Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - ĐỌC BÁO  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 11 12 13 14 15 ... 40
Send Topic In ra
ĐỌC BÁO (Read 81070 times)
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #180 - 05. May 2009 , 19:34
 
Di thể của một tu sĩ Phật Giáo vẫn còn nguyên vẹn sau khi qua đời 38 ngày.


Madikeri, Karnataka, May 4,

Di  thể của vị Tăng Trưởng Phật Giáo Tây Tạng nổi tiếng Penor Rimpoche, người qua đời hồi 27 tháng Ba tại tu viện Tây Tạng ở Bylakuppe thuộc khu Mysore, vùng biên giới Kodagu, vẫn còn nguyên vẹn sau khi qua đời cho đến nay là 38 ngày, như khi các giới chức thẩm quyền tại chùa đang chờ đội tăng chúng từ khắp nơi trên thế giới tụ tập về.

Vị tu sĩ, người thường trú tại chùa Golden Temple, ngôi chùa Tây Tạng lớn nhất  tại Ấn Độ, qua đời sau một cơn  bệnh nhẹ.

Di thể của Ngài hiện đang được bảo tòan trong lúc tín chúng và các đệ tử của Ngài đã thực hiện những nghi thức lễ bái đặc biệt trên khắp thế giới.

Rimpoche, vị sáng lập hệ phái Nigmapa, được biết đến với tài diễn thuyết, nếp sống mẫu mực và truyền tải các bài giảng thuyết đầy thu hút đến với thế giới.

Các nhà lãnh đạo Phật giáo Tây tạng tại Bylakuppe nói rằng di thể của Ngài Rimpoche sẽ được trưng bày cho quần chúng viếng thăm  từ ngày 22 tháng Năm và sẽ được trà tỳ một thời gian ngắn sau khi chư tăng  từ  khắp thế giới đến tụ tập đông đủ.
Họ cũng xác nhận rằng di hài  của Ngài Rimpoche sẽ tiếp tục được duy trì nguyên vẹn với niềm tin tâm linh vững chắc.

Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #181 - 10. May 2009 , 20:37
 
Lật Lá Bài Tẩy Tr.Q. Dùng Để Khống Chế Bộ Chính Trị Đảng CSVN        


Cho đến thời điểm bài viết này được đưa lên mạng, thì vấn đề Bô-xít Tây Nguyên đang sôi sục trong công luận trong và ngoài nước.

Một sự thực mọi người đều nhận rõ là bộ chính trị (BCT) đảng CSVN đang bị Trung Quốc khống chế, và họ đang chịu áp lực nặng nề đến nỗi không thể không làm theo mệnh lệnh của Trung quốc, dù thừa biết rằng đó là việc làm phản quốc,

và họ đang chịu áp lực nặng nề đến nỗi không thể không làm theo mệnh lệnh của Trung quốc, dù thừa biết rằng đó là việc làm phản quốc, và cũng thừa biết rằng họ sẽ phải trả một giá nặng nề trước lịch sử cũng như có thể dẫn đến hỗn loạn xã hội và nguy cơ mất nước trong thời gian không xa, nếu dự án này vẫn tiếp tục được thực hiện

Vậy Trung quốc đã có trong tay lá bài gì, khiến cả BCT 15 người - những người thừa gian xảo, không thiếu thủ đoạn - cũng đành răm rắp cúi đầu vâng lệnh, bất chấp những can ngăn chân thành, cũng như những tiếng thét phẫn nộ của người Việt trong và ngoài nước. Chúng ta hãy thử đi tìm lá bài tẩy này, cùng bàn cách vô hiệu hóa nó, để cứu nguy đất nước đã và đang thật sự đứng trước bờ vực thẳm

Đã có rất nhiều bài viết đề cập đến vai trò tay sai Trung quốc của BCT đảng CSVN đặc biệt những nhân vật đứng đầu nắm giữ vận mệnh quốc gia như Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết v...v..., những bài viết khả tín của những học giả, chuyên gia, nhân sĩ có uy tín, am hiểu tường tận bối cảnh, lịch sử và thế đứng của Việt Nam đều đưa ra một nhận định chung là sở dĩ Việt Nam đang đứng trước nguy cơ mất nước trước bành trướng Bắc Kinh, vì phẩm chất và tài năng kém cỏi của bọn 15 người trong BCT. Đó là những “người lùn” cả về tài năng lẫn nhân cách. Đó là những cái bình vôi khi phải đối đầu với những vấn đề trọng đại trên trường quốc tế. Bản lãnh của họ không đủ để lắng nghe những nguyện vọng tha thiết về tự do dân chủ nhân quyền của 82 triệu người Việt, và cũng không có can đảm thoát ra khỏi đường mòn Cộng Sản Hồ Chí Minh đã vạch ra. Trái tim của họ không thổn thức được trước nỗi nhục hèn kém mà một dân tộc từng tự hào có 5000 năm văn hiến đang phải chịu đựng. Đó là những người chỉ biết nhắm mắt dung dưỡng những việc làm vô luân xẩy ra hàng ngày cho người dân trong nước và cho những con em bị bán làm nô lệ cho nước ngoài. Họ vô lương tìm mọi cách để tham nhũng cho đầy túi tham và thản nhiên chèn ép, cướp đoạt nhà cửa, đất đai, của người dân, trong đó không ít người đã từng là những đồng chí của họ. Nhưng suy cho cùng, chính vì trí nông sức hèn như vậy, nên họ không thể có ‘gan’ để bất chấp tất cả mà bắt tay với kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Hơn nữa, ‘cha nó lú thì chú nó khôn’, đằng sau 15 tên bị thịt kia, ắt hẳn phải có những thái thượng hoàng đưa lưng chống đỡ, thế mà cũng vẫn không xong, vẫn phải cúi đầu chịu nhục. Tự thắt thòng lọng vào cổ mình

Vậy Trung Quốc đã dùng thứ vũ khí gì khiến cả bọn 15 người, và cả cái đảng ‘quang vinh, đỉnh cao trí tuệ loài người’ kia phải khúm núm cúi đầu vâng lệnh

Vâng. Tất cả chỉ là một lá bài tẩy! Là một bí mật vô tiền khóang hậu. Xin bật mí với quí độc giả lá bài tẩy trong tay Trung quốc không gì xa lạ, mà đó chính là “con người thật” của Hồ Chí Minh. Vâng, chính Trung Quốc đã nắm trong tay đầy đủ dữ kiện chính xác và khoa học không thể chối cãi, là cái xác Hồ Chí Minh hiện đang nằm tại lăng Ba Đình, chỉ là một người Trung Hoa gốc Hẹ, đã đội lốt Hồ Chí Minh thật, chết năm 1932, có giấy khai tử của chính quyền bảo hộ Anh hẳn hòi, để tự phong là ‘cha già dân tộc’ của Việt Nam.

Chính Hồ Cẩm Đào đã gọi Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tấn Dũng sang Trung Nam Hải để cho thấy tận mắt các chứng liệu ấy! Và tôi tin rằng Tổng Cục 2, Bộ quốc phòng CSVN, cũng đã kiểm chứng nguồn tin này, và không thể phản bác: Đó là sự thật! Hồ Chí Minh thật đã chết năm 1932! Cái xác Hồ Chí Minh hiện đang nằm ở Ba Đình chỉ là xác của Hồ Chí Minh giả. Đó là lý do khiến cả Nông Đức Mạnh lẫn Nguyễn Tấn Dũng (và cả bộ chính trị) đều phải ngoan ngoãn vâng lời những chỉ thị của Hồ Cẩm Đào

Qủa thật đây là một đòn tối độc của Trung Quốc! Và đó là lá bài tẩy của họ để khống chế BCT đảng CSVN! Và họ đã thắng

Tại sao chúng ta có thể tin tưởng giả thuyết này là sự thật

Hẳn độc giả còn nhớ tất cả những chi tiết về Hồ Chí Minh giả, đều đã được tiết lộ trong cuốn “Hồ Chí Minh Bình Sanh Khảo” của tác giả Đài Loan Hồ Tuấn Hùng gây xôn xao dư luận trên Internet trước đây. Vì câu chuyện đã được phổ biến khá rộng rãi, nên không cần ghi lại những chi tiết ở đây, chỉ cần sơ lược vài điểm quan trọng sau

1. Sau khi tin tức của cuốn biên khảo Hồ Chí Minh Bình Sinh Khảo được phổ biến rộng rãi trên Internet và báo chí hải ngọai, thì cũng có một số phản bác của một vài cá nhân, cho là những gì nhà nghiên cứu Hồ Tuấn Anh trưng dẫn đều không phải là sự thật. Nhưng tất cả những phản bác này đều yếu ớt, hời hợt, không có sức thuyết phục về mặt khoa học

2. Trong khi với kỹ thuật DNA, những gì có thể làm để xác tín việc Hồ Chí Minh thật đã chết năm 1932 và Hồ Chí Minh sau đó là Hồ Chí Minh giả thì vô cùng dễ dàng, đặc biệt dễ dàng đối với cục phản gián Trung quốc và Cục phản gián (Tổng cục 2) của CSVN, vì họ nắm trong tay cái xác ướp của Hồ Chí Minh giả, và hàng trăm vật dụng, di tích của Hồ Chí Minh thật chết năm 1932, cũng như về Hồ Chí Minh giả từ 1933 về sau. Chỉ cần một cuộc thử nghiệm DNA là biết trắng đen, là không cần tranh cãi. Và họ đã làm.

Bộ chính trị CSVN đang ở thế kẹt! Tiến thoái lưỡng nan. Vì họ không muốn sự thật bị đem ra ánh sáng nên họ đang bị Bắc Kinh khống chế! Nói cũng chết mà không nói cũng chết! Nên họ chọn giải pháp thà chết từ từ còn hơn chết tức khắc! Nói cách khác họ dùng chiến thuật câu giờ, phó cho may rủi! Nắm được quyền lực ngày nào hay ngày ấy! Bất chấp sinh mệnh của dân tộc! Bất kể lẽ tồn sinh của giống nòi

Câu hỏi kế tiếp được đặt ra cho chúng ta là: Chúng ta có thể làm gì để biết đâu là sự thật? Chúng ta có thể làm gì để vô hiệu hóa đòn độc của Bắc Kinh

Câu trả lời thật giản dị, và đã có ngay từ bản chất của vấn đề: Đó là chúng ta phải tôn trọng sự thật! Chúng ta không thể tự lừa dối mình, cũng không thể phản ứng bằng chủi rủa, mạt sát.

Tất cả là sự thật phải được tôn trọng, phải được công bố. Bởi vì trên căn bản, mọi thảm kịch xẩy ra cho dân tộc chúng ta chỉ do sự lừa bịp vĩ đại của một người không phải là người Việt Nam. Người đó là ngoại nhân đội lốt một người Việt để đem một chủ nghĩa ngoại lai về áp đặt trên dân Việt. Người đó gây ra cuộc nội chiến, mong người Việt giết nhau đến người cuối cùng. Người ấy hô hào đốt cả dẫy Trường Sơn, nướng hơn 3 triệu sinh mạng thanh niên, gây cảnh góa bụa, côi cút cho hàng triệu phụ nữ, mẹ già, con trẻ. Người ấy kêu gọi viết chữ Việt giống hệt anh chệt phiên âm tiếng Tàu bằng ký hiệu Latin như ‘Kách mệnh’, ‘fi fáp’. Người ấy chỉ dám gặp người chị ruột của mình một lần sau mấy chục năm xa cách, và không bao giờ muốn gặp lại, vì sợ bị lộ tung tích, và vì chẳng liên quan máu mủ gì với người đàn bà gọi là chị đó. Người ấy có về thăm nhà một lần và nhận ra ngay cái ngõ mà mấy chục năm không hề nhớ đến, diễn xuất một cách lố bịch kịch bản được cơ quan tình báo dàn cảnh. Người đó bất nhân đến nỗi để cho thuộc hạ hiếp dâm vào bạo dâm nhiều lần người vợ đã có thai với mình, rồi sau đó ra lệnh cho thủ tiêu để phi tang!

Thất đức đến nỗi có con mà không nuôi! Không dám nhận! Người ấy bất nghĩa với bạn bè, ngủ với vợ đồng chí mình, bỏ mặc những người đã làm ơn cho mình như Vũ Đình Huỳnh, mặc cho bị hàm oan, tù tội. Đã thế, lại còn trân tráo viết sách tự ca tụng mình, và trong di chúc còn khoe rằng có con rơi lai Pháp, ý hẳn muốn thanh minh ta cũng là người, cũng có con rơi nhưng không phải những đứa như Nguyễn Thành Trung mà mẹ nó chỉ là người Việt thiếu số da vàng mũi tẹt! (Tâm lý vọng ngoại, chơi gái Tây vẫn ‘oai’ hơn chơi gái Việt!!!). Tóm lại đó là một con người vô luân, đầy thủ đoạn và thâm độc...Hắn là một điệp viên thượng thặng của Liên Sô, Trung Quốc và có thể của cả Mỹ (điều này giải thích được tại sao ông ta lại tha Ngô Đình Diệm, một lá bài của Mỹ). Hắn là tác phẩm toàn hảo của Cộng sản quốc tế, cho nên đến chết vẫn để di chúc lại là về cõi với Lê với Sít chứ chẳng biết gì tới Đinh, Lê, Lý Trần!!! Dứt khoát, người ấy không phải là người Việt Nam. Không phải là ‘Bác Hồ’ như chúng ta vẫn đọc được trong sách báo của đảng. Hắn có tên thật là Hồ Tập Chương, vốn người thuộc sắc tộc Hyakka tức Khách Gia, mà người Việt gọi là Hẹ, thuộc huyện Miên Lật, địa khu Đồng La, Đài Loan!

Rất may cho chúng ta là màn kịch đã đến lúc hạ màn. Và bổn phận của chúng ta là phải làm sáng tỏ Vụ bịp bợm thế kỷ này

Bằng cách nào? Trong khi ta không được rờ vào cái xác ướp tại Ba Đình, thì làm sao ta có thể dùng DNA để kiểm chứng

Vâng, ta vẫn có cách! Nhưng ta phải đi đường vòng, cũng bằng phương tiện DNA.

Thật thế, như chúng ta đã biết, nhiều tác giả như Vũ thư Hiên, Bùi Tín, Dương Thu Hương, Vũ Ký, Trần Khải Thanh Thủy v... v... đã khẳng định Nguyễn Tất Trung là con của Hồ Chí Minh (giả) và Nông Thị Xuân, thế thì ta chỉ việc xin anh Trung một sợi tóc, rồi sau đó so sánh mẫu DNA của anh với mẫu DNA của bà Thanh, chị ruột ông Nguyễn Tất Thành mà ta có thể tìm dễ dàng

* Nếu DNA của anh Trung và bà Thanh giống nhau thì cái xác Hồ Chí Minh tại Ba Đình là xác thật, và Nguyễn Tấn Trung đích thị 100% là con của Hồ Chí Minh thật và do đó những nghiên cứu của ông Hồ Tuấn Hùng là bố láo

* Nếu 2 mẫu DNA khác nhau, thì rõ ràng bố của anh Trung (và cả anh Trung nữa) chẳng dính dáng gì đến bà Thanh, chị của Nguyễn Tất Thành – Nói cách khác, Hồ Chí Minh nằm trong lăng Ba Đình chính là Hồ Chí Minh giả, và sự nghiên cứu của Giáo sư Hồ Tuấn Hùng được xác tín 100% bằng khoa học là: Hồ Chí Minh thật đã chết năm 1932. Và người mang tên Hồ Chí Minh từ sau 1933 đích thị là Hồ Chí Minh giả

Theo tôi, đây là việc chúng ta phải làm, vì lẽ tồn sinh của dân tộc, cho nên một nghi án đã được nêu ra một cách nghiêm túc như vậy, thì cũng phải được kiểm chứng một cách nghiêm túc và khoa học bằng tất cả những gì có thể làm được. Nếu sự thật không được sáng tỏ, dân tộc Việt Nam sẽ bị phá sản bởi sự hoang mang và sự mất lòng tin. Hơn nữa, việc kiểm chứng này có thể thực hiện một cách dễ dàng, đặc biệt với người Việt trong nước, bằng cách xin anh Trung một sợi tóc, và về Thanh Hóa xin gia đình bà Thanh một đồ dùng nào đó của bà đã dùng. Sau đó nhờ một phòng nghiên cứu quốc tế, độc lập và uy tín thử nghiệm DNA, và đưa kết quả ra trước công luận

Trong khi chờ đợi thực hiện việc này, thì việc cấp thiết chúng ta phải làm là bằng mọi phương tiện, nguồn tin về Hồ Chí Minh giả cần được thông báo cho mọi người dân trong nước. Cuốn ‘Hồ Chí Minh Bình Sanh Khảo’ cần được dịch sang Tiếng Việt, phổ biến rộng rãi, để mọi người Việt đều có thể đọc. (Xin mở dấu ngoặc rằng Giáo Sư Hồ Tuấn Hùng là một nhà sử học chuyện nghiệp với 30 năm kinh nghiệm, ông tốt nghiệp tại Đại Học Quốc Lập Đài Loan, và đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc. Ông không dính dáng gì đến cuộc chiến Việt Nam, và cũng không phải chỉ mình ông nghiên cứu về đề tài này, mà còn có những nguồn khác cũng công bố tin tức về một Hồ Chí Minh gốc người Khách Gia ở Việt Nam như vậy, xin xem chi tiết ở www.sctlog.sctnet. edu.tw) . Khi người dân trong nước đã ý thức được vấn đề, thì mọi việc sẽ không còn là bí mật và do đó Trung Quốc không thể dùng làm vũ khí bắt chẹt những người yếu niềm tin vào dân tộc như ông Mạnh, ông Dũng nữa. Trung Quốc cũng sẽ phải cẩn trọng hơn trong âm mưu thôn tính Việt Nam

Khi kết quả cuộc thử nghiệm được công bố. Dù Hồ Chí Minh là thật hay giả, thì lá bài của Trung quốc cũng đã bị ta lật tẩy. Màn kịch hạ màn. Vụ lừa bịp vô tiền khoáng hậu của lịch sử Việt Nam nếu có sẽ được soi sáng. Bao nhiêu oán hờn sẽ được giải tỏa. Bao nhiêu oan ức sẽ được phục hồi. Bao nhiêu hiểu lầm sẽ được soi sáng. Từ đó ta sẽ dành được thế chủ động trong công cuộc cứu nước và có đủ tự tin và sức mạnh cùng nhau tiến lên xây dựng tổ quốc giữa những người Việt Nam ruột thịt cùng giòng máu với nhau

Mong thay!

( Bài do NT Nguyễn Huy Hùng chuyển, Chỉ nói là bài từ Trong nước )
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #182 - 17. May 2009 , 13:30
 
Người Việt xấu xí :
Xã hội của những người ăn sẵn         



Nếu mọi người đều lần khân đợi người khác dọn rác, thì kết quả là tất cả chúng ta sẽ phải sống chung với rác...  Một buổi sáng nọ, bãi đất trống trước xóm tôi bỗng xuất hiện một đống phế thải xây dựng. Có lẽ là của một công trường xây dựng nào đó quanh khu, lười đi xa nên sang đây đổ bậy. Đợi vài tuần không thấy ai dọn, tôi bàn với mẹ tôi rằng hay là nhà mình vận động cả xóm góp tiền để dọn đi cho sạch sẽ. Mẹ tôi mắng át ngay: "Đấy là việc chung cả cả xóm, hơi đâu mà bận tâm? Cứ để cho ông tổ trưởng lo!"

...

Năm ngoái trong cao trào chống lạm thu lệ phí làm lại hộ chiếu của các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, tôi đã quyết định đứng ra làm nhân chứng cho việc lạm thu này. Bạn bè và người thân của tôi biết chuyện đều cho tôi là dại. Họ bảo: "Mày rảnh rỗi quá hay sao mà đi lôi phiền phức vào người?"

Tham gia thảo luận trên diễn đàn X-cafevn.org, tôi thấy đa số mọi người đều nhìn nhận dân chủ là một thể chế đem lại lợi ích cho cá nhân và cho cả đất nước. Thế nhưng khi đề cập tới chuyện đóng góp sức lực cho phong trào dân chủ nọ kia, nhiều người trong số đó lại lảng tránh. Họ đợi ai đó thực hiện những thay đổi mà mình mong muốn, để rồi họ chỉ việc ngồi tận hưởng những thành quả đó.

Ba câu chuyện trên dường như chẳng có điểm gì chung, nhưng trên thực tế chúng là những ví dụ về cái gọi là Song đề Xã hội (Social Dilemma). Song đề Xã hội là trường hợp một nhóm người có cùng chung một mục đích cuối cùng, nhưng sự đóng góp của mỗi cá nhân lại mang tính tự nguyện. Khi sự đóng góp mang tính tự nguyện, lựa chọn "hợp lý nhất" cho một cá nhân là "ăn sẵn" (free-ride), tức là không đóng góp gì nhưng hưởng thành quả chung của cả cộng đồng. Người Việt chúng ta vẫn thường gọi nôm na trường hợp này là "Cha chung không ai khóc".

Nhìn rộng ra, xã hội Việt Nam cũng đang phải chịu đựng những "bãi rác" tương tự như xóm tôi, bởi thái độ "ăn sẵn" của đa số trong xã hội. Những tệ nạn trái tai gai mắt như tham nhũng, nghiện hút, ô nhiễm môi trường... là kết quả của sự thụ động của người dân, những người luôn trông đợi vào Đảng và Chính phủ hoặc đoàn thể nào đó sẽ ra tay dọn dẹp tệ nạn cho mình.
Trong câu chuyện chống lạm thu lệ phí hộ chiếu, một người quen của tôi ở Đan Mạch đã vui mừng khi không phải vất vả "ra mặt chống chính quyền" mà vẫn được giảm lệ phí làm mới hộ chiếu sau đó. Vâng, nếu không phải làm gì mà vẫn được hưởng thành quả, tất nhiên là rất đáng vui mừng! Nhưng hãy thử nghĩ xem, nếu mọi người đều chọn phương án "ăn sẵn", liệu cộng đồng có đạt được mục đích cuối cùng theo ý muốn hay không?



Người nọ nhìn người kia, không ai chịu đứng ra dọn, đống phế thải trước xóm tôi mỗi ngày một lớn. Bây giờ nó không chỉ là vật liệu xây dựng, mà còn cả nilon, vải vụn, vỏ bắp, rau củ hư, thậm chí cả xác súc vật chết... bốc mùi hôi thối mỗi khi ẩm trời. Ruồi nhặng cũng từ đó mà ra, bay vào quấy nhiễu bữa cơm ngon lành của mọi nhà trong khu. Vậy đấy, cùng có suy nghĩ "ăn sẵn" giống nhau, bây giờ của cả xóm được hưởng "thành quả" là sự ô nhiễm, mất vệ sinh và mất mỹ quan chung.

Nhìn rộng ra, xã hội Việt Nam cũng đang phải chịu đựng những "bãi rác" tương tự như xóm tôi, bởi thái độ "ăn sẵn" của đa số trong xã hội. Những tệ nạn trái tai gai mắt như tham nhũng, nghiện hút, ô nhiễm môi trường... là kết quả của sự thụ động của người dân, những người luôn trông đợi vào Đảng và Chính phủ hoặc đoàn thể nào đó sẽ ra tay dọn dẹp tệ nạn cho mình. Có thể nói, nếu quyền lợi của bản thân chưa bị động chạm trực tiếp, đa số chúng ta sẵn sàng "sống chung với rác".
...

Đống rác là của chung nhưng chúng ta không dọn thì ai dọn đây?
Song đề Xã hội không phải là vấn đề của riêng Việt Nam. Ngay cả các quốc gia phát triển như Pháp, Anh, Mỹ... cũng vấp phải vấn đề tương tự, nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Người dân ở các quốc gia này có dân trí cao, được thường xuyên khuyến khích và giáo dục về bổn phận cá nhân với xã hội, do đó họ hiểu được mối đe dọa từ việc lựa chọn phương án "ăn sẵn", cũng như họ biết lợi ích mà họ nhận được sẽ tăng lên tương ứng với công sức mà họ bỏ ra. Quan niệm này có lẽ trái với truyền thống văn hóa của Việt Nam, nơi mà "ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng" vẫn còn được coi là một việc làm hết sức dại dột.



Muốn Việt Nam đi lên, người Việt trước hết phải thay đổi quan niệm truyền thống sai lầm này. Không phải ngẫu nhiên "dân chủ" bắt đầu bằng từ "DÂN". Mỗi người dân trong xã hội cần phải hiểu rằng mình sẽ là người hưởng thành quả của dân chủ, và thành quả đó không đến nếu chính mình không vận động. Những lời khuyên nhủ của cụ Phan cách đây gần 100 năm vẫn còn nguyên tính thời sự:

"Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường.



Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước mới mong có ngày cất đầu lên nổi. " - Phan Chu Trinh (1872 - 1926)

Khi nói tới vận động dân chủ, người ta vẫn thường tưởng tượng ra những hoạt động có vẻ như nằm ngoài khả năng của mình, như rải truyền đơn, phát động hoặc tham gia phong trào nọ kia, biểu tình công khai phản đối chính quyền trung ương hoặc địa phương... Thực ra, vận động dân chủ không nhất thiết phải đao to búa lớn như vậy! Mỗi người đều có thể lựa chọn đóng góp cho tiến trình dân chủ tùy theo khả năng của mình. Kinh tế gia có thể viết bài trên báo tranh luận về đường lối kinh tế, hoặc tạo dựng những doanh nghiệp làm giàu bằng con đường chính đáng. Khoa học gia có thể đàm luận về định hướng phát triển khoa học, hoặc tham gia các hoạt động truyền tải công nghệ mới vào Việt Nam. Học sinh - sinh viên có hiểu biết về dân chủ có thể trao đổi kín với bạn bè và người thân của mình, để sao cho họ cũng hiểu được lợi ích của dân chủ. Với người dân bình thường, chúng ta có thể chọn "sống thực" với bản thân mình, không chấp nhận đống rác "thực" trước của nhà mình, cũng như những đống rác "ảo" trong xã hội; không tiếp tay cho những hành vi hối lộ - vòi vĩnh trong giao thông, y tế, giáo dục hay hành chính; không nhắm mắt làm ngơ trước mại dâm, ma túy và cờ bạc. Như vậy đã là vận động dân chủ hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn rồi đó!

Núi rác trước xóm tôi trông lớn thật, nhưng nếu cả xóm mỗi người một chân một tay, việc dọn sạch nó cũng không khó. Chỉ cần tất cả chúng ta bắt tay vào, việc cải tạo xã hội cũng sẽ xong ngay thôi!

Tqvn2004
Theo X-cafevn.org
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #183 - 25. May 2009 , 12:52
 

KHI CẢ ĐẠI SỨ QUÁN CSVN TẠI NHẬT BẢN BỎ CHẠY NHỤC ƠI LÀ NHỤC !!
     
 


Câu chuyện tôi sẽ kể với các bạn dưới đây là chuyện mới xảy ra, còn nóng hổi. Rất tiếc tôi không có máy hình ngày hôm đó nên không thể ghi lại các hình ảnh cho các bạn xem để làm bằng chứng. Tôi chỉ viết lên đây với cảm xúc của một người Việt cảm thấy bị sỉ nhục trước một nỗi nhục do các quan chức Việt Nam trong Đại sứ quán VN tại Nhật gây ra. Bạn tin hay không thì tùy nhưng mà là chuyện có thật. Câu chuyện xảy ra vào thứ 6 tuần vừa qua (ngày 15 tháng 5 năm 2009) tại Đại sứ quán VN ở Tokyo. Đoàn chúng tôi gồm các quan chức cảnh sát giao thông của tỉnh Saitama đến Đại sứ quán để yêu cầu Đại sứ quán VN giải thích và chứng thực về một Quyết định liên quan đến việc đào tạo, cấp bằng lái xe do ông Bộ trưởng giao thông vận tải VN Hồ Nghĩa Dũng ký gần đây đã làm phiền phức đến nhiều người VN làm việc và học tập ở Nhật khi xin đổi bằng lái xe của Nhật do Bộ Ngoại giao VN mà cụ thể là Đại sứ quán VN đã không thông báo khiến cảnh sát Nhật không thể cấp đổi bằng lái cho họ được do so sánh với quy định cấp bằng lái cũ của VN. Nhưng chuyện tôi sẽ kể không phải chuyện này mà là cái tôi chứng kiến tại Đại sứ quán ngày hôm đó.


Khi chúng tôi vào Đại sứ quán thì chỉ có những người Nhật và VN đang làm thủ tục xin VISA ở đó đang xúm xít quanh một cô gái Việt và bàn tán xôn xao, cùng với một anh chàng Nhật chồng cô ta đang la lối đòi kêu cảnh sát. Còn tại các bàn tiếp tân , làm việc không có một nhân viên Đại sứ quán nào cả. Khi tôi gõ bàn làm việc của họ, nói bằng cả thứ tiếng Nhật Việt để hỏi thì cũng không có một tiếng trả lời từ bên trong.


Một ông già tự xưng là giám đốc một xí nghiệp Nhật thấy tôi đứng kêu hoài thì đến vỗ vai tôi nói rằng : "Nhân viên đại sứ quán ở đây bỏ chạy hết rồi, ông kêu cũng không có ai trả lời đâu. Tôi ngồi ở đây từ đầu , chứng kiến hết tất cả vụ việc. Tôi tính xin VISA 3 tháng sang VN tìm cơ hội đầu tư , nhưng thấy cảnh này nản quá, không muốn đi nữa, đang đợi họ trở lại để kêu họ trả lại Passport đây ".


Tôi hỏi :"Chuyện gì đã xảy ra vậy, khủng bố à".


Ông già: " Tôi không biết tiếng Việt nên không biết cái gì xảy ra, chỉ là tôi thấy cô gái kia đến làm giấy tờ, nói chuyện gì đó với nhân viên Đại sứ quán hình như bằng tiếng Việt nam , xong rồi khi cô gái cất cái Passport thì phải có màu xanh vào xách thì
họ bắt đầu cãi nhau và cô gái tính bỏ đi, sau đó thì người nhân viên Đại hsứ quán nhhảy qua bàn làm việc, rượt theo giật cái xách đang đeo trên vai của ta khiến cái xách của cô ta bị đứt quai và cô ta té dập đầu cạnh bàn, ông thấy máu còn chảy đầy ra đấy. Khốn nạn thật. Tôi không nghĩ rằng họ là nhân viên ngoại giao được giáo dục đàng hoàng, cách làm việc giống côn đồ quá, cứ như là phim vậy".


"Sau đó thì sao" . Tôi hỏi.


Ông già :" Sau đó thì cô ta ôm mặt đầy máu chạy ra ngoài xe kêu chồng cô ta vào, cái anh chàng trẻ đang la hét nãy giờ bên kia, đòi gọi cảnh sát và xe cứu thương đến xử lý đấy. Khi anh ta la hét chạy vào , la toáng bằng tiếng Nhật đòi kêu cảnh sát và luật sư thì các nhân viên ở đây hình như không hiểu tiếng Nhật nhưng qua thái độ của anh chàng đó thì hình như họ sợ thì phải và đột nhiên họ rùng rùng bỏ chạy hết. Báo hại chúng tôi cả đám người ngồi đây đợi không biết bao giờ mới xong giấy tờ của mình , tôi còn nhiều việc ở công ty chắc là đợi họ trở lại để lấy giấy tờ đi về thôi. Tôi nghĩ Đại sứ quán là bộ mặt của Quốc gia mà còn như thế này thì ở VN chắc còn khủng khiếp hơn phải không ? À, mà cậu cũng định đi VN à. Tôi cảm thấy bất an quá. ".


