ngoài đời. Chị đã bị anh chửi bới tơi bời còn gì thê thảm hơn nữa không? Thời gian đã qua tôi hy vọng anh đã thông cảm với chị về cái “không thể cho anh” đó. Mặc dù giờ thì anh chị cũng đã xa nhau, thật là một điều rất đáng tiếc.

Lại thêm một cô bạn láng giềng, may mắn có ông chồng được thả về sau bảy năm tù tội. Những tháng ngày trong lao tù khiến con người cũng thay đổi nhiều lắm. Dễ nóng giận và mặc cảm đầy mình. Một hôm cô bạn tôi được nhà nước cho mua một khúc vải may quần với giá rẻ dành cho các công nhân viên nhà nước. Cô mang về khoe nói là bán đi sẽ lời được sáu ngàn đồng. Ông chồng lại muốn may để mặc vì ông ta thấy cũng cần phải có một cái quần mới . Bạn tôi ngần ngại nửa muốn cho chồng may, nửa muốn bán đi để thêm tý tiền lo cho gia đình nên nói với chồng: “Khúc vải này sáu ngàn lận đó anh.” Chưa nói dứt lời là bạn tôi bị một cái tát tai choáng váng mặt mày, sự việc xảy ra quá sức tưởng tượng của mọi người. Anh chồng rất hối hận về hành động vũ phu của mình; tuy nhiên anh vẫn đổ lỗi cho bạn tôi cái tội “coi cái quần hơn chồng”. Đó lại là một trong muôn ngàn cảnh ngộ trớ trêu cuả vợ tù cải tạo.

Thắm thoát dã qua 7 năm lúc này cuộc sống mấy mẹ con tôi đã dễ thở vì chị em bạn bè ở ngoại quốc đã bắt đầu gửi tiền về cứu trợ. Tôi được mẹ chồng cho theo đi để bốc mộ Anh. Tâm trạng tôi thật rối bời và lo sợ liệu bốc lên có phải là Anh không hay lại là mồ của ai khác?!! Trên đường đi cũng không kém gian nan cực khổ như khi đi thăm nuôi tại Kà Tum. Tôi phải gửi mẹ tôi tại Nghệ Tĩnh để cùng với người cháu đi vào K3 chỗ họ chôn xác Anh. Đường thì xa, đất sét trơn trượt tôi nghĩ đành phải bỏ cuộc vì hai bàn chân đã sưng rát. Tôi ngồi xuống bên đường vừa khóc vừa van vái “anh có linh thiêng xin phù hộ cho em tới nơi để mang anh về gần em và các con”. Đang gục đầu khấn nguyện thì nghe tiếng xe lọc cọc do một con trâu kéo, trên là các cán bộ đi công tác về. Họ tra hỏi và tôi “thành khẩn khai báo” nên họ cho tôi lên xe quá giang tới tận nơi. Tôi nhờ người cháu trở lại để đón Mẹ tôi trở vào trại ngày hôm sau để bốc mộ. Tôi không thể nào quên cái cảm giác hãi hùng khi được anh cán bộ đưa lên núi, chỗ đó là chồ để các thân nhân tù lên ở tạm qua đêm vì không có xe về ngay . Khổ cho tôi là khi tôi tới nơi thì chỉ có một mình, có sợ cũng chẳng làm sao hơn được tôi đành cầu cứu nơi các đấng thiêng liêng, Chúa Mẹ, Phật Quan Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, cầu chồng tôi che chở bảo vệ tôi . Cứ mở mắt to mà van xin cầu nguyện đâu có dám nhắm mắt mặc dù đã quá mệt mỏi . Rất may trời bắt đầu tờ mờ sáng là mẹ tôi đã đến nơi . Chúng tôi được cán bộ hướng dẫn đi tìm mộ, may mắn tôi gặp được anh cán bộ người miền Nam rất tốt bụng đã cho phép chúng tôi được gặp những người đã chôn chồng tôi lúc trước. Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi mới biết bốc mộ là gì và nhất là thấu hiểu được câu nói “cát bụi trở về với cát bụi”. Thịt da đã tan vào với cát, chỉ còn bộ xương trắng mà các bạn anh đã từ từ cầm lên từng cái đầu, xương vai, xương cổ ống tay ống chân, và ngay cả những đốt xương nhỏ họ cũng mò tìm cho đủ . Một sợi dây làm bằng giây thép nhỏ, cái mặt làm bằng kính máy bay có hình dáng 2 người đứng bên nhau đã được anh bạn lấy lên trao cho tôi và nói chính chồng tôi đã làm để tặng cho tôi khi nào tôi lên thăm gặp mặt. Anh đã phải cất giấu bao ngày vì nếu cán bộ thấy là bị tịch thu ngay. Rất may là có mẹ tôi và người cháu lo lắng lấy rượu rửa xương rồi quấn vào vải bỏ vão trong một cái bị to để chúng tôi mang về . Còn tôi ngồi chết cứng với nước mắt rơi sầu tủi. Xót thương anh.
Trên đường về mới gặp toán người thăm nuôi. Gặp cô bạn cũng đi với mẹ già, đang chuyển quà từng khúc một, tôi chạy lại đỡ một tay. Khi tôi dắt bà cụ qua một người tù đang cuốc đất dưới ruộng, ngẩn nhìn và khẻ gọi mẹ. Tôi quay lại giúp cô bạn còn vài giỏ đồ ăn, chúng tôi vừa đi ngang thì lại nghe anh ta gọi “em Liễu”. Cô bạn tôi nghe tên ngoảnh mặt lại nhìn và lại bỏ đi luôn. Đem đồ lên đặt cùng chỗ với bà cụ chúng tôi lại quay lại trở lại để đem nốt chỗ còn lại, tôi bảo cô bạn, có lẽ anh tù kia quen Liễu đấy . Ta thấy anh gọi Mẹ lại kêu tên Liễu đó. Chạm mặt nhau rồi mà Liễu vẫn không nhận ra . Tới khi anh ta quên cả sợ cán bộ chồm lên đường kêu Liễu. Anh dây, Tuấn đây mà . Lúc đó bà cụ cũng đã trở lại và nhận ra con, cụ khóc òa ôm lấy anh tù, còn Liễu cũng khóc nhưng la “không phải anh mà” không phải anh đâu . Người chồng yêu quý vì tháng năm đói khổ phải ăn khoai mì nên mặt anh ta biến dạng vì quai hàm bạnh ra và nhựa độc của khoai mì làm cho tất cả tù nhân đều có cái mặt vuông gần giống nhau cả . Tôi cũng không cầm được nước mắt lại nghĩ rằng chắc chồng tôi còn sống thì mặt mũi cũng chỉ như vậy mà thôi.

