Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - ĐỌC BÁO  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 12 13 14 15 16 ... 40
Send Topic In ra
ĐỌC BÁO (Read 81006 times)
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4083
Re: ĐỌC BÁO
Reply #195 - 08. Oct 2009 , 14:41
 



Cách làm Việc của Tòa Đại sứ VC  ở  Đức

Đó là suy nghĩ của ông bạn già, nguyên là giảng viên đại học, sống và làm việc tại Đức từ năm 1964. Cũng theo lời kể của anh, từ ngày về hưu, có nhiều phái đoàn trong nước sang, hoặc các hội đoàn người Việt hay mời anh giúp, thông dịch tiếng Đức. Không hiểu tại sao, các hội đoàn, các bậc cha mẹ thường gắn vào miệng các cháu thanh thiếu niên, nói tiếng Việt chưa sõi câu  “Chúng cháu tự hào mình là người Việt nam“ như một cái máy, khi trả lời phỏng vấn báo chí, hay truyền hình. Trong khi, các cháu cứ nằng nặc, đòi bỏ quốc tịch Viêt nam, nhập quốc tịch Đức. Ra đường hoặc đến trường học nhiều cháu không nhận  mình là người Việt. Ngay bản thân bậc cha mẹ các cháu cũng  phải giấu biến cái đuôi Việt của mình. Bằng chứng rất ít quán ăn, cửa hàng chủ người Việt , đặt tên cửa hàng bằng tên của quê hương, tổ quốc mình, mà toàn lấy tên ông Thái, ông Nhật, ông Tầu. Tên Việt chỉ được sử dụng trong khu chợ người Việt với nhau.

Thật vậy, chúng ta - TỰ RU- mình, không những ở trong nước, mà nó đã lan ra tới hải ngoại. Ông bạn già cảnh báo đó là sự nguy hiểm vô cùng, cho đất nước và  thế hệ trẻ. Chúng ta tự hào sao được khi truyền hình Việt nam ra rả trình chiếu các chương  trình "trái tim cho em", kêu gọi ủng hộ các cháu nghèo hoàn cảnh khó khăn, thất học, v..v.v (Cũng theo anh bạn già này, đây cũng là một kiểu ăn mày).  Ngay sáng nay thôi, báo chí trong nước đồng loạt đăng tin, một thanh niên 25 tuổi  ở  ngay thủ đô Hà Nội bị rắn độc cắn không có tiền chữa trị, người vợ xin cho chồng ra viện để về nhà chết. Số tiền chữa trị cho thanh niên này tính ra, không bằng một bữa nhậu của một ông ĐẦY TỚ nhân dân.  Nghĩ mà đau đớn, rẻ mạt, sinh mạng người dân quê tôi.  

Vấn đề đặt ra, trách nhiệm của chính phủ, xã hội ở đâu? Tại sao vô trách nhiệm như vậy. Đất nước cũng như một gia đình, chính phủ phải là trụ cột ,phải lo cho đời sống con dân của mình. Không làm được, thay cho những lời  tốt đẹp sáo rỗng, mời các vị đứng sang một bên, nhường đường cho người khác. Đành rằng đã nghèo là hèn (làm sao mà tự hào được). Nhưng tôi cho rằng các quan chức Việt nam không nghèo một chút nào, nhìn họ và con cái họ sinh hoạt  thì rõ thôi. Có một ông đứng đầu một ngành của tỉnh PT (tôi xin giấu tên cho ông), có con du học tự túc ở Đức, khi ông sang Đức thăm con, ăn tiêu của cha con ông, nếu bà thủ tướng  hay các nhà đại tư bản Đức nhìn thấy cũng phải vái phục. Đấy chỉ là lãnh đạo ngành, của một tỉnh nghèo.

Tự hào sao được, khi gần tám mươi phần trăm người dân quê hương tôi sống bằng nông nghiệp, không có bảo hiểm y tế, không có tiền hưu trí, mặc dầu họ đã đóng thuế hàng năm cho nhà nước. Dạ dầy nông dân quê tôi cũng bị thắt lại vì mất đất cho đô thị hóa môt cách vô tổ chức, những sân golf, tennis của những ông tư bản trọc phú dưới vỏ bọc doanh nhân, những khu công nghiệp, nhà máy chứa đầy vi trùng, mầm mống của ung thư, đang  hủy diệt sự sống trên quê tôi .  

Ông Vũ Trọng Phụng có sống lại , tôi bảo đảm ông sẽ viết tiếp nhân vật Xuân tóc đỏ. Các quan hệ dòng họ, làng xóm cũng đang được cân đo đong đếm bằng tiền bạc. Không hiểu tại sao cán bộ ở VN đã không làm được việc, thiếu trách nhiệm lại tham quyền cố vị đến thế. Nói ra lại bảo vạch áo cho người xem lưng, ngay trong dòng họ tôi cũng vậy, sao mà nhiều ông làm cán bộ đến thế, ông nào cũng thích làm, máu làm. Đã lâu rồi, nhân có một đám giỗ trong họ, có đầy đủ các ông to bà lớn tham dự, trong lúc khật khừ bia rượu, tranh luận với mấy ông em họ, tôi tôi hăng lên, thốt ra câu: Chẳng có cái nghề nào dễ làm bằng nghề cán bộ lãnh đạo, ông nông dân cũng có thể làm bộ trưởng được, vì có ông quái nào dám gánh trách nhiệm đâu... Tôi chưa nói hết câu, ở mâm trên tất cả ánh mắt dồn về phía tôi, mặt các bác phừng phừng:

- Cái thằng ăn nói hàm hồ, có im đi không.  

Tự hào sao được, khi người dân quê tôi đã phải xa hương cầu thực nhưng vẫn lạnh nơi tình người. Năm 1996, sứ quán Việt Nam vẫn còn ở Bonn, Berlin chỉ có lãnh sự quán. Tệ nạn vợ con cán bộ sứ quán mở hàng bán báo, bán phở  ngay phòng chờ đã dẹp bỏ. Nhưng tính trịnh thượng, công quyền như kiểu xin cho của cán bộ sứ quán với con dân của mình vẫn không có chiều hướng giảm. Một nhân viên tiếp nhận hồ sơ của lãnh sự quán Berlin tên Cường, năm ấy ông khoảng ngoài ba chục, mặt lúc nào cũng đỏ như gà chọi, ngón tay đeo hai ba loại nhẫn vàng chóe, cổ tay lủng liểng vòng bạc, cổ đeo thêm dây chuyền vàng, chườm ra khỏi áo mầu mỡ gà. Gặp ông, người ta cứ ngỡ gặp ông chủ giầu có nào đó trong phim Hồng Kông. Ông hét ông mắng xa xả, những người đến nộp đơn từ, khi viết sai hay thiếu, hoặc làm phật ý ông . Từ bé đến lớn, từ già đến trẻ, từ người  học nhiều, đến kẻ ít học, ông chửi tuốt tuồn tuột, không kiêng nể một ai. Nhiều người yếu bóng vía, đưa giấy tờ cho ông,hai tay cứ run cầm cập. Có nhiều ý kiến phản ánh về đến cả Việt nam, nhưng chẳng ai làm gì được ông, vì bố ông còn đương chức to vật vã ở bộ ngoại giao.

Cũng mùa đông năm ấy, trời rét lắm, ông khật khưỡng bia rượu đâu đó về khuya, bị trúng gió độc lăn đùng ra chết. Nghe nói, biết tin này, có nhiều người Việt ở Đức mở rượu ăn mừng. Ôi! Cái tình người Việt nỡ đối xử với nhau như thế này sao?  Bây giờ sứ quán VN đã chuyển về Berlin, trông có vẻ khang trang , nhưng không có chỗ đỗ xe cho khách, như các cơ quan công quyền Đức. Chỉ khổ cho các bác ở các thành phố khác đến làm việc, chưa quen đường tìm mãi mới có chỗ đỗ xe. Bẵng đi cũng đến gần chục năm, tôi cũng không đến sứ quán vì chẳng có công việc gì. Lúc nào nhớ nhà quá, cần visa, đã có dịch vụ mang đến tận nhà. Năm ngoái, tôi có lên  sứ quán lấy cái giấy thôi quốc tịch của bà vợ (có lẽ về giấy tờ hành chính, Việt Nam làm lề mề chậm chạp,rắc rối nhất thế giới - thời gian từ ngày nộp đơn đến khi nhận kết quả hành nhau đến hai năm rưỡi).

Tôi đến phòng chờ vào đầu giờ sáng, mọi người đã đứng ngồi thấy gần trật phòng.  Tôi đứng vào hàng sau ông tây, tay cầm tờ đơn xin visa du lịch. Nhìn lên ,thấy có có hai ô cửa, một nhận hồ sơ, một trả hồ sơ. Phía hông bên trái có một cửa nhỏ, có dán biển báo -WC - (tức là nhà vệ sinh). Thỉnh thoảng lại thấy một nhân viên sứ quán thò đầu ra từ sau cánh cửa nhà vệ sinh, hai mắt đảo đi đảo lại tìm người, rồi vẫy gọi người ngồi dưới cùng, đang mải luyên thuyên chuyện trò. Họ cùng đi khuất vào sau cánh cửa nhà vệ sinh. Họ làm gì thế này, ban ngày ban mặt, hai ông  kéo nhau vào nhà vệ sinh, (schwule), đồng cô chăng? Tôi thoáng nghĩ vậy.

Khoảng mươi mười lăm phút, người đàn ông khi nãy hớn hở đi ra, ông nhân viên sứ quán lại thò đầu ra hiệu cho một chị mặt bự phấn son đi vào. Lúc này tôi không nghĩ ông nhân viên sứ quán bị mắc chứng đồng tính nữa, nhưng ông tây cạnh tôi lắc đầu cười, khó hiểu. Thấy lạ, tôi gửi chỗ ông tây, giả vờ vào vệ sinh xem sao. Mở cửa nhà vệ sinh, trời đất ơi, thẳng trước mặt tôi còn một phòng làm việc, bên trái tôi mới là nhà vệ sinh.  Không hiểu sao phòng làm việc lại núp sau cái cánh cửa nhà vệ sinh như vậy? Sứ quán thay mặt cho nhà nước CHXHCN Việt Nam lại như thế này sao? Tại sao không thay tấm biển lớn –WC- bằng  chữ - Phòng tiếp khách. Trên tường cạnh cửa bên trái treo biển, viết chữ nhỏ bằng ba thứ tiếng,Việt, Đức, Anh, hướng dẫn khách khi cần sử dụng nhà vệ sinh.

Ngay lúc đó tôi mang ý nghĩ này nói với nhân viên sứ quán khi nãy, ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân, mặt hầm hầm, khinh khỉnh, có lẽ ông nghĩ tôi cũng như mấy người vì giấy tờ hay đến nhờ cậy xin xỏ ông, mà dám có ý kiến chăng? Qủa thật với phong cách làm việc này, người có những suy nghĩ vô tư ,trong sáng đến mấy, cũng phải nghĩ đến những điều khuất tất trong đó. Và đến bao giờ chúng ta mới hết xấu hổ mỗi khi so sánh hoặc làm việc với cơ quan công quyền nước khác.

Tuần trước, mấy ông bạn có việc đến sứ quán về nói lại , cái biển  "WC" vẫn còn nằm chình ình đó. Đến mười giờ tôi cũng rục rịch lên tới cửa tiếp nhận hồ sơ. Trình giấy ủy nhiệm, giấy mời đến lấy giấy thôi quốc tịch và đưa trả cuốn hộ chiếu Việt Nam. Cô nhân viên bảo tôi:

- Ba giờ rưỡi chiều anh quay lại lấy, và nộp 185 €

- Khi nộp hồ sơ, vợ tôi đã nộp 115 € rồi?

- Đó là tiền dịch, công chứng sang tiếng Việt ba bộ hồ sơ thôi quốc tịch. (Cả ba bộ hồ sơ của vợ tôi đều ghi bằng tiếng việt, chỉ duy nhất có giấy bảo đảm cho nhập quốc tịch của Đức, in ngắn gọn trên một mặt giấy phải dịch sang tiếng Việt, đánh máy, copy  thành 3 bản mất khoảng mười lăm phút. Thành thật mà nói dân ta nghèo, nhất nhì  thế giới, nhưng tiền lệ phí cho các công sở đắt nhất  thế giới).

- Tôi xem trên mạng của bộ ngoại giao, tiền lệ phí cho thôi quốc tịch có 150usd, tức hơn 100€ một chút, sao ở đây nhiều gần gấp đôi vậy?

Cô nhân viên không trả lời tôi, cầm hộ chiếu định đi vào phía trong, tôi hỏi tiếp:

- Chị có thể cho tôi xin giấy chứng nhận hủy hộ chiếu được không?

Cô nhân viên không quay mặt lai, gắt:

- Anh này rắc rối quá đấy, chúng tôi thu, rồi chúng tôi sẽ hủy,không cần giấy chứng nhận nữa.

Nằm khèo trên ô tô đánh một giấc dài, ba rưỡi chiều tôi lò dò quay trở lại sứ quán. Lúc này, trong phòng chờ, đông nhộn nhạo như một cái chợ con. Thỉnh thoảng có mấy ông trẻ đến sau, cứ trèo tuốt lên trên, không chịu xếp hàng, làm cho mấy ông tây bà đầm đứng sau lắc đầu ngán ngẩm. Đến 5 giờ chiều, tôi cũng nhận được giấy thôi quốc tịch, sau khi thanh toán đúng 185€. Hỏi xin cái hóa đơn thanh toán tiền, cô nhân viên trả lời tôi:

-  Anh chờ đến năm giờ rưỡi mới có, bây giờ không có con dấu ở đây, tôi viết cho anh cái giấy đã nhận tiền.

Mấy người đứng dưới tôi hét toáng lên:

- Lẹ lên ông ơi, hóa đơn hóa từ cái con mẹ gì, chờ bao giờ mới lấy được, nhanh còn về, nhà xa lắm.  

Thu tiền không có hóa đơn chứng từ, không hiểu sứ quán quản lý và vào sổ sách như thế nào? Những đồng tiền này có vào ngân khố nhà nước hay lại chảy đi đâu?  Báo chí trong nước mấy năm trước đưa tin Bộ ngoại giao lập quỹ  ngoài ngân sách, nghĩ đến cứ thấy gai gai trong người.

Tôi viết đến đây mang cho ông bạn già đọc, đọc xong anh bảo:

- Chú viết ra như thế này, thế nào nhiều người không hiểu lại bảo anh em mình nói xấu đất nước.

Từ lâu chúng ta có những quan niệm hoặc những khẩu hiệu kỳ quặc – yêu chế độ tức là yêu nước- Yêu nước tức là yêu chế độ-  Phê phán, góp ý cho là nói xấu đất nước, nói xấu tổ quốc, nặng nữa gán nghiến cho cái cái tội phản động. Tại sao chúng ta cứ nhập nhằng lẫn lộn khái niệm Tổ quốc và chế độ là một. Tổ quốc, quê hương ai mà chẳng yêu, chẳng thương, chẳng nhớ, nhưng yêu hay chán ghét chế độ lại là chuyện khác. Đất nước nghèo, dân trí thấp quả thật chẳng có gì để đáng tự hào, khi ta mang quá khứ ra để che lấp.    

Đức quốc, 2-10-09.

© Đàn Chim Việt Online    



Back to top
« Last Edit: 08. Oct 2009 , 14:43 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4083
Re: ĐỌC BÁO
Reply #196 - 08. Oct 2009 , 21:37
 

Thư của thế hệ trẻ Việt Nam hải ngoại gửi ông Đào Duy Quát


Kính gửi chú Đào Duy Quát,



Trước hết, cháu tự giới thiệu tên cháu là Nguyễn Hồng Vân, sinh viên Trường Cao đẳng Golden West thuộc bang California, Hoa Kỳ. Cháu được sanh và lớn lên tại Hoa Kỳ, cho nên cháu là một công dân Hoa Kỳ và cháu có trách nhiệm với đất nước Hoa Kỳ như quê hương của cháu. Tuy nhiên, hôm nay cháu mạo muội viết thư này đến chú với tư cách là một con dân Việt Nam (nếu đất nước Việt Nam vẫn còn coi cháu như một đứa con đất Việt). Cháu xin được viết thẳng vào vấn đề.
Lý do cháu viết thư này cho chú là bởi bài báo chú cho đăng tải trên báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, bài báo “Hải quân Trung Quốc tập trận tại Biển Đông”, được dịch từ báo Hoàn cầu, một tờ báo chính thống của nhà nước Trung Quốc. Mặc dù chú có lời giải trình là do “lỗi kỷ thuật”, là do thiếu sót từ “ngang ngược”. Sự thanh mình này cháu không thể nào chấp nhận được.
Thưa chú Đào Duy Quát,
Thứ nhất, nguyên tắc dịch thuật nguyên văn một bài viết thì không thể nào thêm thắt từ ngữ với ý đồ làm thay đổi nội dung hoặc ý nghĩa của bài viết đó mà không có sự chấp thuận của tác giả. Không lẽ, báo Hoàn cầu đã đồng ý cho chú thêm từ “ngang ngược” vào bài viết của họ? Nếu không, thì đạo đức nhà báo có thể nào cho phép chúng ta tùy tiện thêm bớt, cắt xén, thay đổi như thế được hay không? Là Tổng biên tập một tờ báo lớn nhất trong nước chú hẳn biết rõ điều này.
Nguy hiểm hơn là bài báo đó hoàn toàn đứng trên lập trường của Trung Quốc, một lập trường mang tính bá quyền, hung bạo mà đã thể hiện rõ ngay trong nội dung bài báo. Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc từ khi nào mà họ dám ngang nhiên tuyên bố là Tây Sa và Nam Sa? Có phải từ lúc Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 như phóng sự trên báo Tuổi trẻ và từ cuộc xâm lược Trường Sa năm 1988? Giả sử nếu hải quân Việt Nam tập trận trong khu vực đảo Hải Nam thì phản ứng của Trung Quốc sẽ như thế nào? Im lặng? Phản đối trên báo đài? Hay nã súng thẳng vào quân đội Việt Nam?
Vấn đề lãnh thổ, lãnh hải, biển đảo là vấn đề sanh tử, là vận mệnh của cả một Dân Tộc. Cháu đã suy nghĩ nhiều và thật tâm cháu không thể tìm được một lý do nào để đính chính cho bài báo “Hải quân Trung Quốc tập trận tại Biển Đông” mà chú là người chịu trách nhiệm cao nhất. Chỉ có thể nói đó là một bài báo phản bội lại Tổ Quốc, phản bội lại anh linh liệt vị Tổ Tiên và là mối nhục cho 90 triệu con dân nước Việt.
Thưa chú Đào Duy Quát,
Cháu, và có lẽ tất cả người Việt, mong muốn có cuộc sống hòa bình với thế giới và đặc biệt là người hàng xóm khổng lồ phương Bắc, và cháu sẵn sàng đóng góp trí lực nhỏ bé của mình cho nền hòa bình đó; tuy nhiên, cháu không thể ngu ngơ cả tin. Lịch sử bi thương “1000 năm đô hộ giặc Tầu” còn đó. Cháu tự tìm hiểu về cuộc xâm lược năm 1979 và cháu cho rằng đó là một cuộc chiến tranh ngắn nhất nhưng đẫm máu nhất, tàn bạo nhất trong lịch sử của Dân Tộc Việt Nam. Chú là một cán bộ cao cấp, sống trong nước và trải qua giai đoạn đau thương đó chắc chắn chú còn biết nhiều hơn cháu. Gần đây hơn là những vụ việc hải quân Trung Quốc bắn giết ngư dân Việt Nam, cấm đánh cá ngay trong vùng biển Việt Nam, bắt thuyền của ngư dân Việt Nam rồi đòi tiền chuộc người chuộc thuyền (có khác chi hành động của bọn hải tặc Somalia). Là một người trẻ, cháu cũng vô tư, yêu đời và yêu người, nhưng lịch sử và bằng chứng thực tế rành rành trước mắt cho cháu đủ dữ kiện để nghi ngờ lòng “hữu hảo” của chính quyền Trung Quốc cũng như “16 chữ vàng” và “4 tốt” của họ.
Cháu được đọc những trang sử và giai thoại hào hùng của Ông Cha ta. Có kẻ chết vì hèn yếu, Như Hành khiển Hồ Nghiện Thần chết trong ô nhục vì không giữ được quốc thể. Có vị chết vì Dân vì Nước tạo một chấm son trên trang sử nước nhà, như nghĩa liệt sĩ Nguyễn Biểu thời hậu Trần xin được đi sứ cầu hòa trong giai đoạn vận mệnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc, mặc dù biết trước lần đi này không có ngày trở về. Quả thật đúng như vậy, tướng Trương Phụ nhà Minh đã hèn mạt giết Nguyễn Biểu chỉ vì Ông đã hiên ngang đối đáp và kiên quyết không để giặc làm nhục quốc thể. Ông mất năm 1413. Cái chết của vị anh hùng Nguyễn Biểu làm toàn dân, vua, quan tiếc thương đau xót. Nhưng có lẽ cũng chính từ sự hy sinh đó, đúng 5 năm sau, năm 1418 toàn dân tộc Việt Nam đã nổi dậy đánh đuổi giặc Minh, đến năm 1427 buộc chúng phải rút khỏi bờ cõi, đem lại nền độc lập và tự trị cho nước nhà
  • .
    Thưa chú Đào Duy Quát,
    Một lần nữa, lịch sử cho chúng ta bài học muôn đời: người lãnh đạo phải có cái dũng khí của kẻ sĩ, cái tâm vì Dân, tấm lòng vì Nước, và chỉ có sức mạnh toàn dân mới giữ vững được cơ đồ.
    Đất nước ngày nay đã có những thay đổi, đã hội nhập với thế giới nhiều hơn, đã có những thế mạnh, nhưng không phải là không có những nguy cơ mà nguy cơ mất nước không phải là không có căn cứ.
    Cháu là một người trẻ xa quê, trí chưa đủ lớn, nhìn chưa đủ xa, nhưng những gì cháu viết cho chú là từ tất cả tấm lòng chân thành nghĩ đến Tổ Tiên, đến bao Anh Hùng Liệt Nữ đã cống hiến xương trắng máu đào để xây dựng, gìn giữ cho chúng ta một đất nước Việt Nam đẹp đẽ như thế này. Chúng ta không thể nào để mất được chú ạ!
    Thế hệ con cháu của cháu sau này, hay ngay cả thế hệ cháu, có còn ngẩng mặt gọi 2 tiếng Việt Nam được hay không phần lớn nhờ vào dũng khí của thế hệ chú bác ngày nay.
    Tiếng Việt của cháu đôi khi cũng chưa thông, nếu có viết điều gì sơ suất mong chú lượng thứ.
    Chúc chú sức khỏe.
    Kính chào,
    Nguyễn Hồng Vân