Tôi trả lời :" Xin lỗi ông , tôi là người VN, tới đây có công chuyện, tự tôi cũng cảm thấy sỉ nhục về chuyện này bởi vì tôi là một người VN. Tôi xin lỗi ông vì cái chỗ nhơ nhớp này đã làm ông bất an. Xã hội nào cũng vậy thôi. Dân chúng trong nước của tôi hiền lành và đàng hoàng chứ không có côn đồ như những tên làm việc ở đây đâu. "


Quay lại chỗ vợ chồng cô gái tôi lại hỏi cô ta :"Chuyện gì xảy ra vậy, vết thương có nặng không ? thằng nào đánh em, kêu chồng em bình tĩnh, cầm máu trước hết cái đã". Anh chàng Nhật bổn chồng cô gái thấy tôi nói tiếng Việt nghĩ tôi là nhân viên Đại sứ quán nên đột nhiên nhào tới nắm cổ tôi và hét lên " Đồ khốn nạn, tại sao chúng mày đánh vợ tao đến như vậy".


Gạt tay anh ta ra tôi nói :" Bình tĩnh, tôi là nhân viên công vụ, thông dịch của cảnh sát, những người đi với tôi là cảnh sát, từ từ nói chuyện, thẻ nhân viên của tôi đây" . "Ê, Konishi , cho anh ta coi Sổ tay cảnh sát viên của mày ", tôi gọi người cảnh sát tên Konishi đi cùng với tôi.


Nghe nói tới chữ cảnh sát thì mặt anh ta dịu lại và đổi thái độ , xin lỗi tôi. Sau đó kể hết tự sự cho các cảnh sát đi với tôi và nhờ họ lập biên bản. Nhưng các cảnh sát nói rằng họ không phải cảnh sát viên của Tổng nha cảnh sát Tokyo đồng thời Đại sứ quán VN đây là vùng đặc quyền ngoại giao nên họ không có nhiệm vụ cũng như quyền lập biên bản. Ông sếp đi cùng với tôi kêu mỗi người rút danh thiếp đưa ra cho anh ta và nói rằng nếu anh ta muốn kiện tụng ra tòa thì cả nhóm có mặt hôm nay họ sẽ ra tòa làm chứng.


Anh bạn cảnh sát Nhật của tôi ra xe lấy bông băng cứu thương vào băng bó cầm máu cho cô ta xong thì cô gái kể cho tôi nghe rằng cô ta tên là Hoa , dân ở quận Tân Bình , Sài gòn mới lấy chồng sang Nhật hơn một năm, hôm nay cô ta đến Đại sứ quán để gia hạn lại cái Passport nhưng sau khi làm xong thì người nhân viên Đại sứ quán nhũng nhiểu làm tiền , đòi cô ta trả tiền dịch vụ 60000 yen ( khoảng 600 USD). Cô ta bất bình vì giá niêm yết gia hạn giấy tờ không phải như vậy nên đã xảy ra cãi vả. Người nhân viên đã chửi cô ta rằng " Địt mẹ, mày là con điếm Nhật giận quá nghĩ rằng không thể nói chuyện với những người vô học như vậy nên cô ta chỉ bỏ lên bàn trả đúng số tiền theo giá niêm yết và đi về. Cô ta không ngờ rằng nhân viên Đại sứ quán giở thói côn đồ giật xách từ phía sau làm cho cô ta té ngữa vào cạnh bàn và bị thương như vậy.
",


Nghe đến đấy máu nóng của tôi nổi lên, thú thật lúc đó có thuốc nổ thì tôi cũng cho nổ tung cả cái tòa đại sứ VN nhơ nhớp này, còn chuyện hậu quả thế nào tính sau.


Tôi nói với ông sếp đi cùng: "Tôi nghĩ hôm nay tôi không thể dịch làm việc ở đây được, bởi tôi mà thấy mặt mấy thằng nhân viên lưu manh của Đại sứ quán này chắc tôi ra xe của ông vác súng vô bắn tụi nó hết. Tôi chịu hết nổi rồi. Nhục nhã quá. ".


Cũng may có cô gái Việt nam cũng là thông dịch viên cho một hãng nào đó ngồi gần, nghe nói như vậy nên kéo vai tôi. "Dzậy chú về đi, nếu chuyện không quan trọng thì sẵn thông dịch cho hãng ,cháu dịch giùm mấy ông này luôn cho, cháu thỉnh thoảng cũng có đi làm thêm thông dịch cho cảnh sát, cháu hiểu nguyên tắc làm việc của mấy chú. Cháu đi dịch ở đây nhiều lần, không có máu me chảy bị thương chứ mấy cái cảnh làm tiền của mấy ổng gần giống như dzầy cháu thấy nhiều lần cũng quen rồi. ".


Trao đổi với sếp và nhờ cô gái dễ thương dịch giùm tôi bỏ đi ra ngoài xe ngồi, lấy gói thuốc của tên bạn cảnh sát hút một hơi 3 điếu dù đã bỏ thuốc gần 5 năm mới cảm giác gần bình tỉnh trở lại, nhưng hình ảnh những người Nhật ngồi cười , bàn tán với vẻ khinh mạn, câu nói của ông già người Nhật cứ đeo theo ám ảnh tôi.


NHỤC.


Nhục thật, ước gì tôi sinh ra không phải là người Việt nam để có thể tâm bình khí hòa trước những nỗi buồn mang tên Việt nam do cái tập đoàn cầm quyền ngu dốt đang gây ra.

http://www.tamthucviet.com/articleview.aspx?artId=%C5%93A%15[

Andy Nguyen
May 25, 2009
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #184 - 04. Jun 2009 , 17:30
 
Món qùa của Hồ Chí Minh: Một “huyền thoại” về hủ hóa, thất bại kinh tế,       



Hồ Chí Minh mất năm 1969, và như thường lệ Hà Nội cũng đã tưng bừng tổ chức kỷ niệm ngày sinh nhật của ông ta. Không chỉ để “giữ thể diện”, chế độ CSVN cũng đang gắng giữ hình ảnh “người cộng sản làm ra tiền” để bám lấy quyền lực. Tuy nhiên, kể từ khi chiếc xe tăng Liên Xô của Bắc Việt cán đổ cánh cổng Dinh Độc Lập ở Sài Gòn, hơn 3 thập kỷ trôi qua Đảng CSVN đã liên tiếp đi từ thất bại này đến … thất bại khác.

Việt Nam ngày nay là một trong số những chế độ tham nhũng nhất trên thế giới, và trong năm 2008 được sắp hạng thứ 121 trên 180 quốc gia trong danh sách “Minh Bạch Quốc tế”. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia nghèo với thu nhập bình quân đầu người chỉ vài đô la một ngày. Mới đầu, người cộng sản đổ lỗi những thất bại về kinh tế lên “đế quốc Pháp, Mỹ”, nhưng dần dà họ không thể bào chữa cho luận điệu này được nữa. Năm tháng của công cuộc “Đổi Mới” càng chồng chất và con hổ Việt Nam vẫn còn mê ngủ trong rừng. Tuy nhiên, cuộc chiến thắng của người cộng sản trên toàn cõi Việt Nam, ngay từ đầu đã chết yểu, vì đã được an bài bằng các khuôn mẫu kinh tế lụn bại và nạn tham nhũng tràn lan,... cũng như hồ sơ vi phạm nhân quyền của họ, thì sự thất bại chẳng qua là một vết thương tự hoại.


Nguồn gốc của tất cả những vấn nạn của Việt Nam hôm nay bắt nguồn từ những định hướng ban đầu của nó. Trong thập niên 50s, Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta đã ra tay giết khoảng 50,000 người ở miền Bắc. Đó là “Cuộc Cải Cách ruộng đất” mà thật ra là một cuộc cải cách về cách giam đói và giết hàng chục ngàn nông dân và chủ đất.


Trước đó, trong suốt thập niên 30s và 40s, “Bác Hồ” và băng đảng đã loại bỏ các đối thủ chính trị bằng những cuộc ám sát. Hơn nữa, những cuộc giết người theo kiểu Mafia này đã giết và thủ tiêu những người quốc gia yêu nước chân chính thuộc các đảng phái như Quốc Dân Đảng và Đại Việt.


Cũng nhờ sử dụng chính sách khủng bố này mà “Bác Hồ” và đồ đệ Võ Nguyên Giáp mới có thể nắm lấy được quyền lực. Cuộc thảm sát Mậu Thân năm 1968 tại cố đô Huế, cuộc thảm sát bằng cách ném vào lửa hàng trăm đồng bào Thượng ở làng Đak Sơn là những bằng chứng rõ rệt cho sự tàn ác của Hồ Chí Minh. Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, cộng sản cũng sát hại thêm tối thiểu 80,000 người trong các trại “Cải tạo” tập trung kiểu Stalinnit.


Ngày hôm nay con cháu của họ Hồ noi theo “huyền thoại” của ông ta bằng cách rập khuôn theo Trung Cộng, Bắc Hàn, Cuba, Miến Điện và Iran, duy trì quyền lực bằng bạo lực và kiểm duyệt báo chí. Vào Tháng 3 năm 2009, Hội Phóng Viên Không Biên Giới đã tuyên bố Việt Nam là “kẻ thù của internet”, và bất cứ công dân nào chỉ cần tuyên bố chỉ trích chế độ thì công an sẽ đến tận nhà với cái còng sắt.


Việc đàn áp người thiểu số vẫn tiếp diễn. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thừa nhận có chuyện hàng trăm người Thượng bị công an mật vụ giết và ngày hôm nay vẫn còn hàng trăm người Thượng bị cầm tù vì lý do chính trị và tôn giáo.


Thật ra người Thượng Đề-Ga từ mấy thập niên qua đã là nạn nhân của chính sách “diệt chủng” bằng nhiều cách triệt tiêu, giết dần mòn. Cuộc tàn sát những người thiểu số này bắt đầu từ năm 1975 qua việc xử tử hay nhốt tù hằng loạt các nhà lãnh đạo chính trị hoặc tôn giáo của họ. Phần hai của chính sách này là nhắm vào việc cướp đi nguồn sống của họ bằng cách cưỡng chiếm đất đai, buộc họ phải chạy đi lánh nạn ở nơi khác. Người Thượng hôm nay trở thành những người nghèo khổ ngay trên chính mảnh đất, những cánh rừng giàu có của họ, mà hiện đang bị các công ty của quân đội tận triệt khai thác.


Đàn áp tôn giáo đối với tín đồ Thiên Chúa Giáo vẫn tiếp diễn, và hồi tháng 4 năm 2008 có một nữ tín đồ người Thượng 42 tuổi tên là Puih Hbat bị bắt chỉ vì nhóm nguyện tại gia. Các quan chức của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu đã điều tra trường hợp này nhưng cho đến nay vẫn không có thêm tin tức gì trong khi thân nhân của bà ta tin rằng bà đã bị giết chết trong tù.


Đảng CSVN chối bỏ những cáo buộc vi phạm nhân quyền nhưng tìm cách xoa dịu những quan tâm của các nhà đầu tư. Hồi năm 2006 Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh có tuyên bố “Tham nhũng đe dọa sự tồn vong của chế độ”, thế nhưng tham nhũng có hệ thống tiếp tục ăn sâu vào các giai tầng của chế độ. Vấn đề ở chỗ Hà Nội là một chế độ cứng đầu nhất và không như nước anh em Liên Xô trước đây, Hà Nội chưa bao giờ là một thể chế cộng sản tương đối dễ thở, chịu phủ nhận đường lối sắt máu của Stalin. Hà Nội từng lên tiếng phản đối việc Krushchev hạ bệ Stalin vì tội lạm sát và tệ tôn sùng lãnh tụ, mà vẫn gọi Stalin là “một người cộng sản chân chính”, mặc dầu Stalin đã từng giết hàng triệu người dân nước mình.


Ngày nay truyền thồng báo chí Việt Nam vẫn còn ra rả luận điệu hoang tưởng về “các thế lực thù địch phản động nước ngoài”. Hà Nội đi xa đến mức tố cáo Sáng Hội Người Thượng là khủng bố tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc. Thất bại với sự tố cáo phi lý này, Hà Nội tiếp tục đàn áp trả thù người Thượng.


Trong một trò hề lố bịch, tờ báo "Nhân Dân", cơ quan ngôn luận của nhà nước, trên số báo ngày 6 tháng 5 năm 2008 đã chạy hàng tít “Chủ nghĩa Mác-Lê Nin vô địch muôn năm”. Lời lẽ công kích chủ nghĩa tư bản này cũng chẳng có ảnh hưởng gì đến các đoàn thương gia phương Tây đến Việt Nam kiếm lợi nhờ thị trường lao động rẻ.


Dầu sao công cuộc đổi mới cũng còn chậm chạp và những lời tuyên truyền ngon ngọt cũng chẳng thể cứu chữa được căn bệnh di căn của cộng sản. Vào tháng 3 năm 2009, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam có trụ sở tại Paris đã tiết lộ một “Tài liệu tuyệt mật” của đảng Cộng sản Việt Nam trong việc “nuôi dưỡng sợ hãi” để đàn áp người dân nhằm củng cố quyền lực đảng ít nhất “trong 20 năm tới”.


Như một chiến công kỳ lạ của Việt Nam đang tiếp diễn: Cộng sản ở bên ngoài, Tư bản ở bên trong và ... tham nhũng khắp mọi nơi. Cũng lạ thật, mặc dầu thù nghịch với tôn giáo nhưng chế độ Hà Nội lại tạo dựng riêng cho mình một thứ tôn giáo. Họ rập khuôn bắt chước ướp xác Hồ như Lê Nin để trưng bày và thần thánh hóa vì ông ta không lập gia đình. Sự thật thì Hồ có nhiều nhân tình và nữ văn sĩ Dương Thu Hương cho biết để giữ kín bí mật này, đảng đã ra tay hạ sát một người tình của Hồ tên là Xuân vào năm 1957. Bùi Tín, một cựu đại tá Bắc Việt, đào thoát vào năm 1989, cũng xác nhận các mối quan hệ tình cảm của Hồ, và cũng đừng quên là Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, người leo rất nhanh trên bước thang danh vọng, bị đồn đãi là con rơi của Hồ Chí Minh!


Món quà của Hồ Chí Minh cho người dân Việt Nam không phải là cái xác chết xấu xí nằm trong lăng đá lạnh ở Hà Nội, mà là sự độc tài chuyên chế, dối trá, tham nhũng và bạo lực được xây bằng máu của nhân dân Việt Nam. Là món quà của những cuộc thanh trừng sắc tộc ghê gớm, đang vang vọng mọi miền, giết dần giết mòn các sắc tộc thiểu số lâu đời.


Trong khi các thế lực tìm cách đánh thức Việt Nam, thì ngoại viện và các giao dịch thương mại cũng chẳng thể rũ sạch được hệ thống tham nhũng của Hà Nội. Chế độ này đang bám lấy quyền lực và việc chuyển tiếp đến một nền dân chủ thật sự đang bị đám con cháu cứng đầu của Bác là Đảng CSVN ngăn cản.


Scott Johnson là một luật sư, nhà văn và nhà hoạt động nhân quyền chuyên về các vấn đề ở Đông Nam Á.
(Theo The Epoch Times – 27/05/2009)

Lê Minh phỏng dịch – 29/05/2009



---o0o---

---
Ho Chi Minh’s Gift

A legacy of corruption, economic ruin, repression and ethnic cleansing


By Scott Johnson May 27, 2009


Ho Chi Minh died in 1969, and on the anniversary of his birth this May the old guard in Hanoi predictably imposed another state celebration in his honor. More than just ‘keeping up appearances,’ the Vietnamese communist regime is fighting to retain ideological justification as today’s “money-making communists” cling to power. Since North Vietnamese forces in Soviet tanks first crashed the gates of the Presidential Palace in Saigon however, some three decades ago the Vietnamese communist party has done nothing but fail their people …. and fail them in spectacular fashion.


Vietnam hosts one of the most corrupt regimes in the world and in 2008 was rated by Transparency International as 121st ‘most corrupt’ amongst 180 nations. Likewise Vietnam is also one of the poorest with the average wage being a few dollars a day. Initially, the post war communists found an easy out, blaming its economic woes on French and American wars but as the years went by, the communist lie became harder to defend. Doi moi (renovation) grew older and the Vietnamese tiger remained asleep in the forest. The communist victory in Vietnam however, was doomed from the outset, predestined to birth a template for economic decay and endemic corruption ... and like their brutal human rights record, the failure in Vietnam is nothing less than a self-inflicted wound.


The origins of Vietnam’s problems can be traced to its conception. In the 1950s, Ho Chi Minh and his communist party murdered an estimated 50,000 people in Northern Vietnam. It was called the “Land Reform Program” but the only reform it did was the execution and starvation of tens of thousands of peasants and landowners. Earlier during the 1930s and 1940s, Uncle Ho and his gang eliminated their political opponents in a series of assassinations. Yes, murder, where the communists in mafia-like fashion shot and killed their opposition, thus ending the true Vietnamese nationalist parties, the Quoc Dan Dang and Dai Viet.


It is through this use of terror that Uncle Ho and his cohort General Giap came to power forging the Viet Cong’s strategy of “terror.” The deliberate massacre of thousands of Vietnamese civilians in 1968 at the imperial city of Hue or the 1967 butchery of hundreds of tribal Montagnards by flamethrowers in the village in Dak Son would became a testament to Ho Chi Minh’s brutality. After taking over South Vietnam, the communists would further murder at least 80,000 Vietnamese people in Stalinist style re-education camps.


Today the children of Ho follow his legacy by mimicking China, North Korea, Cuba, Burma and Iran by maintaining power through brute force and censorship of the press. In March 2009 Reporters Without Borders declared Vietnam an “enemy of the internet” and all a citizen of Vietnam needs to do today is criticize the regime and security police will come for you with handcuffs.


The brutal repression of Vietnam’s tribal peoples also continues unabated. The U.S. State Department acknowledged killings of Montagnards by security forces and there are today hundreds of Montagnard political and religious prisoners rotting in Vietnamese jails.


The Montagnards of Degar people have in fact been subjected to decades of persecution in a “creeping” form of “ethnic cleansing.” The attack upon these indigenous peoples started in 1975 with the execution and imprisonment of their political and religious leaders. The next phase of attack was aimed at the Montagnards’s lifeblood, where the communists confiscated their ancestral lands to make way for forced migrations of ethnic Vietnamese. The Montagnards today have been driven into poverty and their natural resources, the once great forests of Vietnam have been deforested by companies controlled by the Vietnamese Army.


Religious persecution against Christians continues also and in April 2008 a 42-year-old Montagnard woman named Puih Hbat was arrested for having Christian prayer services in her home. Officials from the U.S. Embassy and the European Commission have investigated her case, yet Puih Hbat has not been heard of since and her family believes she may have been murdered in custody.


Vietnam’s Communist Party deny any such human rights violations, but have tried placating concerns raised by foreign investors. Party Chief Nong Duc Manh stated in 2006 that “Corruption threatens the survival of our regime,” and yet institutionalized corruption continues to plague the country at every level. The problem is, Hanoi hosts a most stubborn regime and unlike its former patron the Soviet Union, never undertook even the most palatable of communist admitted failings such as “de-Stalinization.” Hanoi responded to Krushchev’s denouncement of Stalin’s murderous reign with official idolization, calling Stalin a “marvelously noble ideal communist.” Never mind that Stalin killed millions of his own people.


Today Vietnam’s state press continues espousing paranoia of the threat to their sovereignty by overseas “hostile forces.” Hanoi went so far as to formally accuse the U.S. based Montagnard Foundation with terrorist allegations in the United Nations. While they lost this bogus bid to silence its critics Hanoi continues today to persecute the Montagnards with a vengeance.


In a comical farce, Vietnam’s leading newspaper the Nhan Dan actually ran an article on May 6, 2008 titled, “The Everlasting Vitality of Marxism.” Such diatribes against capitalism seemingly have no effect upon trade delegations from the West who eagerly reap the profits of Vietnam’s cheap labor markets. Yet reform is slow and party rhetoric won’t cure Vietnam’s deeply rooted communist ills. In March 2009, top secret politburo documents uncovered by the Paris based Vietnam Human Rights Committee described Hanoi’s plan to “maintain a climate of permanent fear” so they can “stay in power for another 20 years.”


So goes the strange saga of Vietnam. Communist on the outside, capitalist on the inside and… corrupt all over. It is stranger still, given their hatred of religion that Hanoi dared to promulgate its own religion. Yet they did exactly that in preserving Ho like Lenin for public display and proclaiming his saintly status, by alleging he was celibate! Truth be known Ho had numerous mistresses and the Vietnamese author Duong Thu Huong reports party officials murdered one such mistress named Xuan in 1957 by party officials just to keep the celibate myth alive. Bui Tin, the North Vietnamese Colonel who defected in 1989, also confirmed Ho’s sexual affairs, and lest we forget, communist party general secretary Nong Duc Manh long built his career on claims he was the illegitimate son of Ho Chi Minh!


Ho Chi Minh’s gift to the people of Vietnam however, was not his macabre corpse entombed in the stone monstrosity in Hanoi. His gift was authoritarianism, lies, corruption and repression built on the blood of the Vietnamese people. A gift of creeping ethnic cleansing, that glides across the Vietnamese landscape in a deathly bid to silence an ancient race of tribal people.


While the powers to be no doubt are trying to massage Vietnam out of its slumber, foreign aid and trade deals have yet to shake off Hanoi’s chains of corruption. The regime has entrenched its power and the transition to true democracy is held hostage by Uncle Ho’s ever recalcitrant children, the Vietnamese communist party.


Scott Johnson is a lawyer, writer and human rights activist who has focused on issues in South East Asia.


http://www.theepochtimes.com/n2/content/view/17367/


Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: ĐỌC BÁO
Reply #185 - 24. Jun 2009 , 11:56
 
Chuyện một người mù sáng suốt


Tuesday, June 23, 2009 
Ngô Nhân Dụng

Hiện nay, người lịch sự không dùng chữ “người mù” mà phải viết là “người khiếm thị.” Sửa lối nói, vì những người mắt sáng muốn tỏ lòng kính trọng đối với những đồng loại không may mắn, mất khả năng nhìn bằng đôi mắt.

Nhưng xin quý vị cho phép chúng tôi dùng tên gọi khiếm nhã cũ, khi kể lại một câu “chuyện người mù” thời xưa, thời xã hội chưa tiến bộ như bây giờ. Thời đó người ta chỉ gọi người không trông thấy được là “người mù.” Có người nói như vậy còn tỏ vẻ khinh bỉ, rẻ rúng những “người mù;” mà không thấy áy náy, không ngượng ngùng nữa. Ngày nay xã hội văn minh hơn, chúng ta tránh những tiếng nói hạ phẩm giá người khác, nhất là những người không được may mắn như mình. Chúng ta chỉ dùng những chữ như “điếc” hay “mù” khi nói đến khuyết tật, nhưng khi nói về con người thì dùng những từ nhẹ nhàng, tôn kính hơn. Phải nói loài người bây giờ đã tiến bộ hơn trong cách đối xử với nhau, và chúng ta nên hãnh diện về sự tiến bộ đó.

Có tác giả kể chuyện một người mù, tôi đọc thời niên thiếu, bây giờ đã quên tên người viết, tôi đã lục tìm bằng các phương tiện rất mới nhưng vẫn không tìm ra tung tích. (Quý vị có thấy nguyên bản ở đâu làm ơn chỉ cho chúng tôi được đọc lại.)

Câu chuyện đó để lại một ấn tượng rất mạnh cho nên tới giờ tôi vẫn chưa quên. Vì đó là chuyện khích động giai cấp cần lao hãy vùng lên tranh đấu đòi quyền lợi cho mình.

Chuyện kể về một chuyến xe lửa chở thợ khai mỏ trên đường đi làm, rồi từ hầm mỏ trở về nhà. Những người lao động này phải ra đi từ sáng sớm, trước khi mặt trời mọc; và lúc họ trên đường trở về nhà với thân thể mệt nhoài thì trời cũng đã tối đen. Nhưng trong toa xe lửa không có đèn, không bao giờ có đèn. Và mọi người ai cũng chấp nhận như thế, coi đó là một điều tự nhiên. Khi tìm được một chỗ ngồi hay chỗ đứng trong toa xe là họ cũng bắt đầu ngủ gật hay là ngủ gục, còn ai quan tâm đến đèn đóm làm gì?

Cho đến một hôm, có một người mù cũng đáp chuyến xe lửa tối đen đó, chen chúc giữa đám phu mỏ. Bỗng anh mù đánh rớt một vật gì đó, một đồng xu chẳng hạn, và anh ta cúi xuống rờ mò tìm kiếm. Tìm mãi không ra, anh ta nói nhờ những người chung quanh kiếm giùm. Không ai tìm ra. Anh mù than phiền rằng mọi người không tử tế, có đôi mắt sáng mà không chịu tìm giúp một người mù như anh. Mọi người bèn giải thích là trong toa xe lửa tối đen, không ai thấy gì cả. Anh mù ngạc nhiên: Trong xe không có đèn à? Tại sao họ không thắp đèn? Sao vô lý vậy? Các anh để cho bọn chủ nhân họ bóc lột, họ bạc đãi các anh như vậy mãi mà cứ cam chịu hay sao?

Cuối cùng, mọi người đồng ý rằng các công nhân có quyền đòi hỏi mỗi toa xe phải thắp ít nhất một ngọn đèn bão, chẳng tốn kém bao nhiêu nhưng sẽ sống dễ chịu hơn. Họ cử người đại diện đến xin các ông chủ, bị các ông chủ nhân từ chối. Họ tổ chức đình công, nhiều cuộc tranh chấp diễn ra. Trước sự đoàn kết của các công nhân, các chủ nhân phải nhượng bộ.

Câu chuyện thật lý thú, chuyện một người mù chỉ cho những người mắt sáng thấy họ có quyền được sống trong ánh sáng. Nói theo lối các anh chị em Mác xít, người mù này “giác ngộ quyền lợi” trước những người sáng mắt.

Trong xã hội nào cũng vậy, người ta sống trong một nề nếp quen rồi, không biết rằng đáng lẽ mình không nên sống như thế, hoặc không bắt buộc phải sống như thế. Thí dụ có một bọn trẻ không được giáo dục, sống chung mà không có thói quen nói năng lễ độ với nhau. Ðến khi gặp một người biết nói năng, thưa gửi với các em đó một cách lễ độ, các em thấy là hay, từ đó bắt chước. Một thời gian sau, mọi người đều biết thưa gửi, biết xin lỗi, biết cảm ơn lẫn nhau, cả xã hội sống lịch sự hơn. Từ đó, nghe ai nói năng cục cằn thô lỗ thì mọi người đều cảm thấy khó chịu.

Có những xã hội người ta coi việc xin xỏ, lạy lục, hối lộ quan chức nhà nước là chuyện bình thường. Hoặc coi những ông lớn, những ông có chức có quyền tất nhiên phải được hưởng mọi ưu tiên hơn mình, đó là chuyện tự nhiên. Coi báo, đài phải tuân theo mệnh lệnh nhà nước cũng là chuyện tự nhiên, trời sinh ra như vậy.

Hãy làm thí nghiệm cho những người này được thử sống trong một xã hội tự do. Cho họ thấy ở một nước dân chủ người dân đến công sở không phải lo hối lộ, khi chờ đợi thì một quan chức nhà nước cũng phải xếp hàng như mình, ai đến trước đứng hàng trước, đến sau đứng sau. Và thấy người ta được tự do sử dụng các phương tiện báo chí, phát biểu ý kiến riêng mà không sợ ai hết. Cho sống như vậy một thời gian, họ sẽ quen đi, khi trở về xứ sở cũ họ sẽ thấy lối sống trong sợ sệt, lối sống bất bình đẳng và thiếu tự do là không thể chấp nhận được. Khi đó những người này có thể trở thành “những anh mù sáng suốt” chỉ cho mọi người quyền được sống trong ánh sáng.

Trong mọi xã hội còn chậm tiến, cần phải có những người “sáng suốt hơn” như anh mù trong câu chuyện ngụ ngôn trên, đứng ra bảo cho người chung quanh là cái lối họ sống như cũ làm họ mất nhân phẩm! Con người không thể sống như vậy! Cần phải thay đổi! Rồi phải có những người có can đảm đứng lên đòi thay đổi, quyết tâm đòi thay đổi, không sợ khó, không sợ chết. Những người thấy trước, biết trước người khác; cùng những người can đảm tranh đấu cho người khác được hưởng những quyền lợi đáng được hưởng, chúng ta rất cần.

Ngay trong các xã hội tiến bộ rồi người ta cũng cần những “anh mù” như trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây, những người nhìn rõ các vấn đề chung để cùng tìm cách giải quyết. Trong các xã hội tự do dân chủ thì những người đi trước đó có quyền kêu gọi các đồng loại của mình, nếu có ý kiến khác nhau thì sẽ có dịp tranh luận.

Còn trong những xã hội độc tài đảng trị thì họ cấm bàn, vì giai cấp cầm quyền chỉ muốn ai ở đâu ở đó, trên bảo dưới nghe. Các chính quyền độc tài coi dân như trẻ con, họ là cha mẹ, cha mẹ cho con cái gì thì được cái đó, không được đòi hỏi.

Chúng tôi nhớ lại câu chuyện về người mù trên đây vì mới đọc một bài báo với câu hỏi là “Dân Chủ cho ai?” được trích đăng lại trên nhật báo Người Việt gần đây. Ðại ý bài này nói rằng đa số đồng bào chúng ta sống ở Việt Nam không cần sống trong chế độ tự do dân chủ; do đó tranh đấu Dân Chủ là làm một việc không cần thiết.

Cái ông, bà nào viết bài đó rõ ràng là người dễ tính. Ông/bà ta coi 80 triệu con người sống thỏa mãn với chế độ độc tài chuyên chế của đảng Cộng Sản; cứ tiếp tục sống trong cảnh nghèo khó, bất công và mất tự do như vậy mà không người Việt nào cảm thấy hổ thẹn với lân bang.

Xã hội nào cũng có những người dễ tính như vậy, nhất là những người đang được hưởng thụ nhờ cơ cấu xã hội đó.

Nhưng thế nào cũng cần phải có những “người mù sáng suốt” hơn người khác, như trong câu chuyện trên đây. Nếu không thì người chung quanh cứ chịu sống trong cảnh tăm tối mãi mà không biết là mình thiếu thốn, là mình bị khinh rẻ, bị sỉ nhục.

Vậy thì từ mấy thế kỷ nay, cả thế giới loài người đã tranh đấu đòi tự do dân chủ, họ đòi Dân Chủ cho ai nhỉ? Cho tất cả chúng ta, cho cả ông hay bà nào viết bài báo đặt câu hỏi đó. Sống tự do là lối sống tôn trọng và bảo vệ giá trị con người, tất cả mọi người. Ðó là sự tiến bộ của nhân loại, phải mất hàng trăm năm, bao nhiêu người đổ máu mới đạt được sự tiến bộ đó. Từ nô lệ bước tới tự do, văn minh nhân loại được xây dựng dần dần như vậy. Cũng giống như lối nói năng lễ phép, tránh không dùng những chữ “người mù,” hay “người điếc” mà sử dụng các tiếng thanh nhã và kính cẩn hơn. Ðó cũng là một nếp sống văn minh mọi người cùng bảo nhau phải sống. Nói năng lễ độ là niềm hãnh diện của loài người, cũng như mọi người hãnh diện khi được sống tự do. Chúng ta chọn sống theo lối đẹp đẽ văn minh; không tiếp tục sống trong bất công, sợ hãi, mất phẩm giá người khác và của mình.
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #186 - 03. Jul 2009 , 19:51
 

Mekong 2009 : Dòng sông câm nín

Bác Sĩ Ngô Thế VinhẢnh : www.ngothevinh.com
...
Bác Sĩ Ngô Thế Vinh
Ảnh : www.ngothevinh.com
Bài viết sau đây của tác giả Ngô Thế Vinh cung cấp cho bạn đọc những thông tin không chỉ về chuỗi 14 con đập bậc thềm Vân Nam mà là một cái nhìn toàn cảnh về những bước khai thác hủy hoại trên suốt chiều dài của dòng sông kể cả khúc hạ lưu với thêm 11 con đập mới. Theo tác giả, nan đề của Việt Nam thế kỷ 21 là tham vọng bành trướng vô hạn, liên tục của Trung Quốc đang từng bước “Tây Tạng hóa” biển Đông, khống chế toàn con sông Mekong.

