Người Thầy Cũ Thái Nguyên là một tỉnh nhỏ, thuộc miền Trung du Bắc Việt, cái nôi của Cách mạng tháng tám, nay đã trở thành hoang tàn, đổ nát vì tiêu thổ kháng chiến.
Vào giữa năm 1947, tôi gặp lại người Thầy cũ ở đây và trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Thầy tôi đang thành lập một đoàn Văn nghệ lưu động để phục vụ cho kháng chiến. Còn tôi, sau một thời gian dài chạy loạn, thất lạc gia đình, tứ cố vô thân đã trở thành người vô sản chân chính. Vì ngoài bộ quần áo đang mặc, tôi chỉ còn sở hữu những gì Thượng đế đã ban cho từ lúc mới sinh.😆
Thái Nguyên năm 1939 có hai trường Tiểu học, một Nam và một Nữ. Thầy vốn là dân Hà nội, không hiểu sao lại lưu lạc lên đây để dạy lớp Nhất trường Nam tỉnh lỵ. Vì là tỉnh nhỏ nên đa số các thanh niên sống ở thị xã đều là học trò cũ của Thầy. Giữa lúc kháng chiến đang tới hồi ác liệt, nghe tin Thầy tuyển mộ tài tử để thành lập đoàn Văn nghệ, họ ùn ùn kéo đến và chỉ một thời gian ngắn đã tụ họp được khoảng 20 người vừa nam vừa nữ. Lúc đó các trường học đều đóng cửa, bỏ hoang tàn đổ nát . Đám thanh niên, thiếu nữ choai choai ở nhà chỉ ăn hại tốn cơm, đi bộ đội thì sợ chết, nên được tuyển vào đoàn là mừng húm, vừa được vui chơi, đàn hát lại ấm cái dạ dầy. Nhưng vấn đề ở đây là Nhà nước nghèo, chỉ trợ cấp được 1/2 lương thực, nghĩa là chỉ phục vụ một bữa ăn, phần còn lại mọi người phải tự túc.
Thế là ban ngày, Thầy trò kéo nhau vào những trường học, nhà Thờ bỏ hoang để tập dượt, đàn hát. Chiều tối, ai nấy về nhà mình ăn ngủ cho khoẻ. Riêng Thầy trò tôi được ưu ái ăn 2 bữa và có chỗ ngủ vì ...nhà đâu mà về. Thầy tôi rất đa tài: viết kịch, soạn nhạc, vẽ tranh và kiêm luôn cả đạo diễn. Tôi có vài kỷ niệm vui vui khi theo đoàn đi lưu diễn.
Trong đoàn, tôi thuộc loại cắc ké mới 16 tuổi, các anh chị khác đều sấp sỉ 20, còn Thầy đã 28 tuổi. Thầy biết tôi không có khiếu về Kịch nên ưu ái dành cho tôi vai Tây chết là dễ đóng nhất. Khi cần, tôi chạy ra giữa sân khấu, râu ria, mặt mũi đen thùi lùi, hét lên: Ô la la, chercher les congais. Ngay lúc đó, du kích nấp trong cánh gà bắn ra một phát, Tây lăn đùng ra chết, rồi chờ lúc thuận tiện, khán giả không để ý, bò từ từ vào bên trong là...thoát nạn. Cũng có hôm bị tổ chát, mấy cậu bé đứng gần sân khấu bất ngờ la lên: Ê Tây chết đang bò kìa làm cả rạp phá lên cười. Chao ôi, giây phút hạnh phúc đó làm sao tôi tìm lại được trên cõi đời này nữa.
Về đàn hát, tương đối tôi khá hơn nhưng cũng kẹt chút chút. Trời cho tôi có giọng hát lẩm cẩm ở khoảng giữa, lên cao quá thì khé, phải gân cổ lên trông mất mỹ thuật, còn xuống thấp thì hơi rè có khi mất tiếng luôn. Khổ nỗi Thầy chỉ dạy tôi mấy thế bấm căn bản trên cây đàn guitar thôi, nếu xuống ton thì phải thay đổi các thế bấm, vất vả lắm. Tôi bèn có sáng kiến là xuống luôn cả 6 giây đàn cho tiện việc sổ sách.
Đoàn Văn nghệ đi đến địa phương nào cũng được ủng hộ và hoan nghênh nồng nhiệt. Trong thời kháng chiến, nhân dân lao động cực khổ nhưng lại thiếu phương tiện để giải trí. Mới chập tối đã rủ nhau mắc mùng đi ngủ sớm vừa để trốn muỗi lại đỡ tốn dầu thắp đèn.Tôi nghĩ Thượng Đế thật công bằng, đâu đâu cũng thấy Luật bù trừ cả. Chiến tranh thì phải chết nhiều, đồng bào tôi nhờ đi ngủ sớm, đỡ tốn tiền mà lại sản xuất được nhiều tí nhau, có khi vượt...chỉ tiêu luôn.🤣
Văn nghệ chỉ trình diễn vào ban đêm để tránh máy bay địch. Thường thường khi diễn đến nửa chừng thì ông Trưởng đoàn, Thầy tôi, bước ra chào đồng bào rồi ca bài con cá: Anh em nghệ sỹ chúng tôi tham gia vào đoàn vì tinh thần yêu nước và... không có lương lậu gì cả. Nhà nước còn nghèo, mong đồng bào ủng hộ để chúng tôi có thể tiếp tục hoạt động cho đến khi kháng chiến thành công. Thầy vừa dứt lời thì hai bên sân khấu xuất hiện hai nhóm nam nữ, nón mũ cầm tay, chia nhau đi từng hàng ghế để khán giả bỏ tiền vào ủng hộ.