  • Back to top
    « Last Edit: 08. Oct 2009 , 21:38 by nguyen_toan »  
     
    IP Logged
     
    Đặng-Mỹ
    Gold Member
    *****
    Offline


    Đậu Xanh, U trẻ,
    Thiên Nga, Nghi Nương

    Posts: 14731
    Gender: female
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #197 - 09. Oct 2009 , 08:48
     
    Nhà vô địch thế giới MMA Lê Cung đóng phim Pandorum


    Tấn Chương
    08/10/2009
     

    Lê Cung, nhà vô địch thế giới hạng trung MMA, vừa xuất hiện trở lại với người hâm mộ nhưng không phải trên sàn đấu võ tự do, mà trong một bộ phim loại 'chiến tranh giữa các vì sao' của Hollywood. Ngôi sao võ thuật gốc Việt này đóng thành công vai một anh hùng Việt Nam tên Mạnh, cùng với các tài tử nổi tiếng của Hollywood là Dennis Quaid, và Ben Foster trong phim Pandorum. Bộ phim khoa học giả tưởng- kinh dị do Christian Alvart làm đạo diễn, với chi phí sản xuất lên đến 40 triệu đôla này bắt đầu được công chiếu tại Mỹ vào cuối tháng 9 vừa qua, và tại Anh từ đầu tháng 10. Nhân dịp này phóng viên Tấn Chương của đài VOA đã phỏng vấn Lê Cung về vai diễn trong Pandorum và về bước đường từ sàn đấu MMA sang phim trường Hollywood.



    http://i4.photobucket.com/albums/y130/Dangmy/LeCung.jpgt=1255113983
    Lê Cung đoạt đai vô địch thế giới hạng trung MMA, tháng 3 năm 2008


    VOA: Lê Cung đã chuyển sang đóng phim Hollywood khi nào trong khi người hâm mộ vẫn còn nhớ hình ảnh võ sĩ gốc Việt -- Cung Lê -- hạ Frank Shamrock để đoạt đai vô địch thế giới hạng trung MMA?

    Lê Cung: Lê Cung đã hạ Shamrock vào ngày 29 tháng 3 năm 2008. Tháng 5 thì Lê Cung gặp được nhà làm phim, và đến tháng 8 thì Lê Cung quay phim ở bên Đức 2 tháng rưỡi.

    VOA: Võ tự do MMA và điện ảnh Hollywood khác nhau rất xa, làm sao Lê Cung đến được với Hollywood để cùng đóng với các diễn viên hàng đầu của Hollywood trong một bộ phim có giá trị như vậy?

    Lê Cung: Lê Cung có một manager. Manager của Lê Cung đã mời nhà làm phim tên Jeremy Bolt đến. Nhà làm phim này mời Lê Cung đóng thử một vai người Nhật. Lê Cung đáp lại là không biết nói tiếng Nhật. Người ta cho biết là chưa tìm được người Nhật, cho nên vai này đang mở ra cho những người châu Á, và Lê Cung đề nghị được đóng thử bằng tiếng Việt, và được đồng ý. Hai ngày sau khi đóng thử vai, người ta đã giao cho Lê Cung đóng vai Mạnh.

    VOA: Lê Cung có gặp nhiều sự cạnh tranh bên phim trường Hollywood hay không?

    Lê Cung: Lê Cung nổi tiếng bên võ thuật MMA, nhưng Hollywood thì không biết đến [Lê Cung] nhiều. Lê Cung cũng luyện tập cách đóng phim nhiều. Lúc Lê Cung đóng thử vai này, thì có nhiều người nổi tiếng bên Nhật, bên Tàu, lẫn người Nhật và người Tàu ở Mỹ cũng đến thử vai. Sau khi đóng thử, đạo diễn thích cách đóng của Lê Cung, và đã sửa lại kịch bản để giao vai diễn là một người Việt Nam cho Lê Cung. Vai này rất lớn, và rất đặc biệt, vì Lê Cung được thủ vai là một người Việt Nam.

    VOA: Đấu trên võ đài khác với đánh nhau trong đóng phim, Lê Cung có thấy khó khăn khi thực hiện các kỹ thuật đấm đá giả để đóng phim hay không?

    Lê Cung: Không khó! Khi đá với đấm, Lê Cung nắm được kỹ thuật diễn, cho nên đạo diễn và các nhà sản xuất rất hài lòng với Lê Cung.

    VOA: Lê Cung thấy phim Pandorum có hấp dẫn đối với khán giả Việt Nam không, nhất là với những người hâm mộ Lê Cung?

    Lê Cung: Lê Cung xin qúy vị đi coi phim này để qúy vị thấy Lê Cung là một người Việt Nam, nhưng không phải kiểu một người Việt Nam [đóng vai quần chúng] trong cái phi thuyền, không làm gì hết, mà vai này là một vai đặc biệt, một vai anh hùng cho người Việt Nam.

    Xin qúy vị cộng đồng Việt Nam, qúy vị nào theo dõi Lê Cung, xin qúy vị dành thì giờ đi coi phim Pandorum đang được chiếu tại các rạp ciné. Đừng đợi đến khi ra DVD, vì coi ở rạp ciné rất là hay, hay hơn coi ở nhà.

    VOA: Sau phim Pandorum, Lê Cung còn đóng phim nào khác không?

    Lê Cung: Trong 2 năm qua, Lê Cung đã đóng 5 phim. Lê Cung đã đóng phim với Donnie Yen, Master Woo-ping, là những ngôi sao nổi tiếng bên Tàu. Nếu muốn biết Lê Cung làm phim gì, xin qúy vị lên website của Lê Cung là cungle.com, để coi Lê Cung đi đóng phim gì, khi nào phát hành.

    Lê Cung muốn cám ơn cộng đồng Việt Nam trên khắp thế giới trong mấy năm qua đã ủng hộ Lê Cung trên võ đài. Bây giờ Lê Cung ráng cố gắng để nổi tiếng trên phim ảnh, Lê Cung xin cộng đồng Việt Nam ủng hộ Lê Cung.

    VOA: Cám ơn Lê Cung đã dành cho đài VOA cuộc phỏng vấn này, và chúc Lê Cung thành công.

    http://www.voanews.com/vietnamese/2009-10-08-voa46.cfm

    Back to top
    « Last Edit: 09. Oct 2009 , 11:48 by Đặng-Mỹ »  
     
    IP Logged
     
    nguyen_toan
    Gold Member
    *****
    Offline


    I love YaBB 1G - SP1!

    Posts: 4083
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #198 - 18. Oct 2009 , 22:20
     



    Chuyện Tàu Việt nam Thương Tín 1975 trở về VN

    LGT : 17 giờ ngày 29/04/1975, cuộc "thương thuyết" giữa chính phủ đầy ngây thơ và ảo tưởng mệnh danh "thành phần thứ ba" với quân Cộng Sản Việt Nam đã hoàn toàn tan vỡ..Quân đội Cộng Sản tập trung hoả lực và cơ giới tiến thẳng vào thủ đô Sài Gòn. 10:30 sáng ngày 30/04/1975, với danh nghĩa Tổng Thống, cựu Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Trước đó không đầy 24 giờ, Dương Văn Minh ký cho Nguyễn Hữu Chung một Sự vụ lệnh đưa chiếc tàu Việt Nam Thương Tín đi, và một Sự vụ lệnh cho Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam đưa một số vàng tồn trữ ở Ngân hàng này xuống tàu Việt Nam Thương Tín để khỏi lọt vào tay Cộng Sản. Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam định lấy vàng đem đi, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo và Thống Đốc Lê Quang Uyển nhất định không chịu trao, vì muốn giữ lại trao cho VC để lấy điểm.
    Bàn cãi nhau trong vòng 1 tiếng đồng hồ, Nguyễn Hữu Chung không thuyết phục được Nguyễn Văn Hảo và Lê Quang Uyển, nên Nguyễn Hữu Chung phải lật đật xuống tàu Việt Nam Thương Tín để ra đi.

    Tàu Việt Nam Thương Tín ra đến sông Lòng Tảo bị Cộng quân nã B-40 vào hông tàu, làm thủng một mảng lớn. Nhà Văn Chu Tử, Chủ Nhiệm Nhật báo Sống ở Sàigòn đã bị đạn B-40 của Cộng Sản Việt Nam giết chết trên tàu Việt Nam Thương Tín. Vậy mà khi cập bến Guam, phần do nội tuyến VC tuyên truyền, phần vì ly biệt người thân, 1652 người đã chấp nhận lên tàu Việt Nam Thương Tín quay trở lại Việt Nam, vào tháng 10/1975, dưới sự điều khiển của Trung Tá Hải Quân Trần Đình Trụ.

    Sau khi cập bến, tất cả những người trở về đã bị cầm tù ngoại trừ một bé trai 7 tuổi.

    Cựu Trung Tá Trụ đã bị tù 13 năm. Cuối cùng ông được trả tự do và ông cùng với gia đình đã được định cư tại Hoa Kỳ qua diện HO năm 1990.

    Kể từ khi cộng sản chiếm đóng miền Nam, nhiều người đã hậm hực tiếc rẻ không chạy thoát trước ngày 30/04, ra nước ngoài. Vì thế, mọi người đã sững sờ khi nghe tin hơn 1600 người "đòi về" với chế độ cộng sản chứ không thèm ở trên xứ tự do!

    Người Mỹ trên đảo lúc đó đã tìm đủ mọi cách để dỗ dành, chiều chuộng họ để họ ở lại nhưng không được. Họ nhất quyết tin tưởng nếu "thành tâm" về với cộng sản như vậy, họ sẽ được cộng sản đãi ngộ tử tế và coi như anh hùng ! Lúc đó, người nào cũng hy vọng là sự trở về của họ sẽ được cộng sản thích thú chấp nhận và đãi ngộ tử tế. Người Mỹ thì biết những người trở về sẽ vô cùng cực khổ vì thiếu thốn nên đã trang bị cho họ đủ thứ mùng mền, chăn gối, lương thực ê hề. Có người đã phải nói người Mỹ cho nhiều đồ như cho con gái về nhà chồng!

    Nào ngờ đâu khi tàu Việt Nam Thương Tín cập bến Nha Trang, Việt Cộng đã cho lột sạch sẽ quần áo và của cải trước khi đưa tất cả vào trại giam. Mỗi người phải trút bỏ hết quần áo và được cấp phát 2 bộ quần áo cũ hay quần áo tù. Cộng sản làm như vậy để tiện lục soát trong quần áo và tịch thu toàn bộ của cải, kể cả những bộ quần áo của người tỵ nạn.

    Kết quả là mỗi người được cộng sản đón bằng cái còng số 8, bất kể đàn bà trẻ con ! Tất cả phải lột sạch quần áo để công an khám người, khám tóc tìm cái gì có thể giấu được. Quần áo bị tịch thu để công an có thời giờ lục soát kỹ càng và lấy luôn. Trong số những người về có tới 400 sĩ quan cảnh sát, và mấy trăm sĩ quan quân đội. Đàn bà và trẻ con bị giam tối thiểu 9 tháng, những người khác từ 5 năm trở lên, tuỳ theo thành phần, lý lịch. Một số lớn bị tình nghi do CIA "cài" về để làm gián điệp, tình báo thì còn bị giam lâu hơn!

    Thân nhân gia đình của những sĩ quan trở về đã thất vọng và nguyền rủa chồng họ không tiếc lời. Báo hại những người vợ nghèo nàn này còn phải lo tiền bạc đồ ăn đi thăm nuôi. Nhiều bà đã quá giận bỏ chồng khiến cho gia đình tan nát. Các "nạn nhân" chỉ còn cúi đầu sống trong sự tiếc hận, tủi hổ với lương tâm và với mọi người, và tiếc nuối một dịp may đã mất đi vĩnh viễn.

    Nhưng trong số những người trở về VN trên tàu Việt Nam Thương Tín cũng có nhiều hoàn cảnh thương tâm. Thí dụ như Trường Sa. Trả lời phỏng vấn của Thy Nga, ông cho biết: Khi đó, tôi là Chỉ huy trưởng cái đoàn hộ tống công-voa các thương thuyền của các nước đi tiếp tế cho chính quyền Lon Nol tại Campuchia. Ngày 29 thì tôi ở Vàm An Long trên sông Cửu Long. Khi mà tôi liên lạc với các cấp chỉ huy của tôi thì người ta đi hết rồi, thành ra đêm hôm đó, tôi dùng một chiếc tàu nhỏ trở về Sài Gòn nhưng không vô được bên trong nữa. Và từ đó, tôi gặp chiến hạm từ Sài Gòn đi ra, tôi lên chiến hạm, đi tới đảo Guam luôn. Khi lên tàu, tôi tìm khắp trên các chiến hạm đang di tản, không có gia đình tôi. Không liên lạc được với gia đình, vợ con tôi ở Sài Gòn. Tôi không bỏ rơi gia đình trong cảnh khó khăn như thế. Khi đến đảo Guam thì tôi xin Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc can thiệp cho tôi trở về Việt Nam. Hoàn cảnh nào, tôi cũng chấp nhận hết. Vì vậy, tôi theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam. Khi tàu tới Nha Trang, VC bắt tôi lên Ty Cảnh Sát cũ tại Nha Trang ở đó 2 tháng, rồi chuyển ra trại A 20 Phú Khánh. Một thời gian ngắn sau thì chuyển ra Bắc, trại Nghệ Tĩnh đến năm 1984, mất cả thảy 9 năm ! Chỉ vì đã ra đi, rồi lại trở về. Năm 1986 thì tôi vượt biên, bị bắt. Từ cửa biển vào Mỹ Tho, dọc đường tôi bị đánh dữ lắm. Họ giam tôi 45 ngày trong xà-lim tối, sau đó, họ cho ra lao động. 2 năm sau thì thả tôi về.

    Đến tháng 04/1989, tôi tiếp tục đi nữa. Lần này thành công, tôi cùng 3 con đến Pulau Bidong, phải chờ 28 tháng, mới được Canada nhận vào.

    Giống như nhạc sĩ Trường Sa, ông M Ngọc Phan cũng vì vợ con còn kẹt lại ở Việt Nam, nên đã từ đảo Guam trở lại VN trên tàu VN Thương Tín để rồi trải qua 6 năm tù đầy trong trại tù cải tạo của CS và 12 năm sau, ông và gia đình mới vượt biên thành công, đến được Hoa Kỳ. Sau đây là đoạn hồi ký của ông.

    * * * * *
    Thằng Quốc ngả người về phía bố, mặt nhăn nhó vì ù tai khi chiếc Boeing 747 hạ thấp để chuẩn bị đáp xuống phi trường San Francisco .
    - Ba ơi, lỗ tai con bị nhức quá.
    - Ráng chút đi con, mình sắp tới nơi rồi. Máy bay xuống tới phi đạo là hết ngay ấy mà. Coi mẹ và các chị em con có ai than thở gì đâu.

    Nói xong, tôi lấy tay day day hai bên lỗ tai thằng nhỏ, giúp nó làm giảm áp lực không khí cho dễ chịu.

    Rồi máy bay cũng đã hạ cánh an toàn. Bên ngoài nắng nhạt cuối ngày trải dài lên hai tấm thảm cỏ màu xanh lá mạ chạy dài tít tắp hai bên phi đạo. Tôi thở dài nhẹ nhõm:
    - Thế là cuối cùng mình đã đến nơi, muộn hơn những 12 năm.

    Máy bay vừa ngừng, đèn an toàn chưa tắt thì mọi người đã ào ào đứng dậy, báo hại nhân viên phi hành phải la ơi ới, yêu cầu bà con ngồi xuống lại.

    Chuyến máy bay này do Cao Uỷ thuê bao để chở người tỵ nạn, mà phe ta phần đông không rành tiếng Anh và luật lệ trên máy bay mới ra nông nỗi. Riêng tôi nghĩ mình chờ đã bao năm nay, thì có chờ thêm vài chục phút nào có sá gì, nên nói với vợ con cứ từ từ, chờ cho mọi người xuống hết rồi mới đứng dậy lấy hành lý.

    Hoàn thành xong thủ tục Quan Thuế, người đại diện Hội Bảo Trợ hướng dẫn gia đình tôi đến ... Cổng Thiên Đàng.

    Thật đúng như vậy, bao nhiêu là người thân ăn mặc đẹp đẽ, đang náo nức chờ đợi đón rước gia đình tôi vào miền đất hứa mà tôi đã trót một lần từ bỏ.

    Sau những niềm vui và choáng váng với hạnh phúc chan hoà giữa đại gia đình anh chị em trong bữa tiệc đoàn tụ, nằm trên giường đã lâu mà tôi vẫn còn thao thức mãi. Vì khác biệt múi giờ cũng có, mà cái chính là đầu óc vẫn còn quay cuồng, với quá khứ sau bao năm rồi mà vẫn còn hiển hiện như mới ngày hôm qua.

    * * * * *
    Vào đầu tháng 04/1975, căn cứ Hải Quân Phú Quốc cấm trại 100 % vì tình hình đất nước càng lúc càng mịt mờ, tôi đưa vợ con lên tàu vào đất liền để rảnh tay lo nhiệm vụ của một Sĩ Quan luôn luôn chấp hành lệnh cấp trên.

    Bé Dương mới hơn 2 tuổi và vợ lại gần sanh, nên tôi nghĩ không gì tốt và an toàn hơn là gửi cả về bên Ngoại ở Rạch Giá, để có người giúp đỡ lúc sanh nở.

    Ngày 29/04 thì tình hình đã rối beng lên, tất cả tàu trong căn cứ được lệnh nhổ neo, tôi đi theo chiếc Tuần Duyên Hạm HQ 600.

    Mặc dầu đã cố gắng liên lạc về Rạch Giá với gia đình, nhưng làm sao mà kịp được nữa!

    Lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh như nhát gươm cuối cùng cắt đứt hy vọng của mọi người. Ngồi trên boong tàu nhìn về quê hương mà nước mắt tôi chan hoà. Thôi thế là hết! Thế là tán gia vong quốc.