LỜI DẪN_ Dư luận mới đây lại một thoáng xôn xao khi có phúc trình của Liên Hiệp Quốc đề cập tới con đập mẹ Xiaowan/ Tiểu Loan cao nhất thế giới vừa hoàn tất, cùng với những tác hại của chuỗi đập Vân Nam như một “mối đe dọa duy nhất-lớn nhất / the single greatest threat”đối với hệ sinh thái sông Mekong. Báo chí trong nước có vẻ đang được phép mạnh dạn lên tiếng “Hãy Cứu Sông Mekong” dĩ nhiên với rất ít đụng chạm tới nước lớn Trung Quốc mà chỉ với các nước láng giềng nhỏ như Thái Lan, Lào, Căm Bốt khi nói tới nguy cơ thêm 11 con đập thủy điện chắn ngang dòng chính sông Mekong khúc Hạ Lưu. Rất đáng lưu ý là Trung Quốc đã có liên hệ trực tiếp đầu tư tới 4 trong số 11 con đập ấy, không kể 14 con đập bậc thềm Vân Nam đã là sở hữu của riêng họ.

Nhưng không lẽ chờ tới năm 2009, sắp qua đi thập niên đầu của thế kỷ 21, đứng trước “sự đã rồi”giới khoa học trong nước mới “dè dặt” lên tiếng bày tỏ mối quan ngại về việc Trung Quốc xây đập và hồ chứa nước trên thượng nguồn sông Mekong. Đối với các nhà hoạt động môi sinh bên ngoài, trong đó có “Nhóm Bạn Cửu Long” họ đã biết rõ và liên tục lên tiếng báo động từ hơn một thập niên qua về hiểm họa các dự án xây đập của Trung Quốc và cả các con đập hạ lưu.

Với sự đồng ý của tác giả, RFI và báo Khởi Hành cùng giới thiệu bài viết mới của bác sĩ nhà văn Ngô Thế Vinh, tác giả 2 cuốn Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch nhằm cung cấp cho bạn đọc những thông tin không chỉ về chuỗi 14 con đập bậc thềm Vân Nam mà là một cái nhìn toàn cảnh về những bước khai thác hủy hoại trên suốt chiều dài của dòng sông kể cả khúc hạ lưu với thêm 11 con đập mới. Cũng để thấy rằng nan đề của Việt Nam thế kỷ 21 là tham vọng bành trướng vô hạn không ngưng nghỉ của nước lớn Trung Quốc đang từng bước “Tây Tạng hóa” biển Đông, khống chế toàn con sông Mekong và đã cắm được mũi dao nhọn vào cuống họng Tây Nguyên vốn là một địa bàn chiến lược sinh tử của Việt Nam.       

TIN CHẤN ĐỘNG: THÊM 11 CON ĐẬP HẠ LƯU

“Cứu Lấy Sông Mekong”, đó là tiêu đề của một kiến nghị mới đây được dịch ra 7 thứ tiếng với hơn 15000 chữ ký (18-06-2009) được gửi tới thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva cùng với các chánh phủ khác trong lưu vực như Lào, Căm Bốt, Việt Nam, bày tỏ mối quan ngại về dự án chuỗi 11 con đập Hạ Lưu chắn ngang dòng chính sông Mekong, nhất là với hai con đập Ban Koum 2330 MW và Pak Chom 1079 MW của Thái Lan. Kiến nghị trên đã không được gửi tới Bắc Kinh mặc dù Trung Quốc đã và đang xây những đập thủy điện Vân Nam lớn hơn các dự án vùng Hạ Lưu rất nhiều, và ngay cả trong số 11 dự án đập Hạ Lưu, đã có 4 con đập do các công ty Trung Quốc trực tiếp đầu tư vào.

“Nỗi Sợ Hãi Trung Quốc/ Sinophobia” có thể nói là mẫu số chung của các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Đâu phải là bất ngờ mà nẩy ra kế hoạch 11 con đập lớn Hạ Lưu chắn ngang dòng chính sông Mekong. Đó là một tiến trình phát triển liên tục từ nhiều năm, khi nhanh khi chậm, do cấu kết của các công ty tư bản xây đập với các chánh phủ độc tài trong vùng. Phản ứng ồn ào của các nhóm cư dân liên hệ và cả những nhà hoạt động môi sinh chỉ có giá trị biểu trưng chứ không có thực lực đối trọng để có thể ngăn chặn hay thay đổi tiến trình ấy.

Cách đây hơn hai năm, theo tin báo The Nation Bangkok (04/11/2007), bộ Năng lượng Thái cho tiến hành khảo sát tính khả thi của dự án đập thủy điện khổng lồ Ban Koum công suất 2230 Megawatt chắn ngang dòng chính sông Mekong nơi tỉnh Ubon Ratchathani đông bắc Thái với dự trù kinh phí lên tới 2,5 tỉ Mỹ kim.

Theo Prakob Virojkut, viện trưởng đại học Ubon Ratchathani, dự án này sẽ bị các quốc gia láng giềng như Lào, Căm Bốt và Việt Nam chống đối. “Chẳng phải dễ dàng để thực hiện một công trình xây đập lớn như vậy do những ảnh hưởng rộng rãi trên địa phương và liên quốc gia”. Lào sẽ là quốc gia đầu tiên chống dự án này vì ảnh hưởng tới dịch vụ bán điện của Lào sang Thái Lan. Lào vẫn được coi như một “xứ Kuwait thủy điện” của Đông Nam Á.

Đa số cư dân Thái đều có thái độ chống đối dự án đập vì họ đã từng trải qua kinh nghiệm đắng cay về con đập Pak Moon 15 năm trước đây. Pak Moon là một con “đập-dòng-chảy / run-of-river” trên sông Moon, phụ lưu sông Mekong, cao 17m, hoàn tất tháng 11/1994 với công suất 136 MW là con đập đầu tiên có thang cá / fish ladder, nhưng cá đã chẳng có trí thông minh như người để biết “leo thang” về nguồn. Đập Pak Moon rõ ràng là một thất bại toàn diện về điện năng với thêm bao nhiêu tác hại cho nguồn cá và môi sinh đến mức cư dân Thái đòi hỏi phá con đập.

Không phải là mới, các dự án đập thủy điện chắn ngang sông Mekong vùng Hạ lưu đã có từ thời Ủy Ban Sông Mekong. Cũng vị trí những con đập ấy đã được các cơ quan tham vấn Canada và Pháp tái đề xuất và Ban Thư Ký Sông Mekong ấn hành năm 1994. Đây sẽ là một chuỗi “đập-dòng-chảy” cao từ 30 tới 40 mét, gồm chuỗi những hồ chứa với tổng chiều dài khoảng 60 km, và sẽ có  khoảng 57000 dân phải di rời. Nhưng rồi các dự án ấy bị gác lại vì quá tốn kém và cả do mối e ngại về tác hại rộng rãi trên môi sinh.

Kể từ đầu năm 2006, các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc – lại vẫn Trung Quốc, lại được phép tiếp tục thực hiện những cuộc khảo sát về tính khả thi của 6 con đập, sau đó tăng lên tới 11 con đập vùng Hạ Lưu, bao gồm từ bắc xuống nam:
...
Bản đồ những con đập trên dòng chính sông MekongNguồn: www.internationalrivers.org

Bản đồ những con đập trên dòng chính sông Mekong
Nguồn: www.internationalrivers.org

     1/ Đập Pak Beng, Lào 1320 MW; bảo trợ dự án: công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co. và chánh phủ Lào.

     2/ Đập Luang Prabang, Lào 1410 MW; bảo trợ bởi Petrovietnam Power Co. và chánh phủ Lào.

     3/ Đập Xayabouri, Lào, 1260 MW, tỉnh Xayabouri, Lào; bảo trợ bởi công ty Thái Lan Karnchang và chánh phủ Lào.

     4/ Đập Pak Lay, Lào, 1320 MW tỉnh Xayaburi; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Sinohydro Co. tháng 6, 2007 để khảo sát của dự án.

     5/ Đập Xanakham, Lào, 1000MW; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co.

     6/ Đập Pak Chom, biên giới Lào Thái, 1079 MW

     7/ Đập Ban Koum, biên giới Lào Thái,  2230 MW, tỉnh Ubon Ratchathani; bảo trợ bởi Italian-Thai Development Co., Ltd và Asia Corp Holdings Ltd. và chánh phủ Lào.

     8/ Đập Lat Sua, Lào, 800 MW; bảo trợ bởi Charoen Energy and Water Asia Co. Ltd. /Thái Lan và chánh phủ Lào.

     9/ Đập Don Sahong 360 MW, tỉnh Champasak, Lào: được bảo trợ bởi công ty Mã Lai Mega First Berhad Co.

     10/ Đập Stung Treng, Cam Bốt, 980 MW; bảo trợ bởi chánh phủ Nga

     11/ Đập Sambor, Cam Bốt; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc”/ China Southern Power Grid Co. / CSGP.

Bắc Kinh đã sở hữu 14 con đập bậc thềm Vân Nam hoàn toàn trong lãnh thổ Trung Quốc, nay lại có mặt thêm nơi 4 / 11 dự án thuộc khu vực Hạ Lưu, đó là các con đập Pak Beng, Pak Lay, Xanakham, Sambor.

Riêng Việt Nam (Petrovietnam Power Co.) thì bảo trợ cho dự án đập Luang Prabang 1410 MW. Do chỉ thấy lợi lộc ngắn hạn, với chọn lựa theo “tiêu chuẩn nước đôi / double standard”, Hà Nội sẽ chẳng thể còn kêu ca được gì trước Liên Hiệp Quốc khi nói về tác hại của chuỗi đập Mekong đối với Việt Nam.

HÃY CỨU SÔNG MEKONG

Khi mà những lượng giá chi tiết về xã hội và môi sinh của từng con đập không được công khai hoá, thì đã có nhiều tổ chức và các nhà hoạt động môi sinh nêu rõ những tác hại nghiêm trọng và lâu dài trên hàng triệu cư dân sống bằng nguồn nước nguồn cá của dòng sông Mekong.

Vào tháng 5/2007 hơn 30 nhà khoa học đã cùng một lúc gửi giác thư lên các chánh phủ thuộc lưu vực và Ủy Hội Sông Mekong lưu tâm tới những sự kiện khoa học hiển nhiên về ảnh hưởng tác hại trên ngư nghiệp của con đập Don Sahong ở tỉnh Champasak, Lào. Tương tự như vậy, con đập Sambor, Căm Bốt sẽ chặn cá từ Biển Hồ di chuyển lên thượng nguồn, tác hại nghiêm trọng tới nguồn cá của Căm Bốt, chiếm tới 12% tổng sản lượng quốc gia - GDP.

Kết quả nghiên cứu 2004 của Ủy Hội Sông Mekong đã nhận định việc xây đập cho nhu cầu thủy điện đã coi nhẹ tương lai nguồn cá và ngư nghiệp của sông Mekong. Trái với những rêu rao của các tập đoàn tư bản xây đập cho rằng nếu điều hợp tốt thì có thể giảm thiểu hậu quả tiêu cực từ những con đập nhưng đã không có một biện pháp nào có thể giảm thiểu tác hại trên nguồn cá.

Ủy Hội đã rất thụ động trước sự tái phục hoạt của các dự án đập thủy điện lớn đe dọa tới toàn hệ sinh thái. Không những thế, Ủy Hội đã không có thông báo gì cho cư dân ven sông mối hiểm nguy của những con đập lớn hạ lưu, kể cả tránh phổ biến những tin tức bất lợi với hậu quả tiêu cực của các dự án đập. Với sự bất lực ấy, người ta tự hỏi về tương lai và vai trò tổ chức này có còn hữu ích gì không trong tiến trình bảo vệ dòng Sông Mekong?

Các nhà hoạt động môi sinh kêu gọi tinh thần trách nhiệm cũng như sự trong sáng trong tổ chức liên chánh phủ này. “Ủy Hội cần chứng tỏ là một tổ chức hữu ích cho quần chúng, chứ không phải là cho các nhà đầu tư,” Surichai Wankaew, giám đốc Viện Nghiên Cứu Xã Hội, Đại học Chulalongkorn, nói tiếp, ông mong muốn nhiệm vụ Ủy Hội thay đổi, thay vì “tạo thuận / facilitation” cho việc xây đập, thì nay phải là “diễn đàn / platform” cho cư dân bị ảnh hưởng nói lên mối quan tâm của họ. Cũng trước đó một ngày, đã có hơn 200 tổ chức môi sinh từ 30 quốc gia yêu cầu Ủy Hội và các nhà tài trợ ngưng ngay các dự án xây đập.

Tuy nhiên, Suchart Sirichan Sakul, là thành viên Ủy Hội Quốc gia Mekong Thái Lan lập luận rằng Ủy Hội không có thẩm quyền để cấm hay cho phép xây các con đập. Ông nói tiếp: “Tôi sợ rằng các tổ chức phi chánh phủ đã hiểu lầm về sự kiện rằng chúng tôi chỉ là một tổ chức tham vấn nên không có quyền “nói có hay không” với bất cứ một dự án xây đập nào. Các nhà hoạt động môi sinh nên nhắm vào chánh phủ của chính quốc gia có dự án xây đập.

Thêm kháng thư gửi Ủy Hội Sông Mekong và các Cơ quan Tài trợ nhân cuộc họp tại Siem Reap vào ngày 15/11/2007: “Chúng tôi, những nhóm công dân viết lá thư này để bày tỏ mối quan tâm về sự tái phục hoạt các chương trình xây đập trong vùng Hạ lưu sông Mekong, cùng với sự bất lực của Ủy Hội thực hiện Thỏa Ước Mekong 1995 trong tình hình nghiêm trọng hiện nay. Chúng tôi được biết các chánh phủ Thái, Lào và Căm Bốt đã cho phép các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc – lại vẫn Trung Quốc,  thực hiện các cuộc khảo sát về tính khả thi 6 con đập thủy điện lớn vùng Hạ lưu sông Mekong. Đây cũng chính là 6 địa điểm đã được các cơ quan tham vấn của Canada và Pháp đề xuất từ 1994, nhưng kế hoạch lúc đó đã không được tiến hành vì bị cho là quá tốn kém và gây hủy hoại môi sinh nghiêm trọng. Trong cuộc hội thảo kỹ thuật lần thứ 6 của Ủy Hội năm 2003 về cá trên sông Mekong, các chuyên gia đã đưa tới kết luận rằng “bất cứ con đập nào trên dòng chính sông Mekong cũng tàn hại trên nguồn cá và vị trí con đập Sambor có thể coi là tệ hại nhất.”

Lẽ ra Ủy Hội có thể lên tiếng khuyến cáo ngăn chặn các dự án xây đập của các quốc gia ven sông nhưng họ thì vẫn cứ im lặng một cách đáng ngạc nhiên. Những cuộc khảo sát của các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc bao giờ cũng nói tới những lợi lộc của các con đập nhưng lại rất ít quan tâm tới ảnh hưởng lâu dài trên sinh cảnh môi trường và trước mắt là hàng bao nhiêu chục ngàn cư dân ven sông sẽ phải di dời tới một nơi và một tương lai vô định.

Mekong là một con Sông Quốc Tế, với nguồn tài nguyên mà tất cả các quốc gia ven sông đều có quyền cùng chia sẻ chứ không chỉ để phục vụ cho các nhóm tài phiệt hay một quốc gia riêng lẻ nào.

Khi mà không một quốc gia nào còn có quyền phủ quyết theo điều lệ mới của Ủy Hội Sông Mekong 1995, người ta có thể thấy trước được là trong thực tế sẽ vẫn mạnh ai nấy làm và Ủy Hội Sông Mekong chưa hề là một tổ chức đoàn kết có tầm vóc để được coi là đối trọng trong các cuộc tranh chấp với các tập đoàn tư bản và nhất là với nước lớn Trung Quốc.

MỘT THOÁNG ÔN CỐ TRI TÂN

Nhìn lại hơn nửa thế kỷ từ ngày thành lập Ủy Ban Sông Mekong, cũng là thời điểm đánh dấu con sông Mekong trước dồn dập những nguy cơ. Trên trang Web WWF / World Wide Fund for Nature, đã ghi nhận: Mực nước con sông Mekong tụt thấp xuống tới mức báo động kể từ 2004 và trở thành những hàng tin trang nhất trên báo chí. “Trung Quốc làm kiệt mạch sống sông Mekong - New Scientist”; “Sông Mekong cạn dòng vì các con đập Trung Quốc - Reuters AlertNet”; “Xây đập và con sông chết dần - The Guardian”; “Sông cạn do các con đập Trung Quốc - Bangkok Post”. Hầu hết đều mạnh mẽ quy trách nhiệm cho việc xây các con đập thủy điện của Trung Quốc trên khúc sông thượng nguồn. Và cũng chính WWF đặt câu hỏi: Thế nhưng bức tranh toàn cảnh ra sao, từ ngày khai sinh ra tổ chức Ủy Ban Sông Mekong ?

ỦY BAN SÔNG MEKONG

Năm 1957, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh, với bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, một Ủy Ban Sông Mekong (Mekong River Committee) được thành lập bao gồm 4 nước Thái, Lào, Căm Bốt và Nam Việt Nam, với kế hoạch đầy tham vọng phát triển toàn diện vùng Hạ Lưu sông Mekong nhằm cải thiện cuộc sống cho toàn thể cư dân sống trong lưu vực.

Cho dù có một nửa chiều dài sông Mekong chảy qua Vân Nam nhưng Trung Quốc lúc đó dưới thời Mao Trạch Đông đang là một quốc gia toàn trị và hoàn toàn khép kín nên không được nhắc tới.

Trước xa Trung Quốc, Ủy Ban Sông Mekong đã có “viễn kiến” đánh giá được tiềm năng thủy điện vô cùng phong phú của con sông nên đã phác thảo kế hoạch xây những đập thủy điện lớn trên dòng chính nơi vùng hạ lưu và đã có các dự án được coi là ưu tiên lúc đó:

- Dự án Pa Mong: cách Vạn tượng 15 dặm và là đập chứa nước chính của hệ thống đập sông Mekong, sẽ kiểm soát lưu lượng toàn con sông ra tới biển Đông. Cung cấp nguồn điện khoảng 2000 MW với hồ nước có chiều dài 210 dặm sẽ dìm sâu một vùng đất đai nhà cửa của khoảng 60000 dân cư phải di rời, nhưng sẽ cải thiện thủy lộ, nâng cao mức sống và phát triển của toàn miền đông bắc Thái.

- Dự án Sambor: cách Nam Vang 140 dặm về phía bắc, trong lãnh thổ Căm Bốt. Công trình sẽ khiến mức nước dâng cao, làm ngập suốt 50 dặm ghềnh thác và mở ra triển vọng giao thông đường sông giữa hai nước Lào và Căm Bốt, công suất lên tới 1000 MW, đủ cung cấp cho nhu cầu kỹ nghệ và dân dụng, đồng thời dùng cho việc bơm tưới các vùng đất đai canh tác thuộc Căm Bốt và Nam Việt Nam.

- Dự án Tonle Sap: là một đập chắn cửa vào Biển Hồ, như một hồ chứa thiên nhiên của con sông Mekong. Cửa đập sẽ mở ra trong mùa lũ để nước chảy ngược vào Biển Hồ tới mức dự trữ cao nhất và sẽ giảm thiểu lũ lụt. Trong mùa khô, cửa đập sẽ lại được mở ra từng phần, duy trì mức sông sâu cho tàu biển vẫn có thể ra vào sông Mekong và đồng thời giảm thiểu lượng nước mặn xâm nhập vào đồng bằng sông Cửu Long, từ đó có thể khai thác thêm các vùng đất đất bỏ hoang vì muối phèn, hạn hán hay lũ lụt. Với mực nước được giữ cao hơn trong mùa nước thấp, sẽ có hiệu quả làm gia tăng lượng cá trong Biển Hồ đang bị sa sút trầm trọng mà cá là nguồn protein chính cho người dân Căm Bốt.

Còn một số địa điểm khác cũng được Ủy Ban Sông Mekong nghiên cứu cho những con đập khác như:  Pak Beng, Pak Lay, Luang Prabang, Bang Kan, Thakhek, Pakse ở Nam Lào; Stung Treng ở Căm Bốt...

NHỮNG QUYỀN LỢI MÂU THUẪN

Khi mà mỗi kế hoạch đã ẩn chứa những mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước thành viên, nếu chỉ đứng trên quan điểm quốc gia hạn hẹp.

Một ví dụ liên quan tới dự án Pa Mong rất được Thái nhiệt tình cổ võ không chỉ do tiềm năng thủy điện lớn lao cung cấp cho kỹ nghệ và dân dụng mà còn do kế hoạch bơm tưới cho cả một vùng đông bắc Thái rộng lớn khô cằn với dân cư chiếm tới 2/5 tổng số dân Thái. Nhưng còn hậu quả môi sinh của Pa Mong đối với hai nước hạ nguồn Căm Bốt và Việt Nam ra sao thì đó lại không phải là mối quan tâm của Thái !

Ví dụ thứ hai, dự án Tonle Sap và Sambor rất được Việt Nam quan tâm, ngoài mục đích sản xuất điện, hai hồ chứa này có khả năng điều hòa mực nước hai mùa lũ lụt và khô hạn đồng thời ngăn chặn nước mặn từ biển lấn sâu vào vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng 2 dự án ấy đã bị Căm Bốt nghi kỵ bắt nguồn từ ám ảnh lịch sử vốn thiếu thân thiện giữa hai nước. Căm Bốt đã không coi vấn đề tăng lượng cá trong Biển Hồ và ngăn lũ là quan trọng nên đã tỏ ý không hợp tác.

Nhưng rồi từ thập niên 60 do cuộc chiến tranh Việt Nam lan ra cả 3 nước Đông Dương nên kế hoạch xây dựng các đập thủy điện lớn vùng Hạ Lưu của Ủy Ban Sông Mekong đã phải gián đoạn và con sông Mekong còn giữ được vẻ hoang dã thêm một thời gian nữa.

Trong khi đó “rất âm thầm nhưng với quyết tâm” từ phía bắc bên Trung Quốc đã mau chóng hình thành những kế hoạch “vĩ mô” khai thác nguồn thủy điện sông Mekong với dự án 7 con đập lớn sau tăng lên 14 con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam (Mekong Cascades) và đã có 4 con đập hoàn tất ngay trong thập niên đầu của thế kỷ 21, để thấy rằng “Trung Quốc tuy đi sau nhưng đã sớm tới trước”.

ỦY BAN MEKONG LÂM THỜI

Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, nhưng vẫn còn một cuộc chiến diệt chủng của Khmer Đỏ diễn ra trên Xứ Chùa Tháp. Không có Căm Bốt, chỉ còn một Ủy Ban Mekong Lâm Thời (IMC/ Interim Mekong Committee) với hoạt động hạn chế.

Cũng trong thời gian này, Thái Lan có 2 kế hoạch táo bạo [Kong-Chi-Mun và Kok-Ing-Nan] chuyển dòng sông Mekong đưa một lượng nước lớn vào nội địa Thái không chỉ nhằm “cứu hạn” cho những cánh đồng lúa mà còn tiếp nước cho hồ chứa con đập thủy điện mang tên hoàng hậu Sirikit quanh năm thiếu nước.

Đó là các dự án của riêng Thái, không có trong kế hoạch ban đầu của Ủy Ban Sông Mekong. Khi gặp sự chống đối của Việt Nam, Thái phủ nhận tính cách pháp lý của Ủy Ban Sông Mekong, viện lý do là tổ chức này đã không còn phù hợp với những thay đổi về chánh trị, kinh tế và xã hội trong vùng. Trong điều kiện  phân hóa như vậy, Ủy Ban Mekong Lâm Thời hầu như bị tê liệt.

ỦY HỘI SÔNG MEKONG NHƯ MỘT XUỐNG CẤP

Bước vào thời bình do nhu cầu phát triển, sông Mekong đã trở thành mục tiêu khai thác của 6 quốc gia trong toàn Lưu Vực Lớn Sông Mekong. Cùng là những nước ven sông nhưng mỗi quốc gia lại có những ưu tiên về phát triển khác nhau với những quyền lợi mâu thuẫn. Do đó, phục hồi một tổ chức điều hợp liên quốc gia tương tự như Ủy Ban Sông Mekong trước đây là cần thiết.

Ngày 05 tháng 04 năm 1995, 4 nước hội viên gốc của Ủy Ban Sông Mekong  đã họp tại Chiang Rai, bắc Thái cùng ký kết một “Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong” và đổi sang một tên mới là Ủy Hội Sông Mekong (Mekong River Commission), với một thay đổi cơ bản trong Hiệp Ước mới này – thay vì như trước đây theo điều lệ của Ủy Ban Sông Mekong, mỗi hội viên có “Quyền Phủ Quyết/ veto power” bất cứ dự án nào bị coi là có ảnh hưởng tác hại tới dòng chính sông Mekong – thì nay, không một thành viên nào có quyền phủ quyết và trong ngôn từ để chuẩn y các dự án thì rất mơ hồ như chỉ qua thông báo và tham khảo. Đại diện Việt Nam là Ngoại Trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đã thiếu thận trọng khi đặt bút ký cho một Hiệp Ước có thể nói là  “Không Bền Vững” này, để lại những di lụy cho Việt Nam vì là quốc gia cuối nguồn. Có thể nói Ủy Hội Sông Mekong là “biến thể và xuống cấp” của Ủy Ban Sông Mekong trước kia.

Mỗi quốc gia thành viên đều có một Ủy Ban Mekong Quốc Gia, và Ủy Ban Mekong Việt Nam có một địa chỉ rất nghịch lý: 23 phố Hàng Tre, Hà Nội nơi châu thổ Sông Hồng cách xa đồng bằng sông Cửu Long hơn 1600 km.

Khác với tham vọng chiến lược ban đầu của Ủy Ban Sông Mekong nay mục tiêu của Ủy Hội Sông Mekong có phần rất khiêm tốn và thu hẹp bao gồm: ba Chương Trình Nòng Cốt [Chương Trình Sử Dụng Nước, Chương Trình Phát Triển Lưu Vực; Chương Trình Môi Trường];  năm Chương Trình Khu Vực  [Canh Nông, Thủy Lâm, Ngư nghiệp, Giao Thông, Du lịch];  và một Chương Trình Yểm Trợ. (1)

Ủy Hội Sông Mekong được bảo trợ bởi các tổ chức quốc tế và quốc gia, các viện nghiên cứu, và cả hội tư nhân và đón nhận được sự  tài trợ lên tới 28 triệu đô la Mỹ năm 2000. Ủy Hội đã hoàn tất được vài thành quả ban đầu như đạt được thỏa thuận chia sẻ thông tin giữa 4 nước thành viên, thiết lập đưa vào sử dụng “mạng lưới internet” tiên đoán lũ lụt và theo dõi dòng chảy mùa khô và nhất là đạt được thỏa ước (04/ 2002) có thể gọi là lịch sử về trao đổi dữ kiện thủy văn [hydrological data exchange agreement] với Trung Quốc.

MỘT TRUNG QUỐC ĐI SAU NHƯNG VỀ TRƯỚC

Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, Trung Quốc vẫn là một quốc gia toàn trị nhưng đã mở cửa ra với thế giới bên ngoài và vươn lên như một siêu cường.

Các dự án khai thác sông Mekong của Trung Quốc đã có từ thập niên 70. Mãi tới năm 1989, người ta mới được biết tới các dự án thủy điện qua một cuốn sách tiếng Hoa của nhà xuất bản Vân Nam Nhân Dân Thư Xã dày hơn 600 trang nhan đề “Lan Thương Giang: Tiểu Thái Dương / Lancang Jiang: Xiao Taiyang” gồm 45 bài viết về các đề tài khác nhau, nhưng tựu chung là chỉ đề cập tới những lợi lộc về thủy điện và nguồn nước của chuỗi những con đập trên sông Mekong tỉnh Vân Nam.

Do con sông Mekong từ Tây Tạng xuống Vân Nam chảy rất siết với rất nhiều ghềnh thác có nơi cao hơn 600 mét và được coi là lý tưởng cho việc xây cất một chuỗi những con đập khổng lồ, lại trên vùng  thưa dân nên không phải tốn kém trong việc tái định cư các nạn nhân trong vùng xây đập.
...
Bản đồ những con đập trên dòng chính sông MekongNguồn: www.internationalrivers.org

Bản đồ những con đập trên dòng chính sông Mekong
Nguồn: www.internationalrivers.org

Vì thiếu ngân sách, nên mãi tới năm 1986, Trung Quốc bắt đầu xây con đập thủy điện lớn đầu tiên chắn ngang dòng chính sông Mekong:  (1) Đập Mạn Loan / Manwan cao 126 m, công suất 1500 MW, hoàn tất 1993. Tiếp đến là con đập thứ hai (2) Đập Đại Chiếu Sơn / Daichaosan cao 118 m, công suất 1350 MW, hoàn tất 2003. Rồi con đập thứ ba (3)] Đập Cảnh Hồng / Jinghong cao 107 m 1350 MW, đã hoàn tất 2007. Và gây chấn động nhất mới đây là con đập thứ tư vừa hoàn tất (4): Con đập Mẹ Tiểu Loan / Xiaowan, như một tháp Eiffel 292 mét, cao nhất thế giới, với công suất 4200 MW. Từ mùa hè năm nay 2009, đập Tiểu Loan bắt đầu ào ạt lấy nước từ con sông Mekong vào hồ chứa dài 150 dặm, dự trù phát điện vào năm tới 2010. Đập Tiểu Loan có khả năng cung cấp điện cho tới các tỉnh duyên hải rất xa như Thượng Hải.

Song song với con đập Tiểu Loan, những dự án chuỗi đập lớn Vân Nam khác vẫn được mạnh mẽ triển khai. Đáng sợ nhất là con “khủng long” Nọa Trác Độ /  Nuozhadu đang xây cất, dự trù hoàn tất năm 2014, với công suất 5500 MW, gấp 3 lần công suất đập Mạn Loan, với dung lượng hồ chứa 22740 Triệu mét khối / Million Cubic Meter, lớn hơn cả con đập Mẹ Tiểu Loan.

CHUỖI NHÂN TAI TỪ VÂN NAM

Theo Fred Pearce, vào đầu thập niên tới, chuỗi đập Vân Nam sẽ có khả năng giữ lại hơn nửa lưu lượng dòng chảy của con sông Mekong trước khi ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc. Đối với Bắc Kinh, con sông Mekong đã trở thành “Tháp Nước và Nhà Máy Điện” của riêng họ.(10)

Với hậu quả là nhịp độ “hai mùa khô lũ có từ ngàn năm” của con sông Mekong vốn dũng mãnh sẽ không còn nữa, cái quyền “hô phong hoán vũ” ấy nay đã nằm trong tay các công trình sư Đại Hán điều khiển giàn turbines của các con đập Vân Nam.

Vào tháng 05/2009, Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp Quốc đã phải lên tiếng cảnh báo rằng “chuỗi đập Vân Nam” là “mối đe dọa duy nhất – lớn nhất / the single greatest threat” đối với tương lai và sự phồn vinh của con sông Mekong, sẽ giết chết nhịp đập thiên nhiên của dòng sông vốn như một kỳ quan của thế giới.

Aviva Imhoff, giám đốc truyền thông Mạng Lưới Sông Quốc Tế / IRN đưa ra nhận định: Trung Quốc đang hành xử một cách hết sức vô trách nhiệm. Chuỗi đập Vân Nam sẽ gây ra những tác hại vô lường nơi hạ lưu, gây rối loạn toàn hệ sinh thái con sông Mekong xa xuống tới Biển Hồ, nó như một chuông báo tử cho ngư nghiệp và nguồn cá vốn là thực phẩm của hơn 60 triệu cư dân sống ven sông.

