Trường Trung Học Lê Văn Duyệt
https://www.levanduyet.net/cgi-bin/yabbSP1/YaBB.pl
Truyện >> Truyện >> Tháng Tư Lại Về
https://www.levanduyet.net/cgi-bin/yabbSP1/YaBB.pl?num=1175819516

Message started by dacung vào ngày 05. Apr 2007 , 14:31

Title: Tháng Tư Lại Về
Post by dacung vào ngày 05. Apr 2007 , 14:31
Tháng Tư Lại Về

Việt Báo Chủ Nhật, 4/1/2007, 12:02:00 AM
Tác giả: Hải Triều Lại Thế Lãng

Bài số 1231-1842-548vb8010407

Hải Triều tên thật Lai Thế Lãng là tác giả đã được vinh danh trong năm thứ nhất của giải thưởng Viết Về Nước Mỹ 2000. Sang năm thứ hai, ông còn là tác giả có số lượng bài Viết Về Nước Mỹ nhiều nhất. Là một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, cựu tù nhân cộng sản, ông hiện định cư và làm việc tại tiểu bang Vermont miền Đông nước Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất của ông, nhân “Tháng Tư lại về” cùng với tin tòa án Cộng sản tại Việt Nam vừa mang Linh Mục Nguyễn Văn Lý ra xử với bản án 8 năm tù giam.

*

Biến cố 30-4-75 đã gây cảnh đau thương, ly tán cho hầu như mọi gia đình của người dân ở miền Nam. Biến cố này cũng tạo ra một thời kỳ vô cùng đen tối cho các giáo hội ở quê nhà.

Tôi không thể quên được cái cảnh “tan đàn rã gánh” của gia đình tôi sau khi chế độ miền Nam hoàn toàn sụp đổ. Bố mẹ tôi quyết định bỏ vùng Hàn Giang ở miền Đông tìm về miền đồng ruộng Hậu giang vì các cụ biết trước khó khăn sẽ đến, phải bám lấy đồng ruộng để có hột lúa hột gạo mà sống. Vợ tôi dẫn 5 đứa con dại trở về căn nhà cũ ở Nha Trang với một tương lai thật mờ mịt. Còn tôi ở lại Sài gòn, ruột nóng như lửa đốt, chờ ngày trình diện để được đi “học tập cải tạo”.

Trong cảnh chia tay, mẹ tôi buồn lắm nhưng bà không khóc như nhiều bà mẹ khác khi phải đối diện với hoàn cảnh như vậy. Đến bên tôi nhưng mắt mẹ tôi nhìn đi nơi khác và với giọng yếu ớt nhưng đầy tin tưởng mẹ tôi nói: “Cứ yên tâm mà đi. Đi rồi về. Những kẻ vô thần, ngược ngạo chẳng tồn tại được lâu đâu”. Bố tôi thì ngồi bất động, không nói gì. Nhìn vẻ mặt trầm ngâm của ông và nhân câu nói của mẹ tôi, tôi bỗng nhớ lại thời xa xưa rồi nhớ đến những lá thư bố tôi gửi về gia đình trong những ngày bố tôi chinh chiến xa nhà. Trên góc trái của bất cứ lá thư nào gửi về gia đình, bao giờ cũng có hàng chữ đậm nét “Trái tim Mẹ sẽ thắng.” (Đây là lời Đức Mẹ nói khi hiện ra với ba trẻ tại Fatima năm 1917 “ Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ toàn thắng”.)

Có thể coi đó là tất cả gia tài bố mẹ tôi để lại cho tôi trước khi chia tay mỗi người một ngả để tôi dùng làm hành trang mang theo trên bước đường đi “học tập cải tạo”. Trong những ngày tháng sống kiếp tù đầy trong các trại “lao động cải tạo”, chính những lời nói của bố mẹ tôi đã vực tôi dậy những khi tôi gần ngã qụy vì chán nản và tuyệt vọng.

Lời tiên đoán của mẹ tôi và niềm tin được thể hiện qua hàng chữ xác quyết của bố tôi năm nào nay đã có phần đúng.

Cuối cùng thì như ai nấy đều biết, nước Nga đã ăn năn trở lại như ý Đức Mẹ muốn (Lời Đức Mẹ nói trong một lần hiện ra tại Fatima năm 1917: “Nếu lời cầu xin của Mẹ được chấp nhận, Nước Nga sẽ hoán cải . . .” ) và chủ nghĩa cộng sản đã chết ngay tại nơi nó được sinh ra cùng với sự sụp đổ của chủ nghĩa này ở nhiều quốc gia khác.

Rất tiếc chủ nghĩa cộng sản vẫn còn tồn tại trên quê hương Việt Nam. Nhân dân Việt Nam vẫn chưa được hưởng quyền tự do tôn giáo. Các giáo hội nói chung và giáo hội Công giáo nói riêng vẫn còn nhiều gian nan, thử thách. Trong bài này chỉ xin đề cập đến giáo hội Công giáo là lãnh vực mà người viết có chút ít hiểu biết.

Gần đây cả thế giới đều hướng về Ba Lan, một nước từng theo chủ nghĩa cộng sản trước đây. Dư luận xôn xao về việc một số linh mục và giám mục Ba Lan bị tố cáo đã cộng tác với cơ quan mật vụ trong thời kỳ chế độ cộng sản cai trị quốc gia này. Trong số những giáo sĩ đã cộng tác với mật vụ có Giám mục Stanislaw Wielgus, người được Tòa thánh bổ nhiệm làm Tổng Giam mục để cai quản Tổng giáo phận Warsaw (Tổng giáo phận lớn vào bậc nhất của Ba Lan) đã phải tuyên bố từ chức ngay trước buổi lễ tấn phong.

Hội đồng giám mục Ba Lan coi việc làm của các giáo sĩ này là hết sức sai trái nên đã triệu tập ngay một phiên họp khoáng đại bất thường để tìm ra hướng giải quyết đối vơi các giáo sĩ đã một thời dính líu với chế độ cộng sản. Hội đồng giám mục Ba Lan còn chọn ngày thứ Tư lễ tro vừa qua làm ngày “cầu nguyện và sám hối cho toàn thể giáo sĩ Ba lan”.

Chuyện ở Ba Lan khiến người ta nghĩ tới Việt Nam. Ở Ba Lan các giáo sĩ chỉ lén lút cộng tác với cơ quan mật vụ còn ở Việt Nam thì một số linh mục đã công khai cộng tác với chế độ cộng sản. Những linh mục này người ta thường gọi là linh mục quốc doanh.

Có những người dễ dãi nghĩ rằng linh mục quốc doanh hay không quốc doanh thì cũng là linh mục. Họ còn cho rằng sự gần gũi người cộng sản của những linh mục quốc doanh biết đâu lại chẳng làm lợi cho giáo hội. Nhưng không phải người Công giáo nào cũng tin như vậy và phần đông người Công giáo không thích những linh mục quốc doanh. Lý do cũng dễ hiểu là vì dù muốn hay không muốn những linh mục quốc doanh cũng đã trở thành công cụ của chế độ cộng sản mà chế độ này lại không ưa thích người Công giáo. Hơn nữa linh mục là những người đã từ bỏ tất cả để theo Chúa, không thể một lúc tôn thờ hai chủ, vừa rao giảng lời Chúa lại vừa là đồng chí với những người luôn luôn rình rập và tìm cách khống chế Giáo hội. Trong một bản tuyên bố, Hội đồng Giám mục Ba Lan cũng đã khẳng định “Không bao giờ có thể đi tìm điều tốt bằng cách làm điều xấu”.

Có lẽ cũng giống như ở Ba Lan, những linh mục ở Việt Nam có thể sa ngã vì bị những áp lực nặng nề nhưng cũng có những linh mụỳc chỉ vì ham danh ham lợi đã chấp nhận cộng tác với chế độ cộng sản.

Cánh đây không lâu trên một số web sites Công giáo có một bài viết mang tựa đề “Giuđa vẫn còn sống” và sau đó xuất hiện một bài khác có tựa đề “Giuđa đang biện hộ vì Giuđa vẫn còn sống”. Tác gỉa của mỗi bài viết có cái nhìn riêng nhưng cả hai cùng có chung một nhận định là Giuđa vẫn còn sống. Dĩ nhiên không phải Giuđa Itcariôt ngày xưa mà là những Giuđa của thời đại ngày nay.

Theo kinh thánh thì Giuđa Itcariốt, một trong 12 môn đệ của Chúa Giêsu sau khi bán Chúa lấy 30 đồng bạc thì lấy làm hối hận. Nhưng khi ông ta hối hận thì tình thế đã qúa muộn màng, không còn cứu vãn được nữa. Quá thất vọng ông ta đi tìm nơi thắt cổ tự tử. Thật là uổng công cho ông ta đã ba năm đi theo Chúa nhưng chỉ vì chút lợi nhỏ đã thay lòng đổi dạ để rồi đi đến cái chết thảm thương. Như vậy trên giấy trắng mực đen Giuđa Itcariôt đã thật sự chết cách đây trên 2000 năm rồi nhưng những Giuđa mang những dòng họ khác thì vẫn còn sống và đang sống nhan nhản trong hàng ngũ giáo dân cũng như giáo sĩ.

Sau khi chế độ cộng sản thống trị miền Nam người ta đã chứng kiến không ít cảnh đau lòng. Một số người Công giáo vì sợ bóng sợ gió không dám đến nhà thờ. Có người yếu bóng vía không dám đi xưng tội hay tiếp xúc với linh mục vì ngại bị nghi ngờ này nọ. Có người bỏ đạo để được làm công nhân viên nhà nước hay để được đề bạt gia nhập đoàn, đảng. Có kẻ còn đặt điều vu khống cho người đồng đạo để “lấy điểm” với cộng an. Tai hại hơn có những linh mục đã coi nhẹ nhiệm vụ mục tử để chạy theo bả lợi danh. Rõ ràng là Giuđa vẫn còn sống và vẫn tiếp tục bán Chúa.

Tuy nhiên nếu bình tâm mà xét thì dưới hình thức này hay hình thức khác, bằng cách này hay cách khác, ở mức độ này hay mức độ khác, có ai trong số giáo dân lại chẳng đã có lần là Giuđa bán Chúa hay nhẹ hơn là Phêrô chối Chúa.

Trong một lần trả lời một cuộc phỏng vấn, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn của Tổng giáo phận Sài gòn có nói “Chúa không chọn ai khác mà chọn Phêrô để cai quản Hội thánh”. Thánh Phêrô, người từng chối Chúa ba lần chỉ trong vòng hơn 1 giờ đồng hồ ở tại dinh thượng tế nhưng sau đó đã biết ăn năn thống hối để trở về với Chúa và rồi đã trở thành người đứng đầu Hội thánh. Khi đề cập đến thánh Phêrô có phải ĐHY Mẫn muốn mở ra một hướng đi cho những ai đã từng làm “Phêrô”? Phải chăng ĐHY Mẫn muốn thúc giục những “Phêrô” ngày nay hãy tỉnh ngộ và trở lại với Chúa như thánh Phêrô đã làm khi xưa? Và phải chăng ĐHY Mẫn cũng muốn kêu gọi những ông “Phêrô”, những bà “Phêrô”, những anh “Phêrô”, những chị “Phêrô”, những linh mục “Phêrô” hãy cởi bỏ sự yếu nhược để trở thành những Phêrô thực sự của Chúa. Phêrô nghĩa là đá. Trở thành Phêrô là trở thành những tảng đá vững chắc để không bị lay chuyển bởi những cám dỗ, mua chuộc và nhất là kiên cường để đứng vững trước những thử thách và đe dọa?

Đã hơn 30 năm qua kể từ sau biến cố 1975, tháng Tư được gọi là tháng Tư đen. Trong lịch phụng vụ của giáo hội Công giáo, những ngày cuối cùng của mùa chay thường nằm trong tháng Tư để kết thúc bằng đại lễ Phục sinh. Trong lịch sử cứu độ, Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn để rồi phục sinh vinh quang. Người đã sống lại từ cõi chết.

Hy vọng rằng sau những đau thương, dân tộc Việt nam sẽ chổi dây. Mong rằng trong một ngày không xa lịch sử dân tộc sẽ lật sang trang khác để người dân được hưởng các quyền tự do trong đó có quyền tự do tôn giáo. Và cũng mong rằng trên bầu trời của các giáo hội nói chung và giáo hội Công giáo nói riêng sẽ sớm trở lại trong sáng, không còn bị những lọn mây đen làm vẩn đục nữa.

HẢI TRIỀU LẠI THẾ LÃNG

Title: Re: Tháng Tư Lại Về
Post by dacung vào ngày 08. Apr 2007 , 17:06
THẰNG BÉ ĐÁNH GIÀY NGƯỜI NGHĨA LỘ

Mấy ngày ngắn ngủi ở Sài gòn, tôi thường đến ăn tối tại một quán ăn gần khách sạn tôi ở, đi bộ chừng năm phút, có tên Nhà Hàng Thanh Niên, nằm phía sau nhà thờ Đức Bà. Một nơi tương đối yên tĩnh, khu vườn lộ thiên nhỏ nhưng với những khóm trúc dễ thương, và nhất là được nghe lại những bản nhạc tình ca -kể cả tình lính- của miền Nam thuở trước.

Sài gòn dường như không kịp thở vào những ngày cuối năm. Ngoài đường tấp nập xe cộ và trên vĩa hè cũng kín cả người. Tất cả đều hối hả ngược xuôi, làm như tất cả không còn đủ thời gian để kịp “đổi đời”. Tôi thấy mình lạc lõng trong cái không gian ấy.Tốt nhất là tìm một nơi vắng vẻ ngồi một mình để suy tư và hồi tưởng về Sài gòn của một thời xưa cũ, mà bây giờ mơ hồ như chỉ còn trong cổ tích.

- Chào chú, cháu đánh giày cho chú nhé.

Tôi giật mình khi nghe một giọng rặt bắc kỳ, chưa kịp quay lại thì ba chú bé đã đến trước mặt tôi. Thằng bé nhất và cũng đứng gần tôi nhất nhìn tôi gật đầu chào :

- Sao chú ngồi một mình buồn thế? Trông chú hơi lạ. Chắc chú là Việt Kiều mới về thăm quê ?

Tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao thằng bé biết mình là “Việt kiều”. Bởi tôi ăn mặc rất đơn giản. Có thể nói là đơn giản nhất so với những thực khách có mặt ở đây. Và mặc dù không ưa cái danh xưng “Việt kiều”này, nhưng thấy thằng bé lễ phép dễ thương, tôi giả tiếng bắc đùa :

- Chú ở nước ngoài về chứ không phải Việt Kiều. Thế ngoài ấy quê cháu ở đâu.

- Cháu ở tận Nghĩa Lộ - Yên Bái

Tôi nắm tay nó :
- Thế hóa ra mình là đồng hương đấy. Chú cũng từng ở Nghĩa Lộ một thời gian lâu lắm.

Thằng bé tròn xoe đôi mắt :
- Chú cứ đùa. Trông chú chẳng phải người quê cháu.

Tôi bèn kể một mạch về Nghĩa Lộ cho thằng bé nghe, từ con sông, con đường cho đến cái dốc Cổng Trời và cái thung lũng Hang Dơi nằm sâu trong vùng núi rừng cực bắc.

Thằng bé ngạc nhiên thích thú, nhưng đôi mắt cứ nhìn tôi không chớp. Tôi bật cười, vổ vai thằng bé :
- Xin lỗi cháu. Chú đùa cho vui. Đúng là chú từng ở Nghĩa Lộ gần năm năm. Nhưng mà chú bị tù cải tạo ngoài ấy.

Cả ba thằng bé cùng nhao lên :
- À, đúng rồi, con đường ô tô từ dốc Cổng Trời về huyện, bây giờ người ta vẫn gọi là Đường Tù Cải Tạo. Vì nghe mấy ông bà cụ bảo do các chú trong nam ra cải tạo đắp con đường ô tô ấy.

Ba thằng ở ba nơi khác nhau ngoài Yên Bái. Cả làng đang đói, nên rủ nhau bỏ quê vào miền nam kiếm sống. Khởi nghiệp là đi xin, sau đó cũng chạy theo“nền kinh tề thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, ba thằng chung vốn làm ăn, kiểu công ty hợp doanh. Một thằng bán vé số, một thằng bán báo, còn thằng bé nhất đánh giày. Vậy mà cũng sống thoải mái (dù chỉ trên vĩa hè) lại còn dành dụm tiền gởi về cứu trợ gia đình.

Thằng bé nhất đang nói chuyện với tôi quê ở Thôn Thượng Sơn, thuộc huyện Nghĩa Lộ. Một cái huyện miền núi nghèo xơ xác, có thể là một trong những nơi nghèo nhất nước, nằm cực bắc tỉnh Hoàng Liên Sơn ngày trước, cách thị xã Yên Bái khoảng một ngày đường. Và cũng là nơi đã từng nhốt nhiều tù cải tạo từ miền nam chuyển ra, từ anh binh nhì TQLC bị bắt trận Hạ Lào, cho đến hơn ba mươi tướng lãnh, mà đa số đã không bỏ rơi đồng đội của mình vào giờ thứ hai mươi lăm.

Đã hơn ba mươi năm, và bây giờ đang ngồi giữa thủ đô Sài gòn xưa, tôi cứ tưởng là mình đã quên rồi cái tên Nghĩa Lộ. Vậy mà hôm nay tôi có cảm giác như đang đứng giữa núi rừng Hoàng Liên Sơn, nhìn những thằng bạn tù - và thấy cả chính mình nữa - đang bị hành hạ, đói khổ khốn cùng.

- Cháu đánh giày cho chú nhé. Cháu đánh để kỷ niệm, đề đền ơn chú đã từng đắp con đường ô tô cho quê cháu, chứ không phải xin tiền xin bạc gì chú dâu nhá.

Câu nói hơi dài của thằng bé làm tôi bật cười, trở về thực tại. Tôi cười bởi nghe thằng bé rất nhà quê này xài hai tiếng kỷ niệm, và nói năng ra điều nghĩa hiệp.

Mà có thể là nó nghĩa hiệp thiệt. Ngày xưa khi còn trong lính, sau mỗi lần hành quân về phố, tôi cũng từng quen, và đở đầu cho những em bé đánh giày. Tụi nó nghèo, ít học, nhưng biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, và chí nghĩa chí tình. Sau ngày ở tù về, trong lúc làm lơ xe, bất ngờ tôi gặp lại hai đứa đang làm bốc vác ở bến xe Tuy Hòa. Bây giờ là hai cậu thanh niên khỏe mạnh. Có điều sống dưới chánh quyền mới, “nhân dân làm chủ tập thể” nhưng hai thằng không có một mảnh dất cắm dùi, ngày làm ở bến xe, tối ngủ ở chợ. Nghề đánh giày cũng không còn. Không phải vì những thằng bé đánh giày giàu lên sau cuộc đổi đời, mà vì chẳng còn ai mang giày nữa để mà đánh. Vậy mà gặp lại tôi, hai đứa nhận ra, mừng rỡ như gặp lại người thân, vẫn một tiếng “anh Ba”, hai tiếng “anh Ba” như hơn mười năm truớc. Tôi tìm mọi cách từ chối, nhưng hai đứa bảo tôi nhất định phải nhậu với tụi nó một chầu, mừng cho cuộc trùng phùng này mới trọn nghĩa anh em. Khi chia tay, còn nhét vào túi tôi một mớ tiền nhăn nheo, bảo là gời quà cho các cháu. Tôi thực sự cảm động trước lòng thủy chung cùa tụi nó, trong lúc có bao nhiêu thằng vốn học thức đầy mình, nhưng mới một sớm một chiều đã trở mặt phản thầy phản bạn chạy theo nịnh bợ những thằng “cách mạng 30”, mà mới hôm qua hôm kia còn khinh rẽ là đám lưu manh, xích lô xe kéo!