    Trước đấy hơn một tháng, đã có biết bao công chức, lính tráng di tản về hòn đảo cuối vùng đất nước này, nên HQ cố gắng hết sức để đưa họ ra khơi, mà lúc này cũng chưa ai biết sẽ đi về đâu.

    Tàu tôi đã chuyển rất nhiều chuyến ra Tuần Dương Hạm. Tôi chứng kiến bao cảnh thương tâm vợ chồng con cái la khóc vì lạc nhau, thảm cảnh tai nạn khi chuyển lên tàu lớn, có người rớt xuống biển mà không thể nào vớt được.

    Trong hoàn cảnh hỗn quan hỗn quân ấy, tôi đã hết lòng giúp đỡ mọi người, những ghe nhỏ từ đảo Phú Quốc hay từ Rạch Giá chạy ra chở đầy người, nhưng vợ con mình thì lại không thấy đâu!

    Hạm Trưởng ra lệnh chạy về hướng Singapore, ba ngày sau tàu cặp bến thì tôi chuyển qua chiếc HQ 229 để đi Subic Bay- Philippines. Nơi đây tôi đã đứng nghiêm, đau lòng tham dự lễ hạ quốc kỳ VNCH trên con tàu, tháo cặp lon trên vai áo bạc màu, làm thủ tục ở đây 20 ngày rồi lên máy bay qua đảo Guam. 

    Suốt những ngày ở trại Asan, tôi thẫn thờ như kẻ không hồn, lạc lõng giữa những người đồng số phận lưu vong. Chỉ có một số người may mắn đầy đủ gia đình, họ mau mắn tiến hành thủ tục định cư càng sớm càng tốt.

    Nhìn cảnh gia đình họ mà tôi thèm thuồng và tủi cho thân phận mình. Tuy nhiên tôi vẫn lo làm giấy tờ để đi định cư mà lòng thì ngao ngán. Rồi đây trên xứ người, trơ trọi một thân một mình, không cha mẹ anh em, vợ con thì mình sẽ sống ra sao. Càng nghĩ càng buồn.

    Đêm đêm tôi ra ngồi sát bãi biển, mắt đăm đắm nhìn về hướng quê nhà, nơi có người cha già yếu, vợ dại con thơ đang lo lắng không biết tôi sống chết ra sao. Tôi nhớ đến miền quê nghèo mà mình đã sống từ nhỏ, có bà con lối xóm đầy ấp tình người, luôn luôn thuận hoà và bảo bọc nhau trong mọi hoàn cảnh ngặt nghèo. Nhất là bây giờ không biết vợ tôi sanh nở có mẹ tròn con vuông hay không. Mình đi rồi thì mẹ con nó lấy gì sanh sống và tồn tại đây.

    Tôi nhớ tới cuộc di cư mà cha mẹ mình đã trải qua 20 năm về trước mà lòng não nề. Trong một nước mà còn không thể gặp nhau, huống hồ bây giờ tôi ra nước ngoài thì biết bao giờ gặp lại.

    Đến cuối tháng Sáu, trong trại có tin đồn là nếu ai muốn về VN thì chính phủ Mỹ sẽ cho về. Tôi nghe một cách lơ là vì cho rằng khó có chuyện đó xẩy ra, nhưng càng lúc tin đồn càng lớn mạnh, một người quen nói với tôi là rất nhiều người đã ghi danh để trở về.

    Cùng lúc ấy, có một nhóm khá đông hàng ngày tụ tập trước Văn phòng Đại diện, biểu tình yêu sách "được mau trở về VN vì nước nhà đã được độc lập, đã hết chiến tranh rồi. Hoà bình đến thì nước nhà cần bàn tay của mọi công dân"?. Cho đến lúc này, việc định cư của tôi vẫn còn mù mờ, không có tin tức gì cả. Tinh thần tôi dao động, khủng hoảng, đắn đo không biết tính sao.

    Nếu đi định cư thì chắc chắn là phần vật chất thì no ấm rồi đó, nhưng về tinh thần thì có gì bù đắp được, khi không có gia đình và một người thân nào ở bên cạnh. Nhưng trở về thì sẽ ra sao? Họ có bắt bớ tra tấn tù đày gì không? Tôi trằn trọc thao thức nhiều đêm để quyết định cho hướng đi của cuộc đời mình.

    Người xưa đã nói : Thà chết một đống, còn hơn sống một người. Cả gia đình tôi còn ở miền quê hương ấy, tôi lại là con trai cả, có nhiệm vụ với nguyên một đại gia đình và với vợ con. Nhất định mình phải trở về, không lẽ bây giờ họ thắng rồi, mà lại "Đánh kẻ chạy lại". Cùng lắm là sau vài tuần điều tra, thấy chẳng có gì là họ cho về với gia đình chứ cơm đâu mà nuôi mãi.

    Đọc lịch sử thế giới ai cũng thấy rằng người thắng trận bao giờ cũng mã thượng, như cuộc chiến Nam Bắc ở Hoa Kỳ 1861-1865, Bắc Quân thắng trận nhưng lính Nam Quân vẫn an lành trở về nhà, cả hai miền đều chung sức làm nên nước Mỹ ngày càng cường thịnh.

    Rồi như nước Nhật, nước Đức kia, thua trận thê thảm năm 1945 mà được cựu thù Hoa Kỳ giúp đỡ, nên chỉ chừng một thập niên sau là trở thành những cường quốc ngay. Việt Nam chắc hẳn cũng thấy ra điều đó. Nhất định là mình phải trở về. Nghĩ vậy nên khi tôi bước lên tàu VNTT mà lòng khấp khởi.

    Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín đã vào hải phận Vũng Tàu.

    Hôm đó là ngày 29/09/1975 có trên dưới 1450 hành khách, với rất nhiều lương thực và hành lý do chính Phủ Hoa kỳ trao tặng gồm chăn màn, quần áo và thuốc men như những món quà của người đi xa mang về cho gia đình ...

    Không biết tại sao mà liên lạc từ trước rồi, mà mãi ngày hôm sau mới thấy hai chiếc tàu Hải Quân bây giờ trương cờ đỏ sao vàng ra đậu cách đó khoảng 200 m, rồi họ bắc ống dòm nhìn sang chăm chú. Mấy tiếng đồng hồ sau mới ra hiệu hướng dẫn chiếc VNTT chạy ngược ra phía miền Trung.

    Bây giờ thì nỗi lo lắng đã hiện lên nét mặt nhiều người, nhưng ai cũng nán lòng chờ đợi vì chưa biết rồi ra sẽ như thế nào.

    Ngày hôm sau thì tàu cập bến Nha Trang. Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân nơi tôi theo học còn đây, mà sao phố phường im vắng như thành phố chết ?

    Tất cả mọi người lớn bé đều bị dồn lên xe bít bùng mà chở về Trung Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II cũ. Lúc này thì ai cũng lờ mờ nhận thấy rằng khốn nạn đến nơi rồi!

    Mọi người phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào những căn barrack.

    Nhớ mới đây, thực phẩm ở trại Mỹ ê hề thịt trứng, nho, cam mà bây giờ chỉ có cá mối ươn kho mặn là chính, thỉnh thoảng mới được ca canh nấu bằng rau muống hoặc rau cải già. Mỗi ngày một nhóm phải đi khai báo lý lịch trên Phòng Chấp Pháp: trước đây làm chức vụ gì trong Nguỵ Quyền, hoạt động ra sao, trong bao nhiêu năm ... Mỗi người được phát một số tờ sơ yếu lý lịch và ít tờ giấy trắng để viết lời khai. Cán bộ thì ông nào ông nấy mặt lạnh như tiền, cặp mắt thò lỏ ra như mắt chuột và hàm răng thuốc lào thì cứ vẩu tướng mãi lên, họ luôn luôn nói lải nhải câu: "Nếu các anh thành thật khai báo, thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho về".

    Bây giờ thì cái câu ông Thiệu nói, nó hiển hiện lên trí óc mọi người: "Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm." Về sau này ai cũng hiểu rằng đám cán bộ này thuộc Cục Tình Báo Nước Ngoài thuộc Bộ Công An.

    Suốt 2 tháng trời, tinh thần mọi người trở về đều bị khủng bố, ép cung, còn về vật chất thì quá thiếu thốn, cực khổ. Những giòng nước mắt hối hận đêm đêm ứa ra mà không ai dám than với ai, chỉ thầm đấm ngực ăn năn "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng".

    Họ chụp mũ mọi người là CIA, Mỹ gài lại VN phá hoại, chống phá nhà nước. Không biết bao nhiêu lần tôi phải giải thích tại sao tôi lại trở về.

    Tôi kể về nỗi nhớ nước thương nhà, lưu luyến vợ con và gia đình, nhưng những con người không có trái tim đó họ không chịu hiểu. Điều phiền muộn nhất cho mọi người là về đến nước nhà rồi mà không ai được liên lạc với gia đình. Chúng tôi cũng biết chắc rằng người thân cũng lo lắng rất nhiều vì mình biệt vô âm tín.

    Vài tháng sau thì đàn bà con nít đã được thả ra, nhưng hơn 500 Sĩ Quan, Cảnh Sát hoặc những người làm bên ngành An Ninh bị tách riêng ra.

    Đến đầu năm 1976 thì tôi bị chuyển đến trại A-30 Xuân Phước ở gần Tuy Hoà để "Cải tạo lao động" với câu quen thuộc cũ : "Nếu các anh cải tạo tốt, lao động tốt, học tập tốt thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho các anh về".

    Chẳng còn ai tin những lời hứa hẹn này và câu sau của ông Thiệu lại vang vọng: "hãy nhìn kỹ những gì VC chúng làm".

    Tôi nghe nói những người từ cấp Đại Uý trở lên đã bị chở ra ngoài Bắc, riêng những người thuộc Ban Đại Diện tàu này thì đã bị đưa về khám Chí Hoà từ những ngày đầu. Chắc chắn là họ thê thảm rồi chứ không được tưởng thưởng vì đã đem về cho VC một con tàu đâu.

    Thời gian tù đày càng ngày càng vô vọng vì tù mà không có án, thân thể hao mòn vì thiếu thốn. Sự đói khát, kiểm thảo, phê bình, lao khổ trong tù thì đã có quá nhiều người nói đến, kể ra chỉ rườm lời. Tôi xuống tinh thần rồi đổ bệnh tưởng không qua khỏi.

    Sự hối hận này so với những người khác cũng chưa thấm vào đâu, nhất là những người vì ngây thơ, đã chia tay với gia đình khi ở bên trại mà trở về một mình. Còn những ông khi biểu tình đòi về VN to mồm thế nào, thì sự hối hận càng tăng thêm độ nặng chừng đó. Họ không dám nhìn ánh mắt những bạn đồng tù.

    Rồi cũng không ai hiểu tại sao đội của tôi lại được tuyên dương là có thành tích lao động nên được cho phép viết thư về nhà. Dĩ nhiên với nội dung là ca tụng đảng và nhà nước chăm sóc cho mình rất chu đáo.

    Mấy tháng sau thì vợ và đứa em trai ra thăm, nhưng tôi vì không đi lao động nổi nên bị phạt không cho gặp mặt gia đình, cũng không được nhận quà thăm nuôi!

    Sau này tôi mới biết được mùa nước năm ấy, quê tôi bị nước lũ tràn về, lúa chưa chín đã bị chìm trong làn nước lụt, mất trắng. Thế mà gia đình chỉ còn con heo độc nhất đành phải bán đi mà ra thăm nuôi tôi.

    Thời điểm ấy đi đâu cũng phải trình báo, xe cộ khó khăn, nếu không phải là công nhân viên, cán bộ thì chỉ còn có nước mua vé chợ đen mà thôi. Từ miền quê Rạch Giá ra đến Tuy Hoà biết bao vất vả tốn hao, thế mà không được nhìn mặt nhau cho dù là qua một hàng rào kẽm gai.

    Rồi qua một năm dài đằng đẵng nữa, tôi mới được phép thăm nuôi. Lần này vợ tôi bồng thằng Quốc đi theo. Hai người ngồi 2 bên mép bàn, tên quản giáo với ánh mắt cú vọ ngồi đầu bàn. Cả hai đều không nói nên lời khi thấy nhau ốm yếu như que tăm, một người trong nhà tù nhỏ còn người kia trong tù lớn rộng ra cả nước.

    15 phút trôi qua thật nhanh, biết bao tâm tình muốn nói mà cả hai không thể thốt nên lời, cuối cùng tôi gắng gượng bảo:
    - Mình cố ráng săn sóc gia đình thay anh, còn anh thì không cần đi thăm nuôi nữa đâu nghen.

    Tôi lủi thủi trở vào bên trong dẫy trại giam, không dám quay lại nhìn vợ con đang giọt ngắn giọt dài. Tưởng là về để giúp đỡ vợ con, ai ngờ mình lại trở nên gánh nặng cho cả gia đình.

    Cả đời nào có biết văn chương là gì, thế mà hôm ấy tôi cũng viết được một bài thơ :

    Hết chiến tranh rồi phước hoạ ai
    Đợi mong mòn mỏi tháng năm dài
    Lặn lội thăm chồng đi khắp chốn
    Đường xa vạn dặm trĩu đôi vai

    Viếng thăm chưa thoả niềm thương nhớ
    Chia ly thêm nặng nỗi u hoài
    Lỡ bước sa cơ đời đen tối
    Thương người thiếu phụ lắm chông gai

    Xuân qua hè tới, thấm thoát mà đã hơn sáu năm trời mang thân tù tội, nhìn những hàng cây xoài, cây nhãn do chính tay mình trồng đã đâm hoa kết trái, mà mình vẫn còn ở nơi đây chúng tôi càng hối hận. Nhưng cuối cùng đến giữa năm 81 thì họ thả tôi ra.

    Tôi phải mất ba bốn ngày trời mới từ miền Trung lần mò về đến quê nhà. Những người tài xế xe đò, những người buôn gánh bán bưng, bà già bán cơm ... khi biết tôi là tù được tha đều tỏ lòng quí mến mà giúp đỡ trên quãng đường qui hồi cố hương. Lòng tôi nao nao. À thì ra lòng con người Việt Nam vẫn còn đây chứ không phải đã bị nhuộm màu đỏ hết.

    Dọc đường về, nhìn đâu cũng thấy cảnh u ám, người người đói khát, da mặt ai cũng đen đúa xấu xí. Từ đường lộ về đến nhà gần ba cây số, tôi tự hỏi sao hàng cây xanh tươi ngày xưa bây giờ lại xơ xác quạnh hiu, không còn sinh khí như vậy.

    Đến nhà, con chó vàng xồ ra sủa rồi vẫy đuôi mừng rỡ. Cha tôi lọm khọm buông gậy mà chạy ra đón con. Vợ và 2 đứa nhỏ tíu tít quấn quít mà sao căn nhà coi bộ vắng vẻ hơn xưa nhiều quá. Thì ra các em tôi đã lần lượt theo nhau vượt biên hết rồi. Bà con xóm ngõ cũng đang tiếp tục âm thầm ra đi mỗi ngày một nhiều.

    Tôi thẩn thơ ra vào trong căn nhà vắng hẳn tiếng cười, lo lắng như con chim đã một lần bị tên, thấy cành cây cong cũng sợ, nên dù có nhiều người đề nghị đi vượt biên lắm mà tôi chưa biết tính sao. Tôi đã một lần quyết định sai lầm, lần này nếu ra đi mà bị bắt thì chắc là ở tù lâu lắm.

    Rồi tôi cũng phải ra đi mà thôi, nhưng phải mất đến 6 năm sau, với bao lần thất bại vì bể bãi, rồi cả gia đình tôi mới đến được bến bờ tự do.

    Hôm nay, những người bà con đến chung vui, có ông bạn trẻ Đinh Đoan tặng cho bài thơ "Đố Ai":
     
    Người ơi có nhớ năm nao
    Cái ngày tan tác ba đào thương đau
    Đố xem kẻ kẹt trên tàu
    Đảo Guam phải đến dạ sầu nhớ ai
    Mênh mông với nỗi u hoài
    Theo tàu Thương Tín đưa ngài về quê
    Gian nan khổ ải chẳng nề
    Ai ngờ bóc lịch ê chề thảm thương
    Ra tù với nỗi sầu vương
    Ngược xuôi dẫn vợ tìm đường vượt biên
    Trời cao cũng độ kẻ hiền
    Giúp ông tìm được đến miền tự do
    Thiên đàng kia vẫn còn chờ
    Gia đình hạnh phúc ước mơ đã thành.
    Hỏi em hỏi chị hỏi anh
    Xin cho tôi biết quí danh của ngài?

    Mục Đồng ở New York có bài thơ "Ông Là ..." hoạ lại:

    Tôi còn nhớ chuyện năm xưa.
    Cái ngày tan tác như vừa hôm qua
    Tuần duyên vượt sóng hải hà
    Đưa chàng chiến sĩ rời xa quê mình
    Nhưng sau vì nghĩa vì tình
    Nên đành chấp nhận hy sinh trở về
    Bao nhiêu gian khổ chẳng nề
    Dù cho bóc lịch ê chề thảm thương
    Cuộc đời dâu bể khôn lường
    Bao đêm dắt vợ tìm đường ra khơi
    Hình như cũng thuận ý trời
    Qua cơn bĩ cực đến thời thái lai
    Ông là : bác Ngọc chứ ai
    Đêm đen bỏ lại, tương lai đang chờ
    Mừng vui hai chữ tự do
    Gia đình đoàn tụ giấc mơ đây rồi

    Phải ! Giấc mơ đây rồi. Giấc mơ này tôi đã ao ước từ 12 năm trước, mong được đoàn tụ với mọi người trong gia đình. Đến nay mới đạt được, và tôi đã phải trả một giá quá đắt.

    Hơn 15 năm ở xứ Huê Kỳ trôi qua thật nhanh, bây giờ mái tóc đã muối nhiều hơn tiêu, mà trên chỏm đầu tóc đã đi chơi hết trơn nên trọc boong như cái hột vịt lộn, tôi ngồi vò đầu ngẫm nghĩ lại thì mình đúng là ở hiền gặp lành, chung tình với vợ con nên bây giờ được vợ cưng như cái trứng mỏng, con cái ngoan ngoãn.

    Tôi tuy đến muộn, nhưng biết thân biết phận mình, vợ chồng cố ráng làm ăn, nên nay cũng "đi xe hơi, ở nhà lầu, nhà có TV tủ lạnh đủ cả; cơm ăn ngày 3 bữa, quần áo mặc cả ngày" (just kidding). Giá mà hồi đó không trở về, có khi mình đã lấy một cô vợ Mễ, và nay thì cô ta đã xay mình nát ra như cám, "tiêu diêu nơi miền cực nhọc" rồi, mà vợ con mình cho đến bây giờ không biết ở nơi nao.

    Người ta nói trâu chậm uống nước đục, mà tôi sao lại cứ được uống sữa tươi thế này ? Hoàng thiên đối với tôi như vậy nghĩ cũng là quá hậu đãi.

    M Ngọc Phan,

    Cập Nhựt 2009/09














































































































    LGT : 17 giờ ngày 29/04/1975, cuộc "thương thuyết" giữa chính phủ đầy ngây thơ và ảo tưởng mệnh danh "thành phần thứ ba" với quân Cộng Sản Việt Nam đã hoàn toàn tan vỡ..Quân đội Cộng Sản tập trung hoả lực và cơ giới tiến thẳng vào thủ đô Sài Gòn. 10:30 sáng ngày 30/04/1975, với danh nghĩa Tổng Thống, cựu Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Trước đó không đầy 24 giờ, Dương Văn Minh ký cho Nguyễn Hữu Chung một Sự vụ lệnh đưa chiếc tàu Việt Nam Thương Tín đi, và một Sự vụ lệnh cho Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam đưa một số vàng tồn trữ ở Ngân hàng này xuống tàu Việt Nam Thương Tín để khỏi lọt vào tay Cộng Sản. Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam định lấy vàng đem đi, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo và Thống Đốc Lê Quang Uyển nhất định không chịu trao, vì muốn giữ lại trao cho VC để lấy điểm.
    Bàn cãi nhau trong vòng 1 tiếng đồng hồ, Nguyễn Hữu Chung không thuyết phục được Nguyễn Văn Hảo và Lê Quang Uyển, nên Nguyễn Hữu Chung phải lật đật xuống tàu Việt Nam Thương Tín để ra đi.