Từ trại về chỉ có độc nhất một chiếc xe đò, mọi người ngồi chật cứng trong xe, còn có nhiều người phải đứng bám vào cửa xe rất là nguy hiểm. Mẹ con tôi về đến ga Vinh là trời đã tối, lại ôm cồng kềnh một cái bị hài cốt của chồng tôi. Ngồi sân ga đợi tàu rất là nguy hiểm vì mẹ con tôi nhơ ngác với xứ lạ quê người . Mẹ tôi phải lấy giây buộc cái bị và cuốn quanh người . Chỉ sợ lỡ mất đi thì khổ lắm. Tôi hồi hộp sợ hãi còn hơn khi đi vượt biên nữa. Tôi đánh liều vào nhà nghỉ mát của nhân viên xe lửa. Sau một lúc nói chuyện gây cảm tình và nhờ có “thủ tục đầu tiên” ( xin trả tiền trước) nên mẹ con tôi được vào tạm trú qua đêm yên lành. Sáng hôm sau cũng nhờ có ông quản lý nhà nghỉ đó mà chúng tôi được lên tàu ở trong toa xe của các nhân viên đi nghỉ mát. Tôi phải tin tưởng là chúng tôi đã có ơn trên che chở nên đã mang thoát được bộ xương của chồng tôi về đến nơi đến chốn. Vì nếu không được ở trong xe đó chắc chắn chúng tôi không thể thoát khỏi xự khám xét trên tàu mà nếu họ phát giác ra là có xương người là lập tức đuổi chúng tôi xuống giữa rừng hoặc quăng xuơng đi . Giờ đây lâu lâu tôi lại có cơn ác mộng gặp lại cái cảnh mà công an đi sục sạo trên tàu, bắt mở tất cả mọi thứ để khám xét là tôi hét lên bật giậy mồ hôi ướt đẫm người. Sau đó lại nằm xuống với nước mắt trào ra không thể ngăn nổi vì nhớ thương anh và tủi phận mình đơn độc.

Hiện tại thì chồng tôi đã được yên nghỉ tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo ở Bình Dương. Nhưng cũng không biết được bao lâu nữa vì họ còn tính dẹp cả nghĩa trang mặc dù đó là đất tư mà gia đình tôi đã phải mua bằng những cây vàng lúc họ dẹp nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ngay trong thành phố Saigon .

Bốn mẹ con tôi xuống phi trường Dulles vào một buổi tối mưa tầm tả của tháng 6 năm 1994. Được gia đình cô em ra đón, tôi mừng quá nhưng vẫn chưa hết lo sợ, không biết đây là thật hay mơ. Nỗi ám ảnh bị bốc đi vùng kinh tế mới và sự không nói có, có nói không của nhà nước công sản đã khiến tôi mất hết niềm tin. Tôi chỉ còn biết cầu Đức Mẹ ban cho tôi một phép lạ.

Chúng tôi cố gắng học hỏi để hoà nhập vào cuộc sống mới ở Mỹ. Nay các con tôi đã lớn, đã thành đạt và rất hiếu thảo. Chúng hết lòng lo lắng, chăm sóc tôi. Tôi thật mãn nguyện, nhưng tôi biết tôi không thể ôm giữ chúng mãi được. Chúng phải có cuộc sống riêng, hạnh phúc riêng. Dù biết vậy, nhưng mỗi khi chúng vắng nhà, còn lại một mình tôi, tôi lại thấy sợ hãi. Những năm tháng khổ cực, hãi hùng của thời dĩ vãng lại kéo đến ám ảnh tôi. Hình ảnh chồng tôi lúc oai hùng, mạnh mẽ trong bộ quân phục, lúc rách nát, tả tơi, thoi thóp trên trõng tre lại chập chờn quanh tôi. Tôi đã thì thầm với anh: “ Đợi em đi cùng!” Vâng, tôi ước mong được sớm ra đi bình yên dể được xum họp với chồng tôi. Chúng tôi chỉ mới được hưởng hạnh phúc gia dình có 4 năm 5 tháng. Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!

Trần Thị Thanh Minh
( Bai do PHUNG-TRAN chuyen )
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #10 - 19. Jun 2010 , 00:16
 

Đèn Khuya Hiu Hắt_

Huy Phương        

Tôi thật tình không muốn chọn những đề tài kiểu “năm Dần nói chuyện Cọp” nhưng hình như mỗi mốc thời gian thường để lại trong lòng chúng ta những cảm xúc, có khi thoáng qua, nhưng cũng có khi dai dẳng. Ngày Memorial giờ đây thực đã qua rồi, những nén nhang trên những nấm mồ đã tắt, còn lại những chân hương lạnh lẽo, những bó hoa thắm sắc trong nghĩa trang đã héo tàn dưới cơn nắng và gió của Santa Ana. Mọi người đã trở lại với đời sống hằng ngày, chạy theo những bánh xe quay, và hình ảnh những người chết không còn để lại gì trong ý nghĩ của chúng ta, lẽ cố nhiên chúng ta không thể đắm mình trong tưởng nhớ mà bỏ quên đời sống thực tại hiện hữu mỗi ngày.

Bản tin mới nhất, loan báo trong tuần qua, người lính Mỹ thứ 1,000 đã nằm xuống trong trận chiến tại Afghanistan. Ôi, con số 1,000! Một nghìn đồng bạc, không nhỏ tuy nhiên không là một số tiền lớn. Một nghìn đoá hoa, đã nhiều, nhưng chưa đủ để kết một cái xe hoa trong ngày Rose Parade. Một nghìn người trong một cuộc biểu tình, di chuyển, đi lại, đã là đông. Chúng ta chưa tưởng tượng ra được một nghìn người chết vì bom đạn, “chết thật tình cờ, thịt da nát tan”. Họ nằm xuống ở xa, khi lìa đời không nắm được bàn tay người thân. Một nghìn cái quan tài bọc kẽm được đưa về quê hương trên những chuyến bay dài qua những đại dương. Một nghìn ngôi mộ “đều như nấm” có cắm cây thánh giá trong nghĩa trang quốc gia Arlington. Một nghìn gia đình buồn khổ vấn khăn tang.

Thế mà trong cuộc chiến Việt Nam, nước Mỹ đã mất 58,000 người. Trong số người tử trận có đến 61% là những thanh niên dưới 21 tuổi, người trẻ nhất chỉ mới 17. Cũng trong ngày 6 tháng 6 cách đây 66 năm, trong cuộc đổ bộ tại bờ biển Normadie, nước Mỹ đã mất 2499 quân nhân mà xương cốt của họ đã nằm lại trong lòng đất nước Pháp, nhiều người không còn tên tuổi, họ chết như những người lính vô danh, không có đến một cái tên khắc trên bia mộ. Tuổi của họ cũng còn rất trẻ. Người ta ghi nhận ngay phút đầu tiên đổ bộ lên bờ biển Omaha Beach, 19 thanh niên của một thành phố nhỏ của tiểu bang Virginia là Bedford đã ngã xuống vì hỏa lực và mìn bẫy của địch. Những người này còn quá trẻ để người ta gọi họ là “boys” trong tác phẩm “The Bedford Boys” của Alex Kershaw. Những người lính này là những chàng trai trẻ, vừa rời khỏi ghế nhà trường, chưa hề hưởng được chút thú vui của cuộc đời đã hiến tuổi xuân xanh theo tiếng gọi của tổ quốc.

Để bảo vệ miền Nam, 220,357 người lính VNCH đã tử trận mà không phải ai cũng được trở về “trên chiếc băng ca” hay “trên chiếc trực thăng sơn màu tang trắng”. Máu họ đã thấm vào lòng đất trên những địa danh vẫn nghe trong những bài hát chinh chiến xót xa của một thời. Cũng có những người lính lấy con tàu và đại dương ôm ấp hình hài như 58 chiến sĩ hải quân đã chết cho vùng biển máu thịt của quê hương.