Anh tiếp thị của nhà hàng mang thức ăn đến và đuổi ba thằng bé ra khỏi quán. Tôi vui vẻ nói với anh là tôi mời ba cậu bé, rồi quay sang bảo ba đứa kéo ghế ra ngồi và gọi bất cứ thức ăn nào các cháu thích. Tất cả tròn mắt ngạc nhiên rón rén kéo ghế ngồi và mỗi đứa chỉ kêu một đĩa cơm chiên dương châu.

Điều đặc biệt làm tôi lưu tâm tới thằng bé nhỏ nhất bọn này, bởi quê nó ở thôn Thượng Sơn. Một làng quê xa nhất của cái huyện Nghĩa Lộ đèo heo hút gió. Vậy mà có lần tôi đã đến đó và ở lại đó gần cả một tuần. Môt tuần duy nhất được no, được vui và hạnh phúc trong tám năm tù tội.

Khi mới ra bắc, tôi được “biên chế” về trại 3 Hang Dơi. Sau ba năm đuợc chuyển vể trại 6 Nghĩa Lộ, nằm cách trại 5 của mấy ông tướng mấy cái ao nuôi cá trám cỏ.
Sau một trận kiết lỵ, tôi chỉ còn da bọc lấy xương, đứng không vững thì còn sức ở đâu để mà biến “sỏi đá thành cơm”, nên được điều từ đội trồng trà sang đội “tăng gia”, tức là trồng rau, mà nhiều nhất là rau muống. Vào mùa đông, vùng Hòang Liên Sơn khá lạnh, nên các lọai rau không mọc ra được, đám chúng tôi phần đông chuyển qua trồng sắn, phát rừng, còn lại luân phiên nhau mấy toán, vào vùng núi mua thực phẩm, chủ yếu là cho “cán bộ trại”, chứ còn đám tù bọn tôi thì đã có “sắn” (khoai mì) để “khắc phục”.

Toán bốn thằng chúng tôi, do một chàng vệ binh dẫn đi, kéo theo hai cái xe cải tiến (lọai xe đóng bằng gỗ giống như chiếc xe bò nhỏ) vào Thượng Sơn, nằm cách trại khoảng 60 cây số. Trong thời gian tù tội, những ngày được đi xa như thế này thật là hiếm hoi, hạnh phúc ghê gớm lắm. Chẳng khác gì người trong nước bây giờ được xuất ngoại. Ít nhất cũng được tự do hơn, ăn uống khá hơn, và nhất là được sống với dân để nghe họ nói những điều chân thật. Có một trùng hợp lý thú là trong bốn thằng tù bọn tôi đều có đủ bắc, trung, nam. Một thằng chính gốc Hà Nội 54, một thằng xứ Huế, một thằng Nha trang là tôi và một thằng nữa là dân Cần Thơ, nam bộ.

Khởi hành từ sáng sớm, chiều chúng tôi đến làng. Nếu không đến đây có lẽ chẳng ai ngờ là giữa núi rừng xa xôi hẻo lánh này lại có một cái làng với khỏang một trăm nóc nhà nằm dọc bên bờ con suối lớn dưới những tàng cây che kín mặt trời. Vậy mà trông rất sạch sẽ và thơ mộng. Từ cổng làng, bọn tôi đã nghe tiếng chim hót líu lo hòa trong tiếng suối chảy róc rách giữa một vùng núi rừng tĩnh mịch.

Bọn tôi được sắp xếp ở trong một căn nhà mái lá cọ, có vách bằng nứa, nằm dưới một tàng cây cao, sát bên bờ suối. Chủ nhà là một bà già trọng tuổi. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là trông bà không giống những người dân mà chúng tôi thường gặp ở vùng này, từ cách ăn mặc tới cử chỉ nói năng. Lúc nào bà cũng vui vẻ niềm nở với chúng tôi, trên môi lúc nào cũng có sẳn nụ cười.

Thằng bạn tù gốc Hà Nội của bọn tôi quả quyết là bà nói đúng giọng Hà Nội, cái thời còn một Hà Nội thanh lịch. Trên vách, treo một tấm giấy khen với một cái tên cũng rất Hà Nội, không hợp với khung cảnh núi rừng này : “Bà Vương Chu Khánh Hà “. Cái tên trùng tên một cô ca sĩ miền nam, làm chúng tôi dễ nhớ.

Bà ở với người con trai, vừa làm y tá cho thôn, vừa làm rẫy, trồng thơm (dứa), trồng nhản. Một phần đất anh dành ra trồng rau và nếp nương. Anh nói năng hiền lành dễ mến. Đặc biệt rất thương và chiều mẹ.
Ngày đầu tiên, bà chỉ cười chào bọn tôi, không dám đến gần “quan hệ”. Nhưng hôm sau, bà mua chuộc anh vệ binh và giới thiệu cô thợ may ở nhà kế bên cho anh ta, nên anh ta đóng đô luôn bên ấy. Bà cho chúng tôi ăn xôi, ăn thịt rừng, còn thêm đủ lọai trái cây bà mua được trong làng. Ở đây, ăn uống như thế là thuộc hàng “tư bản”. Ban ngày chúng tôi đi khắp nơi mua thực phẩm các lọai, chiều về lại nhà, kéo nhau xuống suối tắm, rồi đuợc ăn một bửa cơm “thịnh sọan”, bọn tôi có cảm giác như đang ở đâu đó trên thiên đàng.

Đêm nào bà cũng mang đến một ấm trà tươi, ngồi tâm sự với bọn tôi tới khuya. Đúng như thằng bạn tù gốc Hà Nội nhận xét, bà dân Hà Nội chính tông. Ngày xưa gia đình bà giàu có. Vợ chồng làm chủ một hãng dệt lớn nhất nhì Hà Nội. Sau hiệp định Genève, chia đôi đất nước, chần chờ tiếc của, chưa kịp xuống tàu há mồm chạy vào nam thì bị đánh tư sản. Chồng bà chết trong tù, nhà cửa bị tịch thu, bà bị bắt buộc phải dắt theo hai đứa con, một trai một gái, đứa nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi, cùng một số “đối tượng” khác lên vùng núi non này, lúc ấy gọi là Khu Kinh Tế Mới Thượng Sơn.

- Ngày ấy, cả khu này chỉ là rừng thiêng nước độc. Chỉ ba tháng sau là con bé gái chết vì sốt vàng da, mà không tìm dâu ra một viên thuốc.
Bà nhìn lên trời mơ màng, kể lại cho bọn tôi những ngày đầu mới đến, nước mắt chảy dài trên má

Sau đó, vì bản năng tự tồn, những người “Hà Nội lưu đày” (chữ của bà), ngồi lại, cùng bàn bạc nắm tay vượt lên số phận. Trong số những người lên đây, có nhiều thành phần, đa số là tư sản và trí thức. Với bộ óc và với kinh nghiệm trên thương trường, vậy mà họ đã tận dụng được để cùng nhau vươn lên trong chồn thâm sơn cùng cốc này. Dù nghèo khổ, ho vẫn giữ được cái tình, cái thanh lịch của người Hà Nội. Điều mà chính quyền cần họ phải gột rửa.

Ngày tiễn chúng tôi đi, bà năn nĩ và đút lót anh vệ binh cho chúng tôi được nhận một kí nếp, một ít thịt rừng muối mặn, nhưng bị chối từ, mặc dù anh ta cũng rất quí bà. Cuối cùng để cho bà vui, anh vệ binh cho chúng tôi được ăn tại chỗ một bữa no nê, lần này còn có cả rượu nếp, do chính tay bà cất.

Một tháng trước ngày rời Nghĩa Lộ, bọn chúng tôi ngày đêm phải đắp cho xong một con đường ô tô kéo dài từ Nghĩa Lộ lên tận dốc Cổng Trời. Chúng tôi thắc mắc không biết để làm gì, vì gần năm năm ở đây, thỉnh thoảng chỉ thấy vài người đạp xe đạp hoặc thồ ngựa trên con đường ngoằn ngoèo heo hút này. Đến ngày chuyển trại vào Nghệ Tĩnh, chúng tôi mới biết con đường này dùng để chuyển quân lên Lạng Sơn ngăn chặn bọn bá quyền Trung Quốc vừa xua quân tràn qua biên giới đòi “dạy cho người anh em một bài học”.

Hơn ba mươi năm, con đường “làm lại cuộc đời” của riêng tôi cũng thăng trầm, quanh co không kém, đã làm tôi tạm quên một quá khứ buồn thãm, dù tất cả vẫn còn nằm sâu chôn chặt tận đáy lòng. Bất ngờ hôm nay, thằng bé đánh giày gợi tôi nhớ lại. Có điều trong bao nhiêu đau đớn chất chồng cũng có đôi điều vô cùng đẹp đẽ, chẳng khác gì một đóa hoa nở trên sỏi đá, một cành lan mọc giữa rừng già, trên một thân cây héo khô cằn cỗi.

- Thế cháu ở Thượng Sơn có biết bà Vương Chu Khánh Hà. Bây giờ chắc cũng đã hơn tám mươi ?

Tự dưng tôi buộc miệng hỏi thằng bé, để rồi ngẩn người ra khi nghe nó trả lời :
- Ố, đó là bà nội cháu. Bà mất hơn năm năm rồi!

Lòng tôi chùn xuống

Thằng bé kể lại những ngày cuối cùng của bà nội, lúc ấy nó mới tám tuồi. Khi mà ở Hà Nội đầy dẫy quán bar và nhà hàng sang trọng, dành cho khách nước ngoài và những ông quan lớn, thì cái thôn Thượng Sơn này vẫn cứ nghèo xơ xác. Một số đã phải bỏ làng tìm về thành phố cũ, sống trước mái hiên nhà của chính mình ngày trước. Bà nội nó chỉ về đuợc một lần, đứng nhìn ngôi nhà của mình bây giờ đang là một khách sạn mấy tầng, mà chủ nhân là một ông ngồi trong Ủy Ban Cải Tạo Tư Sản ngày xưa, bây giờ đã là ông lớn, chức hàm cở bộ trưởng.

Tài sản duy nhất còn lại của gia đình bà là ngôi mộ hoang của ông chồng, ngày xưa nằm trong một nghĩa trang ở ngọai ô thành phố, nhưng bây giờ nhà cửa mọc kín chung quanh. Cây cối và cỏ rác như muốn phủ lấp mộ phần. Bà phải ở lại đó mấy ngày mới dọn dẹp xong. Sau lần ấy, bà về nhà rồi ngã bệnh. Vợ chồng cậu con trai bán đủ thứ trong nhà, cùng với hảo tâm của mấy người hàng xóm, nhưng cũng không đủ tiền đưa bà đi bệnh viện. Trước khi chết bà chỉ ước ao duy nhất một điều là đuợc chôn cất bên cạnh mộ chồng dưới thủ đô Hà Nội, cũng là vùng đất của dòng họ qua bao nhiêu đời. Vậy mà cái điều ước ao trối trăn duy nhất đó của bà, cũng không ai thực hiện được, bởi cái nghĩa trang đó bây giờ nằm trong qui họach thành phố, tấc đất tấc vàng, không dễ gì mua được.

Nghe thằng bé kể, nhìn nhà thờ Đức Bà trước mặt và nhớ tới bà, tôi lại thầm nghĩ là Thượng Đế đã không có mặt trên đất nước tôi. Thực ra điều này tôi cũng đã từng nói với mấy thằng bạn tù, sau tháng 4/75. Bởi nếu có Thượng Đế, sao ngài lại bắt dân chúng miền Nam, những người hữu thần, đã bao nhiêu đời hằng tin và thờ phụng ngài, lại phải vác cây thánh giá nặng nề, để tan tác điêu linh như thế. Lòng tôi thấy xốn xang và tôi nghiệp cho bà. Tôi thầm trách mình cũng chỉ là kẻ vong ơn, đã quên mất lòng tốt của bà trong những ngày mình vô cùng khốn khó. Mà lẽ đời là thế. Khi đã sang sông còn có mấy ai nghĩ tới con đò.

Thằng bé lại nhắc tôi về chuyện đánh giày, đền ơn đáp nghĩa. Tôi đưa chân ra, cả đám cười ồ, tôi đang mang dép. Thằng bé lấy một tập báo đủ lọai trên tay thằng bạn, để trước mặt tôi :

- Vậy thì chúng cháu biếu chú mấy tờ báo, về khách sạn chú đọc cho vui. Toàn chuyện mấy ông lớn tham nhũng ăn chơi tiền tỉ đấy!

Tôi cám ơn và hỏi mua một xấp vé số. Trả tiền xong tôi chia đều cho ba đứa, coi như món quà may mắn, rồi hẹn ngày mai đến gặp tôi ở khách sạn, tôi sẽ dẫn đi chơi bất cứ nơi nào các cháu thích. Khi chia tay tôi ôm vai thằng bé đánh giày :

- Ngày mai cháu nhớ đến nhá. Chú rất cần gặp cháu.

Suốt ngày hôm sau, sau khi dắt ba thằng bé vào chợ Bến Thành mua sắm một số áo quần, cho các cháu một ít tiền, tôi thuê xe chở cả đám đi Vũng Tàu. Cả ba đứa đều mong ước được đến đây một lần cho biết thành phố biển nổi tiếng này, và cũng muốn xem “tình hình” để chuyển xuống đây kiếm sống, bởi nghe nói ở đây có nhiều khách ngọai quốc đến du lịch, hơn nữa ở Sài gòn càng lúc càng khó khăn, vì số trẻ em ( và cả nguời lớn ) từ ngoài bắc vào kiếm ăn ngày càng đông. Trong lúc ngồi trên bãi sau, tôi tâm tình thật nhiều với thằng bé đánh giày, kể cho nó nghe chuyện ngày xưa bọn tôi có lần đến ở nhà bà nội nó một tuần và được bà thương yêu giúp đỡ. Nó ngồi bên tôi nghe rơm rớm nước mắt, rồi dùng ngón tay viết tên của bà nội trên cát.

Trên đường về lại Sàigòn, tôi ghé lại Nghĩa Trang Quân Đội cũ, nằm bên xa lộ Biên Hòa. Khó khăn lắm, phải hỏi thăm nhiều người, anh tài xế taxi mới tìm đựợc lối vào.

Bức tượng Tiếc Thương đã từng tạo huyền thọai một thời, không còn nữa, nhưng Nghĩa Dũng Đài còn đứng sừng sững giữa những ngôi mồ hoang phế, im lìm. Tôi nghe trong gió như có tiếng oan hồn tử sĩ. Tìm đến ba ngôi mộ của ba thằng bạn lính cùng đơn vị cũ, mà chính tôi là người thân quen duy nhất chào tiễn biệt tai dây vào những giờ phút thứ hai mươi lăm của cuộc chiến, cùng với những người lính chung sự vẫn âm thầm tận tụy như từng bao nhiêu năm mai táng những đồng đội chưa bao giờ gặp mặt. Ba thằng bé phụ tôi hì hục dựng lại mấy tấm bia gãy đổ. Tôi ngồi trước những nấm mộ sụt sùi. Ba thằng bé chưa từng biết những gì đớn đau và bất công của cuộc chiến bắc-nam, cũng ngậm ngùi cảm động, trịnh trọng hứa với tôi sẽ thường xuyên rủ nhau đến đây để hương khói và chăm sóc các mộ phần.

- Bạn đồng đội của chú chắc chắn là những người tốt.

Ba đứa bé nói với tôi trên đường ra xe về lại Sài gòn, trong lúc tôi còn đang miên man về cách hành xử tàn tệ từ những con người không có trái tim, không còn biết thế nào là “nghĩa tử nghĩa tận”

Về khách sạn, ba cháu xin được ở lại với tôi đêm nay, để khuya đưa tôi ra phi trường. Không ngờ những đứa bé từ một vùng núi non Việt bắc xa xôi lại chí tình với một người miền nam, và bây giờ chỉ còn là.. “khúc ruột ngàn dặm”, như tôi

Tôi lấy thêm một phòng, cho hai đứa kia, còn thằng bé đánh giày nhỏ nhất, ở cùng phòng với tôi. Trước khi đi ngủ, tôi cho thằng bé một ngàn đô la, bảo nó ngày mai mua vé xe lửa về lại Nghĩa Lộ, đưa cho ba má nó. Tôi viết một mảnh giấy kèm theo, bảo với ba nó tôi là một trong bốn người tủ cải tạo lúc xưa, và dùng số tiền này tìm mọi cách đưa bà cụ về Hà Nội nằm bên ông cụ như lời bà trăn trối lúc lâm chung. Tôi có cho địa chỉ để anh ta liên lạc. Tôi còn căn dặn thằng bé phải hết sức cẩn thận, vì các chuyến xe Thống Nhất bắc-nam sẽ rất đông người vào những ngày giáp tết. Nó tròn mắt nhìn tôi ngạc nhiên, rồi nắm chặt bàn tay tôi, nói ngày mai, sẽ may thêm một cái túi bên trong chiếc áo để khâu tiền vào trong đó.

“ Kính thưa Anh,

Vợ chồng em và chắc chắn là vong linh của mẹ em nữa, xin muôn vàn cảm tạ ơn Anh.

Không ngờ chỉ có mấy ngày ngắn ngủi rất xa xưa, mà mãi đến nay Anh vẫn còn nhớ đến mẹ con em. Riêng em thì gần như đã quên chuyện ấy nếu không có anh nhắc lại hôm nay.

Giờ em mới nhớ lại, sau khi các Anh rời khỏi nhà em, mẹ em khóc mất mấy hôm. Bà bảo phần thì tội nghiệp các anh, phần thì nghĩ tới số phận oan khiên của gia đình em vào những ngày đảng vừa lên nắm chánh quyền. Bà bảo các anh và gia đình chúng em cũng cùng gánh chung số phận.

Chúng em cũng xin báo tin để anh mửng, là với số tiền anh cho, chúng em đã đưa được mộ phần của bố em ra một nghĩa địa khác, trước khi chính quyền cho san bằng khu nghĩa địa cũ để xây đô thị. Khu nghĩa địa mới dù nằm khá xa thành phố nhưng sạch sẽ và yên tĩnh. Vợ chồng em cũng cãi táng phần mộ của mẹ em và đứa em gái ở Nghĩa Lộ, đưa về chôn bên cạnh bố em. Gọi là nghĩa địa, nhưng phải mua với giá rất cao. Nếu không có tiền của Anh cho, biết đến lúc nào chúng em mới thực hiện được lời ước ao trăn trối của mẹ em.

Nghe đất nước đã đổi mới từ lâu, nhưng có lẽ chỉ đổi mới ở dưới những thành phố lớn, chứ cái làng Thượng Sơn của chúng em thì ngày thêm khốn khó. Rồi nay mai vợ chồng em cũng phải bỏ Thượng Sơn mà về Hà Nội, hoặc chạy thẳng vào Sài gòn. Có làm ô xin hay phải sống ngoài đường chắc cũng còn khá hơn.

