admin
|
21) Khờ dại
* Ách giữa đàng quàng vào cổ.
* Ăn cơm nhà, thổi tù-và hàng tổng.
* Ăn cơm nhà, vác la-ngà cho quan.
* Chê rau muống sống, lại ôm dưa già.
* Chim chích mà ghẹo bồ nông, đến khi nó mổ, lạy ông tôi chừa. * Chó chê nhà dột ra nằm bụi tre.
* Con cóc nằm góc bờ ao, lăm le lại muốn đớp sao trên trời.
* Dạy đĩ vén xống, dạy ông cống vào trường, dạy bà lang bốc thuốc. * Đường quang chẳng đi, đâm quàng bụi rậm.
* Ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung.
* Già đời còn mang tơi chữa cháy.
* Gỗ trắc đem lát ván cầu, yến sào đem nấu với đầu tôm khô.
(Gỗ trắc là loại gỗ quí, yến sào là một món ăn rất quí. Nghĩa bóng: không biết dùng người).
* Khôn với vợ, dại với người dưng.
* Làm thân con lừa, ưa việc nặng.
* Lạy ông tôi ở bụi này.
* Lấy vải thưa che mắt thánh.
* Mất bò mới lo làm chuồng.
* Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng.
* Ngựa ô chẳng cỡi, cỡi bò, đường ngay không chạy, chạy vòng đường quanh. * Nói chơi không biết, nói thiệt không hay.
* Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà. * Ở đời có bốn cái ngu: làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.
* Phượng hoàng cắt cánh đuổi đi, bắt con bìm bịp đem về mà nuôi.
(Nghĩa bóng : Không biết dùng người). * Quan tám cũng ừ, quan tư cũng gật. (Ba phải).
* Tiền buộc dải yếm bo bo, đưa cho thầy bói đem lo vào mình. * Tin bợm mất bò, tin bạn mất vợ nằm co một mình.
* Vạch áo cho người xem lưng.
* Xe chỉ buộc chân voi. 22) Khôn ngoan, khôn ranh
* Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau.
* Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan.
* Ăn lấy chắc, mặc lấy bền. * Cầm dao đằng chuôi, không ai cầm đằng lưỡi.
* Chẻ tre lựa cật đan nia, có chồng con một, khỏi chia gia tài.
* Chiều chồng lấy con, chiều người lấy việc.
* Chim khôn tiếc lông, người khôn tiếc lời. * Chim khôn lựa cành làm tổ, gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân. * Gái chửa hoang, cho vàng cũng không lấy. * Lái trâu, lái lợn, lái bò; trong ba lái ấy không nghe lái nào.
* Làm dâu nơi cả thể, làm rể nơi đông con.
(cả thể : danh giá). * Làm đĩ mười phương để một phương lấy chồng.
* Mua cam thì chọn giống cam, lấy chồng thì chọn trưởng nam cho giàu ! * Sự đời ngày nắng đêm mưa, người thương thương trả, người đưa đưa người. * Thả con săn sắt, bắt con cá rô.
* Trai con một thì lấy, gái con một thì đừng.
23) Lý sự
* Ai biết ngứa đâu mà gãi !
* Ai biết uốn câu cho vừa miệng cá.
* Ai chê đám cưới , ai cười đám ma.
* Ai có thân người ấy lo, ai có bò người ấy giữ.
* Ai đâu thương kẻ ngu si, của đâu cho đứa nằm lì mà ăn.
* Ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời.
* Bè ai người ấy chống.
* Biết ai giàu ba họ, biết ai khó ba đời ?
* Chanh chua thì khế cũng chua; khế chỉ một mùa, chanh bán cả năm. * Chết no còn hơn sống thèm.
* Chết sông chết suối, không ai chết đuối đọi đèn.
* Chết trẻ khẻo ma, chết già ma mệt.
* Chết trước được mồ được mả, chết sau bổ ngả bổ nghiêng.
* Chỉ đâu mà buộc chân Trời, thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ. * Chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà bịt miệng người thế gian. * Chính chuyên chết cũng ra ma, lẳng lơ chết cũng chôn ra ngoài đồng.
* Chính chuyên chồng cũng được nhờ, lẳng lơ ai biết mà lo cho bực mình.
* Chính chuyên chồng cũng được nhờ, lẳng lơ nào biết cõi bờ là đâu. * Chồng con là cái nợ nần, thà rằng ở vậy nuôi thân khỏe mình. * Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào. * Có thóc mới bóc ra gạo. * Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. * Có thực mới vực được đạo.
* Có tích mới dịch nên tuồng. * Con có cha có mẹ, không ai ở lỗ nẻ mà lên.
* Cờ đến tay ai nấy phất.
* Củ cải nói phải ông vải cũng nghe. * Đẹp chi cái áo vải sồng, đẹp chi con gái lộn chồng mà thương. * Gà ăn mối, mối ăn Thổ Công, Thổ Công ăn gà.
* Khôn chẳng qua lẽ, khoẻ chẳng qua lời.
* Không có bột sao gột nên hồ ?
* Không có lửa sao có khói ?
* Không có mây sao có mưa ?
* Không vào hang cọp sao bắt được cọp con ?
* Lẳng lơ cũng chẳng có mòn, chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ. * Làm lành muốn chúng biết danh, ấy là làm tiếng, phải lành chi mô.
(phải lành chi mô : đâu có phải là làm điều tột lành).
* Muốn ăn thì lăn vô bếp, muốn chết thì lết vô hòm. * Muốn nói không, làm mẹ chồng mà nói.
* Muốn nói ngoa, làm mẹ chồng mà nói.
* Muốn vu oan, làm quan mà nói. * Mướp đắng đã có mạt cưa.
(mươp đắng, mạt cưa chỉ bọn người chuyên lừa gạt, bịp bợm). * Nhà báo nói láo ăn tiền.
* Nợ máu phải trả bằng máu. * Nước lã mà khuấy nên hồ, tay không mà dựng cơ đồ mới hay.
* Nước trong ai chẳng rửa chân, hoa thơm ai chẳng tới gần gốc cây.
* Ông tiền, ông thóc, ông cóc gì ai.
(ông cóc gì ai : chẳng phải là người quí giá gì đâu).
* Quân tử nhất ngôn là quân tử dại, quân tử nói đại là quân tử khôn !
* Ra khơi mới biết cạn sâu, ở trong lạch hói biết đâu mà dò. * Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay. * Sướng quá hóa điên.
* Tại anh, tại ả, tại cả đôi bên.
* Thánh nhân cũng có khi lầm. * Trai làng ở quá còn đông, tội gì lại lấy ông chồng ngụ cư. * Trai làng thì lấy gái làng, tội gì vác cuốc dọn đàng ai đi.
* Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn, sao trăng lại phải chịu luồn đám mây.
* Vỏ quít dày có móng tay nhọn. * Vợ dại thì đẻ con khôn, trâu chậm lắm thịt, rựa cùn dễ băm.
24) Nhận xét
Những nhận xét trong các câu tục ngữ thường là những nhận xét đúng; nhưng cũng có nhiều nhận xét chủ quan, không hợp tình, không hợp lý, lỗi thời. * Anh em cột chèo như mèo với chó. * Anh em rể như ghế ba chân. * Áo năng may năng mới, người năng tới năng thương.
* Áo rách khéo vá hơn lành vụng may. * Anh hùng tạo thời thế.
* Ăn nhờ nhà vợ như ở đợ nhà người ta. * Ba đấm không bằng một đá. * Ba đấm không bằng một đạp. * Ba lần dọn nhà bằng một lần nhà cháy. * Ba năm ở với người đần, chẳng bằng một lúc đứng gần người khôn. * Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi.
* Bà con xa không bằng láng giềng gần.
* Bạc đeo đầy mình không bằng thông minh sáng suốt. * Bao giờ cho đến tháng mười, thổi nồi cơm nếp, vừa cười vừa ăn.
* Bao giờ cho đến tháng năm, thổi nồi cơm nếp, vừa nằm vừa ăn. * Băn hăn bó hó như nhà khó mất ăn. * Bầu già thì mướp cũng xơ, nạ dòng trang điểm, gái tơ mất chồng.
* Bé thì nhờ mẹ, nhờ cha, lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con. * Bé trộm gà, khi cả trộm trâu.
(cả : lớn).
* Bịt được miệng chĩnh, miệng vò, nào ai bịt được miệng o, miệng dì. * Bịt miệng vòm, miệng lọ, không ai bịt được cái mồm người ta. * Bói ra ma, quét nhà ra rác. * Bôn ba chẳng qua thời vận.
* Bởi tin nên mắc, bởi chắc nên lầm.
* Bụng đói, đầu gối phải bò. * Bụng đói thì cẳng phải bò.
(cẳng : chân).
* Buộc được chân ngựa chân voi, nào ai buộc được lòng người gian tham. * Buổi chợ đông, con cá hồng chê lạt; tan chợ rồi, con tép bạc cũng phải mua.
* Cá trong lờ đỏ hoe đôi mắt, cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô. * Cả giận mất khôn. * Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con.
(cả sông : sông lớn) * Cách sông nên phải lụy đò, tối trời nên phải lụy o bán dầu.
* Cái khó bó cái khôn.
* Cái khó ló cái khôn.
* Càng cao danh vọng, càng dày gian nan.
* Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều. * Càng già càng dẻo càng dai. * Canh môn khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng.
* Canh suông khéo nấu cũng ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng. * Cáo bầy không bằng cọp một. * Cau phơi tái, gái đoạn tang, chim ra ràng, gà mái ghẹ.
(gà mái ghẹ : gà mái tơ).
* Câm hay nói, què hay đi, dốt hay nói chữ.
* Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
* Cây khô không có lộc, người độc không có con.
* Cây khô mấy thuở mọc chồi, cá mại dưới nước mấy đời hóa long. * Cây không trồng không tiếc, con không đẻ không thương. * Cây ngay không sợ chết đứng.
* Cháy nhà ra mặt chuột. * Chăn tằm rồi mới ươm tơ, làm dâu rồi mới được như mẹ chồng. * Chẳng ốm chẳng đau, làm giàu mấy chốc. * Chẳng thiêng ai gọi là thần; lối ngang đường tắt chẳng gần ai đi. * Chiếc áo không làm nên thầy tu. * Chín đụn, mười trâu; chết cũng hai bàn tay trắng.
* Chim đẹp nhờ bộ lông, người đẹp nhờ bộ cánh.
* Chim khôn chết mệt vì mồi, người khôn chết mệt vì lời nhỏ to.
* Chim khôn chưa bắt đã bay, người khôn chưa nói dang tay đỡ lời. * Chim khôn chưa bắt đã bay, người khôn ít nói, ít hay trả lời.
* Chim khôn đậu nóc nhà quan, gái khôn tìm chồng ở chốn ba quân. * Chim khôn tiếng hót rảnh rang, người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe.
* Chó cậy nhà, gà cậy vườn.
* Chó đâu chó sủa lỗ không, chẳng thằng ăn trộm thì ông ăn mày. * Chó sủa thì chó không cắn.
(Việt-hóa tục ngữ Pháp: "Chien qui aboie ne mord pas").
* Chồn vào nhà không mất gà cũng mất vịt.
* Chơi dao có ngày đứt tay. * Chủ nhà, người ở, khen nhau bao giờ. * Chuông có gõ mới kêu, đèn có khêu mới sáng. * Chữ rằng họa phước vô môn; sang giàu dễ kiếm, người khôn khó tìm.
* Chưa nói đã cười là ngưòi vô duyên.
* Chửi trước mặt không sợ, sợ thù vặt sau lưng. * Chưởi cha không bằng nhái tiếng. * Có của dỗ được người.
* Có của thì rửa trăm dơ.
* Có cứng mới đứng đầu gió.
* Có dại mới nên khôn.
* Có duyên thì có nợ. * Có gan ăn cướp, có gan chịu đòn. * Có gió lay mới biết cây nào cứng. * Có gió lung mới biết tùng bách cứng, có ngọn lửa hừng, mới rõ thực vàng cao. * Có, không, mùa đông mới biết; giàu, nghèo, ba mươi Tết mới hay.
* Có miếng còn hơn có tiếng.
* Có nhiều của thì của chạy vào; có ít của thì của bò ra. * Có phúc thợ mộc, thợ nề; vô phúc thầy đề, thầy thông. * Có tài hay có tật.
* Có tật giật mình.
* Có thân thì có khổ.
* Có tiếng không có miếng.
* Có trẻ vui nhà, có già sạch bếp.
* Có vất vả mới thanh nhàn, không dưng ai dễ cầm tàn che cho. * Con mắt lá răm, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền. * Con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ. * Con trai ở nhà vợ như con chó chui gầm chạn. * Con trẻ hay ăn quà, đàn bà hay nhẹ dạ.
* Cởi ra mới biết béo gầy, đến khi gió cả, biết cây cứng mềm. * Cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà mái ghẹ.
* Cơm khô là cơm thảo, cơm nhão là cơm hà tiện.
* Của ba bảy đấng, người ba bảy loài.
* Của bề bề không bằng có một nghề trong tay. * Của đời ông, ăn không cũng hết.