    Tàu Việt Nam Thương Tín ra đến sông Lòng Tảo bị Cộng quân nã B-40 vào hông tàu, làm thủng một mảng lớn. Nhà Văn Chu Tử, Chủ Nhiệm Nhật báo Sống ở Sàigòn đã bị đạn B-40 của Cộng Sản Việt Nam giết chết trên tàu Việt Nam Thương Tín. Vậy mà khi cập bến Guam, phần do nội tuyến VC tuyên truyền, phần vì ly biệt người thân, 1652 người đã chấp nhận lên tàu Việt Nam Thương Tín quay trở lại Việt Nam, vào tháng 10/1975, dưới sự điều khiển của Trung Tá Hải Quân Trần Đình Trụ.

    Sau khi cập bến, tất cả những người trở về đã bị cầm tù ngoại trừ một bé trai 7 tuổi.

    Cựu Trung Tá Trụ đã bị tù 13 năm. Cuối cùng ông được trả tự do và ông cùng với gia đình đã được định cư tại Hoa Kỳ qua diện HO năm 1990.

    Kể từ khi cộng sản chiếm đóng miền Nam, nhiều người đã hậm hực tiếc rẻ không chạy thoát trước ngày 30/04, ra nước ngoài. Vì thế, mọi người đã sững sờ khi nghe tin hơn 1600 người "đòi về" với chế độ cộng sản chứ không thèm ở trên xứ tự do!

    Người Mỹ trên đảo lúc đó đã tìm đủ mọi cách để dỗ dành, chiều chuộng họ để họ ở lại nhưng không được. Họ nhất quyết tin tưởng nếu "thành tâm" về với cộng sản như vậy, họ sẽ được cộng sản đãi ngộ tử tế và coi như anh hùng ! Lúc đó, người nào cũng hy vọng là sự trở về của họ sẽ được cộng sản thích thú chấp nhận và đãi ngộ tử tế. Người Mỹ thì biết những người trở về sẽ vô cùng cực khổ vì thiếu thốn nên đã trang bị cho họ đủ thứ mùng mền, chăn gối, lương thực ê hề. Có người đã phải nói người Mỹ cho nhiều đồ như cho con gái về nhà chồng!

    Nào ngờ đâu khi tàu Việt Nam Thương Tín cập bến Nha Trang, Việt Cộng đã cho lột sạch sẽ quần áo và của cải trước khi đưa tất cả vào trại giam. Mỗi người phải trút bỏ hết quần áo và được cấp phát 2 bộ quần áo cũ hay quần áo tù. Cộng sản làm như vậy để tiện lục soát trong quần áo và tịch thu toàn bộ của cải, kể cả những bộ quần áo của người tỵ nạn.

    Kết quả là mỗi người được cộng sản đón bằng cái còng số 8, bất kể đàn bà trẻ con ! Tất cả phải lột sạch quần áo để công an khám người, khám tóc tìm cái gì có thể giấu được. Quần áo bị tịch thu để công an có thời giờ lục soát kỹ càng và lấy luôn. Trong số những người về có tới 400 sĩ quan cảnh sát, và mấy trăm sĩ quan quân đội. Đàn bà và trẻ con bị giam tối thiểu 9 tháng, những người khác từ 5 năm trở lên, tuỳ theo thành phần, lý lịch. Một số lớn bị tình nghi do CIA "cài" về để làm gián điệp, tình báo thì còn bị giam lâu hơn!

    Thân nhân gia đình của những sĩ quan trở về đã thất vọng và nguyền rủa chồng họ không tiếc lời. Báo hại những người vợ nghèo nàn này còn phải lo tiền bạc đồ ăn đi thăm nuôi. Nhiều bà đã quá giận bỏ chồng khiến cho gia đình tan nát. Các "nạn nhân" chỉ còn cúi đầu sống trong sự tiếc hận, tủi hổ với lương tâm và với mọi người, và tiếc nuối một dịp may đã mất đi vĩnh viễn.

    Nhưng trong số những người trở về VN trên tàu Việt Nam Thương Tín cũng có nhiều hoàn cảnh thương tâm. Thí dụ như Trường Sa. Trả lời phỏng vấn của Thy Nga, ông cho biết: Khi đó, tôi là Chỉ huy trưởng cái đoàn hộ tống công-voa các thương thuyền của các nước đi tiếp tế cho chính quyền Lon Nol tại Campuchia. Ngày 29 thì tôi ở Vàm An Long trên sông Cửu Long. Khi mà tôi liên lạc với các cấp chỉ huy của tôi thì người ta đi hết rồi, thành ra đêm hôm đó, tôi dùng một chiếc tàu nhỏ trở về Sài Gòn nhưng không vô được bên trong nữa. Và từ đó, tôi gặp chiến hạm từ Sài Gòn đi ra, tôi lên chiến hạm, đi tới đảo Guam luôn. Khi lên tàu, tôi tìm khắp trên các chiến hạm đang di tản, không có gia đình tôi. Không liên lạc được với gia đình, vợ con tôi ở Sài Gòn. Tôi không bỏ rơi gia đình trong cảnh khó khăn như thế. Khi đến đảo Guam thì tôi xin Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc can thiệp cho tôi trở về Việt Nam. Hoàn cảnh nào, tôi cũng chấp nhận hết. Vì vậy, tôi theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam. Khi tàu tới Nha Trang, VC bắt tôi lên Ty Cảnh Sát cũ tại Nha Trang ở đó 2 tháng, rồi chuyển ra trại A 20 Phú Khánh. Một thời gian ngắn sau thì chuyển ra Bắc, trại Nghệ Tĩnh đến năm 1984, mất cả thảy 9 năm ! Chỉ vì đã ra đi, rồi lại trở về. Năm 1986 thì tôi vượt biên, bị bắt. Từ cửa biển vào Mỹ Tho, dọc đường tôi bị đánh dữ lắm. Họ giam tôi 45 ngày trong xà-lim tối, sau đó, họ cho ra lao động. 2 năm sau thì thả tôi về.

    Đến tháng 04/1989, tôi tiếp tục đi nữa. Lần này thành công, tôi cùng 3 con đến Pulau Bidong, phải chờ 28 tháng, mới được Canada nhận vào.

    Giống như nhạc sĩ Trường Sa, ông M Ngọc Phan cũng vì vợ con còn kẹt lại ở Việt Nam, nên đã từ đảo Guam trở lại VN trên tàu VN Thương Tín để rồi trải qua 6 năm tù đầy trong trại tù cải tạo của CS và 12 năm sau, ông và gia đình mới vượt biên thành công, đến được Hoa Kỳ. Sau đây là đoạn hồi ký của ông.

    * * * * *
    Thằng Quốc ngả người về phía bố, mặt nhăn nhó vì ù tai khi chiếc Boeing 747 hạ thấp để chuẩn bị đáp xuống phi trường San Francisco .
    - Ba ơi, lỗ tai con bị nhức quá.
    - Ráng chút đi con, mình sắp tới nơi rồi. Máy bay xuống tới phi đạo là hết ngay ấy mà. Coi mẹ và các chị em con có ai than thở gì đâu.

    Nói xong, tôi lấy tay day day hai bên lỗ tai thằng nhỏ, giúp nó làm giảm áp lực không khí cho dễ chịu.

    Rồi máy bay cũng đã hạ cánh an toàn. Bên ngoài nắng nhạt cuối ngày trải dài lên hai tấm thảm cỏ màu xanh lá mạ chạy dài tít tắp hai bên phi đạo. Tôi thở dài nhẹ nhõm:
    - Thế là cuối cùng mình đã đến nơi, muộn hơn những 12 năm.

    Máy bay vừa ngừng, đèn an toàn chưa tắt thì mọi người đã ào ào đứng dậy, báo hại nhân viên phi hành phải la ơi ới, yêu cầu bà con ngồi xuống lại.

    Chuyến máy bay này do Cao Uỷ thuê bao để chở người tỵ nạn, mà phe ta phần đông không rành tiếng Anh và luật lệ trên máy bay mới ra nông nỗi. Riêng tôi nghĩ mình chờ đã bao năm nay, thì có chờ thêm vài chục phút nào có sá gì, nên nói với vợ con cứ từ từ, chờ cho mọi người xuống hết rồi mới đứng dậy lấy hành lý.

    Hoàn thành xong thủ tục Quan Thuế, người đại diện Hội Bảo Trợ hướng dẫn gia đình tôi đến ... Cổng Thiên Đàng.

    Thật đúng như vậy, bao nhiêu là người thân ăn mặc đẹp đẽ, đang náo nức chờ đợi đón rước gia đình tôi vào miền đất hứa mà tôi đã trót một lần từ bỏ.

    Sau những niềm vui và choáng váng với hạnh phúc chan hoà giữa đại gia đình anh chị em trong bữa tiệc đoàn tụ, nằm trên giường đã lâu mà tôi vẫn còn thao thức mãi. Vì khác biệt múi giờ cũng có, mà cái chính là đầu óc vẫn còn quay cuồng, với quá khứ sau bao năm rồi mà vẫn còn hiển hiện như mới ngày hôm qua.

    * * * * *
    Vào đầu tháng 04/1975, căn cứ Hải Quân Phú Quốc cấm trại 100 % vì tình hình đất nước càng lúc càng mịt mờ, tôi đưa vợ con lên tàu vào đất liền để rảnh tay lo nhiệm vụ của một Sĩ Quan luôn luôn chấp hành lệnh cấp trên.

    Bé Dương mới hơn 2 tuổi và vợ lại gần sanh, nên tôi nghĩ không gì tốt và an toàn hơn là gửi cả về bên Ngoại ở Rạch Giá, để có người giúp đỡ lúc sanh nở.

    Ngày 29/04 thì tình hình đã rối beng lên, tất cả tàu trong căn cứ được lệnh nhổ neo, tôi đi theo chiếc Tuần Duyên Hạm HQ 600.

    Mặc dầu đã cố gắng liên lạc về Rạch Giá với gia đình, nhưng làm sao mà kịp được nữa!

    Lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh như nhát gươm cuối cùng cắt đứt hy vọng của mọi người. Ngồi trên boong tàu nhìn về quê hương mà nước mắt tôi chan hoà. Thôi thế là hết! Thế là tán gia vong quốc.

    Trước đấy hơn một tháng, đã có biết bao công chức, lính tráng di tản về hòn đảo cuối vùng đất nước này, nên HQ cố gắng hết sức để đưa họ ra khơi, mà lúc này cũng chưa ai biết sẽ đi về đâu.

    Tàu tôi đã chuyển rất nhiều chuyến ra Tuần Dương Hạm. Tôi chứng kiến bao cảnh thương tâm vợ chồng con cái la khóc vì lạc nhau, thảm cảnh tai nạn khi chuyển lên tàu lớn, có người rớt xuống biển mà không thể nào vớt được.

    Trong hoàn cảnh hỗn quan hỗn quân ấy, tôi đã hết lòng giúp đỡ mọi người, những ghe nhỏ từ đảo Phú Quốc hay từ Rạch Giá chạy ra chở đầy người, nhưng vợ con mình thì lại không thấy đâu!

    Hạm Trưởng ra lệnh chạy về hướng Singapore, ba ngày sau tàu cặp bến thì tôi chuyển qua chiếc HQ 229 để đi Subic Bay- Philippines. Nơi đây tôi đã đứng nghiêm, đau lòng tham dự lễ hạ quốc kỳ VNCH trên con tàu, tháo cặp lon trên vai áo bạc màu, làm thủ tục ở đây 20 ngày rồi lên máy bay qua đảo Guam. 

    Suốt những ngày ở trại Asan, tôi thẫn thờ như kẻ không hồn, lạc lõng giữa những người đồng số phận lưu vong. Chỉ có một số người may mắn đầy đủ gia đình, họ mau mắn tiến hành thủ tục định cư càng sớm càng tốt.

    Nhìn cảnh gia đình họ mà tôi thèm thuồng và tủi cho thân phận mình. Tuy nhiên tôi vẫn lo làm giấy tờ để đi định cư mà lòng thì ngao ngán. Rồi đây trên xứ người, trơ trọi một thân một mình, không cha mẹ anh em, vợ con thì mình sẽ sống ra sao. Càng nghĩ càng buồn.

    Đêm đêm tôi ra ngồi sát bãi biển, mắt đăm đắm nhìn về hướng quê nhà, nơi có người cha già yếu, vợ dại con thơ đang lo lắng không biết tôi sống chết ra sao. Tôi nhớ đến miền quê nghèo mà mình đã sống từ nhỏ, có bà con lối xóm đầy ấp tình người, luôn luôn thuận hoà và bảo bọc nhau trong mọi hoàn cảnh ngặt nghèo. Nhất là bây giờ không biết vợ tôi sanh nở có mẹ tròn con vuông hay không. Mình đi rồi thì mẹ con nó lấy gì sanh sống và tồn tại đây.

    Tôi nhớ tới cuộc di cư mà cha mẹ mình đã trải qua 20 năm về trước mà lòng não nề. Trong một nước mà còn không thể gặp nhau, huống hồ bây giờ tôi ra nước ngoài thì biết bao giờ gặp lại.

    Đến cuối tháng Sáu, trong trại có tin đồn là nếu ai muốn về VN thì chính phủ Mỹ sẽ cho về. Tôi nghe một cách lơ là vì cho rằng khó có chuyện đó xẩy ra, nhưng càng lúc tin đồn càng lớn mạnh, một người quen nói với tôi là rất nhiều người đã ghi danh để trở về.

    Cùng lúc ấy, có một nhóm khá đông hàng ngày tụ tập trước Văn phòng Đại diện, biểu tình yêu sách "được mau trở về VN vì nước nhà đã được độc lập, đã hết chiến tranh rồi. Hoà bình đến thì nước nhà cần bàn tay của mọi công dân"?. Cho đến lúc này, việc định cư của tôi vẫn còn mù mờ, không có tin tức gì cả. Tinh thần tôi dao động, khủng hoảng, đắn đo không biết tính sao.

    Nếu đi định cư thì chắc chắn là phần vật chất thì no ấm rồi đó, nhưng về tinh thần thì có gì bù đắp được, khi không có gia đình và một người thân nào ở bên cạnh. Nhưng trở về thì sẽ ra sao? Họ có bắt bớ tra tấn tù đày gì không? Tôi trằn trọc thao thức nhiều đêm để quyết định cho hướng đi của cuộc đời mình.

    Người xưa đã nói : Thà chết một đống, còn hơn sống một người. Cả gia đình tôi còn ở miền quê hương ấy, tôi lại là con trai cả, có nhiệm vụ với nguyên một đại gia đình và với vợ con. Nhất định mình phải trở về, không lẽ bây giờ họ thắng rồi, mà lại "Đánh kẻ chạy lại". Cùng lắm là sau vài tuần điều tra, thấy chẳng có gì là họ cho về với gia đình chứ cơm đâu mà nuôi mãi.

    Đọc lịch sử thế giới ai cũng thấy rằng người thắng trận bao giờ cũng mã thượng, như cuộc chiến Nam Bắc ở Hoa Kỳ 1861-1865, Bắc Quân thắng trận nhưng lính Nam Quân vẫn an lành trở về nhà, cả hai miền đều chung sức làm nên nước Mỹ ngày càng cường thịnh.

    Rồi như nước Nhật, nước Đức kia, thua trận thê thảm năm 1945 mà được cựu thù Hoa Kỳ giúp đỡ, nên chỉ chừng một thập niên sau là trở thành những cường quốc ngay. Việt Nam chắc hẳn cũng thấy ra điều đó. Nhất định là mình phải trở về. Nghĩ vậy nên khi tôi bước lên tàu VNTT mà lòng khấp khởi.

    Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín đã vào hải phận Vũng Tàu.

    Hôm đó là ngày 29/09/1975 có trên dưới 1450 hành khách, với rất nhiều lương thực và hành lý do chính Phủ Hoa kỳ trao tặng gồm chăn màn, quần áo và thuốc men như những món quà của người đi xa mang về cho gia đình ...

    Không biết tại sao mà liên lạc từ trước rồi, mà mãi ngày hôm sau mới thấy hai chiếc tàu Hải Quân bây giờ trương cờ đỏ sao vàng ra đậu cách đó khoảng 200 m, rồi họ bắc ống dòm nhìn sang chăm chú. Mấy tiếng đồng hồ sau mới ra hiệu hướng dẫn chiếc VNTT chạy ngược ra phía miền Trung.

    Bây giờ thì nỗi lo lắng đã hiện lên nét mặt nhiều người, nhưng ai cũng nán lòng chờ đợi vì chưa biết rồi ra sẽ như thế nào.

    Ngày hôm sau thì tàu cập bến Nha Trang. Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân nơi tôi theo học còn đây, mà sao phố phường im vắng như thành phố chết ?

    Tất cả mọi người lớn bé đều bị dồn lên xe bít bùng mà chở về Trung Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II cũ. Lúc này thì ai cũng lờ mờ nhận thấy rằng khốn nạn đến nơi rồi!

    Mọi người phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào những căn barrack.

    Nhớ mới đây, thực phẩm ở trại Mỹ ê hề thịt trứng, nho, cam mà bây giờ chỉ có cá mối ươn kho mặn là chính, thỉnh thoảng mới được ca canh nấu bằng rau muống hoặc rau cải già. Mỗi ngày một nhóm phải đi khai báo lý lịch trên Phòng Chấp Pháp: trước đây làm chức vụ gì trong Nguỵ Quyền, hoạt động ra sao, trong bao nhiêu năm ... Mỗi người được phát một số tờ sơ yếu lý lịch và ít tờ giấy trắng để viết lời khai. Cán bộ thì ông nào ông nấy mặt lạnh như tiền, cặp mắt thò lỏ ra như mắt chuột và hàm răng thuốc lào thì cứ vẩu tướng mãi lên, họ luôn luôn nói lải nhải câu: "Nếu các anh thành thật khai báo, thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho về".

    Bây giờ thì cái câu ông Thiệu nói, nó hiển hiện lên trí óc mọi người: "Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm." Về sau này ai cũng hiểu rằng đám cán bộ này thuộc Cục Tình Báo Nước Ngoài thuộc Bộ Công An.

    Suốt 2 tháng trời, tinh thần mọi người trở về đều bị khủng bố, ép cung, còn về vật chất thì quá thiếu thốn, cực khổ. Những giòng nước mắt hối hận đêm đêm ứa ra mà không ai dám than với ai, chỉ thầm đấm ngực ăn năn "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng".

    Họ chụp mũ mọi người là CIA, Mỹ gài lại VN phá hoại, chống phá nhà nước. Không biết bao nhiêu lần tôi phải giải thích tại sao tôi lại trở về.

    Tôi kể về nỗi nhớ nước thương nhà, lưu luyến vợ con và gia đình, nhưng những con người không có trái tim đó họ không chịu hiểu. Điều phiền muộn nhất cho mọi người là về đến nước nhà rồi mà không ai được liên lạc với gia đình. Chúng tôi cũng biết chắc rằng người thân cũng lo lắng rất nhiều vì mình biệt vô âm tín.

    Vài tháng sau thì đàn bà con nít đã được thả ra, nhưng hơn 500 Sĩ Quan, Cảnh Sát hoặc những người làm bên ngành An Ninh bị tách riêng ra.

    Đến đầu năm 1976 thì tôi bị chuyển đến trại A-30 Xuân Phước ở gần Tuy Hoà để "Cải tạo lao động" với câu quen thuộc cũ : "Nếu các anh cải tạo tốt, lao động tốt, học tập tốt thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho các anh về".

    Chẳng còn ai tin những lời hứa hẹn này và câu sau của ông Thiệu lại vang vọng: "hãy nhìn kỹ những gì VC chúng làm".

    Tôi nghe nói những người từ cấp Đại Uý trở lên đã bị chở ra ngoài Bắc, riêng những người thuộc Ban Đại Diện tàu này thì đã bị đưa về khám Chí Hoà từ những ngày đầu. Chắc chắn là họ thê thảm rồi chứ không được tưởng thưởng vì đã đem về cho VC một con tàu đâu.

    Thời gian tù đày càng ngày càng vô vọng vì tù mà không có án, thân thể hao mòn vì thiếu thốn. Sự đói khát, kiểm thảo, phê bình, lao khổ trong tù thì đã có quá nhiều người nói đến, kể ra chỉ rườm lời. Tôi xuống tinh thần rồi đổ bệnh tưởng không qua khỏi.