Phân vân mãi, cuối cùng chúng em cũng phải báo đến anh một tin buồn. Thằng bé Khiêm con em cũng không còn. Trên chuyến tàu thống nhất ngày ba mươi tết hôm ấy, nó bị cướp. Không hiểu có phải bọn cướp biết đuợc cháu giữ số tiền lớn của anh cho, nên đánh để cướp. Nhưng dù bị máu me thương tích đầy người cháu vẫn hai tay ôm chặt lấy túi tiền khâu kỷ trong mấy lớp áo trước ngực. Bọn cướp tháo chạy trước khi có công an đường sắt tới.

Về nhà cháu tỉnh táo được một vài hôm, ăn tết với chúng em, kể lại chuyện bất ngờ gặp Anh, được Anh yêu thương và gởi cho chúng em một số tiền quá lớn,. Chúng em cứ tưởng mình nằm mơ. Nhưng chỉ một tuần sau cháu bị sốt nặng rồi hôn mê. Đem vào bệnh viện huyện, bác sĩ bảo cháu bị chấn thương sọ não. Cháu qua đời vài ngày sau đó.

Bây giờ cháu cũng đang nằm bên cạnh ông bà nội, và cô út của nó, chắc cháu nó cũng được ấm lòng nơi chín suối. Chúng em tin là cháu sẽ mãi mãi theo phù hộ cho Anh trong những ngày Anh xa quê lưu lạc xứ người.
Chúng em xin gởi đến Anh trọn lòng kính mến và lúc nào cũng cầu nguyện mọi điều tốt đẹp cho Anh cùng gia đình.

Kính thư
Bố mẹ cháu Khiêm
Trần Trọng An

Bức thư tôi nhận được đúng một tháng sau ngày tết nguyên đán. Suốt cả đêm trằn trọc, tôi không biết có đúng là mình đã trả ơn Bà, hay là lại mang thêm tai họa đến cho gia đình Bà.

Thì ra trong cái xã hội đang có nhiều ông lớn và đại gia giàu có, thì cái sinh mạng của những người nghèo khổ khốn cùng cũng vẫn chỉ là cỏ rác. Dường như tôi có nghe ai đó nói “cuối niềm vui nào cũng có xót xa, sau cuộc trùng phùng nào cũng có mầm mống của ly tan”.

phạmtínanninh
(vương quốc Nauy)

Title: Re: Tháng Tư Lại Về
Post by nguyen_toan vào ngày 08. Apr 2007 , 18:24
Thằng bé đánh giày  người Nghĩa  Lộ

Cám ơn anh Dạ Cung  đã  post  một bài  rất hay và  cảm động lắm .  Đọc hết bài , đoạn cuối cùng  đã làm tôi chảy nước mắt . Tội nghiệp cho thằng  Bé  .Rất may  thằng Bé  còn mang được tiền về cho  bố mẹ .

Title: Re: Tháng Tư Lại Về
Post by dacung vào ngày 13. Apr 2007 , 17:33
Vẫn Là Người Yêu Nước, Không Cần Là Cộng Sản Và Không Cần Biết Ong Ké Là Ai!

TRẦN THỊ HỒNG SƯƠNG . Việt Báo Thứ Sáu, 4/13/2007, 12:02:00 AM
(từ Cần Thơ)

Ông Nguyễn Minh Triết tạo được cảm tình vì tác phong điềm đạm. Ông Nguyễn Tấn Dũng cũng từ tốn nhưng trẻ trung linh hoạt hơn một chút. Đó chỉ là hình thức. Khi được Đảng đề cử làm Chủ tịch nước và Thủ tướng tất nhiên hai ông mang tầm vóc đảng và mang tư tưởng đảng vào công việc. Nếu có đạo đức tốt hai ông phù hợp nhất để trấn áp tham nhũng, hoang đàng ức hiếp trong hàng ngũ Đảng viên cầm quyền đang có dấu hiệu tràn lan. Tuy nhiên cho dù đang thành công, công việc hai ông không chỉ là quét rác!

Rất tiếc hai ông không phải là chánh trị gia được đào tạo chuyên ngành khoa học chánh trị như bất cứ người VN nào được đưa ra làm chánh trị. VN cần phát triển nữa. Hai ông cần có kiến thức toàn cầu về chánh trị để có khả năng, đủ mẫn tiệp chọn lựa con đường đúng cho đất nước. Các ông cần có khả năng dựa vào tình hình thực tế VN tạo ra lộ trình cho đất nước trên con đường hội nhập kinh tế cũng như chánh trị. Một dân tộc thu gọn, chắt lọc lại chính là những người dân biểu, nghị sĩ quốc hội. Một quốc hội mạnh có kỹ năng chánh trị sẽ là một cánh tay đắc lực an dân giám sát các bộ trưởng.

Kỳ họp thứ 11 quốc hội khoá XI mới kết luận là: Sửa đổi Luật tổ chức Quốc Hội ở thế "không trì hoãn". Trong thế giới hành chánh chánh trị CSVN của đất nước VN anh hùng một cách khó hiểu này, ai cũng thấy cần sửa đổi nhưng không ai can đảm hay dại gì đi đầu khởi động. Không thể nói đến sáng tạo quá cao xa với tầm tri thức VN, chỉ nói đến ứng dụng thôi.

Người ta chỉ dám khởi động khi biết rõ công việc và chắc chắn 90% thành công, tức đã thấy rõ cách làm đâu đó trong thế giới tiến bộ. Lãnh đạo VN không được học đầy đủ kinh nghiệm này để dám làm. Mọi kêu gọi thay đổi phải chờ khi về hưu, đi sau quan tài, hay cuộc họp cuối cùng khi hết nhiệm kỳ quốc hội! Như vậy là kêu gọi người khác thay đổi, còn mình thì không! Đại biểu Quốc hội cũng đang theo vết xe đổ của hành chánh chánh trị chính vì cũng chỉ là những đảng viên được phân công ngồi đó, làm chứng, kềm giử không cho ai làm gì khác! Và đương quyền thì thưởng thức cho hết đặc quyền cái đã!

Đặng Tiểu Bình nói về dân chủ tự do rằng tương lai sẽ thay đổi, nhưng cho đến khi nào chúng tôi còn sống thì sẽ không có thay đổi nào xảy ra! Đó là kiểu người kế tục cứ "vì dân vì nước" còn tôi thì không, theo kiểu CSTQ, và CSVN không khác! Người kế tục cũng chẳng dại gì vì nước vì dân, lại đẩy sang thế hệ khác....

Ngày xưa các nghị sĩ VNCH nói nhiều làm ít, được gọi là "chánh trị salon", chỉ bàn chánh trị trong khách sạn Caravelle 5 sao có máy lạnh. Còn bây giờ là thứ "chánh trị cây kiểng". Người làm chánh trị hiện nay là cây sống tiềm sinh thiếu nắng thiếu nước của mạch sống tự nhiên và có gắn thêm hoa giả! Nhà văn Ngọc Tư trả lời phỏng vấn, cho công việc đại biểu HĐND là công việc tồi tệ nhất mà cô đang phải làm... Tôi từng muốn làm một đại biểu HĐND mang tiếng nói của dân đến cho nhà nước bận rộn sau chiến tranh, nhưng kết cục rất xấu. Tôi bị cơ chế này nuốt chửng, bị bẻ cẳng, cắt tay trong cố gắng vô vọng muốn các cơ quan dân cử này có hiệu quả, thực sự mang sức sống và đưa ra được lộ trình thông thoáng cho dân! Tôi từng ngây thơ về chánh trị, cho là nhà nước muốn nghe tiếng nói của dân qua HĐND chứ không phải chỉ là hình thức để đừng mang tiếng độc tài toàn trị không có tiếng nói của dân. Tôi đã thấy rõ rồi: "Kiến trong miệng chén có bò đi đâu!". Vì kiểu đại biểu không chuyên nên khi biết ra đã quá muộn, tôi càng mang thêm nỗi ân hận bất an. Đó chỉ là công việc quẩn quanh của một cơ chế được vận hành theo cách chờ "quán triệt" từ cấp trên. Cơ chế không chuyên này góp phần cho tình trạng cuối đời mới biết ra chỗ kém điều sai. Tât cả chỉ là công việc quẩn quanh của một cơ chế được vận hành theo cách chờ "quán triệt" từ cấp trên, chờ trên chỉ đạo xuống. Khi không sát hợp thì trên bảo dưới không nghe. Dưới nói thì trên gạt đi, đến ông Kiệt phải kêu gào "dân chủ nội bộ!".

Với một nền chánh trị không chuyên và bị đóng khung trong CNXH, không ai cần phải suy nghĩ gì cho mệt! Dân chúng cũng tự vận hành không được giúp đỡ, không được chỉ đường bằng luật pháp để Ông Võ Văn Kiệt phải kêu lên: "Sao lại doạ người dân làm tốt!" như chuyện có nhà dân nuôi 40 con hổ và dọa bị tịch thu! Giới chức trách nhiệm nói phải tịch thu vì có thể nhập lậu từ Campuchia! Từ "có thể" này là cái còng số 8 hại chết dân. "Có thể" đã dùng để nhốt sĩ quan VNCH 18-20 năm. "Có thể" đã dùng đe doạ đảng làm đảng chùng tay can thiệp cho dân. "Có thể" đã dùng bắt tất cả nhà đấu tranh dân chủ ôn hoà. Không có một lộ trình cho cái mới nảy sinh là một xã hội chết một dòng sông tù hãm làm người ta phát... điên! Công an không được đào tạo gì, hành xử kiểu mafia, đã "cạo đầu" một thanh niên chưa có tiền chung hối lộ. Chuyện vỡ lở ra công luận, khiến ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh phải yêu cầu làm rõ. Còn biết bao nhiêu chuyện cạo đầu dân theo kiểu bà đại biểu Hoài Thu mới vừa nói hôm nay 27.3.2007 trên diễn đàn Quốc hội? Rung cây nhát khỉ, đánh tiếng để doạ phải lo lót, nếu không thì mới bị luật pháp nhà nước truy tố! Nếu như những tiếng nói này được ngành toà án trả lời là đã khắc phục như thế nào trách nhiệm ra sao thì mới có hiệu quả!

Tôi nhớ khi Ông Kennedy đắc cử Tổng thống Mỹ báo chí Mỹ mỉa mai là cứ năm năm nước Mỹ bầu cử diễn viên cấp quốc gia. Tổng thống John F. Kennedy và vợ là Jacqueline Bouvier Kennedy là một đôi vợ chồng giàu có đẹp như tài tử điện ảnh, là hình ảnh ai cũng ao ước. Bài diễn văn là một tuyệt tác văn học hiệu triệu lòng yêu nước. Nhưng chưa thấy bản lĩnh thật sự của ông Kennedy vì đã từng có quá khứ thành công ra sao, quá trình chứng minh tài năng như Tổng thống Bill Clinton. Tất nhiên một Tổng thống phải có được cảm tình của quần chúng nhưng quan trọng hơn là quan điểm, tri thức nền tảng, khiến cho dân yên lòng là đủ giỏi có khả năng ứng phó.

Rất hoan nghênh Ông Triết và các thành viên chính phủ đã gặp gỡ sinh viên. Tôi cũng tán thành cao thông điệp gửi cho sinh viên: "Bản lĩnh trí tuệ là chìa khoá để thanh niên thành công". Nhưng những lời Ông Triết nói với sinh viên về câu mời cho ý kiến về con đường thực hiện lý tưởng, khiến tôi không thể an lòng cho thế hệ thanh niên! Ông Triết nói: Đất nước mình nhiều năm bị nước ngoài xâm lược. Đất nước xảy ra nhiều biến cố. Nhưng từ khi có đảng CSVN ra đời lý tưởng thanh niên là lý tưởng Đảng, Đoàn. "Xây dựng chủ nghĩa Cộng sản không còn người bóc lột người!".

Thứ nhất đó không phải là sự thật, dù cho ông Triết nói thật lòng, theo đúng hiểu biết của ông, mà tôi muốn chứng minh đó là ngộ nhận đáng sợ. CS không đấu tranh gì cho thời đô hộ Pháp. CS theo Mỹ để có lực ượng vũ trang, theo Trung Quốc để có vũ khí, CS phải đánh Pháp chỉ vì bất đắc dĩ Pháp không dám thoả hiệp vì Mỹ sẽ không hài lòng. Chính yếu là nhiệm vụ nhuộm đỏ VN theo lệnh Liên Xô-Trung Quốc!

Thứ nhất đó không phải là sự thật, dù cho ông Triết nói thật lòng theo đúng hiểu biết mà ông được dạy. Ông bị phong toả trong quy định kỷ luật đảng như không nghe đài địch để giữ cho mình nhiều ngộ nhận, không có điều kiện và cũng vì được làm "Lọ Lem" nên không cần thiết hỏi tại sao mà VN nghèo khổ đến vậy!

Tôi muốn chứng minh đó là ngộ nhận, là đáng sợ. CS không đấu tranh gì cho thời đô hộ Pháp. Khi từ Diên An, Mao Trạch Đông lãnh đạo những người cộng sản tiến hành cuộc kháng chiến chống Nhật (1937-1945) thông qua hợp tác Quốc-Cộng lần thứ hai, thì Ông Nguyễn Tất Thành cũng tranh thủ Mỹ cung cấp vũ khí và huấn luyện tổ chức nhóm dân quân chống Nhật. Năm 1945 chiến tranh thế giới lần II kết thúc, không hợp tác quốc Cộng nửa mà là nội chiến tiếp diễn giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung quốc, kết thúc bằng thắng lợi của Đảng Cộng Sản vào năm 1949. Đây chính là bài học nội chiến từ Trung Quốc cho CS Bắc VN trong cuộc chiến (1960-1975). Năm 1945 CS mới là một thực thể sinh ra trong hỗn loạn sau chiến tranh. Năm 1946 nhóm CS vũ trang của Nguyễn Tất Thành chủ động thương lượng ký hiệp ước để Pháp chính thức trở lại VN do sợ quân Tưởng Giới Thạch ô hợp và khó đối phó sẽ lưu lại phía Bắc trong nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Nhưng nếu không có CS thì Pháp không được tái vũ trang và VN có cơ may độc lập ngay 1945. Pháp được tái vũ trang là để chống Cộng Sản nên Pháp mau chóng đẩy CS khỏi Hà Nội. Việt Nam dân chủ Cộng Hoà chính thức được thành lập khởi đầu bởi sự Trung quốc và Liên Xô năm 1950 trong khối CS, Thủ đô kháng chiến đặt ở Việt Bắc. CS theo Mỹ để có lực ượng vũ trang giống Mao Trạch Đông trong chiến lược hợp tác quốc cộng chống Phát xít!

Sau 1949 CSVN theo Trung Quốc để có vũ khí, CS phải đánh Pháp chỉ vì bất đắc dĩ Pháp không thỏa hiệp với CS. Chính yếu trong nhiệm vụ CSVN là phải nhuộm đỏ VN theo lệnh Liên Xô-Trung quốc! Trung Quốc sau 1945 Nhật đã đầu hàng rút quân giải giáp thì tiếp theo là nội chiến. Ở VN 1954 cũng tiếp theo là nội chiến... Hiệp định Genève chỉ để Trung Quốc và Pháp giải quyết vấn đề bàn cờ thế giới miền Bắc làm trái độn giử biên giới cho Trung Quốc miền Nam làm tiền đồn cho Mỹ. Bắc Việt lệ thuộc như thế mà độc lập tự do khi nào!

Giống như hiệp định Paris Ông Thiệu của VNCH biết có không đồng tình cũng phải ký, chủ yếu là giải quyết vấn đề tù binh Mỹ giữa khi bàn cờ thế giới Liên Xô-Trung Quốc-Mỹ đã xoay chiều!

Năm 1945 do mang CS vào VN theo lệnh Liên Xô Trung Quốc qua ông Nguyễn Tất Thành mà phải có 9 năm kháng chiến. VN không được đi đến độc lập toàn vẹn như các nước khác Philippine bị Nhật chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai và độc lập từ 4.7.1946, Indonesia từ thế kỷ 16 thuộc Hà Lan, bị Nhật chiếm đóng 1942 và dành độc lập khỏi tay Nhật 19.8.1945, Malaysia bị Nhật chiếm đóng trong thế chiến thứ hai và năm 1946 nằm trong liên hiệp Anh nhưng nhóm CS Malaysia đánh, tuy nhiên 1956 Malaysia độc lập và không CS. Mãi cho tới năm 2002, quân đội Nga vẫn còn trú đóng tại Cam Ranh.

Thứ hai khái niệm không có người bóc lột người thì hiện nay chưa hề có ở VN, sao ông Triết không giải thích tiếp? Chủ nghĩa CS xây dựng một đất nước không còn người bóc lột người theo kiểu CCRĐ hay như Campuchia diệt chủng đấy! Nếu Campuchia không đánh vào biên giới theo tham vọng của Trung Quốc để chống VN thì chắc Pol Pot còn cứ giết tiếp. Giết hết người cho là thành phần bóc lột để có một xã hội không bóc lột đấy mà? Đâu còn ai để cần đấu tranh quả tình không còn người để bóc lột người! Bi kịch VN là ở chỗ không còn ai, chỉ còn lại ông Ké ông Dũng ông Triết đó, CCRĐ, NVGP và nội chiến là chứng tích của một cuộc đổi đời chấn động địa cầu!

CSVN có nhiều ngộ nhận từ nền giáo dục nhồi sọ lo quán triệt ý cấp trên, cấp trên không phải ông Ké mà là Liên Xô Trung Quốc, hài lòng cấp dưới trong khuôn khổ không vượt qua là khung CS do Trung quốc, Nga tròng vào cổ! Nghĩ ra thân phận VN rất đáng buồn! Tôi mong Ông Triết ông Dũng có "nỗi buồn" giống tôi thì may ra đất nước VN mới khá!

(còn tiếp ...)

Title: Re: Tháng Tư Lại Về
Post by dacung vào ngày 13. Apr 2007 , 17:34
Vẫn Là Người Yêu Nước (tiếp theo)

Xin đừng nổi giận khi đọc hồi ký của Thượng Tọa Thích Thiện Minh ở Bạc Liêu kể lại chuyện một linh mục nhất định viết đơn bằng câu: "Cộng hoà xã hội chủ nghĩa VN, Không độc lập-không tự do-không hạnh phúc". Đây là thông điệp chánh trị cô đọng mà xác thực về một giai đoạn trong hành trình lịch sử. Tất cả đều là những danh từ tốt đẹp nhưng so với cuộc sống thực tế quả là chưa có gì. Xác tín tôn giáo, thần học chối bỏ thế tục nên không được giới khoa học hoan nghênh. Tuy nhiên đạo đức tôn giáo có ích cho xã hội, cho nên tôn giáo có tồn tại cũng có thể góp phần tích cực. Tôi là người không mang xác tín tôn giáo nào dù đọc nhiều cách lý giải cuộc sống, sinh mệnh, cội nguồn con người, qua triết học trong đó có lý giải của nhiều tôn giáo. Vị linh mục có học triết học thần học Thiên chúa giáo tất biết xã hội dân chủ tự do là ai, cũng được phép nêu lý lẽ để thuyết phục. Độc lập chánh trị trong trường quốc tế thì vẫn là mục tiêu đúng, nhưng chắc chắn ông Nguyễn Tất Thành không có độc lập tư tưởng rồi, mọi thứ đều chờ quán triệt từ hai bậc thầy vừa là thần tượng là Mao Trạch Đông và Stalin và làm theo!