* Của kho, không biết lo cũng hết.
* Của làm ra để trên gác, của đánh bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ.
* Của một đồng, công một nén. * Của phù vân không chân hay chạy.
* Của phù vân sớm hợp chiều tan. * Của rẻ là của ôi, của đầy nồi là của chẳng ngon. * Của rẻ là của ôi, tôi rẻ là tôi vụng.
* Của vào nhà khó như gió vào nhà trống.
* Của vào nhà quan như than vào lò lửa.
* Củi mục khó đun, chủi cùn khó quét.
* Cuộc đời như cảnh phù-du, sớm còn tối mất, công phu nhọc nhằn.
* Cưới vợ không cheo, mười con heo cũng mất.
* Cưới vợ không cheo như neo không mấu. * Cưới vợ không cheo như tiền gieo xuống suối. * Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
* Dã tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. * Dại bầy hơn khôn độc. * Dân đói dễ sai. * Dân ngu dễ dạy.
* Dây dùn khó đứt, người ngoan khó tìm.
* Dò sông dò biển dò nguồn, biết sao được bụng lái buôn mà dò.
* Dò sông dò biển đễ dò, đễ đâu dò được tâm can lòng người. * Dò sông dò biển đễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người.
* Dò thì dò biển dò sông, dò mô được dạ đàn ông mà dò. * Dư ăn xem bói, đói ăn mò khoai.
* Đa nhân duyên nhiều đường phiền não.
* Đa sầu đa mang.
* Đại thù không ngặt, thù vặt khó ở. * Đàn bà cạn lòng như đĩa, đàn ông bạc nghĩa như vôi. * Đàn bà không biết nuôi heo lá đàn bà nhác, đàn ông không biết buộc lạt là đàn ông hư.
* Đàn bà như cánh hoa tươi, nở ra chỉ được một thời mà thôi.
* Đàn ông như cái nơm, bạ đâu úp đấy.
* Đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
* Đàn ông quan tắt thì chầy, đàn bà quan tắt, nửa ngày nên quan.
(tắt : làm theo lối ngắn hơn, nhanh hơn). * Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm. * Đắc thời đắc thế thì khôn, sa cơ rồi cũng như giun khác nào.
* Đất sinh cỏ, già sinh tật.
* Đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt.
(phong cảnh bụt : phong cảnh là của chung, cũng như nói cơm chùa).
* Đẹp như tiên lo phiền rồi cũng xấu.
* Đẹp vàng son, ngon mật mỡ.
* Để là hòn đất, nặn nên ông Bụt. * Để lâu cứt trâu hóa bùn.
* Đi trước chưa phải là tới trước. * Điếc hay ngóng, ngọng hay nói, câm hay cười.
* Đói ăn vụng, túng làm càn.
* Đói ông ở nhà chứ không đói bà đi chợ.
* Đói rụng râu, rầu rụng tóc. * Đói thì đầu gối hay bò, cặp chân hay chạy, bộ dò hay đi.
* Đổi bát mồ hôi lấy bát cơm. * Đông tay hơn hay làm.
* Đời loạn mới biết tôi trung.
* Đời người chẳng khác đời hoa, sớm còn tối mất, nở ra lại tàn.
* Đời người sung sướng xa hoa, đời người khổ sở cũng qua một đời.
* Đời xưa quả báo còn chầy, đời nay quả báo thấy ngay nhãn tiền.
* Được làm vua, thua là giặc.
* Được lòng ta, xót xa lòng người. * Được mùa kén những tám xoan, đến khi cơ hàn ré cũng như chiêm. * Đường dài mới biết ngựa hay; nước loạn mới biết kẻ ngay người hiền.
* Gà già khéo ướp thì ngon, nạ dòng trang điểm, gái tơ mất chồng. * Gà lạc mẹ, gà kêu chiu chít, nhạn lạc đàn, nhạn thao thức kêu sương.
* Gạo tám xoan, chim ra ràng, gái mãn tang, gan gà giò.
* Gặp thời mèo đuổi chuột, thất thế kiến tha bò.
* Giàu chủ kho, no làm bếp, chóng chết quản voi.
* Giàu đặng trung đặng hiếu, khó mất thảo mất ngay.
* Giàu nơi đồng quê không bằng ngồi lê kẻ chợ.
* Giàu ruộng đợ, nợ ruộng thuê.
* Giặc bên Ngô, không bằng bà cô bên chồng.
(bên Ngô : bên Tàu).
* Giặc phá không bằng cháy nhà. * Giấu được giàu, không ai giấu được nghèo.
* Gừng già, gừng rụi, gừng cay; anh hùng càng cực, càng dày nghĩa nhân. * Hà tiện mới giàu, cơ cầu mới có.
(cơ cầu : nhọc nhằn, khổ cực).
* Hát hay hơn hay hát. * Hay làm thì giàu, hay cúng cầu thì đói. * Hết tiền, hết tài, nhân nghĩa tận.
* Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi, người khôn ai nói nặng lời làm chi.
* Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay. * Hoa tươi trong độ gió xuân; gái xinh, xinh đến có chồng hết xinh. * Học khôn đi lính, học tính đi buôn. * Học thầy chẳng tầy học bạn.
* Hơn nhau tấm áo manh quần, cởi ra trần truồng ai cũng như ai.
* Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn.
* Hung chi hơn gạo, bạo chi hơn tiền.
* Hương năng thắp năng khói, người năng nói năng sai.
* Kẻ làm quan bụng gian miệng thẳng. * Kén dâu thì dễ, kén rể thì khó. * Khi giàu chẳng giúp đỡ ai, đến khi hoạn nạn chẳng ai giúp minh. * Khi thương, cho đường thêm bánh; khi ghét, tay đánh miệng la.
* Khi thương, ngóng trông làu lạu; khi ghét, mặt quạu làm ngơ.
* Khi yêu quạt giấy cũng cho, khi ghét quạt mo cũng dòi.
* Khó nghèo hết thảo hết ngay, ơn cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên.
* Khó nhất là tu tại gia, thứ nhì tu ở chợ, thứ ba tu ở chùa. * Khôn cũng chết, dại cũng chết.
* Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già. * Khôn độc không bằng ngốc đàn. * Khôn khéo lấy miệng mà xài, vụng dại lấy vai mà đỡ.
* Khôn khi vô sự, thảo khi no lòng.
* Khôn, khôn thuở lên ba; dại, dại tra một đời.
[tra một đời : suốt cả đời; cho đến khi già (tra : già)]. * Khôn ngoan chẳng lọ nói nhiều, người khôn chỉ nói nửa điều cũng khôn.
* Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có đến ba mươi Tết mới hay. * Khôn ra miệng, dại ra tay. * Khôn từ trong trứng khôn ra, dại đến già vẫn còn dại. * Không có nghề ngốc, chỉ có người ngốc.
(Việt-hóa tục ngữ Pháp:"Il n'y a pas de sot métier, il n'y a que de sottes gens.")
* Không mợ thì chợ vẫn đông, mợ đi lấy chồng thì chợ vẫn vui.
* Không mợ thì chợ vẫn đông, mợ đi trong Quảng ai trông mợ về.
* Không thầy đố mày làm nên.
* Không tiền, không gạo thì mạnh bạo xó bếp. * Kiến leo cột sắt sao mòn, tò vò xây tổ sao tròn mà xây. * Kim vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nặng lời làm chi. * Kình nghê vui thú kình nghê, tép tôm thì lại vui bề tép tôm. * Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu. * Làm lẽ ăn bát mẻ, nằm chiếu rách; làm chánh ăn bát kiểu, nằm chiếu hoa.
* Làm người thì khó, làm chó thì dễ.
* Làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc Phật.
* Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng.
* Làm tôi nhà giàu, hơn hầu quan lớn.
* Làm tớ thằng khôn, hơn làm thầy đứa dại.
* Làm trai lấy được vợ bé, khác gì nhà giàu tậu được nghé hoa.
* Làm trai lấy được vợ hiền, như cầm đồng tiền mua được miếng ngon.
* Làm trai lấy được vợ khôn, như chỉnh vàng cốm đem chôn trong nhà.
* Lắm con nhiều nợ, lắm vợ nhiều oan gia.
* Lắm duyên nhiều nợ, lắm vợ nhiều oan gia. * Lắm người yêu hơn nhiều người ghét. * Lắm nhân duyên, nhiều đường phiền não.
* Lấp sông lấp giếng, ai lấp được miệng thiên hạ.
* Lấy chồng cận núi kề sông; nước không lo cạn, củi không lo tìm.
* Lấy chồng biết chữ là tiên, lấy chồng mù chữ là duyên nợ nần. * Lấy chồng đần hơn ở góa.
* Lấy chồng hay chữ như soi gương vàng.
* Lấy chồng khó ở làng còn hơn lấy chồng sang xa xứ. * Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi.
* Lấy chồng trà rượu là tiên, lấy chồng cờ bạc là duyên nợ nần.
* Lấy dĩ về làm vợ, chứ không ai lấy vợ về là đĩ.
* Lấy nhau vì bạc vì tiền, đến khi tiền hết thì duyên bẽ bàng. * Lấy thằng đánh bạc như voi phá nhà. * Lo bạc râu, rầu rụng tóc.
* Lọ là thét mắng mới nên, một lời siết cạnh bằng nghìn roi song.
* Lớn vú bự con.
* Lù khù như chuột chù phải khói. * Lụ khụ như ông cụ bảy mươi. * Lụa quấn cột cầu, nhìn lâu cũng đẹp.
* Lựa được con dâu, sâu con mắt.
* Lý của kẻ mạnh bao giờ cũng đúng.
(Việt-hóa tục ngữ Pháp:"La raison du plus fort est toujours la meilleure ").
* Ma không thương người ốm, kẻ trộm không thương người nghèo.
* Má miếng bầu, nhìn lâu cũng chán. * Mai mưa, trưa nắng, chiều dông, trời còn biến chuyển huống mồm thê gian.
* Mai mưa, trưa nắng , chiều dông; trời còn thay đổi huống chi lòng người.
* Mạnh miệng không bằng bạo gan. * Mát tay hơn hay thuốc.
(mát tay : chăm sóc chu đáo).
* Măng mọc có lứa, con gái có thì.
* Mất của dễ tìm, mất lòng khó kiếm.
* Mất cha mất mẹ, không kiếm được, mất vợ mất chồng chẳng thiếu gì nơi. * Mất mẹ mất cha thật là đau khổ, chứ đạo vợ chồng chẳng thiếu gì nơi. * Mật ngọt chết ruồi, những nơi cay đắng là nơi thật thà. * Mấy ai biết lúa von, mấy ai biết con mình hư hỏng.
(lúa von : lúa bị sâu ăn hại). * Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời điền chủ mà thương tá điền.
* Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng.
* Mẹ chồng nàng dâu, chủ nhà người ở yêu nhau bao giờ.
* Mẹ đánh một trăm không bằng cha hăm một tiếng.
* Mẹ gà con vịt chít chiu, mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng.
* Mẹ già như chuối chín cây, như đèn trước gió, biết ngày nào mẹ đi. * Mẹ nuôi con đùm đùm nén nén, con nuôi mẹ không được một nẹn trong tay.
(một nẹn : một nạm, một nắm).
* Méo mó còn hơn không có. * Mèo khen mèo dài đuôi, chuột khen chuột nhỏ con dễ trèo. * Mê ăn thì lú, mê ngủ thì khờ. * Mềm quá thì yếu, cứng quá thì gãy. * Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi. * Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu. * Miếng khi đói bằng đọi khi no.
* Miếng ngon ăn ít ngon nhiều, người khôn dẫu nói ít lời cũng khôn. * Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời.
* Miệng nhà quan có gang có thép.
* Mồm miệng đỡ chân tay.
* Một bát cơm rang bằng một sàng cơm nấu. * Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình.
* Một câu nói ngay hơn ăn chay cả tháng.
* Một chiếc bát ngô hơn một bồ bát đá.
(bát ngô : chén kiểu trung hoa; bát đá : chén ngang). * Một con chim én không làm nên mùa xuân.
(Việt-hóa tục ngữ Pháp :"Une hirondelle ne fait pas le printemps").
* Một con cọp không cự nỗi sói bầy.
* Một đêm quân tử nằm kề, còn hơn thằng nhắng vỗ về quanh năm. * Một kho vàng không bằng một nang chữ.
* Một lần quân tử cầm tay, còn hơn thợ cấy suốt ngày nâng niu. * Một lời nói, quan tiền thúng thóc; một lời nói, dùi đục cẳng tay. * Một mẹ già bằng ba người ở. * Một mẹ già bằng ba then cửa. * Một mình ấm lạnh cho xong, hai hơi thêm cực, hai lòng thêm lo. * Một nạm gió bằng một bó chèo.
* Một năm làm nhà, ba năm dồn của. * Một nắm thuốc tiên, một liều thuốc bổ, không bằng cái cổ tháo gông. * Một ngày dựa mạn thuyền rồng, còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài. * Một người biết lo bằng kho người biết làm.
* Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. * Một trăm ông chú không lo, chỉ lo có một mụ o nhọn mồm.