Sau khi khán giả đã về hết thì mùi cháo gà thơm lừng, điếc mũi bay ra từ trong bếp...Nhưng than ôi, tôi có bao giờ được xơi thịt gà đâu vì chỉ có tài tử chính mới được ngồi chung bàn với Thầy. Một con gà dù bự cách nào cũng không thể phục vụ cho gần...20 miệng ăn được. Vả lại, đóng vai Tây chết thì được húp cháo gà không người lái (không thịt) cũng là hạnh phúc lắm dzồi.
Thế rồi ngày vui cũng qua mau và ngày buồn lù lù dẫn xác tới. Kháng chiến ngày càng trở nên khốc liệt, Tây nhẩy dù khắp nơi, đồng bào vừa chạy vừa sản xuất nên thiếu lương thực đâu còn dư để ủng hộ cho nghệ sỹ nữa. Không còn sự lựa chọn nào hơn, đoàn Văn nghệ bèn từ từ...dẹp tiệm. Các tài tử, một phần trở về với gia đình, phần khác gia nhập bộ đội, tất cả đều vì cái dạ dầy cả. Còn lại mấy Thầy trò tứ cố vô thân, đành bám víu lấy nhau để cầm hơi cho đến phút chót.
Nhưng rồi có một ngày, một ngày chinh chiến... chưa tàn nhưng Thầy trò tôi...hết gạo. Buổi sáng hôm ấy, ngoài trời mưa bay lất phất, tiết trời... ảm đạm, Thầy từ bên trong bước ra buồn bã nói với chúng tôi: Thầy mới sáng tác một bản nhạc có tựa đề “Say Thuốc Lào” hát cho các anh nghe để giải sầu và cho...đỡ đói. Nội dung ca khúc đại khái như sau:
“Người đẹp tôi yêu có đôi bàn tay diễm kiều và một làn môi tươi thắm. Người đẹp tôi yêu, lấy chồng để tuyệt tình tôi, đời tôi tan nát rồi...Yêu em như ngàn chiếc ngai vàng. Yêu em như ngàn tiếng tơ đàn. Yêu em như ngàn bài thơ duyên. Yêu em như một viên... thuốc lào”🙄
Thầy có tật nghiện thuốc lào, một loại thuốc hút đặc biệt của miền Bắc. Đó là một thứ lá đem phơi khô rồi dùng dao cầu cắt thành sợi nhỏ, ép lại thành những bánh thuốc. Khi hút thì dùng tay vê lại tạo ra những viên bi, cho vào nõ điếu cày hay điếu bát rồi châm lửa hút. Thường khi hút xong, rất dễ bị say thuốc, đôi khi té lăn đùng ra, nhất là vào buổi sáng lúc bụng đói. Tuy nhiên, lúc nhả khói ra, Thầy lim dim con mắt và cảm thấy lâng lâng như bay bổng, như được lạc vào cõi...Thiên thai...
Ngoài Bắc có câu thơ diễn tả nỗi nhớ nhung của dân nghiện thuốc lào :
Nhớ ai như nhớ thuốc lào
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.
Thầy than thở đã mất người yêu sau khi sáng tác bài này. Lý do lãng xẹt là lúc chấm dứt ca khúc, Thầy đã nổi máu tếu, âu yếm phang cho một câu: "Yêu em như một viên…thuốc lào" thì Nàng bỏ chạy là phải dzồi! Nhưng theo tôi có một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng là kinh tế suy thoái, hết gạo, nhìn nhau làm sao mà no được. Sau đó, Thầy trò đành ngậm ngùi chia tay mà không hẹn ngày trở lại.
Mãi đến thập niên 50, do một cơ duyên tôi được tái ngộ với Thầy ở Sài gòn và cũng là lần cuối cùng vì bệnh phổi của Thầy đã vào giai đoạn chót. Than ôi, Thầy yêu quí của tôi đã mất người yêu lại mất luôn cả mạng sống cũng chỉ vì có tí máu tếu (giống hệt tôi) và dĩ nhiên vì cả món...thuốc Lào. Năm Thầy qua đời mới có 48 tuổi, còn quá trẻ so với đệ tử Sugar.
Thầy chính là nhạc sỹ Phạm Duy Nhượng, em của Thạc sỹ Phạm duy Khiêm và là anh của nhạc sỹ Phạm Duy. Suốt cuộc đời, Thầy chỉ sáng tác có 4 bản nhạc : 3 bản đầu tiên đã tuyệt tích giang hồ là Nhạc Đường Xa, Chiều Đô Thị, Say Thuốc Lào. Cả ba bài này tôi đã có dịp trình làng rồi. Riêng bản cuối cùng Tà Áo Văn Quân thì tôi chạy vì khó hát, tuy một số ca sỹ vẫn còn trình diễn lai rai.
Hôm nay, người học trò năm xưa, thành kính thắp nén hương lòng để tưởng nhớ và tạ lỗi cùng Thầy vì đã không thể đến dự đám tang để đưa Thầy về nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đây xin mời cùng thưởng thức ca khúc "Say thuốc lào " do đệ tử Sugar vừa đàn vừa hát, hy vọng không đến nỗi quá tệ.
https://www.mediafire.com/download/5garsl640i0rly0Nguyễn ngọc Đường