Nếu VN cho CS là con đường có tính nguyên tắc, tốt nhờ xấu chịu, không bàn cãi, cứ kiên trì CNCS theo Mao dù phải giết vài trăm ngàn người trong CCRĐ hay 1,7 triệu như ở Campuchia thì chắc không có độc lập rồi! Ông Mao bảo làm ông Nga bảo đừng, thôi thì ông Nguyễn Tất Thành đành xin lỗi cái chết! CS độc tài toàn trị triệt tiêu phản kháng như Nhân Văn-Giai Phẩm là không có tự do rồi! Càn quét dân chúng qua chiến tranh, cải cách ruộng đất đẫm máu, Nhân Văn Giai Phẩm, cải tạo tư sản thì dân chắc chắn không có hạnh phúc rồi!

Ông Ké
  • Nguyễn Tất Thành tin như đinh đóng cột là hai ông thầy không bao giờ sai, tiền nhân VN ta sai trong đó có cha mẹ anh em ông, nên chết cũng chẳng chịu về chốn quê nhà! Có thể tôi đồng ý với Ông Ké là cần thoát ly gia đình để thoát khỏi ràng buộc của hủ tục, nhưng khi thành công phải có lòng trở về với nơi chôn nhau cắt rún nơi mình ăn từng hạt gạo uống từng giọt nước để lớn lên. Hay là ông Ké không được chính gia đình mình hoan nghênh, bị chính thân tộc gia đình chối bỏ không có đường về! Ông Ké hiểu đạo lý cuộc sống cực đoan lệch pha truyền thống tốt của VN như thế làm sao đệ tử ông kêu gọi Việt Kiều về quê hương?

    Tôi có chút lòng kỳ vọng là đảng đề cử Ông Triết ông Dũng không phải mục tiêu là điều khiển thanh niên giữ cách nghĩ cách làm cũ và thất bại. Phải xây dựng tâm thức trí tuệ bản lĩnh thời hội nhập. Cho nên tôi xin có mấy lời với thanh niên về cách rèn luyện bản lĩnh và trí tuệ thời đại.

    Thời đại @ này nhiều thanh niên nhất là thanh niên có lợi thế COCC (còn gọi là dân "cóc xi", dân "cóc xê", hay "con ông cháu cha") hiểu bản lĩnh là tiêu dùng sành điệu dùng con Nokia đa chức năng, con xe @ đua bạt mạng như Cascadeur trong phim hay lạng lách CA phải ngớ người, chạy theo không kịp, vào vũ trường nhét tiền boa cho vũ nữ vào nịt ngực bằng giấy 100 USD, nhân tình là người mẫu chân dài...

    Kiếm tiền qua tham nhũng quá dễ đưa đến suy đồi đạo lý như cách sống của nhóm PMU18. Chạy đua hình thức chính là mặt trái của xã hội Ây Mỹ mà cha mẹ người VN tại Âu Mỹ lo sợ cho con mình! Nhiều đứa con VN thế hệ hai không chịu mang Bata 10 USD như thế hệ cha mẹ, mà phải là nhãn hiệu NIKE giá trên trăm đôla, nếu không thì xấu hổ với bạn bè, không đi học mà đi theo băng đảng bán ma túy!

    Gương điển hình thất bại của bản lĩnh và trí tuệ thời đại @ XHCN là cha con Mai Văn Dâu-Mai Thanh Hải. Vụ án nói lên nhiều điều hơn là tham ô tiêu cực. Còn có cái sai lớn của đảng CSVN với thế hệ thanh niên VN là cha truyền con nối, trong ưu tiên chừa chỗ cho lý lịch "tốt"...

    Ông Nguyễn Minh Triết có ấn tượng và có công với cách mạng vì từng bị bắt do làm gì đó. Đó là liều lĩnh giống như cô bé 15 tuổi Võ Thị Sáu, không phải là bản lĩnh! Người bản lĩnh không bao giờ bị phát hiện như "điệp viên tắc kè" Phạm Xuân Ẩn học ở Mỹ, người mà Frank Snepp -tác giả cuốn sách Decent Interval ("Khoảng Cách Thích Đáng") nói về sự sụp đổ hỗn loạn của Sài Gòn năm 1975, nhận xét: "Nhưng không ai hoạt động âm thầm sau lưng chúng ta mà đã gây nhiều tác hại như Phạm xuân Ẩn."! Ông Mai Chí Thọ và hầu hết người miền Bắc ngộ nhận về nước Mỹ: là những người thay thế Pháp làm kẻ thù của chúng tôi! Trong khi chính Mỹ đã buộc Pháp trao trả chủ quyền cho VN.

    Trong hồi ký Thùy Trâm cô cũng cũng bộc lộ rõ nỗi dày vò đói cơm khát tình, ngộ nhận về nước Mỹ và còn ngộ nhận về chiến công anh hùng của các cậu bé! Thùy Trâm mặc cảm tự trách mình chưa so được với những người "anh hùng từ trong trứng nước"! Chiến công con nít cô Trâm nghe giới thiệu một là hư cấu hai là liều do không hiểu biết! Yếu tố bất ngờ trong chiến tranh Mỹ Việt chính là những đứa con nít, những bà bầu bụng chửa chứa súng lựu đạn.

    Trong gia đình tôi có một người liệt sĩ tuổi 12. Chú bé được du kích dụ ngồi ở đầu cầu khỉ canh chừng, khi thấy bóng lính quốc gia thì rút cầu phá một nhịp, rồi chạy về báo tin. Cậu nhỏ lớ ngớ thế nào mà bị lính bắn chết. Bà con chòm xóm xúm nhau rủa sả lính quốc gia bắn nhằm con nít. Nửa khuya, khi ai nấy ra về hết thì một nhóm du kích tình nghĩa ra truy điệu liệt sĩ, cả nhà mới tá hoả và biết sự thật. Dân chúng cũng ngộ nhận về chiến tranh! Cả gia đình im re dấu biệt chức liệt sĩ!

    Trong quân sử Mỹ còn ghi lại chuyện cậu bé được các lính Mỹ yêu trẻ cho ra vào đã ném lựu đạn giết chết hai người để lập chiến công cho CSVN anh hùng! Trong một góp ý tôi đã từng nói để các vị CSVN biết là CSVN nên tránh đi vì đã vi phạm công ước quyền trẻ em. Càng trầm trọng nếu danh sách anh hùng nhí Kim Đồng dài ra và có phong trào kích con nít chơi trò chiến tranh hay làm công an đi do thám!

    CSVN ơi, nếu như chiến công của CSVN là liều lĩnh ngộ nhận thì không bao giờ đáng hãnh diện, đúng không?

    Thông điệp của quá khứ cho ta thấy nhiều đau thương thất bại do đảng CS gây ra. Có vẻ chưa thích hợp để luận công tội, nhưng phải nhận ra đúng sai. Cải cách ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, kinh tế bao cấp, nội chiến là những gì CS gây ra làm tan hoang đất nước! Quá đủ máu và nước mắt rồi!

    Bản lĩnh thời đại hội nhập này là có thể tranh tài ngang ngửa với thanh niên Âu Mỹ trong mọi vấn đề của cuộc sống. Nếu Robocom không phải là tác phẩm tự động hoá của sinh viên VN mà là của các thầy Đại học bách khoa thì miễn bàn, như trận đấu bóng của sinh viên trường đại học nước ngoài với các ngôi sao bóng đá VN đội lốt sinh viên VN. Nếu đúng là tác phẩm của sinh viên thì chính là trí tuệ bản lĩnh! Là tư duy tiến bộ hiện đại như:

    1- Thông số định thời học vấn,
    2- Công dân thế giới,
    3- Khả năng vượt tường lửa ngôn ngữ,
    4- Biết rõ mình ở vào đẳng cấp nào trong thế giới...
    5- Là bản lãnh tổ chức xã hội, biết phát huy hiệu quả kiến thức, óc cảnh giác, không để xảy ra tai nạn như xe cộ, không hiểu tình hình bất cẩn tin cậy bị tấn công giết chết ở Nga là không bản lĩnh...

    Bản lãnh trí tuệ thời đại

    1- Ý thức công dân & Công dân quốc tế

    Một cá nhân hình thành tư cách công dân (Being Citizen) ở độ tuổi (thường là tuổi đi bầu cử là 1 đã có ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ xã hội. Công dân địa phương (Local Citizen) với mối quan tâm về trường học, vệ sinh trật tự đường phố, phân rác nước... ở điạ phương. Công dân quốc gia (National Citizen) với mối quan tâm và kiến thức về chánh quyền, hoạt động quốc hội, chủ thuyết quốc gia, tội phạm quốc gia... Công dân quốc tế (International Citizen) với mối quan tâm và kiến thức về thương mại bình đẳng, tổ chức WTO (Tổ chức thương mại thế giới), UN (Liên Hiệp Quốc) khái niệm về giá trị con người của sinh mệnh, trái đất với hiểm họa va chạm thiên thạch, nhiệt độ tăng toàn cầu, khủng long vì sao diệt chủng, các loại tội phạm xuyên lục địa...

    Khái niệm này thật ra không khác từ triết học cổ xưa là nhân sinh quan và thế giới quan, nhưng cụ thể hơn về thế giới quan. Công dân thế giới gọi tắt là IC= International Citizen hay còn gọi là Công dân X.

    Tiêu chuẩn một Công dân thế giới là gì? Chưa có định nghĩa chính thức, khái niệm "Công dân thế giới" hình thành từ cuộc sống đã được công nghệ thông tin liên thông. Khái niệm Công dân thế giới đang trên đường hoàn thành, nhưng chắc chắn sẽ phát triển thành một hệ thống triết học. Về cuộc sống công dân thế giới có thể mua các dịch vụ chăm sóc y tế, bảo hiểm, học vấn ở bất cứ ước nào và dùng thẻ tín dụng quốc tế.

    2- Thông số định thời

    Một con người phải có một thông số định thời rèn luyện: "6 tuổi biết đọc biết viết, 9 tuổi vào mạng internet, 18 tuổi vào đại học, 23 tuổi học rành một hay hai ngoại ngữ. Tham quan ít nhất 2 nước một nước khu vực có trình độ phát triển tương đương và một nước sở hữu công nghệ mủi nhọn tiên tiến nhất của chuyên ngành đang theo đuổi. Có học vị Tiến sĩ trước 30 tuổi".

    Ở Thụy Điển còn có thêm tiêu chí được nước ngoài thuê mướn làm chuyên gia ít nhất ba năm mới nhận được học vị Giáo sư Tiến sĩ trong nước (để loại trừ học vị dỏm, có cho vui như VN chẳng ai thèm thuê!). Gia đình chịu trách nhiệm đến 18 tuổi và nhà nước chịu trách nhiệm khi thanh niên đó đã có tư cách công dân.

    Đào tạo một con người không dễ và chỉ có Mỹ mới dám làm chương trình "Không có trẻ bị lạc hậu" từ 2002 (No child left behind). Chương trình này cung cấp nền giáo dục tiêu chuẩn quốc gia chung cho từng đứa trẻ dù đang ở New York hay Hawaii cô lập giữa biển hay Alaska băng giá... Phi Châu nghèo khó có câu châm ngôn làm lay động lòng bà Hillary Clinton nên bà viết một cuốn sách lấy luôn tựa đề: "Cần cả một làng để nuôi dạy một đứa bé!" Bà muốn người Mỹ ít phung phí hơn để trợ giúp xã hội cho các nước nghèo nhiều hơn!

    3- Khả năng vượt tường lửa ngôn ngữ

    Cố bé Nguyễn Quốc Nam Anh có chỉ số thông minh tự kiểm tra là 140. Trên 125 là cực kỳ thông minh. Nam Anh đậu TOEFL ở tuổi lên 9, được 550 là giỏi. Chắc chắn có liên quan đến chỉ số IQ 140 của cô bé. Ít báo chí nói vì chưa tin chưa biết hiệu quả hay vì sợ tiêu chí chọn người theo lý lịch của đảng CSVN phá sản?

    Tháng 11/2004, cô bé 12 tuổi Trần Ngọc Khánh Minh, lấy bằng KET của Đại học Cambridge khi lên mười, tìm đến trụ sở Hội đồng Anh tại TP Hồ Chí Minh để xin làm thẻ đọc sách tại đây, chuẩn bị cho kỳ thi FCE (First Certificate in English). Thế nhưng, Minh đã phải bật khóc vì bị bác bảo vệ chặn lại ngay từ cổng!

    Đó là những bé thông mình còn bình thường thì theo một chuyên gia về giảng dạy ngoại ngữ cho biết: Theo ghi nhận trên toàn thế giới thì độ tuổi lấy TOEFL trung bình là 17 đạt ở mức 400 đến 450 điểm. Từ 500 trở lên là đạt yêu cầu, trên 550 là giỏi không có gì phải bàn, bởi khối người đã có bằng thạc sĩ còn phải vất vả đi học luyện thi lấy TOEFL 550 điểm để xin học bổng làm tiến sĩ ở nước ngoài.

    4- Biết rõ mình ở vào đẳng cấp nào trong thế giới...

    Nguyễn Ngọc Trường Sơn là đại kiện tướng cờ vua quốc tế một cách có hệ thống chanh quy hay các vận động viên quốc tế là những tấm gương... Trí tuệ bản lĩnh VN phải bơi trong biển học của thế giới VN như thế. Với một thống số định thời sít sao và khối lượng kiến thức mênh mông đó. Môn chánh trị Mac Lê không tương thích với kiến thức khoa học thực nghiệm. Ai muốn vào đảng CSVN thì trước khi vào Đảng mới cần học.

    5- Là bản lãnh tổ chức xã hội

    Cần có bản lãnh tổ chức xã hội, biết phát huy hiệu quả kiến thức, óc cảnh giác, không để xảy ra tai nạn như xe cộ, không hiểu tình hình bất cẩn tin cậy bị tấn công giết chết ở Nga là không bản lĩnh...

    Ngay thời sinh viên phải biết tổ chức để giúp xã hội tốt hơn. Một cô bé VN học Trung học ở Mỹ, tổ chức đêm nhạc để quyên góp tiền trong bạn bè gửi về nuôi 100 trẻ đường phố ở Cần Thơ từ nhiều năm nay là một tấm gương cần học tập.

    Thời trẻ tôi sinh hoạt với nhóm Hướng đạo VN, học được nhiều kiến thức thiết thực cho cuộc sống thường ngày. Học cách thắt nút đúng không bị tuột, học cách định vị theo sao Đại hùng khi lạc vào rừng. Biết cách cấp cứu. Biết tổ chức sống an toàn chỗ lạ. Nếu sinh viên VN ở Nga có bản lãnh tất biết thanh niên Nga có nhóm đầu trọc không thành công sinh ra tị hiềm, lấy mục tiêu khủng bố sinh viên nước ngoài vì nghĩ là được chu cấp không xứng đáng lẽ ra phải dành cho chúng...

    Phải biết tâm lý mông muội bầy đàn để có hành vi thích hợp v.v. Thí dụ: nếu thấy CA có hơi rượu mà chống lại lý luận dài dòng thì chúng đánh cho chết trong cơn điên ượu... Phải biết cách thoát ra và phản bác sau! Để có bản lĩnh trí tuệ cần kinh phí là bao nhiêu? Nhà nước làm gì, cha mẹ làm gì chắc là điều ông Nguyễn Minh Triết phải biết trước khi làm chủ tịch nước chứ?

    Giữa một vài xuất học bổng dành riêng cho con Thủ tướng Dũng bằng ngân sách nhà nước so với kế hoạch "Không có trẻ bị tụt hậu" của nước Mỹ thì ta ở vị trí nào Ông Triết Ông Dũng trả lời được không? VN còn nghèo có giống Châu Phi cần cả làng để nuôi một đứa trẻ.

    Tôi có thể khẳng định một con người VN hoàn toàn có thể có lòng yêu nước mà không cần là Cộng Sản, không cần biết ông Ké là ai. Chỉ cần biết VN vừa trải qua một giai đoạn lịch sử rất sai lầm...

    Cần Thơ, 27.3.2007

  • Ông Ké là tên khác của ông Nguyễn Tất Thành, không bị tranh chấp!

    TRẦN THỊ HỒNG SƯƠNG

  • Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Dang_My vào ngày 14. Apr 2007 , 08:37

    - - - Vượt Sóng - - -

    http://kimvo.net/music/pictures/bolinao.jpg

    (Xin bấm vào hình trước khi đọc )

    "Thanks America, for your open arms
    Grand merci la France, pour vos bras ouverts
    Thanks Australia, for you open arms
    Merci Canada, pour la liberté
    We, thank the world, for its true freedom"


    Hắn và vợ, tay bồng tay dắt 2 đứa con còn nhỏ, lặng lẽ, bùi ngùi bước ra khỏi nhà cha mẹ, nơi mà hai vợ chồng hắn tá túc từ hơn một năm nay tại Saigon. Đồ đạc chỉ vỏn vẹn có 2 cái xách tay nhỏ, đựng một vài bộ quần áo cũ và một ít thức ăn khô. Đó là ngày 23 tháng 3 năm 1980. Hắn vừa tròn được 37 tuổi. Trời còn tối om khoảng 3-4 giờ sáng. Trong nhà, ngoài một cô em vợ ra thì không còn ai hay biết gì hết. Hắn dặn cô em nhờ nói lại với Pa Má là Anh Chị cần phải về Cầnthơ gấp để xin lại căn nhà bị tịch thu một năm trước đó vì đã đi không lọt và bị bắt...