* Một trăm quan tiền nợ không sợ bằng mụ vợ ngoại tình.
* Một trung tiện bằng một nắm thuốc tiêu. * Một vợ nằm giường lèo, hai vợ năm chèo queo, ba vợ nằm chuồng heo. * Một vũng nước trong, mười dòng nước đục; một trăm người tục, một chục người thanh.
* Muỗi tháng tám, cám tháng mười.
* Mười voi không được bát nước xáo. * Mướp già thì mướp có xơ, ông già lắm của gái tơ thiếu gì. * Mưu cao chẳng bằng chí lớn.
* Mưu toan thì dễ, thành tựu không dễ. * Nạ dòng lấy được trai tơ, đêm nằm hú hí như mơ được vàng.
* Năm con năm bát, nhà nát cột xiêu; năm vợ năm điều, nhà xiêu cửa nát. * Nằm đất với chị hàng hương, hơn nằm giường với chị hàng cá.
* Năng ăn hay đói, năng nói hay lầm.
* Ngây ngô như gà mờ, lờ đờ như đom đóm đực.
* Nghe thầy bói đói rã họng. * Nghèo sinh bệnh, giàu sinh tật.
* Ngọc nhìn lâu sẽ tìm thấy vết, hoa để gần sẽ hết mùi hương.
* Ngồi trong cửa sổ chạm vàng, chăn loan gối phượng không chồng cũng hư. * Người có lúc vinh lúc nhục; nước có lúc đục lúc trong.
* Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân.
* Người khôn ăn nói nửa vời, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo. * Người khôn chưa đắn đã đo, chưa đi tới biển đã dò cạn sâu. * Người khôn đón trước rào sau, để cho kẻ dại biết đâu mà dò.
* Người khôn không đánh, không đòn; một lời nói nhẹ đắng cay muôn phần. * Người khôn không nỡ roi đòn, một lời nhè nhẹ cũng còn đắng cay. * Người khôn nói ít làm nhiều, không như người dại lắm điều rườm tai.
* Người khôn nói không lại, người dại nói không cùng. * Người khôn nói mánh, người dại đánh đòn. * Sông sâu sào ngắn khó dò, người khôn ít nói khó đo được lòng.
* Người làm nên của, của không làm nên người. * Người ngọng hay nói, thầy bói hay nhìn.
* Người ngu chẳng biết câu chào, người khôn ăn nói lời nào cũng dễ nghe.
* Người sống hơn đống vàng.
* Người ta ba thứ người ta; người thì tiền rưởi, kẻ ba mươi đồng.
* Người trên ở chẳng kỷ cương, khiến cho người dưới lập lường mây mưa. * Người xấu duyên lặn vào trong, bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài.
* Nhà giàu tham việc, thất nghiệp tham ăn. * Nhà giàu yêu kẻ thật thà, nhà quan yêu kẻ ra vào nịnh thưa.
* Nhất dáng, nhì da, thứ ba khuôn mặt.
* Nhất gái một con, nhì thuốc ngon nửa điếu.
* Nhất là vợ dại trong nhà, thứ nhì nhà dột, thứ ba nợ đòi.
* Nhất ngon là đầu cá gáy, nhất thơm là cháy cơm nếp.
* Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò.
* Nhất sĩ nhì nông; hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.
* Nhị thập tứ hiếu bày ra, hiếu nhân hiếu nghĩa chẳng qua hiếu tiền.
* Nhiều lính không phải là tướng giỏi, viết nhiều không phải là văn hay. * Nhiều người hơn nhiều của. * Nhiều tay hơn hay làm. * Nhiều thầy thối ma, nhiều cha con khó có chồng. * Nhiều tiền nhiều bạc là tiên trên đời.
* Nhiều tiền thì thắm, ít tiền thì phai.
* Nhìn quả biết cây, nhìn việc biết người. * Nhởn nhơ như con dĩ đánh bồng. * No ba ngày Tết, đói ba tháng hè. * No chê cơm nguội, đói ăn cả rau thiu.
* No mất ngon, giận mất khôn. * No nên Bụt, đói ra ma.
* No thành Phật thành tiên, đói thành ma thành quỷ.
* Nọc người bằng mười nọc rắn.
* Nói chín thì làm nên mười, nói mười làm chín, kẻ cười người chê. * Nói cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
* Nói dai như chó nhai giẽ rách. * Nói hay hơn hay nói.
* Nói hay không tày làm tốt.
* Nói nên mà ở chẳng nên, gióng rơm gánh đá sao bằng gióng mây.
(gióng : quang).
* Nói ngọt lọt đến xương.
* Nói nhiều xiêu dạ. * Nói phải củ cải cũng nghe.
* Nói phải như gãi chỗ ngứa.
* Nói thẳng hay mất lòng, lưng cong hay được lộc.
* Nói thẳng trái tai.
* Nói thật mất lóng.
* Nói với người khôn không lại, nói với người dại không cùng.
* Non cao cũng có đường trèo, dù đường hiểm nghèo cũng có lối đi. * Nuôi dâu thì dễ, nuôi rể thì khó. * Nước có khi trong khi đục, người có kẻ tục người thanh. * Nước dưới sông hết trong lại đục, vận đời người hết thịnh lại suy.
* Nước giữa dòng, khi trong khi đục; người ở đời, khi nhục khi vinh.
* Ông thánh cũng có khi sai.
* Ở đâu cũng có anh hùng, thời nào cũng có kẻ khùng người điên. * Ở đời ai khỏi gian nan; gian nan có lúc, thanh nhàn có khi.
* Ở đời khi thịnh khi suy, khi chạy lau láu, khi đi không rời.
* Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
* Ở đời tin bợm mất bò, tin bạn mất vợ nằm co một mình.
* Ở góa ba đông còn hơn lấy chồng hay ngủ. * Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đường lắm kẻ còn dòn hơn ta. * Ở trong chăn mới biết chăn có rận.
* Ở xó chuồng heo hơn ở nhà sang của vợ. * Ơn cha là ba ngàn bảy, ơn mẹ là bảy ngàn ba.
* Phải chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua phép.
* Phận đàn em, ăn thèm vác nặng.
* Quạ già trăm tuổi không bằng phượng hoàng mới sinh.
* Quạ không bao giờ mổ mắt quạ. * Quan cả vạ to.
* Quan thấy khiện như kiến thấy mỡ.
* Quan thì xa, bản nha thì gần. * Quân không tướng như hổ không đầu.
* Quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy.
* Quân tử trả thù, mười năm chưa muộn.
* Rắn già rắn lột da, người già người tuột vào săng.
* Răng đen chẳng lọ nhe răng, người giòn chẳng lọ vấn khăn mới giòn.
(giòn : khỏe mạnh, đẹp đẽ).
* Rậm người hơn rậm của.
(rậm : nhiều). * Rẻ như bèo, nhiều heo cũng hết.
* Rẻ tiền mặt, đắt tiền chịu.
* Roi mây đánh đoạn rồi thôi, một lời răn dạy muôn đời chẳng quên.
* Rồng vàng tắm nước ao tù, người khôn ở với người ngu bực mình.
* Ruộng bề bề không bằng có một nghề trong tay. * Ruộng xa thì bỏ không cày, chợ xa hết gạo mấy ngày cũng đi.
* Rừng già nhiều voi, rừng còi nhiều cọp. * Rượu để lâu rượu nhạt, chàm để lâu chàm phai.
* Rượu lạt uống lắm cũng say, người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.
* Rượu ngon bất luận ve sành, áo rách khéo vá hơn lành vụng may.
* Sa chân bước xuống ruộng dưa, dẫu là ngay thẳng vẫn ngờ là gian.
* Sang sông nên phải lụy đò, tối trời nên phải lụy o bán dầu.
* Sáng sao không bằng tối đèn. * Sáo đói sáo ăn lá đa, phượng hoàng lúc đói cứt gá cũng ăn.
* Sau cơn mưa, trời lại sáng.
(Việt-hóa tục ngữ Pháp:"Après la pluie, le beau temps").
* Sắc như mác, không bạc cũng cùn.
(bạc : mài). * Sắt vụn làm đinh, hết nghề đi lính.
(Quan niệm của thời kỳ xa xưa; Ngày nay nghề lính có giá-tri cao, bào-vệ tổ quốc).
* Sẩy chân gượng lại còn vừa, sẩy miệng biết nói làm sao bây giờ. * Siêng đi tát, nhác đi câu; muốn cho đầy nồi thì mau đi nhủi.
[nhủi (động tử): dùng cái nhủi đẩy dưới nước để bắt cá, tôm. Cái nhủi (danh từ): dụng cụ bằng tre dùng để bắt tôm, cá]. * Sinh con ai dễ sinh lòng.
* Sông bao nhiêu nước cũng vừa, trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.
* Sông có khúc, người có lúc.
* Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
* Sông sâu sào ngắn khó dò, người khôn ít nói khó đo được lòng. * Sống lâu ra lão làng.
* Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một mồ.
* Sống quê cha, làm ma quê chồng.
* Sợ mẹ sợ cha không bằng sợ tháng ba, tháng tám.
(Tháng ba và tháng tám là hai tháng giáp hạt, nông dân nghèo thiếu lương thực).
* Sợ người ở phải, hãi người cho ăn. * Tài giỏi làm quan, gan dạ làm giàu.
* Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
(tay quai : hai cánh tay khoanh lại; vòng tay). * Tằm vương tơ, nhện cũng vương tơ, mấy đời tơ nhện được như tơ tằm.
* Tấn về nội, thối về ngoại.
* Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà; trong ba việc ấy thật là khó khăn. * Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu thì lo.
* Thà rằng ăn bát cơm rau, còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời.
* Thà rằng chiếu lác có đôi, còn hơn chăn gấm lẻ loi một mình. * Tham thì thâm, đa dâm thì chết. * Tham thì thâm, lầm thì thiệt. * Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần.
(Thanh : Thanh Hóa. Thanh Hóa là quê hương của nhiều vị vua chúa, Nghệ : Nghệ An. Nghệ An có nhiều người học giỏi đỗ cao làm quan lớn).
* Thanh nhàn vô sự là tiên trên đời.
* Thánh nhân đãi kẻ khù khờ.
* Thành đá không bằng dạ người. * Thẳng da bụng thì chùng da mặt.
* Thật thà cũng thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
* Theo Đạo có gạo mà ăn.
(Đạo : Đạo Thiên Chúa La Mã. Dưới thời đô hộ Pháp, nhiều người theo Thiên Chúa giáo được ưu đãi, có nhiều quyền thế và giàu có).
* Thế gian ba sự không chừa: rượu nồng, dê béo, gái vừa đang tơ. * Thế gian chẳng ít thì nhiều, không dưng ai dễ đặt điều cho ai.
* Thế gian chuộng của chuộng công, nào ai có chuộng người không bao giờ.
* Thế gian còn dại chưa khôn, sống mặc áo rách, chết chôn áo lành. * Thế gian được vợ hỏng chồng, có mô mà đặng tiên rồng cả hai.
* Thế gian giúp miệng lao xao, ai cho đồng nào cho đỡ khó khăn.
* Thế gian khẩu khuyết vô bằng, không mà nói có biết mần răng đặng chừ.
* Thế gian lắm kẻ mơ màng, thấy hòn son đỏ tưởng vàng Trời cho.
* Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ, thợ bồ ăn nan, thợ hàn ăn thiếc.
* Thời gian không trở lại. * Thua thầy một vạn không bằng kém bạn một ly.
* Thui ra mới biết béo gầy, đến cơn gió cả biết cây cứng mềm. * Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng.
* Thuyền mạnh về lái, gái mạnh về chồng.
* Thứ nhất phao câu, thứ nhì đầu cánh.
* Thứ nhất sợ quan sai, thứ nhì sợ nợ đòi. * Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ khốn cùng liều thân.
* Thứ nhất thiên tai, thứ hai hỏa hoạn. * Thứ nhất thịt bò tái, thứ nhì gái đương tơ. * Thứ nhất vợ dại, thứ nhì trâu chậm, thứ ba nợ đòi.
* Thứ nhất vợ dại, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.
* Thức khuya mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người phải chăng.
* Thương chồng phải khóc mụ gia, ngẫm tôi với mụ có bà con chi.
* Thương người, người lại thương ta; ghét người, người lại ghét ta sự thường.
* Thương nhau lắm, cắn nhau đau. * Thương nhau như chị em gái, cải nhau như chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể.
* Tiền nào của nấy.
* Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống.
* Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa.
* Trăm cái đấm không bằng một cái đạp. * Trăm dao bầu không bằng một câu nói phải.
* Trăm đôm đốm không bằng bó đuốc.
* Trăm hay không bằng tay quen.
* Trăm hoa đua nở tháng giêng, có bông hoa cải nở riêng tháng mười. * Trăm hột cơm, có hột rơi hột vãi.
* Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
* Trăm nghe không bằng mắt thấy. * Trăm sông chảy về một biển.
* Trăng mờ còn tỏ hơn sao, dẫu rằng núi lở còn cao hơn đồi.
* Trâu ác trâu dạc sừng.