Để quyết xâm chiếm miền Nam 1,176,000 người lính Bắc quân Cộng Sản “sinh Bắc tử Nam” đã không còn cơ hội sống còn. Một vài trăm cái nghĩa trang sơn xanh quét đỏ trên khắp đất nước, từ tỉnh lỵ đến xã ấp xa xôi không đủ chỗ cho con số hơn triệu xương cốt, hầu hết đã tan nát theo cỏ cây trên núi rừng, lạch suối trên cả hai miền Nam Bắc cho tham vọng chủ nghĩa của một số người.
Người chết thường bị chóng lãng quên. Người chết là lá vàng ủ mục cho những hạt nẩy mầm nhú lên mặt đất, làm phân bón cho những cây con chóng lớn lên. Đã nhiều người lính chết cho chiến công của một người. Đã nhiều người lính chết cho những người sau lưng họ được sống. Đã nhiều người lính chết chỉ là phương tiện cho cứu cánh của một thiểu số cầm quyền. Chỉ với một cái gật đầu trên bàn hội nghị, một nét bút chì trên bản đồ hành quân, bao nhiêu xương máu phải đổ ra ngoài trận địa.

Thế giới đã trải qua nhiều thế kỷ dài và triệu triệu người lính đã chết, họ chết trong hy vọng tạo nên một tương lai tốt đẹp hơn, hòa bình, hạnh phúc hơn nhưng cuối cùng thế giới lại đắm mình trong những cơn xâu xé tàn nhẫn, với bom đạn tối tân hơn, kỹ thuật giết người tinh vi hơn và với những lý do nghe qua có nhiều sức thuyết phục hơn. Chiến tranh máu lửa chưa hề có một ngày ngơi nghỉ, lụi tàn trên trái đất này và cái chết của những người lính chỉ là những con số vô hồn, ở nơi này hay ở nơi khác, trên một góc nhỏ khiêm nhường của một tờ nhật báo hay trên môi người xướng ngôn viên xinh đẹp của màn ảnh nhỏ vào tối hôm nay, trong lúc gia đình đang quây quần với nhau trong bữa cơm chiều.
Chúng ta có thể nào hiểu nổi tâm trạng của những gia đình có chồng, có cha, có con đang đi “vào nơi gió cát”. Những bản tin làm nhói nỗi đau, gây muộn phiền và lo sợ cho những người thân của mình, đêm nay không biết ở đâu trên những vùng đất xa lạ, ngút lửa tranh chấp, hận thù. Trong thời đại với kỹ thuật thông tin ngày nay, tin xấu về còn nhanh hơn những tia chớp ngoài kia, nhưng đã có một thời, người mẹ Việt Nam, nuôi đứa con lớn lên trong nghèo khó, nhọc nhằn, đã gởi đứa con đi theo tiếng gọi, nhân danh cho những điều cao đẹp trên đời, để cuối cùng thay vì nhận lại đứa con rắn rỏi, tự tin, trưởng thành, tươi cười rạng rỡ bên mẹ sau những ngày xa cách, là những tờ “biên lai” ghi công vô hồn.

Trên mặt địa cầu này đã có bao nhiêu tượng đài ghi công, bao nhiêu vòng hoa tưởng niệm, bao nhiêu bài diễn văn vinh danh, ca ngợi nhưng không có gì bền bỉ, trung kiên bằng tấm lòng người mẹ nghĩ đến đứa con mất. Tôi biết chuyện một người mẹ, từ ngày đứa con ra đi chiến trường và không bao giờ trở lại, mỗi đêm đi ngủ bà vẫn để lại ngọn đèn chong. Trong ý nghĩ của người mẹ, đứa con về trong đêm sẽ biết hướng trở lại nhà. Sẽ không bao giờ có tiếng đập cửa và tiếng kêu: “Mẹ ơi, con về đây!” nhưng ngọn đèn khuya mỗi đêm vẫn còn đó.

Trên những xóm làng mà bạn đã đi qua, bạn đã có dịp nhìn thấy những ngọn đèn khuya hiu hắt trong đêm, bạn đã thấy những đốm lửa thấp thoáng bên kia sông như những nỗi buồn xa. Hãy hình dung đó là những ngọn đèn của những người mẹ thắp lên mỗi đêm để chờ đứa con về, những đứa con chết ngoài chiến trường trong lúc còn rất trẻ.

( Bài do VHP chuyển )

Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
NgocDoa
Gold Member
*****
Offline


I Love Me Now!

Posts: 1704
U S A
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #11 - 19. Jun 2010 , 19:35
 
Con Ruồi

     

Con ruồi nhỏ, nhỏ xíu. Vậy mà cái nhỏ xíu đó đôi khi lại là nguyên nhân của những việc tày đình.

Rất có thể hai vợ chồng đâm đơn ra tòa ly dị nhau chỉ bởi một con ruồi. Ai mà lường trước được những việc thần kỳ đó!