    Đây là lần thứ ba mà hắn liều mạng lôi vợ con mạo hiểm theo hắn. Chợt một ý nghĩ lóe lên trong đầu hắn, coi chừng “nhứt quá tam” hay “jamais deux sans trois” làm hắn cũng ngài ngại...Lần đầu năm 78, xuống cá nhỏ ngay tại bến Ninh Kiều Cầnthơ nhưng chuyến đi bị gài bẫy từ đầu nên khi vừa leo qua cá lớn đậu ngay vàm Cầnthơ thì công an đã chờ sẵn trong ghe đón tiếp nồng hậu không sót một mống, chẳng khác nào cá vào rọ. Hắn và vợ con bị nhốt hết 2 ngày ở Chấp Pháp Cầnthơ nằm gần mé sông, xế khỏi Trại Nhập Ngũ số 4 cũ, một quãng trên đường vô Cái Răng. Qua ngày hôm sau, một diễn biến thật bất ngờ xảy ra như một giấc chiêm bao: hắn và vợ con được thả ra. Đây là một cái bất ngờ tuyệt điệu chẳng khác nào cá mắc cạn được đem thả trở lại xuống nước. Khỏi phải nói hai vợ chồng hắn đều mừng hết lớn. Tưởng đâu là cuộc đời mình đã bị tiêu tùng rồi, nhưng có lẽ nhờ phước đức ông bà để lại hay nhờ có số may mắn gì đó mà gia đình hắn được ban lãnh đạo Đại Học vận động với bên công an thành phố Cầnthơ để thả gia đình hắn ra thật sớm và phải về làm tờ…tự kiểm. Thời điểm đó phong trào vượt biên nở rộ khắp miền Nam. Đặc biệt là đa số giới trí thức cũ, đều bằng mọi giá tìm cách bỏ đi. Anh nào không đi thì bị thiên hạ mỉa mai và liệt vào nhóm trí thức 3N tức là hoặc nghèo, hoặc nhát hay hoặc ngu?! Chất xám thất thoát nhiều khiến nhà nước cộng sản phải cấp bách đề ra chính sách o bế giới trí thức cũ để khuyến dụ họ ở lại phục vụ đất nước...Chòm xóm không ai hay biết gì hết, nhà cửa vẫn còn nguyên vẹn. Hú hồn hú vía!. Rồi hắn được cho đi làm việc trở lại tại nhiệm sở cũ là trường Đại học Cầnthơ. Vợ hắn, dược sĩ ngụy, thì cũng được gởi gắm đi làm tại một nhà thuốc Tây quốc doanh nằm trên đường Nguyễn an Ninh ngay trong thị xã Cầnthơ, dĩ nhiên là dưới quyền sai bảo của chị thủ trưởng dược tá giải phóng. Nói là đi làm cho nó ngon vậy đó chớ thật sự ra có làm gì đâu, mà cũng chẳng có ai dám giao cái gì đâu mà làm. Hắn biết là hai vợ chồng hắn đang bị người ta theo dõi và canh chừng gắt củ kiệu lắm. Tối ngày lo luây quây học tập chính trị, họp tổ, rồi sau đó là lo ba cái vụ chầu chực để mua nhu yếu phẩm theo giá chính thức cũng hết thời giờ rồi. Hắn rầu lắm và hết còn biết tính sao nữa. Bế tắc hoàn toàn! Chỉ còn có một con đường duy nhất là phải tìm cách binh nữa. Bằng cách nào? Hắn cũng chưa biết được. Chỉ còn biết cầu xin và chờ phép lạ mà thôi. Rồi một dịp may khác lại xuất hiện một năm sau tức năm 79…Xuống bãi tại Phong Điền. Ghe là một loại tam bản lớn không có mui gì hết, ớn quá chừng nhưng lỡ rồi. Ghe được thả theo dòng nước sông Hậu, tà tà hướng xuống Cà Mau để tìm đường ra biển. Nhưng than ôi! Kỳ nầy lại bị tổ trát một lần nữa, xui xẻo hết cỡ ngoài dự tính. Đúng là mưu sự tại nhân, nhưng thành sự tại thiên. Một trạm kiểm soát trên sông Ông Đốc thình lình gọi ghe tấp vào bờ để xét hỏi. Thế là bể! Cả ghe bị tóm. Hắn và tất cả bạn đồng hành đều bị áp giải vô Rạch Rán Cà Mau. Trong chuyến đi nầy, ngoài nhóm bạn bè của hắn trong Đại học Cầnthơ như Anh Chị PL (hiện còn ở VN) còn có dược sĩ B. (hiện hành nghề ở San José), anh dược sĩ C. và vợ cũng là dược sĩ D. ở Cầnthơ (không biết bây giờ ở đâu và còn sống không?) và Trung tá y sĩ HNT. (Quân y viện Phan thanh Giản Cầnthơ), bs T. hiện định cư ở Houston...Một hai tuần sau thì gia đình bên vợ hắn ở Saigon mới hay được hung tin là chuyến đi bị vướng. Tội nghiệp Ông Bà Ngoại các cháu phải cực khổ tức tốc lặn lội từ Saigon xuống thị xã Cà Mau, rồi từ đây đón đò máy đi cả buổi mới tới Rạch Rán để xin lãnh 2 đứa nhỏ về nhà...Sau vài tuần bị nhốt thì vợ hắn cũng được thả về trước, còn hắn thì bị giam thêm một thời gian nữa. Ban ngày, họ bắt bọn hắn đi lội nước nhổ cỏ ngoài ruộng để cho biết thế nào là lao động chân tay. Tối về láng, hắn và các bạn tù bị xiềng một cẳng lại với nhau qua một thanh sắt dài khóa lại ở một đầu phía ngoài cửa vào. Tiểu tiện phải “làm” trong lon ngay tại chỗ, xong thì chuyền cho người nằm sát vách phía bên trong, vạch tấm phên ra và hất đại xuống mương. Muỗi Cà Mau nhiều không thể tưởng tượng được. Mới 4-5 giờ chiều là chúng bay vo vo đen nghệch thấy mà phát sợ. Vướng lần thứ 2 nầy hắn nghĩ rằng chắc phải bị kẹt lâu lắm chớ không mong gì về sớm được. Hắn thuộc gia đình ngụy quyền mà, có ông già bị đưa đi tu nghiệp vô thời hạn ngoài Hà Nam Ninh. Vợ hắn thuộc loại tư sản vì có nhà thuốc Tây ở Saigon. Mặc dù đã bị kiểm kê ốp hết ráo hết trọi, của thiên trả địa, nhưng gia đình hắn vẫn nằm trong diện không được thiện cảm của chế độ đương thời cho lắm!. Lúc bị nhốt, tin bên ngoài từ Cầnthơ cho biết là có vài người không đồng ý xin cho hắn ra vì hắn thuộc loại quá ngoan cố hết thuốc chữa. Chắc cũng không mấy sai. Người ta đã tha cho một lần rồi mà không tởn. Hắn rầu thúi ruột đi. Tương lai mù mịt. Nhưng rồi hắn thầm nghĩ, đây là một canh bạc, có lúc ăn thì cũng có lúc thua, đó là lẽ thường tình ở đời mà thôi. Cũng may, sau khi bị nhốt gần hết 3 tháng thì cả nhóm được Thành Hội Trí Thức Yêu Nước Cần thơ cử Anh ba T. xuống lãnh hết ra...Lần nầy thì mất hết tất cả. Te tua. Lỡ leo lên lưng cọp rồi thì không thể xuống được!. Đúng là cùi rồi nên không còn sợ lở nữa!. Nhà cửa của cải bị mất hết, mất luôn cả hộ khẩu, nên gia đình hắn chẳng còn chỗ nào ở đành phải về tá túc một cách bất hợp pháp nhà ông bà già vợ tại Sàigòn. Vốn liếng, nữ trang và bao nhiêu cây dành dụm từ bấy lâu nay đều được đem chụm hết trong 2 chuyến đi hụt vừa qua. Láng túi sạch sẽ. Để kiếm sống qua ngày, vợ hắn phải nấu xôi, pha cà phê bán ngay bên lề đường cạnh tiệm thuốc Tây cũ của mình tại đường Bùi chu Saigon. Còn hoàn cảnh của vợ chồng người bạn là dược sĩ C.&D. cũng bi đát lắm. Họ cũng mất nhà và mất cả nhà thuốc CD ở đường Tự Đức Cầnthơ nên đành phải bắt buộc dẫn bầy con về tá túc nhà bố mẹ ở Saigon. Để kiếm sống, anh chị C.&D. làm bánh cam rồi mỗi ngày Anh C. từ nhà ở Sân Cộng Hòa cong lưng hì hục đạp xe ra bỏ mối cho vợ chồng hắn bán tại quán cà phê lề đường. Đây là tình nghĩa bạn bè lúc hoạn nạn...Và đó cũng là hình ảnh của các dược sĩ dưới chế độ cũ một thời le lói hết sức, nhưng lúc sa cơ thất thế thì cũng thê thảm không ai bằng! Lên voi xuống chó là như thế đó!. Còn hắn thì chạy tới chạy lui phụ giúp ba cái chuyện lặt vặt cho bà xã. Hắn xuống tinh thần mất moral, chán chường thấy rõ, nhất là mỗi khi nghe tin có một người bạn nào đó đã tới nơi yên ổn sướng quá. Hắn cảm thấy mình là kẻ thua cuộc, lẻ loi và cô độc hết sức!. Có nhiều người khi xưa là bạn, nay thấy hắn thì lại lơ lơ là là, có lẽ họ sợ bị liên lụy đến bản thân chăng? Đời là thế!. C’est la vie!. Và cũng vào thuở đó, người ta hô hào lao động vì lao động là vinh quang nên phong trào tăng gia sản xuất bằng cách nuôi heo rất phổ biến trong các thành phố. Bất cứ chỗ nào người ta cũng có thể nuôi heo được hết. Heo và nguời ở chung với nhau. Người ta nuôi heo ngay tại Saigon trong những căn nhà lầu, trong một số villa sang trọng mà lúc đó đã đổi chủ, trong nhà bếp, ngoài sân và thậm chí còn có người nuôi heo cả…trên sân thượng nữa. Hắn chụp thời cơ nhảy ra làm nghề chích dạo và chữa bệnh cho heo. Phần đông thân chủ của hắn là những người quyền thế của chế độ mới. Họ cho xe lại đón hắn về nhà khám bệnh cho heo, tiền bạc sòng phẳng! Hắn sống lây lất qua ngày để chờ thời. Hắn cảm thấy tuyệt vọng trước một viễn ảnh đen tối không còn lối thoát. Mỗi khi nhìn thấy ghe tàu đậu dưới sông là hắn thầm mơ tưởng viễn vong và ước ao…phải chi..nầy, phải chi..nọ, v.v…Hắn mơ, hắn ước, hắn cầu nguyện là có thể đưa gia đình đến một nơi nào đó, sẵn sàng làm bất cứ công việc gì, miễn sao nơi đó hắn có thể hít thở được không khí thật sự tự do mà thôi...Rồi một hôm, có một anh bạn đến móc nối hắn vì biết hắn đã từng du học nhiều năm tại Bangkok và nói được chút ít tiếng Thái, để làm thông dịch khi cần.


    …Ra đến bến xe xa cảng Miền Tây, hắn lấy vé chợ đen đi Cần thơ, nơi chôn nhau cắt rún và cũng là nơi mà hắn có rất nhiều kỷ niệm trong suốt 10 năm dạy học tại đó. Ngủ nhờ tại nhà người quen qua đêm trong một tâm trạng hết sức phập phòng lo sợ bị phường khóm xét hỏi bất tử. Trời vừa hừng sáng thì gia đình hắn lật đật ra Bến Xe Mới ở lộ 19 Cần thơ thật sớm để lấy vé đi SócTrăng. Hắn rất sợ phải chạm mặt bất ngờ với mấy em sinh viên  hay người quen thì coi như bể hết. Tại Sóc Trăng, hắn đổi xe dong tuốt xuống Cà Mau. Tới thị xã Cà Mau khoảng 4-5 giờ chiều. Còn đang đứng lớ ngớ ở bến xe chưa định hồn không biết phải làm gì bây giờ, vừa hồi hợp lo sợ công an xét giấy đi đường và cũng vừa lo lắng không biết người liên lạc có đến đúng hẹn hay không, thì may thay hắn gặp được một hai người quen ở Cầnthơ. Họ cũng đồng một cảnh ngộ như gia đình hắn vậy. Trong chuyến đi nầy có cả nhạc sĩ PMC dẫn theo hai đứa con. Anh PMC và các cháu hiện đang sống tại Montréal. Hắn cảm thấy hơi bớt lo đôi chút. Mướn chiếu ngủ đỡ giữa trời ngay tại bến xe. Nằm trằn trọc, lăn qua lăn lại suốt đêm, đầu óc thật căng thẳng, mãi đến 4 giờ sáng thì có người đến ra dấu cho từng tốp nhỏ đi theo họ xuống bãi một cách thật là lặng lẽ. Nối gót theo người dẫn đường đi một khoảng xa ở phía trước, hắn lôi vợ con hấp tấp bước theo, xuyên qua những con hẻm quanh co giữa các xóm nhà bình dân còn chìm đắm trong đêm khuya tĩnh mịch. Trống ngực hắn đánh thình thịch liên hồi. Hắn sợ tất cả: sợ gặp phải tổ dân phố, sợ công an, sợ người lạ, sợ con nít và sợ luôn cả mấy con chó trong xóm. Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng…Hắn niệm Phật thầm trong bụng. Rồi kìa, Cá lớn đậu chình ình ngay tại bờ sông trước mắt. Đây là loại ghe bầu để chở hàng trên sông, dài cỡ 12mét là cùng, có mui bịt kín khoang và ở phía đàng sau là cabine nhô cao lên để tài công lái. Hắn không nói ra nhưng trong bụng hơi lo vì không biết loại ghe này đi biển có được không? Thôi thì đành chịu vậy, vả lại đài radio tiên đoán tình hình thời tiết ở biển Đông và vịnh Thái Lan khá tốt. Có người còn nói tháng ba bà già đi biển vì biển rất êm vào mùa này. Mấy người tổ chức cho biết là họ đã chuẩn bị kỹ lắm đừng có lo. Máy ghe là máy Yanmar loại mới, 6 hay 7 blocs gì đó? Nói vậy thì nghe vậy chớ hắn nào có biết ất giáp gì đâu. Tất cả mọi người đều bị ếm trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chút dọc theo 2 bên vách. Mọi người đều im lặng. Trên cabine thì chỉ có tài công và một “người hướng dẫn” địa phương mà thôi. Tất cả có 69 người khách vừa lớn vừa nhỏ. Ghe mở máy chạy bình bịch một cách thong thả xuôi theo giòng nước Sông Ông Đốc đổ ra biển. Vĩnh biệt quê hương yêu dấu! Hai bên sông, xóm làng khi ẩn khi hiện sau những rặng cây bần xanh tươi. Dưới nước, ghe xuồng và tác ráng xuôi ngược không ngơi. Càng ra gần cửa biển lòng sông càng mở rộng ra. Bà con trong ghe thì không ai nói với ai lời nào cả, tinh thần mọi người đều rất ư là căng thẳng vì chưa ra tới biển. Trời đã bắt đầu tối. Đến khoảng 11 giờ khuya, thình lình từ trong màn đêm lóe lên tia sáng chớp tắt của ánh đèn Pile nào đó, rồi chẳng bao lâu không biết từ đâu đến, một chiếc xuồng nhỏ cặp sát vào ghe, “người hướng dẫn” từ cabine tuột xuống xuồng và biến mất trong đêm tối. Sắp tới trạm biên phòng rồi, mọi người đều im lặng, ghe tắt máy tắt hết đèn và thả trôi theo giòng nước. Mọi người đều nín thở im lặng và cầu nguyện thầm trong bụng. Thật là đứng tim trong 25 phút dài bất tận. Qua khỏi trạm kiểm soát một đổi khá xa, máy ghe được mở trở lại xả hết tốc lực về hướng cửa biển. Nhưng không bao lâu thình lình ghe bị khựng lại, hình như đụng phải vật gì ở dưới nước. Mọi người đều xanh mặt hồn vía lên mây. Có 1-2 anh em khỏe mạnh nhảy xuống nước để xem tình hình thế nào. Trời ơi ghe bị vướng đáy rồi, xui ơi là xui. Biết làm sao bây giờ?. Nhưng Trời cũng còn thương, lối 1 tiếng đồng hồ sau, nhờ con nước lớn chiếc ghe tự nhiên xút ra khỏi đáy và tiếp tục vọt ra biển với hy vọng có thể ra tới hải phận quốc tế trước khi trời sáng tỏ. Láng cháng dám gặp đám tàu đánh cá quốc doanh thì phiền phức lắm. Biển đây rồi, gió thổi ào ào, trời nước mênh mông vô tận. Ghe nhảy sóng một cách chòng chành, lắc lư làm nhiều người bắt đầu bị say sóng ói mửa tùm lum. Chạy theo hướng nào đây? Nhiệm vụ này đã được phân công cho anh T. trung úy hải quân, nhưng ra tới biển là anh ta bị say sóng như chết rồi nên không giúp ích gì được hết. Té ra anh ta chỉ làm việc trong văn phòng mà thôi chớ không có kinh nghiệm về hải hành gì hết. Có bạn nóng mũi, văng tục Đ.M. đòi quăng anh ta xuống biển cho đỡ tức. Nhưng rồi cũng bỏ qua thôi. Cái la bàn nhỏ xíu được lôi ra để định hướng. Người bàn thế nầy, người nói thế kia, cãi cọ om sòm. Cuối cùng thì nhắm hướng mặt trời lặng mà chạy cầu may. Đến quá trưa, thình lình tiếng máy nổ khác thường, lạch cạch lạch cạch rồi êm ru bà rù. Anh thợ máy bất đắc dĩ nhảy xuống tháo các bộ phận máy ra, xem cái nầy, mò mẫm cái kia, mở ra lấp vào cả tiếng đồng hồ, mồ hôi nhuể nhại, rồi thử quay máy cho chạy. Mọi người đều nín thở. Một lần, hai lần, ba lần, bốn lần…Tất cả đều im lặng chỉ có tiếng gió thổi ào ào bên ngoài ghe mà thôi. Vô ích: máy hư rồi! Mọi người đều vô cùng thất vọng ra mặt. Trời ơi! Làm sao đây Trời? Gió càng lúc càng thổi mạnh, trời bắt đầu kéo mây đen kịt. Những con sóng to nối tiếp nhau đợt này đến đợt khác, nhồi chiếc ghe lên xuống, lắc qua lắc lại như một cái hột vịt vậy. Ai nấy cũng đều điếng hồn hết. Thế này thì cái chết cầm chắc trong tay thôi. Cũng may là trên ghe có một chị đã từng đi sông đi biển rồi nên có một chút kinh nghiệm. Chị ta hướng dẫn các anh tài công bất đắc dĩ về cách bẻ càng lái để chặt sóng. Trước tình thế thập tử nhứt sanh, hắn và một số anh em trên ghe phải thay phiên nhau ra phía sau ghe  ráng sức kềm cái càng lái. Đây là một cái cán gỗ rất dài để điều khiển bánh lái. Kềm nó cho đúng hướng rất nặng nề và rất khó khăn, vì sóng to và gió quá mạnh. Những lúc ghe nghiên thì rất nguy hiểm, không khéo là bị cái càng lái gạt té xuống biển như chơi. Nhiều lúc hắn cũng xém bị hất xuống biển. Trời kéo mây thêm nữa, gió bắt đầu nổi lên càng lúc càng mạnh hơn đẩy chiếc ghe đi rất nhanh, nhồi lên hụp xuống, thật kinh hãi hết sức. Đàng xa hiện rõ dần dần bóng dáng lờ mờ của một hòn núi mà có người cho biết đó là đảo Thổ Châu, cách đảo Phú Quốc 100km về hướng nam. Tâm trạng của anh em lúc đó thật phức tạp, mừng lo lẫn lộn vì nếu ghe tấp vào đảo thì khỏi phải chết, nhưng lại phải bị đi tù mút chỉ cà tha. Tự nhiên lối 1 giờ sau thì gió lại đổi hướng thổi bạt chiếc ghe trở ra, đi mãi và đi mãi ra khơi...Thỉnh thoảng có những con cá nược phóng theo 2 bên ghe như muốn lội đua cùng chiếc ghe khốn khổ. Hắn cảm thấy mình bất lực hoàn toàn trước hoàn cảnh bi đát nầy. Chỉ nằm chờ chết. Ôm vợ con vào lòng mà đầu óc thật ngổn ngang trăm ngàn ý tưởng không mạch lạc. Hắn lâm râm niệm chú…Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát...Trước cái chết gần kề mình mới cảm nhận được giá trị của cái sống. Hắn nghĩ đến lúc ghe bị lật úp chắc hãi hùng lắm. Hắn cảm thấy thật ân hận khi nhìn vợ và 2 đứa con còn quá nhỏ tuổi. Không lẽ nghiệp quả của mình nặng nề như thế nầy sao? Không lẽ số mình là số con rệp hay sao? Rồi hắn nhớ lại lá số tử vi do một ông thầy ở Cầu Ông Lãnh lập cho hắn hơn 15 năm về trước, lúc hắn vừa mới ra trường chưa có vợ con gì hết. Lá số đâu có nói là hắn sẽ phải chết thảm như vầy đâu. Hắn nhớ ông thầy có nói hắn có sao Thiên di nên sau nầy phải ở xa nơi chôn nhau cắt rún gì đó, ngoài ra cung mạng và cung phúc đức của hắn cũng khá tốt. Trước khi đi một ngày, vợ chồng hắn cũng có lên chùa ở miệt Phú Nhuận để trước lễ Phật sau là nhờ Thầy trụ trì xem coi có đi được hay không. Sau khi bấm độn, Thầy nói: được! Nhớ tới đây, hắn lại lên tinh thần. Hắn nghĩ chết sống đều do số mạng cả, lo làm chi cho mệt mất công...Mọi người trên ghe đều kiệt sức, đói khát, ngủ gà ngủ gật, chỉ chờ một phép lạ đến cứu mình mà thôi. Bao nhiêu tàu bè nhấp nhô ở chân trời để rồi cũng rẽ sang hướng khác. Tối đến, mỗi khi thấy ánh đèn đàng xa, thì bọn hắn đốt đuốc lên làm hiệu, nhưng cũng chỉ toi công vô ích, thất vọng hoàn toàn. Rồi thì chuyện gì sẽ đến thì nó phải đến. Qua ngày thứ ba, có một chiếc tàu đánh cá Thái Lan xăm xăm tiến tới. Đây là loại tàu khá lớn và có cả radar. Mọi người đều kinh hoàng và hồi hộp. Đàn bà con gái lo tìm dầu mỡ bôi lên mặt lên mày cho nó thúi tha ghê tởm. Tàu Thái xáp gần, trên bong lố nhố 5-7 tên có vẻ dữ dằn, rồi thì tàu cặp vào sát ghe kêu một cái rầm. Ghe bị chòng chành dữ dội và nứt một bên hông. Thật khiếp đảm không lường. Mọi người trên ghe đều ngồi yên thinh thích và hồi hộp, im lặng chờ đợi. Bọn Thái nhảy qua ghe, 4-5 tên cầm mã tấu, còn 1 tên thì cầm súng lục. Nhờ biết chút ít tiếng Thái lúc đi du học mấy năm ở Bangkok, nên hắn lãnh nhiệm vụ làm thông dịch và thương thuyết với hải tặc. Lúc đầu tụi nó hơi giật mình không hiểu tại sao trên ghe có người lại biết nói tiếng Thái. Hắn cắt nghĩa, hắn tả oán hoàn cảnh bi đát và xin tụi nó giúp đỡ. Thằng cầm súng, có lẽ là tên đầu đảng, chĩa con chó lửa vào đầu hắn và bắt buộc hắn nói lại với tất cả là phải nộp hết vòng vàng tiền bạc, bằng không thì tụi nó sẽ bụp một phát là đời hắn tiêu tùng luôn. Hắn rất lạnh xương sống. Hắn năn nỉ hụt hơi thiếu điều lạy lục tất cả mọi người trên ghe nên đưa hết tiền bạc ra để đổi lấy mạng sống. Tụi nó lục lạo, tung bới tất cả đồ đạt, mò xét khắp nơi, đổ bỏ cả thùng nước ngọt để tìm kiếm nữ trang cất dấu trong đó. Cũng may là tụi nó không có làm hỗn với ai hết. Xong rồi thì rút đi rất nhanh. Ghe bị vô nước, tuy chưa nhiều nhưng cũng phải lo tát ra. Không bao lâu sau thì có một chiếc tàu đánh cá khác lại đến để ăn mót. Có lẽ là bọn hải tặc dùng máy rađa thông báo với nhau. Trước khi đi tụi sau nầy còn oái oăm bắt theo một cháu bé 2-3 tuổi gì đó, không biết để làm gì khiến cha mẹ đứa trẻ quá khiếp đảm kêu gào khóc la thảm thiết. Nhưng may thay, độ 1 giờ sau thì tụi nó quày trở lại trả đứa nhỏ. Giữa trưa hôm đó thì lại có một chiếc tàu đánh cá thứ ba đến, nhưng lạ thay, tụi nó không xáp vô mà chỉ đậu ở ngoài xa cách ghe vài chục thước và ra hiệu biểu mình qua. Một lần nữa, hắn lại xung phong lãnh nhiệm vụ nầy. Nhảy xuống biển lội thiếu điều đứt thở hắn mới qua được bên tàu Thái. Tụi nầy có vẻ hiền hơn mấy đám kia. Hắn trổ tài ngoại giao nhờ họ giúp kéo ghe vào bờ. Tụi nó chịu nhưng đòi ăn tiền. Hắn trở về ghe, bàn với mọi người và năn nỉ người nào còn dấu được tiền bạc thì xin làm ơn làm phước bỏ ra chớ không thì chết hết cả đám. Cuối cùng thì cũng gom góp được một số tiền đem nạp cho tụi Thái. Bọn chúng suy nghĩ sao đó không biết, nhưng cuối cùng cũng chịu. Chúng nhảy qua ghe quan sát tình hình một lúc, xong bọn chúng hè nhau tháo cái máy ghe đem về tàu đánh cá và ra lệnh cho tất cả mọi người phải leo qua tàu của chúng, chỉ chừa lại 2 người ở lại để điều khiển chiếc ghe. Sau đó thì chúng thả dây cột chặt chiếc ghe để tàu đánh cá kéo đi. Đến đây thì mọi người đều thở phào, phấn khởi lên tinh thần thấy rõ.