Để độc giả có một ý niệm về tầm vóc của chuỗi đập bậc thềm Vân Nam, ta hãy so sánh với một công trình khác được coi là “rất vĩ đại” của Mỹ: TVA  (Tennessee Valley Authority) với hệ thống các đập thủy điện trên con sông Tennessee. Số con đập Vân Nam là 14 trong khi TVA chỉ có 9. Độ dốc của của chuỗi đập Vân Nam là 1500 m, 12 lần cao hơn chuỗi đập TVA; tổng công suất chuỗi đập Vân Nam gấp 13 lần tổng công suất TVA. Như vậy đối chiếu với chuỗi đập Vân Nam thì đại công trình TVA nổi tiếng là vĩ đại bấy lâu của Mỹ nay đã trở thành một bóng mờ. [H.2]

Có dịp đến thăm đập Hoover trên sông Colorado gần Las Vegas, con đập tưởng như vĩ đại cao 221 mét, công suất 2080 MW, nhưng thực ra chỉ lớn hơn con đập Mạn Loan 1500 MW và chưa bằng nửa công suất của con đập Tiểu Loan  4200 MW. Do Mỹ đã tận dụng nước khúc thượng nguồn nên con sông Colorado đã cạn dòng không còn nước để ra tới biển, gây thảm cảnh cho bao nhiêu triệu cư dân Mễ sống nơi cuối nguồn. Phải chăng, đó cũng là tương lai của đồng bằng sông Cửu Long, sông sẽ cạn dòng để thay thế bằng ngập mặn và rồi ra không có một giống lúa hay cây trái nào sống sót được trong biển nước mặn ấy.
...
Bác Sĩ Ngô Thế Vinh bên chân đập Mạn Loan (02/2002)Ảnh : do tác giả cung cấp

Bác Sĩ Ngô Thế Vinh bên chân đập Mạn Loan (02/2002)
Ảnh : do tác giả cung cấp

Rõ ràng trong mấy thập niên vừa qua, Trung Quốc đã không chỉ ào ạt xây thêm và xây thêm nữa những con đập thủy điện khổng lồ chắn ngang dòng chính sông Mekong, mà còn thực hiện kế hoạch phá đá và khai thông các khúc sông ghềnh thác để mở thủy lộ cho các con tàu 700 tấn đi về phương Nam và bất chấp hậu quả dùng sông Mekong làm con đường vận chuyển dầu khí từ giang cảng Chiang Rai lên Vân Nam.(2)

Tất cả đã và đang gây ảnh hưởng tích lũy tới nguồn nước là cá, nguồn phù sa là lúa gạo và cả gây ô nhiễm nghiêm trọng cho các quốc gia hạ nguồn. Đó là chưa kể tới nguy cơ vỡ đập do Vân Nam là vùng động đất. 

Không chỉ đơn giản vì “thiếu mưa”, sự kiện sông Mekong cạn dòng với mực nước đột ngột tụt thấp xuống nơi vùng hạ lưu xuống xa tới tận Biển Hồ năm 1993 và 2003 mà không vào mùa khô, trùng hợp với thời điểm Trung Quốc bắt đầu lấy nước vào hồ chứa của 2 đập thủy điện Mạn Loan và Đại Chiếu Sơn trên Vân Nam.

Rồi vào nửa năm đầu 2004, mực nước đã xuống thấp hơn nữa trong toàn Vùng Hạ Lưu, không phải chỉ ở Thái Lan, Lào mà cả ở Căm Bốt và đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam.

Odd Bootha, 38 tuổi, anh lái đò bến Chiang Khong bắc Thái, đã than thở, “Nếu Trung Quốc cứ xây thêm đập thì sông Mekong chỉ còn là một con lạch.” Tình cảm bài Hoa rất mạnh ở vùng bắc Thái, chính dân làng đã công khai chống lại kế hoạch phá đá phá ghềnh thác khai thông sông Mekong của Trung Quốc.

Với Căm Bốt, ai cũng biết rằng trái tim Biển Hồ chỉ còn nhịp đập khi sông Mekong còn đủ nước chảy ngược vào Biển Hồ trong mùa lũ, như  một bảo đảm cho nguồn cá và vựa lúa của người dân xứ Chùa Tháp. Và chưa hề có bảo đảm nào cho một tương lai như vậy nếu không muốn nói là đã có những dấu hiệu xấu về một Biển Hồ đang chết dần.

Cũng vẫn theo Fred Pearce, tác giả cuốn sách “Khi Những Con Sông Cạn Dòng, Nước – Khủng Hoảng của Thế Kỷ 21” xuất bản 2006, trong chương sách viết về con sông Mekong đã có ghi nhận:

“... Cuối năm 2003 và đầu năm 2004 là thời gian tuyệt vọng trên Biển Hồ. Cơn lũ mùa hè thấp hơn. Thời điểm con sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ đến trễ hơn và cũng chấm dứt sớm hơn. Thay vì 5 tháng con sông đổi dòng nay chỉ còn có 3 tháng. Rừng lũ / flooded forest thiếu ngập lũ và cá thì không đủ thời gian để tăng trưởng... Và mùa thu hoạch cá chưa bao giờ thấp như vậy. Tại sao ? Đa số ngư dân đổ tại con sông cạn dòng. Khi con nước cạn trước hoàng cung, thì sẽ không có cá dưới sông.”(3)

Cũng dễ hiểu là để có đủ nước vận hành những turbines trong các đập thủy điện Vân Nam, Trung Quốc đã thường xuyên đóng các cửa đập khiến mực nước sông đã xuống tới mức thấp nhất. Phía tả ngạn bên Lào, chỉ riêng trong tháng 3/2004, tổ chức du lịch đã phải hủy bỏ 10 chuyến du ngoạn trên sông chỉ vì những khúc sông quá cạn.  Chainarong Sretthachau, giám đốc Mạng Lưới Sông Đông Nam Á cho rằng “Trung Quốc đã có quyền lực để kiểm soát dòng sông Mekong.”

Sự chối từ của Trung Quốc tham gia vào Ủy Hội Sông Mekong khiến tổ chức này trở nên vô nghĩa trong nỗ lực điều hợp khai thác và phát triển bền vững nguồn tài nguyên của con sông Mekong.

CƠN KHÁT NĂNG LƯỢNG CỦA TRUNG QUỐC

Thực hiện thông điệp của Đặng Tiểu Bình “Chỉ Có Một Lựa Chọn: Sự Phát Triển”, Bắc Kinh đã chọn con đường phát triển bằng mọi giá, bất kể hậu quả môi sinh ra sao ngay cả trong đất nước Trung Quốc kể gì tới các quốc gia hạ nguồn. Do nhu cầu điện năng gia tăng 5-6% mỗi năm, để đáp ứng tốc độ phát triển kinh tế nhảy vọt, trước viễn tượng nguồn dầu khí ngày càng cạn kiệt, Trung Quốc ngoài việc gia tăng tốc độ xây thêm các lò điện nguyên tử, từ 1 tới 2 lò mới mỗi năm (National Geographic, Aug 2005). Đi xa hơn nữa, nếu không gặp sự chống đối mạnh mẽ từ các nhà lập pháp Mỹ, Công Ty Dầu Khí Ngoài Khơi Nhà Nước Trung Quốc CNOOC đã thành công mua đứt Unocal, công ty dầu khí lớn thứ hai của Mỹ với 18.5 tỉ Mỹ kim để sở hữu nguồn dầu khí chiến lược và cả khống chế quyền khai thác các túi dầu trên toàn Biển Đông. [NY Times, Aug 3, 2005].

Với khát vọng vô hạn về năng lượng, rõ ràng không có dấu hiệu nào và cũng là ảo tưởng nếu nghĩ rằng Trung Quốc sẽ dừng bước hay chậm lại các kế hoạch khai thác nguồn thủy điện vô cùng phong phú của con sông Mekong.

Nhận định về các kế hoạch khai thác sông Mekong của Trung Quốc, Tyson Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt Đới Smithsonian [Mỹ] đã phát biểu: “Xây các đập thủy điện, khai thông thủy lộ, với tàu bè thương mại quá tải sẽ giết chết dòng sông... Các bước khai thác của Trung Quốc sẽ làm suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang chết dần, cũng giống như con sông Dương Tử  và các con sông lớn khác của Hoa Lục.”

Như một điệp khúc, chỉ có tác dụng ru ngủ, Bắc Kinh lúc nào cũng khăng khăng với lập luận là ảnh hưởng chuỗi đập Vân Nam trên sông Mekong là không đáng kể và còn có lợi nữa. Các con đập sẽ tạo thuận cho “chu kỳ lũ hạn hàng năm”, khai thông dòng sông sẽ làm gia tăng trao đổi thương mại trong vùng và giúp giảm nghèo.

Nhưng cũng công bằng mà nói, không phải tất cả suy thoái của con sông Mekong là đến từ Trung Quốc. Cũng phải kể tới phần ảnh hưởng phụ cộng thêm vào từ những con đập phụ lưu của Thái, Lào và Việt Nam, và mới đây là kế hoạch phục hoạt xây thêm 11 con đập lớn chắn ngang dòng chính sông Mekong dưới Hạ Lưu, chắc chắn sẽ càng làm suy thoái trầm trọng thêm toàn hệ sinh thái và giết chết dòng sông Mekong cũng là mạch sống của đồng bằng sông Cửu Long.

Sự thịnh vượng cho Lưu Vực là điều hứa hẹn nhưng chưa tới, và đã tới những hậu quả nhãn tiền do các bước khai thác tự hủy và thiếu trách nhiệm của Trung Quốc đối với nguồn tài nguyên sông Mekong, vốn là một con sông quốc tế, gây ảnh hưởng tác hại trực tiếp tới 70 triệu dân cư sống ven sông.

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ HÂM NÓNG TOÀN CẦU

Tổ chức WWF đã đưa ra lời cảnh báo khối băng tuyết trên rặng Hy Mã Lạp Sơn, vốn là nguồn nước cho 7 con sông lớn của châu Á (sông Mekong, Salween, Dương Tử, Hoàng Hà và con sông Hằng, Indus, Brahmaputra), do hiện tượng hâm nóng toàn cầu, nay đang bị co lại với vận tốc từ 10 tới 15 mét / năm, do gia tăng tốc độ tuyết tan, với hậu quả ngắn hạn là làm tăng lưu lượng nước các dòng sông. Nhưng theo Jennifer Morgan, giám đốc Chương Trình Biến Đổi Khí Hậu Toàn Cầu  (WWF for Nature’s Global Climate Change Programme), chỉ vài thập niên sau đó, tình hình sẽ đảo ngược với mực nước các con sông sẽ xuống rất thấp trong đó có con sông Mekong.(5)

WWF đã báo động tới nhóm các quốc gia kỹ nghệ G8 : “Thế giới sẽ phải đương đầu với thảm họa nếu mức độ hâm nóng toàn cầu không được giảm thiểu.” Tưởng cũng nên nhắc tới ở đây, siêu cường kỹ nghệ Hoa Kỳ dưới triều đại Bush là nước duy nhất trong số 155 quốc gia từ chối ký tên vào Nghị Định Thư Kyoto. Không phải chỉ có Trung Quốc, chính sách môi sinh thiển cận của tổng thống Bush trong một tương lai xa, cũng đã góp phần khiến những con sông thêm cạn dòng.

GIẢI PHÁP NGẮN HẠN ĐỂ SỐNG CÒN

Với Việt Nam, trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Ánh Nguyệt / RFI [12/2004] khi được hỏi về tình trạng nhiễm mặn ngày càng trầm trọng nơi đồng bằng sông Cửu Long từ ngày Trung Quốc không ngừng tiến hành xây những con đập khổng lồ Vân Nam, giáo sư Võ Tòng Xuân, từng là trưởng Khoa Nông Học Đại Học Cần Thơ, một tên tuổi được gắn liền với giống lúa cao sản Thần Nông, nguyên viện trưởng Đại Học An Giang, đã phát biểu:  “Nông dân đồng bằng sông Cửu Long thích nghi nhanh, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, bỏ hẳn giống lúa cổ truyền, chuyển sang trồng lúa cao sản, nên chủ động tránh được lũ cũng như hạn hán. Ở những vùng bị nhiễm mặn, thay vì trồng lúa thì chuyển qua những loại cây khác hay chuyển qua sản xuất nuôi tôm xú chịu được nước lợ, rồi phong trào nuôi cua biển đang phát triển mạnh, người nông dân sẽ dùng nguồn nước mặn này để nuôi thủy sản với giá thành cao hơn là trồng lúa.

Hiện nay, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đang vận dụng công nghệ sinh học, tìm những genes chịu mặn nhằm lai tạo những giống lúa cao sản tương đối chịu mặn hơn các giống lúa thường. Xa hơn nữa, Việt Nam đang cùng với nhóm MEREM / Mekong Resources Economic Management, do Nhật Bản tài trợ, nhằm nghiên cứu những thay đổi môi trường nước cũng như của đa dạng sinh học trên sông Mekong, để từ đó có thể khuyên cáo những chánh phủ liên hệ nên sử dụng nguồn nước sao cho an toàn hơn.”

THÁCH ĐỐ CỦA THẾ KỶ 21

Vẫn không có câu trả lời ai sẽ thực sự trách nhiệm “duy trì dòng chảy tối thiểu” của con sông Mekong trong mùa khô cũng như mùa lũ để có dòng chảy ngược từ con sông Mekong vào Biển Hồ, để nước mặn từ ngoài biển Đông không tiếp tục lấn vào sâu và xa hơn nữa nơi đồng bằng sông Cửu Long ?

Hình ảnh ước lệ của hơn nửa thế kỷ trước về một đồng bằng sông Cửu Long, với ruộng vườn thẳng cánh cò bay, tôm cá đầy đồng, thì nay tất cả đã đi vào quá khứ. Gần đây có dịp trở lại viếng thăm, để chỉ thấy trên toàn cảnh là một đồng bằng sông Cửu Long đang suy thoái và cứ nghèo dần đi.   

Nước ngày càng khan hiếm, với kinh nghiệm của người xưa “thượng nguồn tích thủy hạ nguồn khan” tưởng như là hiển nhiên nhưng vẫn cứ bị Bắc Kinh phủ nhận và cả các chánh phủ vùng Hạ Lưu xem nhẹ.

Rồi ra thời gian sẽ cho chúng ta “một bài học” nhưng sẽ là quá trễ nếu hệ sinh thái con sông Mekong đã suy thoái tới mức không còn có thể đảo nghịch. Rồi ra các thế tương lai sẽ chẳng bao giờ được biết tới những con cá Pla Beuk, cá Dolphin là những chủng loại quan trọng / flagship species, vì đó là biểu trưng cho sự trong lành của hệ sinh thái sông Mekong đang trên đà bị tiêu diệt.

TÌM MỘT NGỌN HẢI ĐĂNG CHO ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Cho dù không có phương cách nào có thể ngăn Trung Quốc không tiến hành kế hoạch điện khí hóa vĩ đại của họ nhưng ở một chừng mực nào đó thì “những khiếm khuyết và thiếu an toàn trong mỗi dự án xây đập của Trung Quốc và nay thêm 11 con đập Hạ Lưu, phải được biết tới, để theo dõi và bổ sung.”

Điều ấy đòi hỏi cho một chiến lược bảo vệ môi sinh với “tầm nhìn xa”, với một đội ngũ chuyên viên không chỉ có trình độ mà còn có lòng thiết tha với công việc chuyên môn của họ.

Cách đây 39 năm trong bài diễn văn “xuất trường” của Viện Đại Học Cần Thơ (19/12/1970), Giáo sư Đỗ Bá Khê đã có một tầm nhìn rất xa về vai trò của Viện Đại Học này đối với tương lai vùng đồng bằng sông Cửu Long : “Trong thời đại khoa học kỹ thuật, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đang trông chờ nơi ánh sáng soi đường của Viện Đại Học Cần Thơ và ước mơ một chân trời mới, tô điểm bằng những cành lúa vàng nặng trĩu, những mảnh vườn hoa quả oằn cây, dân cư thơ thới, một cộng đồng trù phú trong một xã hội công bằng.”

Với con Sông Mekong đang cạn dòng, đồng bằng sông Cửu Long ngày thêm nhiễm mặn, thì vai trò “Ngọn Hải Đăng Trí Tuệ” của Đại Học Cần Thơ với Phân Khoa Sông Mekong chưa bao giờ cấp thiết đến như vậy. Đó sẽ là một “think tank”? một trung tâm nghiên cứu giảng dạy và là nguồn cung cấp chất xám không chỉ cho đồng bằng sông Cửu Long, mà cả cho toàn lưu vực sông Mekong. Với từng bước thực hiện:

- Xây dựng một thư viện chuyên ngành với tất cả sách vở tài liệu liên quan tới con sông Mekong.

- Thiết lập ban giảng huấn ngoài thành phần cơ hữu của nhà trường, sẽ bao gồm các chuyên gia của Ủy Hội Sông Mekong, nhóm Chuyên Viên Tham Vấn Quốc Tế bên cạnh Ủy Hội. Họ sẽ được mời như những giáo sư thỉnh giảng, cho Phân Khoa Sông Mekong. Tài liệu giảng của họ sẽ là nguồn thông tin vô cùng quý giá do từ những đúc kết qua thực tiễn.

- Tuyển sinh từ thành phần ưu tú biết ngoại ngữ, nhằm hướng tới đào tạo các kỹ sư môi sinh, ngoài phần lý thuyết họ sẽ được tiếp cận với thực tế bằng những chuyến du khảo qua các trọng điểm của con sông Mekong, qua các con đập, và không thể thiếu một thời gian thực tập tại các cơ sở của Ủy Hội Sông Mekong. Họ sẽ ra trường với một tiểu luận tốt nghiệp về những đề tài khác nhau liên quan tới hệ sinh thái của con sông Mekong.

- Về phương diện chánh quyền, cần thiết lập ngay một mạng lưới “Tùy Viên Môi Sinh” (Đã có những tùy viên quân sự, văn hóa trong mỗi tòa đại sứ, tại sao không thể có tùy viên môi sinh), đặc trách sông Mekong trong các tòa đại sứ và sứ quán tại các quốc gia trong lưu vực, như tòa lãnh sự Việt Nam ở Côn Minh Vân Nam, bốn tòa đại sứ Việt Nam ở Miến Điện, Thái  Lan, Lào và Căm Bốt. Họ sẽ là tai mắt, là những trạm quan sát sống cho Phân Khoa sông Mekong và bộ Bảo Vệ Môi Trường.

Trước 1975, Thái Lan đã có Viện Y Khoa Nhiệt Đới Đông Nam Á, tại sao không thể nghĩ tới một Phân Khoa Sông Mekong tại Viện Đại Học Cần Thơ cho 6 quốc gia trong Lưu Vực Lớn Sông Mekong. Thành phần sinh viên không phải chỉ có Việt Nam mà có thể cả những sinh viên đến từ Thái Lan, Lào và Căm Bốt và cả từ Trung Quốc, Miến Điện.

Việc cấp học bổng cho các sinh viên đến từ các quốc gia trong lưu vực sẽ đến từ cấp Nhà Nước. Phải xem đây như  một kế hoạch đầu tư dài hạn và rất ý nghĩa cho “Một Tinh Thần Sông Mekong” trong toàn bộ các kế hoạch hợp tác và phát triển vùng.

Với trình độ kiến thức và tinh thần liên đới của đám sinh viên đa quốc gia sẽ là nguồn chất xám bổ sung cho Ủy Hội Sông Mekong, cho các chánh phủ địa phương đang bị thiếu hụt nhân sự trầm trọng. Lớp chuyên viên trẻ đầy năng động này cũng sẽ là mẫu số chung nối kết mở đường cho các bước hợp tác phát triển bền vững của 6 quốc gia trong toàn lưu vực sông Mekong.

Dĩ nhiên, có một cái giá phải trả để bảo vệ con Sông Mekong và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Với tâm niệm rằng “nói tới nguy cơ là còn thời gian, trong khi tiêu vong là mất đi vĩnh viễn”.

Ngô Thế Vinh

California, July 2009

Tham Khảo:

1/  Agreement on the Cooperation for the Sustainable Development of The Mekong River Basin, Chiang Rai, Thailand 05 Apr 1995

2/  Sparks fly as China moves oil up Mekong, Marwaan Macan-Makar, Bangkok 01-09-2007;  IPS and Asia Times Online

3/ When The Rivers Run Dry, Water – The Defining Crisis of The Twenty First Century.  Fred Pearce, Beacon Press, Boston, Massachusetts 2006

4/  Hiroshi Hori. The Mekong: Environment and Development. United Nations University Press, Tokyo 2000.

5/   Global Warming is causing Hymalayan glaciers retreat, threatening to cause water water shoratges, Geneva, Mar 14, 2005, [AFP]

6/  Progress In Water Management at the Mekong River Basin, MRC Presentation at Third WWF, INBO Official Session 20 Mar 2004

7/ Plan for Massive Dam On Mekong, Project likely to draw protests from neighbours, The Nation Bangkok Thailand, November 04, 2007

8/ Construction of a Major Hydroelectric Dam on the Mekong River in Thailand Could Have Grave Implication. Fergal Quinn and Lor Chandara, The Cambodia Daily November 7, 2007

9/ Mainstream Dams: An Engineer’s Dream, A Fisher’s Curse, Gary Lee

Watershed, Vol.12 No.3 November 2008

10/ The Damming of The Mekong: Major Blow to An Epic River,

Fred Pearce, Yale Environment 360 Jun 17, 2009

--
Ngo The Vinh MD
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #187 - 21. Jul 2009 , 05:04
 
VƯỢT QUA NỖI SỢ
       

Kính gởi quý vị và các bạn bài nhận định "Vượt qua Nỗi Sợ" của Trần Viết Đại Hưng ca ngợi những văn thi sĩ khẳng khái chống chế độ VC dẫu ở ngay giữa lòng chế độ hung ác này. Họ dám can đảm phê bình đảng và nhà nước, điển hình là Nguyễn Chí Thiện, Tô Hải, Ls Nguyễn Mạnh Tường, Chế lan Viên, Nguyễn Khải, Nguyễn đình Thi, Gs Nguyễn Đăng Mạnh... Nhưng tại sao ở hải ngoại lại có vài ngòi bút khắc khe tàn nhẫn trù dập những chiến sĩ chống chế độ VC như vậy?
--------------------------------------------------------


VƯỢT QUA NỖI SỢ
Trần viết Ðại Hưng


                         
    Kể từ khi thiết lập được chế độ cai trị ở miền Bắc năm 1954 và ở miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã dùng bạo lực và nhà tù khắc nghiệt để trấn áp bất cứ ai chống đối chúng, cho dù là chống đối bằng súng đạn hay chống đối bằng chữ viết. Bộ máy nhà nước tàn bạo của chúng vẫn tồn tại cho dù chúng đã phạm biết bao nhiêu tội ác với nhân dân. Chế độ độc tài toàn trị của chúng  được xây dựng trên nỗi sợ của dân chúng và hệ thống tù lao độc ác man rợ có một không hai trong lịch sử loài người đã góp phần củng cố chế độ tàn ngược phi nhân của chúng.
Hơn ai hết, người văn nghệ sĩ thấy rõ chính sách đàn áp tư tưởng cùa Cộng sản nên người văn nghệ sĩ cũng như người dân thường đều phải sống với mặt nạ: ngoài mặt thì ủng hộ nhưng trong lòng thì ấm ức, bất mãn. Có những văn nghệ sĩ như Chế lan Viên, Nguyễn Khải, Nguyễn đình Thi chỉ bộc bạch tâm sự u uẩn của mình trên trang giấy trước khi lìa đời và yêu cầu gia đình chỉ công bố di chúc văn nghệ của mình sau khi mình đã nằm xuống. Họ biết họ sẽ bị chế độ Cộng sản trả thù trù dập nếu những tư tưởng phản kháng của họ ghi trên giấy được phổ biến ra quần chúng. Họ đành phải chọn con đường cho xuất bản di chúc văn học của mình sau khi đã qua đời. Cộng sản dù có tức giận cũng không thể đào mồ cuốc mả láấy  tử thi họ lên để trả thù.
Nhưng không phải ai cũng chọn con đường “chết trước, công bố sau" như Chế lan Viên, Nguyễn Khải, Nguyễn đình Thi. Sự ra đời của hồi ký “Hồi ký của một Thằng Hèn" của Nhạc sĩ Tô Hải đã nói rõ là Tô Hải dám can đảm phê phán thẳng thừng Ðảng Cộng sản Việt Nam dù Tô Hải đang còn sống. Tô Hải đã can đảm vượt qua nỗi sợ để nói lên cái sĩ khí của người cầm bút đã bao nhiêu năm trời bị Cộng sản vùi dập, bức bách. Phát súng hiệu phá hèn của Tô Hải là một dấu hiệu lịch sử của thời đại báo hiệu ngày lịch sử sẽ sang trang. Khi người cầm bút cũng như người dân không còn biết sợ thì bộ máy cai trị của nhà nước Cộng sản chắc chắn sẽ rung rinh và sụp đổ một ngày không xa.
    Thật ra trước Tô Hải, năm 1979 nhà thơ Nguyễn chí Thiện đã xông vào sứ quán Anh ở Hà Nội yêu cầu cho xuất bản tập thơ bất hủ “Hoa Ðịa Ngục “ lên án sự tàn bạo, gian ác của bọn Cộng sản Việt Nam. Nguyễn chí Thiện là người đầu tiên hạch tội Ðảng Cộng sản một cách công khai trên đất nước Việt Nam. Tác giả Nguyễn chí Thiện đã phải trả giá 12 năm tù cho chuyện tung ra tập thơ của mình. Trước đó ông đã ở tù 15 năm, cho nên tổng cộng ông chịu cảnh giam cầm trong tù Cộng sản đến 27 năm. Khi Nguyễn chí Thiện quyết định tung tập thơ vào Tòa Ðại sứ Anh là ông đã lường trước được cái giá tù tội ông phải trả. Tập thơ đã có tiếng vang rất lớn trên thế giới và đó là phần thưởng tinh thần xứng đáng dành cho sự can đảm bất khuất của ông. Ở đời thường cái gì cũng có giá và chuyện viết văn làm thơ lên án nhà cầm quyền Cộng sản chắc chắn sẽ phải trả một giá rất đắc.

Cho dù tập thơ Hoa Ðịa Ngục được xuất bản ở hải ngoại nhưng tác giả Nguyễn chí Thiện tung tập thơ ra khi ông đang còn ở trong nước. Tương tự như thế, mặc dù Hồi ký của Tô Hải được xuất bản ở hải ngoại nhưng tác giả Tô Hải đang còn ở trong nước. Cái can đảm đáng quý là ở chỗ đó. Hoàn cảnh chính trị ngày nay đã khác, Tô Hải không bị đưa vào tù ngay như Nguyễn chí Thiện nhưng chắc chắn ông sẽ bị trù dập. Tô Hải biết rõ điều đó và ông sẵn sàng chấp nhận mọi hậu qủa về cuốn hồi ký của ông. Chỉ riêng điều đó thôi thì ông cũng đáng được người đọc dành nhiều cảm tình và sự kính trọng.
  Thật ra sau Nguyễn chí Thiện và trước Tô Hải có Luật sư Nguyễn mạnh Tường cũng tung ra một cuốn hồi ký. Cuốn này viết bằng tiếng Pháp và có tên “ Un Excommunié “ ( Kẻ bị khai trừ “ . Ông Tường viết cuốn này xong năm 1991 và sau đó tìm cách chuyển qua Pháp cho nhà xuất bản Quê Mẹ in. Cuốn sách được in ra năm 1997. Trong một bức thư viết cho ông Võ văn Ái là giám đốc nhà xuất bản Quê mẹ, Ông Tường tiên liệu những chuyện không hay có thể xảy ra cho ông khi cuốn hồi ký phê phán chế độ của ông được xuất bản như sau :
   “ Tôi chờ đợi điều tệ hại nhất đến với tôi, tuy vẫn mong là nó không tới. Nhưng nếu người ta đẩy sự dã man đến độ dành cho tôi cùng sự đối xử  như các nhà trí thức khác từng bị cáo buộc là nói xấu chế độ, thì tôi sẽ vững vàng đón nhận những thử thách mà tôi biết sẽ cam go lắm, Tôi đã quyết định, nếu điều đó cuối cùng xảy ra, thì tôi sẽ tuyệt thực đến chết. Ở tuổi 84 này tôi đã trải qua cái tốt nhất và cái xấu nhất của cuộc đời, và tôi không cảm thấy nuối tiếc phải lìa bỏ cõi đời, vì suốt cuộc đời tôi, tôi đã chu toàn bổn phận của một trí thức trước nhân dân và trước lịch sử .”
  Rất tiếc là cuốn hồi ký không được dịch ra Việt ngữ nên không có tiếng vang và nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng không làm gì khó dễ cụ Nguyễn mạnh Tường cho đến ngày cụ qua đời. Năm 1989, cụ Tường có qua thăm Pháp trong vòng vài tuần. Khi được hỏi  là cụ có ý định ở lại Pháp tỵ nạn chính trị hay không? Cụ đã khẳng khái trả lời một câu để đời như sau ,
“Trong thần thoại Hy Lạp có một vị thần chỉ mạnh mẽ khi đứng trên mặt đất, hễ ai nhấc lên khỏi mặt đất thì thành ra yếu ngay. Tôi nghĩ một người trí thức hay một văn nghệ sĩ cũng vậy. Phải ở trong nước, giữa những thử thách mới tìm ra được sức mạnh.”
  Cụ làm đúng như lời cụ phát biểu và quay về Việt Nam sau chuyến du lịch Pháp và vài năm sau cụ qua đời năm 1996  ở Hà Nội. Cụ đúng là một tấm gương bất khuất của kẻ sĩ Việt Nam.
  Nói chung Nguyễn chí Thiện, Nguyễn mạnh Tường và Tô Hải đều phải vượt qua nỗi sợ trù dập tù tội mà nhà cầm quyền Cộng sản dành cho khi quyết định công bố thơ, văn vạch trần và tố cáo những tội ác kinh tởm của chế độ Cộng sản. Có những văn nghệ sĩ cũng viết thơ, văn phê phán chế độ Cộng sản nhưng không dám công bố ra khi còn sống mà chỉ căn dặn người thân trong gia đình chỉ công bố di chúc văn thơ khi họ đã qua đời. Họ không đủ can đảm để đối diện với những đòn thù mà chế độ sẽ dành cho họ khi họ còn sống. Cho nên họ chọn giải pháp khi họ chết rồi mới cho công bố thơ văn phê phán chế độ. Ðó là trường hợp của nhà thơ Chế lan Viên, nhà văn Nguyễn Khải, nhà văn Nguyễn đình Thi.
  Nhà thơ Chế lan Viên nổi tiếng từ hồi tiền chiến với tập thơ “ Ðiêu tàn “ than van nỗi đau đớn, uất ức của dân tộc Chàm bị tàn hại đến nỗi mất cả quê hương, giống nòi, chỉ còn lại những tháp Chàm rên rỉ với thời gian. Sau 1954, Chế lan Viên ở lại miền Bắc và phục vụ cho chế độ như một nhà thơ công thần, viết những bài thơ ca ngợi lòng yêu nước, cúc cung phục vụ chế độ Cộng sản. Nhưng đó là phần biểu diễn bên ngoài, bên trong Chế lan Viên cũng nhận thấy những sai trái, dối trá của chế độ và ông ghi lại trong mấy bài thơ để lại cho đời trước khi qua đời. Trong đó có bài thơ “ Bánh vẽ “ nói rõ tính chất dối trá trong cuộc sống ở chế độ Cộng sản như sau:
           
                          BÁNH VẼ
            Chưa cần cầm lên nếm
            Anh đã biết là bánh vẽ
            Thế nhưng anh vẫn
            Ngồi vào bàn cùng bè bạn
            Cầm lên nhấm nháp
           Chả là nếu anh từ chối
           Chúng sẽ bảo anh phá rối đêm vui !
 Rồi đến nhà văn quân đội Nguyễn Khải có cấp bậc đại tá. Nguyễn Khải dành trọn cuộc đời viết văn để phục vụ Ðảng. Ông viết về những chính sách thuế khóa, nông nghiệp của Ðảng áp dụng lên xã hội miền Bắc. Dĩ nhiên là ông tô hồng cho sự sung túc của cuộc sống, sự tươi mát của không khí làng quê dưới sự cai trị của Cộng sản. Ðến khi gần qua đời, ông viết một bút ký chính trị có tên “ Ði tìm cái tôi đã mất" . Nó được coi như là một di chúc văn học cuối đời nói thẳng , nói thật hết những suy nghĩ của ông về những giả dối trong xã hội Cộng sản, đặc biệt là trong nghề văn của ông. Ông phủ nhận và mỉa mai những giải thưởng văn học cao quí nhất mà nhà nước đã dành cho ông. Ông tự đánh giá sự nghiệp văn học của mình chẳng có giá trị gì, không thể truyền lại cho đời sau vì nó chỉ phục vụ nhu cầu chính trị ngắn hạn của Ðảng mà thôi.