Tôi ốm. Điều đó vẫn thỉnh thoảng xảy ra cho những người khỏe mạnh. Và vợ tôi pha cho tôi một ly sữa. Tôi nốc một hơi cạn đến nửa ly và phát hiện ra trong ly có một con ruồi. Con ruồi đen bập bềnh trong ly sữa trắng, "đẹp" kinh khủng!
Thế là mọi chuyện bắt đầu.
Tôi vốn rất kỵ ruồi, cũng như gián, chuột, nói chung là kỵ tất thảy các thứ dơ bẩn đó. Tối đang nằm mà nghe tiếng chuột bò sột soạt trong bếp là tôi không tài nào nhắm mắt được. Thế nào tôi cũng vùng dậy lùng sục, đuổi đánh cho kỳ được. Bằng không thì cứ gọi là thức trắng đêm.
Vậy mà bây giờ, một trong những thứ tôi sợ nhất lại nhảy tót vào ly sữa tôi đang uống, và đã uống, nói trắng ra là nhảy tót vào mồm tôi. Biết đâu ngoài con ruồi chết tiệt trong ly kia, tôi lại chẳng đã nuốt một con khác vào bụng. Mới nghĩ đến đó, tôi đã phát nôn.
Thấy tôi khạc nhổ luôn mồm, vợ tôi bước lại, lo lắng hỏi:
- Sao vậy anh?
Tôi hất đầu về phía ly sữa đặt trên bàn:
- Có người chết trôi kia kìa!
Vợ tôi cầm ly sữa lên:
- Chết rồi! Ở đâu vậy cà?
- Còn ở đâu ra nữa! - Tôi nhấm nhẳng - Chứ không phải em nhặt con ruồi bỏ vào ly cho anh à!
Vợ tôi nhăn mặt:
- Anh đừng có nói oan cho em! Chắc là nó mới sa vào!
- Hừ, mới sa hay sa từ hồi nào, có trời mà biết!
Vì tôi đang ốm nên vợ tôi không muốn cãi cọ, cô ta nhận lỗi:
- Chắc là do em bất cẩn. Thôi để em pha cho anh ly khác.
Tôi vẫn chưa nguôi giận:
- Em có pha ly khác thì anh cũng đã nuốt con ruồi vào bụng rồi!
Vợ tôi trố mắt:
- Nó còn trong ly kia mà!
- Nhưng mà có tới hai con lận. Anh uống một con rồi.
- Anh thấy sao anh còn uống?
- Ai mà thấy!
- Không thấy sao anh biết có hai con?
Tôi tặc lưỡi:
- Sao lại không biết? Uống vô khỏi cổ họng, nghe nó cộm cộm là biết liền.
Vợ tôi bán tính bán nghi. Nhưng vì tôi đang ốm, một lần nữa cô ta sẵn sàng nhận khuyết điểm:
- Thôi, lỗi là do em bất cẩn! Để em...
Tôi là tôi chúa ghét cái kiểu nhận lỗi dễ dàng như vậy. Do đó, tôi nóng nảy cắt ngang:
- Hừ, bất cẩn, bất cẩn! Sao mà em cứ bất cẩn cả đời vậy?
Vợ tôi giật mình:
- Anh bảo sao? Em làm gì mà anh gọi là bất cẩn cả đời?
- Chứ không phải sao?
- Không phải!
À, lại còn bướng bỉnh! Tôi nheo mắt:
- Chứ hôm trước ai ủi cháy cái quần của anh?
- Thì có làm phải có sai sót chứ? Anh giỏi sao anh chẳng ủi lấy mà cứ đùn cho em!
- Ái chà chà, cô nói với chồng cô bằng cái giọng như thế hả? Cô nói với người ốm như thế hả? Cô bảo tôi lười chảy thây chứ gì? Cô so sánh tôi với khúc gỗ phải không? Ái chà chà...
Thấy tôi kết tội ghê quá, vợ tôi hoang mang:
- Em đâu có nói vậy!
- Không nói thì cũng như nói! Cô tưởng cô giỏi lắm phỏng? Thế tháng vừa rồi ai làm cháy một lúc hai cái bóng đèn, tháng trước nữa ai phơi quần áo bị đánh cắp mà không hay? Cô trả lời xem!
Vợ tôi nhún vai:
- Anh lôi những chuyện cổ tích ấy ra làm gì? Hừ, anh làm như anh không bất cẩn bao giờ vậy! Anh có muốn tôi kể ra không? Tháng trước ai mở vòi nước quên tắt để cho nước chảy ngập nhà? Anh hay tôi? Rồi trước đó nữa, ai làm mất chìa khóa tủ, phải cạy cửa ra mới lấy được đồ đạc?
Tôi khoát tay:
- Nhưng đó là những chuyện nhỏ nhặt! Còn cô, năm ngoái cô lấy mấy triệu cho bạn bè mượn bị nó gạt mất, sao cô không kể luôn ra?
- Chứ còn anh, sao anh không kể chuyện anh đi coi đá gà bị mất xe? Rồi năm ngoái, ai nhậu xỉn bị giật mất điện thoại?
Cứ như thế, như có ma xui quỉ khiến, hai vợ chồng thi nhau lôi tuột những chuyện đời xửa đời xưa của nhau ra và thay nhau lên án đối phương, không làm sao dừng lại được. Tôi quên phắt là tôi đang ốm. Vợ tôi cũng vậy. Chúng tôi mải mê vận dụng trí nhớ vào việc lùng sục những khuyết điểm tầng tầng lớp lớp của nhau. Và thật lạ lùng, có những chuyện tưởng đã chìm lấp từ lâu dưới bụi thời gian, tưởng không tài nào nhớ nổi, thế mà bây giờ chúng lại hiện về rõ mồn một và chen nhau tuôn ra cửa miệng. Từ việc tôi ngủ quên tắt tv đến việc vợ tôi mua phải cá ươn, từ việc tôi bỏ đi chơi ba ngày liền không về nhà đến việc vợ tôi đi dự sinh nhật bạn đến mười hai giờ khuya v.v..., chúng tôi thẳng tay quậy đục ngầu quá khứ của nhau và vẽ lên trước mặt mình một bức tranh khủng khiếp về đối tượng.
Trời ơi! Thế mà trước nay tôi vẫn sống chung với con người tệ hại đó! Thật không thể tưởng tượng nổi! Tôi cay đắng nhủ thầm và bùng dậy quyết tâm phá vỡ cuộc sống đen tối đó. Tôi đập tay xuống bàn, kết thúc cuộc tranh cãi:
- Thôi, tra khảo hành hạ nhau thế đủ rồi! Tóm lại là tôi hiểu rằng tôi không thể sống chung với cô được nữa! Tôi ngán đến tận cổ rồi!
Vợ tôi lạnh lùng:
- Tùy anh!
Câu đáp cộc lốc của vợ không khác gì dầu đổ vào lửa. Tôi nghiến răng:
- Được rồi! Cô chờ đấy! Tôi làm đơn xin ly hôn ngay bây giờ!
Tôi lập tức ngồi vào bàn và bắt đầu viết đơn. Ngòi bút chạy nhoáng nhoàng trên giấy với tốc độ 100km/giờ.
Viết và ký tên mình xong, tôi đẩy tờ đơn đến trước mặt vợ. Cô ta cầm bút ký rẹt một cái, thậm chí không thèm liếc qua xem tờ đơn viết những gì.
Thế là xong! Tôi tặc lưỡi và thở ra, không hiểu là thở phào hay thở dài. Cuộc đời cứ như xi-nê-ma, nhưng biết làm thế nào được!
Ký tên xong, vợ tôi đứng lên và cầm lấy ly sữa.
- Cô định làm gì đấy?
- Đem đổ đi chứ làm gì!
- Không được! Để ly sữa đấy cho tôi! Tôi phải vớt con ruồi ra, gói lại, đem đến tòa án làm bằng cớ!
Đặt ly sữa xuống bàn, vợ tôi lẳng lặng đi vào phòng ngủ, đóng sập cửa lại. Trong khi đó, tôi hì hục lấy muỗng vớt con ruồi ra.
Tôi ngắm con ruồi nằm bẹp dí trên đầu muỗng và có cảm giác là lạ. Tôi đưa con ruồi lên sát mắt, lấy tay khảy nhẹ và điếng hồn nhận ra đó là một mẩu lá trà.

Nguyễn Nhật Ánh
 
Back to top
 

-“Kẻ nào chấp nhận cái ác mà không phản đối chắc chắn là tiếp tay cho cái ác lộng hành” (He who accepts evil without protesting against it is really cooperating with it)
Given by Martin Luther King
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #12 - 21. Jun 2010 , 23:14
 

TB chào Chị Đóa , anh chồng này đoảng quá chừng , không chịu đeo mắt kiêng để nhìn trà ra ruồi ,đã vậy còn nóng nẩy giận quá hóa cù lần ,phải chi để cô vợ đổ ly sữa là mình ngon lành rồi ,bi giờ thì tha hồ mà ỉ ôi than thở ca bài "xin lỗi em ". Chúc chị Đóa và anh dzui nhiều. Smiley
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #13 - 21. Jun 2010 , 23:17
 


NHỮNG CON CÀO CÀO XANH_


DƯƠNG, THỊNH        


Tác giả, 63 tuổi, là cư dân Westminster, thành phố  Little Saigon. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện một cựu tù nhân chính trị đến Mỹ theo diện HO-8 đi tìm gặp vợ con sau nhiều cuộc đổi đời.  Đứng trong hàng rào kẽm gai của khu thăm nuôi. Bé Mai cố nhướng mắt để tìm người cha than yêu của mình trong số những đoàn người gầy guộc, xanh xao,

vàng vọt đang lếch thếch cất bước trên đường về trại tù. Với ánh nắng trưa hè gay gắt,mọi nguời đi thăm nuôi đều đứng trong mái hiên ngẩng cổ nhìn ra. Riêng bé Mai bất chấp những tia sáng nóng đang rọi trên đôi má ửng đỏ, những giọt mồ hồ đang rịn trên trán. Cô bé cố giơ cao những con cào cào xanh hướng về phía đoàn người đang lần lượt đi qua, hầu mong cha của mình sẽ mau chóng nhận ra. Ông Sinh đã nhận ra con gái , ông giơ cao lon gô vẫy vẫy. Bé Mai sung sướng reo lên :

“Má ơi. Con thấy ba rồi! Con thấy ba rồi !