    Chúng nấu cơm cho ăn. Thức ăn chính là món cá chiên, ăn ngon ơi là ngon. Nước đá uống thả giàn, vì có cả hầm lận. Chúng  nói chưa vô bờ liền được vì còn phải đi kéo lưới thêm một ngày nữa. Muốn sao thì mình đành phải chịu vậy. Tối đến, mưa trút xuống dữ dội như thác nước, ai nấy đều ước loi ngoi như chuột và lạnh cóng run cầm cập. Thằng nhỏ con trai 3 tuổi của hắn bắt đầu sốt nóng và ho nhiều. Chắc là nó bị cảm nặng hay bị sưng phổi gì đó. Vợ hắn đè nó ra lấy dầu cù là cạo gió, rồi sau đó hắn mò được trong túi xách một hũ ampicilline, đem ra lụi cho thằng nhỏ mấy phát nó mới bớt sốt...Giữa đêm có tiếng la thất thanh từ chiếc ghe ở phía sau: Anh S. té dưới biển rồi. Mọi người đều hốt hoảng. Hắn báo động cho bọn Thái hay liền. Tàu bớt máy và quay ngược trở lại, rọi đèn pha rà tới rà lui khắp mặt biển. Sau một hồi tìm kiếm thì thấy nạn nhân đang ngụp lặn dưới nước. Chúng thả phao xuống và kéo anh ta lên. Khỏi phải nói người mừng nhất là vợ con của anh ta. Qua đêm hôm sau khoảng 1-2 giờ khuya, thình lình chúng ngưng tàu lại. Ai nấy đều nhốn nháo lên. Có chuyện gì đây? Chúng kêu hắn lại và chỉ ở chân trời phía trước có một đốm đỏ cỡ lớn hơn đầu điếu thuốc một chút, chớp tắt đều đặn từng chập. Chúng bảo đó là ánh đèn của ngọn hải đăng nằm trên một hòn đảo nhỏ không mấy xa bờ Thái Lan cho lắm. Chúng nói là không thể kéo mình vô đất liền được vì sợ cảnh sát Thái bắt, nên ra lệnh bắt buộc tất cả phải trở về ghe ngay lập tức. Ai nấy đều nhao nhao lên quá sợ vì ghe đã bị bể rồi, lại nữa đất liền còn xa quá, làm sao đây? Mọi người xúm nhau năn nỉ bọn chúng bằng đủ các thứ ngôn ngữ để xin chúng kéo tiếp vào bờ. Vô ích. Có hai ba chị dằn co khóc la dữ quá khiến chúng nổi dóa phải đè khiên thải qua ghe. Khi mọi người trở về hết bên ghe, bọn Thái liền chặt dây và rồ máy vọt mất trong đêm tối. Ghe tiếp tục trôi chầm chậm theo sóng nước. Biển rất yên. Trời dần dần sáng tỏ. Đàng xa, bóng dáng của một trái núi bắt đầu xuất hiện lờ mờ ở chân trời phía trước, và càng lúc càng rõ nét thêm hơn. Hầu như tất cả bọn đàn ông con trai đều kéo róc nhau lên ngồi trên mui ghe, hồi hộp chờ đợi… Chầm chậm và chầm chậm chiếc ghe định mệnh từ từ trôi về hướng núi... 10 giờ, rồi 11 giờ, trái núi lần lần hiện ra rõ nét thêm, có thể nhìn thấy những đám rừng trên cao chen lẫn những tảng đá to tướng xám xì xám xịt,...11 giờ ruỡi mọi người hết sức hồi hộp. Còn khoảng 200 mét thì tới bờ. Rồi 100 mét… Rồi 50 mét… thình lình lườn ghe chạm đá ngầm kêu rồn rột, chòng chành lắc qua lắc lại, nghiêng qua một bên và rồi dừng hẳn lại. Hắn và các bạn cùng phóng xuống nước chỉ tới ngang ngực mà thôi. Chân hắn vừa chạm đất thì…nước mắt hắn cũng tuôn trào ra vì quá vui mừng và quá xúc động. Thế là thoát chết!...Khi tất cả mọi người trên ghe đều vô được trong bãi cát, hắn và vài người bạn mới đi vòng qua các đồi nhỏ, len lõi giữa đám cây rừng hoang dã, theo đường mòn vòng qua phía bên kia núi. Thình lình ngước lên vách núi ở đàng xa bọn hắn thấy có bóng dáng một người đang đi lơn tơn. Hắn và mấy người bạn đều đồng loạt la lên, ra dấu bằng cách quơ tay quơ chân tới tấp. Người đó đã nhận thấy và đi chầm chậm về hướng của bọn hắn. Đó là một anh lính Thái có nhiệm vụ gát trạm đèn pha trên đảo hoang nầy. Ngoài ra không có nhà cửa của dân cư nào khác tại đây hết. Hắn bèn trình bày sơ sơ hoàn cảnh cho anh ta biết. Anh ta lập tức trở về đồn và điện vô đất liền. Anh cho biết đây là một đảo nhỏ của Thái Lan nằm ngoài khơi, không mấy xa thành phố duyên hải Rayong, 150km về phiá nam của của thủ đô Bangkok,Thái Lan. Thế thì kể như thoát nạn rồi, nhưng để cho chắc ăn, tối hôm đó hắn và vài người bạn lẻn xuống chiếc ghe và dùng búa đập phá cho nước vào thêm trong hầm khoang để khỏi bị cưỡng bách kéo ra khơi trở lại.


    Sáng ra, một tàu cảnh sát Thái đến đón tất cả 69 người về sở cảnh sát Rayong để lấy lời khai và làm thủ tục nhập cảnh. Chấm dứt một cuộc vượt sóng kinh hoàng...Ngủ tại đây một đêm, hôm sau thì tất cả mọi người đều được đưa về trại tỵ nạn Laem Sing. Đó là ngày 31 tháng 3 năm 1980.


    Ngày 22 tháng 6 năm 1980, hắn cùng vợ và 2 đứa con được bốc đi định cư tại Canada, xứ lạnh tình nồng, đất lành chim đậu, cuộc đời trước mặt đổi thay và hắn vẫn tiếp tục đi…

    Xin cám ơn TRỜI PHẬT.

    Thank you, CANADA.

    Nguyễn thượng Chánh

    Montreal, tháng 4 năm 2007



    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Dang_My vào ngày 16. Apr 2007 , 21:26


    Xin mời cả nhà xem đỡ  trước cho biết phim Vượt Sóng, trước khi được xem chiếu tại rạp.  ;)


    Vượt Sóng 1/8


    Vượt Sóng 2/8


    Vượt Sóng 3/8


    Vượt Sóng 4/8


    Vượt Sóng 5/8


    Vượt Sóng 6/8


    Vượt Sóng 7/8


    Vượt Sóng 8/8


    Nghe Đài RFA bình luận về phim này

    Nghe cảm tưởng của chị Miên Du Đà Lạt sau khi xem phim








    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by nguyen_toan vào ngày 17. Apr 2007 , 02:03

    Đặng-Mỹ wrote on 16. Apr 2007 , 21:26:
    Xin mời cả nhà xem đỡ  trước cho biết phim Vượt Sóng, trước khi được xem chiếu tại rạp.  ;)


    Vượt Sóng 1/8


    Vượt Sóng 2/8


    Vượt Sóng 3/8


    Vượt Sóng 4/8


    Vượt Sóng 5/8


    Vượt Sóng 6/8


    Vượt Sóng 7/8


    Vượt Sóng 8/8


    Nghe Đài RFA bình luận về phim này

    Nghe cảm tưởng của chị Miên Du Đà Lạt sau khi xem phim




    Cám ơn  cô chủ  đã  post  giới thiệu  phim Vượt Sóng . Nhưng không dám  mở  ra  xem trước . Vì  muốn  xem ở Rạp . để viết bài . không biết chừng nào mới tới  miền dưới .
    đành phải  wait and see. ??? ??? ???

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Dang_My vào ngày 17. Apr 2007 , 21:44

    nguyen_toan wrote on 17. Apr 2007 , 02:03:
    Cám ơn  cô chủ  đã  post  giới thiệu  phim Vượt Sóng . Nhưng không dám  mở  ra  xem trước . Vì  muốn  xem ở Rạp . để viết bài . không biết chừng nào mới tới  miền dưới .
    đành phải  wait and see. ??? ??? ???


    My không kiên nhẫn như anh , sốt ruột xem trước đỡ  ;)

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by anh_thu_Tran vào ngày 17. Apr 2007 , 23:49
     My oi ,co thể cho chị xin cai link để anh M download roi cho vao CD để mẹ chị xem được không? Cám ơn em nhiều.Xem trong này cũng đỡ ghiền ,nhưng hình nhỏ quá mẹ chị xem khong được.

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Phu_De vào ngày 18. Apr 2007 , 00:19

    anh_thu_Tran wrote on 17. Apr 2007 , 23:49:
     My oi ,co thể cho chị xin cai link để anh M download roi cho vao CD để mẹ chị xem được không? Cám ơn em nhiều.Xem trong này cũng đỡ ghiền ,nhưng hình nhỏ quá mẹ chị xem khong được.

    Chị AT ơi
    Tui đã download và burn vô DVD rồi, khi nào rãnh chị ghé lấy về để Bác xem.

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by anh_thu_Tran vào ngày 18. Apr 2007 , 11:31
    Anh PD ,vay hom nay AT se ghe lay DVD nha anh ,cam on anh nhieu lam

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Phu_De vào ngày 18. Apr 2007 , 12:55

    anh_thu_Tran wrote on 18. Apr 2007 , 11:31:
    Anh PD ,vay hom nay AT se ghe lay DVD nha anh ,cam on anh nhieu lam

    Hi chị AT
    Chị đến lúc nào cũng dược, có sẵn đây.
    PD

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by mien_thuy vào ngày 18. Apr 2007 , 19:40

    Đặng-Mỹ wrote on 14. Apr 2007 , 08:37:
    [center]
    - - - Vượt Sóng - - -

    http://kimvo.net/music/pictures/bolinao.jpg


    Đặng Mỹ ơi , MT muốn download bài hát này, mà tìm hoài hong thấy cái link nhạc , Mỹ giúp MT được không?

    Anh Phu An ơi, cuốn phim này đã có mặt trên thị trường chưa anh , MT muốn đặt cuốn DVD này thì làm sao , MT muốn gửi tất cả các chi phí để có cuốn Vượt Sóng này, anh chỉ hộ MT với

    Cám ơn anh

    MT

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Phu_De vào ngày 18. Apr 2007 , 19:53

    mien_thuy wrote on 18. Apr 2007 , 19:40:
    Đặng Mỹ ơi , MT muốn download bài hát này, mà tìm hoài hong thấy cái link nhạc , Mỹ giúp MT được không?

    Anh Phu An ơi, cuốn phim này đã có mặt trên thị trường chưa anh , MT muốn đặt cuốn DVD này thì làm sao , MT muốn gửi tất cả các chi phí để có cuốn Vượt Sóng này, anh chỉ hộ MT với

    Cám ơn anh

    MT

    Chi. MT ơi
    Đây là link bài Bước chân Việt Nam:

    http://kimvo.net/music/Buoc_Chan_Vietnam-Hop_Ca.mp3

    DVD Vượt Sóng (original )chắc cũng phải 3,4 tháng nữa, vì còn đang chiếu tại rạp, cái nầy tôi download từ Youtube (link chị Mỹ post từ liên Hội Võ Bị Âu Châu , Cám ơn chị Mỹ nha) và burn ra DVD quality không rõ lắm nhưng đỡ ghiền vì phim xuống đến Úc thì cũng hơi lâu .

    Happy chờ DVD .


    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by nguyen_toan vào ngày 18. Apr 2007 , 19:53

    mien_thuy wrote on 18. Apr 2007 , 19:40:
    Đặng Mỹ ơi , MT muốn download bài hát này, mà tìm hoài hong thấy cái link nhạc , Mỹ giúp MT được không?

    Anh Phu An ơi, cuốn phim này đã có mặt trên thị trường chưa anh , MT muốn đặt cuốn DVD này thì làm sao , MT muốn gửi tất cả các chi phí để có cuốn Vượt Sóng này, anh chỉ hộ MT với

    Cám ơn anh

    MT


    Hello  MT  .Cuốn phim "Vượt  Sóng  "  hiện giờ đang  trình chiếu ở  Mỹ  .Chưa  có  DVD  để tung ra  thị trường .Theo tôi biết  nhà sản xuất   phim" Vượt Sóng " cần thu  lại  số Vốn đã chi ra .Như vậy trong tương lai  bộ phim "Vượt Sóng "  sẽ được đem chiếu  khắp nơi trên Thế giới chắc chắn sẽ  đến Hoà Lan  và  Úc  đại lợi .

    Tuy  nhiên  ,MT cần  xem  phim trước  như Đặng Mỹ  , thì  bạn hiền của  tôi  Phú  An  đã download  và đã  burn ra DVD   sẽ  gởi tặng  MT  .  MT  gởi địa chỉ nhà , qua nhắn tin cho Phú An  sẽ nhận được DVD  .



    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Dang_My vào ngày 18. Apr 2007 , 21:48

    mien_thuy wrote on 18. Apr 2007 , 19:40:
    Đặng Mỹ ơi , MT muốn download bài hát này, mà tìm hoài hong thấy cái link nhạc , Mỹ giúp MT được không?