Ai cũng công nhận ông là một nhà văn có tài, chỉ tiếc chế độ Cộng sản trói buộc không cho ông ra những tác phẩm lớn để đời. Ông đúng là nhà văn sinh bất phùng thời nên phút` cuối đời ông trang trải tâm sự và suy nghĩ chân thành trước khi đi xa. Những nhận định của ông về cuộc sống và văn học có giá trị lớn lao . Thế hệ sau có thể học hỏi khá nhiều từ kinh nghiệm viết văn đắng cay của nhà văn  kỳ cựu này. Xin trích dẫn vài đoạn lý thú trong bút ký văn học “Ði Tìm cái Tôi đã Mất" của nhà văn Nguyễn Khải.
   “ …..Một dân tộc làm nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, đi đứng lom khom như một kẻ bại trận. Quả dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy! “
 “ …..Năm đất nước mới thống nhất vào Sài gòn được gặp các nhà văn, nhà báo, các nghệ sĩ của chế độ cũ mà thèm; họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ.”
  “ …..Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất  cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay, chắc chả còn ai nhớ đến mình nữa. Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết. Tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ ! “

Riêng trường hợp nhà văn Nguyễn đình Thi vốn là một quan văn nghệ của Cộng sản trước khi qua đời cũng có viết một di chúc văn học và theo lời của con trai Nguyễn đình Thi là Nguyễn đình Chính thì di chúc văn học này sẽ được công bố năm 2014 ! Không hiểu vì sao lại có sự trễ tràng như vậy . Có lẽ người sợ hãi là Nguyễn đình Chính chứ không phải Nguyễn đình Thi vì khi Nguyễn đình Thi qua đời rồi thì không còn lý do gì để sợ hãi nữa. Có lẽ người được ủy nhiệm công bố di chúc văn học của Nguyễn đình Thi là con trai Nguyễn đình Chính là người phải e dè sợ hãi nên quyết định lần lữa trong việc công bố di chúc văn học của người cha mà trong đó hứa hẹn nhiều sự thật trắng trợn, phũ phàng không phù hợp với đường lối chính sách nhà nước. Nguyễn đình Chính e ngại là phải rồi.

  Ðến trường hợp giáo sư Nguyễn đăng Mạnh thì lại là một chuyện lừng khừng. Ông Mạnh hoàn tất cuốn hồi ký văn học của mình năm 2008 viết về những nhà văn mà ông quen biết như Dương thu Hương, Nguyễn Khải, Hoàng ngọc Hiến v..v trong có ông có viết một chương về Hồ chí Minh. Ông cho lưu truyền bản hồi ký này trong giới bạn bè và sau này được đưa lên Internet. Bỗng bất thình lình trong một cuộc nói chuyện với bà Thụy Khuê của Ðài RFI ( Pháp) cách đây không lâu, ông yêu cầu không phổ biến cuốn hồi ký này vì ông chỉ muốn lưu truyền trong giới bạn bè mà không muốn quần chúng trong và ngoài nước đọc.

Có lẽ khi tung ra cuốn hồi ký, ông đã bắt đầu thấy “phát rét “ vì những tiết lộ khá mạnh bạo, nhất là những đoạn viết về Hồ chí Minh.. Ông lo sợ là nhà nước sẽ hỏi thăm sức khỏe và sẽ có biện pháp xử lý ông nên ông xin thu hồi hồi ký. Ông đã không vượt qua được nỗi sợ khi viết lên những ý tưởng  phê phán con người và chế độ nên quyết định rút lui. Người viết bài này cũng được thiên hạ email cho cuốn hồi ký của ông và khi đọc nó thì mới hiểu vì sao Nguyễn đăng Mạnh lo sợ và xin thu hồi hồi ký. Thu hồi làm gì nữa khi cuốn hồi ký đã lan tràn trên Internet.!.
Mong rằng Nguyễn đăng Mạnh sẽ vượt qua nỗi sợ và cho phép ấn hành cuốn hồi ký này ở hải ngoại. Dĩ nhiên trong nước chưa thể ấn hành cuốn hồi ký này vì nội dung phê phán quá trắng trợn và thẳng thừng của cuốn hồi ký này. Chuyện lo sợ của Nguyễn đăng Mạnh về nội dung cuốn hồi ký nói thật của mình cũng dễ hiểu thôi và đó là căn bệnh chung của những người cầm viết trong chế độ Cộng sản. Một chế độ chỉ cho phép ấn hành những bài viết, những cuốn sách ca tụng, tô hồng cho chế độ. Phê  phán chế độ coi như đồng nghĩa với phản động và nhà nước sẽ có biện pháp xử lý không sớm thì muộn.

   Nhạc sĩ Tô Hải khi quyết định viết hồi ký để vạch trần những tội ác xấu xa, dối trá , độc ác của Ðảng Cộng sản Việt Nam trong mấy mươi năm qua cũng phải tự động viên mình phải vượt qua nổi sợ bị trấn áp tù tội một mai khi hồi ký của ông ra đời.
 Ông bộc bạch những suy nghĩ trăn trở của ông như sau :
 “ ..Trong đầu tôi tràn ngập hồi ức cần được thoát ra. Vì thế trong khi viết tôi luôn phải cố gắng sao cho khỏi lạc “ chủ đề tư tưởng “ ( cách nói méo mó trong ngôn từ văn nghệ Cộng sản ). Và trước hết , tôi phải đè bẹp được sự “ hèn nhát “ trong tôi là cái đã bén rễ sâu chặt do thời gian quá dài sống trong lồng kín, cách ly bầu trời tự do.
 Tôi sẽ viết để bạn bè, con cháu hiểu và thông cảm nỗi đau của những người cả cuộc đời phải sống và làm việc với cái đầu và trái tim của tên nô lệ.  Tôi tình nguyện làm một trong những người vạch trần những bộ mặt chính trị dỏm, văn nghệ dỏm, những tên cơ hội đã cản trở, giết chết tác phẩm, đẩy những tài năng vào hố sâu quên lãng.     ( Hồi ký Tô Hải trang 51)
 Suốt trên 500 trang giấy in, Hồi ký Tô Hải là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo và vạch trần những tội ác của Cộng sản vốn được bưng bít tinh vi và những tội ác này sẽ chìm sâu vào quên lãng nếu không có những người trong cuộc can đảm như Tô Hải viết ra, trả lại sự thật phũ phàng cho hậu thế soi chung.
  Tô Hải kể lại chuyện cuộc đời đau thương, bầm  dập, nhục nhã của mình kèm theo những nhận định chính trị sắc sảo về tình hình hiện tại của Việt Nam mà một người ở nước ngoài không làm sao nắm bắt cho được.  Tô Hải đã vẽ cái tình cảnh chợ chiều tan hoang chụp giựt của xã hội Việt Nam hiện nay như sau :
   “Chẳng có gì khó hiểu khi cái chủ nghĩa “cộng sản khoa học” mà chúng tôi bị nhồi sọ một thời, ngày nay đã bị thế hệ trẻ phủ nhận hoàn toàn. Sự phủ nhận ấy diễn ra cùng lúc với sự kiện cả cái phe gọi là “xã hội chủ nghĩa “ kéo dài từ Vĩnh Linh đến tận Berlin đã bị những người bị lường gạt giật đổ sụp và nhổ toẹt vào.
Trước mắt ngày nay chẳng có cái gì hết, không lý thuyết cách mạng vô sản, không đảng cộng sản, không “ Bác Hồ “ anh minh lãnh đạo mà chỉ là một cuộc vơ vét cuối cùng của đoàn thủy thủ chuẩn bị nhảy khỏi con tầu sắp đắm với hành khách là nhân dân Việt Nam bất hạnh !
  Ðoàn thủy thủ ấy gồm những tên lưu manh vô học, những tên giám-đốc-không-vốn, những tay cầm đầu hải quan mà buôn lậu, những tay phụ trách tư pháp tòa án chuyên nghề kết án người vô tội, những tên quản lý nhà đất mà cướp nhà, cướp đất để chia nhau vô tội vạ, những kẻ buôn lậu ma túy nằm ngay trong những trung tâm đầu não chống ma túy. Và ở bậc cao nhất của cung đình là những tên đại lưu manh trơ tráo, chẳng Mác chẳng Xít gì, đang trấn áp, đe dọa người dân bằng nhà tù, súng đạn, để ăn cướp bất cứ thứ gì có thể cướp, vơ vét của cải đất nước làm của riêng, lấy tiền bỏ vào các tài khoản khổng lồ ở nước ngoài do con, cháu, bồ bịch, tay chân chúng làm chủ !”     ( Hồi ký Tô Hải trang 79, 80)
 Tô Hải thú nhận là ông phải sống hai mặt, phải đóng kịch hoan hô, cổ võ những cái ông không muốn hoan hô và im lặng, thậm chí gật đầu trước những gì ông không tán thành, chấp nhận. Viết hồi ký là lúc ông không còn muốn đóng vở kịch giả dối và nói ra tiếng nói từ con tim và lương tâm của mình. Ðể nói được những lời nói trung thực, ông phải đấu tranh tư tưởng để vượt qua nỗi sợ bị trù dập, tù tội sau khi sách hồi ký ra đời, cho dù là ở hải ngoại. Người Việt trong và ngoài nước ghi nhận sự can đảm hiếm hoi của một ông già bệnh hoạn tuổi đã trên 80 dùng cái thân tàn của mình để đương đầu với một chế độ tuy mục nát nhưng vô cùng tàn bạo và độc ác.
   Dĩ nhiên dư âm cuốn hồi ký độc đáo của Tô Hải đã bay về trong nước. Cộng sản lập tức cho bồi bút Trần thiên Lương viết bài “ Làm sao “ nói thay” cho mọi người “ phê phán cuốn Hồi ký của nhạc sĩ Tô Hải , đăng trên báo Công An Nhân Dân trong đó  lên án và nhục mạ Tô Hải bằng những luận điệu rẻ tiền, hạ cấp như sau :
 “ ..Gần đây nhất là việc nhạc sĩ Tô Hải, người từng được trao giải thưởng nhà nước về VHNT, đã cho xuất bản ở hải ngoại tập hồi ký “ Tôi là một thằng hèn “ , và mạnh miệng trả lời báo giới, cũng như trực tiếp cho phát tán những bài viết với lời lẽ đầy hằn học, thóa mạ quá khứ, thóa mạ chế độ cùng những nhân vật mãi mãi là niềm tự hào và yêu kính của dân tộc ta.
…..Nhưng thú thật, trong số này, hiếm có người nào lại có lối ăn nói trùm lấp, bất chấp sự thật, với một giọng điệu hằn học như ông Tô Hải. Những điều ông nói, thiết nghĩ, những người nước ngoài chỉ cần có một chút kiến thức về lịch sử, ắt sẽ không “ nhằn” nổi.
  Nhìn “ngoài” thì thế, nhìn vào trong nước, ông Tô Hải quả là đã ngoa ngôn khi cho rằng, những người lãnh đạo đất nước “ trình độ học thức ở mức đánh vần được chữ quốc ngữ “. Trong khi ai cũng biết, nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Ðảng còn là những nhà văn hóa, từng được các văn nghệ sĩ kính trọng cả về tri thức và bản lĩnh.
….. Việc ông Tô Hải nói, ông muốn lên tiếng thay cho mọi người vì lẽ này lẽ khác đã “ hèn “ , “ không dám nói” chỉ là sự ngộ nhận. Bởi thực tế, số người nghĩ như ông, có thái độ như ông chỉ là hãn hữu mà thôi. “
  Hồi ký Tô Hải tố cáo tội ác của Cộng sản Việt Nam.. Cộng sản Việt Nam cho bồi bút Trần thiên Lương viết bài thóa mạ Tô Hải như đã trích dẫn ở trên cũng là chuyện dễ hiểu. Nhưng ở hải ngoại này có hai cây viết nổi tiếng chống cộng hung hăng và điên cuồng là Hà tiến Nhất và Việt Thường cũng nhào vô đánh hôi Tô Hải là chuyện khiến nhiều người cho là nghịch lý và khó hiểu. Thật ra nếu tìm tòi và nghiên cứu cho kỹ thì chuyện hai cây viết trên đánh Tô Hải là một chuyện hợp lý chứ không phi lý chút nào cả. Hà tiến Nhất trong bài viết “ Bức chân dung tự họa “ đã có những lời miệt thị , thoá mạ Tô Hải như sau :
   “ …Kẻ siêu hèn sẽ biến thành người khôn cực kỳ. Kinh nghiệm trường đời cho thấy như thế. Thật vậy, cứ sơ sơ thế này đủ thấy, Cuốn hồi ký ông đã thai nghén từ gần hai chục năm về trước, và viết xong năm 2000 , ông Tô Hải mới cho xuất bản, mà lại xuất bản ở Hoa Kỳ và ra mắt sách tại đúng cái ổ con tu hú đẻ trứng. Quan khách tói chúc mừng toàn họ nhà tu hú cả, ngoài ra một mớ tạp nham như đã kể ở trên.
 ..Già rồi, làm  gì nhau nữa đây. Cùng lắm là chết chứ gì. 83 rồi, cái chết sợ người chứ người đâu có ngán cái chết . Hèn được như ông Tô Hải thì trên cõi đời ô trọc này khó có ai hèn hơn ông được. Bán cái hèn của ông Tô Hải đi, ăn mấy đời còn chưa hết.
…..Mới trình làng mà đã thấy ông ló đầu ở cái tổ con tu hú đẻ trứng thì người ta đã có thể đoán biết ông thuộc trường phái nào rồi. Rồi đây bọn ma cô chống cộng cuội ngoài này sẽ phong thánh cho ông và chúng sẽ đặt chân dung của ông lên bàn thờ mà vái lạy. Ông có hai bức chân dung, một cái hồi còn trai trẻ xưa kia, và một do ông sau này tự họa lúc về già. Không biết chúng nó sẽ đặt cái nào lên bàn thờ ông để nhang khói. Ðặt bức tự họa của ông lên bàn thờ e rằng người đời sẽ trông gà hóa cuốc mất: hình thằng hèn đâu không thấy mà chỉ thấy tấm hình thằng cuội.
  Hà tiến Nhất xuất hiện vài năm nay trên các diễn đàn với một giọng điệu chống cộng hung hăng, cực đoan. Dù là một tín đồ Thiên chúa giáo, Hà tiến Nhất móc lò mỉa mai chuyện làm của Tổng giám mục Ngô quang Kiệt khi cha Kiệt điều động giáo dân xuống đường tranh đấu đòi lại đất cho giáo hội ở Hà Nội. Hà tiến Nhất chê cha Kiệt là đã không mạnh bạo hơn trong việc xua giáo dân đối đầu với công an. Ý Hà tiến Nhất muốn có sự đụng độ máu đổ thịt rơi thì cuộc đấu tranh mới có kết quả. Thật ra đó là những suy nghĩ cực đoan đần độn có hại hơn là có lợi trong cuộc đấu tranh mà Hà tiến Nhất luôn theo đuổi.
  Giờ đây Hà tiến Nhất nhảy vào đánh hôi Hồi ký Tô Hải sau khi văn nô Việt Cộng thóa mạ cho thấy chân tướng chống cộng dỏm của Hà tiến Nhất. Nếu Hồi ký Tô Hải không làm hại cho chế độ Cộng sản thì Cộng sản đánh phá làm gì ? Hà tiến Nhất phụ họa với Cộng sản trong chuyện đánh và bội nhọ Tô Hải cho thấy cái chân tướng ngụy quân tử của Hà tiến Nhất mà những người chống cộng chân chính ở hải ngoại nên đề phòng.
   Một cây viết thứ hai cũng thuộc loại hung hãn chống cộng là Việt Thường ( Trần Hùng Văn) cũng nhảy vào đánh Tô Hải một cách kịch liệt không kém Hà tiến Nhất. Cách đây vài năm Việt Thường làm quen với độc giả hải ngoại bằng những cuốn sách tố cáo Hồ chí Minh và Ðảng Cộng sản kịch liệt. Ai nấy đều tưởng rằng Việt Thường là một tay chống Cộng thứ thiệt. Nhưng dần dà khi Việt Thường bắt đầu có những bài viết bôi nhọ Tập thể chiến sĩ VNCH của Giáo sư Nguyễn xuân Vinh thì những trang báo điện tử của người quốc gia không còn đăng bài của Việt Thường nữa. Việt Thường chỉ còn múa gậy vườn hoang trong trang web của ông ta cùng một số đàn em điếu đóm như Trần Thanh và Nam Nhân.  Bây giờ qua hành động bôi nhọ cuốn hồi ký chống Cộng Tô Hải càng làm cho chân tướng tay sai Cộng sản của Việt Thường hiện rõ nhiều hơn
    Hãy đọc một vài đoạn trong bài viết “ Tô Hải: thằng hèn hay tên lưu manh” của Việt Thường để thấy lòng dạ đen tối của y:
   “ Cả cuộc đời ừ 18 tuổi đã từ bỏ cha mẹ để hân hoan nhập băng đảng việt-gian-cộng-sản cho đến nay vào cái tuổi 82, đang có quỉ sứ cầm còng chuẩn bị lôi đi hỏa ngục vì tội việt-gian, nay bỗng vừa tự sỉ và vừa lồng vào những hỏa mù, như phét lác về bàn thân cũng như thoa son cho đồng bọn là cuội các loại như Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Hà sĩ Phu, Hoàng minh Chính,Lê hồng Hà…..Và cái bản tự sỉ đó làm sao bằng những bàn tự kiểm của hăén sau mỗi lần chỉnh huấn, nhất là vụ đập mả bố đẻ chỉ vì cái đó do một “ tướng ngụy “ là con rễ chân thành xây nên. Ấy vậy mà cả lũ đui óc, đui mắt tụ họp nhau để nâng bi và thổi ống đu đủ tập thể.
 …..Tô Hải mới chỉ nhận là thằng hèn. Nhưng sự thực Tô Hải vừa là thằng hèn, vừa là thằng bất hiếu, bất nghĩa và là một thằng đại lưu manh.
Vào cái giờ thứ 25 của cuộc đời hắn, hắn vẫn sử dụng được lũ con buôn chính trị và văn hóa ở hải ngoại, tự nguyện liếm đít cho hắn đỡ nhơ nhớp trước khi đi hỏa ngục về những tội ác việt-gian của hắn. “
  Ðọc để thấy lời lẽ hạ cấp , cay độc của Việt Thường dành cho Tô Hải . Việt Thường đánh Tô Hải vì Tô Hải chửi Ðảng chứ không còn lý do nào khác. Bộ mặt tay sai Cộng sản của Việt Thường đã lộ quá rõ ràng.
  Hãy đọc thêm vài dòng hỗn láo, độc địa mà Việt Thường dùng để rủa Hòa thượng Quảng Ðộ:
  “ Quảng Ðộ là một lá bài rất quan trọng của việt-gian-cộng-sản trong âm mưu đoàn ngũ hóa Phật tử, cả ở trong nước lẫn hải ngoại, đối với những Phật tử không chấp nhận tổ chức “ Phật giáo quốc doanh” . Cái gọi là CHPGVNTN trong tay Quảng Ðộ là phải làm mẻ lưới chót để thu gom những Phật tử đó vào tổ chức để lèo lái họ đi vào lộ trình thôn tính Cộng đồng người Việt tỵ nạn việt-gian-cộng –sản và cũng là cửa ngõ đàầu tiên khai mở cái trò giao lưu trong và ngoài VN, qua văn phòng của Võ văn Ái ở Paris (Pháp).
 ..Tóm lại, tập đoàn lãnh đạo GHPGViệt Nam, trong đó có Quảng Ðộ, thực chất là mặc áo cà-sa để làm chính trị, và sự hoạt động chính trị đó nhằm phục vụ cho tập đoàn việt-gian-cộng-sảøn mà thôi !
( Trích từ bài viết “ Vì tổ quốc Việt Nam hay vì ông Quảng Ðộ?”của Việt Thường )
Một Hòa thượng Quảng Ðộ đấu tranh cho tự do dân chủ sáng ngời trong mấy mươi năm qua vẫn bị tên vô lại Việt Thường này bôi nhọ bằng những danh từ bẩn thỉu mất dạy nhất. Chân tướng tay sai Cộng sản của Việt Thường đã quá rõ ràng không cần phải bàn luận gì nữa.
  Việt Thường sau này tìm được một đồng chí tri âm tri kỷ là nữ chúa nặc nô Hoàng dược Thảo và bài mới nhất đánh phá bôi nhọ Hòa thượng Quảng Ðộ của Việt Thường được Hoàng dược Thảo cho đăng trên tờ báo lá cải Sài gòn nhỏ của y thị.
  Từ Việt Nam, nhạc sĩ Tô Hải đã có những nhận xét chính xác lột trần cái hành tung quỉ quái của Việt Thường trong bài viết “ Bộ mặt thật của Hùng Văn ( Việt Thường ) con chó dại được thả từ Hà Nội sang Luân Ðôn” như sau:
   “ Nằm im một thời gian, Hùng Văn bỗng xuất hiện dưới cái tên Việt Thường, tên một nhà báo kỳ cựu, bố của họa sĩ Việt Hải( báo Nhân Dân) . Công việc của hắn được sự giúp đỡ của đặc vụ hai mang, ba mang, bắt tay ngay vào chửi bới những người không theo tôn chỉ chống cộng của bọn hắn đề ra: không có đa đảng, đa nguyên , dân chủ, nhân quyền gì hết. Ba triệu thằng Cộng sản dù phản tỉnh, dù đối kháng..tất cả đều phải tiêu diệt không thương tiếc. Và mọi quyết định thắng lợi của công cuộc giải phóng quê hương, nay chủ yêu đựa vào .. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa !? Những người nào đấu tranh cho đa đảng, cho tự do, cho dân chủ, đấu tranh ôn hòa bất bạo động, đòi cải thiện cái chế độ độc đảng hiện nay, đòi bỏ điều 4 của hiến pháp..đều bị hắn dùng mọi thứ từ ngữ bần thỉu nhất, bị hắn ngậm cả cứt thổ tả phun vào người mà hắn cho là có hại cho công cuộc đánh phá, gây bất hòa, hoang mang trong cộng đồng NVHN mà hắn được giao..!
  …..Vì vậy, dù không muốn, và đã nhiều lần cảnh cáo hắn nhưng hắn vẫn cứ theo chỉ thị của cấp trên tiếp tục ngậm cứt phun người dưới danh nghĩa một kế “ chống cộng triệt để nhất”, dựng đứng mọi sự việc không hề có bao giờ, chửi bới bất cứ ai có hành động hay tư tưởng nào có hại cho Ðảng và nhà nước hôm nay của hắn, vô hiệu hóa những cá nhân hay tổ chức nào mà, theo chỉ thị, cần phải đánh phá..”
Cám on nhạc sĩ Tô Hải đã vô cùng sáng suột lột mặt nạ tên tay sai Cộng sản Việt Thường, vốn được che đậy dưới một vỏ bọc chống cộng điên cuồng , triệt để để che mắt thế gian, vẫn đang quậy phá nỗ lực đấu tranh của những người Việt yêu dân chủ.
   Tô Hải đã vượt qua nỗi sợ để tố cáo tội ác của Cộng sản trong hồi ký của ông. Những người yêu dân chủ , tự do coi ông như một người bạn chân tình trên con đường đấu tranh. Chỉ có thứ tay sai Cộng sản như Hà tiến Nhất, Việt Thường mới ra sức bôi bẩn thóa mạ Tô Hải.  Chúng đã lộ ra bản chất phá hoại công cuộc đấu tranh dân chủ nên cần phải thẳng tay vạch mặt và loại trừ chúng như loại trừ loài rắn độc nguy hại.
   Chưa ai quên năm 2008, nữ chúa nặc nô Hoàng dược Thảo của tờ báo Sài gòn nhỏ mở một chiến dịch để bôi bẩn một người đấu tranh có uy tín và tư cách là Ngục sĩ Nguyễn chí Thiện. Nói về báo Sài gòn nhỏ, ai cũng còn nhớ Hoàng dược Thảo cho đàn em tay sai là Tú Gàn nhục mạ và gọi Linh mục tranh đấu Nguyễn văn Lý là “ ngôn sứ dollars” ngay trên báo Sài gòn nhỏ gây công phẫn dư luận khắp mọi nơi. Bôi bẩn một người tranh đấu có uy tín như Linh mục Nguyễn văn Lý là một mục tiêu Hoàng dược Thảo đề ra chứ dứt khoát không phải là chuyện ngẫu nhiên tình cờ. Nói như vậy để thấy chân tướng u ám, không có lập trường quốc gia của tờ báo Sài gòn nhỏ do Hoàng dược Thảo sáng lập.
   Trong nhiều ngày, Hoàng dược Thảo tìm cách “ chứng minh” tập thơ Hoa Ðịa Ngục là không do nhà thơ Nguyễn chí Thiện sáng tác với những luận điệu vô căn cứ , hạ cấp, rẻ tiền nhất. Một chuyện làm đơn giản là lấy chữ viết của ông Thiện viết cho Nguyễn ngọc Bích năm 1995 khi ông Thiện vừa đến Mỹ và nhờ một văn phòng kiểm tự so sánh với nét chữ trong tập thơ để đi đến nhận định chính xác là Nguyễn chí Thiện có phải là tác giả tập thơ hay không thì Hoàng dược Thảo không làm. Bởi nếu làm thì bà ta sẽ thua nên bà chỉ còn ngồi đó mà bôi tro trát trấu vào mặt Nguyễn chí Thiện bằng những luận điệu ngu xuẩn, độc ác.
  Bà ta còn vu cáo anh ruột Nguyễn chí Thiện là Trung tá VNCH Nguyễn công Giân là đã trở về Bắc trước năm 1975 để liên lạc với Cộng sản.( Ông Giân vào sinh sống ở miền Nam trước năm 1954.). Trong cuộc họp báo vào tháng 10 năm 2008 tại quân Cam, ông Giân yêu cầu bà đưa ra bằng chứng cụ thể. Bà ú ớ không trả lời được. Ông Giân bị đi tù cải tạo trong 13 năm ( 1975-1988). Bà nói là có nhân viên kiểm tự xác nhận là chữ viết ông Thiện viết cho ông Bích năm 1995 không giống với chữ viết tập thơ. Khi được yêu cầu cho biết nhân viên kiểm tự đó tên gì, văn phòng ở đâu, bằng hành nghề số mấy thì bà lại ú ớ không trả lời được. Ðây là một người đàn bà cực kỳ gian trá và vô liêm sỉ, sẵn sàng phịa ra những vu cáo không bằng chứng để bôi bẩn người khác. Bà luôn hù dọa sẽ báo FBI để đưa Nguyễn chí Thiện vào tù vì tội giả mạo. Ðúng ra nhà nước Mỹ nên đưa bà vào tù về tội phỉ báng và chụp mũ Nguyễn chí Thiện một cách vô bằng cớ và ác ý mới đúng.
  Hoàng dược Thảo phải  bôi bẩn Nguyễn chí Thiện bằng mọi giá vì Nguyễn chí Thiện là một gương mặt chống cộng có uy tín . Ðơn giản thế thôi.!. Hai tên điếu đóm vô liêm sỉ Hà tiến Nhất và Việt Thường cũng nhào vô đánh hôi Nguyễn chí Thiện. Chúng nó đều có chung tần số thóa mạ và bôi bẩn bất cứ người chống cộng nào có tư cách và uy tín như Nguyễn chí Thiện. Có cái hèn của bọn này là luôn tự cho mình là người chống cộng triệt để để che giấu bản chất tay sai Cộng sản của chúng. Chúng tưởng với trò đeo mặt nạ đó chúng có thể qua mặt mọi người. Nhưng rồi qua thời gian, bộ mặt việt gian của chúng cũng lộ ra một cách thô bỉ. Chúng bị đồng bào chống cộng nguyền rủa và đào thải thẳng tay.
   Nói chung bọn Hà tiến Nhất , Việt Thường, Hoàng dược Thảo đều là bọn vờ vịt chống cộng hũng hãn điên cuồng giả tạo, để rồi sau đó chúng bôi bẩn nhằm làm mất uy tín những người chống cộng thật sự như Nguyễn chí Thiện, Tô Hải. Cần phải vạch mặt và cô lập chúng để công cuộc phá hoại của chúng bị vô hiệu hóa từ trong trứng nước.
   Thời gian là cách hay nhất để đãi lọc đá vàng. Những người vượt qua nỗi sợ để viết thơ, văn tố cáo tội ác Cộng sản khi họ còn ở trong nước như Nguyễn chí Thiện, Nguyễn mạnh Tường, Tô Hải rất đáng được đồng bào trong và ngoài nước kính mến và ngưỡng mộ. Hòa thượng Quảng Ðộ cũng thể hiện tinh thần không biết sợ (vô úy) của nhà Phật khi thay mặt Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất ra thư ngỏ lên án chuyện Việt Cộng bán nước cho Trung Cộng và đem Tàu đỏ vào khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên. Mong rằng những tôn giáo khác ở Việt Nam cũng nên theo gương sáng của thầy Quảng Ðộ để ra thư ngỏ lên án chuyện Việt Cộng bán nước.
 Những người gan dạ vượt qua nỗi sợ này là những người anh hùng bất khuất, sẵn sàng đối diện đương đầu với bạo quyền Cộng sản một cách không nhân nhượng. Chế độ Cộng sản Việt Nam còn tồn tại vì nhà cầm quyền dùng nỗi sợ tù đày, trù dập để trấn áp bất cứ ai chống đối chúng, cho dù là bằng văn thơ hay hành động. Những người vượt qua nỗi sợ là những người tiên phong để phá vỡ tâm thức sợ hãi do bạo quyền gây ra. Khi đại đa số quần chúng nhân dân không còn biết sợ là lúc chế độ độc tài toàn trị phải lung lay và đi đến sụp đổ một ngày không xa. Những người vượt qua nỗi sợ này mãi mãi là tấm gương sáng cho mọi người soi chung. Họ chính là những hào kiệt thời đại của đất nước và sẽ dẫn đầu giúp nhân dân không còn biết sợ để đứng lên phá vỡ vòng tù ngục do Cộng sản áp đặt lên trong gần một thế kỷ nay. Họ chính là đầu toa xe lửa dẫn đoàn tàu đi tới bến bờ tự do, dân chủ.
   Xin kết thúc bài viết bằng bài thơ “ Ðừng sợ “ của Ngục sĩ Nguyễn chí Thiện để thúc dục toàn dân thêm can đảm đứng lên đối phó với bạo quyền Việt Cộng, hiện đang bán nước cho Trung Cộng bất chấp sự chống đối của đại đa số quần chúng dân tộc.
            “
                            ÐỪNG SỢ
 Ðừng sợ cái cực kỳ man rợ
 Dù nó đương thịnh thời rông rỡ nơi nơi
 Phải vững tin vaà bước tiến con người
Vì khi nó bị dìm ngang súc vật
Cũng là lúc nó tìm ra sức bật
Ðau thương kỳ diệu đi lên !
Từ muôn ngàn tàn lụi không tên
Sẽ bùng nở một trời hoa lạ quý
Từ đêm cùng chập chùng chuyên chế
Văn minh nghệ thuật chồi sinh
Chỉ xót cho lớp trẻ hiện hình
Của đói khổ, tù đầy, nhem nhuốc
Phải cứu chúng, phải tìm ra phương thuốc
Dù là thuốc nổ !
           ( 1975)
Ông già gân Tô Hải 83 tuổi không biết sợ khi đang ở trong nước mà cho xuất bản sách hồi ký ở hải ngoại tố cáo tội ác Cộng sản .Người thanh niên 26 tuổi Nguyễn tiến Trung cũng vượt qua nỗi sợ khi thành lập tổ chức “ Tập hợp thanh niên dân chủ “ trực tiếp đấu tranh với bạo quyền ngay chính trên quê hương và mới vừa bị bắt. Già và trẻ đều vượt qua nỗi sợ để đương đầu với bạo quyền.  Có điều đáng mừng là ngày càng có nhiều người vượt qua nỗi sợ để dấn thân đấu tranh cho độc độc dân chủ của đất nước.
   Ngày toàn thắng không còn là một giấc mơ mà là một hiện thực sẽ đến rất gần khi già trẻ nắm  tay nhau chung lòng chung sức dấn thân đấu tranh cho tương lai của đất nước.
 Xin kính cẩn nghiêng mình trước những người can đảm, bất khuất dám vượt qua nỗi sợ
    Los Angeles, một chiều có nắng vàng ấm áp giữa tháng 7 năm 2009

             TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG

      Email: dalatogo@yahoo.com Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó
( Muốn đọc những bài khác của Trần viết Ðại Hưng , xin vào www.nsvietnam.com rồi bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng nằm bên trái. Hay vào www.hungviet.org, rồi bấm vào hàng chữ Nhân vật- tác giả nằm bên trái rồi bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng).