Đoàn tù vẫn bình thản bước lên đồi. Ông Sinh vừa đi vừa ngoảnh cổ lại đằng sau nhìn con..Khi không còn thấy hình bong cha nữa, bé Mai mới chịu chạy lại bên mẹ thút thít khóc

Thiếu phụ rút khăn tay lau mồ hôi trên trán con, vuốt mái tóc bé an ủi :

“Nín đi con, tí nữa mẹ con mình gặp cha rồi.”

Thời gian thăm nuôi thật ngắn ngủi, chỉ mười năm phút. Ông Sinh chỉ kịp ôm con vào lòng, hôn lên má con. Hỏi han vợ năm ba câu, chẳng nói được gì nhiều, đã gần hết giờ.

Mọi người trong phòng thăm nuôi chỉ biết nhìn nhau khóc và khóc. Đến gìơ. Tên cán-bộ oắt con quơ quơ khẩu súng AK. về phía mọi ngừời:

“ Đã hết giờ, yêu cầu mọi người đứng lên ra về.”

Ông Sinh vôi vàng nắm chặt hai bàn tay vợ và ôm hôn con lần cuối, sách bị gói lương khô cùng mấy con cào cào theo chân mọi người ra cửa.

Ngồi trên chuyến xe lô trở về thành phố, hầu hết là những bà vợ đi thăm nuôi chồng, họ đều mệt mỏi trong cuộc hành trình dài. Phần vì đường xa, phần vì phải thức khuya dậy sớm để nấu thức ăn, giờ đây tất cả đều cố nhắm mắt thiu thiu ngủ dưỡng sức. Riêng bé Mai không tài nào ngủ được, dù rất muốn ngủ và mệt mỏi. Hình dáng của người cha luôn luôn lởn vởn trong trí óc bé, than hình gầy gò, đen đủi cùa ông khác xa với hình dáng trắng trẻo, hồng hào, mập mạp trước kia rất nhiều. Bé là người được cha thương yêu nhất. Đêm nào ông cũng ru bé ngủ, kể truyện cho bé nghe, trước khi rời khỏi phòng ông không quên hôn lên nút ruồi son trên cổ bé, mà ông thgường gọi đùa là : Nốt ruồi mang đến nhiều sự may mắn.”

Ông có đôi bàn tay rất khéo léo và nghệ thuật. Chính ông đã dậy cho bé xếp hình những con thú, đồ vật bằng giấy nhất là thắt hình những con cào cào bằng lá dừa non thật là tuyệt, trông chúng đẹp, hung dũng, oai phong biết bao! Bé rất thích và thường thắt để tặng bạn bè, vì thế chúng thường chọc và gọi bé lá con cào cào xanh.Biệt hiệu này bé rất thích và thường hay kể lại với cha. Ông nói con cào cào xanh với đôi chân cứng cáp, nhẩy xa, biểu hiện cho sự tương lai vững chắc. Cha muốn con gái của cha sau này cũng giống như những con cào cào này.

Riêng ông Sinh, ông không thể không cầm được nước mắt khi nhìn giỏ quà của vợ con. Sau gần hai năm tù cải tạo, đây là lần đầu tiên ông được thăm nuôi. Giỏ qùa dù ít nhưng nó đã gói ghém biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, tình thương của gia đình, dù ít nhưng ông rất ấm lòng. Nhất là mấy con cào cào xanh, nhìn chúng ông cảm thấy vui vui và xao xuyến trong lòng. Cô bé không biết đã bỏ biết bao nhiêu công sức, tình thương yêu gói trọn vào đó để dành cho cha. Nghĩ tới đó tim ông như thắt lại

Đây là lần đầu và cũng là lần cuối ông gặp mặt vợ con. Kể từ ngày thăm nuôi cho tới mấy năm sau này, ông không hề nhận được bất cứ tin tức gì về gia đình. Lòng ông như rối bời, tâm tính như mất trí, thân xác kiệt quệ. Mấy lần ông đã ngã qụy, tưởng không thể sống nổi, may nhờ bạn bè an ủi, giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần , ông đã qua khỏi.

Cuộc sống tù đầy cứ như thế: Chịu đựng, đau khổ, đói khát. Cho tới cuối năm 1981 ông được thả về.

Ra khỏi tù , ông không còn nơi nương tựa. Theo chòm xóm cho biết : Vợ con ông đã vượt biên năm 1976. Gia đình bên vợ thì đã bán nhà dọn đi nơi khác, không biết biệt tích nơi đâu. Còn bên ông thì không có ai cả, vì ông vô Nam chỉ có một mình khi ông mới mười hai tuổi. Thế là hết ! không biết đâu mà mò.

Điều làm ông lo âu nhất, là vợ con ông có thật sự đi vượt biên không, hay là tin đồn nhảm?! Nếu đúng như vậy, liệu có thoát không? Hay là đã bị…..ông không dám nghĩ tiếp. Nếu thoát, tại sao không gửi thư về để cho ông biết tin Những câu hỏi tại sao ?....tại sao?...làm cho ông điên đầu. Hiện giờ ông mù tịt, và cũng không hiểu vì sao.?!

Ra khỏi nhà tù nhỏ, ông lại vô nhà tù lớn. Cũng lao động thân xác để kiếm miếng ăn, cũng phải học tập, trình diện hàng tháng. Người ông càng ngày càng tiều tụy, nhưng ông phải ráng sống để có ngày gặp lại mặt vợ con

May mắn nhờ một người bạn tù cùng chung một tổ trong trại tù, đưa ông về nhà cho tá túc qua ngày, cùng chỉ ông cách thức vá giầy, dép cũ. Cuộc sống của ông cũng tạm đủ.

Dạo này trời Sài-Gòn hay đổ những cơn mưa bất tử, làm ông Sinh dọn hàng ra, vô muốn bở hơi tai. Hai năm sau này công việc làm ăn của ông đâm khá ra. Giầy dép cũ mới, chôm chỉa gì ông cũng mua tuốt luốt, đem sửa chút ít, dánh bóng lại bán được gía cao.

Một người khách đi đến gian hàng ông. Ngắm nghía lựa một đôi, sỏ vừa chân,, cầm lên hỏi :

“Bác , Đôi này bao nhêu?”

Đang cúi lau giầy, ông vội vàng ngửng đầu lên định trả lời. Nhưng thấy người khách ông bỡ ngỡ, cảm thấy rất quen nên chưa kịp đáp. Người thanh niên thấy mặt ông cũng giật mình lùi lại, trơn mắt như gặp phải ma. Cậu ta định thần nhìn kỹ. Vội hỏi :

“Xin lỗi, xin lỗi. Bác có phải…..phải tên Sinh không?”.