    Anh Phu An ơi, cuốn phim này đã có mặt trên thị trường chưa anh , MT muốn đặt cuốn DVD này thì làm sao , MT muốn gửi tất cả các chi phí để có cuốn Vượt Sóng này, anh chỉ hộ MT với

    Cám ơn anh

    MT


    Miên Thuỵ ơi ,

    Bộ ăn mứt me bị bị  tào tháo rượt   hay sao mà cả tuần nay mới chạy về  sân trường dzị ?  ??? :-/

    Cám ơn sư huynh lẹ làng trả lời Miên Thuỵ dùm My.  ;)

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Phu_De vào ngày 26. Apr 2007 , 17:25
    TỰ SÁT DƯỚI CHÂN CỜ
    NGƯỜI QUÂN CẢNH CUỐI CÙNG CHẾT TẠI TỔNG THAM MƯU



    Lời giới thiệu: Giờ thứ 25 của ngày 30 tháng 4-1975, có một hạ sĩ quan quân cảnh của đại đội 1 tại Tổng Tham Mưu đã tự sát dưới chân cột cờ trước tòa lầu chính. Một quân cảnh còn sống đến hôm nay sẽ kể lại câu chuyện. Nhưng trước đó xin quý vị nghe qua về cuộc đời của chính tác giả: Anh Huỳnh Hồng Hiệp gốc Kiến Hòa, sinh sống tại Sài Gòn đã đầu quân vào binh chủng quân cảnh từ cấp binh nhì. Sau đó anh lên binh nhất rồi đi học lớp hạ sĩ quan căn bản, trải qua lớp chuyên môn binh chủng rồi phục vụ tại Phú Quốc. Hàng ngày những hạ sĩ quan quân cảnh VNCH phải đối diện với 40,000 chiến binh cộng sản trong các trại giam. Ðây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp và hiểm nghèo. Sau khi hiệp định Paris ký kết, trại tù binh giải tán, các tiểu đoàn quân cảnh của Phú Quốc trở về đất liền tham dự các buổi hành quân tảo thanh và bình định. Chiến dịch chấm dứt. Một số tiểu đoàn giải tán, binh sĩ chuyển qua biệt động quân. Các hạ sĩ quan quân cảnh trong đó có thanh niên Kiến Hòa Huỳnh Hồng Hiệp phải vào Dục Mỹ huấn nhục. Vừa vất vả, vừa bị các quân nhân đơn vị bạn ghét quân cảnh nên kỳ thị phá phách. Nhưng rồi mọi thứ cũng trôi qua và ở trong câu chuyện cuối tháng Tư sau đây, xin mời quý vị theo chân người hạ sĩ quan quân cảnh gian truân của chúng ta trên đường từ Dục Mỹ về Sài Gòn cho đến ngày cuối tại Bộ Tổng Tham Mưu.

    Sau cơn hồng thủy 75, anh Huỳnh đã ở lại Sài Gòn rồi sau này mới vượt biên. Vì năm 75 chợt thấy mình yêu nước nên ở lại. Chuyến vượt biên những năm sau là thảm kịch gia đình. Nhưng đây lại là một câu chuyện khác. Hôm nay chúng ta chỉ nghe câu chuyện chấm dứt dưới chân cờ.

    Riêng đối với các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã chạy được qua ngả Tân Sơn Nhất vào tuần lễ cuối cùng. Nếu đi ngang qua cổng trại Trần Hưng Ðạo của Bộ Tổng Tham Mưu thì sẽ thấy trung sĩ Huỳnh đứng giữ trật tự. Suốt tuần lễ dài như cả trăm năm, anh vẫn đứng gác cho đến giờ phút cuối để các cấp trên di tản theo hệ thống quân giai. Bởi vì người trai Kiến Hòa đã không biết tại sao trong những giờ phút đó, anh lại chợt thấy mình yêu nước, yêu quân đội. Mà quân đội đối xử với anh có đẹp đẽ gì đâu?

    Giới thiệu của Giao Chỉ San Jose.

    -----------------------------------------------------------------------




    Vào khoảng 8 giờ sáng, ngày 29 tháng 3-1975, tôi với một vài người bạn ra chợ Dục Mỹ để uống cà phê và cũng để nghe ngóng tình hình chiến sự. Tin tức từ những quân nhân hướng Khánh Dương chạy về cho biết là tuyến phòng tuyến này do các chiến sĩ nhảy dù ngăn chận cộng quân đã đổ vỡ.

    Chúng tôi lập tức trở về TTHL Dục Mỹ thì quang cảnh quân trường đã thay đổi hẳn. Các khóa sinh và cơ hữu của trung tâm ra các giao thông hào trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Biến động này làm cho nhóm 17 khóa sinh gốc quân cảnh chúng tôi lại thêm hoang mang. Số là nhóm chúng tôi đã thụ huấn xong khóa cuối Rừng Núi Sình Lầy và có danh sách được trở về binh chủng quân cảnh. Khóa học đã mãn hơn 10 ngày rồi mà chưa có sự vụ lệnh để trình diện đơn vị.

    Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là thượng sĩ lên trình diện đại tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đã qua các văn phòng theo hệ thống quân giai. Ðại tá Ðại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc tìm ra được sự vụ lệnh mà ông đã ký rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi.

    Khi nhận được sự vụ lệnh thì quân trường Dục Mỹ không thể cung cấp phương tiện đến Nha Trang. Chúng tôi đành tự túc mạnh ai nấy đi. Ðến chiều khoảng 1 giờ, chúng tôi gặp nhau tại ở Nha Trang với hy vọng tìm được máy bay về Sài Gòn. Tôi và vài bạn nữa đi ngang qua Bộ Tư Lệnh QÐ II thì lá cờ tướng đã hạ xuống, quân cảnh gác cổng không còn. Ði qua Bộ chỉ huy BÐQ QK II thì cũng vườn hoang nhà trống. Súng M16 cả đống nên mỗi anh em nhặt một cây để phòng thân.

    Không có phương tiện của quân đội nên chúng tôi mạnh ai nấy đi bằng cách đổ ra ngã Ba Thành và leo xe nhà binh tìm đường xuôi Nam. Lúc bấy giờ có quân cảnh Hiệp, người lớn tuổi hơn tôi nên bạn bè gọi là Hiệp già. Anh có một vợ 5 con, đơn vị gốc là Tiểu đoàn 8 Quân Cảnh, cùng học chung với tôi mấy khóa ở Trường quân cảnh và Trường HSQ Ðồng Ðế.

    Suốt đêm hôm đó và đến khoảng 3 giờ chiều hôm sau, đoàn xe di tản đến thị xã Phan Thiết. Khi xe ra khỏi Phan Thiết một đỗi chúng tôi gặp một số quân nhân chạy ngược lại, được biết Việt cộng phục kích và có giao tranh ở ngã ba Bình Tuy (Rừng Lá).

    Tin này làm chúng tôi chùn chân vì tôi biết chắc với đám quân không có chỉ huy nếu gặp Việt cộng thì chỉ có chết. Sở dĩ tôi nghĩ như thế là vì suốt từ nhiều ngày qua đã có lúc giành mấy củ khoai ở cổng Ba Làng Cam Ranh mà bắn nhau chết. Thị xã Phan Thiết đang yên lành thì bị cướp, bị phá cửa sắt lấy bia, nước đá, thực phẩm tạo ra sự giành giựt rồi giết nhau. Ðiều này ai có đi khoảng thời gian đó đều biết. Với máu quân cảnh trong người, tôi rất bất mãn nhưng không thể làm gì được.

    Sau cùng, tôi bàn với anh Hiệp già là nên trở lại Phan Thiết tìm ghe hoặc tàu bè về Vũng Tàu chắc ăn hơn. Anh Hiệp không đồng ý nên chúng tôi chia tay.

    Sau cùng tôi cũng tìm đường thủy về Sài Gòn qua ngã Vũng Tàu. Trình diện ở trại đường Tô Hiến Thành xong, được lệnh trả tôi về binh chủng. Tôi bắt thăm trúng được Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh. Nỗi vui mừng thật lớn, coi như thoát được nạn trong mấy ngày vừa qua. Hơn sáu năm đi lính, lần đầu tiên bắt thăm được trúng đơn vị ở gần nhà. Biết bao là mừng vui. Tại Ban nhân viên tiểu đoàn tôi được lệnh tăng phái cho Ðại đội 1 Quân Cảnh tại Bộ TTM. Thật tình mà nói, tôi chỉ được nghe tên vị tiểu đoàn trưởng là thiếu tá Hưng hay trung tá Hưng (không rõ), còn các đại đội trưởng và trung đội trưởng của tôi tôi chưa kịp gặp mặt, hoàn toàn không biết là ai. Cứ nhận lệnh đi tăng phái đã.

    Tôi không nhớ chính xác bao nhiêu quân nhân từ Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh tới tăng cường cho Ðại đội 1 Quân Cảnh, hình như khoảng 15 anh em gì đó. Nhiệm vụ chúng tôi đứng các nút chặn ngã ba Chú Ía, ngã tư Võ Duy Nguy - Võ Tánh, Võ Tánh gần Bệnh Viện III Dã Chiến Hoa Kỳ, và Võ Tánh gần ngã ba Trương Quốc Dung.

    Có một ngày, vào khoảng 15 tháng 4-1975, tôi gặp lại một bạn quân cảnh cùng chạy ở Dục Mỹ hỏi thăm anh Hiệp già và được biết anh bị một viên đạn bắn sẻ của Việt cộng trúng ngay giữa tam tinh gần ngã ba Rừng Lá. Tôi bần thần về tin này cả tuần.

    Trong thời gian tăng phái cho TTM, ngày đứng đường, đêm về các điểm phòng thủ trong Tổng Tham Mưu. Có một đêm tôi nằm dưới thềm Tổng Cục Tiếp Vận coi TV thấy tổng thống Thiệu đọc diễn văn chửi Mỹ. Mắt coi TV, tai nghe đạn pháo kích lòng dạ sao xuyến tan nát. Cường độ pháo của cộng quân càng tăng. Trước 3 trái thì 2 trái vô Tân Sơn Nhất còn trái vô TTM. Sau 2 trái thì 1 trái vô Tân Sơn Nhất và 1 trái vô TTM. Nghe quen, tôi cũng bắt chước số anh em khác mà đoán tầm gần xa, lúc nào sắp nổ. Tôi vẫn ở TTM nhưng phạm vi hoạt động rút lại gần hơn và chịu pháo nhiều hơn.

    Trong thời gian này, bên gia đình vợ tôi có đường chạy ra ngoại quốc. Nếu muốn đi thì chắc chắn chúng tôi sẽ ra đi bình yên. Tôi là hạ sĩ quan với sắc phục quân cảnh. Ði đâu cũng gặp toàn bạn bè cùng binh chủng. Không những đi dễ dàng mà còn lo cho được cả gia đình họ hàng. Nhưng không biết tại sao vào những giây phút đó tôi lại thấy mình yêu nước. Bỏ đi không đành. Ðó là tấm lòng thành thực, nghĩ sao thì nói vậy. Sau này vợ tôi cứ nói mãi về vụ di tản. Bây giờ bả không còn nữa nhưng tôi vẫn còn nghe như tiếng nói than thở bên tai.

    Sáng ngày 30 tháng 4-1975:

    Tôi được lệnh tăng cường cho cổng 1 TTM. Lúc bấy giờ cộng quân gia tăng cường độ pháo kích dữ dội. Các quân cảnh cơ hữu của Ðại đội 1 Quân Cảnh rất bận rộn. Có tin cổng 4 có một số sĩ quan TTM phá rào chui ra đến nỗi quân cảnh Ðại đội 1 TTM phải dùng hàng rào người mà cản lại. Cũng có một số sĩ quan cấp trung và đại tá tự ký sự vụ lệnh ra cổng. Chưa đến nỗi hỗn loạn nhưng quân cảnh khá mệt nhọc vất vả mới giữa được trật tự.

    Lệnh tướng Hạnh là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chúng tôi thì chỉ có nhiệm vụ yểm trợ cho Ðại đội 1 Quân Cảnh mà thôi. Tôi quan sát tại điếm canh cổng số 1 có anh quân cảnh làm việc thật tích cực và hiệu quả. Nhìn kỹ ra là anh Minh người cao lớn. Tôi thật tình quên mất họ của Minh là Trần hay Nguyễn. Nhưng có thể là Trần Văn Minh. Minh cùng chung một khóa với tôi ở Trường HSQ Ðồng Ðế. Ðó là khóa 1/71 Ðặc biệt HSQ hiện dịch, lúc đó tướng Linh Quang Viên làm chỉ huy trưởng. Sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại Trường Quân Cảnh một hai lần nữa. Giờ đây, rõ ràng là Minh đang ở Ðại đội 1 Quân Cảnh TTM. Giơ tay chào nhau, nói vài câu, rồi ai làm việc nấy. Lúc đó tôi ở cổng chánh khoảng 100 mét về hướng tòa nhà chánh.

    11 giờ 30 ngày 30 tháng 4-1975:

    Lúc 11 giờ 30, từ cổng 1 TTM tôi nghe súng nổ dữ dội ở phía Bệnh Viện Dã Chiến Hoa Kỳ, thì ra các anh em LÐ 81 BCND đang bắn xe tăng Việt cộng. Khi chiếc xe T54 của Việt cộng có treo cờ GPMN hướng về cổng 1 TTM thì tất cả chúng tôi lái xe Jeep rút về văn phòng Ðại đội 1 Quân Cảnh vì xe cộ đồ đạc tất cả đều để đây. Khi xe ngừng, Minh bước xuống và nước mắt đã đầm đìa. Tôi nhìn Minh mà lo cho thân mình nên vội vàng cột ba lô mang súng ống, rồ xe Mobylette phóng chạy. Cái cảnh lúc đó thật là hoảng loạn, mạnh ai nấy lo, giành đường thoát ra.

    11 giờ 40 ngày 30 tháng 4-1975:

    Sau lưng tôi, Minh khóc và nói một mình “Thôi rồi, mất nước rồi.” Nói xong anh Minh bước tới gần cột cờ, nghiêm chỉnh đưa tay lên, chào xong móc khẩu Colt 45 bên hông kê lên màng tang. Một tiếng nổ đơn độc vang lên. Tôi chắc tiếng nổ đó đã hòa tan trong tiếng máy của hàng trăm chiếc xe Honda, Vespa, Suzuki. Minh ngã xuống. Trung sĩ I Trần Văn Minh đã trả xong nợ nước vào giờ thứ hai mươi lăm. Tôi là một người sợ chết nên nhìn Minh một lần chót, nén xúc động và chạy thoát thân với hàng đoàn người kia.

    Giờ đây Minh họ Nguyễn hay Trần tôi không biết chắc. Anh đã chết thật hay chỉ bị thương cũng không biết chắc. Có điều Minh đã làm một việc thật là đáng để tôi quỳ xuống mà lạy anh. Tất cả các đoạn trên tôi viết dông dài chỉ nhằm mục đích kể lại đoạn cuối về cái chết của một quân cảnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi là binh chủng lo về quân kỷ của quân đội. Xin các anh em chiến hữu hiểu rằng chúng tôi cũng sống chết với quân đội như anh em. Và trong hàng ngũ hạ sĩ quan chúng tôi cũng có người tự vẫn dưới ngọn cờ Tổng Tham Mưu vào giờ thứ 25.

    Gần 30 năm qua, ngồi cố nhớ mà viết lại chắc có nhiều chi tiết thiếu sót, ước mong các chiến hữu bổ khuyết giùm cho.

    Quân cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose


    --------------------------------------
    Ghi chú đặc biệt: Các bài viết của Giao Chỉ và do Giao Chỉ giới thiệu đều tập trung trong các tác phẩm: Cõi Tự Do, 16 Ngàn Tử Sĩ Ở Lại Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa, Dự Án Bảo Tàng Viện v.v... Muốn có các tác phẩm miễn phí, xin liên lạc bằng thư về IRCC, Inc. 420-422 Park Ave., San Jose, CA 95110. Fax: (408 ) 971-7882. E-mail: ircc@irccsj.com Sẵn sàng gửi biếu các độc giả khắp thế giới, nếu được giới thiệu.


    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Dang_My vào ngày 27. Apr 2007 , 10:09

    wrote on 18. Apr 2007 , 19:53:
    Chi. MT ơi
    Đây là link bài Bước chân Việt Nam:

    http://kimvo.net/music/Buoc_Chan_Vietnam-Hop_Ca.mp3

    DVD Vượt Sóng (original )chắc cũng phải 3,4 tháng nữa, vì còn đang chiếu tại rạp, cái nầy tôi download từ Youtube (link chị Mỹ post từ liên Hội Võ Bị Âu Châu , Cám ơn chị Mỹ nha) và burn ra DVD quality không rõ lắm nhưng đỡ ghiền vì phim xuống đến Úc thì cũng hơi lâu .

    Happy chờ DVD .


    Sư huynh ơi,

    Anh Bình nhận được link này qua email của Lasan nên bảo My đưa lên cho mọi người xem đỡ chứ My có biE6't  website của  Liên Hội Võ Bị Âu Châu đâu  ;)







    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by nguyen_toan vào ngày 27. Apr 2007 , 15:14

    Chỉ  còn  2  ngày  nữa  , ngày  30  tháng 4  lại về . như vậy  đã  là  32  năm  ngày  mất  nước .

    Nhân dịp này  ,tôi xin giới thiệu đến  quí bạn  hữu khắp nơi  những truyện ngắn  cần đọc  để  biết  về  tính  nhân bản  của  Người Việt Nam .

    1/  Người  bán sách trên bãi biển Nha  Trang
    2/  Ở  cuối  hai  con đường  

    tác giả  hiện giờ định cư  ở Na Uy . Đồng thời là  tác giả của  truyện  ngắn "Thàng bé  đánh giầy  người Nghĩa Lộ .

    đọc truyện thứ  hai  "Ở cuối  hai con đường "  phái nữ  cần để  hộp Klenex  bên cạnh .

    cả  hai  truyện  đã được đăng ở  take2tango.com

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by dacung vào ngày 27. Apr 2007 , 16:47
    Ở cuối hai con đường

    (Một câu chuyện hoàn toàn có thật. Tác giả xin được kể lại
    nhân dịp 32 năm từ ngày miền Nam thất thủ)

    Phạm Tín An Ninh

        Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.

       Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.

     Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.

     Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Môt nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ : - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ ?.

     Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi , miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.

     Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản "lý lịch trích ngang".

         Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:

    - Trong này có anh nào thuộc Sư 23 ?

    Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng :

    - Thưa cán bộ, có tôi ạ,.
    - Anh ở trung đoàn mấy
    - Trung Đoàn 44
    - Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
    - Vâng, có ạ.

    Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên ;

    - Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.

    Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:

    - Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào ?
    - Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.  

    Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:

    - Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.

    - Sau đó cán bộ được trao trả ? tôi hỏi .

    - Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị . Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.

    Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói :

    - Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.

    Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một nguòi tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.

    Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bắng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.

    Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng :

    - Tôi để một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.

    Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.

    Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân , quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luột sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luột sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh em tức khắc dấu hết "tang vật" xuống một cái hố đã đào sẵn.

    Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no sắn-

    Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao ban" , quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng ?

    Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ :

    - Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.

    Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em :

    - Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm . Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.

    Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.

    - Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? - một anh tù hỏi.

    - Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằng vặt mãi cho đến hôm nay.

    Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.

    Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.
       
    Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.

    Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.

    Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ hoc. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.

    Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.

         Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ , đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.

         Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen, cho biết, bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.

         Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.

         Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ dến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thưở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ : "ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn ". Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.    

         Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.

         Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.

         Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe, Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.

    - Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ ? tôi hỏi.
    - Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.

    Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:

    - Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?

    - Ông Thà, Nguyễn văn Thà, Bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan ?

    - Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.

    - Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.

         Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những nguòi đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.

         Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi .

    - Bây giờ cháu đang ở đâu ? Tôi hỏi.

    - Cháu đang trốn ở nhà một nguòi bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.

    - Ba cháu bây giờ làm gì ?

    - Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.

         Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.

         Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau. anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.

         Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang . Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.

         Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm . Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.

         Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.

         Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.

         Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.

     
    ><><><><><><><><


    "Các Anh thân quí,

         Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại". Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.

         Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người

         Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới . Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.

         Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.

         Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian..."


    **-***-****-***-**


           Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?