(dạc : mòn, sứt, mẻ). * Trâu cột thì ghét trâu ăn, quan võ thì ghét quan văn dài quần. * Trâu gầy cũng tầy bò giống.
* Trâu già thích gặm cỏ non.
* Trâu he cũng bằng bò khỏe.
(he : yếu). * Trâu kén cỏ trâu gầy, trò kén thầy trò dốt.
* Tre già có người chuộng, người già ai chuốc làm chi. * Tre non dễ uốn, trẻ con dễ dạy.
* Trẻ cậy cha, già cậy con.
* Trẻ khôn ra, già lú lẫn.
* Trẻ người non dạ.
* Trẻ vui nhà, già vui chùa. * Trên đời gì đẹp bằng sen; quan yêu dân chuộng, rã bèn cũng hư.
(rã bèn : rã rời).
* Trong nhà nhất mẹ nhì con, ra đường có kẻ lại giòn hơn ta.
(giòn : xinh đẹp).
* Trong xứ mù kẻ chột làm vua.
(Việt-hóa tục ngữ Pháp:"Au royaume des aveugles, les borgnes sont rois ").
* Trời Phật thì ở trên cao, nhiều tiền đong đầy, ít tiền đong vơi.
* Trúc xinh trúc mọc đầu đình, bậu xinh bậu đứng một mình cũng xinh. * Tuần hà là cha kẻ cướp. * Túm người có tóc, ai túm kẻ trọc đầu.
* Vạ tay không bằng vạ miệng. * Vàng mười, bạc bảy, thau ba; đem so với gạo hẳn là phải thua.
* Vàng rơi xuống nước khó tìm, người sai lời nói như chim sổ lồng.
* Vay nên nợ, đợ nên ơn.
(đợ: giúp đở).
* Vay thì ha há, trả thì lầm bầm.
* Vắng đồng đông chợ, vắng nợ nhẹ mình.
(vắng nợ : ít nợ). * Vắng trăng có sao, thiếu đào có mận, vắng hoa thiên lý có đào nhị non.
* Vì sương nên núi bạc đầu, biển lay bởi gió, hoa sầu vì mưa. * Voi chết vì ngà, chim chết vì bộ lông.
* Voi không nài như trai không vợ.
* Vô duyên lấy phải chồng già, ra đường người hỏi rằng cha hay chồng.
* Vô duyên lấy phải vợ già, ra đường người gọi là bà thân sinh. * Vô phước lấy đứa trẻ ranh, nó ăn nó phá tan tành nó đi. * Vôi nào là vôi chẳng nồng, gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
* Vợ đẹp chỉ tổ đau lưng, chè ngon khan cổ, điếu thông nặng đờm. * Xấu đều hơn tốt lỏi. * Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ.
* Xấu như ma, vinh hoa cũng đẹp. * Xem mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo bộ lòng mới ngon. * Xem trong bếp, biết nết đàn bà.
* Xưa nay các bạn má hồng, thà làm hầu quân tử hơn lấy chồng đần ngu.
* Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.
(Truyện Kiều. Nguyễn Du. Câu 420). * Yêu nhau chín bỏ làm mười.
* Yêu nhau lắm cắn nhau đau. * Yêu nhau xé lụa may quân, ghét nhau kể nợ kể nần nhau ra.
* Yêu vì nết, trọng vì tài.
25) Ăn
* Ăn cáy ngáy o o, ăn thịt bò lo ngay ngáy.
(cáy : loại cua nhỏ, sống ở nước lớ; rạm đầm nước lớ, thường làm mắm cáy).
* Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm.
* Ăn cơm không có rau, như đánh nhau không có người gỡ. * Ăn cơm không rau như đau không thuốc.
* Ăn được ngủ được là tiên, mất ăn mất ngủ là tiền vứt đi. * Ăn ít no lâu, ăn nhiều tức bụng. * Ăn khi đói, nói lúc say.
* Ăn lắm thì hết biết ngon, nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ.
* Ăn vóc học hay.
(ăn vóc : ăn đầy đủ).
26) Nghịch cảnh
* Ăn bát mẻ ngồi chiếu manh, ăn bát Đại Thanh ngồi chiếu miến điều.
* Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.
* Cha làm thầy, con đốt sách.
* Chính chuyên lấy chồng thợ giác, đĩ rạc lấy chồng quận công.
* Có tiếng, không có miếng.
* Con mèo làm vỡ nồi rang, con chó chạy lại bị oan đánh đòn.
* Con nhà lính, tính nhà quan.
* Cú nói có, vọ nói không.
* Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán.
* Đi buôn gặp ngày hồng thủy, làm đĩ gặp năm mất mùa.
* Đi buôn nói ngay, đi cày nói dối.
* Được lòng ta, xót xa lòng người.
* Hay làm mà chịu đói, hay nói lại được no.
* Kẻ ăn không hết, người mần không ra.
* Kẻ ăn ốc, người đổ vỏ.
* Không vay mà trả, không vả mà sưng.
* Làm hàng săng, chết bó chiếu.
(Hàng săng : nơi bán hòm, bán quan tài).
* Lắm mối, tối nằm không.
* Lọng vàng che nải chuối xanh, tiếc con chim phượng đậu cành tre khô. * Màn treo, chiếu rách cũng treo; hương xông nghi ngút, củi rều cũng xông. * Miệng khôn, trôn dại.
* Miệng ông cai, vai đầy tớ.
* Mình ở lỗ, cổ đeo hoa.
* Nhọc nhằn lưng bát, ngồi mát bát đầy. * Tiếc gái khôn lấy thằng chồng dại, tiếc hoa nhài cắm bãi cứt trâu.
* To đầu mà dại, nhỏ đái mà khôn. * Trai anh hùng vô duyên, gái thuyên quyên bạc phận.
* Trai làm nên, năm thê bảy thiếp; gái làm nên, thủ tiết thờ chồng.
27) Thiên nhiên, thời tiết
* Chiều chiều mây phủ Sơn Trà, chớp giăng Núi Chúa, trời đà chuyển mưa.
(Sơn Trà thuộc tỉnh Quảng Nam; Núi Chúa: núi Bà Ná). * Chiều chiều mây phủ Sơn Trà, én bay cửa Đại, trời đà chuyển mưa.
(Cửa Đại thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Chiều chiều mây phủ Sơn Trà, sấm rền Non Nước trời đà chuyển mưa.
(Non Nước thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Chiều chiều mây phủ Sơn Trà, sóng xô Cửa Đại, trời đà chuyển mưa.
* Chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè.
* Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa.
* Chớp thừng, chớp chão, chẳng bão thì mưa.
* Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì dim.
* Chuồn chuồn liệng thì nắng, chim én liệng thì mưa.
* Cò bay ngược, nước vô nhà; cò bay xuôi, nước lui ra biển.
* Cỏ gà loang lổ, trời đổ mưa ngay.
* Cỏ gà mọc lang, cả làng được nước.
* Cóc nghiến răng, đang nắng trở mưa.
* Con ếch mà kêu điếc tai, thì mưa sắp đến chẳng sai chút nào.
* Đầu năm sương muối, cuối năm gió bấc.
* Đêm nào sao sáng, trời trong, ấy là nắng ráo yên vui suốt ngày.
* Đêm tháng năm, chưa nằm đã sáng.
* Đời ông cho chí đời cha, mây phủ Sơn Trà, không gió thì mưa.
* Én bay thấp mưa ngập bờ ao, én bay cao mưa rào lại tạnh.
* ch kêu từng loạt, trời sắp chuyển mưa. * ch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước.
* Gió bấc hiu hiu, sếu kêu thì rét.
(sếu : loại chim cổ lớn, chân cao, mỏ dài, tiếng kêu rất to).
* Gió bấc thì hanh, gió nồm thì ẩm.
* Gió heo may, chẳng mưa dầm thì cũng bão.
* Gió heo may, chuồn chuồn bay thi bão. * Gió nam đưa xuân sang hè.
* Kiến bò từ dưới bò lên, thế nào cũng có mưa rào rất to.
* Kiến cánh vỡ tổ bay ra, bão táp mưa sa gần tới.
* Kiến dọn tổ, trời mưa.
* Kiến đen leo ngược, trời mưa như trút.
* Kiến đen tha trứng lên cao, thế nào cũng có mưa rào rất to.
* Kiến đen xuống hang, trời nắng chang chang.
* Mặt trời có quầng thì hạn, mặt trăng có tán thì mưa.
* Mặt trời đỏ như son, không mưa thì gió.
* Mây đàng Đông, cầu vòng đàng Tây, không mưa dai cũng bão đập.
* Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang, mây kéo lên ngàn thì mưa như trút.
* Mây vàng thì gió, mây đỏ thì mưa. (Vàng gió, đỏ mưa).
* Mây xanh thì nắng, mấy trắng thì mưa. (Xanh nắng, trắng mưa).
* Mống cao gió táp, mống áp mưa rào.
(mống : cầu vồng ở phía chân trời, còn gọi là móng chân trời. áp : thấp).
* Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa.
* Mống Đông, vồng Tây, không mưa dây cũng gió giật.
(vồng : cầu vồng). * Mống vàng thì nắng, mống trắng thì mưa.
* Mống xanh thì nắng, mống trắng thì mưa.
* Mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa, mồng ba lưỡi liềm.
* Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.
* Mùa nực gió đông thì đồng đầy nước.
* Mưa tháng ba, hoa màu tốt.
* Mưa tháng bảy, gãy cành tràm.
* Mưa tháng sáu, máu rồng.
(Rất tốt cho nhà nông).
* Mưa tháng tư, hư đất.
* Nắng chóng trưa, mưa chóng tối.
* Nắng tháng ba, chó già le lưỡi.
* Ngày tháng mười, chưa cười đã tối.
* Nhái nghiến răng, ao đầy nước.
* Nhiều sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
* Nửa đêm sao sáng mây cao, bầu trời nắng gắt, nắng gào chẳng sai.
* –c nhồi nổi ao, mưa rào lại tạnh.
* Ông tha mà bà chẳng tha, Trời làm cơn lụt hăm ba tháng mười.
* Quạ tắm thì nắng, sáo tắm thì mưa.
* Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa.
(ráng mỡ gà : đám mây có màu vàng mỡ gà; ráng mỡ chó : đám mây có màu hồng nhạt mỡ chó).
* Ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa.
(ráng : đám mây).
* Rét tháng ba, bà già chết cóng.
* Sao tỏ trời nắng, sao vắng trời mưa.
* Sao vắng thì mưa, sao thưa thì nắng.
* Sấm đông, sáng bắc, tía tây, chó đen ăn cỏ thì trời sẽ mưa.
* Sẩm đông trời mưa, sẩm dưa thời khú, sẩm nhủ thời chửa.
(sẩm : thâm; nhủ : núm vú).
* Tháng ba mưa đám, tháng tám mưa cơn.
* Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
* Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt.
* Tháng bảy kiến đàn, đại hàn hồng thủy.
* Tháng bảy nước nhảy lên bờ.
* Tháng bảy ông thị đỏ da, ông mít chơm chởm, ông đa rụng rời.
(ông thị : cây thi; ông mít : cây mít; ông đa : cây đa).
* Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa cữ.
* Tháng giêng rét dài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân.
(nàng Bần : lấy theo tích nàng Bân đan áo ấm cho chồng).
* Tháng mười chưa cười đã tối.
* Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động.
* Tháng sáu heo may, chẳng mưa thì bão.
* Tháng tám mưa trai, tháng hai mưa thóc.
* Tháng tám nắng rám trái bưởi. * Thâm đông, hồng tây, dựng mây, chẳng mưa dây cũng bão giật.
* Thâm đông, trống bắc, hễ nực thì mưa.
* Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.
* Trên trời có vảy tê tê, là mưa sắp sửa kéo về nay mai.
* Trời đã sẩm tối, gà còn đi bươi, là điềm báo trước thế nào cũng mưa.
* Vồng chiều mưa sáng, ráng chiều mưa đêm.
(vồng: cầu vồng; ráng : đám mây).
* Vồng thấp mưa rào, vồng cao gió táp
[28) Nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi
Kinh nghiệm của nhà nông trong các câu tục ngữ chỉ có giá-trị trong phạm-vi từng vùng vì mỗi vùng có đất đai, khí hậu, thời tiết khác nhau.
a/ Nông nghiệp
* Ai ơi, nhớ lấy lời này, nuôi tằm ba lứa, ruộng cày ba năm.
* Ăn kỹ no lạu, cày sâu tốt lúa.
* Bao giờ cho đến tháng hai, con gái làm cỏ, con trai be bờ.
* Cao bờ thì tát gàu giai, gàu sòng thì tát được nơi thấp bờ.
* Cày ruộng tháng mười, xem trăng mồng tám tháng tư.
* Cày ruộng tháng năm, xem trăng rằm tháng tám.
* Cày sâu, bừa kỹ mới mong được mùa.
* Cày sâu, cuốc bẫm, thóc đầy lẫm, khoai đầy bồ.
* Cày sâu tốt lúa.
* Cát liền tay, thịt chầy ngày.