Cũng vừa kịp lúc ông Sinh nhận ra người khách lạ, chẳng ai khác hơn chính là cậu em vợ của mình. Như bắt được vàng. Ông Sinh rối rít dọn hàng không bán nữa.

Hai anh em kiếm một quán cà phê ngồi tâm sự.

Thì ra vợ con ông đi vượt biên thực sự, hiện định cư ở Mỹ. Vợ ông đã có chồng khác và đã có hai con, một trai, một gái. Cha mẹ vợ đã bán nhà ở thành phố, dọn về quê ở. Mấy năm nay ông bà vẫn đều đặn nhân được tiền bạc do con gái chu cấp hàng tháng, và hiện cậu em trai vẫn còn ở với cha mẹ. Không hiểu vì lý do gì, cố ý hay có uẩn khúc gì khác, ông bà lại báo với con gái là ông đã chết trong trại tù.

Ngay ngày hôm sau. Ông Sinh cùng cậu em vợ vội đáp xe đò về thăm gia đình vợ. Chuyến thăm này đã khiến ông Sinh nhận nhiều sự đắng cay tủi nhục. Sự ơ hờ, tiếp đón tẻ nhạt đã làm ông thất vọng. Ông không có địa chỉ cũng như không có tin tức gì về vợ con. Ông chỉ biết đạì khái là : Vợ ông không muốn cho ông biết nơi ở của nàng. Chuyện ông bị chết là do công an tới nhà báo tin.

Nhưng nhờ vào lòng tốt của cậu em vợ, cuối cùng ông cũng có được địa chỉ của vợ con trong tay. Nhưng làm được gì với địa chỉ này ? Đối với vợ, ông có lỗi với nàng chứ không phải nàng có lỗi với ông. Ở vậy chờ chồng nuôi con là việc tốt, nếu không thì đành phải chấp nhận, không thể oán trách. Nhưng với con, ông phải có bổn phận và trách nhiệm. Ông nhớ cô bé vô cùng không kể xiết.

Ông đã viết thơ nhiều lần, nhưng chẳng bao giờ được hồi âm. Lại mu tin, mù tịt. Đầu óc ông rối rắm tơ vò. Con ông ra sao rồi ?!

Sau đó chương trình HO được cứu xét, đưa các sĩ quan tù nhân cải-tạo qua Mỹ. Ông sung sướng bán tín, bán nghi. Nhưng sự thật đã đến. Giờ đây ông đã ngồi trên máy bay đến Mỹ theo diện HO.8. Việc đầu tiên của ông dự định là sau khi lo thủ tục giấy tờ xong, ông sẽ đi tìm vợ con.

Đứng trước cánh cổng sắt của căn nhà sang trọng, trong một thành phố thuộc tiểu bang Illonois. Ông Sinh lưỡng lự không dám bấm chuông, lòng ông hồi hộp, tim đập loạn xạ.. Ông đang tưởng tượng hình dáng vợ mình bây giờ thế nào? Con mình đã lớn khôn ra sao? Cô bé giờ đã hai mươi mốt tuổi rồi còn gì, không biết ông có còn nhận ra không?!

Rồi ông tự hỏi có nên vào hay không ? Gia đình người ta đang hạnh phúc, mình vào có đúng lúc không?! Đang lúc suy nghĩ miên man. Chợt ông thấy một thiếu phụ từ trong nhà đi ra, tay cầm bình tưới cây nhỏ, tưới vào những chậu hoa trước cửa. Ông không thể nhầm được, đó chính là vợ mình dù thời gian có thay đổi. Ông tính rướn người lên gọi nhưng kịp ngừng lại.Một người đàn ông tóc vàng từ bên hông nhà đi tới, đến sau lưng người thiếu phụ ôm choàng lấy nàng, hai người hôn nhau thắm thiết. Ông lặng người tê tái, quay gót bỏ đi.

Về quán trọ, ông viết vội vài chữ gửi cho vợ, hẹn nàng cho ông gặp mặt dù chỉ một vài phút. Ngồi trước mặt vợ, ông nhận thấy nàng rất đẹp, đẹp hơn trước nhiều, nhưng cũng không đấu được nhiều nếp nhăn trên trán khóe mắt, vành môi.

Để phá tan bầu không khí ngỡ ngàng. Ông Sinh khen vợ:

“Em. Trông em đẹp lắm !”.

“Cám ơn anh. Anh qua đây từ bao giờ? Trông anh già và ốm yếu quá ! Anh có cần sự giúp đỡ gì không? Chồng em quen biết rất nhiều.”

Ông Sinh thấy nàng tự nhiên qúa, không có nét xúc cảm nào lộ trên khuôn mặt. Ông cũng bình thản.

“Cám ơn em. Anh, chữ nghĩa tiếng Anh, tiếng u còn kém lắm, vả lại mới qua chưa cần gấp. Anh muốn gặp con, nó dạo này thế nào rồi ?”.

Không trả lời vội. Nàng đẩy ly cà phê sữa tới trước mặt ông:

“Cà phê Starbuck này ở Mỹ có tiếng lắm. Em còn nhớ anh thích uống cà phê nên em kêu. Còn con hả, em cũng muốn mong gặp nó đây. Mấy năm nay nó chẳng hề ghé thăm mẹ. Lâu lâu gọi phôn lấy lệ”.

Ông Sinh nhỏm dậy:

“Em đã làm gì nó? Bây giờ nó ở đâu? Cho anh xin số phôn và địa chỉ của nó!

“Nào em biết. Nó không muốn cho em biết bất cứ điều gì.”

Ông Sinh như chết điếng :

“Em nói thật đó chứ?!”.

“Em không dối gạt anh. Dù chúng ta không còn là vợ chồng. Nhưng đối với con em rất mực thương yêu. Có anh đây em rất mừng, anh sẽ lo cho nó. Nó là đứa con rất có hiếu. Sự việc không hay xẩy ra, hoàn toàn do lỗi tại em. Anh đi tìm con dùm em.Cho anh biết thêm là hiện nay nó đang học nghành y-khoa, sắp ra trường. Anh cứ đi hỏi mấy trường đại học xem sao! Em đã dò hỏi khắp mọi nơi rồi, nhưng vẫn biệt vô âm tín. Anh mới qua chắc cần tiền bạc, em giúp.”

Vừa nói, nàng vừa mở bóp lấy cuốn chi phiếu.

Ông Sinh nghe vợ nói một hồi như lùng bùng lỗ tai. Không cần nghe thêm, ông xô ghế đứng dậy.

Nhờ những người quen biết chỉ dẫn. Ông Sinh đăng tin tìm người trên báo chí cả Mỹ lẫn Việt, cùng phôn tới tất cả các trường đại học xa gần, vẫn không có kết qủa. Ở nước Mỹ to lớn này gồm năm mươi tiểu bang, có biết bao nhiêu trường đại học mà kể, tìm người như tìm kim đáy biển, biết đâu mà mò. Rồi ông lại suy nghĩ vớ vẩn, nhỡ con bé tự tử. Nghĩ tới, nghĩ lui làm ông rối trí thêm. Cuối cùng ông đành buông xuôi cho số phận thời gian.