     Phạm Tín An Ninh
    (Vương Quốc Nauy )

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Phu_De vào ngày 30. Apr 2007 , 17:42
    Mời quý vị xem slide show về 30 tháng 4 và nghe bài Người Di Tản Buồn
    Vì hình ảnh rất nhiều nên trang sẽ load rất chậm, xin kiên nhẫn chờ


    -------------------------------------

    Những hình ảnh ngày xưa tuy đã 32 năm nhưng vẫn rõ mồn một trước mắt những chứng nhân lịch sử, những người dân hiền hòa của miền Nam Việt Nam, nạn nhân của thảm họa thế giới: Chủ nghĩa Cộng Sản.

    Đồng thời những hình ảnh nầy cũng cho ta thấy rõ sự phản bội của những kẻ mà 1 thời ta gọi là đồng minh.

    Ba mươi hai năm, thời gian đủ để 1 đứa bé mới sinh ra ngày đó, ngày nay đã thành 1 người chững chạc và đủ trưởng thành để nhìn thấy bộ mặt thật bọn Cộng Sãn.


    ----------------------------------

    Powerpoint Slideshow
    Saigon giờ thứ 25

    và nghe Khánh Ly trình bày
    Người di tản buồn

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by binh so vo vào ngày 30. Apr 2007 , 22:19

    wrote on 30. Apr 2007 , 17:42:
    Mời quý vị xem slide show về 30 tháng 4 và nghe bài Người Di Tản Buồn
    Vì hình ảnh rất nhiều nên trang sẽ load rất chậm, xin kiên nhẫn chờ


    -------------------------------------

    Những hình ảnh ngày xưa tuy đã 32 năm nhưng vẫn rõ mồn một trước mắt những chứng nhân lịch sử, những người dân hiền hòa của miền Nam Việt Nam, nạn nhân của thảm họa thế giới: Chủ nghĩa Cộng Sản.

    Đồng thời những hình ảnh nầy cũng cho ta thấy rõ sự phản bội của những kẻ mà 1 thời ta gọi là đồng minh.

    Ba mươi hai năm, thời gian đủ để 1 đứa bé mới sinh ra ngày đó, ngày nay đã thành 1 người chững chạc và đủ trưởng thành để nhìn thấy bộ mặt thật bọn Cộng Sãn.


    ----------------------------------

    Powerpoint Slideshow
    Saigon giờ thứ 25

    và nghe Khánh Ly trình bày
    Người di tản buồn


    Cám ơn anh Phú De  ;)
    Mỹ nói sư huynh ngày mai đi mổ mắt rồi, chúc anh may mắn nhé.  ;)

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Dang_My vào ngày 01. May 2007 , 08:49

    Sư huynh ơi ,

    Bừa nay sư huynh sắp đi mổ mắt phải không ?  My chúc sư huynh gặp mọi sự may mắn tôt đẹp nha  ;)

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by Phu_De vào ngày 01. May 2007 , 10:46
    Cám ơn anh Bình và chị Mỹ chúc lành, đang sửa soạn đi đây, sẽ báo cáo sau.

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by otgh vào ngày 01. May 2007 , 19:27

    wrote on 01. May 2007 , 10:46:
    Cám ơn anh Bình và chị Mỹ chúc lành, đang sửa soạn đi đây, sẽ báo cáo sau.


    Chúc anh Phu De sẽ qua cuộc giải phẩu mắt bửa nay với mọi sự tốt đẹp ...và chóng bình phục nghen....  ;) :D :D :D

    Title: Re: Tháng Tư Lại Về
    Post by dacung vào ngày 06. May 2007 , 05:56
    Cộng Sản Dạy Tôi Về 30 Tháng Tư  

    KIM TRẦN . Việt Báo Thứ Sáu, 5/4/2007, 12:30:00 AM
    Người viết: Kim Trần

    Bài số 1256-1867-572vb6040507

    *

    Sinh năm 1983, học ngành sư phạm tại Cal State, Kim Trần là tác giả trẻ tuổi nhất trong 12 tác giả vào chung kết Viết Về Nước Mỹ 2005 với bài viết ngắn nhất, 727 chữ, "Những bài học đầu tiên về nước Mỹ". Bài viết mới đây của cô, tự truyện "Người Yêu Tôi: Một Con Nghiện" là một trong những bài viết đang lôi cuốn bạn đọc. Lần này, là tâm sự của cô về ngày 30 tháng Tư.
    *

    Sáu năm trước...

    Mười tám năm sau khi ra đời tôi mới tìm ra câu trả lời cho điều thắc mắc tôi đã mang trong lòng từ lúc còn bé "cộng sản là gì?".

    Tôi đã khóc khi biết được sự thật. Nhắc đến, tôi không sao quên được ánh mắt sửng sốt của cô giáo dạy lớp tiếng Việt ở Golden West College dành cho tôi khi đọc bài viết thi học kỳ một vơí đề bài "hãy viết lên cảm xúc của em về ngày 30 tháng 4".

    Là một học trò giỏi mới từ Việt Nam sang định cư tại Mỹ, tôi đã mỉm cười khi đọc đề bài, cắm cúi viết đầy cả hai trang giấy dù cô chỉ yêu cầu một trang. Tôi là người đầu tiên nộp bài, hồi hộp chờ đợi kết quả...

    Cô giáo có vẻ giật mình và xúc động mạnh khi đọc bài tôi, gọi tôi lên và hỏi "ai dạy em như thế hả? Tại sao em lại viết như thế?".

    Thật sự lúc đó tôi không hiểu cô nói gì, chỉ biết tôi đã cố gắng dùng lời lẽ tốt đẹp nhất nói lên cảm giác của tôi về 30 tháng 4- "ngày đại thắng" của dân tộc Việt Nam, tôi đã ca ngợi Bác Hồ và miêu tả sự hoành tráng của ngày vui mừng thắng lợi của đảng cộng sản Việt Nam. Tôi đứng như bất động, không hiểu tại sao cô giáo lại tỏ thái độ như thế. Tôi rụt rè trả lời "Em viết làm sao hả cô? Em được học sao viết vậy thôi...". Cô nhìn tôi khẽ lắc đầu và bảo tôi về bàn.

    Sau đó cô giáo mở cuốn băng DVD của trung tâm Asia "Hành Trình Tìm Tự Do" cho cả lớp xem. Bước xuống bàn tôi, cô giáo nói "Em coi xong cuốn băng này sẽ hiểu tại sao cô lại có thái độ lúc nảy".

    Tôi lặng lẽ xem, những giọt nước mắt của tôi không phải chỉ vì xúc động mà là nổi đau khi lần đầu biết được sự thật đau lòng: tôi, thành viên của cả một thế hệ trẻ thanh niên Việt Nam hôm nay- và nhiều thế hệ sau này nữa-, đã và đang bị nhồi sọ bởi một thứ giáo dục  hoàn toàn là dối trá mà không hề hay biết gì.

    Khi tôi được sinh ra, miền Nam đã trải qua 7 năm bị đặt dưới ách toàn trị của chế độ độc tài. Những bậc phụ huynh trong các gia đình, sau khi từng lãnh nhiều biện pháp hà khắc của chế độ mới đã buộc phải giả câm, giả điếc. Vì cực nhọc mưu sinh, và cũng vì an ninh của chính con cái mình, hầu hết không thể vạch rõ cho con em biết mọi thứ dối trá  mà con em họ phải học trong trường lớp và sách vở tô hồng chế độ, đánh bóng lãnh tụ.  

    Trong hoàn cảnh trên đây, đầu óc non nớt của cô bé con  là tôi khi rời quê nhà tới được nước Mỹ, vẫn ngây thơ tin vào những điều dối trá mình từng học.

    Tôi đã xem những kẻ tôi tớ cho một chủ nghĩa ngoại lai, mang đủ thứ mưu ma chước quỉ của chúng về tàn phá đất nước, là cha già, là anh hùng dân tộc.  Chính cái chế độ kỳ dị ấy đã đầy ải hành hạ đồng bào tôi, gia đình tôi.

    Ba mươi hai năm đã trôi qua trên từng mái tóc nhuốm bạc của những người dân tị nạn kể từ ngày mất Sài Gòn và miền Nam, thủ đô và đất nước thân yêu Việt Nam, với tôi giờ nổi đau ấy dường như mới xảy ra hôm qua.  

    Qua cuốn DVD ấy, tôi biết được số lượng người Việt đã bỏ xác trên biển Đông, trong tay hải tặc đã không thể nào thống kê hết. Những trái tim tan nát sau những chuyến hải hành vô định trên biển Đông trùng trùng gió bão. Những bà mẹ quỳ lạy những tên hải tặc xin tha cho đứa con gái mười tám tuổi ốm o bịnh hoạn. Những giọt nước mắt và những lời van xin của mẹ không làm lay động tâm hồn của những người không chút lương tâm. Tiếng niệm Phật, lời cầu kinh lúc đấy không ai nghe thấy vì lúc đó không Chúa cũng chẳng có Phật, chỉ có những thân thể trần truồng máu me nhầy nhụa, những tiếng rên của những con người bất hạnh mà số phận của họ lúc ấy như "ngàn cân treo sợi tóc".  Trong đói khát lo âu, cuối cùng đến được trại tị nạn thì  trại đã chính thức đóng cửa, hay vì họ bị trục xuất trở lại Việt Nam Lần đầu tiên biết được lịch sử chuyến vượt biên hải hùng ấy cùng vô số những cái chết thương tâm, lòng tôi dấy lên một nổi đau khó tả.

    Tôi nhớ lại,

    ... Cảm giác vui mừng và hân hoan đến thế nào khi đứng lên bục vinh dự nhận giải thưởng giải nhì môn văn học toàn quốc năm học lớp 9 ở Việt Nam. Tôi đã dùng hết mọi chữ nghĩa hào nhoáng tôi đạ học trong văn chương để viết lên bài văn gần như hoàn chỉnh nhất trong đời về đề tài "Ca ngợi hình ảnh Bác Hồ trong văn học Việt Nam."

    Tôi đã viết rằng chủ tịch Hồ Chí Minh là một anh hùng giải phóng dân tộc, là bậc cha đáng kính của dân tộc Việt Nam, là biểu tượng của truyền thống kiên cường bất khuất trong lịch sử dựng nước và giữ nước, là tấm gương sáng của mọi tầng lớp, rằng ông là người thầy vĩ đại của nền cách mạng Việt Nam...

    Bây giờ nhớ lại, trong tôi hình như có cảm giác mình bị xúc phạm và lừa gạt nặng nề. Tôi căm ghét những lời hoa văn ngày nào tôi viết.

    Tôi lật lại từng trang của quyển tập Lịch Sử thời trung học ngày nào lúc còn ở Việt Nam được mang tận đây để làm kỷ niệm. Những dòng chữ nắn nót vẫn còn đậm mực ghi lại ngày 30 tháng 4 năm 1975 của bọn cộng sản đã lấy máu dân tô thắm lá cờ mừng chiến thắng.

    Chúng miêu tả lại:

    “... Sáng 30 tháng 4, dọc theo xa lộ Biên Hòa Sài Gòn bô đội ta tiến qua ào ạt theo một mục tiêu: Trung Tâm Sài Gòn. Tiếng súng, đạn pháo nổ vang, khói đen bao trùm. Những loạt đạn yếu ớt của "bọn ngụy quân ngoan cố" không lọt qua xe tăng của lữ đoàn 203 nhắm thẳng vào mục tiêu bắn rất đanh. "Bọn địch" hoảng sợ, tiếng súng của chúng câm bặt.

    “... Bước qua đường Hồng Thập Tự, đội hình xe tăng của ta rẽ bên phải theo đại lộ Thống Nhất" Dinh Độc Lập kia kìa "Các chiến sĩ trong xe tăng reo lên, mắt vẫn chăm chú nhìn vào mục tiêu. Chúng tôi nhìn thấy toàn cảnh phủ tổng thống uy quyền. Lính ngụy quần áo rằn ri chạy nháo nhác tiếng đại bác, tiếng súng vang lên nhắm thẳng vào mục tiêu mà bắn.

    “... Chúng tôi bất chấp lửa đạn, đổ ra đường hò reo chào đón bộ đội, bám theo xe tăng la hò "Hồ Chí Minh muôn năm, Cộng Sản muôn năm, bộ đội giải phóng muôn năm. Những giờ phút đó, dọc các dãy phố, cả một rừng cờ đỏ sao vàng mọc lên  chào mừng chiến thắng.

    “... Lịch sử 30 tháng 4 mãi mãi ghi lại câu tuyên bố đầu hàng của đại tướng Dương Văn Minh: "Tôi đại tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống chính quyền Sài Gòn, xin đầu hàng vô điều kiện quân giải phóng. Tôi kêu gọi chính quyền Sàigòn, từ Trung Ương đến địa phương, bỏ vũ khí đầu hàng Quân Giải Phóng!"  

    “... Đây là cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng miền Nam khỏi đế quốc xâm lược, khỏi ách kìm hảm của Mỹ Ngụy và bè lũ ngụy quyền tai sai; rằng đây là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thiêng liêng của dân tộc Viêt Nam...”

    Cứ cái giọng hợm hĩnh ấy,  sách vở giáo khoa của Cộng sản cho tới bây giờ vẫn tiếp tục nhồi nhét vào đầu những người tuổi trẻ biết bao điều dối trá.

    Cô giáo đầu tiên của tôi   dạy lớp tiếng Việt ở Golden West College đã nhận xét rất đúng. Bi kịch lớn của dân tộc Việt Nam là kẻ không đáng thắng đã thắng. Sau khi đã làm tốn biết bao nhiêu xương máu của nhân dân,  kẻ thắng trận đã tiêu hủy luôn chế độ  dân chủ, tự do đa nguyên đa đảng và một nền kinh tế thị trường đã từng tồn tại ở miền Nam Việt Nam trước 75.  Hậu quả là 32 năm sau, hôm nay đây đất nước Việt Nam đang phải từng bước  đi lại ngay đúng con đường ấy.

    Từ sau bài học về ngày 30 tháng Tư sáu năm trước, bản thân tôi sau khi tỉnh ngộ, đã tự tìm hiểu thêm khi nhìn lại tình hình Việt Nam hiện nay:

    - Nhân dân bị lãnh đạo bởi một chế độ độc tài, phủ nhận tự do của người dân, thành lập nên chính sách chà đạp quyền căn bản nhất của con người."

    -  Cho tới nay, hàng trăm, hàng ngàn tù nhân chính trị tù nhân tôn giáo giờ vẫn còn bị giam cầm trong những điều kiện vô cùng khốn khó. Cộng sản đã bắt bớ những người phát biểu bất đồng ý kiến thặm chí trên mạng internet. Đã không ít người âm thầm đấu tranh cho nền dân chủ nước nhà nhưng đã mấy ai thoát khỏi vòng kiểm soát. Tiêu biểu năm qua có ông Trương Quốc Huy vì tội theo dõi thảo luận dân chủ trên internet, kỹ sư công chánh Bạch Ngọc Dương về tội ký tên trong bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Việt Nam, ông Vũ Hoàng Hải bị đánh đập dã man vì đã ủng hộ bản tuyên ngôn tự do dân chủ. Danh sách những người như thế còn rất nhiều...

    - Tất cả các tôn giáo buộc phải ghi danh với nhà cầm quyền Việt Nam xin phép hoạt động. Hàng trăm đơn xin hoạt động bị khước từ thẳng thừng, bị hoản hoặc trả lại. Năm ngoái, công an cộng sản đã đột nhập nhà thờ của hội thánh Menonite đập phá mặt tiền của nhà thờ.

    - Công nhân Việt Nam không được thành lập các công đoàn tự trị, không có quyền tự do hội họp, đạo luật số 34 ngăn cấm tụ họp đông đảo nơi họp hội của nhà nước, của đảng, hội nghị quốc tế. Bạn tôi kể lại, năm ngoái trong khi tổng thống Bush đến thăm Hà Nội, cảnh sát đã hốt hết trẻ em sống bên lề đường và những người dân không nhà cửa nhốt vào trung tâm cải huấn, nhiều người trong số họ đã bị đánh đập, bỏ mặc cho đói khát bệnh hoạn và không có ngày về.

    - Người dân không được bảo vệ trươc pháp luật, cảnh sát có quyền bắt bớ, cầm tù bất cứ kẻ nào có tình nghi không cần lý do. Hàng trăm tù nhân tôn giáo, tù nah6n chiíh trị đang bị giam cầm trong tù với điều kiện sống vô cùng khó khăn, có người bị đanh đập, hành hạ, tra tấn bằng điện giật.

    - Đảng cộng sản Việt Nam giới hạn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và cả tự do hội họp. Người dân không có quyền tự do ngôn luận, hàng ngàn sinh hoạt văn hóa thông tin bị cấm đoán, truyền thông bị kiểm duyệt, không cho phép báo chí đối lập hoạt động. Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã bị lãnh án 7 năm tù một ví dụ điển hình. Cộng sản Việt Nam còn kiểm duyệt mạng lưới internet, ngăn chặn website có nội dung chính trị, kiểm soát emails.

    - Việt Nam nằm trong danh sách những quốc gia về tệ nạn mua bán tình dục, nô lệ tình dục. Bọn mất hết tính người thậm chí đã mua bán trao đổi trẻ em trên internet và qua đường dây mua bán mại dâm qua các nước lân cận.

    Lời kết,

    Dù đã 30 năm trôi qua nhưng đối với những người dân tị nạn Việt Nam, nổi đau ấy dù dã nhẹ hơn nhưng mãi mãi còn đọng lại dấu vết như một vết sẹo lớn ghi nhớ vết thương ngày nào.

    Tôi biết có nhiều người đã hỏi bản thân mình: có nên tha thứ cho kẻ thù không? Có thể nào quên đi dĩ vãng không? Câu trả lời là: không thể quên, nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể buông thả bớt những nổi niềm đau kổ ra khỏi tâm tư để trái tim của những người dân tị nạn bớt nhức nhói, quá khứ của ngày quốc hận năm nào chúng ta không cần phải quên, bởi vì không ai có thể quên được, mà chúng ta nên ghi chép lại trogn lịch sử, lưu truyền lại cho thế hệ sau. Quá khứ cho ta những bài học lịch sử nhân loại và nhiờ có những bài học này, người đời sau như tôi có thể học hỏi kinh nghiệm sống, hiểu rõ hơn về lịch sử dân tộc và những gì thế hệ trước đã phải trải qua để chuyển hóa tích cực cho tương lai. Có một điều tôi muốn nêu lên, dù 30 tháng 4 đã trở thành ngày của lịch sử đau htương và thù hận, nhưng tôi nghĩ, chúng ta nên ghi nhớ nhiều hơn căm thù bởi vì lòng hận thù dẫu sao cũng sẽ khơi dậy mãi trong lỏng nổi đau không bao giờ chấm dứt.

    Tôi mong đất nước Việt Nam mình một ngày được tự do dân chủ toàn diện như một bài diễn văn tuyên thệ nhận chức lần hai, tổng thống Bush đã nói "tự do, theo đung nghĩa, phải được toàn dân chọn lựa, hy sinh để bảo vệ, và luôn được luật pháp tôn trọng. Quyền lợi của những sắc tộc thiểu số cũng phải được bảo vệ... Mục đích của chúng ta là giúp cho mọi người cất lên tiếng nói của chính mình, đạt được tự do cho mình, theo phương cách của mình."

    KIM TRẦN

    Trường Trung Học Lê Văn Duyệt » Powered by YaBB 2.4!
    YaBB © 2000-2009. All Rights Reserved.