    Sự hối hận này so với những người khác cũng chưa thấm vào đâu, nhất là những người vì ngây thơ, đã chia tay với gia đình khi ở bên trại mà trở về một mình. Còn những ông khi biểu tình đòi về VN to mồm thế nào, thì sự hối hận càng tăng thêm độ nặng chừng đó. Họ không dám nhìn ánh mắt những bạn đồng tù.

    Rồi cũng không ai hiểu tại sao đội của tôi lại được tuyên dương là có thành tích lao động nên được cho phép viết thư về nhà. Dĩ nhiên với nội dung là ca tụng đảng và nhà nước chăm sóc cho mình rất chu đáo.

    Mấy tháng sau thì vợ và đứa em trai ra thăm, nhưng tôi vì không đi lao động nổi nên bị phạt không cho gặp mặt gia đình, cũng không được nhận quà thăm nuôi!

    Sau này tôi mới biết được mùa nước năm ấy, quê tôi bị nước lũ tràn về, lúa chưa chín đã bị chìm trong làn nước lụt, mất trắng. Thế mà gia đình chỉ còn con heo độc nhất đành phải bán đi mà ra thăm nuôi tôi.

    Thời điểm ấy đi đâu cũng phải trình báo, xe cộ khó khăn, nếu không phải là công nhân viên, cán bộ thì chỉ còn có nước mua vé chợ đen mà thôi. Từ miền quê Rạch Giá ra đến Tuy Hoà biết bao vất vả tốn hao, thế mà không được nhìn mặt nhau cho dù là qua một hàng rào kẽm gai.

    Rồi qua một năm dài đằng đẵng nữa, tôi mới được phép thăm nuôi. Lần này vợ tôi bồng thằng Quốc đi theo. Hai người ngồi 2 bên mép bàn, tên quản giáo với ánh mắt cú vọ ngồi đầu bàn. Cả hai đều không nói nên lời khi thấy nhau ốm yếu như que tăm, một người trong nhà tù nhỏ còn người kia trong tù lớn rộng ra cả nước.

    15 phút trôi qua thật nhanh, biết bao tâm tình muốn nói mà cả hai không thể thốt nên lời, cuối cùng tôi gắng gượng bảo:
    - Mình cố ráng săn sóc gia đình thay anh, còn anh thì không cần đi thăm nuôi nữa đâu nghen.

    Tôi lủi thủi trở vào bên trong dẫy trại giam, không dám quay lại nhìn vợ con đang giọt ngắn giọt dài. Tưởng là về để giúp đỡ vợ con, ai ngờ mình lại trở nên gánh nặng cho cả gia đình.

    Cả đời nào có biết văn chương là gì, thế mà hôm ấy tôi cũng viết được một bài thơ :

    Hết chiến tranh rồi phước hoạ ai
    Đợi mong mòn mỏi tháng năm dài
    Lặn lội thăm chồng đi khắp chốn
    Đường xa vạn dặm trĩu đôi vai

    Viếng thăm chưa thoả niềm thương nhớ
    Chia ly thêm nặng nỗi u hoài
    Lỡ bước sa cơ đời đen tối
    Thương người thiếu phụ lắm chông gai

    Xuân qua hè tới, thấm thoát mà đã hơn sáu năm trời mang thân tù tội, nhìn những hàng cây xoài, cây nhãn do chính tay mình trồng đã đâm hoa kết trái, mà mình vẫn còn ở nơi đây chúng tôi càng hối hận. Nhưng cuối cùng đến giữa năm 81 thì họ thả tôi ra.

    Tôi phải mất ba bốn ngày trời mới từ miền Trung lần mò về đến quê nhà. Những người tài xế xe đò, những người buôn gánh bán bưng, bà già bán cơm ... khi biết tôi là tù được tha đều tỏ lòng quí mến mà giúp đỡ trên quãng đường qui hồi cố hương. Lòng tôi nao nao. À thì ra lòng con người Việt Nam vẫn còn đây chứ không phải đã bị nhuộm màu đỏ hết.

    Dọc đường về, nhìn đâu cũng thấy cảnh u ám, người người đói khát, da mặt ai cũng đen đúa xấu xí. Từ đường lộ về đến nhà gần ba cây số, tôi tự hỏi sao hàng cây xanh tươi ngày xưa bây giờ lại xơ xác quạnh hiu, không còn sinh khí như vậy.

    Đến nhà, con chó vàng xồ ra sủa rồi vẫy đuôi mừng rỡ. Cha tôi lọm khọm buông gậy mà chạy ra đón con. Vợ và 2 đứa nhỏ tíu tít quấn quít mà sao căn nhà coi bộ vắng vẻ hơn xưa nhiều quá. Thì ra các em tôi đã lần lượt theo nhau vượt biên hết rồi. Bà con xóm ngõ cũng đang tiếp tục âm thầm ra đi mỗi ngày một nhiều.

    Tôi thẩn thơ ra vào trong căn nhà vắng hẳn tiếng cười, lo lắng như con chim đã một lần bị tên, thấy cành cây cong cũng sợ, nên dù có nhiều người đề nghị đi vượt biên lắm mà tôi chưa biết tính sao. Tôi đã một lần quyết định sai lầm, lần này nếu ra đi mà bị bắt thì chắc là ở tù lâu lắm.

    Rồi tôi cũng phải ra đi mà thôi, nhưng phải mất đến 6 năm sau, với bao lần thất bại vì bể bãi, rồi cả gia đình tôi mới đến được bến bờ tự do.

    Hôm nay, những người bà con đến chung vui, có ông bạn trẻ Đinh Đoan tặng cho bài thơ "Đố Ai":
     
    Người ơi có nhớ năm nao
    Cái ngày tan tác ba đào thương đau
    Đố xem kẻ kẹt trên tàu
    Đảo Guam phải đến dạ sầu nhớ ai
    Mênh mông với nỗi u hoài
    Theo tàu Thương Tín đưa ngài về quê
    Gian nan khổ ải chẳng nề
    Ai ngờ bóc lịch ê chề thảm thương
    Ra tù với nỗi sầu vương
    Ngược xuôi dẫn vợ tìm đường vượt biên
    Trời cao cũng độ kẻ hiền
    Giúp ông tìm được đến miền tự do
    Thiên đàng kia vẫn còn chờ
    Gia đình hạnh phúc ước mơ đã thành.
    Hỏi em hỏi chị hỏi anh
    Xin cho tôi biết quí danh của ngài?

    Mục Đồng ở New York có bài thơ "Ông Là ..." hoạ lại:

    Tôi còn nhớ chuyện năm xưa.
    Cái ngày tan tác như vừa hôm qua
    Tuần duyên vượt sóng hải hà
    Đưa chàng chiến sĩ rời xa quê mình
    Nhưng sau vì nghĩa vì tình
    Nên đành chấp nhận hy sinh trở về
    Bao nhiêu gian khổ chẳng nề
    Dù cho bóc lịch ê chề thảm thương
    Cuộc đời dâu bể khôn lường
    Bao đêm dắt vợ tìm đường ra khơi
    Hình như cũng thuận ý trời
    Qua cơn bĩ cực đến thời thái lai
    Ông là : bác Ngọc chứ ai
    Đêm đen bỏ lại, tương lai đang chờ
    Mừng vui hai chữ tự do
    Gia đình đoàn tụ giấc mơ đây rồi

    Phải ! Giấc mơ đây rồi. Giấc mơ này tôi đã ao ước từ 12 năm trước, mong được đoàn tụ với mọi người trong gia đình. Đến nay mới đạt được, và tôi đã phải trả một giá quá đắt.

    Hơn 15 năm ở xứ Huê Kỳ trôi qua thật nhanh, bây giờ mái tóc đã muối nhiều hơn tiêu, mà trên chỏm đầu tóc đã đi chơi hết trơn nên trọc boong như cái hột vịt lộn, tôi ngồi vò đầu ngẫm nghĩ lại thì mình đúng là ở hiền gặp lành, chung tình với vợ con nên bây giờ được vợ cưng như cái trứng mỏng, con cái ngoan ngoãn.

    Tôi tuy đến muộn, nhưng biết thân biết phận mình, vợ chồng cố ráng làm ăn, nên nay cũng "đi xe hơi, ở nhà lầu, nhà có TV tủ lạnh đủ cả; cơm ăn ngày 3 bữa, quần áo mặc cả ngày" (just kidding). Giá mà hồi đó không trở về, có khi mình đã lấy một cô vợ Mễ, và nay thì cô ta đã xay mình nát ra như cám, "tiêu diêu nơi miền cực nhọc" rồi, mà vợ con mình cho đến bây giờ không biết ở nơi nao.

    Người ta nói trâu chậm uống nước đục, mà tôi sao lại cứ được uống sữa tươi thế này ? Hoàng thiên đối với tôi như vậy nghĩ cũng là quá hậu đãi.

    M Ngọc Phan,

    Cập Nhựt 2009/09

































































































































    chuyenvntt.jpg


















    chuyenvntt.jpg
    Back to top
    « Last Edit: 18. Oct 2009 , 22:25 by nguyen_toan »  
     
    IP Logged
     
    nguyen_toan
    Gold Member
    *****
    Offline


    I love YaBB 1G - SP1!

    Posts: 4083
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #199 - 19. Oct 2009 , 15:21
     

    Bài Viết Chửi Cộng sản

    LTS: Bài viết chửi Cộng Sâu Sắc nhất mà BBT Vietland chưa từng đọc qua . Bài viết thâm thúy và diễn tả xác thực chế độ ngày nay của Việt Nam dưới quyền đảng CSVN .

    Bài viết nầy của tác giả lấy nickname: Shinra được đăng trên diễn đàn lề phải hoangsa.org . Bài viết bị bôi đỏ (dĩ nhiên) nhưng được nhiều thành viên trong nước cảm ơn bài viết đầy ý nghĩa nầy . Bài viết nói lên tâm trạng thay cho nhiều người không nói được . Bài viết nói lên sự thật hiện tình đang xảy ra tại VN .

    Bài viết nầy được BBTVietland bầu lần nhất là Bài "Hay nhất trong năm" nhưng nghĩ ra cho cùng . Trên 34 năm nay chưa có đoản văn nào ngắn gọn mà lại lột hết được sự thật của một xã hội , hơn nữa tác giả của bài viết không phải là một văn sĩ mà chỉ là của một thanh niên Việt Nam khắc khoải trước sự tồn vong của Dân Tộc, bài viết lên án hành động bán nước và hèn hạ của tập đoàn lãnh đạo CSVN , nói hết những gì muốn nói nhưng chỉ dài vọn vẹn một trang giấy ! .

    Bài viết nầy theo chúng tôi là bài viết chửi cộng "Hay nhất thế kỷ ." Mời bạn đọc VL cùng đọc .



    "Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn" .
    Lời: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu


    Tác giả : Shinra

    Đây là bài đầu tiên tôi viết trong diễn đàn này.

    Khỏi mất thời gian của quý vị, xin nói mấy lời chân tình.

    Quý vị có biết vụ tẩy trứng gà Tàu thành trứng gà ta không? Quý vị có suy nghĩ như thế nào?

    Nếu hỏi quý vị một câu rằng nếu quý vị là một người dân thuộc làng Đông Ngàn, quý vị có tham gia vào cái việc tẩy trứng rồi đem đầu độc lại đồng bào của các vị không, thì chắc 100% quý vị ở đây trả lời là không !

    Nhưng kỳ thực là quý vị đang làm những việc tệ hại hơn nhiều so với việc ấy.

    Quý vị có bao giờ thấy người dân các nước "tư bản thối nát" "theo đuôi Mỹ" như châu Âu, Nhật, hàn Quốc người ta làm những cái trò đồi bại như tẩy trứng bằng axit, trộn melamin vào sữa, bơm hoá chất vào rau quả, quết mật ong giả vào chân gà thối.... để đem đầu độc chính giòng giống của họ không? Tuyệt nhiên là không.

    Những vị nào đọc đến đây mà bảo tôi là "rân chủ", "ăn phải bả của tư bản", thì mời quý vị khỏi đọc nữa, đỡ mất thời gian của quý vị.

    Quý vị có bao giờ nói hàng Mỹ, châu Âu, Nhật, Hàn, Thái là rởm, là đểu, là lừa đảo, là chạy theo đồng tiền... không? Hay là quý vị lùng sục mua bằng được những món đồ sản xuất ở những nước "tư bản thối nát" ấy với giá đắt gấp đôi gấp ba so với hàng của Trung Quốc?

    Quý vị có thể không tẩm chất độc vào trứng, vào rau như những người nông dân kém hiểu biết, nhưng quý vị lại tẩm chất độc vào đầu óc của những con người xung quanh quý vị bằng những lời dối trá, hối lộ, chạy chọt để được vinh thân phì gia. Dần dần, mọi người trong xã hội đều chạy theo quý vị với một suy nghĩ cực kỳ lệch lạc rằng "mình không làm ắt sẽ có người khác làm".

    Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị lại có tác động ngược trở lại kinh tế.

    Một xã hội mà ai cũng chỉ biết lo cho bản thân mình như xã hội Việt Nam, xã hội Trung Quốc thì có đáng được gọi là "xã hội chủ nghĩa" không?

    Các vị có hiểu thế nào gọi là "xã hội chủ nghĩa" và "tư bản chủ nghĩa" không?
    Các vị hiểu "XHCN" tức là có đảng cộng sản lãnh đạo còn "TBCN" là có nhiều đảng thay nhau lãnh đạo, hoặc là "nhiều đảng tư sản thay nhau lãnh đạo" phải không? Sai lầm

    Xã hội chủ nghĩa là đặt xã hội lên đầu, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, nó đối lập với tư bản chủ nghĩa nơi mà "tư bản" được đặt lên đầu, mà tư bản chính là "tiền nằm trong lưu thông", hay nói tóm lại "tư bản" là lợi ích cá nhân.

    Theo Hán Việt "tư bản" nghĩa là "vốn".

    Một xã hội như Mỹ, Nhật là nơi mà con người luôn sống vì lợi ích riêng, nhưng không chà đạp lên lợi ích chung.

    Người Nhật không bao giờ tẩm thuốc kích thích vào rau quả vì họ biết làm như thế sẽ gây hại cho những người đồng bào của họ, họ cũng không xuất khẩu những đồ kém chất lượng vì nó sẽ gây hại đến những đồng loại của họ, dù là người nước ngoài.

    Người Nhật có thể tự sát, kết thúc sinh mệnh của mình, để bảo toàn danh dự cho gia đình, cho dòng tộc của họ.

    Một xã hội như Việt Nam, trung Quốc là nơi con người miệng thì nói rằng "vì lợi ích tập thể", "xã hội chủ nghĩa", nhưng tay và chân thì chà đạp giày xéo lên người khác. Hãy nhìn thử một vụ tắc đường ở Việt Nam và một vụ tắc đường ở Thái Lan thì biết.

    Vậy ở đâu mới xứng đáng là xã hội chủ nghĩa?

    Đó là một điều mà tôi muốn nói với quý vị

    Các vị nói rằng ngày xưa dù nghèo khổ nhưng Việt Nam vẫn kiên cường chống lại hai đế quốc to. Điều này là đúng và theo một nghĩa nào đó, thì đáng tự hào

    Nhưng các vị lại nói ngày nay để được hoà bình, hay nói toẹt ra là để các vị được yên ổn làm ăn, yên ổn kiếm tiền, thì Việt Nam cần mềm dẻo với trung quốc, cho dù trên thực tế và trên tuyên bố, Trung Quốc đã và đang chiếm nhiều đất của chúng ta.

    Vậy theo cái lý ngày xưa của quý vị thì đáng ra Việt Nam phải vùng lên đánh lại Trung Quốc, hoặc theo cái lý ngày nay của quý vị thì đáng ra ngày xưa Việt Nam không nên đánh lại Pháp và Mỹ mới phải.

    Nhưng sự thực thì quý vị luôn tự hào về ngày xưa và đớn hèn về ngày nay. Chẳng có cái lý nào ngoài cái lý tiền. Các vị sợ đánh nhau với trung quốc thì con cái các vị phải ra trận, hoặc ít ra thì khi có chiến tranh, việc làm ăn kiếm tiền của các vị sẽ khó khăn hơn. Tóm lại các vị chỉ biết có bản thân mình, các vị cá nhân chủ nghĩa ở trình độ cao cấp.

    Đó là cái thứ hai tôi muốn nói với các vị.

    Các vị khi thì hô hào "Việt Nam là bạn với thế giới" , khi thì hô hào "Việt Nam phải cảnh giác với Mỹ, Âu, Tàu, Nhật". Như thế là cái lý gì?

    Vì cái tư tưởng lúc nào cũng thù với hận của các vị, nên các vị không bao giờ thật lòng giao hảo với bất cứ ai. Các vị bắt tay người nước ngoài khi họ đến mang theo đô la và các vật dụng đắt tiền cho các vị hưởng, nhưng các vị lại vênh mồm lên chửi khi họ chỉ ra những cái sai lầm của quý vị. Quý vị biện luận rằng trong quan hệ quốc tế thằng nào cũng chỉ lợi dụng lẫn nhau thôi. Vậy thì người ta sẽ nghĩ về quý vị đúng như thế. Thuỵ Điển, na uy hàng năm cho không Việt Nam hàng triệu đô la và nhiều chương trình đào tạo phát triển, họ lợi dụng gì quý vị? Hay là quý vị nghĩ rằng họ chẳng qua muốn lấy lòng quý vị nên mới thế? Vậy nghĩ xem quý vị đã là cái thá gì mà người ta phải lấy lòng?

    Quý vị thử chìa tay ra cho một người, rồi biết được người ấy lúc nào cũng nhăm nhăm "cảnh giác cao độ" với cái chìa tay của quý vị, thì quý vị sẽ nghĩ gì về người đó?

    Đầu óc quý vị quá đen tối và nói thẳng ra quý vị cũng suốt ngày tìm cách lợi dụng người khác nên mới nghĩ cho người khác đen tối như thế.

    Vì thế nên Việt Nam ta mới tụt hậu so với nước ngoài như hôm nay. Những quốc gia như Nhật, Hàn, Thái Lan vốn có điểm xuất phát không hơn ta là mấy nhưng nay họ đã vượt ta nhiều, đó là vì sao? Vì họ có tầm nhìn hơn chúng ta. Vì họ hiểu được một lý thuyết cơ bản nhất của thương mại đó là cả hai bên cùng có lợi, họ không bao giờ bắt tay với người khác mà trong bụng thì cứ nơm nớp lo người ta "lợi dụng" mình. Suy nghĩ kiểu như thế chỉ tồn tại trong những bộ óc chưa tiến hoá hết từ vượn sang người.

    Nói thẳng ra, các vị là những kẻ hám tiền, lo cho lợi ích của cá nhân và cùng lắm là gia đình mình, là hết. Các vị ưa xiểm nịnh, khi báo Washington Post đưa tin rằng nền KT việt nam đang cất cánh thì quý vị tung hô tờ báo ấy như là chuẩn mực của sự trung thực, còn khi cũng báo Washington Post đưa tin về tham nhũng của Việt Nam thì các vị nói họ đưa tin không chính xác. Cái thái độ lá mặt lá trái ấy cũng đúng trong trường hợp người ta nói về "kẻ thù" của quý vị, ví như việc Ân Xá Quốc Tế lên án Mỹ vi phạm nhân quyền và cũng lên án Việt Nam với tội danh tương tự.

    Đây là điều thứ ba tôi muốn nói với quý vị

    Điều thứ tư nghe sẽ hơi sốc: nói thẳng ra là quý vị cực ngu

    Quý vị không tin vào các thông tin "lề trái", tức là những thông tin trái ngược với báo chí chính thống và những tuyên bố chính thức của Việt Nam. Nhưng bản thân quý vị đang sinh hoạt ở một diễn đàn có tên miền quốc tế, đã hoạt động được hơn 2 năm nhưng ngân khoản duy trì sự tồn tại của nó vẫn là từ tiền của cá nhân những con người đáng trân trọng đã lập ra website này. Tại sao website này không thể có đuôi .vn và cũng không thể đăng quảng cáo được, quý vị nếu đủ thông minh thì đã nghĩ ra từ lâu rồi.