(cát : đất cát; thịt : đất thịt. Đất cát thì phải cấy ngay; đất thịt thì phải cày bừa cho thật kỹ mới cấy).
* Cắt rạ dùng gạt, quét nhà dùng chổi. * Cấy lúa ruộng lạ, gieo mạ ruộng quen.
* Cấy thưa hơn bừa kỹ.
* Cấy thưa, thừa đất; cấy dày thóc đầy kho.
* Cấy thưa, thừa thóc; cấy dày cóc được ăn.
* Cấy thưa, thừa thóc; cấy dày nhọc làm rơm.
* Chiêm hơn chiêm sít, mùa ít mùa nở.
(Gạo chiêm rẻ tiền hơn gạo mùa nhưng không nở, không ngon bằng gạo mùa. Gạo chiêm nấu ít nở; gạo mùa nấu nở to hơn).
* Chớ tham những ruộng hai mùa; chiêm se, gié ngập, ăn thua nỗi gì.
(se : bớt nước; gié : lúa ré).
* Có chồng nghề ruộng em theo, có chồng nghề biển hồn treo cột buồm.
* Con trâu là đầu cơ nghiệp.
* Công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn.
* Công danh đeo đuổi làm chi, sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông.
* Cơm ăn một bát sao no, ruộng cày một vụ sao cho đành lòng.
* Cơn đằng Bắc, đổ thóc ra phơi.
(cơn : đám mây đen).
* Cơn đằng Đông, vừa trồng vừa chạy.
* Cơn đằng Nam, vừa làm vừa chơi.
* Cơn đằng Tây, vừa cày vừa ăn.
* Dân quê dãi nắng dầm mưa, dấn thân làm cỏ, cày bừa quanh năm.
* Dưa gang một, chạp thì trồng; chiêm cày trước Tết thì lòng dỡ lo.
(một : tháng mười một; chạp : tháng chạp, tháng mười hai).
* Đắt lúa tẻ, rẻ lúa nếp.
* Đất cao trồng hoa màu, ruộng sâu cấy lúa chiêm.
* Đói chớ ăn thóc giống, túng chớ bán lợn mẹ.
* Đói thì ăn môn ăn khoai, chớ thấy lúa trỗ tháng hai mà mừng.
* Được mùa cau, đau mùa lúa.
* Được mùa, kén những tám xoan; đến khi cơ hàn, sắn cũng như chiêm.
* Được mùa lúa, úa mùa cau.
* Được mùa xoài, hoài mùa lúa.
* Được mùa xoài, mất mùa chiêm.
* Giàu ruộng đợ, nợ ruộng thuê.
* Gió bấc là duyên lúa mùa.
* Gió đông là chồng lúa chiêm.
* Gỗ kiền thì để đóng cày; gỗ lim, gỗ sến thì ta đóng bừa.
* Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen.
* Không nước, không phân, chuyên cần vô ích.
* Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng.
* Làm ruộng có năm, nuôi tằm có lứa.
* Làm ruộng không trâu như làm dâu không chồng.
* Làm ruộng phải có trâu, làm giàu phải có vợ.
* Làm ruộng sắm cày, ăn mày sắm bị gậy.
* Lập thu mới cấy lúa mùa, khác nào hương khói lên chùa cầu con.
(Lúa mùa mà cấy sau lập thu là quá muộn).
* Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.
* Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, tháng ba sấm động, phất cờ mà lên.
* Lúa chiêm thì cấy cho sâu, lúa mùa thì gẫy cành dâu là vừa.
* Lúa ré là mẹ lúa chiêm. * Lúa thước hai, khoai thước mốt. * Lúa trỗ, ngả mạ, vàng rạ thì mạ xuống đồng.
* Mạ chiêm ba tháng chưa già, mạ mùa tháng rưỡi ắt là chẳng non.
* Mạ chiêm đào sâu chôn chặt, mạ mùa vừa đặt vừa đi.
* Mạ chiêm không có bèo dâu, khác nào như thể ăn trầu không vôi.
* Mạ mùa chọn xướng cao, mạ chiêm chọn ao thấp.
(xướng : mảnh ruộng nhỏ, cạn).
* Mạ úa cấy lúa chóng xanh.
* Mồng chín tháng chín có mưa thì ta sắm sửa cày bừa làm ăn.
* Mồng chín tháng chín có mưa, cha con đi sớm về trưa mặc lòng.
* Mồng chín tháng chín không mưa, bán cả cày bừa mà lấp ruộng đi. * Mồng chín tháng chín không mưa, thì ta bán cả cày bừa mà đi buôn.
* Mồng tám tháng tám không mưa, bỏ cả cảy bừa mà nhổ lúa đi.
* Mồng tám tháng tư không mưa, bỏ cả cày bừa mà vứt lúa đi.
* Một lượt nhổ cỏ, thêm giỏ thóc đầy.
* Một lượt tát nước, một bát cơm đầy.
* Một sào đất nhà bằng ba sào đất ruộng.
* Muỗi tháng tám, cám tháng mười.
* Muốn ăn lúa tháng mười, trông trăng mồng mười tháng tư. * Muốn ăn lúa tháng năm, trông trăng rằm tháng tám.
* Muốn cho lúa nảy bông to, cày sâu, bừa kỹ, phân tro cho nhiều.
* Mưa tháng ba hoa đất.
* Mưa tháng tư hư đất.
* Năm trước được mùa cau, năm sau được mùa lúa.
* Nắng đan đó, mưa gió đan gàu.
(đó : đồ dùng để bắt tôm cá).
* Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa.
* Ngày thì đem lúa ra phơi, tối lặn mặt trời đổ thóc ra xay.
* Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân.
* Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
* Nhất ruộng, nhì mạ, thứ ba chuyên cần.
* Nhất sĩ nhì nông; hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.
* Nơi sâu ta để cấy chiêm, nơi nào cao ráo thì ta cấy mùa.
(chiêm : lúa chiêm; mùa : lúa mùa).
* Phân tro không bằng no nước.
* Quanh năm cấy hái cày bừa; vụ chiêm vào Hạ, vụ mùa vào Đông.
* Răng bừa tám cái còn thưa, lưỡi cày tám tấc đã vừa luống to.
* Rèn một lưỡi gạt bằng ba lưỡi hái.
(gạt : dụng cụ cắt rạ).
* Ruộng cao thì trồng hoa màu, ruộng sâu thì cấy lúa chiêm.
* Ruộng hoang, ta khẩn còn thành; huống chi ruộng thuộc, sao đành bỏ hoang.
* Ruộng không phân như thân không của.
* Ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau.
* Sáng ngày chẳng dắt trâu đi, tháng ba tháng tám lấy gì mà ăn.
(Tháng tám và tháng ba là hai tháng giáp hạt. Giáp hạt là khoảng thời gian sắp đến vụ lúa mới, các nhà nông nghèo cạn nguồn lương thực). * Sao tua đứng trốt, lúa lốc được mùa.
(sao tua : sao chổi; đứng trốt : trên đỉnh đầu; trốt : cái đầu; lúa lốc : lúa đồi nương).
* Sâu cấy lúa, cạn gieo bông; chẳng ươm được đậu thì trồng ngô khoai.
* Sợ mẹ sợ cha chẳng bằng sợ tháng ba ngày dài.
* Tháng ba cày vỡ ruộng ra, tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.
* Tháng chạp mà cấy mạ non, thà rằng công ấy ở nhà bồng con.
* Tháng giêng ăn nghiêng bồ thóc.
* Tháng giêng đồng lúa xanh rì, tháng hai lúa trổ, tháng ba lúa vàng.
* Tháng giêng ra ruộng đi cày, tháng hai vãi lúa, ngày ngày chăm lo.
* Tháng hai đi tậu trâu bò, cày đất cho nhuyễn, mạ mùa ta gieo.
* Tháng mười có sấm, cấy trên nấm cũng được ăn.
* Tháng sáu gọi cấy rào rào, tháng mười lúa chín, mõ rao cấm đồng.
* Tháng sáu mà cấy mạ già, thà rằng công ấy ở nhà bồng con.
* Tháng tám chưa qua, tháng ba đã tới.
(Tháng tám và tháng ba là hai tháng giáp hạ).
* Tháng tám tre non, làm nhà; tháng năm tre già, làm lạt.
* Tháng tư mua nứa đan thuyền, tháng năm tháng sáu gặt miền ruộng chiêm.
* Thóc lúa về nhà, lợn gà ra chợ.
* Thuận mưa lúa tốt đằng đằng, tháng mười gặt lúa, cả nhà vui chơi.
* Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân.
(cày nỏ : cày lật đất để cho đất khô, đất nhuyễn).
* Thứ nhất cày sâu, thứ nhì phân bón.
* Thưa mạ, tốt lúa. * Thừa mạ thì bán, chớ cấy ráng ăn rơm.
* Tỏ trăng mười bốn được tằm, tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm.
* Tốt giống tốt mạ, tốt mạ tốt lúa.
* Tốt quá hóa lúa lốp.
(lúa lốp : hạt lúa lép; chỉ có vỏ, không có gạo trong vỏ).
* Trăng mờ, tốt lúa nỏ; trăng tỏ, tốt lúa sâu.
* Trâu gầy cũng tày bò giống.
* Trâu ho cũng bằng bò rống.
* Trâu khỏe chẳng lo cày trưa.
* Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, bò năm sáu tuổi đã toan về già.
* Trâu què cũng bằng bò khỏe.
* Trâu sợ gió, bò sợ mưa.
* Trâu ta ăn cỏ đồng ta, đừng ham cỏ tốt ăn qua đồng người.
* Trâu ta ăn cỏ đồng ta, tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm.
* Trên đồng cạn, dưới đồng sâu; chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
* Trời mưa cho lúa thêm bông, cho nước thêm cá, cho sông thêm thuyền.
* Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa.
* Trời nồm tốt mạ, trời giá tốt rau.
* Tua rua mọc, vàng cây héo lá; tu rua lặn, chết cá chết tôm.
(tua rua : cụm sao nhỏ kết thành một đám lờ mờ, thường nhìn thấy vào sáng sớm đầu tháng 6 dương lịch). * Tua rua một tháng mười ngày, cấy trước vụng cày cũng được lúa xơi.
* Tua rua thì mặc tua rua, mạ già, ruộng ngấu, không thua bạn điền.
(ruộng ngấu : đất ruộng nhuyễn, thấm nhiều nước).
* Văn chương, phú lục chẳng hay; trở về làng cũ học cày cho xong.
(Ca dao)
* Vụ chiêm được mùa hơn vụ mùa thất bại.
* Vụ mùa cấy cao, vụ chiêm cấy trũng.
* Xay lúa có ràng, việc làng có mõ.
(ràng : cối xay lúa).
b/ Chăn nuôi, trồng trọt:
* Ao sâu tốt cá. * Bao giờ đom đóm bay ra, hoa gạo rụng xuống thì gieo hạt vừng. * Cả cây, nậy buồng. * Chấm trán, nhọ đuôi, không nuôi cũng phí.
(Cách chọn mua heo giống tốt). * Chó khôn tứ túc huyền đề, tai thì hơi quặp, đuôi thì hơi cong. * Chùng đùi, ngắn quản, ngắn đuôi; sừng to, móng hến thì nuôi đáng tiền.
* Chuồng gà hướng đông cái lông chẳng còn. * Cuối thu trồng cải, trồng cần. * Dâu năng hái như gái năng tô. * Đất thiếu trồng dưa, đất thừa trồng đậu.
* Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau.
* Đất tốt trồng đậu trồng cà, đất mà không tốt, nuôi gà nuôi heo.
* Đen đầu thì bỏ, đỏ đầu thì nuôi.
(Kinh nghiệm nuôi tằm). * Đom đóm bay ra, trồng cà trồng đậu. * Đốm đầu thì nuôi, đốm đuôi thì thịt.
(Xem tướng con trâu). * Được mùa nhãn, nạn nước to.
* Gà đen chân chì, nuôi chi giống ấy. * Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua.
* Gà nâu chân thấp mình to, đẻ nhiều, trứng lớn, khéo nuôi con đàn.
* Gà ri nhỏ thó nhưng mà đẻ sây.
* Gà trắng chân chì không mua giống ấy.
* Giàu nuôi lợn đực, khổ cực nuôi lợn cái.
* Không nuôi gà giống pha màu, đẻ không được mấy, nuôi con vụng về. * Lá dâu non, ngon miệng tằm. * Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa. * Lang đuôi thì bán, lang trán thì nuôi.
(lang : vết lang. Kinh nghiệm chăn nuôi trâu bò: con trâu hay bò có vét lang ở đuôi thì không tốt cho chủ, con nào có vét lang trên trán thì cày bừa tốt). * Lên non đón gió tìm trầm, nuôi ong lấy mật, nuôi tằm nhả tơ.
* Lợn bột thì thịt ăn ngon, lợn nái thì đẻ lợn con cũng lời.
* Lợn đói một năm, không bằng tằm đói một bữa.
* Lợn đực chuộng phệ, lợn nái chuộng chõm.
( phệ : bụng bự; chõm : bụng nhỏ, dài, thon. Kinh nghiệm chọn lợn giống).