Back to top
« Last Edit: 21. Jul 2009 , 05:05 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #188 - 23. Jul 2009 , 06:09
 
Nguyễn Tiến Trung và bài thơ tự bạch


Trần Khải Thanh Thủy

http://f1108.mail.yahoo.com/ya/downloadmid=1%5f653962%5fAOsNw0MAACA2SmhPRApb61VA...

Chiều 7-7 -2009, tôi  bàng hoàng nghe tin Trung bị bắt, cũng bàng hoàng như mỗi lần nghe cha Lý, Lê thị Công Nhân, Lê thị Kim Thu hay bất kỳ ai trong  ngôi nhà dân chủ Việt Nam lần lượt  rơi vào tay đảng quỷ.

Trước đó không lâu, tôi nghe tin Trung về nước, điều này quả là một sự lạ. Đa phần cánh du học sinh, được sang Tư Bản "giãy chết" là..."chết dí "luôn  vì nhận thức được sự ưu việt gấp triệu lần hệ thống xã hội chủ nghĩa (  trong  khi đảng tuyên truyền ngược lại)... Là người học giỏi, tài cao, biết cả tiếng Anh và Pháp, lại ý thức được sự hơn hẳn của hai nhà nước, hai chế độ, vốn như hai đầu  của sự vơi, đầy, nóng, lạnh, như đêm tối và ánh sáng, tự do với độc tài, lạc hậu và tiến bộ, nghèo đói và văn minh v.v  Sao Trung không ở lại miền đất hứa như bao nhiêu du sinh khác, lại chọn lối về đầy bùn lầy, gai góc? khiến tôi  không hiểu  nổi

http://f1108.mail.yahoo.com/ya/downloadmid=1%5f653962%5fAOsNw0MAACA2SmhPRApb61VA...

Nguyễn Tiến Trung khi bị công an đọc lệnh bắt. (nguồn CAND VN)    


Rồi tôi nghe tin Trung bị gọi nghĩa vụ quân sự...Quả là trò hề của nhà nước mù loà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cố tình nhốt tư tưởng tự do dân chủ của Trung trong bóng tối độc tài, đặc biệt trong vòng vây bảo thủ của 10 lời thề trong quân đội, mà lời thề đầu tiên là  "trung với đảng, hiếu với dân", bắt Trung  dẫu không phải đi tù cũng  là một thứ tù giam lỏng, cả về tư tưởng cũng như thể xác. Xưa nay kỷ luật quân đội đã là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với lớp trẻ. Với người mang nặng Tư tưởng " đa  nguyên, đa đảng" như Trung, càng khắc nghiệt hơn, từ việc ăn đúng  kẻng, làm đúng  giờ, ngủ đúng quy định, đi bộ cả chục km trong điều kiện nóng như thiêu hoặc rét run lập cập... một thư sinh như Trung khó có thể vượt qua...Thật không ngờ, giữa đất cằn đá sỏi chông ai, ý chí tư tưởng của Trung vẫn bay lên, ngời sáng, làm đảng tối mặt, phải ra lệnh đuổi Trung ra khỏi quân đội để có cớ bắt  Trung chưa đầy 24 tiếng  đồng hồ sau đó

Từ chỗ băn khoăn, khâm phục đến chỗ đau xót xen lẫn tự hào, tôi  vào google lần tìm mọi dấu vết của Trung để lại, từ ảnh chụp, bài viết, giấy khen  v.v không ngờ tìm được  bài tự bạch của Trung và sững người khi đọc  nó


Ta sẽ về chốn cũ
Nơi lang sói (*1) rập rình
Giữa muôn ngàn thử thách
Lòng ta vẫn kiên trinh.

Quê hương còn đau nặng (*)
Đâu lẽ ta đứng nhìn ?
Gian nan đời nước nhỏ (*2)
Đâu lẽ ta lặng im ?

Chân dẫm muôn ngàn nẻo
Qua cả vạn dặm đường
Tự do nơi đất khách
Dân chủ – mộng đêm trường.

Đi tìm người đồng chí
Phối hợp cả trong ngoài
Vận động nơi quốc tế
Hướng về một ngày mai.

Đường đi còn gian khổ
Nhưng chân cứng đá mềm
Trong hoàng hôn đã thấy
Một mặt trời mọc lên…


Lập tức tôi  nhìn ra Trung dưới góc độ mới lạ, rực rỡ và trân trọng xiết bao. Như bao nhiêu bậc anh hùng ở thời đại trước, Trung không tìm nơi sung sướng cho mình mà tự nguyện trở về để dấn thân vào cuộc tranh đấu một mất một còn  cho một nền dân chủ non trẻ của nước nhà, dẫu biết rằng đường đi còn đầy gai góc, có  thể còn cả còng số 8 của độc tài nhưng vì lý tưởng của tuổi trẻ, vì tương lai dân tộc, vì lợi ích của 87 triệu người dân mà Trung sẵn sàng từ nơi sung sướng về nơi ngục tù, dẫu cho thân này có bị độc tài  kìm kẹp,  Dẫu bao kẻ tiểu nhân kiếm cớ  hành hạ, cưỡng ép người quân tử đi chăng nữa, cũng không bẻ gẫy được ý chí làm người của Trung


Ta sẽ về chốn cũ
Nơi lang sói (*1) rập rình
Giữa muôn ngàn thử thách
Lòng ta vẫn kiên trinh.


Cả bài thơ là  một sự  toả sáng chí khí làm người của Trung, như những tư tưởng lớn mà tôi đã bắt gặp ở các vị tiền bối:


Quê hương còn đau nặng (*)
Đâu lẽ ta đứng nhìn ?
Gian nan đời nước nhỏ (*2)
Đâu lẽ ta lặng im ?


...Giữa đất khách quê người nơi xứ sở tự do, trong giấc ngủ chập chờn tỉnh thức,  trái tim Trung vẫn hướng về đất mẹ, luôn khao khát dân chủ tự do sớm đến với mảnh đất quê nhà, nơi Trung sinh ra và lớn lên đặc biệt là quê nội của Trung - Thái Bình, nơi đang còn rên xiết vì trăm thứ thuế, vì vạn nỗi đau của  thời hậu chiến:


Chân dẫm muôn ngàn nẻo
Qua cả vạn dặm đường
Tự do nơi đất khách
Dân chủ – mộng đêm trường.


Con đường Trung đi là con đường cách mạng, cũng là con đường khai sơn phá thạch của các bậc tiền nhân thuở trước...Dù vất vả bao nhiêu , dù  phải  bảo vệ lẽ phải trong đơn độc, như cánh đại bàng bay ngược chiều gió,  gặp bão quẩn gió quanh, mây đen của độc tài trút xuống,  đài bàng vẫn lao đi, vẫy cánh ngang  trời, không chút phân vân,  không chịu dừng lại :


Đi tìm người đồng chí
Phối hợp cả trong ngoài
Vận động nơi quốc tế
Hướng về một ngày mai.


Đường gai góc sẽ  nở đầy hoa thắm. Hiểu rõ con đường mình đi, hiện tại tuy đang quanh co trong bóng tối độc tài, nhưng sẽ đến lúc mặt trời dân chủ bừng sáng soi trước mặt, xuống đầu  87 triệu người dân Việt Nam, nên Trung mạnh dạn dấn thân nhập cuộc


Đường đi còn gian khổ
Nhưng chân cứng đá mềm
Trong hoàng hôn đã thấy
Một mặt trời mọc lên…


Bài thơ chính là nỗi lòng bộc bạch trinh nguyên trong sáng của Trung. Một thanh niên đất Việt 26 tuổi.


Chắc chắn trong tù ngục cộng sản, Trung không lẻ loi, đơn độc. Đã có hàng triệu người đứng bên Trung, tạo thành "tập hợp dân chủ đa nguyên" để bảo vệ Trung trước bạo lực, cường quyền, cũng là bảo vệ lẽ phải, sự sống cho "mặt trời  kiên trinh " của dân tộc Việt Nam bừng sáng

Khâm Thiên - những ngày chờ bão nổi
Trần Khải Thanh Thuỷ
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #189 - 07. Aug 2009 , 12:46
 
CHẾT BÀ MÀY RỒI CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ƠI!


Tô Hài



Kể từ ngày "đổi mới",tớ chẳng còn phải dính líu tới bất cứ cơ quan đòan thể nào để được độc lập suy nghĩ, được chiêm nghiệm mọi sự đời đang diễn ra xung quanh mình. Và càng tâm đắc một câu nói của Raymond Aron: "Chủ nghĩa cộng sản là con đường dài quanh co khúc khuỷu, ngập tràn máu xương và xác chết để đi từ chủ nghĩa tư bản tới chủ nghĩa... tư bản!!!" (Tớ thuộc lòng câu này bằng tiếng Pháp chẳng khác nào thuộc ngụ ngôn của La Fontaine), mà càng thấy thấm thía, đắng cay cho những "vinh quang vô ích" của triệu triệu con người trên trái đất này....

Đúng vậy! Kể từ khi "đổi mới", những cái gì trước kia xảy ra dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mà tớ cùng bao nhiêu đồng nghiệp đã từng nhắm mắt ngợi ca thì nay đều biến mất sạch. Giai cấp công nhân đích thực nay cũng phát triển tới mức chưa từng có, tỉ lệ thuận với các ông chủ, bà chủ tư bản (đa số là người nước ngoài). Các công đòan ngày xưa bị gọi là "công đòan vàng" nay còn "kim cương" hơn cả vàng. Họ lo bảo vệ quyền lợi cho các ông chủ. Thậm chí họ ra cả những điều luật cấm đình công dù cho các ông chủ tạt tai, đá đít công nhân... Ở nông thôn thì các ông bà chủ to, nhỏ chiếm lĩnh cả trăm ngàn ha đất dưới danh nghĩa ...giám đốc nông trường, đưa nông dân trở lại con đường bán sức lao động cho các ông chủ bà chủ đi xe đời mới, vi vút trên trời từ Đông sang Tây. Thậm chí có vị còn được tuyên dương "anh hùng thời đổi mới" về khả năng làm giàu cho đất nước (trường hợp giám đốc nông trường Sông Hậu).

Có những ông chủ nắm trong tay quá nhiều tiền chẳng biết làm gì đã có sáng kiến đầu tư cả ra nước ngoài. Mở trường dạy đá bóng, đầu tư mua những cầu thủ nước ngòai đáng giá bằng cả một doanh thu của một tỉnh về nông nghiệp. Cũng có vị cho ô tô kiểu Phantom Extended Wheelbase loại sang nhất thế giới vài ba lần, cưỡi máy bay về tận nhà để các vị giải tỏa stress vì chưa nghĩ ra cách làm gì với cái số tiền cứ ...nhẹ nhàng, nhanh chóng, sinh sôi, nảy nở lên tới hàng trăm triệu USD như vậy. Tự mua cho mình một chiếc máy bay riêng, thuê phi công riêng, tưởng chỉ có ở những chủ nghĩa tư bản "thối nát" thì ở Việt Nam cũng đã có 2, 3 năm nay. Còn nhiều thứ nữa mà những nguồn tin của các "lực lượng thù địch" lấy ra từ các tài khỏan "vô danh và hữu danh" ở Singapore, Thụy sỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Nhật và gần đây là cả những tài khỏan ở ngân hàng các nước cựu cộng sản như Nga, Tiệp, Đức thì tớ cũng có đọc qua nhưng chưa thể tin được vì bí mật nghề nghiệp của các ngân hàng này là lời thề sinh tử. Họ đâu có để cho các nhà điều tra dễ biết đến thế, tớ chỉ dựa vào tất cả cái gì có thật, người thật, việc thật, báo đảng, báo đòan có đăng mà tớ luôn khẳng định: là chủ nghĩa cộng sản thứ thiệt đã bị tiêu diệt tại đất nước tớ và chủ nghĩa tư bản đã phục hồi một cách huy hoàng, không gì ngăn cản nổi ở trên mảnh đất chữ S này



NHỚ KHI XƯA....


Tớ đã từng đi làm cách mạng vô sản nông thôn, đánh xập giai cấp đại địa chủ cường hào gian ác. Dưới sự chỉ đạo của các đòan ủy, đội ủy và các cố vấn Trung Quốc, cướp sạch của người giàu để chia cho người nghèo, đem kẻ thù giai cấp ra tòa án nhân dân xử bắn tại chỗ mà thấy mấy ông chủ trang trại, trồng cây ăn quả, thả cá nuôi tôm mỗi năm kiếm được mấy trăm triệu mà tivi không ngừng đưa lên để biểu dương khuyến khích mà thương cho ông phó Ngưỡng và bà Nguyễn Thị Năm..., ông bố vợ tớ và 100,1.000, vạn "kẻ thù giai cấp" khác..


-Nhớ  ông thông gia (Tân Đức Việt, 19 Hàng Trống) với tớ, chỉ có một cửa tiệm may chiều ngang chưa đầy 10m nhưng có 6 cái máy may và 6 công nhân học việc đã bị tịch thu cả nhà cửa, lẫn 6 cái máy may mãi tận bây giờ vẫn chưa  được trả lại


- Nhớ lại các ông "Núi Điện", ông "Chẩn Dép Lốp", ông Tô Ninh, những nhà buôn bán nhỏ tới những nhà có xưởng máy lớn như "Cự Doanh", "Đồng Tháp" mà thương cho họ vì sao họ không đầu thai đúng thế kỷ như vậy! Con cái họ ngày hôm nay nhìn vào các ông tổng giám đốc, các công ty may có phút nào nhỏ lệ thương cho ông cha mình xưa đã một thời thành "kẻ thù giai cấp" của nhà nước XHCN?


- Nhớ cái thời xưa... một nét vẽ, một nốt nhạc, một ngôn từ thiếu chọn lọc của bọn tớ nếu chẳng may bị bọn cơ hội chủ nghĩa trong văn nghệ. Chúng "tán" ra là: "Biểu tượng hai mặt, là xỏ lá, là xét lại, là phản động thì các tác giả của nó nhẹ nhất cũng là treo bút và nặng nhất thì cải tạo mút mùa. Những gương mặt đau khổ một thời nay đã không còn mấy, nhưng các anh em còn sống như tớ hôm nay nghĩ gì khi thấy nhà nước và các vị nắm đầu ra văn nghệ vô tư cho phép tung hoành trên sân khấu ca nhạc trên màn ảnh đủ thứ bậy bạ, đủ thứ "triết lí sống và yêu", đủ thứ trường phái tạo hình, âm nhạc, mà chẳng cần phải một giờ theo học bất cứ thầy nào, trường nào,.. Không còn lấy một tác phẩm "Phục vụ công nông binh", Chẳng tìm ra đâu một tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa! Tất cả cấi gì bọn tư bản đáng ghét nhả ra, thì... ăn vội vào và nhai lại một cách rất chi là... tự hào!?


- Các hội văn học nghệ thuật ăn lương nhà nước, các chủ tịch, tổng thư kí nghĩ gì,? liệu có còn trách nhiệm gì? khi một nền văn hóa nghệ thuật trở thành cái... chợ trời? những đầu tư sáng tác, những giải thưởng hàng năm, đầu tư tiền tỷ ở đâu? ai dàn dựng? biểu diễn ở đâu? Trên cái gọi là báo hình "tê vê" chỉ có các cuộc thi "âm nhạc" của những "nhạc sỹ", "siêu sao" mà chẳng cần phải  bước qua  cái cửa Hội của các ông?, những bộ phim tinh vi dài tập chẳng cần đến diễn viên do các ông đào tạo. Thi thoảng cũng có một vài bài báo nêu lên những cái xấu, những tấm gương bẩn thỉu tự quảng cáo để trở thành sao, siêu sao nhưng đều kí tên lạ hoắc, lý luận thì sắc như... dao cùn và chỉ vô tình (Hay hữu ý?) hướng đẫn cho quần chúng tìm nghe, tìm đọc, tìm xem thôi!. Chẳng còn ai muốn tham gia vào cuộc chiến "ai thắng ai" trong lĩnh vực mà các ông có nhiệm vụ hướng dẫn, lãnh đạo như trước nữa. Nói tóm lại là các tổ chức gọi là chính trị - nghề nghiệp của các ông, đến giờ này chẳng còn lý do gì để tồn tại nữa rồi. Chỉ cần có một cái việc rút cái núm vú bao cấp của Đảng ra là ....xóa sổ tắp lự!! Giờ ấy tớ thật sự chưa hiểu vì lẽ gì các nhà "Đổi Mới" thời nay vẫn chưa đánh hồi chuông báo tử?


Tóm lại, tất cả các mặt chính trị, văn hóa, xã hội của thời huy hoàng xưa, nay đã được cố tình bỏ quên để thay thế bằng một thực tiễn xã hội tư bản chính hiệu, tư bản hơn cả tư bản, trong đó mọi cái xấu đều được phát huy mà không một lực lượng nào, một cá nhân nào có thể kìm hãm nổi...


"Chủ nghĩa tư bản rừng rú" đang thừa thắng xông lên, những nhà giàu thì cứ giàu lên, người nghèo thì cứ việc tự đi tìm cách sống: Tử tế cũng chết mà lương thiện cũng chết. Cái hiện tượng tư bản chủ nghĩa theo như Mác nói "sẽ đi đến chỗ tự diệt vong khi chúng trở thành chủ nghĩa đế quốc, thực dân, gây chiến tranh để tìm thuộc địa, nô lệ hóa con người, để bắt làm thân trâu ngựa cho chúng lấy tài nguyên và nhân lực các nước phụ thuộc, để bù đắp cho những thiếu thốn mà trong cơn cạnh tranh ác liệt, giữa tư bản với tư bản là một trong những bốn mâu thuẫn, do chúng tự đào huyệt để chôn chúng là quy luật tất yếu .... vv và vv! Ôi! mới nhắc đến mấy bài kinh chính trị - kinh thế học mà tớ đã phải nhắm mắt ê a... suốt mấy chục năm trời đã muốn khóc cho thân phận của tớ và bao bạn bè đã chết không được thấy cái gì đã xảy ra trên đất nước này ngày hôm nay...


Những bài học ABC về chủ nghĩa Mác về sự sụp đổ tất nhiên của chủ nghĩa tư bản tớ đã bị học đi, học lại cách đây 60 năm, chữ được, chữ mất (vì tớ đếch tin) cho đến những năm 2000 này, tớ càng thấy lời của Aron nói là tuyệt... đúng!



VẬY MÀ HÔM NAY, CÁI GÌ ĐANG XẢY RA DZẬY???


Có thể nói rằng: Từ khi "đổi mới" (nhất là từ khi gia nhập WTO), từ khi các lãnh tụ đương thời tuyên bố: "Muốn làm bạn với tất cả mọi người," (kể cả những người đã đập nát chủ nghĩa xã hội, những người đã ra nghị quyết 1481 lên án tội ác của chủ nghĩa cộng sản), muốn mở cửa mời tất cả các tư bản khắp thế giới tới VN  mà đầu tư với mọi hứa hẹn sẽ được ưu dãi".... Và đặc biệt vài năm gần đây, khi nhắc đến cái phương hướng "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" thì cái vế "kinh tế thị trường" luôn được đề cao một cách đặc biệt. Bất cứ một nước nào công nhận Việt Nam là một nước đã có kinh tế thị trường đều được báo chí trong nước nêu bật như một thắng lợi to lớn. Trái lại, cái vế định hướng xã hội chủ nghĩa rất ít được nhắc tới, thỉnh thoảng để làm vui lòng mấy "bố bảo thủ" thì những ngày kỉ niệm ông Mác, ông Lê người ta cũng nhắc đến bằng những lời xưng tụng rút ra từ các bài báo in cách đây cả nửa thế kỉ cho phải đạo với người xưa mà thôi!


Ấy vậy mà, sau đại hội Trung Ương vừa qua chuẩn bị cho Đại Hội Đảng Khóa 11, bỗng dưng lại ùng oàng trên một số tờ tin của đảng. "Cái quy luật không thể cưỡng nổi của chủ nghĩa xã hội?" Sau bài diễn văn bế mạc của tổng bí thư NĐM, với những lời lẽ đanh thép khẳng định con đường duy nhất đúng của Việt Nam là con đường xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội là "quy luật tất yếu của lịch sử" và ...Đảng ta, trước sau như một, sẽ đưa nhân dân ta đến thiên đường  xã hội chủ nghĩa!? Tớ chưa hết ngạc nhiên thì ngay ngày hôm sau tớ đã được các friends mọi nơi gửi các links đăng trên báo đảng, báo chính quyền, báo mặt trận khuyên tớ nên "đọc cho vui ". Tớ đành cắn răng vào mạng để đọc xem có thể vui được tí nào không?...., Té ra vẫn còn có  khối anh "Tờ Sờ", "Giờ Sờ" vô danh tiểu tốt, đủ kiểu lên tiếng biện hộ cho cái sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản gần 30 năm qua chỉ là "hiện tượng nhất thời"??? Rằng thì là chủ nghĩa cộng sản đang được "vực dậy" ngay ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ, các người cộng sản cũ đang dần dần trở lại nắm chính quyền?... Hơn thế nữa, nó đang được phát triển vững mạnh ở các nước Nam Mỹ mà đứng đầu là ông Chavez ở Venezuela?


Kì quái hơn nữa họ còn đổ tội tình hình kinh tế suy thóai thế giới hiện nay cho chủ nghĩa tư bản nên nhân dân ta đang chịu ảnh hưởng. Cứ y như là nước ta vẫn vững mạnh, chỉ số vẫn tăng, xã hội ổn định,... Kích cầu kết quả, gói nọ gói kia đều đang vào tay nhân dân, vào những người nghèo ... cứ như là ta đang không nằm trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa vậy. Đọc đến đâu, tớ lắc đầu thương hại cho các nhà ní nuận cùn, viết lách kiếm xế hộp để được ngày... càng xa thực tế. Có điều, tớ không hiểu nổi tại sao những cái thứ lí luận "quả đất hình vuông" này lại có quá ít người lên tiếng bác bỏ, vạch trần sự dối trá, ngụy biện đó ra. Gọi điện cho một ông chẳng có tiến mà chỉ có "lui" sỹ, xưa chuyên viết báo có tiếng một thời, lâu nay nằm im tại Sài gòn để "kích cầu" ông cầm lại bút, ông trả lời: "ý kiến gì trái với đường lối của đảng hiện nay mà được chấp nhận cho đăng báo chứ!.? Mà xét cho cùng tranh luận với những bọn tiến sỹ tốt nghiệp trường đảng thì coi như đấm vào những cái đầu đã hóa đá... Thôi! Cho tớ Gút bai póur toujours toutes sortes de canards annamites!" Trả lời bằng một câu nửa Tây, nửa ta một cách chán đời như thế ...kèm một tiếng thở dài não nuột, rồi  ông ta đặt máy đánh cộp!" À ra thế!


Tớ chẳng phải là nhà lí luận, cũng chẳng còn sức đâu mà tranh luận về quả đất tròn hay vuông, thôi thì đành nhắn mấy lời cho mấy ông tư bản nước ngoài thứ thiệt như sau: "Các ông nghe rồi đó,! Xã hội chủ nghĩa sắp trở lại rồi đó! Liệu tính tóan ra sao mà sớm rút lui theo cái số 23% đã "mang của chạy theo người", hoặc "bỏ của chạy lấy người" bằng bất cứ giá nào đi thì vừa !


- Đối với các vị tư bản sắp muốn đầu tư vào Việt Nam: hãy tìm đọc bài diễn văn khẳng định nước Việt Nam sẽ tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa của tổng bí thư NĐM để mà tìm cách đối phó


- Đối với các vị không tin là ông NĐM nói thật thì xin... cứ việc! Nhưng phải đề phòng cái sự nổi dậy của công nhân Việt Nam đã đến mức cùng cực của sự đói nghèo rồi, thì chẳng cần ai lãnh đạo, họ sẽ gây khó khăn không nhỏ cho các ông đâu! Khôn ngoan nhất là  nên học tập kinh nghiệm đầu tư vào VN của Trung Quốc: cứ mang công nhân kĩ sư của nước các ông vào làm việc là ăn chắc. Nhưng chú ý: Họ bỏ 1/2 tỷ đô-la ra chẳng phải chỉ để lấy lời lấy lãi gì ở cái Nhà Máy Nhiệt Điện Mạo Khê này đâu! Cái lãi không tính bằng tiền này thì các nhà tư bản Mỹ, Anh, Đan Mạch... không có cơ hội như họ đâu!


Còn đối với các nhà tư bản trong nước thì tớ cũng có ý kiến như sau: Các vị hãy tranh thủ, cướp thời cơ từ nay đến đại hội đảng XI, chờ xem nghị quyết nói gì, có thay đổi gì  rồi hãy tiến hành phát triển tư bản của các vị. Bằng không, kiên quyết tiến lên xã hội chủ nghĩa tức là tất cả cái gì có được của quí vị sẽ phải ...diệt, là phải đập bỏ, là tịch thu, là đi cải tạo. Nhà máy, building, villa, nhà lầu, ô tô, máy bay, các đội bóng đá, bóng chuyền.. của các vị sẽ bị tịch thu là cái chắc. Còn các vị cũng chẳng có hi vọng gì sống ở trên đời mà hưởng thụ thành quả lao động của các vị nữa đâu..


Nếu chuyển tiền được ra nước ngòai cho con cháu hoặc đứng những trương mục bí mật thì nên làm ngay. Gửi tiền vào những nhà băng của nhà nước coi như gửi trứng cho ác


Dùng tiền của mình vào nhiều công việc có ích cho tòan dân như giúp đỡ các quỹ hỗ trợ tài năng bằng cách dùng uy tín của mình mà đến thẳng nơi cần giúp đỡ, đừng có chuyển giao cho bất cứ cơ quan trung gian nào.


Nhân đây tôi (không tớ nữa đâu) xin gửi lời cảm ơn tới nhà tư sản địa ốc Dương Thị Bạch Diệp, (chủ nhân của chiếc xe 14 tỉ VNĐ đã giới thiệu ở trên), mà tới giờ tôi mới được biết là: Tết năm vừa rồi trong lúc đang ốm đau, túng thiếu, bà đã gửi biếu tôi 1.500.000 nghìn đồng (nhờ Hội nhạc sỹ Việt Nam chuyển dùm) Quả là từ thuở bé đến giờ tôi mới được nhờ ân huệ to lớn đến thế của một nhà tư bản thời "Đổi Mới" như vậy. (Hội nhạc sỹ cũng "xóa đói, giảm nghèo" cho tôi, tuy còn thua xa bà nhưng cũng được số tiền 500 ngàn đồng) Tôi chả biết bà Bạch Diệp ủng hộ bao nhiêu người nhưng tôi phán đóan  là chắc cũng phải đến cả ngàn vì số văn nghệ sĩ nghèo, không thể cầm bút nổi nữa như tôi không ít. Vậy xin thay mặt những ai chưa hiểu tiền ở đâu rơi xuống, xin gửi lời chân thành cảm tạ bà và chúc bà nếu còn muốn làm từ thiện đối với các nghệ sỹ nghèo thì sang năm cứ tiếp tục kẻo rồi sang năm 2011, chưa chắc bà còn cơ hội nữa đâu!.


Cuối cùng, viết xong những dòng này, đọc lại những lời "mách nước" cho các nhà tư bản, tớ cảm thấy đã làm một cái việc... đội đá vá trời. Thậm chí sẽ có nhà tư bản (nếu thư kí có đọc cho các vị những dòng này) có thể  phải bật cười và thốt lên: "Cái lão già này đúng là vừa điên, vừa khùng, vừa ngu, cho đến bây giờ mà vẫn tin là "các ông ấy"... nói thật. Hoặc là như ông Nguyễn Cao Kỳ lại nhếch mép, vểnh ria cười khểnh: "Đã 3 năm nay tôi ở Việt Nam này có gặp ông nào, gặp cái gì là cộng sản đâu mà bảo tớ bám đít cộng sản!"


Nếu những lời tuyên bố, mỉa mai chửi bới tớ mà có đúng như vậy thì tớ đành phải: "Lạy chúa! Tớ lại lo chuyện con bò trắng răng rồi! Chỉ là cái chuyện nói dzậy mà không phải dzậy thôi"



Và nếu đúng là như thế thì ông R.Aron lại muôn đời.. có lí !!!



Nhac si To Hai’s Blog:

http://langdu126.multiply.com/journal/item/107/107
Back to top
 
 
IP Logged
 
HOA_HUNG
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 17
Gender: male
Những lắt léo trong luật quốc tịch
Reply #190 - 09. Aug 2009 , 15:06
 
Những lắt léo trong luật quốc tịch
của VN với người Việt ở nước ngoài

Gs. Hà Ngọc Cư –
Viết riêng cho Người Việt




Lời tòa soạn: Theo thông báo của Bộ Tư Pháp Việt Nam, “Luật Quốc Tịch Việt Nam”

kể từ ngày 1 th áng 7 năm 2009 sẽ có hiệu lực thi hành. Theo luật này, người Việt Nam
sinh sống tại nước ngoài “chưa mất quốc tịch Việt Nam phải “đăng ký” với cơ quan đại

diện Việt Nam ở nơi định cư để giữ quốc tịch gốc. Thời hạn đăng ký sẽ kéo dài 5 năm kể

từ ngày Luật có hiệu lực.”

Vẫn theo Bộ Tư pháp Việt Nam, “việc phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là giải pháp

cụ thể để Nhà nước có thể xác định được những ai trong số hơn 3 triệu người Việt Nam 

định cư ở nước ngoài còn muốn giữ quốc tịch Việt Nam, qua đó xác định rõ tình trạng

quốc tịch của họ, tạo điều kiện để làm tốt công tC3c quản lý về quốc tịch, thực hiện

nhiệm vụ bảo hộ công dân định cư ở nước ngoài. ”

Tuy nhiên, để hiểu rõ điều luật này không phải là việc dễ dàng, vì trong đó có nhiều lắt léo,
đặc biệt là với người Việt Nam có quốc tịch Hoa Kỳ. Bài viết dưới đây của Giáo sư Hà Ngọc Cư,

hiện là Giám đốc điều hành cơ quan CISS chuyên lo về di dân và tị nạn tại Houston, Texas, sẽ cho thấy điều đó.

Người Việt


Luật Quốc Tịch mới của nước CHXHCN Việt Nam có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2009.
Có hai điều khoản quan trọng có ả nh hưởng lớn đến người Việt định cư ở nước ngoài.