    Quý vị quy kết tất cả những lời nói, bài viết của người khác là "phản động" "chống lại Việt Nam", "bán rẻ tổ quốc" chỉ vì những người ấy không có tư tưởng giống như quý vị. Quý vị bỏ ngoài tai mọi lời phân tích không theo ý kiến của quý vị, quý vị biến một diễn đàn trao đổi tri thức thành một cái chợ để cãi nhau và sỉ vả nhau bằng những từ như "thằng chó", "con lợn", một cách tự nhiên không biết ngượng mồm. Nếu vậy quý vị mất thời gian lên diễn đàn làm gì? Sao không trùm chăn lại tự nói cho xong?

    Quý vị gọi người khác là "chống lại đất nước" bởi vì họ chống lại suy nghĩ của quý vị, như thế khác gì quý vị tự coi mình là đại diện của nước Việt Nam? Quý vị tự cho mình là người phát ngôn của chính phủ Việt Nam, hay ngắn gọn, quý vị chính là Việt Nam?

    Quý vị kêu gọi người ta "cảnh giác với những âm mưu gây chia rẽ", nhưng lại không nhận ra rằng chính cái lời kêu gọi ấy của quý vị là một âm mưu gây chia rẽ. Nếu quý vị muốn sống tốt với hàng xóm của mình, ắt quý vị không bao giờ bắc loa giữa phố mà rằng "hãy cảnh giác với thằng A, con B, hàng xóm của tôi, chúng nó đang âm mưu chia rẽ".

    Quý vị ngu lắm.

    Muốn đất nước phát triển được, hãy thôi mò mẫm và ảo tưởng trong cái thế giới độc tôn của quý vị, hãy tỉnh táo trước những khẩu hiệu, hãy đi vào bản chất thay vì hô hào bên ngoài, hãy lắng nghe xem người khác nói thế nào, và hãy chân thật trong mọi mối quan hệ.

    Nhưng tôi không vọng tưởng rằng một ngày nào đó quý vị sẽ thay đổi. Quý vị sẽ mãi mãi là người dân của một đất nước tụt hậu, tham nhũng, ô nhiễm và không được bạn bè quốc tế coi trọng.

    Đên đây chợt nhớ câu nói của cụ Tản Đà:
    "Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn..."

    Gửi một số quý vị trong diễn đàn, ai đọc thấy không phải mình thì tức là không phải đối tượng mà tôi nói đến.

     

     










     


     
    Back to top
    « Last Edit: 19. Oct 2009 , 15:25 by nguyen_toan »  
     
    IP Logged
     
    nguyen_toan
    Gold Member
    *****
    Offline


    I love YaBB 1G - SP1!

    Posts: 4083
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #200 - 24. Oct 2009 , 20:38
     




    Đêm Havana và ngày Hà Nội


    Tác giả: Tưởng Năng Tiến


    Có nơi nào trên trái đất này
    Mật độ đắng cay như ở đây?
    Chín người – mười cuộc đời rạn vỡ.
    Bị ruồng bỏ và bị lưu đầy…
    Có nơi nào trên trái đất này
    Mật độ yêu thương như ở đây?
    Mỗi tấc đất có một người qùi gối
    Dâng trái tim và nước mắt
    Cho nỗi đau của cả loài người …
    Phùng Quán
    Tôi chưa bao giờ đến Hà Nội, và cũng chưa bao giờ cảm thấy có chút xíu nào hào hứng khi nghĩ đến chuyện phiêu lưu tới một nơi xa xôi, lôi thôi và tai tiếng (tùm lum) như thế. Đã thế, đường thì xa, vé tầu thì mắc, thủ tục thì lôi thôi rườm rà, và lỡ mà kẹt luôn thì… chết mẹ!
    Tôi sinh trưởng ở miền Nam, nghĩ và nghe sao nói vậy thôi hà. Và cứ như vậy mà nói, chắc chắn, sẽ làm mích lòng cả đống người. Tôi biết vậy nhưng không thể nào nói khác vì những điều mà tôi được nghe kể về Hà Nội (thường) không có gì là đàng hoàng hay tử tế –  đại loại như:
    “Lời ăn tiếng nói lễ độ cũng khó gặp, chứ đừng nói gì đến văn vẻ… Một cô gái có thể nói oang oang giữa chợ:
    - Nó rủ tao đi nhưng tao đ… đi.
    - Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố tao, bố tao đ… cho…”
    “Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá (Phạm Xuân Đài. Hà Nội trong mắt tôi. Thế Kỷ: Hoa Kỳ 1994, 32-33).
    Trời đất, đó là chuyện nhỏ và chuyện cũ (rích) rồi – từ hồi thế kỷ trước lận – bới móc ra làm chi nữa, cha nội ? Thì rành rành là chuyện bây giờ, thế kỷ XXI đây nè, Hà Nội vẫn cứ  y trang như hồi đó – chớ có khác (mẹ) gì đâu:
    “Những đứa bé trai và gái bưng thức ăn cho khách vẫn là những đứa bé đã được mô tả trong tiểu thuyết Nam Cao hay Trương Tửu cách đây năm sáu thập niên, còm cõi, nhọc nhằn, cơ cực, chỉ biết cúi đầu vâng dạ và sống quen với lo âu, sợ hãi….”
    “Những anh chị phu hồ vẫn làm việc bằng những cung cách từ nửa thế kỷ trước. Họ chuyền tay nhau mọi thứ vật liệu. Cát, đá và sạn đựng trong những cái rổ, đà gỗ vác trên vai. Một ngày dầm mưa hay đổ mồ hôi như thế của một người phu hồ trị giá một đô la và một bữa ăn trưa thanh đạm. Hơn một phần tư thế kỷ thực hiện ‘chủ nghĩa xã hội ưu việt’ trong nước, hơn một phần tư thế kỷ kêu gào tự do và nhân quyền của khối người việt lưu vong hải ngoại, chẳng có chút ánh sáng nào rọi vào những góc đời phiền muộn tối tăm này” (Bùi Bích Hà, “Nhìn lại quê hương,” Thế Kỷ 21, Sep. 2003:63-65).
    Phạm Xuân Đài và Bùi Bích Hà, nói nào ngay, không phải là người Hà Nội. Họ là dân bá vơ, tha phương cầu thực, cù bơ cù bất, ở tận California hay đâu đâu đó. Cả hai chỉ tạt ngang, ghé chơi Hà Nội năm ba ngày hay vài ba tuần lễ gì thôi. Biết (khỉ mốc) gì đâu mà nói hành nói tỏi (nghe thấy ghét) dữ vậy chớ?
    Nguyễn Huy Thiệp thì khác à nha. Ông ta là niềm hãnh diện của Hà Nội (nói riêng) và của cả nước Việt (nói chung). Ổng có dư thẩm quyền và thừa tư cách để nói về thủ đô “mến yêu của ta.”. Trong tác phẩm Tuổi hai mươi yêu dấu, nhà văn  đã mượn lời một nhân vật để tuyên bố như sau:
    “ Thời của tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy.”
    Ý, trời đất, quỉ thần, thiên địa ơi! Giữa Thời đại Hồ Chí Minh (quang vinh), và trong lòng thủ đô Hà Nội – nơi mà cách đây chưa lâu người ta vẫn còn phải nhai rón rén khi ăn – mà thằng chả nói năng ồn ào, lạng quạng và bạt mạng (quá cỡ) như vậy thì kể như là… hết thuốc!
    Và Hà Nội không phải là nơi duy nhất hết thuốc (chữa) như  thế trên thế giới này. Tôi nghe kể là ở thủ đô của Cuba – một nước anh em xã hội chủ nghĩa – tình trạng cũng bết bát, và bệ rạc không kém:
    “Ở La Havanne vài ngày dần dần bạn hiểu cái khang trang, sầm uất ở những nơi có du khách chỉ là bộ mặt bên ngoài che không nổi một xã hội lở lói, mệt mỏi… Cuba có hai thế giới, thế giới tưng bừng náo nhiệt của du khách, của những người có tiền xanh, bên cạnh thế giới mệt hoài của dân địa phương. Sau 50 năm cách mạng, cái mơ của đa số dân Cuba là vượt biển qua Miami hay có bà con thỉnh thoảng gởi về một cái ngân phiếu” (Trần Công Sung,” Cuba Sí, Cuba No,” Thế Kỷ 21, Dec. 2003:78).
    Đó cũng là cái ước mơ thê thảm, vượt quá tầm tay, của rất nhiều người dân Việt –   bây giờ. Trong quá khứ, Cuba và Việt Nam cũng có rất nhiều điểm (bất hạnh) tương tự như nhau. Hai quốc gia này đều có thời gian dài là thuộc địa, và cả hai đều đã tin tưởng rằng sẽ giành lại được độc lập và tự do bằng con đường… cách mạng! Chung cuộc, cả hai đều sống dở (và chết dở) trong lòng cách mạng.
    Ví von mà nói thì Havana và Hà Nội như hai cô bé lọ lem, song sinh, trong một gia đình khánh tận. Cả hai cùng có chung ước mơ là lấy được một tấm chồng đàng hoàng, lương thiện nhưng (chả may) đều phải lòng đúng đồ phải gió, và đã trao duyên lầm… tướng cướp! Và  quí vị tướng cướp này đang làm cái công việc mà họ mệnh danh giữ hoà bình cho thế giới  – nếu trích theo nguyên văn lời của ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước Việt Nam:
    “Có người ví von, Việt Nam – Cuba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới! Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ…”
    Havana, tuy thế, vẫn còn “có phước” hơn Hà Nội. Bi kịch của La Havanne chỉ xẩy ra vào lúc có mặt trời – theo lời của Trần Công Sung:
    “Đêm xuống, dân Cuba quên cái cực nhọc ban ngày, đổ ra đường nhộn nhịp… Quên dollars, quên cách mạng, quên những bài diễn văn dài tám giờ, quên embargo, người ta đàn hát nhẩy múa náo nhiệt. Không phải chỉ ở những khu du khách, ngay cả ở những khu bình dân, đen tối, trong những tiệm cà phê rẻ tiền…, đâu đâu cũng có tiếng nhạc, giọng hát…”
    Nói cách khác là ban đêm thì dù Việt Nam không gác, Cuba vẫn nghỉ. Cho nó khoẻ!  Vẫn theo như nhận xét của Trần Công Sung thì ở Havana “có một cái gọi là cái hồn (“âme”). Cái hồn này đang nâng đỡ cho mọi người sống qua những ngày tháng cơ cực, đắng cay của thời mạt kiếp. Tôi còn tin rằng nó cũng sẽ giúp cho dân tộc Cuba hồi sinh chóng vánh, sau khi họ chôn xong cái Chủ nghĩa Xã hội (đang muốn “chuyển qua từ trần”) ở đất nước này.
    Hà Nội (dường như) không có một cái hồn như thế để chuẩn bị hồi sinh, dù CNXH cũng chỉ còn sống thoi thóp ở nơi này. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói đến có một đêm nào đó (dù chỉ một đêm thôi) người dân Hà Nội đã đổ ra đường, đàn hát, nhẩy múa nhộn nhịp, một cách hồn nhiên và vô tư như vậy cả.
    Tình trạng của Hà Nội có vẻ tuyệt vọng hơn, theo như nhận xét của nhà văn Bùi Bích Hà – qua bài báo thượng dẫn: “Người ta chỉ cần một hai thập niên để vực dậy một nền kinh tế sa sút nhưng để xây dựng lại niềm tin cho cả dân tộc, cụ thể như dân tộc tôi, nay chỉ còn cầu phép lạ gieo xuống thưở đất hoang hoá này những hạt giống mới để bắt đầu lại.”
    Cách đây không lâu – trên diễn đàn talawas – khi được hỏi “phải hình dung thế nào về văn hiến Thăng Long,” giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã (rơm rớm nước mắt, tôi đoán thế) kể lại rằng: “Gần đây có một vị viện sĩ định nghĩa văn hiến là văn học để hiến dâng cho Đảng.”
    Thiệt, nghe mà… hết hồn luôn! Havana là một thành phố non trẻ, mới có mặt từ đầu thế kỷ thứ XVI mà khí phách và hồn phách vẫn còn lai láng qua từng bước chân nhún nhẩy của người dân – dù nơi đây công an (chắc) không ít hơn Hà Nội. Không lẽ mảnh đất ngàn năm văn vật, lừng lẫy cỡ như Thăng Long, mới đụng chuyện với cường quyền và bạo lực (có vài chục năm) mà đã “mất hồn mất vía” và “chết tiệt” hết thế sao?
    Tôi không tin như vậy đâu. Và tôi cũng không chịu như vậy nữa. Đảng CSVN quả thực đã hớp được hồn của một mớ “viện sĩ” ở Bắc Hà nhưng những chú lính gác cửa của Bắc Kinh (hay còn có tên gọi mới, dễ thương hơn, là “những kẻ canh giữ cho hoà bình thế giới”) chưa bao giờ thực sự nhìn ra được cái hồn của đất Thăng Long, chớ đừng nói chi đến chuyện họ “đụng” được tới nó.
    Do tình cờ, tôi có lần (may mắn) cảm thấy được cái hồn của Hà Nội trong một căn hộ nhỏ – ở ngõ Ánh Hồng, cạnh một nhà xí công cộng, luôn luôn ngập ngụa cứt đái – của một người đàn bà tên Sợi.
    Chị Sợi có một mẹt hàng ở đầu ngõ, bầy bán các thứ linh tinh: ấm nước chè, gói thuốc lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói bánh bích qui. Chị không có vốn nên hàng hoá lèo tèo, thảm hại.
    Chị Sợi bán hàng không đủ thu nhập để nuôi mình, và nuôi người mẹ bệnh đang nằm chờ chết nên – đôi lúc – buộc phải bán cả thân. Mẹt hàng, cũng như thân xác “xuống cấp” của người đàn bà đã quá thời xuân sắc này, chỉ hấp dẫn được một loại khách hàng duy nhất: đám ăn mày.
    “Trong số những người chồng hờ ấy, chị đặc biệt yêu quý một anh ăn mày trẻ, còn ít tuổi hơn chị. Anh ta đến với chị không như người đến với gái làng chơi.

    Anh đã kể cho chị nghe chuyện chân anh. Còn chị kể cho anh chuyện mẹ chị. Khi bị ngã gẫy xương hông, nằm liệt, ba năm đầu cụ hát. Ba năm sau cụ chửi. Và một năm nay cụ yên lặng. Mỗi khi có khách lên gác lửng cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách ngủ.

    Anh thương chị. Chị thương anh. Chính anh đã mượn cưa, bào ở đâu về cưa, bào, đo, cắt mộng mấy tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ. Và cũng chính anh, dù què một chân cũng đã bắc ghế trèo lên, xây thêm hai hàng gạch quanh tường bao cho nó cao thêm, chắn bớt cái hơi nhà xí tạt vào.
    Người thứ hai chị Sợi yêu quý là một phụ nữ. Một bà già. Bà cụ Mít. Đó là một bà già thấp bé, lại còng, mặt chằng chịt vết nhăn, chẳng biết bao nhiêu tuổi nữa. Chính bà Mít cũng không biết mình bao nhiêu tuổi…

    Bà ở vùng Hà Nam, Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với bọn xấu trong làng đi ăn trộm lợn. Án xử hai năm. Trong tù bị bọn đầu gấu đánh chết. Người con dâu bỏ đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy tuổi.
    - Bây giờ một đứa lên tám, một đứa lên mười rồi cô ạ. Vài năm nữa, chúng nó lớn khôn là tôi không lo gì nữa. Tôi có chết cũng không ân hận.
    Một lần bà Mít đến, nắm lấy bàn tay chị:
    - Em ơi. Chị nhờ em một cái này được không.
    Bà ngập ngừng. Chị Sợi không hiểu chuyện gì. Nhưng rõ ràng là một việc hệ trọng, rất hệ trọng đối với bà.
    - Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.
    Thì ra bà muốn gửi chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của hai đứa cháu côi cút của bà ở quê. Chúng còn bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà. Chúng cần tiền của bà. Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống được, chưa thể tự lo liệu được. Để nhiều tiền trong người, bà sợ. Suốt ngày đi bộ rạc cẳng mà đêm cứ ngủ chập chờn. Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu bao, bà phải mang tiền về quê.
    ……
    Mùa rét bao giờ cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế ẩm. Khách đến nhà cũng ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là mùa cưới xin, mùa bốc mả. Trong khi hiếu, hỷ, người ta rộng rãi với ăn mày. Bà cụ Mít vẫn thỉnh thoảng tới chỗ chị để cho chị hòn xôi, miếng thịt. Bà kêu rét và gửi chị thêm một ít tiền. Chị bảo bà đã gửi bốn lần tiền rồi sao không mang về cho các cháu kẻo chúng nó mong, đã lâu rồi bà chưa về nhưng bà Mít nói:
    - Tôi cố thêm ít ngày nữa. Rồi về ở với chúng nó một thời gian. Ngoài giêng tôi mới ra. Bà cháu xa nhau lâu quá rồi. Lại còn phải cố mua cho mỗi đứa một bộ quần áo mới mặc Tết.
    Nhưng cả tháng sau bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết rằng có chuyện chẳng lành nhưng vẫn hy vọng được thấy dáng người nhỏ còng còng của bà trong tấm ni-lông vá víu chống gậy, khoác bị bước tới. Chị chưa chờ ai đến như vậy. Lo lắng. Hy vọng. Tuyệt vọng. Chắc chắn bà Mít đã chết ở đâu rồi!
    Chị Sợi kiểm lại số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những tờ giấy xi-măng, những túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi xách. Bây giờ chị không chờ bà Mít nữa. Chị chờ anh què đến. Chị bảo anh:
    - Bà Mít chết thật rồi. Anh phải giúp em. Ở đây trông nom, cơm nước, rửa ráy cho mẹ em vài ngày. Em phải đi đây.
    - Em biết quê bà ở đâu mà tìm?
    - Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi dân. Hỏi tòa án.
    Phải đem chỗ tiền này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện nguyện ước của bà cụ, kể cả việc mua hai bộ quần áo mới cho chúng nó…”
    Chị Sợi, anh què – cũng như bà Mít – cho đến lúc chết vẫn chưa có đêm nào ôm đàn ngồi hát, hay đổ ra đường nhẩy nhót nhộn nhịp, như những người dân ở Havana. Ngày cũng như đêm họ sống ẩn nhẫn, thầm lặng trong những con hẻm hôi thối luôn ngập ngụa phân người giữa lòng Hà Nội.
    Chính ở những nơi tăm tối này, họ đã giấu kín được nguyên vẹn cái hồn của cả một dân tộc qua từng nhịp thở và nhịp đập của tim. Và tôi cũng cảm được cái hồn như thế, khi viết những dòng chữ này, dù nơi tôi đang sống cách xa Việt Nam hơn nửa vòng quả đất.
    Sau khi đọc xong “Truyện không tên,” tôi hỏi tìm số điện thoại của tác giả và gọi cảm ơn ông đã mở cho tôi thấy cái hồn của dân tộc Việt. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn nói rằng ông không viết truyện mà chỉ kể lại chuyện đời của chị Sợi, theo như lời chính chị tâm sự – thế thôi.
    Chị Sợi, anh Què vẫn còn đang sống tại Hà Nội. Nơi đây, không phải lúc nào ra ngõ cũng gặp anh hùng hay gặp một ông (hoặc một bà) tiến sĩ. Đôi khi, chúng ta cũng gặp được cái hồn của mảnh đất này nhưng không có cơ duyên để nhận ra được, thế thôi.
    Tưởng Năng Tiến

    Back to top
     
     
    IP Logged
     
    nguyen_toan
    Gold Member
    *****
    Offline


    I love YaBB 1G - SP1!

    Posts: 4083
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #201 - 26. Oct 2009 , 19:45
     
    MÙA  TỪ  THIỆN


    Chưa bao giờ người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ lại có đầy dẫy cơ hội làm việc từ thiện như những lúc gần đây.