* Lợn đực nhìn hông, lợn nái nhìn mõm.
(Nhìn hông trước tròn là béo; mõm dài háo ăn, đẻ nhiều). * May mùa đông, trồng mùa xuân.
* Mắt bánh rán, trán bánh chưng, lưng tôm càng.
(Kinh nghiêm chọn chó để nuôi).
* Mía trồng trông nắng, sắn trồng trông mưa.
* Mít tỉa cành, chanh tỉa rễ.
(Kinh nghiệm muốn cây có nhiều trái). * Một cây mít bằng một sào ruộng.
* Một con heo nái bằng một vại tiền chôn.
* Một con tằm cũng phải hái dâu, một con trâu cũng phải đứng đồng. * Một năm nuôi tằm bằng ba năm làm ruộng. * Một nong tằm là ba nong kén, một nong kén là chín nén tơ.
* Muốn giàu nuôi heo nái, muốn bại hoại nuôi bồ câu. * Nhất to là giống gà nâu, lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều. * Nuôi gà phải chọn giống gà, gà ri nhỏ bé nhưng mà đẻ mau.
* Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng.
* Nuôi lợn lấy mỡ, nuôi người đỡ chân tay. * Tam tinh xoáy sọ thì đừng, đốm đuôi sát chủ thì đưa vào lò.
(Tướng xấu của con trâu). * Tằm đỏ cổ thì vỗ dâu vào.
* Tằm đói một bữa bằng người đói nửa năm.
* Tháng chạp trồng khoai, tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
* Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai trồng đậu, tháng ba hội hè.
* Tháng giêng thiếu mất khoai, tháng hai thiếu mất đậu.
* Tháng giêng trồng củ từ, tháng tư trồng củ lạc.
* Tháng giêng trồng trúc, tháng sáu trồng tiêu. * Tháng hai trồng cà, tháng ba trồng đậu.
* Tháng tám thiếu, mất hoa ngư; tháng tư thiếu, mất hoa cốc.
* Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đậu, thiếu tháng tư khó nuôi tằm, thiếu tháng năm khó làm ruộng.
* Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đậu, thiếu tháng tư mất hoa ngư, thiếu tháng năm mất hoa cốc.
* Thưa cây nậy buồng.
* Trẻ trồng na, già trồng chuối.
* Trồng cây đừng cho đụng lá, nuôi cá đừng cho đụng vi.
* Trồng khoai gặp buổi gió đông, đặt dây lộn ngược cũng không việc gì.
* Trồng lang kiêng ngày gió bấc.
* Trồng mướp tháng hai vừa sây vừa tốt. * Trồng trầu đắp nấm cho cao, che cho sương nắng khỏi vào gốc cây. 29) Ngư nghiệp
* Ai ơi, về miệt Tháp Mười, cá tôm sẵn có, lúa trời dư ăn.
(Tháp Mười: Đồng Tháp Mười thuộc Nam Việt). * Ai về chợ Được sông dài, tôm cá thổ sản, chuôm gai cũng nghề.
(Chợ Được thuộc huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. sông dài: Con sông ở chợ Được có tên là sông Trường Giang).
* Ai về Cồn Hến thì về, ăn cơm ba bữa, làm nghề thụt lui.
(Cồn Hến thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. nghề thụt lui: vùng Cồn Hến có nhiều người làm nghề cào hến; khi cào hến, ngư dân phải đi thụt lui). * Ai về Cửa Nhượng thì về; gạo nhiều, lắm cá, dễ bề làm ăn.
(Cửa Nhượng là một cửa sông nước chảy ra biển, thuộc tỉnh Hà Tĩnh).
* Ai về Hà Quảng, Hà My, cá tươi nước mắm thiếu gì bạn ơi.
(Hà Quảng, Hà My thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam biến chế cá cơm, cá nục thành nước mắm).
* Ai về Tam Hải, Tam Quang, nhớ đem bao tải mà mang cá về.
(Hai xã Tam Hải, Tam Quang thuộc huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Hai xã này làm nghề chài lưới, nổi tiếng thu hoạch được nhiều cá).
* Ao sâu tốt cá.
* Bao phen quạ nói với diều, cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.
* Cá chuồn nhiều nhất Thanh Khê; Tân Lưu dân cũng làm nghề biển Đông.
(Làng Thanh Khê thuộc thành phố Đà Nẵng; làng Tân Lưu thuộc quận Ngũ Hành Sơn, tỉnh Quảng Nam).
* Cá sông cá biển đứng đầu Hội An.
(Thành phố cổ Hội An nằm trên bờ sông Cửa Đại. Cửa Đại là cửa sông của con sông nước ngọt; nước ngọt chảy ra biển. Nên có nhiều cá sông và cá biển).
* Mãn mùa tu hú kêu nhanh, cá chuồn đã vãn sao anh chưa về.
(Mùa chim tu hú kêu cũng là mùa đánh bắt cá chuồn). * Một ngày quăng chài, bảy mươi hai ngày phơi lưới.
* Mùa hè cá sông, mùa đông cá biển.
* Muốn ăn cá lớn phải thả câu dài.
* Nghề biển ngó đó khó coi; gặp cơn gió lốc, hồn treo cột buồm. * Nghề hến không đói mà no; cái ruột, cái vỏ, cái tro cũng có tiền.
* Những người đi biển lành nghề, thấy dòng nước xoáy trở về không đi. * Nom ra ngoài biển mù mù, thấy anh câu nục, câu ngừ mà thương.
(Nom : nhìn; nục : cá nục; ngừ : cá ngừ). * Tháng ba, bà già đi biển.
(Biển tháng ba ít sóng gió). * Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn ruốc.
(rươi : giun ở vùng nước lợ, có thể ăn được. Ruốc : mắm tép; mắm huyết; huyết là tép biển màu hồng). * Tháng năm cá mòi, tháng mười cá nục.
* Tiếng đồn con gái Phú Yên, con trai Bình Thuận đi cưới một thiên cá mòi.
(Tỉnh Bình Thuận có thành phố Phan Thiết nằm bên bờ biển Đông; biển Phan Thiết có nhiều cá mòi; Phan Thiết sản xuất nước mắm cá mòi nổi tiếng).
* Tiếng đồn nước mắm Nam Ổ, nơi đây mực ép, cá khô cũng nhiều.
(Nam Ổ thuộc tỉnh Quang Nam, nằm dưới chân đèo Hải Vân).
* Tôm bơi chạng vạng, cá lội rạng đông.
(Chạng vạng: vào lúc trời nhá nhem tối; hoàng hôn). * Trà Linh nước chảy đằm đằm, cá tôm dưới vực, rồng nằm dinh Ông.
(Trà Linh thuộc huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam).
* Trà Nhiêu ăn cá bỏ đầu, Kim Bồng nghe nói qua xâu xách về.
(Biển Trà Nhiêu thuộc huyện Duy Xuyên có nhiều cá. Làng Kim Bồng, thuộc thành phố HộI An, dân làng chuyên nghề thợ mộc nổi tiếng).
30) Buôn bán
* Ăn lời tùy chốn, bán vốn tùy nơi.
* Bán gà kiêng ngày gió, bán chó kiêng ngày mưa.
* Bán gạo tháng tám, mua vải tháng ba.
* Bán hàng nói thách, làm khách trả rẻ.
* Bán rẻ còn hơn đẻ lãi.
* Bán rẻ còn hơn ngồi không.
* Bán quạt mùa đông, bán áo bông mùa hè.
(Người không biết làm nghề buôn bán).
* Bầu già thì ném xuống ao, bí già đóng cửa làm cao đắt tiền.
* Buôn có bạn, bán có phường. * Buôn gặp chầu, câu gặp chỗ.
* Buôn tài không bằng nhiều vốn.
* Cả vốn lớn lãi.
* Cầm mất lãi, chẳng bằng bán vãi ngay đi.
* Cho nhau vàng không bằng trỏ đàng đi buôn.
* Có vốn rồi mới có lãi. * Dù ai buôn bán rành nghề, gặp ngày con nước cũng về tay không.
( ngày con nước : ngày mồng năm. "Mồng năm, mười bốn, hăm ba, đi chơi cũng lỗ huống là đi buôn").
* Đắt ra quế, ế ra củi.
* Đầu năm buôn muối, cuối năm buôn vôi.
* Đi buôn, bữa lỗ bữa lời; ra đi cho biết mặt trời mặt trăng.
* Đi buôn có số, làm ruộng có mùa.
* Đi buôn không tiền như canh điền không trâu.
* Được mùa buôn vải bán vóc, mất mùa buôn thóc bán gạo.
* Khéo bán khéo mua vẫn thua người khéo nói. * Một trăm người bán, một vạn người mua. * Mua lầm, bán không lầm.
* Mua thì thêm, chêm thì chặt.
* Mua trâu xem sừng, mua chó xem chân.
* Muốn giàu thì buôn bè, muốn què thì tập vật.
* Nhiều vốn nhiều lãi, nhiều heo nái nhiều heo con.
* Quen mặt , đắt hàng.
(Bán hàng đắt cho người quen!).
* Rẻ tiền mặt, đắt tiền chịu.
* Tháng năm bán trước, tháng mười buôn sau.
31) Đặc sản
* Ai qua Phú Thọ, nhớ khoai sắn mì.
(Phú Thọ thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Ai về Cao Lãnh, Hòa An, nhớ mua bánh thuốc về làng biếu cha.
(Bánh thuốc : một gói lớn thuốc hút bó chặt. Cao Lãnh, Hòa An thuộc tỉnh Đồng Tháp).
* Ai về Cao Lãnh thì về, nước trong gạo trắng dễ bề làm ăn.
(Cao Lãnh cũ thuộc tỉnh Đồng Tháp, Nam Việt).
* Ai về chợ Vạn thì về, chợ Vạn có nghề nấu rượu, có tài nuôi heo.
(Chợ Vạn thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).
* Ai về Gia Định thì về, nước trong gạo trắng dễ bề làm ăn.
(Tỉnh Gia Định thuộc Nam Việt). * Ai về Gò Nổi quê ta, đồng dâu xanh biếc, mỗi nhà đầy tơ.
(Gò Nổi thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).
* Ai về Hà Tĩnh thì về, mặc lụa chợ Hạ, uống chè Hương Sơn. * Ai về nhớ quế Trà My, nhớ tiêu Tiên Phước, nhớ mì Hội An.
(Trà My, Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Nam. Hội An là một thành phố cổ, thành phố lịch sử, thuộc tỉnh Quảng Nam, một địa danh du lịch nổi tiếng).
* Ai về nhớ vải Định Hòa, nhớ cau Hổ Bái, nhớ cà Đan Nê.
(Đinh Hòa, Hổ Bái, Đan Nê thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa).
* Ăn dừa xanh, nhớ Kỳ Hà.
(Kỳ Hà thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Bạc vàng thì ở Bồng Miêu; Phó Nam, Phú Thượng biết bao nhiêu là chè.
(Phò Nam, Phú Thượng thuộc huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam).
* Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng tôm Sơn Đốc.
(Mỹ Lồng, Sơn Đốc thuộc miền tây Nam Việt).
* Biên Hoà có bưởi Thanh Trà, Thủ Đức nem nướng, Diện Bà Tây Ninh.
(Bưởi Thanh Trà : thường gọi là bưởi Biên Hòa. Thủ Đức : quận Thủ Đức, ngoại ô thành phố Sai-Gòn; Diện Bà ở Núi Bà, tỉnh Tây Ninh).
* Bốn mùa, ta chẳng phải lo, gạo Đồng nai, vải Nghệ Tĩnh, ấm no trọn đời.
* Cá bống Bích La, gà Trại Lộc.
(Bích La, Trại Lộc thuộc tỉnh Quảng Trị).
* Cá giếc nấu với rau câu, ăn vào một bát, lâu lâu lại thèm.
* Cá rô, chim mía, lúa trì; ai về Điện Thọ thì đi không đành.
(Điện Thọ thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Cá tôm mua tại chợ Sình, Triều Sơn bán nón, Bao Vinh bán đường.
(Chợ Sình thuộc làng Lại An, tỉnh Thừa Thiên. Triều Sơn thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Chợ Bao Vinh thuộc làng Thế Lại, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên).
* Cá tràu Võ Cạnh, sò huyết Thủy Triều.
(Võ Cạnh, Thủy Triều thuộc tỉnh Khánh Hòa).
* Cha em thợ mộc Kim Bồng, muốn em có chồng ở xứ Khánh Vân.
(Dân làng Kim Bồng làm nghề mộc, dân làng Khánh Vân làm nghề hồ).
* Chim mía Xuân Phổ, cá bống Sông Trà.
(Xuân Phổ, Sông Trà thuộc tỉnh Quảng Ngãi).
* Chợ Dinh bán áo con trai, Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.
(Chợ Dinh nằm bên bờ sông Gia Hội, cuối đường Chi Lăng, thuộc xã Phú Hiệp, thành phố Huế. Triều Sơn thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Mậu Tài thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên).
* Chuối xanh nấu với ốc nhồi, tuy nước nó đục mà mùi thơm ngon.