- Người Việt đã có quốc tịch mới muốn giữ quốc tịch Việt Nam (VN) thì phải đăng ký trong

thời hạn 5 năm, kể từ ngày 1 tháng 7, 2009.

- Người nước ngoài khi20nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài .

Bây giờ xin bàn về những lắt léo của hai điều khoản này.

1. Nếu xin giữ quốc tịch Việt Nam thì hậu quả20đối với quốc tịch mới của mình sẽ ra sao?
Vấn đề song tịch thay đổi theo luật lệ của từng quốc gia. Một số quốc gia như Pháp,

Mexico, Ba Lan, Nga, Thụy Sĩ, Canada, Anh quốc,… cho phép công dân giữ quốc tịch của

họ khi nhập quốc tịch mới.

Một số quốc=2 0gia khác quy định rằng nếu công dân nhập quốc tịch một quốc gia khác thì

đương nhiên mất quốc tịch của họ như Áo, Úc, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Nhật Bản, Hàn

Quốc, Hòa Lan, Phi Luật Tân, Trung Hoa…


Riêng trường hợp Hoa Kỳ thì Hiến Pháp Hoa Kỳ không công nhận song tịch mà cũng không

cấm song tịch.

Trong thực tế nếu khi nhập quốc tịch nước ngoài mà luật pháp nước đó không đòi hỏi mình

phải từ bỏ quốc tịch Hoa Kỳ thì bạn vẫn còn quốc tịch Mỹ.

Vấn đề của người Việt đã có quốc t8 Bch Mỹ đối với luật quốc tịch mới của VN là làm đơn xin

giữ quốc tịch Việt Nam có “nguy hiểm” về quốc tịch Mỹ của mình hay không?

Như đã nói ở trên, nếu trong đơn xin giữ quốc tịch Việt Nam mà chính phủ Việt Nam không

đòi hỏi mình phải bỏ quốc=2 0tịch Mỹ thì không đáng ngại. Nhưng ngoài việc xin giữ quốc tịch
Việt Nam có mất quốc tịch Mỹ hay không còn có vấn đề đạo đức.

Khi tuyên thệ nhập quốc tịch Mỹ ta đã tuyên thệ xin bỏ quốc tịch cũ, bây giờ lại xin giữ quốc

tịch cũ tức là đã bội thề, phạm vào chữ “ TÍN ”.

Luật quốc tịch mới của Việt Nam có luật “cứng” và luật “mềm”.

Luật quốc tịch “ cứng ” quy định nguyên tắc một quốc tịch, tức là công dân Việt Nam có một

quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, nếu đã nhập qu c tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài.

Luật quốc tịch “mềm” lại cho phép những trường hợp ngoại lệ có thể có đồng thời quốc tịch

Việt Nam và quốc tịch nước ngoài. Những trường hợp này được Chủ tịch nhà nước Việt Nam

cho phép khi nhập quốc tịch./ font>

Nếu “ Việt Kiều ” xin giữ quốc tịch Việt Nam thì họ được hưởng luật quốc tịch “cứng” hay luật

quốc tịch “mềm” ?

Nếu theo luật “cứng” thì khi xin giữ quốc tịch Việt Nam họ có bị nhà nước Việt Nam coi là mất

quốc tịch nước ngoài không? Còn nếu theo luật quốc tịch “mềm” thì họ phải nộp đơn lên Chủ

tịch nhà nước để giữ quốc tịch nước ngoài không ?

Theo lời Bộ Trưởng Tư Pháp Hà Hùng Cường trong buổi họp báo tại Văn phòng Chủ tịch nước

ngày 4 tháng 12, 2008, thì: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài cho đến khi luật mới có

hiệu lực vào ngày 1 tháng 7, 2009 vẫn được coi là còn quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, trong

thời hạn 5 năm, Việt kiều nào có nhu cầu thì làm thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam .


Quá thời hạn đó sẽ mất quốc tịch Việt Nam song vẫn có thể xin trở lại quốc tịch Việt Nam,

thậm chí họ vẫn giữ được quốc tịch nước ngoài khi xin trở lại quốc tịch Việt Nam nếu có vợ,

chồng, cha, mẹ con đã là công dân Việt Nam .”

Không ai hiểu nổi lời giải thích của ông Bộ Trưởng Tư Pháp.

Nếu tôi có cha mẹ, vợ hoặc chồng, con đã là công dân Việt Nam thì khi xin trở lại quốc tịch

Việt Nam sẽ không mất quốc tịch nước ngoài nghĩa là được quyền song tịch (đối với Việt Nam ).


Nhưng nếu không có cha mẹ, hoặc vợ chồng, hoặc con đã là công dân Việt Nam thì khi xin

trở lại quốc tịch Việt Nam có mất quốc tịch nước ngoài không ?

Vấn đề chủ yếu mà nhiều người Việt định cư ở nước ngoài quan tâm nhất sau ngày 1 th ng 7,

2009, khi Luật quốc tịch mới có hiệu lực thì chính phủ Việt Nam có còn coi họ là công dân
Việt Nam để bắt họ phải thi hành những nghĩa vụ của công dân Việt Nam không ?


Một người muốn bỏ quốc tịch Việt Nam có cần phải làm đơn “ Xin Thôi Quốc Tịch Việt Nam ”

như trước nữa không ?


Làm thế nào để chứng minh là mình đã “được” mất quốc tịch Việt Nam . Chính quyền Việt Nam

có cấp “giấy chứng nhận” không ?

Nếu Việt Nam tôn trọng nguyên tắc về lãnh th ổ thì con cái “Việt kiều” sinh ra trên lãnh thổ

Việt Nam có đương nhiên có quốc tịch Việt Nam không ?


Đối với luật quốc tịch của Hoa Kỳ thì con của một công dân Hoa Kỳ (bố hoặc mẹ) thì dù có

sinh ra ở đâu vẫn có quốc tịch Mỹ (nguyên tắc về huyết thống). Như vậy con của người Mỹ

gốc Việt sinh tại Việt Nam là song tịch một cách “hiển nhiên” kể từ lúc ra đời.


Những đứa trẻ này vừa co khai sinh Việt Nam vừa có khai sinh Mỹ, như vậy sau này có phải

làm đơn xin giữ quốc tịch Việt Nam không ?

Nếu luật quốc tịch của Việt Nam chấp nhận nguyên tắc huyết thống thì con cháu của Việt Kiều

sinh ở nước ngoài có được coi là công dân Việt Nam hay không (vì mang huyết thống Việt Nam )?

Nếu có thì họ có quyền xin “quyền tự động có quốc tịch Việt Nam ” như trường hợp công dân Mỹ

sinh con ở nước ngoài không?

2- Người nước ngoài xin nhập quốc tịch Việt Nam

Luật quốc tịch mới của Việt Nam đòi hỏi khi xin nhập quốc t=E 1ch Việt Nam thì phải xin thôi quốc tịch

nước ngoài thì cũng không khác gì luật quốc tịch của nhiều quốc gia khác. Vấn đề là Việt Nam

chấp nhận song tịch như thế nào mà thôi.

Đối với chính phủ Việt Nam thì công dân Việt Nam chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam nhưng

đối với nhiều quốc gia khác thì mặc dầu bạn đã nhập tịch Việt Nam bạn vẫn không mất quốc tịch của

nước họ mà không cần phải “đăng ký xin giữ quốc tịch cũ”, trừ trường hợp bạn không chính thức xin từ bỏ quốc tịch của họ.

Nhà20nước Việt Nam nói công dân Việt Nam chỉ có quyền có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam . Điều

đó không có nghĩa là luật này có thể áp đặt lên quyền công dân của các nước khác. Vì quyền có quốc

tịch là chủ quyền của mỗi quốc gia.

Khi xin nhập quốc tịch Mỹ bA 1n phải tuyên thệ từ bỏ các quốc tịch cũ, có nghĩa là đối với chính phủ

Hoa Kỳ, bạn chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Hoa Kỳ.

Nhưng chính phủ các quốc gia mà bạn có quốc tịch cũ vẫn có quyền coi bạn còn là công dân của họ

vì đó là thẩm quyền của họ nên chính phủ Hoa Kỳ không thể can thiệp vào việc này được.

Vì vậy, khi một công dân Hoa Kỳ xin nhập quốc tịch Việt Nam, mặc dầu chính phủ Việt Nam đã bắt họ

từ bỏ quốc tịch cũ, nhưng chính phủ Hoa Kỳ vẫn có quyền coi người đó là công dân Hoa Kỳ.

Nếu công nhận song tịch ,  thì Việt Nam nên thẳng thắn và minh bạch.


Back to top
 

Một Mình vĩnh Biệt Cao Nguyên &&Mimosa Trả Cho Người Núi Non
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: ĐỌC BÁO
Reply #191 - 10. Aug 2009 , 18:58
 

Xin đừng mãi lợi dụng “nỗi đau da cam” của người dân




Thích Nhân Tâm


Lời nói đầu : Tôi viết những dòng này không phải để đả kích những nạn nhân dioxin đang đau khổ, với tôi họ là những người hết sức cần được cảm thông và chia sẻ. Tôi viết những dòng này để kêu lên rằng “Người lớn ơi” xin đừng lợi dụng nỗi đau của họ để phục vụ cho những mưu đồ không trong sáng của mình, làm như thế là không đạo đức mà nói đúng hơn : đó là một tội ác!!!


Mấy ngày nay, trên các phương tiện thông tin của nhà nước CHXHCNVN tràn ngập các thông tin về “nỗi đau da cam”, nào là các phim về những nạn nhân dioxin, nào là công luận thế giới, nào là quyên góp ủng hộ đồng bào, gặp gỡ trực tiếp v.v… nói chung lại là đủ các kiểu khai thác “chủ đề hot” dựa trên “nỗi đau da cam” của người dân.
...
Việc đầu tiên, năm nào tôi cũng thấy có những quyên góp tiền của để ủng hộ cho những nạn nhân, số tiền thu được theo công bố không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ, tuy nhiên sau đó, số tiền này đã được sử dụng như thế nào, vào những việc gì, bao nhiêu % thực sự đến tay những nạn nhân cần chúng ? không hề ai biết, không hề có một sự công khai nào, và năm sau cũng lặp lại y như năm trước. Trước những hiện tượng bớt xén tiền cứu trợ, tiền tại trợ tết của người nghèo xảy ra trong thời gian gần đây chúng ta có quyền đặt câu hỏi liệu rằng có trường hợp nào bớt xén tương tự xảy ra với số tiền đóng góp hay không? Có ai có thể trả lời cho tôi câu hỏi này?

Vấn đề thứ 2, số tiền huy động toàn dân đóng góp hàng năm khoảng vài chục tỷ, quả thật là một số tiền lớn nếu so với sự đóng góp của toàn dân, nhưng so với số tiền thất thoát ở các công ty, tập đoàn của nhà nước mà chúng ta được nghe chính từ các báo chí lề phải của Việt Nam công bố thì quả thật chỉ là phẩn lẻ của số tiền chẳng hạn một vài đường link sau có thể cho bạn thấy rõ các con số đó :

1400 tỷ tại vinaconex

Thất thoát trong xây dựng cơ bản trên 2000 tỷ đồng

Tham nhũng trong xây dựng cơ bản gây thất thoát lớn

Như vậy, tôi muốn hỏi thay vì huy động sức đóng góp của nhân dân, doanh nghiệp .. thì tại sao nhà nước không thu hồi lại toàn bộ số tiền thất thoát và trích 10% cho số thu đó cho hoạt động nhân đạo này có phải tốt hơn không, vì tiền đó cũng là tiền thu thuế của dân cơ mà. Phải chăng “người ta” cố tình bày ra những buổi lạc quyên này vì một lý do nào khác ngoài nhân đạo?!

...
Vấn đề thứ 3 tôi muốn nêu ra ở đây, tại sao năm nào chúng ta cũng yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ có trách nhiệm với những nạn nhân của mình, chúng ta cũng đã kiện lên tòa án Hoa Kỳ để đòi bồi thường v.v… nhưng không được đáp ứng và chúng ta nói rằng Chính phủ Hoa Kỳ không tôn trọng sự thật … Nhưng xin hỏi cái “sự thật” mà chúng ta đưa ra có đủ đảm bảo để chính phủ Hoa Kỳ tin rằng đó là “sự thật”, hay là “sự thật” như kiểu phóng viên Ben Stocking bị đánh chảy máu ở Hà Nội, “sự thật” theo kiểu một cán bộ tôn giáo trả lời phỏng vấn nước ngoài là vì dân số tăng nhiều nên phải thu hẹp diện tích sử dụng của cơ sở tôn giáo …Chúng ta chưa thắng trong “vụ kiện vì công lý” phải chăng vì chứng cứ chúng ta chưa vững? Xin hỏi thật các vị lãnh đạo rằng có vị nào dám đảm bảo rằng các nạn nhân được đưa qua Hoa Kỳ tham gia vụ kiện 100% là nạn nhân của chất dioxin, rằng các thương tật của họ, các dị dạng của họ không hề do một nguyên nhân nào khác như tác động của gạo mốc, của thuốc tăng lực trong lương khô 702 của “nước lạ”, của thuốc sốt rét uống triền miên từ năm này qua năm khác, của cuộc sống nơi rừng sâu nước độc v.v… tôi nghĩ là không có ai dám khẳng định điều đó. Mà nếu vậy, thì rõ ràng chứng cứ của chúng ta chưa vững, chúng ta phải tự trách mình trước, tại sao hàng bao nhiêu tiến sĩ, thạc sỹ của chúng ta không chung sức nghiên cứu để đưa ra được một cái bằng chứng hết sức thuyết phục thay vì cứ hàng năm đem nỗi đau của nhưng nạn nhân đó ra để kiếm chút lòng thương của bè bạn năm châu?

Vậy đó, tôi không muốn khắc vào nỗi đau của những người được coi là nạn nhân của dioxin, tôi cảm thông và chia sẻ với những đau khổ của họ. Nhưng xin đừng mang những đau khổ của họ làm bình phong cho những “toan tính chính trị” của những “người lớn”, làm như thế không phải là cảm thông mà là tội ác, là sự trục lợi tàn nhẫn trên nỗi đau của người khác.

Xin hãy noi gương của người Nhật, hàng trăm ngàn người Nhật là nạn nhân của 2 quả bom nguyên tử của quân đội Mỹ, hàng năm – vào ngày 9/8 – người Nhật vẫn tổ chức những buổi lễ tưởng niệm những nạn nhân này, nhưng họ không tưởng niệm để giáo dục lòng căm thù cho thế hệ trẻ, mà họ tưởng niệm để nhắc nhở mọi người trên thế giới đừng bao giờ để xảy ra một thảm họa tương tự như thế ở bất kỳ đâu trên trái đất này.

Ước gì thế hệ trẻ Việt Nam có thể có được suy nghĩ như một thanh niên Mỹ viết cho người yêu đã mất của mình trong biến cố 11/9 : “Vì anh không còn em để yêu, nên anh phải học yêu cả thế giới này” thay cho những suy nghĩ căm thù mà họ học được dưới nền giáo dục XHCN ưu việt.



Thích Nhân Tâm

Nguồn: DCCT
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: ĐỌC BÁO
Reply #192 - 13. Aug 2009 , 05:46
 
Vén lên màn bí mật tại Việt Nam: quặng bauxite hay quặng phóng xạ?


Tác Giả Mai Thanh Truyết
Đăng ngày hôm nay Chính trị Việt Nam


Trong hiện tại, chúng ta có thể nói một cách chính xác và không sợ phản biện là những người lính Tàu dưới dạng công nhân đang hiện diện đầy rẫy trên quê hương Việt Nam của chúng ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, giống như mọi quốc gia trên thế giới như Tây Tạng, Tân Cương, Phi Châu…những nơi có dấu chân Trung Cộng (TC) khai thác các công trình quặng mỏ hay những công ty sản xuất khác tại những nơi nầy.

Cộng sản Việt Nam cũng như Trung Cộng (TC) cũng không thể nào chối cải được nhận định trên. Tại Việt Nam, người Trung hoa dù dưới dạng công nhân hay chuyên viên, mỗi khi vào một công ty nào đó đều sinh hoạt hoàn toàn riêng rẽ, nói chuyện với nhau bằng tiếng Hán mà thôi. Họ xây dựng lều trại làm nơi ăn ở, giải trí và có cuộc sống hoàn toàn cách biệt với các cộng sự viên người Việt. Thậm chí, mỗi khi có tranh cãi, họ ăn hiếp, đánh đập công nhân Việt. Thật không có gì nhục nhã cho bằng hiện tượng nầy xảy ra ngay chính trên mãnh đất quê hương của mình mà cán bộ hay công an cố tình làm ngơ trước những nghịch cảnh trên.

Những khu biệt lập nầy có thể nói rằng do TC hoàn toàn quản lý mọi sinh hoạt, không có người “lạ” nào hay cán bộ, công an Việt Nam có thể bén mãng đến được, mặc dù những công ty họ làm việc, đa số đều do người Việt quản lý.

Cho đến hôm nay, những tệ trạng trên tiếp tục diễn ra ở khắp mọi nơi, tạo nên một luồn sóng phẩn uất trong lòng người Việt, và thiết nghĩ những người công nhân lương thiện nầy sẽ có ngày đứng lên dành lại quyền công nhân thực sự và sẽ không để công nhân TC hiếp đáp mãi mãi được.

Những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra ở những quốc gia có người Hán xâm nhập, đôi khi đi đến đổ máu như ở Tân Cương, Tây Tạng, và gần đây nhứt tại thành phố Algiers, Algeria, qua những nguyên nhân hết sức cá nhân, nhưng từ đó xảy ra những cuộc đụng độ có tích cách chủng tộc vì sự hống hách, ức hiếp của người Hán trên mãnh đất quê hương của người bản xứ.

Trờ lại Việt Nam, riêng tại hai vùng hiện đang là điểm nóng ở Việt Nam; đó là Tân Rai ở Lâm Đồng và Nhân Cơ ở Đắk Nông. Hai nơi nấy hiện đang được TC phát động kế hoạch khai thác quặng mỏ bauxite từ hơn một năm nay dưới sự đồng thuận của CS VN. Sau khi không thể bưng bít được từ hơn 6 tháng nay, cs VIỆT NAM đã phải bạch hoá công bố hai công trình trên mặc dù đã ký kết với TC từ năm 2001 giữa Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào qua quá nhiều áp lực của đông đảo từng lớp dân chúng ở quốc nội cũng như ở hải ngoại cảnh báo về hiểm hoạ từ môi trường, kinh tế, chính trị, và quân sự nếu để cho TC khai thác hai vùng nầy.

Nhưng trầm trọng hơn cả là trong việc nhường bước cho TC khai thác, cs VIỆT NAM để lộ ra tinh thần quốc tế vô sản (?) (mà bây giờ đã biến thành tinh thần quốc tế hữu sản chăng?) trong việc hợp tác với TC. Và đây cũng có thể được xem như là một tiến trình then chốt của việc tiến chiếm Việt Nam không tiếng súng của TC.

Ngay từ giờ phút nầy (8/2009), đã có sự hiện diện của trên 570 công nhân TC ở Tân Rai và trên 300 ở Nhân Cơ. Đây là những con số do chính Ủy Ban nhân dân ở hai tỉnh trên công bố. Thiết nghĩ, con số thực sự chắc phải cao hơn nhiều.

Có nhiều câu hỏi được đặt ra cho tình trạng nhân sự TC ở hai địa điểm trên là, tại sao họ có mặt hơn một năm qua mà vẫn chưa hoàn tất việc chuẩn bị mặt bằng cho cơ xưởng, giải quyết các vụ đuổi nhà, chiếm cứ các vườn trồng cây công nghiệp của dân như trà, cà phê, cao su v.v…mà chỉ lo xây dựng láng trại và nhà ở cho công nhân và chuyên viên cùng những dịch vụ sinh hoạt khác như giải trí riêng biệt và cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài bằng hàng rào được thiết lập chung quanh? Đây là một tiến độ công trình rất chậm so với số lượng nhân công hiện có và thời gian thi công. Và điều nầy đang làm ngạc nhiên cho những nhà quan sát có kinh nghiệm về hoạt động công trường.

Từ đó, câu hỏi khác được đặt ra là, họ có thực tâm đến đây để khai thác quặng mỏ bauxite hay không?

Hay là họ có những dự tính thâm độc nào khác mà việc khai thác quặng mỏ bauxite chỉ là Diện để chứng minh sự có mặt của họ, và trọng tâm chính của họ là Điểm, là khai thác một công trình bí mật nào khác?

Để trả lời và khơi mở một số nghi vấn trên, cũng như qua đề tựa của bài viết, người viết xin lần lượt tạo dựng ra nhiều giả thuyết qua các thông tin có được để từ đó chứng minh sự hiện diện và hành động của TC trên mãnh đất quê hương Việt Nam.

Việc khai thác quặng mỏ Uranium

Cao nguyên Trung phần Việt Nam là một phần của cao nguyên Bolloven. Nơi sau nầy là một vùng đất bazan, chuyển hoá từ phún xuất thạch của núi lửa hàng triệu năm qua. Do đó, hàm lượng phóng xạ của vùng đất nầy rất cao so với các vùng đất tự nhiên khác. Và xắc xuất có quặng mỏ Uranium cũng rất cao.

Để có khái niệm về việc khai thác quặng mỏ Uranium, sau đây là quy trình sơ lược dựa theo các nguyên tắc căn bản đang được sử dụng trên thế giới. Thông thường quặng Uranium có được là do sự phối hợp của hai chất đồng vị (isotope) Uranium: Uranium 235 và Uranium 238. U 238 được xem như là đồng vị nặng vì có 3 electron nhiều hơn U 235 . Chính U 235 mới đích thực là tác nhân tạo ra nguồn năng lượng cho nhân loại và thông thường có trữ lượng trong hỗn hợp quặng mỏ là 0,7% mà thôi.

Việc khai thác gồm:

- Quặng Uranium trong thiên nhiên cần phải được tách rời hai đồng vị 238 và 235;
- Sau đó Uranium 235 sẽ được tinh luyện hay làm giàu (enrich) để đạt được nồng độ Uranium cần thiết để ứng dụng trong nhiều mục tiêu khác nhau.

Việc tinh luyện Uranium gồm 3 phương pháp: ly tâm, khuếch tác vật lý, và dùng tia laser. Các quốc gia như Pakistan, Ấn Độ, Bắc Triều Tiên hay Iran vẫn còn đang áp dụng phương pháp cổ điển là ly tâm. Trong lúc đó, ở các quốc gia phát triển khác như Hoa Kỳ và Tây Âu, hai phương pháp sau được dùng đến vì có hiệu quả và năng suất cao hơn. Muốn chế tạo ra bom nguyên tử, ít nhứt, nồng độ của Uranium cần phải đạt được là 80%. Đối với các nồng độ thấp hơn, tuỳ thuộc vào những ứng dụng khác nhau trong việc dùng trong các nhà máy phát điện nguyên tử hay các hệ thống an toàn trong một số dịch vụ thật chính xác trong quy trình sản xuất mà con người không đủ khả năng để điều chỉnh bằng tay hay mắt được.

Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc      

Đây là một trung tâm nghiên cứu về nguyên tử và phóng xạ được người Pháp xây dựng từ giữa thập niên 50 ở thế kỷ trước. Hiện nay, Trung Tâm vẫn còn hoạt động. CS VIỆT NAM dùng Trung tâm nầy để sản xuất các dụng cụ, hệ thống sensor để kiểm soát hay vận hành những khu vực hiểm yếu trong các công nghệ mhư khai thác mỏ than, hay các thiết bị kiểm soát trên tàu bè, cũng như trong các lãnh vực kiểm soát các valve an toàn về áp suất hay nhiệt độ, hoặc điều chỉnh một cách chính xác việc thay đổi điều kiện trong các quy trình sản xuất. Quan trọng hơn cả là việc ứng dụng vào các valve an toàn khi có vấn đề cấp bách trong vận hành để hạn chế hay tránh tai nạn.

Hiện tại, Việt Nam đang nhập cảng nguyên liệu phóng xạ từ nước ngoài.

Câu hỏi được đặt ra nơi đây là, tại sao người Pháp cho lắp đặt Trung Tâm nầy tại Đà Lạt vào thời điểm trên, trong khi quốc lộ 20 nối liền Sài Gòn và Đà Lạt chỉ là một con lộ thô sơ, chưa được tráng nhựa đẩy đủ?

Phải có điều gì bí ẩn khiến cho họ thành lập Trung Tâm nầy?

Để trả lời hai câu hỏi trên, phải chăng là họ muốn xây dựng Trung Tâm gần nơi vùng có phóng xạ để nghiên cứu, thăm dò, và khai thác nguồn nguyên liệu phóng xạ tại chỗ?

Ngược dòng lịch sử, trong giai đoạn chiếm đóng ngắn ngủi của Nhật Bổn vào thế chiến thứ hai, họ cũng đã gởi nhiều phái đoàn địa chất để thăm dò vùng nầy. Và trong thời gian chiến tranh Mỹ-Việt, nhiều phái đoàn nghiên cứu của Hoa Kỳ cũng đi lại thường xuyên trên vùng Bolloven nầy.

Nhưng tất cả đều được giữ bí mật. Không có một báo cáo khoa học nào công bố về vấn đề trên hay cho biết vùng đất nghiên cứu có chứa nguồn nguyên liệu phóng xạ Uranium hay không?

Giả thuyết về sự hiện diện của TC trong vùng Cao nguyên Trung phần

Ngày 21 tháng 4 năm 2009, tại Công ty NWT Uranium Corp. ở Toronto, Canada, Ông Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã công bố bản tin sau khi họp với đối tác là Việt Nam rằng, Công ty đã đồng ý trên nguyên tắc về việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam. Quả thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết có nguồn nguyên liệu phóng xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là có thật. Chính nhờ đó mới có những giao kết thăm dò và khai thác giữa Việt Nam với các đối tác khác. Và TC, đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên liệu nầy, vì vậy cho nên mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ bauxite để đánh lạc hướng thế giới thêm một lần nữa.

Theo ước tính sơ khởi của công ty NWT thì cao nguyên có trữ lượng là 210 ngàn tấn quặng uranium oxide  (U3O8) với nồng độ trung bình là 0,06%. Và ở một tài liệu khác cho biết hàm lượng quặng mỏ uranium oxide ở mỏ than Nông Sơn, Quảng Ngãi là 8.000 tấn quặng và có cùng một nồng độ trung bình với uranium oxide  ở Cao nguyên.

Qua hai thông tin trên, một lần nữa có thể cho chúng ta có một kết luận một cách xác tín là với mức độ quan trọng về nguồn nguyên liệu nầy khiến cho nhiều quốc gia như Pháp, Nhật, và Hoa Kỳ đã biết trước nhưng không công bố mà thôi vì điều kiện an ninh của Việt Nam trong thời chiến lúc bấy giờ không cho phép.

Ngày hôm nay, TC đã biết và thay vì đến Việt Nam để khai thác nguồn nguyên liệu quý giá về phương diện quốc phòng nầy, họ đã đánh lận con đen để nói tráo qua việc khai thác quặng mỏ Bauxite.

Với hàm lượng uranium oxide kể trên, có thể ly trích và khai thác được hàng trăm Kg Uranium có nồng độc cao có thể ứng dụng vào trong kỹ nghệ quốc phòng và quân sự.

Thêm nữa có hai chi tiết sau đây để củng cố giả thuyết về việc TC đang bí mật chuẩn bị việc khai thác quặng mỏ Uranium:

- Mỏ than Nông Sơn đã được VNCH khai thác từ năm 1961, và vẫn được vận hành từ đó đến nay, và hoàn toàn không có tai nạn nào xảy ra ở TQ. TC với tư cách nào và với lý do gì đã đem trên 200 chuyên viên vào nơi đây từ 6 tháng qua?

- Một phần cao nguyên Bolloven nằm trên địa phận Lào đã được TC thuê mướn trong vòng 50 năm?

Hai chỉ dấu sau nầy chính là cái chìa khóa để mở toang cánh cửa bí mật giữa cs VN và TC trong việc khai thác quặng mỏ Bauxite ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam.

Việc khai thác nầy chỉ là Diện để che mắt thế giới, và Điểm chính là việc tìm kiếm, khai thác, ly trích và tinh luyện chất phóng xạ Uranium để làm tăng lợi khí “cường quốc” của Hán tộc.

Và đây mới là điểm then chốt của tham vọng quyền lực của TC với sự đồng thuận của đảng cộng sản Việt Nam.

Ảnh hưởng của việc khai thác quặng mỏ Uranium

Đứng về mặt môi trường, quy trình khai thác quặng mỏ Uranium tương đối phát thải phế thải ít hơn và dễ bảo quản cũng như kiểm soát hơn việc khai thác bauxite. Tuy hai công trình đều đem đến sự hủy diệt thảm thực vật ở miền Cao nguyên nầy, nhưng đứng về hiệu quả kinh tế, phát triển quốc gia, cũng như quốc phòng, việc khai thác Uranium chiếm nhiều ưu thế hơn cả. Lý do là trong vòng 10 năm nữa Việt Nam sẽ đưa vào hoạt động hai nhà máy phát điện nguyên tử tại Ninh Thuận, cho nên việc khai thác Uranium nầy có thể là nguồn cung cấp nguyên liệu cho nhà máy, và Việt Nam có được tính chủ động không tùy thuộc vào nước ngoài để có thể bị áp lực của các quốc gia cung cấp nguyên liệu phóng xạ trên.

Thêm một điểm cần lưu ý là, nếu Việt Nam chủ động và làm chủ được nguồn nguyện liệu quan trọng và hiếm quý nầy, vị trí của Việt Nam trên thương trường quốc tế sẽ được bảo đảm cũng như tư thế chính trị cũng sẽ được nâng cao vì nguyên liệu nầy sẽ là một yếu tố quyết định trong các mặc cả trong nhiều lãnh vực nhứt là quốc phòng đối với những quốc gia khác trên thế giới.

Thay lời kết

Qua những nhận định vừa nêu trên, giả thuyết về việc khai thác quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên Trung phần và ở Nông Sơn có tính xác tín rất cao. Và giả thuyết nầy lại là một lý giải cho sự hiện diện của những người lính dưới dạng công nhân ở hai nơi nầy.

Nếu suy nghĩ trên trở thành hiện thực, người Việt quốc gia ở quốc nội và hải ngoại phải làm gì trước những diễn biến đang xảy ra trên quê hương?

Một điều không thể chối cải được là tiến trình Hán hóa Việt Nam của TC đã thể hiện rất rõ ràng. Đây là một tiến trình tiệm tiến giống như trường hợp của Tân Cương và Tây Tạng.

Ngay sau khi chiếm đóng Trung Hoa lục địa, và nhứt là lợi dụng tình trạng còn lõng lẽo của Hội Quốc liên, tiền thân của Liên Hiệp quốc thời bấy giờ (1949), Mao Trạch Đông vội vàng chiếm đóng quốc gia Tây Turkistan và đổi tên thành Tân Cương, cũng như chiếm Tây Tạng vào năm 1959. Tiếp theo sau, chính sách Hán hóa bắt đầu thực hiện bằng cách cho người Hán nhập cư vào hai nơi nầy để rồi lần lần đồng hóa bằng những cuộc hôn nhân dị chủng. Hồ Cẩm Đào, ngày nay vẫn tiếp tục chương trình trên và kết quả hiện tại là dân Tây Tạng trở thành thiểu số trên chính quê hương mình, và dân Tân Cương chỉ còn chiếm 42% trên tổng số tại nơi đây.

Qua hai diễn biến lịch sử kể trên, Việt Nam chắc chắn sẽ nằm trong “tầm bắn” của TC trong chính sách nầy trong một tương lai không xa.

Hẳn chúng ta còn nhớ, vào những tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, hai món hàng dầu hỏa và quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên đã được chính quyền thời bấy giờ mặc cả với nhiều quốc gia đối trọng khác nhau ngõ hầu cứu vãn  miền Nam, nhưng bị thất bại. Và ngày hôm nay, nguy cơ nguồn nguyên liệu quốc phòng nầy sẽ lọt vào tay TC rất cao.