    Tuần trước tôi nhận được email của cô bạn học cũ xin tiền giùm một linh mục ở Việt Nam để lo cho trẻ em nghèo bên đó. Hôm sau tôi lại nhận được một email khác của người bạn mời đi xem anh ta hát với một số bạn trẻ khác ở Star Performing Art Center kèm theo lời nhắn gửi là 80% tiền thu được sẽ được gửi về Việt Nam giúp người nghèo. Sau hôm đó thì tôi nhận được một cú điện thoại mời đi ăn tối ở một nhà hàng nhằm mục đích gây quỹ từ thiện cũng để giúp đỡ người nghèo ở Việt Nam. Chiều đi làm về ghé qua chợ mua tờ báo thì thấy hình ảnh bão lụt miền Trung hiện diện ngay trang nhất kèm theo lời cứu trợ cho nạn nhân cơn bão số 9 ở Việt Nam. Vừa ra xe đút chìa khóa nổ máy thì nghe radio trong xe vang lên cuộc phỏng vấn một tu sĩ thuộc một dòng tu Công Giáo đang rầm rộ gửi người về Việt Nam giúp nạn nhân bão lụt. Theo như vị tu sĩ này cho biết thì nhiều thiện nguyện viên ở Mỹ đã bỏ tiền túi ra mua vé máy bay về Việt Nam gấp cho kịp công tác cứu trợ sau cơn bão số 9. Tôi hy vọng vị tu sĩ này không phải bỏ tiền túi của mình ra để trả lệ phí cho talk-show trên đài. Sau khi vào nhà tôi bật tivi lên trong lúc sửa soạn bữa ăn tối, tôi lại được dịp nhìn thấy hình ảnh bão lụt miền Trung trong đoạn phim dài khoảng 3 phút và kết thúc bằng lời kêu gọi rất não lòng “Máu chảy ruột mềm”, $20 cho một bao gạo, $1000 cho một tấn gạo, xin đồng bào gửi tiền giúp cho, vv và vv ….

    Đoạn phim này không phải chỉ được chiếu một lần trên màn ảnh tivi mà lập đi lập lại nhiều lần giống như các quảng cáo thương mại khác. Cơm nước xong, tôi lại bật tivi nhưng chuyển qua một đài Việt Nam khác thì thấy trên màn ảnh là quang cảnh đấu giá tranh coi bộ rất hào hứng tại một nhà hàng ở Quận Cam mà số tiền thu được sẽ được trao cho hai nữ tu đã từ Việt Nam qua và cũng có mặt trong buổi dạ tiệc đấu giá tranh đó.

    Hết bức tranh này đến bức tranh khác, người tham dự coi bộ rất “hồ hởi, phấn khởi” tranh nhau trả giá cao hơn và kết thúc thật vui nhộn. Nghe đâu tiền bán tranh và lợi nhuận từ buổi dạ tiệc sau khi trừ đi chi phí máy bay và ăn ở của các nữ tu (coi bộ không nhỏ) sẽ được gửi cho các nữ tu mang về Việt Nam làm công tác từ thiện bên nhà.

    Dường như tôi đang sống trong một cộng đồng đang “sốt” lên và “nhà nhà thi đua, người người thi đua” làm việc từ thiện cho Việt Nam.

    Để thay đổi không khí, tôi chuyển qua một đài tivi Mỹ thì nghe thấy một đoạn tin tức khá dài trong đó cái giới chức có thẩm quyền nhìn nhận là hệ thống nước uống (fountain drink) của các trường tiểu học trong rất nhiều học khu ở Quận Cam đã bị ô nhiễm đường ống nước từ lâu và họ thú nhận là không có tiền để thay hoặc sữa chữa, và họ còn dự đoán là phải mất 2 – 3 năm nữa mới hy vọng có đủ tiền thay đường ống nước hoặc sữa chữa vì tình hình kinh tế thắt lưng buộc bụng hiện nay. Trong lúc chờ đợi, phụ huynh chịu khó mua nước chai cho con mang đến trường, nhưng nếu có em nào chẳng may khát quá, quên mất điều đó mà lỡ quên uống nước fountain drink thì … cha mẹ ráng chịu vì đã được thông báo rồi mà.

    Trời ! ở ngay cái xứ đã từng đưa người lên cung trăng này mà con em mình phải đợi vài năm nữa mới hy vọng có nguồn nước sạch để uống ở trường. Chuyện nghe cứ tưởng như mình đang ở Phi Châu hoặc một đất nước nghèo đói xa xôi nào vậy, chứ không phải ở Mỹ. Tôi bấm nút đổi qua một đài Mỹ khác thì tin tức cũng chẳng thú vị gì, lại những mẫu tin, hình ảnh và những con số leo thang của nạn thất nghiệp, nhà cửa bị ngân hàng xiết vì không trả nỗi nợ nữa (foreclosure), nạn trộm cắp gia tăng vì xã hội ngày càng thêm người nghèo, nhiều người già mất tiền hưu dưỡng vì những xáo trộn tài chánh mấy năm qua đã ảnh hưởng đến quỹ hưu trí của họ. Trên màn ảnh tivi tôi chợt chú ý đến hình ảnh ngơ ngác của các em bé học sinh mà giọng người xướng ngôn viên cho biết đó là những “homeless students” (học sinh vô gia cư, không nhà) đang ngày càng đông trong các học khu bởi vì chính cha mẹ các em cũng vừa trở thành “homeless” sau khi họ bị mất việc làm và căn nhà của gia đình họ bị các ngân hàng lấy đi để xiết nợ.

    Tôi tắt tivi, tiện tay cầm lên tờ báo Mỹ địa phương nổi tiếng, Orange County Register, để mang vào giường ngủ đọc. Dưới ánh đèn phòng ngủ, tôi liếc qua trang chuyên đăng “Legal Notice” (thông báo theo yêu cầu của luật pháp) với những cột báo dày đặc tên những con nợ bị ngân hàng báo tin là sẽ mang nhà của họ ra đấu giá vì họ đã không thể tiếp tục trả nợ tiền nhà nữa. Tôi thoáng nhận ra một số tên con nợ người Việt Nam với những cái họ đặc thù rất quen thuộc: Nguyễn, Trần, Lê, Lý, ….. Tôi thở dài khi nhớ ra rằng khi chạy xe đi làm ngang qua những thùng rác lớn, tôi vẫn thấy hình ảnh cố hữu của những người đang moi thùng rác để nhặt những chai nhựa, thủy tinh mang về bán lại.

    Mà cần gì phải tìm kiếm xa xôi, mới hồi chiều này sau khi mua tờ báo và bước chân ra khỏi chợ, tôi đã nhìn thấy một người đàn bà Việt Nam đứng tuổi đang lặng lẻ ngồi xin tiền trên một chiếc xe lăn xập xệ ngay trên bãi cỏ ven lề của bãi đậu xe. Có lẻ bà đã không dám ngồi ngay trước cửa chợ vì sợ bị ông bảo vệ chợ đuổi đi. Thật chưa bao giờ tôi thấy bức tranh xã hội và kinh tế của Mỹ lại ảm đạm và thê lương như bây giờ.

    Hôm sau tôi phải giữ một cái hẹn với ông nha sĩ để khám răng định kỳ. Nằm trên chiếc ghế của bệnh nhân, tôi nghe ông nha sĩ trẻ người Việt khoảng trên ba mươi tuổi vui vẻ kể lại chuyện cuối tuần vừa rồi ông đưa gia đình ông đến tham dự một buổi dạ tiệc lớn trong cộng đồng nhằm gây quỹ giúp người nghèo ở Việt Nam. Những vị thực khách mạnh thường quân đã kéo đến thật đông đầy nghẹt cả nhà hàng, và có nhiều người phải thất vọng bỏ ra về vì không tìm thấy chỗ ngồi. Thế nhưng những vị thực khách may mắn khác chưa ngồi được nóng chỗ thì đã thấy cảnh sát Mỹ túa vào nhà hàng và xe cứu hỏa đã được điều động tới. Rồi thì tất cả mọi người bị cảnh sát mời ra ngoài vì nhà hàng chỉ có giấy phép chứa 250 người mà lại có tới khoảng 400 người đang tham dự buổi dạ tiệc. Nghe đâu nhà hàng đã được sửa sang để có sức chứa 400 người nhưng trên mặt pháp luật thì nhà hàng chưa xin được (hoặc đang xin) giấy phép để tăng số thực khách như ý muốn. Sau khi chờ đợi ở ngoài khá lâu, cảnh sát cho phép đúng 250 thực khách được vào nhà hàng trở lại, số còn lại phải ra về sau khi được ban tổ chức xin lỗi và hứa hẹn sẽ mời họ lại trong một dịp gây quỹ khác rất gần.

    Ông nha sĩ trẻ phân bua với tôi là việc cảnh sát làm tuy đúng với luật pháp, nhưng hơi quá đáng vì người nghèo ở Việt Nam trở thành nạn nhân do ban tổ chức mất đi cơ hội lạc quyên tiền từ 150 vị thực khách phải bỏ ra về ngang xương chỉ vì cảnh sát làm mất cuộc vui. Và ông nha sĩ trẻ của tôi còn nói thêm điều gì nữa đó, nhưng tôi không còn nghe nữa. Tâm trí tôi đang nghĩ tới những vòi nước “fountain drink” dơ bẩn trong các trường học đang cần có tiền để được thay đổi, sữa chữa. Tôi liên tưởng đến những em học sinh nhỏ ở Quận Cam trong lúc khát nước đã quên khuấy lời cha mẹ dặn mà cứ vục đầu vào uống nước từ những chiếc vòi nước với đường ống dơ bẩn đó. Tôi chợt xốn xang hơn khi nhớ lại hình ảnh ngơ ngác của các em bé “homeless students” ở trên tivi tối hôm qua.

    Tôi tự hỏi có bao nhiêu em trong số các em học sinh vô gia cư đó là người Việt Nam với những cái họ Lê, Lý, Nguyễn, Trần, …. mà tôi đã đọc thấy trên tờ báo địa phương tối hôm qua ? Ước gì các vòi nước dơ bẩn trong các trường học ở Quận Cam và những em bé học sinh vô gia cư kia được sự chú ý của những nhà tổ chức làm việc từ thiện lỗi lạc của cộng đồng chúng ta ? Với khả năng huy động đến cả 400 – 500 thực khách đến tham dự một buổi dạ tiệc gây quỹ từ thiện cho Việt Nam như vậy trong một thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay thì tôi tin chắc là họ có dư khả năng làm thu ngắn lại khoảng thời gian chờ đợi 2 – 3 năm để có nguồn nước uống sạch trong các trường học cho con em chúng ta, hoặc làm vơi bớt nỗi khổ đau của những bậc cha mẹ bị mất nhà và con cái bị liệt vào số thống kê những học sinh “homeless” không nhà. Đó là chưa kể đến những cụ già đang sống neo đơn không người chăm sóc như người đàn bà ăn xin tôi đã gặp trong bãi đậu xe chiều hôm qua. Đó là chưa kể đến những bệnh nhân đang âm thầm chịu đựng bệnh tật vì không có bảo hiểm y tế để vào bệnh viện chữa bệnh. Dường như làm việc từ thiện ở ngay trên xứ Mỹ và cho chính nước Mỹ này vẫn không “hấp dẫn” và “lôi cuốn” bằng làm việc từ thiện ở Việt Nam ? Hay đó là việc của chính phủ, hay của người bản xứ mà chúng ta không cần lưu ý đến ?

    Từ hồi cơn bão Katrina cho tới bây giờ, tôi nghe rất ít chuyện kêu gọi làm việc từ thiện trên đất Mỹ, mặc dù ai cũng thừa biết là trong những năm gần đây nền kinh tế Mỹ như một chiếc xe không phanh lao đầu xuống dốc. Trong một bản tổng kết mới đây của một cơ quan Liên Hiệp Quốc thì Hoa Kỳ đã xuống hàng thứ 13 (thua cả Canada) trong số các quốc gia được xem là nơi sống lý tưởng nhất cho người dân trên thế giới. Theo như bản xếp hạng này thì Na Uy đứng nhất và Úc đứng thứ hai.

    Điều đáng chú ý là những nhà làm việc từ thiện của chúng ta khi còn ở Mỹ thì ra mặt rất ư là “danh chánh ngôn thuận”, nào là hội từ thiện này, đoàn thể nọ khi kêu gọi lòng hảo tâm của người Việt hải ngoại, nhưng khi quý vị đó về tới Việt Nam thì họ là những nhà từ thiện … “chui”, hoặc núp dưới bóng một nhà thờ, chùa chiền, hay một dòng tu ở Việt Nam để làm việc từ thiện. Họ phải giấu tiền, kín đáo, hoặc trốn chui, trốn nhũi, âm thầm làm công việc từ thiện nếu không muốn bị công an cộng sản Việt Nam để mắt tới và khép tội là “bọn xấu” hoặc “thế lực phản động từ nước ngoài về”. Còn các đoàn y sĩ khi về Việt Nam chữa bệnh thì phải xin phép nhà nước, chỉ được đến những chỗ nhà nước đã chỉ định để chờ và tiếp những bệnh nhân do … nhà nước gửi tới.

    Ồn ào, vỗ ngực xưng danh và được nhà nước Việt Nam long trọng thỉnh mời về với “cả một đội ngũ đông đảo chờ đón, có rắc hoa thơm trên lối đi, có nhiều phóng viên tụ tập để phỏng vấn” (Việt Tide, số 430, trang 21) thì chắc chỉ có thiền sư Nhất Hạnh và các đệ tử Làng Mai của ông. Vậy mà sau bao nhiêu năm thiền sư trút về Việt Nam không biết bao nhiêu triệu triệu dollars đóng góp của bá tánh tứ phương để xây dựng cơ sở hạ tầng và làm việc từ thiện, giờ đây các môn đệ của ông chẳng những đã bị đuổi ra khỏi các cơ ngơi đó mà họ còn đang bị vây đánh tơi bời, đã chạy ẩn trú vào một ngôi chùa khác (chùa Phước Huệ) mà vẫn bị công an truy nã tới cùng và bị chính quyền qui tội là “vi phạm luật pháp Việt Nam”. Bài học “vắt chanh bỏ vỏ” này của Cộng Sản Việt Nam chẳng có mới mẻ, xa lạ gì với chúng ta cả, nhưng dường như vẫn có người … học hoài chưa thấm.

    Khách “quý” như thiền sư Nhất Hạnh và các môn đệ của ông được nhà nước mời và tiếp đón nồng hậu như vậy mà bây giờ đang bị cộng sản đối xử tàn nhẫn đến thế thì vấn đề an nguy của các nhà từ thiện “chui” của chúng ta chỉ là vấn đề thời gian. Chẳng qua chính quyền cộng sản còn đang bận đàn áp, bỏ tù những người đòi quyền tự do dân chủ ở Việt Nam, hoặc đang mải mê đếm tiền hối lộ và trợ giúp nhân đạo của quốc tế, hay đang bận “đốt” tiền trong các cơ sở kinh tài ở hải ngoại của họ nhằm mục đích đánh phá, chia rẽ và phân hóa cộng đồng nên họ đang tạm thời “nhắm mắt làm ngơ” cho các nhà tự thiện “chui” của chúng ta đó thôi. Vả lại, Cộng Sản Việt Nam chưa có dại gì mà lại ‘chặt dây động rừng” trong lúc này khi mà công tác cứu trợ của các nhà từ thiện “chui’ của chúng ta đã và đang giúp họ rãnh tay đối phó với các “bloggers” ở trong nước tranh đấu cho Hoàng Sa/Trường Sa và sự toàn vẹn lãnh thổ, cũng như các phần tử đang phản kháng việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên, ….

    Nhưng sự im lặng và nhắm mắt làm ngơ của Cộng Sản không phải là đồng ý. Chớ có tưởng bở là “Việt kiều yêu nước” được tự do làm việc từ thiện vì bài học Bát Nhã của thiền sư Nhất Hạnh và các tu sĩ Làng Mai vẫn còn mới tinh và sờ sờ ngay trước mắt chúng ta. Tiếc là phải mất cả chục năm nay để ông thiền sư Nhất Hạnh mới được “sáng mắt sáng lòng” mà nhận ra là “chơi dao có ngày đứt tay”.

    Thế mới biết Cộng Sản Việt Nam rất kiên nhẫn trong công việc “vắt chanh bỏ vỏ”. Không chóng thì chày sẽ đến lúc những “Việt kiều yêu nước” và “thích” làm việc từ thiện ở Việt Nam, những vị khách Đảng không mời mà tới này bị coi là …. tài lanh, nhẹ thì bị kết tội “xâm phạm và làm cản trở công tác cứu trợ của chính quyền”, nặng hơn nữa là “toa rập với các thế lực ngoại bang chống phá Việt Nam”.

    Xin đừng quên rằng chúng ta là những người ngoại quốc ngay trên chính quê hương của mình, và thậm chí chúng ta “được” Đảng Cộng Sản Việt Nam đối xử còn tệ hơn là những người ngoại quốc chính hiệu bởi vì chúng ta phải đóng tiền xin visa để về thăm nơi chôn rau cắt rốn của mình trong khi dân Trung Cộng thì lại có thể ngang nhiên đến ở và làm việc tại Việt Nam mà không cần phải xin visa hay một giấy tờ gì cả mà công an Việt Nam không dám hoạnh hoẹ hỏi han họ như đã từng hạch sách “Việt Kiều” về thăm quê hương. Xin đừng quên rằng chúng ta mang quốc tịch Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Úc, Thụy Sĩ, …. và chúng ta không còn mang quốc tịch Việt Nam kể từ cái ngày chúng ta bỏ phiếu bằng chân để trở thành “bọn phản quốc chạy theo bơ thừa sữa cặn của đế quốc”.

    Một điều quan trọng khác mà chúng ta ai cũng biết là sau khi Cộng Sản từ bỏ công cuộc “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa” nhằm phục vụ cho sự sống còn của Đảng, ngày nay Việt Nam đang có những đại gia, những nhà tư bản đỏ (đa phần là con cháu hay có liên hệ với Cộng Sản) đã xúng xính sắm máy bay riêng, đặt mua xe hơi Roll-Royce từ Anh Quốc trả bằng tiền mặt, đánh cá độ quốc tế với cả triệu dollars Mỹ, hoặc vung vít bạc ngàn dollars trong các sòng bài nổi tiếng trên thế giới, hay mua bất động sản đầu tư ở ngoại quốc và cho con cái đi du học với hàng trăm ngàn dollars ký gửi trong các trương mục ngân hàng quốc tế.

    Như vậy thì mấy chục ngàn dollars chúng ta cắc củm quyên góp để mang về Việt Nam cứu trợ có thấm thía gì, hay chỉ là việc “mang muối bỏ biển”, “vác củi về rừng” ? Tại sao vài ba chục người phải bỏ tiền túi ra mua vé máy bay vượt đại dương, mây ngàn hối hả về Việt Nam cứu trợ trong khi có tới 83 triệu đồng bào như một khối nhân sự khổng lồ ở sẵn trong nước ?

    Chẳng lẽ 83 triệu dân với con số không nhỏ những đại gia, tư bản đỏ và doanh nhân lớn nhỏ với hàng triệu dollars tiêu xài vung vít đó không thể tự đùm bọc và cứu trợ cho nhau hay sao ? Không lẽ chỉ có “những khúc ruột dư ngàn dặm” là 3 triệu người Việt Nam sống rải rác khắp nơi trên thế giới mới cần phải biết đến “máu chảy ruột mềm”, còn 83 triệu đồng bào cùng sống quây quần trong một đất nước nhỏ bé thì lại không biết “lá lành đùm lá rách” ? Thật phi lý làm sao !


    Trong lúc mải mê làm công việc Bồ Tát cứu nhân độ thế trong các chương trình cứu trợ ở Việt Nam, vô hình chung chúng ta đã gián tiếp hà hơi, tiếp sức để cho bọn chính quyền Cộng Sản được rãnh tay chuyên chú vào việc đánh phá các cộng đồng người Việt hải ngoại qua Nghị Quyết Số 36 của Đảng Cộng Sản, và đàn áp bỏ tù những nhà đấu tranh cho phong trào dân chủ trong nước hay cho sự vẹn toàn lãnh thổ. Và cũng chính chúng ta đang “làm hư” các đại gia, tư sản và tiểu tư sản ở Việt Nam vì chúng ta chen chân đòi gánh vác công tác cứu trợ trong khi chính họ mới là những người có đủ “danh chánh ngôn thuận” và có trách nhiệm quyên góp tài chánh để lo toan các công tác cứu trợ như một phần nào đó đền bù lại của cải cho những người dân Việt Nam tầm thường đã giúp họ giàu có mà trong tiếng Anh ta thường gọi việc làm đó là “give back to the community”.