* Cơm trì với cá rô chiên, ăn đà no bụng còn ghiền muốn thêm.
(Cơm trì : cơm nấu gạo trì).
* Củ khoai Trà Đõa cái ruột trắng xóa, thuốc lá Bến Đền khói tỏa mùi thơm. (Làng Trà Đõa thuộc huyện Thăng Bình và làng Bến Đền thuộc huyện Đại Lộc, hai làng này thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Duy Xuyên tơ lụa mỹ miều, buổi mai mắc cửu, buổi chiều giăng tơ.
(Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Đồng Nai gạo trắng nước trong, hễ ai đến đó thì không mong về. * Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh, nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.
(Đồng Tháp Mười thuộc Nam Việt).
* Đức Thọ gạo trắng nước trong, ai về Đức Thọ thong dong con người.
(Đức Thọ thuộc tỉnh Hà Tĩnh).
* Gặp cơm Ba Thắc thơm ngon, chan nước mắm hòn, ăn chẳng muốn thôi.
(Ba Thắc thuộc tỉnh Hậu Giang. Nước mắm hòn : nước mắm Phú Quốc).
* Gỏi nào cho bằng gỏi cá kìm, dọn ra đãi bạn trọn niềm thủy chung.
* Hết gạo đã có Đồng Nai, hết củi đã có Tân Sài chở vô.
(Đồng Nai là tỉnh Biên Hòa. Tân Sài là một làng thuộc tỉnh Quảng Trị).
* Hồ Tịnh Tâm giàu sen bạch diệp, đất Hương Cần ngọt quít thơm cam.
(Hồ Tịnh Tâm gần cửa Hiển Nhân thành nội, thuộc thành phố Huế; làng Hương Cần thuộc tỉnh Thừa Thiên).
* Hội An có hến thường xuyên, mỗi mai mỗi bán, rẻ tiền dễ ăn.
* Hôm nay ăn mía Triệu Tường, đợi mắm Nam Ổ, đợi đường Phú Yên.
(Triệu Tường thuộc tỉnh Thanh Hóa. Nam Ổ là một làng nằm dưới chân đèo Hải Vân, thuộc tỉnh Quảng Nam, sản xuất nước mắm ngon có tiếng. Phú Yên là tỉnh Phú Yên, miền nam Trung Việt).
* Kẹo gương Thù Xà, mạch nha Thi Phổ.
(Thù Xà,Thi Phổ thuộc tỉnh Quảng Ngãi).
* Khoai quán Ngang, dầu tràm Đại Nại.
(Quán Ngang, Đại Nại thuộc tỉnh Quảng Trị).
* Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông.
(Trà Bát, chợ Sông thuộc tỉnh Quảng Trị).
* Lụa tơ Trà Kiệu, Mã Châu, đã từng có tiếng dài lâu chắc bền.
(Trà Kiệu, Mã Châu thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam).
* Măng cụt Hàm Luông vỏ ngoài nâu, trong trắng, ăn ngon hơn đường.
(Hàm Luông thuộc tỉnh Bến Tre).
* Miệt Trà My thơm ngát mùi rừng quế, nước Thu Bồn xanh bát ngát vườn dâu.
(Huyện Trà My thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu; mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh.
(Chợ Quán thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Chợ Cầu thuộc làng Phù Lương, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Nam Phổ cách trung tâm thành phố Huế vào khoảng hai, ba cây số, nằm trên đường đi từ thành phố Huế đến bãi biển Thuận An. Chợ Dinh nằm bên bờ sông Gia Hội, cuối con đường Chi Lăng, thuộc phường Phú Hiệp, thành phố Huế. Trước kia vùng này có nhiều dinh thự của các ông hoàng, bà chúa nên chợ có tên là chợ Dinh)
* Muốn ăn cá bống kho gừng, thì về Kẻ Mỹ đánh thừng cùng anh.
(Kẻ Mỹ là làng Mỹ Đà thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
* Muốn ăn cơm tấm canh cần, thì về Trinh Tiết chăn tằm cùng anh.
(Làng Trinh Tiết thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây).
* Muốn tắm mát, lên ngọn sông đào, muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh.
[Cây sim (cũng như cây muồng) mọc rất nhiều ở các đồi núi thấp. Vùng đồi núi thấp thuộc ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên có rất nhiều cây sim (và cây muồng)].
* Nam Ổ nước mắm thơm nồng, đi mô cũng nhớ mùi hương quê nhà.
(Nam Ổ nằm dưới chân đèo Hải Vân, thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Nem chả Hòa Vang, bánh tổ Hội An, khoai lang Trà Kiệu, thơm rượu Tam Kỳ.
(Hòa Vang, Hội An, Trà Kiệu, Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Nem chợ Sãi, vải La Vang.
(Chợ Sãi, LaVang thuộc tỉnh Quảng Trị).
* Ngày mùa nhớ mì Quảng, nhớ dừa Tam Hải, nhớ thơm Chiêm Đàn.
[Mì Quảng là móng ăn đặc biệt của tỉnh Quãng Nam. Chiêm Đàn thuộc thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Thơm (tiếng miền Trung) là dứa (tiếng miền Bắc), là khóm (tiếng miền Nam)].
* Nhất ngon là đầu cá gáy, nhất thơm là cháy cơm nếp.
* Nhớ dừa Quảng Hán, Lưu Khê, nhớ cơm chợ Bản, thịt dê quán Lào.
(Quảng Hán, Lư Khê, chợ Bản, quán Lào thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa).
* Quảng Nam có lụa Phú Bông, có khoai Trà Đõa, có sông Thu Bồn.
* Quảng Nam nổi tiếng lòn bon, chà viên Bình Định vừa ngon vừa hiền.
* Quê nhà thổ sản lòn bon; Trước Hà, Trung Đạo núi non điệp trùng.
(Trước Hà, Trung Đạo thuộc tỉnh Quảng Nam có nhiều cậy lòn bon moc trong rừng núi thiên nhiên).
* Thanh Hà gạch ngói đá vôi, Kim Bồng chạm trổ gỗ cây muôn đời.
(Làng Thanh Hà làm gạch ngói, làng Kim Bồng làm nghề mộc, cả hai làng này thuộc thành phố cổ Hội An).
* Thanh Hà làm gạch bắt nồi, thuốc Cẩm Lệ, mấy đời lừng danh.
(Làng Cẩm Lệ thuộc huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam).
* Thấm lòng chia vị lòn bon, chè tươi ai hái, ngát hương An Bằng.
(An Bằng thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam).
* Thấy dừa thì nhớ Bến Tre, thấy bông sen nở nhớ đồng quê Tháp Mười.
* Thuốc An Lương hương thơm khói nhẹ, chè Hòa Hội nước đậm mùi thơm.
(An Lương, Hòa Hội thuộc tỉnh Bình Định).
* Thuốc rê Cao Lãnh thơm nồng, con gái Cao Lãnh má hồng có duyên.
(Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp).
* Thứ nhất, nước mắm Nam Ổ; thứ nhì, cá rô Xuân Thiều.
(Nam ổ, Xuân Thiều thuộc tỉnh Quảng Nam).
* Thương nhau múc bát chè tươi, làm tô mì Quảng anh xơi cho ấm lòng.
* Tôm hùm Bình Ba, nai khô Diên Khánh.
(Bình ba, Diên Khánh thuộc tỉnh Khánh Hoa).
* Trái lòn bon ăn ngon đỡ đói, ở tận trên rừng, chúa gọi Nam Trân.
[Vua Minh Mạng khen trái bòn bon ăn ngon, nên đặt tên là Nam Trân, tức là thức ăn quí ở phương Nam. Năm 1836, nhà vua cho khắc trái bòn bon trên Nhân Đỉnh, một đỉnh trong chín cái đỉnh lớn (cửu đỉnh) đặt trong thành nội, cung điện nhà Nguyễn].
*Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm; cá rô đầm Sét, sâm cầm hồ Tây.
(vải : trái vải; húng : rau húng; sâm cầm : chim sâm cầm; Quang, Láng, Đầm, đầm Sét và hồ Tây thuộc địa phận Hà Nội).
* Yến sào Hòn Nội, vịt lội Ninh Hòa.
(Hòn Nội, Ninh Hòa thuộc tỉnh Khánh Hòa).
32) Ông Trời
* Ai bỏ cha mẹ cơ hàn, ngày sau Trời phạt đứng đàng ăn xin.
* Ai mà nói dối với ai, thì Trời giáng họa cây khoai giữa đồng.
* Ai mà nói dối với chồng, thì Trời giáng họa cây hồng bờ ao.
* Bắc thang lên hỏi ông Trời có tiền cho gái có đòi được không? * Biết cơ Trời, việc đời chẳng khó.
* Biết mệnh Trời, mười đời chẳng khó.
* Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính.
* Chẳng sợ gì Trời, chỉ sợ lời nói phải. * Của Thiên trả cho Địa. * Của Trời tám vạn nghìn tư, có phúc thì gặp, có tu thì nhờ. * Của Trời tám vạn nghìn tư, hễ ai có phúc thì Trời ban cho.
* Của Trời, Trời lại lấy đi, giương hai mắt ết làm chi được Trời.
[ết (từ cổ) : con ếch].
* Đã sinh ra kiếp làng chơi, thì Trời lại đọa vào nơi không tiền.
* Đừng lo cái áo cụt tay, Trời mà ngó lại vá may mấy hồi.
* Ghét của nào Trời trao của đó.
* Ngắn cổ bé miệng kêu chẳng thấu Trời.
* Ngắn tay với chẳng tới Trời. * Người dự tính, Trời quyết định.
(Việt-hóa tục ngữ Pháp:"L'homme propose, Dieu dispose" ). * Nhờ ơn cô bác giúp lời, chị em giúp của, ông Trời định đôi.
* Ở hiền thì lại gặp lành, áo rách tan tành, Trời vá lại cho.
* Ở hiền thì lại gặp lành, những người nhân đức Trời dành phúc cho.
* Phí của Trời, mười đời chẳng có.
* Phụ người, Trời phụ; thương người, Trời thương. * Trời cho hơn lo làm.
* Trời đánh tránh bữa ăn.
* Trời không dung, Đất không tha. * Trời nào có dong kẻ gian, có oán người ngay.
* Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giàu, có chí thì nên.
* Trời quả báo ăn cháo gãy răng.
* Trời sao Trời ở chẳng cân, người ba bốn vợ, người không vợ nào.
* Trời sao Trời ở chẳng cân, người ăn không hết, kẻ mần không ra. * Trời sinh Trời dưỡng.
* Trời sinh voi, Trời sinh cỏ. * Xởi lởi Trờigởi của cho, so đo Trời gò của lại.
* Xưa nay nhân định thắng Thiên cũng nhiều.
(Truyện Kiều, Nguyễn Du).
33) Tướng
* Cả vú to hông, cho không chẳng màng.
* Cái mồm toác hoác, chẳng ác cũng thâm.
* Chữ tốt xem tay, ngựa hay xem xoáy.
* Con gái giống cha giàu ba họ, con trai giống mẹ khó ba đời.
* Con gái giống cha giàu ba đụn, con trai giống mẹ khó lụn tận xương. * Cong môi hay nói hớt, trớt môi hay hờn, dày môi ăn vụng.
* Dữ như tê giác, ác như đàn bà mắt tráo trưng.
* Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng; một là sát chồng, hai là sát con.
* Đàn bà mắt lươn hai chồng, đàn ông mắt diều hai vợ.
* Đàn bà môi mỏng, đàn bà dữ; đàn ông môi mỏng, đàn ông thâm.
* Đàn bà sang sảng tiếng đồng, chẳng vất vả về đường chồng cũng vất vả về đường con.
* Đàn bà tốt tóc thì sang, đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu.
* Đàn ông rộng miệng có tài, đàn bà rộng miệng điếc tai láng giềng.
* Đàn ông rộng miệng thì sang, đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà.
* Đất rắn trồng cây ngẳng nghiu, những người thô tháp nói điều phàm phu.
* Đất tốt trồng cây rậm rà, những người thanh lịch nói ra dịu dàng.
* Đầu óc ngu si, tứ chi phát triển.
* Đi đứng hấp tấp là tướng vất vả.
* Đi đứng thong thả là tướng an nhàn.
* Đi đứng vững vàng là tướng phúc hậu.
* Gà rừng chim cú chớ nuôi, râu rìa lông ngực chớ chơi bạn cùng.
* Gái thâm môi, trai lồi mắt.
(Tướng xấu).
* Heo kia trắng mắt thì nuôi, người mà trắng mắt là người bất nhân.
* Khao khao giọng thể tiếng đồng, quăn quăn tóc trán là dòng hay ghen.
* Khô chân, gân mặt đắt tiền cũng thuê.
(Tướng mạo của kẻ làm công).
* Lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng.
* Má bánh đúc, da đường phèn.
(Tướng mạo của người kém thông minh, nhẹ dạ).
* Mắt trắng dã, môi thâm si.
(Người độc ác). * Mặt dày mày dạn.
* Mặt rỗ tổ ghen.
* Mỏng môi hay nói hớt, trớt môi hay nói thừa.