Chính vì thế, một trong những việc làm cấp bách hôm nay là phải cảnh báo cho thế giới biết rõ âm mưu của TC về việc khai thác quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên và Nông Sơn, để từ đó mượn áp lực chính trị và kinh tế của thế giới để đình chỉ việc khai thác trên.

Nếu không, TC, một khi làm chủ được nguồn nguyên liệu nầy sẽ mọc “thêm râu thêm cánh” và ngang nhiên tung hoành như đi vào chỗ không người. Tinh thần Hán tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng của TC càng được đẩy mạnh thêm lên qua quyển Tân Biên Sử mới của TC mà biên giới gồm thâu cả vùng Đông Nam Á, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Nam Bắc Hàn v.v…

Bằng bất cứ giá nào, người Việt khắp nơi sẽ không để nguồn nguyên liệu nầy lọt vào tay TC. Nếu không, Việt Nam sẽ biến thành một vùng tranh chấp quốc tế và thảm họa sẽ khó lường trong tương lai một khi đã có tranh chấp.

Việc liên kết với các quốc gia ASEAN trong giai đoạn nầy để tạo hậu thuẫn trong các cuộc tranh chấp với TC là một trong những điều kiện tối cần thiết trong lúc nầy. Cũng cần phải nói thêm là việc kết đoàn với Ấn Độ, một đối lực ngang ngữa với TC cũng là việc nên làm. Ấn Độ cũng vừa có một quyết định sáng suốt trước hiễm hoại TC là chấm dứt hợp đồng xây dựng đường ống dẫn dầu khí xuyên qua Ấn Độ, Miến Điện và Vân Nam (TQ). Đây là bước ngăn chặn có hiệu quả nhứt trước sự bành trướng của TC.

Sư kết đoàn giữa quốc nội và hải ngoại, giữa Việt Nam và quốc tế rất cần thiết trong lúc nầy vì chính đảng Cộng sản Việt Nam đã bất lực một khi để sự việc kể trên xảy ra cho đất nước trong lúc họ có khả ngăn chặn từ lúc đầu.

Lịch sử Việt Nam sẽ không quên tội ác kể trên!

08/2009

Ghi chú: Tin giờ chót, Theo báo Thanh Niên ngày 6/8/2009, Ông Trần Xuân Hương, Bộ trưởng Bộ Môi trường & Tài nguyên vừa công bố ngày 4 tháng 8  là Việt Nam quyết định thăm dò và khai thác quặng mỏ Uranium ở Nông Sơn, ước lượng có trữ lượng 8.000 tấn quặng uranium oxide U3O8. Việc khai thác nầy chia làm hai đợt cho đến 2020. Đối với một số địa điểm khác, ông cũng có nêu tên tỉnh Lâm Đồng nhưng không nói cụ thể như trường hợp Nông Sơn cũng như tên Đắk Nông cũng không được nhắc tới. Phải chăng đây là hai vị trí cấm kỵ vì còn nằm dưới chiêu bài khai thác quặng mỏ bauxite của TC?

Và ông cũng cho biết là đã ký Biên bản ghi nhớ (Memorandum of Understanding) với Ấn Độ trong việc nghiên cứu và định hướng về công nghệ áp dụng cho việc khai thác quặng mỏ Uranium trên.
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: ĐỌC BÁO
Reply #193 - 07. Oct 2009 , 11:25
 
Ai cũng có một thời tuổi trẻ


Tuesday, October 06, 2009   
Ngô Nhân Dụng


Những trận bão đổ vào miền Trung Việt Nam khiến khắp nơi lại kêu gọi nhau cứu giúp các đồng bào lâm nạn. Chúng tôi lại nhớ trận bão lụt năm Thìn, 1964. Tháng Mười năm đó, báo chí loan tin bão lụt làm hàng chục ngàn đồng bào mất nhà cửa, không đủ thức ăn; nhiều thanh niên, sinh viên đã tự động họp lại bàn chuyện “cứu lụt.” Họ thuộc nhiều đoàn thể, như nam và nữ Hướng Ðạo, thanh niên, sinh viên Phật tử, thanh niên, sinh viên Công Giáo, thanh niên thiện chí, các hội sinh viên ở Văn Khoa, Khoa học, trường Kỹ Thuật Phú Thọ, học sinh Cao Thắng, vân vân. Nhưng khi họp nhau thành lập một tổ chức tạm thời lo việc cứu trợ họ không cần xin phép đoàn thể của họ. Họ cũng không cần phải xin phép chính quyền, lúc đó cụ Phan Khắc Sửu là quốc trưởng. Phong trào “cứu lụt” này chỉ kéo dài trong mấy tháng rồi giải tán, nhưng đã gửi được nhiều đoàn sinh viên, học sinh ra miền Trung đem theo quần áo, chăn mền, thực phẩm và tiền quyên góp được ở Sài Gòn và các thành phố lớn đến tận tay các nạn nhân.

Khi phong trào khởi lên, các báo đài đều loan tin. Sinh viên, học sinh tự động đến ghi tên tham dự. Chính quyền lúc đó không nghi ngờ, không ngăn cản mà còn khuyến khích bằng cách giúp đỡ phương tiện di chuyển. Cụ Phan Khắc Sửu và ông Bộ Tr ưởng Phan Quang Ðán cho mở kho của Bộ Xã Hội, nhờ các thanh niên đem phẩm vật đến tận tay đồng bào, họ biết đường dây đó nhanh chóng hơn guồng máy của nhà nước và không lo bị mất mát. Mỗi đoàn thanh niên từ 50 đến 100 người gồm đủ sinh viên, học sinh các trường, được Bộ Giáo Dục cho nghỉ học, các giáo sư được nghỉ dậy để tham dự việc nghĩa trong hai, ba tuần.

Công tác xã hội đó là một kinh nghiệm sống quý báu cho giới trẻ. Vì họ có dịp chứng kiến những người bị hoạn nạn và mở rộng đức từ bi, chứng kiến cảnh chiến tranh mà trước đó họ chỉ đọc tin tức trên báo chí. Nhờ thế mà họ sống thật trong tình yêu nước thương nòi, thêm ý thức về trách nhiệm của mình đối với đất nước, và nuôi dưỡng lý tưởng phục vụ suốt cuộc đời của họ.

“Ai cũng có một thời trai trẻ,” đó là một câu thơ của một bạn trẻ viết vào thời 1960, 70. Thế hệ lớn lên trong thời đó rất dễ nẩy sinh lòng nhiệt thành muốn phục vụ xã hội chung quanh. Phải nói năm 1964 mở đầu một phong trào thanh niên ở miền Nam Việt Nam, nhờ chính quyền mới cho người dân được tự do hơn. Trong mấy năm sau đó xã hội công dân ở miền Nam phát triển mạnh vì chính quyền tin tưởng vào đám thanh niên có thiện chí. Bao nhiêu đoàn thể trẻ ra đời, một phần phát xuất từ các tôn giáo nhưng đa số là những nhóm người tự nguyện tự động họp nhau. Cứ 10 người, 20 người trẻ họp lại là có thể thành lập một tổ chức, xin Bộ Thanh Niên công nhận và được Bộ Nội Vụ cho phép. Từ đó họ phát triển thành những đoàn thể hàng trăm, hàng ngàn người, từ các thành phố lớn lan ra các tỉnh, quận. Tất cả đều nêu cao lý tưởng phục vụ xã hội, giúp đỡ đồng bào. Chính phủ miền Nam có lúc cũng tổ chức những đoàn thể thanh niên để chi phối hoặc hướng dẫn nhưng không thành công như các tổ chức tự do và tự nguyện của tư nhân. Sau năm 1971 thì phong trào này bớt mạnh vì áp lực của chiến tranh khiến các sinh viên, học sinh phải lo học nhiều hơn, nhiều người phải gia nhập quân đội, và nhiều thanh niên khác được lôi cuốn vào những phong trào chính trị hơn là xã hội.

Nhưng trong khoảng 5, 6 năm từ 1964 trở đi, tuổi trẻ ở miền Nam đã sống những ngày rất đẹp nhờ tự do hoạt động. Các thanh niên, sinh viên họp nhau để hội thảo. Các sinh viên, học sinh họp nhau để làm công tác giúp ích. Các đoàn thể tự nguyện không có cách nào khác là phải sống theo các quy tắc tự do dân chủ, vì thanh niên không thể chấp nhận cách nào khác. Trong khi làm các công việc cụ thể, họ rèn luyện bản thân, họ nuôi dưỡng lý tưởng. Các bạn trẻ này đã trở thành những hạt giống để phát sinh một xã hội công dân năng động, là nền tảng của mọi chế độ dân chủ. Không có một trường học dân chủ nào hữu hiệu bằng các sinh hoạt thanh niên tự do, tự nguyện.

Khi nói đến xây dựng chế độ dân chủ tự do người ta thường nghĩ đến việc thiết lập một bản hiến pháp mới, xây dựng các định chế, lập ra một chính quyền mới, vân vân. Nhưng một chế độ dân chủ có bền vững hay không là do xã hội công dân có đủ mạnh hay không. Khi các công dân một nước, trong từng khu phố, từng làng xóm biết tự động, tự nguyện họp nhau cùng thảo luận và tìm cách giải quyết các nhu cầu chung, không cần đợi chính quyền kêu gọi hoặc ra lệnh, khi đó họ đang sống tự do dân chủ và xây dựng dân chủ. Thói quen đó được huân tập lâu ngày cho thêm bền chặt, thì nền dân chủ sẽ bền vững. Ngày xưa Phan Châu Trinh khuyên dân ta phải bồi bổ dân trí, phải nâng cao dân khí. Phương pháp bồi bổ và nâng cao không gì bằng phát triển xã hội công dân (civil society). Trong nước hiện giờ hay dịch là “xã hội dân sự,” một từ ngữ không diễn tả đầy đủ ý nghĩa của vai trò các công dân tự do, tự nguyện, độc lập và ngang hàng với chính quyền. Trong đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đang bàn đến nhu cầu phát triển xã hội dân sự. Nhưng một “xã hội dân sự” do chính quyền tổ chức theo nhu cầu của họ, mà không do các công dân tự nguyện đứng ra làm lấy, thì không phải là “xã hội công dân.” Vì vậy cần phải chính danh trước.

Năm 1964 đánh dấu một thời kỳ giới trẻ ở miền Nam Việt Nam phát triển thành những đoàn thể tự nguyện với lý tưởng phục vụ. Giống như mặt đất bước vào Mùa Xuân, không khí thay đổi trong xã hội thời đó tạo cơ hội cho bao nhiêu thanh niên có dịp sống cuộc đời có ý nghĩa.

Tuần trước, một nhóm anh em cùng hoạt động trong thời gian đó mới họp mặt với nhau ở Thiền Viện Tánh Không, miền Nam California. Ðó là những người đã khởi xướng và hoạt động trong phong trào Thanh Niên Chí Nguyện, thành lập năm 1964. Vị trụ trì thiền viện, thầy Thông Triệt trước khi xuất gia cũng là một Thanh Niên Chí Nguyện, mà nhóm này do anh Trần Ngọc Báu, một bạn cựu chủ tịch Sinh Viên Công Giáo khởi xướng cùng các thanh niên thiện chí khác. Các thanh niên chí nguyện đã huấn luyện được khoảng 300 thanh niên, gởi đi tới các làng thôn hẻo lánh để sống chung và phục vụ đồng bào trong thời gian từng 6 tháng một. Các thanh niên, sinh viên này giúp đồng bào cải thiện về y tế, vệ sinh. Họ mở lớp dậy học và dậy con em trong làng về cách cư xử có đạo lý trong gia đình, trong xã hội. Họ giúp đồng bào sửa sang đường sá, trường học, chợ, cải thiện kỹ thuật canh nông. Ngày nay đã ở tuổi giữa Ðiêu và 80, những thanh niên chí nguyện này gặp nhau vẫn công nhận họ đã dùng tuổi trẻ của mình vào những việc hữu ích. Ðiều đáng tiếc cho phong trào này là sau thời gian công tác ở mỗi làng, họ không thiết lập được những cơ cấu tại chỗ để tiếp tục công việc đang làm. Là Khai dân trí, Hưng dân khí như Phan Châu Trinh đã kêu gọi từ đầu thế kỷ 20.

Cùng thời gian đó, một tổ chức khác phát xuất từ Viện Cao Ðẳng Phật Học là trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thành lập, cũng theo đuổi các mục tiêu trên. Ðiểm đặc biệt là các tác viên Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đến mỗi làng đều ở một thời gian nhiều năm, lần lượt thay phiên nhau giúp đồng bào phát triển về y tế, giáo dục, kinh tế và tổ chức cuộc sống chung với tính cách các công dân, không cần chờ chính quyền giúp đỡ hoặc ra lệnh chỉ huy. Những hạt giống của xã hội công dân được gieo rắc những năm đó ngày nay vẫn còn tiếp tục sống, nhiều tác viên Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội vẫn âm thầm hoạt động phục vụ dù không còn được tập họp trong một tổ chức nào nữa. Vì khi một thanh niên đã quyết định dùng cuộc đời của mình cho có ích thì lý tưởng đó không bao giờ mất.

Thanh Niên Chí Nguyện và Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội chỉ là hai thí dụ trong rất nhiều nỗ lực của thanh niên, sinh viên, học sinh trong thập niên 1960-70 cùng ý thức về nhu cầu phục vụ và quyết tâm theo đuổi lý tưởng giúp ích đồng bào. Có những Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đã phải sống ba tháng trong một làng mới thuyết phục được đồng bào đào hố cầu tiêu ở mỗi nhà để sống theo lối mới. Có những Thanh Niên Chí Nguyện là sinh viên con nhà giầu ở Sài Gòn đã xung phong làm việc dọn cầu tiêu công cộng trong trại tị nạn để làm gương cho đồng bào ý thức bổn phận giữ vệ sinh chung. Người ta có thể hăng hái và bền chí, nhẫn nại như vậy, vì các bạn trẻ này biết họ đang sống một cuộc sống có ý nghĩa, có lý tưởng, một cuộc đời rất đẹp, đáng sống!

Trong tuần này, chính quyền Cộng Sản sắp đưa một số nhà trí thức trẻ ra tòa. Họ cũng là những thanh niên khát khao sống với lý tưởng, và họ đã chọn con đường đấu tranh cho tự do dân chủ. Bao nhiêu thanh niên khác đang cần được tự do để được sống có ý nghĩa.

Ngay bây giờ ở trong nước ta có hàng triệu thanh niên, sinh viên, và học sinh đang muốn sống cuộc đời có lý tưởng, có ý nghĩa. Dù không được phép chính thức, các đoàn thể như Hướng Ðạo, Gia Ðình Phật Tử, các đoàn thể thanh niên Công Giáo đã hoạt động trở lại. Họ cũng nuôi dưỡng lý tưởng phục vụ. Trong mấy năm vừa qua khi các thiền sinh ở Tu Viện Bát Nhã mở những khóa tu tập cuối tuần, những ngày quán niệm, có hàng ngàn thanh niên, sinh viên, học sinh từ các thành phố đã kéo về tham dự. Tới đó, họ biết thế nào là sống an lạc, hạnh phúc, và họ muốn chọn một đời sống có ý nghĩa.

Chỉ có một điều kiện hiện nay còn thiếu là giới trẻ ở Việt Nam không được hưởng không khí tự do của thời 1964 như chúng tôi đã trải qua. Mà vì thế, xã hội công dân cũng không được phát triển tự do nữa. Nhưng chúng ta biết thanh niên Việt Nam không muốn sống cuộc đời vô vị, kể cả con cái của các đại gia. Họ đều không muốn bê tha trà đình tửu điếm, không muốn sa vào cái bẫy ma túy, nếu có cơ hội nuôi dưỡng lý tưởng vị tha. Ai cũng có một thời tuổi trẻ, và không ai muốn bỏ phí. Chỉ nhìn vào cuộc sống của các thiền sinh Bát Nhã trong những ngày hoạn nạn vừa qua. Họ là những người mới biết và tu tập đạo Phật trong vòng mấy năm! Nhìn họ không sợ hãi, không chán nản, chúng ta có thể tin vào chí khí cao thượng, khát khao sống lý tưởng của tuổi trẻ Việt Nam. Họ là một biểu tượng cho niềm tự hào và niềm hy vọng cho dân tộc.

Cho nên bây giờ khi chúng ta đòi cho người Việt Nam được sống tự do, trước hết phải đòi cho các thanh niên, sinh viên, học sinh được tự do sống có lý tưởng, được tự do phục vụ đồng bào. Như các bạn trẻ Bát Nhã chứng tỏ, tuổi trẻ Việt Nam là một kho tàng chưa được dùng để phục vụ đất nước. Chỉ cần được tự do tập họp và tự do phục vụ, họ cũng sẽ trở thành những viên đá xây dựng xã hội công dân làm nền tảng cho chế độ tự do dân chủ trong tương lai. Nếu không, một thế hệ thanh niên nữa sẽ bị phí phạm.
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4083
Re: ĐỌC BÁO
Reply #194 - 08. Oct 2009 , 14:41
 
Đó là suy nghĩ của ông bạn già, nguyên là giảng viên đại học, sống và làm việc tại Đức từ năm 1964. Cũng theo lời kể của anh, từ ngày về hưu, có nhiều phái đoàn trong nước sang, hoặc các hội đoàn người Việt hay mời anh giúp, thông dịch tiếng Đức. Không hiểu tại sao, các hội đoàn, các bậc cha mẹ thường gắn vào miệng các cháu thanh thiếu niên, nói tiếng Việt chưa sõi câu  “Chúng cháu tự hào mình là người Việt nam“ như một cái máy, khi trả lời phỏng vấn báo chí, hay truyền hình. Trong khi, các cháu cứ nằng nặc, đòi bỏ quốc tịch Viêt nam, nhập quốc tịch Đức. Ra đường hoặc đến trường học nhiều cháu không nhận  mình là người Việt. Ngay bản thân bậc cha mẹ các cháu cũng  phải giấu biến cái đuôi Việt của mình. Bằng chứng rất ít quán ăn, cửa hàng chủ người Việt , đặt tên cửa hàng bằng tên của quê hương, tổ quốc mình, mà toàn lấy tên ông Thái, ông Nhật, ông Tầu. Tên Việt chỉ được sử dụng trong khu chợ người Việt với nhau.

Thật vậy, chúng ta - TỰ RU- mình, không những ở trong nước, mà nó đã lan ra tới hải ngoại. Ông bạn già cảnh báo đó là sự nguy hiểm vô cùng, cho đất nước và  thế hệ trẻ. Chúng ta tự hào sao được khi truyền hình Việt nam ra rả trình chiếu các chương  trình "trái tim cho em", kêu gọi ủng hộ các cháu nghèo hoàn cảnh khó khăn, thất học, v..v.v (Cũng theo anh bạn già này, đây cũng là một kiểu ăn mày).  Ngay sáng nay thôi, báo chí trong nước đồng loạt đăng tin, một thanh niên 25 tuổi  ở  ngay thủ đô Hà Nội bị rắn độc cắn không có tiền chữa trị, người vợ xin cho chồng ra viện để về nhà chết. Số tiền chữa trị cho thanh niên này tính ra, không bằng một bữa nhậu của một ông ĐẦY TỚ nhân dân.  Nghĩ mà đau đớn, rẻ mạt, sinh mạng người dân quê tôi.   

Vấn đề đặt ra, trách nhiệm của chính phủ, xã hội ở đâu? Tại sao vô trách nhiệm như vậy. Đất nước cũng như một gia đình, chính phủ phải là trụ cột ,phải lo cho đời sống con dân của mình. Không làm được, thay cho những lời  tốt đẹp sáo rỗng, mời các vị đứng sang một bên, nhường đường cho người khác. Đành rằng đã nghèo là hèn (làm sao mà tự hào được). Nhưng tôi cho rằng các quan chức Việt nam không nghèo một chút nào, nhìn họ và con cái họ sinh hoạt  thì rõ thôi. Có một ông đứng đầu một ngành của tỉnh PT (tôi xin giấu tên cho ông), có con du học tự túc ở Đức, khi ông sang Đức thăm con, ăn tiêu của cha con ông, nếu bà thủ tướng  hay các nhà đại tư bản Đức nhìn thấy cũng phải vái phục. Đấy chỉ là lãnh đạo ngành, của một tỉnh nghèo.

Tự hào sao được, khi gần tám mươi phần trăm người dân quê hương tôi sống bằng nông nghiệp, không có bảo hiểm y tế, không có tiền hưu trí, mặc dầu họ đã đóng thuế hàng năm cho nhà nước. Dạ dầy nông dân quê tôi cũng bị thắt lại vì mất đất cho đô thị hóa môt cách vô tổ chức, những sân golf, tennis của những ông tư bản trọc phú dưới vỏ bọc doanh nhân, những khu công nghiệp, nhà máy chứa đầy vi trùng, mầm mống của ung thư, đang  hủy diệt sự sống trên quê tôi . 

Ông Vũ Trọng Phụng có sống lại , tôi bảo đảm ông sẽ viết tiếp nhân vật Xuân tóc đỏ. Các quan hệ dòng họ, làng xóm cũng đang được cân đo đong đếm bằng tiền bạc. Không hiểu tại sao cán bộ ở VN đã không làm được việc, thiếu trách nhiệm lại tham quyền cố vị đến thế. Nói ra lại bảo vạch áo cho người xem lưng, ngay trong dòng họ tôi cũng vậy, sao mà nhiều ông làm cán bộ đến thế, ông nào cũng thích làm, máu làm. Đã lâu rồi, nhân có một đám giỗ trong họ, có đầy đủ các ông to bà lớn tham dự, trong lúc khật khừ bia rượu, tranh luận với mấy ông em họ, tôi tôi hăng lên, thốt ra câu: Chẳng có cái nghề nào dễ làm bằng nghề cán bộ lãnh đạo, ông nông dân cũng có thể làm bộ trưởng được, vì có ông quái nào dám gánh trách nhiệm đâu... Tôi chưa nói hết câu, ở mâm trên tất cả ánh mắt dồn về phía tôi, mặt các bác phừng phừng:

- Cái thằng ăn nói hàm hồ, có im đi không. 

Tự hào sao được, khi người dân quê tôi đã phải xa hương cầu thực nhưng vẫn lạnh nơi tình người. Năm 1996, sứ quán Việt Nam vẫn còn ở Bonn, Berlin chỉ có lãnh sự quán. Tệ nạn vợ con cán bộ sứ quán mở hàng bán báo, bán phở  ngay phòng chờ đã dẹp bỏ. Nhưng tính trịnh thượng, công quyền như kiểu xin cho của cán bộ sứ quán với con dân của mình vẫn không có chiều hướng giảm. Một nhân viên tiếp nhận hồ sơ của lãnh sự quán Berlin tên Cường, năm ấy ông khoảng ngoài ba chục, mặt lúc nào cũng đỏ như gà chọi, ngón tay đeo hai ba loại nhẫn vàng chóe, cổ tay lủng liểng vòng bạc, cổ đeo thêm dây chuyền vàng, chườm ra khỏi áo mầu mỡ gà. Gặp ông, người ta cứ ngỡ gặp ông chủ giầu có nào đó trong phim Hồng Kông. Ông hét ông mắng xa xả, những người đến nộp đơn từ, khi viết sai hay thiếu, hoặc làm phật ý ông . Từ bé đến lớn, từ già đến trẻ, từ người  học nhiều, đến kẻ ít học, ông chửi tuốt tuồn tuột, không kiêng nể một ai. Nhiều người yếu bóng vía, đưa giấy tờ cho ông,hai tay cứ run cầm cập. Có nhiều ý kiến phản ánh về đến cả Việt nam, nhưng chẳng ai làm gì được ông, vì bố ông còn đương chức to vật vã ở bộ ngoại giao.

Cũng mùa đông năm ấy, trời rét lắm, ông khật khưỡng bia rượu đâu đó về khuya, bị trúng gió độc lăn đùng ra chết. Nghe nói, biết tin này, có nhiều người Việt ở Đức mở rượu ăn mừng. Ôi! Cái tình người Việt nỡ đối xử với nhau như thế này sao?  Bây giờ sứ quán VN đã chuyển về Berlin, trông có vẻ khang trang , nhưng không có chỗ đỗ xe cho khách, như các cơ quan công quyền Đức. Chỉ khổ cho các bác ở các thành phố khác đến làm việc, chưa quen đường tìm mãi mới có chỗ đỗ xe. Bẵng đi cũng đến gần chục năm, tôi cũng không đến sứ quán vì chẳng có công việc gì. Lúc nào nhớ nhà quá, cần visa, đã có dịch vụ mang đến tận nhà. Năm ngoái, tôi có lên  sứ quán lấy cái giấy thôi quốc tịch của bà vợ (có lẽ về giấy tờ hành chính, Việt Nam làm lề mề chậm chạp,rắc rối nhất thế giới - thời gian từ ngày nộp đơn đến khi nhận kết quả hành nhau đến hai năm rưỡi).

Tôi đến phòng chờ vào đầu giờ sáng, mọi người đã đứng ngồi thấy gần trật phòng.  Tôi đứng vào hàng sau ông tây, tay cầm tờ đơn xin visa du lịch. Nhìn lên ,thấy có có hai ô cửa, một nhận hồ sơ, một trả hồ sơ. Phía hông bên trái có một cửa nhỏ, có dán biển báo -WC - (tức là nhà vệ sinh). Thỉnh thoảng lại thấy một nhân viên sứ quán thò đầu ra từ sau cánh cửa nhà vệ sinh, hai mắt đảo đi đảo lại tìm người, rồi vẫy gọi người ngồi dưới cùng, đang mải luyên thuyên chuyện trò. Họ cùng đi khuất vào sau cánh cửa nhà vệ sinh. Họ làm gì thế này, ban ngày ban mặt, hai ông  kéo nhau vào nhà vệ sinh, (schwule), đồng cô chăng? Tôi thoáng nghĩ vậy.

Khoảng mươi mười lăm phút, người đàn ông khi nãy hớn hở đi ra, ông nhân viên sứ quán lại thò đầu ra hiệu cho một chị mặt bự phấn son đi vào. Lúc này tôi không nghĩ ông nhân viên sứ quán bị mắc chứng đồng tính nữa, nhưng ông tây cạnh tôi lắc đầu cười, khó hiểu. Thấy lạ, tôi gửi chỗ ông tây, giả vờ vào vệ sinh xem sao. Mở cửa nhà vệ sinh, trời đất ơi, thẳng trước mặt tôi còn một phòng làm việc, bên trái tôi mới là nhà vệ sinh.  Không hiểu sao phòng làm việc lại núp sau cái cánh cửa nhà vệ sinh như vậy? Sứ quán thay mặt cho nhà nước CHXHCN Việt Nam lại như thế này sao? Tại sao không thay tấm biển lớn –WC- bằng  chữ - Phòng tiếp khách. Trên tường cạnh cửa bên trái treo biển, viết chữ nhỏ bằng ba thứ tiếng,Việt, Đức, Anh, hướng dẫn khách khi cần sử dụng nhà vệ sinh.

Ngay lúc đó tôi mang ý nghĩ này nói với nhân viên sứ quán khi nãy, ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân, mặt hầm hầm, khinh khỉnh, có lẽ ông nghĩ tôi cũng như mấy người vì giấy tờ hay đến nhờ cậy xin xỏ ông, mà dám có ý kiến chăng? Qủa thật với phong cách làm việc này, người có những suy nghĩ vô tư ,trong sáng đến mấy, cũng phải nghĩ đến những điều khuất tất trong đó. Và đến bao giờ chúng ta mới hết xấu hổ mỗi khi so sánh hoặc làm việc với cơ quan công quyền nước khác.

Tuần trước, mấy ông bạn có việc đến sứ quán về nói lại , cái biển  "WC" vẫn còn nằm chình ình đó. Đến mười giờ tôi cũng rục rịch lên tới cửa tiếp nhận hồ sơ. Trình giấy ủy nhiệm, giấy mời đến lấy giấy thôi quốc tịch và đưa trả cuốn hộ chiếu Việt Nam. Cô nhân viên bảo tôi:

- Ba giờ rưỡi chiều anh quay lại lấy, và nộp 185 €

- Khi nộp hồ sơ, vợ tôi đã nộp 115 € rồi?

- Đó là tiền dịch, công chứng sang tiếng Việt ba bộ hồ sơ thôi quốc tịch. (Cả ba bộ hồ sơ của vợ tôi đều ghi bằng tiếng việt, chỉ duy nhất có giấy bảo đảm cho nhập quốc tịch của Đức, in ngắn gọn trên một mặt giấy phải dịch sang tiếng Việt, đánh máy, copy  thành 3 bản mất khoảng mười lăm phút. Thành thật mà nói dân ta nghèo, nhất nhì  thế giới, nhưng tiền lệ phí cho các công sở đắt nhất  thế giới).

- Tôi xem trên mạng của bộ ngoại giao, tiền lệ phí cho thôi quốc tịch có 150usd, tức hơn 100€ một chút, sao ở đây nhiều gần gấp đôi vậy?

Cô nhân viên không trả lời tôi, cầm hộ chiếu định đi vào phía trong, tôi hỏi tiếp:

- Chị có thể cho tôi xin giấy chứng nhận hủy hộ chiếu được không?

Cô nhân viên không quay mặt lai, gắt:

- Anh này rắc rối quá đấy, chúng tôi thu, rồi chúng tôi sẽ hủy,không cần giấy chứng nhận nữa.

Nằm khèo trên ô tô đánh một giấc dài, ba rưỡi chiều tôi lò dò quay trở lại sứ quán. Lúc này, trong phòng chờ, đông nhộn nhạo như một cái chợ con. Thỉnh thoảng có mấy ông trẻ đến sau, cứ trèo tuốt lên trên, không chịu xếp hàng, làm cho mấy ông tây bà đầm đứng sau lắc đầu ngán ngẩm. Đến 5 giờ chiều, tôi cũng nhận được giấy thôi quốc tịch, sau khi thanh toán đúng 185€. Hỏi xin cái hóa đơn thanh toán tiền, cô nhân viên trả lời tôi:

-  Anh chờ đến năm giờ rưỡi mới có, bây giờ không có con dấu ở đây, tôi viết cho anh cái giấy đã nhận tiền.

Mấy người đứng dưới tôi hét toáng lên:

- Lẹ lên ông ơi, hóa đơn hóa từ cái con mẹ gì, chờ bao giờ mới lấy được, nhanh còn về, nhà xa lắm. 

Thu tiền không có hóa đơn chứng từ, không hiểu sứ quán quản lý và vào sổ sách như thế nào? Những đồng tiền này có vào ngân khố nhà nước hay lại chảy đi đâu?  Báo chí trong nước mấy năm trước đưa tin Bộ ngoại giao lập quỹ  ngoài ngân sách, nghĩ đến cứ thấy gai gai trong người.

Tôi viết đến đây mang cho ông bạn già đọc, đọc xong anh bảo:

- Chú viết ra như thế này, thế nào nhiều người không hiểu lại bảo anh em mình nói xấu đất nước.

Từ lâu chúng ta có những quan niệm hoặc những khẩu hiệu kỳ quặc – yêu chế độ tức là yêu nước- Yêu nước tức là yêu chế độ-  Phê phán, góp ý cho là nói xấu đất nước, nói xấu tổ quốc, nặng nữa gán nghiến cho cái cái tội phản động. Tại sao chúng ta cứ nhập nhằng lẫn lộn khái niệm Tổ quốc và chế độ là một. Tổ quốc, quê hương ai mà chẳng yêu, chẳng thương, chẳng nhớ, nhưng yêu hay chán ghét chế độ lại là chuyện khác. Đất nước nghèo, dân trí thấp quả thật chẳng có gì để đáng tự hào, khi ta mang quá khứ ra để che lấp.   

Đức quốc, 2-10-09.

© Đàn Chim Việt Online   



Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 11 12 13 14 15 ... 40
Send Topic In ra