Để mưu sinh và cũng để tạo cơ hội tìm kiếm, ông ghi danh đi học khóa đào tạo y công, phụ giúp trong các bệnh viện, hầu hy vọng có một ngày nào đó gặp được con mình.

Thời gian cứ thế trôi qua. Ông đã phục vụ rất nhiều bệnh viện trong tiểu bang California này mấy năm rối, cũng thăm hỏi nhiều rồi, sự hy vọng của ông càng ngày càng giảm, hầu như tuyệt vọng.

Niềm vui thú duy nhất của ông hiện thời là mấy con cào cào xanh, mà ông cất rất kỹ từ khi thăm nuôi tới giờ, dù chúng đã khô héo quắt queo. Mỗi khi nhớ con ông lại mang ra ngắm nghía, tâm hồn ông lúc đó hoàn toàn chìm đắm trên khuôn mặt cuả bé Mai.

*

Jennifer Trần là một bác sĩ trẻ, đẹp, làm việc rất siêng năng, cần mẫn, hay giúp đỡ mọi người. Ai cần việc gì, khó khăn gì hay trong nhà cần chuyện gì, cần người thay thế, bác sĩ vui lòng giúp đở, dù đó là ngày nghỉ của mình.Bác sĩ đã có vị hôn phu cùng phục vụ trong cùng một bệnh viện. Hai người tính làm đám cưới lâu rồi, nhưng không hiểu vì sao cứ lần này rồi lại lần khác, không thể thực hiện được. Bạn bè thúc giục, khuyên nhủ, nàng chỉ cười.. Tuy là người vui tính thích bong đùa, nhưng bác sĩ Trần vẫn không dấu được nét buồn của mình. Nét buồn đó càng làm tăng thêm vẻ đẹp dịu hiền, mà ai cũng gọi đùa là “nữ hoàng sầu muộn” Dù còn trẻ, nàng vẫn không thích nơi hội hè đình đám, những chỗ đông người, mà chỉ muốn sống cho riêng mình, nhưng đối với bạn hữu nàng cũng quậy ra trò.

Hôm nay ông Sinh nghỉ không đi làm. Ông rảnh rỗi cùng người bạn gìa đi thăm cháu gái của ông ta bị bệnh nằm trong bệnh viện. Tiện thể ông mang mấy con cào mà ông mới thắt đêm qua, cho cháu gái làm qùa.

Ngày chủ nhật, bệnh viện sao có qúa nhiều ca mổ! Bác sĩ Trần đã thấm mệt, mồ hôi rịn đầy trán. Nàng lấy khăn mui xoa chấm chấm mồ hôi, bây giờ nàng mới thực sự được rảnh tay.

Bác sĩ Trần đi qua dẫy phòng khoa nhi để đến phòng ăn, vì từ sáng đén giờ nàng chưa có cái gì vào bụng. Những tiếng cười khanh khách của một bé gái nào đó vang lên từ phòng khoa nhi. Cảm thấy vui vui nàng ghé lại nhìn thử.Một bé gái, nằm quay mặt vào phía trong, hình như đang giỡn với vật gì đó, làm cho cô bé khoái chí cười nắc nẻ. Tính tò mò thúc đẩy, nàng rón rén lại gần, nhìn vào phía trong.. Bất gíác nàng run người lên , mắt mở trợn trừng. Cô bé dang cho hai con cào cào xanh đá nhau, hai con cào cào được thắt bằng lá dừa xanh , trông thật là đẹp. Nàng run run cầm lên mân mê. Hỏi :

“Ở đâu bé có hai con cào cào này?”.

Như sợ bị la mắng, chơi đồ chơi trong phòng bệnh. Cô bé phân bua :

“Không phải của con mua, mà của ông gìa lúc nẫy cho con”.

Bác sĩ Trần không kềm được xúc động , hỏi dồn:

“Bao lâu rồi ? Ông đi đâu ?”.

Cô bé hốt hoảng :

“Dạ…dạ, con cũng hổng biết. Đã lâu rồi!”

Bác sĩ Trần hốt hoảng bước ra khỏi phòng, dáo dác nhìn quanh. Mặc kệ cho bụng đói, nàng chạy từ phòng nọ qua phòng kia, từ dẫy nọ qua dẫy kia để tìm kiếm. Trước sự lạ lùng đó, mọi nhân viên trong bệnh viện đều vây lại hỏi thăm, Nàng hỏi bâng quơ :

“Có ai thấy ông gìa nào đó trong bệnh viện không?”

Trước câu hỏi ngây ngô đó, mọi người đều không nín được cười, nhưng không ai dám cười trước vẻ nghiêm trọng của bác sĩ Trần.

Trong bệnh viện này, biết bao nhiêu ông gìa, bà cả đi thăm con cháu, người thân. Cảm thấy câu hỏi của mình qúa ngớ ngẩn, nàng cười gượng :

“Thôi. Không có gì, cám ơn các bạn.”

Tuy nói vậy nhưng trong lòng nàng vẫn không yên, tự nghĩ: ”Chỉ có cha mình mới thắt kiểu đó, nhưng ông đã chết rồi mà! Chẳng lẽ vì quá nhớ cha mà đâm ra mê sảng ?.!”

Thôi đi ăn cơm!.

Bác sĩ Trần, chính là bé Mai. Từ khi theo mẹ đi thăm nuôi cha,.trở về nhà, không ngày nào bé không nghĩ đến cha của mình. Ngày vượt biển ra đi, bé nhất định không chịu , đợi ngày cha trở về đi cùng. Vì sự hăm dọa của ông bà ngoại cùng những lời khuyên giải của mẹ, bé đành chịu phép. Sang đến Mỹ bé nhất định phải học giỏi để có tiền gửi cho bà ngọại đi thăm nuôi cha đều đều. Bé sẽ nhẩy cao, sẽ cứng cáp như những con cào cào xanh mà cha đã từng nói.

Cuộc vượt biên êm xuôi. Sau hơn một năm ở trên đảo, bé cùng mẹ được định cư tại Hoa-Kỳ. Dòng đời đưa đẩy, mẹ lấy chồng khác, một anh chàng Mỹ giầu có. Cô bé có thêm hai đứa em gái.

Giờ đây, bé Mai đã mười chín tuổi, cái tuổi bước vô ngưỡng cửa đại học. Càng lớn nàng càng giống cha. Đã nhiều lần nàng biên thư và gửi tiền cho ngoại để hỏi thăm tin tức, cùng sức khỏe của cha trong trại tù, nhưng không ai trả lời. Có hỏi mẹ, chỉ được biết :

“Cha con đã chuyển đi ra ngoài Bắc rồi. Bà ngoại đã già không thể đi được.”

Nói sao nàng tin vậy. Mỗi lần nhớ ông, nàng lại mang hình hai cha con ra ngắm. Tấm hình nàng đã mang theo khi đi vượt biên.

Sống chung đụng trong cùng một mái nhà. Điều làm cho nàng ghê tởm, xấu xa, bỉ ổi nhất là anh chàng Mỹ kia cứ nhởn nhơ mặc quần lót đi trong phòng khách.. Có lần hắn đã dám xàm xở ôm nàng xờ xoạng khi không có mẹ ở nhà. Từ đó nàng đã bỏ nhà đi sang tiểu bang khác, chỉ biết học và làm việc tự lo cho bản thân, lâu lâu hỏi thăm mẹ qua điện thoại công cộng.