* Mông nở, chân dài, bao nhiêu trai tráng cũng không đủ dùng !
* Người khôn con mắt đen sì, người dại con mắt nửa chì nửa thau.
* Nhất có râu, nhì bầu bụng.
* Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún.
* Những cô béo trục béo tròn; ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày.
* Những cô cặp mắt lá răm, chân mày lá liễu, đáng trăm quan tiền.
* Những cô thắt đáy lưng ong, đã khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con.
* Những người chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên.
* Những người da trắng, tóc dài, đẹp thì đẹp thật nhưng thưa việc làm.
* Những người mặt nạc đóm dày, mo nang trôi sấp, biết ngày nào khôn.
* Những người phinh phính mặt mo; chân đi chữ bát thì cho chẳng thèm.
* Những người tí hí mắt lươn, trai thì gian trá, gái luôn gạt chồng.
* Những người ti hí mắt lươn, trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người.
* Nốt ruồi ở bụng, đẻ con tiến sĩ.
* Nốt ruồi ở cổ, có lỗ tiền chôn.
* Nốt ruồi ở mắt, giọt lệ đường tình.
* Nốt ruồi ở tai, con tài hết nhẽ.
* Nốt ruồi ở tay, ăn vay cả đời.
* Nốt ruồi ở vú, đẻ con tú tài.
* Nốt ruồi son ở cổ, có một lỗ vàng chôn.
* Nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
* Quân tử lông chân, tiểu nhân lông bụng * Răng hô, mắt xếch, mũi hếch, tai bành.
* Răng thưa nói hớt, trề môi nói thừa.
* Răng thưa nói hớt, trớt môi hay hờn.
* Rậm râu sâu mắt, đắt tiền cũng thuê.
(Tướng mạo người đàn ông khỏe mạnh, làm việc cần cù). * Thà rằng chịu lạnh nằm không, còn hơn lấy gái lẹm cằm răng hô.
* Trông mặt mà bắt hình dong.
* Vô duyên chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên. 34) Số
* Bốn chín chưa qua, năm ba đã đến.
(Hai năm 49 tuổi và 53 tuổi là hai năm hạn : đau ốm hay chết chóc).
* Cây khô tưới nước cũng khô, phận nghèo đi tới nơi mô cũng nghèo.
* Chẳng qua cái số long đong; cột trâu trâu sổ, cột tròng tròng trôi.
* Chữa được bệnh, không chữa được mệnh.
* Duyên sao cắc cớ hỡi duyên, cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai.
* Đức năng thắng số. (Có đức mặc sức mà ăn).
* Gánh cực mà đổ lên non, cong lưng mà chạy, cực còn theo sau.
* Giàu có mạng, sang có số.
* Giàu giờ Ngọ, khó giờ Mùi.
(Sinh giờ ngọ thì giàu, sinh giờ mùi thì nghèo).
* Giàu sang có số, ăn cỗ có phần.
* Giàu tại phận , khó tại duyên.
* Học tài, thi phận.
* Khi nên vung vãi cũng nên, khi suy dù khéo giữ gìn cũng suy. * Làm quan có mả, làm cả có dòng.
* May mắn gặp duyên, chẳng may gặp nợ.
* May mắn gặp được kim vàng, chẳng may gặp phải kim gang, kim chì.
* Mỗi người một nợ cầm tay; đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng.
* Phải duyên phải số sống cùng, dẫu mà áo vải cơm rau cũng đành.
* Số giàu, lấy khó cũng giàu; số nghèo, chín đụn mười trâu cũng nghèo.
* Số giàu nó đến dửng dưng, lọ là thức sớm làm khuya mới giàu.
* Số giàu trồng lau ra mía, số nghèo trồng củ tía ra củ nâu.
* Số lao đao, có sao chịu vậy; số ăn mày, bị gậy phải mang. * Tối mặt tối mày, không tày tốt số.
* Tốt số hơn bố giàu.
* Tốt số hơn lấy chồng giàu.
* Vợ chồng cùng tuổi nằm duỗi mà ăn.
35) Mê tín dị đoan
* Bố thí giờ Thìn, ăn xin giờ Tỵ.
* Bốc mả kiêng ngày trùng tang, trồng lang kiêng ngày gió bấc.
(trùng tang : có hai hay nhiều tang trong một ngày). * Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba.
* Được bạc thì sang, được vàng thì xúi.
* Gà trống mà gáy đầu hôm, ắt có con gái không chồng chửa hoang. * Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì giàu.
* Mồng năm, mười bốn, hăm ba; đi chơi cũng lỗ huống là đi buôn.
* Nhện đen đắt hàng, nhện vàng đem tin.
* Nhện đen phải bị mắng, nhện trắng được ăn ngon.
* Nhện đen sa thì bị mắng, nhện vàng sa thì may mắn, nhện trắng sa thì phải đòn.
* Nhện sa, xà đón.
(Gặp nhện sa là điềm không may, gặp rắn bò là điềm may mắn).
* Ra ngõ gặp gái, mọi cái mọi xui; ra ngõ gặp trai, vừa may vừa mắn.
* Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề.
* Thổ công là cha, chủ nhà là con.
* Thứ nhất đom đóm vào nhà, thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn.
(Điềm tốt lành).
* Trâu trắng đến đâu, mất mùa đến đấy.
36) Giễu cợt, hài hước
* Ai ơi, chơi lấy kẻo già; măng mọc có lứa, người ta có thì.
* Anh có tiền riêng cho em mượn ít đồng; mua gan công, mật cóc, em thuốc chồng, theo anh.
* Anh đánh thì tôi chịu đòn, tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa.
* Áo người mặc đoạn cởi ra, chồng người cho mượn canh ba lại hoàn. * Ba đồng một chục đàn ông, đem về ta bỏ vào phòng ta chơi.
* Ba đồng một mớ đàn ông, đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
* Ba trăm một mụ đàn bà, đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi.
* Bà già tuổi đã tám tư, ngồi bên cửa sổ, viết thư tìm chồng.
* Bạn cười thì mặc bạn cười, tháng năm đi cưới, tháng mười có con.
* Bảy mươi, mười bảy bao xa; bảy mươi có của, mười ba cũng vừa.
* Bắt ông Tơ mà đánh ba hèo, ông xe nam xe bắc, chê tôi nghèo không xe!
* Bóng trăng khi khuyết khi tròn, của đời chơi mãi có mòn được đâu !
* Bươm bướm mà đậu cành hồng, đã yêu cô chị lại bồng cô em. * Càng già càng dẻo càng dai, càng rách chiếu gấm, càng xiêu chân giường.
* Chập chập rồi lại cheng cheng, con gà trống thiến dành riêng cho thầy.
* Chính chuyên lấy được chín chồng, vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi.
* Chồng còng lấy vợ cũng còng, nằm phản thì chật, nằm nong thì vừa.
* Chồng hen lấy vợ cũng hen, đêm nằm cổ cứ như kèn thổi đôi.
* Chồng nóng thì vợ nên dùi, chồng nóng vợ nóng đùi-cui nó mềm.
* Chồng ta áo rách ta thương, chồng người áo gấm, ta thương hơn nhiều!
* Chuột kêu chút chít sau hè, anh đi cho khéo, đụng giường mẹ nghe.
* Chữ trinh đáng giá ngàn vàng, từ anh chồng cũ đến chàng là năm.
* Có chồng càng dễ chơi ngang, đẻ ra con thiếp, con chàng con ai. * Có chồng thì mặc có chồng, ở đây vắng vẻ tơ hồng cứ xe.
* Có chồng thì mặc có chồng, ta đi chơi trộm kiếm đồng mua rau.
* Có duyên lấy được chồng già, ăn xôi bỏ cháy, ăn gà bỏ xương.
* Có phước lấy được vợ già, ra đường người hỏi dẫn mẹ già đi mô ? * Con cóc lặn lội bờ ao, muốn lấy vợ đẹp nhưng không có tiền.
* Con ơi, học lấy nghề cha, một lần ăn trộm bằng ba năm cần cù.
* Con sóc hay trèo cành nho, anh kia không vợ hay mò đi đêm.
* Còn duyên anh cưới ba heo, hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi. * Dao đâm thịt thì thịt đau, thịt mà đâm thịt nhớ nhau suốt đời.
* Đàn ông như thể cái nơm, bạ đâu úp đấy, không chừa lỗ mô. * Đàn ông rửa chén quét nhà, vợ gọi thì dạ: "Bẩm bà tui đây ". * Đêm nằm vuốt bụng thở dài, thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.
* Đi đâu mà chẳng lấy chồng, người ta lấy hết chổng mông mà gào.
* Đi tu thì phải ăn chay, thịt chó ăn được, thịt cầy đừng ăn.
* Đơm xôi thì đơm cho đầy, đơm mà vơi dĩa thì thầy không ưa !
* Gà tơ nấu với mướp già, vợ hai mươi mốt, chồng đà sáu mươi.
* Gái chính chuyên lấy được chín chồng, trở về đóng cửa làm cao chưa chồng. * Gái đâu có gái lạ đời, chỉ còn thiếu một ông Trời không chim.
* Gái đâu có gái lạ lùng; chồng chẳng nằm cùng, nổi giận đùng đùng ném chó xuống ao.
* Gần chùa gọi Bụt bằng anh, thấy Bụt hiền lành bế Bụt đi chơi.
* Hai tay cầm hai quả hồng, trái chát phần chồng, trái ngọt phần trai.
* Không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian sự thường.
* Làm thân con gái phải lo, mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng !
* Lẳng lơ cho rách yếm ra, về nhà mẹ hỏi, yếm thông hoa không bền.
* Lẳng lơ đâu chỉ mình tui, lấy chồng tháng chín, tháng mười có con.
* Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa, nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ thì còn.
* Lẳng lơ mới có con bồng, nhu mì như chị nằm không cả đời.
* Lấy anh anh sắm đồ cho; sắm bị, sắm gậy, sắm mo đuổi ruồi.
* Lấy bà thời phải nuôi bà, không thời bà bán cột nhà bà ăn.
* Lấy chồng chẳng thiết mặt chồng, đêm nằm mơ tưởng củ khoai môn ông láng giềng.
* Lấy ông thời phải nuôi ông, không thời ông bới tổ tông cả nhà.
* Mạ úa cấy lúa chóng xanh, nạ dòng chóng đẻ, sao anh hững hờ.
* Mẹ cha thằng bảo tao già, năm nay tám mốt vẫn còn khỏe cơ.
* Mẹ ơi, con đã ngứa nghề. - Cha tổ bố mày ! mày giống tính tao !
* Mẹ ơi, con muốn lấy chồng. - Con ơi, mẹ cũng một lòng như con.
* Mẹ ơi, con đã có thai. - Con ơi, mẹ cũng được vài tháng nay.
* Mẹ ơi, con đẻ hôm nay. - Con ơi, mẹ cũng đẻ ngay bây giờ.
* Một đêm tám chín trai vào; lòng ta nhân đức, anh nào ta cũng cưng.
* Mù-u ba lá mù-u; vợ chồng cãi lộn, con cu giải hòa.
* Muốn ăn cơm ngon, lấy con bà đi mót lúa; muốn ăn canh ngọt, lấy cháu bà bắt cua.
* Nàng dâu để chế mụ gia, bận quần lãnh trắng lại tra lưng điều.
* Năm con năm nhớ, mười vợ mười thương.
* Người dưng ơi hỡi người dưng, không đụng vào lửa sao phồng bụng lên.
* Nực cười thầy bói soi gương, thầy tu chải chí, cá mương hóa rồng.
* Rập rình nước chảy qua đèo, bà già tấp tểnh mua heo cưới chồng.
* Sá chi một nải chuối xanh, năm bảy người giành cho mủ dính tay.
* Số cô chẳng giàu thì nghèo, ba mươi Tết có thịt treo trong nhà.
* Số cô có mẹ có cha; mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
* Số cô có vợ có chồng, sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
* Ta rằng ta chẳng có ghen, chồng ta ta giữ, ta ghiền ta chơi. * Tắt đèn, đàn bà nào cũng đẹp. * Tắt đèn, nhà tranh cũng như nhà ngói.
* Tắt đèn, trắng cũng như đen.
* Thuận vợ thuận chồng, con đông quá mệt.
* Tối trời lửa tắt, cơm sôi; heo kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem.
* Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng; hễ ai có bạc thì bồng trên tay.
* Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng, phải duyên thì lấy, chẳng ông tơ hồng nào xe.
* Trăng lên nhu nhú đầu non, số em là số sớm con muộn chồng.
* Trong đêm tối, cú cũng như tiên.
* Vai mang bức tượng thờ chồng, thấy trai khỏe mạnh nước mắt hồng tuôn rơi.
* Vắng Sao Hôm có Sao Mai, chồng em đi vắng có tui ở nhà.
* Vô duyên lấy phải chồng già, ra đường người hỏi rằng cha hay chồng ?
* Vô duyên lấy phải vợ già, ăn cơm phải đút :"Bẩm bà nuốt đi ". * Xấu như ma nhưng là con gái !
(Còn tiếp )
|