Vào một ngày, khi điện thoại về thăm mẹ, được bà báo cho biết : Cha đã chết trong tù!

Mọi vật như xụp đổ. Nguồn hy vọng bám víu cuối cùng cũng không còn. Thế là hế!

Nàng đã khóc đến khô cả nước mắt, cuộc sống như tẻ nhạt, chán chường không còn tha thiết gì nữa! Nàng chỉ biết vùi đầu vào sách vở cho quên nỗi buồn, và phải chiến đấu, chiến đấu, cứng cáp như những con cào cào xanh mà cha nàng khi còn sống hằng mong mỏi. Cuối cùng nàng cũng lấy được mảnh bằng chuyên khoa giải phẩu.

Qua tin tức báo chí. Bác sĩ Trần được biết các sĩ quan tù cải tạo được chính phủ Mỹ cứu xét cho định cư tại Hoa kỳ theo chương tình HO.Không hiểu sao nàng hồi hộp lạ thường.

Rồi quyết định bỏ miền đông tuyết phủ, trở về với nắng ấm Cali.

Hôm nay là ngày lễ Thanksgiving day, nàng muốn đi ra biển. Không phải để tắm hay hóng gió mà nàng muốn làm một công việc, công việc này nàng đã dự tính từ lâu nhưng vì qúa bận rộn nên không thể thực hiện được. Nhân ngày lễ tạ ơn nàng phải làm điều gì để nhớ ơn cha. Nàng sẽ thắt thật nhiều, thật nhiều con cào cào thả xuống biển, để chúng mang lời cầu nguyện của nàng đến người cha thân yêu. Nàng tin tưởng rằng ở nơi xa xăm vĩnh cửu nào đó cha nàng sẽ nhận được lời khấn nguyện này.

Nàng rủ bác sĩ Hải (vị hôn phu) cùng đi chơi biển. Chàng rất thích thú lẫn ngạc nhiên về lời yêu cầu này, khác với bản tính trầm lặng không thích nơi ồn ào của nàng từ trưóc đén giờ, bèn okay chấp nhận liền.

Trong khi chờ đợi vị hôn phu đi mua thức ăn. Nàng dã kiếm đựợc khá nhiều lá dừa xanh, cẩn thận chau chuốt tước từng lá và bắt đầu thắt những con cào cào.Nàng để hết tâm trí vào công việc, chìm đắm trong niềm thương nhớ cha.

Ngoài kia. Sau khi đã mua thức ăn, trên đường trở về chỗ cũ nơi bãi biển, chàng thấy một đám con nít đang vây chung quanh một cụ già Việt-Nam, trên tay đứa nào cũng cầm một con cào cào, thấy hay hay chàng cũng xin một con.

Vừa đi vừa ngắm con cào cào, chàng cảm thấy nó rất đẹp và còn có vẻ oai phong nữa. Chàng sẽ cho vị hôn thê, chắc nàng sẽ thích thú lắm! Về đến nơi. Thật, chàng không thể tin vào mắt mình, nàng cũng đang thắt…..con cào cào.

“Em đang làm gì vậy.”
“Thắt con cào cào.”

Chàng cầm con cào cào mới xin được, vẫy vẫy trước mặt nàng.

“Anh cũng có một con.”

Nhìn con cào cào, mặt nàng tái mét, hỏi dồn:

“Ở đâu anh có nó?”

Chàng chỉ về hướng đám trẻ:

“Một cụ già Việt-nam cho anh.”

Chẳng nói chẳng rằng, nàng nắm tay chàng chạy như bay về hướng chỉ. Một ông già, tóc bạc qúa nửa. đeo cặp kiếng lão, Hai tay đang thoăn thoắt thắt những con cào cào. Dù thời gian, tuổi tác có thay đổi, nhưng với hình dáng kia, nét mặt kia đã in sâu vào tâm khảm, nàng không thể nhầm được, chính là cha nàng. Qúa xúc động, nàng ngất xỉu.

Sự việc xẩy ra qúa đột ngột, bác sĩ Hải hoảng hốt la cầu cứu. Ông Sinh (vâng, chính ông Sinh) ở vị trí gần nhất nghe tiếng hét vội vàng nhào tới. Ông vội thọc tay vào túi quần lấy lọ dầu xanh thoa lên hai thái dương cô gái, giựt tóc mai, giựt gân cổ. Bỗng người ông run lẩy bẩy, tim như muốn ngừng đập, khi ông thấy nốt ruồi son trên cổ cô gái, trên tay cô còn nắm chặt con cào cào. Như có linh tính, ông định thần nhìn kỹ khuôn mặt thiếu nữ. Ông gào lên trong tiếng nức nở, nghẹn ngào:

“Trời ơi! Mai….Mai, con tôi.”

Cũng vừa lúc xe cứu thương tới nơi, đưa bệnh nhân lên xe. Ông Sinh, bác sĩ Hải cũng vội vàng leo lên theo. Cầm tay con gái, lòng ông Sinh bồi hồi xúc động, ông không nghờ gặp con trong hoàn cảnh này. Hai hàng nước mắt ngắn, dài chẩy trên hai gò má nhăn nheo. Nhưng ông cảm thấy sung sướng và ấm áp vô cùng.

*

Tin bác sỹ Trần thị Mai gặp lại được cha già sau hai mươi năm xa cách đã loan truyền khắp trong bệnh viện, một vụ trùng phùng đầy đau thương, thích thú, khiến ai cũng mủi lòng.

Hôm nay nhà bác sỹ Mai thật đông đảo khách tới thăm, bạn bè, thân hữu nghe tin mang hoa tới chúc mừng. Trong mấy năm qua , bây giờ mọi người mới thấy được nét tươi vui, rạng rỡ thực sự trên khuôn mặt u sầu của vị bác sỹ mà họ mến yêu. Nhưng người sung sướng nhất vẫn là bác sỹ Hải.

( Bài do VHP chuyển )
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
ChíchChoè
Gold Member
*****
Offline


I love LVD SCHOOL

Posts: 8090
Gender: female
Re: TRUYỆN ĐỌC TRƯỚC KHI ĐI NGỦ
Reply #14 - 22. Jun 2010 , 18:59
 
thubeo wrote on 21. Jun 2010 , 23:17:
NHỮNG CON CÀO CÀO XANH_


DƯƠNG, THỊNH        





Cảm ơn TB với câu chuyện : Những con cào cào xanh " thật cảm động . Đọc từ đầu tới đuôi mà lòng cứ lâm râm khấn nguyện cho ông lão tìm lại được con gái ruột đã biệt tăm tích rất lâu . Và kết thúc có hậu của câu chuyện cũng làm trái tim Choè trở nên nhẹ nhàng thư thái trở lại ....Câu chuyện hay và hấp dẫn thật đó TB . Nâu coi truyện này chắc khóc dữ lắm đây , vì Ba Nâu cũng đi ra ngoài Bắc từ sau 75 đến mười mấy năm sau mới về lại và qua Mỹ đoàn tụ với gia đình . Cũng may là mẹ Nâu và các anh chị em Nâu vẫn chung thủy chờ Ba Nâu về để hạnh phúc ....Nâu ơi , vô đây mà đọc chuyện này hay lắm nè

Back to top
 
mydung2003sg  
IP Logged
 
Pages: 1 2 3 ... 8
Send Topic In ra