    Tại sao chúng ta lại phải cuống quýt bay về Việt Nam lo cứu trợ, mà vô tình để cho các đại gia và các nhà tư sản lớn nhỏ trong nước có cơ hội để ỷ lại vào sự trợ giúp của chúng ta, để họ có thể bình tâm hưởng thụ, nhởn nhơ bay lượn sang Hawaii tắm biển buổi sáng, và đáp máy bay đến Las Vegas đánh bài xì phé buổi chiều ?

    Thử hỏi các tay đại gia, tư bản và cả đám “celebrities” đang sống đề huề với Cộng Sản như Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ, …vv… có thể yên tâm hưởng thụ và “hót” được nữa hay không khi dân nghèo và dân oan tràn về nằm đầy trên đường phố và tình trạng an ninh của họ bị đe dọa bởi chết chóc, bệnh tật, đói nghèo, trộm cắp lan tràn đầu đường cuối ngõ ?

    Hoàn cảnh của Việt Nam bây giờ đã khác 20 năm trước quá nhiều rồi. Tuy hơi muộn màng nhưng có lẽ vẫn chưa quá muộn để chúng ta thức tỉnh mà ra khỏi “cơn sốt” làm việc từ thiện cho Việt Nam. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên quay đầu nhìn lại con bò sữa Mỹ quốc đang càng ngày càng cạn kiệt bơ sữa mà chúng ta đã thi nhau vắt để cắc củm gửi về cho Việt Nam cả ngàn tỷ dollars trong hơn 30 năm qua.

    Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên chú tâm tới cái cộng đồng mà chúng ta đang sống, và với bổn phận làm công dân đối với cái đất nước đã và đang cưu mang chúng ta từ bao nhiêu năm qua. Nơi đây mới chính là nơi chúng ta phải vun đắp, tưới bồi không phải chỉ cho tương lai chúng ta mà còn cho đời con đời cháu của chúng ta. Đa số chúng ta vẫn còn cặm cụi làm ăn để trả nợ nhà, nợ xe, nợ học phí, nợ bills này, hoá đơn nọ, ….

    Con em chúng ta cần có hệ thống nước sạch để uống trong các trường học, các em thanh thiếu niên cần nhiều chương trình đức dục, giáo dục văn hóa Việt Nam, khoa học kỹ thuật và nghệ thuật mà chính phủ thì đã và đang cắt giảm ngân sách trong mọi lãnh vực. Còn những người già sống cô độc thì cần nơi nương tựa và các sinh hoạt cộng đồng.

    Xin đừng quên là chúng ta đang ở trong thời kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng mà hậu quả là rất nhiều người trong cộng đồng chúng ta đã mất nhà, mất job, …. và cần sự giúp đỡ của cộng đồng. Nói trắng ra là cộng đồng chúng ta vẫn còn nghèo, mà một phần lớn của cái nghèo đó là vì chúng ta đã và hiện vẫn còn đang “ăn cơm nhà” ở Hoa Kỳ, nhưng làm chuyện “vác ngà voi” ở Việt Nam, một công việc “tài lanh” mà Đảng Cộng Sản và bọn tư bản đỏ ở Việt Nam đang cười mũi vì họ không mời, không kêu gọi, cũng không “appreciate” nhưng chúng ta vì muốn “thi đua” lòng yêu nước thương nòi nên vẫn “thích” và “mê” lao đầu về làm như những con thiêu thân mà quên rằng chỉ có Đảng Cộng Sản Việt Nam mới có đặc quyền yêu nước và “yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội”.

    Mà giả sử như chính quyền Cộng Sản và bọn tư bản đỏ ở Việt Nam giả điếc làm ngơ, không thèm đếm xỉa, hay không lo toan cho dân nghèo thì đó là một cơ hội tốt cho đất nước Việt Nam chuyển mình. Cách mạng chỉ xảy ra khi con người ta bị đẩy vào con đường cùng, khi các mâu thuẫn giữa hai giai cấp giàu và nghèo, giữa thành phần cai trị và bị trị dâng lên đến tột cùng. Lịch sử cho thấy hai triệu dân chết đói ở miền Bắc năm Ất Dậu (1945) đã tạo một cơ hội ngàn vàng cho Cộng Sản khơi dậy lòng căm thù của toàn dân lên đến tột độ mà đứng lên làm “Cách Mạng Mùa Thu”.

    Thêm vào đó là yếu tố kinh tế. Không phải ngẫu nhiên mà một tay lãnh tụ cộng sản gộc như Gobachev lại lên cơn “mát” nhắm mắt làm ngơ cho dân Đông Đức phá bức tường Bá Linh để thống nhất nước Đức, và theo sau là sự sụp đổ của các chính quyền cộng sản ở Đông Âu. Chẳng qua chỉ vì nền kinh tế của Liên Xô đã quá kiệt quệ và két sắt của chính phủ Gobachev đã nhẹ hều, không còn đủ tiền bạc để tài trợ cho các chương trình quân sự viễn chinh nhằm đàn áp dân chúng ở Đông Âu như Liên Xô đã từng làm ở Hungary hay Ba Lan trong những thập niên 1950 – 1960.

    Lẽ ra Cộng Sản Việt Nam với cái túi tiền trống rỗng vì thiếu viện trợ của Liên Xô, Trung Cộng đã dẫy chết cùng số phận như những đàn anh cộng sản của chúng ở các nước Đông Âu. Lẽ ra cả dân tộc Việt Nam đã có tự do, dân chủ tiếp sau hàng loạt các nước Đông Âu đứng lên giành lại chính quyền trong đầu thập niên 1990, và được như vậy thì lẽ ra Việt Nam đã giàu mạnh hơn bây giờ nhiều và nhất là không bị nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng như hiện nay. Thế nhưng tất cả đã không xảy ra ở Việt Nam không phải hoàn toàn chỉ vì dân ta không có truyền thống dân chủ lâu đời, mà phần lớn là vì hàng tấn thùng hàng và hàng triệu dollars cứu đói của chúng ta gửi về trong những năm 1980s. Vì lòng thương, vì vô tình, vì thiếu lãnh đạo, và thiếu thống nhất trong hành động, và cũng vì thiếu cái nhìn viễn kiến mà chuyện cứu trợ của chúng ta trong những năm 1980s đã trở thành chuyện trợ giúp cho Cộng Sản Việt Nam được sống còn, để rồi chính cái chính quyền Đảng trị đó lại quay ra đánh phá các cộng đồng người Việt hải ngoại, tiếp tục gây ra “nghiệp chướng” cho cả dân tộc với hành vi bán nước dâng biển cho Trung Cộng.

    Hai mươi năm trước chúng ta đã để lỡ mất một cơ hội dân chủ và tự do cho dân tộc Việt Nam. Lần này không phải chỉ có tự do, dân chủ thôi, mà còn vận mệnh nước nhà đang lâm vào hiểm họa “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu”.

    Không phải chỉ có cơn bão số 9 đang tàn phá Việt Nam mà sẽ còn có cơn bão số 10, số 11, 12, …. Không phải chỉ có chuyện khai thác bauxite ở Tây Nguyên mà còn hàng trăm công trình và dự án khác đã, đang và sẽ làm cho dân ta mãi mãi mất quyền tự chủ, mất đi công ăn việc làm vào tay dân Trung Cộng. Ngư dân không ra biển đánh cá được nữa vì Việt Nam đã mất chủ quyền, bọn tham nhũng cường quyền ngày càng lộng hành vơ vét vì lòng tham không có đáy, dân nghèo càng nghèo hơn, xã hội càng mất cân bằng và xáo trộn vì khoảng cách ngày càng xa giữa thành phần cai trị và bị trị.

    Thêm vào đó là sự dần dần tỉnh ngộ của giới trí thức và giới trẻ ở Việt Nam trước nguy cơ mất nước. Tuy chậm nhưng tất cả những diễn biến đó sẽ có tác dụng hổ tương để trở thành điều kiện cần và đủ cho một cơn bão cách mạng như bao cuộc cách mạng khác đã xảy ra trong lịch sử nhân loại. Cơn bão cách mạng đó mới chính là cơn bão mà đồng bào trong nước cần đến sự cứu trợ của chúng ta, chứ không phải cơn bão số 9 hay số 10 nào cả. Để làm một hậu phương vững mạnh cho cơn bão cách mạng đó chúng ta cần phải lo cho sự giàu có, hưng thịnh và đoàn kết của cộng đồng chúng ta ngay từ lúc này.

    Muốn vậy chúng ta cần phải nhìn nhận một sự thật là chúng ta vẫn còn nghèo, vẫn còn có quá nhiều vấn đề phải lo cho cộng đồng nơi chúng ta đang định cư, và quá nhiều nợ nần chưa trả đối với các nước đã từng cứu vớt chúng ta trên con đường vượt biên, các quốc gia ở Đông Nam Á như Indonesia, Phillippines, Malaysia, … đã cho chúng ta tạm chân trú ngụ trên bước đường tỵ nạn.

    Viết đến đây thì tôi nhớ đến một bản Thông Báo gần đây của Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu kêu gọi người Việt tỵ nạn tại Úc hãy quyên góp cứu giúp nạn nhân động đất ở Indonesia để làm món quà nghĩa tình cho phái đoàn Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam trong chuyến viếng thăm Indonesia vào ngày 11 tháng 10 vừa qua nhằm đệ trình Thỉnh Nguyện Thư lên chính phủ và các cơ quan sở tại yêu cầu tiếp tục duy trì di tích trại tỵ nạn Galang, một di tích đang bị chính quyền Hà Nội áp lực để dẹp bỏ vì là nó nhắc nhớ đến lý do tại sao cả triệu người Việt Nam phải bỏ nước ra đi. Lại một lần nữa cộng đồng người Việt bên Úc đã tiên phong đi đầu.

    Là một người tỵ nạn đang sống ở Quận Cam là nơi tự coi mình là “thủ phủ của người tỵ nạn”, tôi cảm thấy hổ thẹn vì cho đến nay tôi chưa hề nghe một hội đoàn hay đoàn thể nào đứng ra kêu gọi lạc quyên cứu giúp nạn nhân động đất ở Indonesia, hay nạn nhân bão lụt ở Phillippines mặc dù ai cũng biết là cả Indonesia và Phillippines vừa mới chịu đựng những thiên tai rất nặng nề và đang kêu gọi thế giới giúp đỡ họ. Đây là hai quốc gia duy nhất đã rất nhân đạo với chúng ta khi không thực hiện chính sách đẩy tàu thuyền nhân Việt Nam ra biển (push-back policy) như Malaysia và Thailand đã từng làm và đã gây thiệt mạng không biết bao nhiêu ngàn thuyền nhân Việt Nam mà con số sẽ không bao giờ được biết chính xác.

    Đặc biệt, Phillippines còn là quốc gia duy nhất đã không thực hiện chính sách cưỡng bức người tỵ nạn hồi hương về lại Việt Nam như các quốc gia khác đã làm vào những năm đầu thập niên 1990, và mặc dù Phillippines không giàu có gì họ đã tiếp tục cưu mang gần 2500 người tỵ nạn Việt Nam trong khi chính Liên Hiệp Quốc đã thông qua chương trình Hành Động Toàn Diện nhằm dẹp bỏ hết các trại tỵ nạn tại Đông Nam Á. Các quốc gia tạm cư đó đã không “kỳ thị” chúng ta khi mà chính “anh em Nam Bắc một nhà” đã kỳ thị chúng ta bằng những chính sách và hành vi trả thù hèn hạ nhất sau 1975 như tra tấn, trấn nước, bỏ tù, bỏ đói, khủng bố tinh thần, tra khảo lý lịch mấy đời, ngăn sông cấm chợ, rượt đuổi chúng ta đến tận cửa biển để vòi tiền nhưng vẫn bắn súng AK vói theo tàu chúng ta cho chìm tàu và để bắn bỏ ghét “bọn bám chân đế quốc”. Đó là chưa kể hàng ngàn mộ phần của những thuyền nhân Việt Nam xấu số đã vĩnh viễn nằm lại trên những quốc gia tạm cư đó. Ơn nghĩa vậy mà chúng ta đã và đang làm được gì cho Indonesia hay Phillippines trong lúc họ đang gặp hoạn nạn vì thiên tai và đang kêu gọi sự giúp đỡ của thế giới ? Hay chính chúng ta đang “kỳ thị” họ vì chúng ta chỉ biết cứu trợ cho Việt Nam mà thôi ?

    Cứ tưởng tượng xem, nếu như trong lúc khốn khó này mà chính quyền Hà Nội tặng cho họ một món tiền cứu trợ và hứa hẹn sẽ tặng thêm tiền để họ xây nhà cửa, khách sạn hoặc các cơ sở thương mại ở ngay trên phần đất của các trại tỵ nạn năm xưa hoặc ngay trên các phần mộ của hàng ngàn thuyền nhân Việt Nam. Nói rằng Hà Nội làm “áp lực” thì e rằng ta hơi quá đáng vì thực sự ra trong lúc khốn khó này của Indonesia và Phillippines thì Hà Nội chỉ cần “tặng” tí tiền mà không cần gây “áp lực” gì cả cũng đủ để cho các chính phủ sở tại và người dân Indonesia & Phillippines nhận ra thái độ im lặng, dửng dưng và vô ơn của thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam trong lúc này.

    Hơn bao giờ hết đây là thời điểm thuận tiện nhất để cộng đồng tỵ nạn Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới có cơ hội thực hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây”. Đa số người Việt hải ngoại hiện nay đều có liên hệ ít nhiều đến các thuyền nhân 20 - 30 năm về trước, là con cháu của các thuyền nhân, hay được chính các thuyền nhân bảo lãnh từ Việt Nam qua, hoặc được chính các hội đoàn người Việt tỵ nạn vận động với các chính phủ sở tại bảo lãnh từ Việt Nam qua như diện H.O. chẳng hạn. Với một tập thể đông đảo như vậy, chúng ta không thể nào hành xử như thể … khi khổng khi không bỗng nhiên có cả triệu người Việt Nam “rơi xuống” tỵ nạn ngay trên đất Mỹ này. Thật là đáng trách nếu như chúng ta cố tình hành xử như những kẻ vô ơn, hoặc quên đi căn cưóc tỵ nạn của chính mình, hay chỉ biết kể cho con cháu nghe chuyện vượt biên năm xưa như một chuyện cổ tích xưa rích cần được nhắc lại vào ngày 30 tháng 4 hằng năm mà thôi.

    “Thuốc đắng dã tật. Sự thật mất lòng”. Chắc chắn là bài viết này sẽ làm cho nhiều người khó chịu hay nổi giận, nhất là các hội đoàn từ thiện hay cơ quan truyền thông đang chăm chú kêu gọi cứu trợ bão lụt miền Trung Việt Nam. Hy vọng rằng quý vị sẽ bình tâm khi đọc lại sự giải thích và trình bày lý do ở phần đầu của bài viết này. Xin được nhấn mạnh là bài viết này không phải là ý kiến hay chủ trương của tòa báo, mà chỉ đơn thuần là ý kiến của một cá nhân. Nhưng “một con én không thể làm nên mùa xuân”. Vì sĩ diện chung của tập thể người Việt tỵ nạn, và vì lợi ích chung của cộng đồng chúng ta trên đất Mỹ, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả các toà soạn đã đồng ý đăng tải bài viết này của tôi trên quý báo.

    Tôi trông chờ các vị đại diện cộng đồng, hoặc một hội đoàn từ thiện hay đoàn thể nào đó sẽ “can đảm” đứng lên kêu gọi một cuộc lạc quyên cứu trợ các nạn nhân động đất và thiên tai ở Indonesia và Phillippines như một sự đền đáp lại nghĩa cử cao đẹp của các quốc gia này khi đã ra tay cứu giúp thuyền nhân Việt Nam năm xưa. Tôi càng mong đợi nhiều hội đoàn sẽ để ý đến các công tác từ thiện cho chính các cộng đồng người Việt chúng ta trên đất Mỹ trong giai đoạn kinh tế khó khăn này. Tôi cũng ước mong nhiều người sẽ vào thăm trang web của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam (www.vktnvn.com) để tiếp tục ký tên vào Thỉnh Nguyện Thư nhằm vận động chính phủ Indonesia giữ lại các di tích trại tỵ nạn cho con cháu chúng ta có cơ hội tìm hiểu lý do vì sao chúng đã không mang quốc tịch Việt Nam, để chúng được tận mắt nhìn thấy chứng tích của một giai đoạn lịch sử đầy đau thương của dân tộc và cũng để chúng biết thông cảm với những nỗi khổ đau và trăn trở của thế hệ thuyền nhân Việt Nam. Mong lắm thay !

    Viết tại Quận Cam, 15 tháng 10, 2009.
    Nguyền mỹ Linh    















    --------------------------------------------------------------------------------

    Get more done like never before with Yahoo!7 Mail. Learn more. A TỪ THIỆN[color=#0000ff][/color][/b]
    Back to top
    « Last Edit: 26. Oct 2009 , 19:46 by nguyen_toan »  
     
    IP Logged
     
    nguyen_toan
    Gold Member
    *****
    Offline


    I love YaBB 1G - SP1!

    Posts: 4083
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #202 - 27. Oct 2009 , 15:46
     
    Nếu ông Phillip Roesler còn ở Việt Nam?

    Hà Giang, thông tín viên RFA 2009-10-27
    Truyền thông quốc tế mấy ngày hôm nay xôn xao vì tin ông Phillip Roesler, 36 tuổi, người Đức gốc Việt Nam đã được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Bộ Y Tế của Cộng Hòa Liên Bang Đức.

    Ông Phillip Roesler. Photo courtesy of Wikipedia Tin ông được cử làm Bộ Trưởng là một ngạc nhiên ngòai dự đóan của giới phân tích ở ngay tại thủ đô Bá Linh. Cũng là một tin làm người Việt khắp nơi trên thế giới hãnh diện, và làm dư luận trong nứơc xót xa.
    Ngạc nhiên thú vị
    Không riêng tại Bá Linh, thủ đô của nước Đức, mà dư luận nhiều nơi trên thế giới, mấy ngày nay ngạc nhiên về một tin ngòai dự đóan của mọi người, là ông Philipp Roesler, thành viên của Đảng Dân Chủ Tự Do (FDP)- người Đức gốc Việt, hiện đang là bộ trưởng kinh tế, lao động và giao thông tại tiểu bang Niedersachsen, vừa đựơc bổ nhiệm để trờ thành bộ trưởng y tế trong tân nội các của chính phủ Cộng Hòa Liên Bang Đức.
    Dù đã từ lâu đựơc xem là một ngôi sao nổi bật, và là niềm kỳ vọng của đảng Dân Chủ Tự Do, chính ông Roesler và ngay cả nội bộ đảng cũng tỏ ra rất ngạc nhiên khi ông được cử làm bộ trưởng y tế liên bang, vì đây là một bộ hiện đang đương đầu với nhiều rất khó khăn.
    Giới phân tích cho rằng sở dĩ ông đựơc bổ nhiệm là vì trong suốt thời gian thương thảo rất gắt gao về việc thành lập tân nội các giữa các liên minh, kéo dài hơn 3 tuần lễ, ông Philipp Roesler đã chứng tỏ khả năng của mình bằng cách luôn tỏ ra rất thông minh, thực tế, ôn hòa, có cái nhìn thấu đáo cùng tài ứng khẩu về nhiều đề tái, nhất là về y tế. Ông Roesler còn được cho là người có tài khôi hài, khéo léo xoa dịu được những căng thẳng trong các cuộc thảo luận.
    Trong vai trò bộ trưởng y tế. ở tuổi 36, ông Phillip Roesler là người Bộ Trưởng trẻ nhất nước Đức, và là người Bộ trưởng đầu tiên không phải là người gốc Đức, là bộ trưởng đầu tiên người gốc Á Châu, và còn là là ngừơi gốc Việt Nam..
    Ông Röesler sinh năm 1973 ở Khánh Hòa, là ông là một đứa trẻ sống ở viện mồ côi, và vào lúc  mới có 9 tháng tuổi, đã được cha mẹ nuôi đưa về Đức. Có nguồn tin cũng cho rằng cha mẹ ông đã bị đã bị pháo kích chết và người hàng xóm đã bỏ ông vào viện mồ côi tại Khánh Hòa, Nha Trang.
    Niềm kiêu hãnh
    Đối với người Việt Nam sống rải rắc khắp nơi trên thế giới, thì câu chuyện “đứa trẻ mồ côi Việt Nam thành ông Bộ Trưởng nước Đức” là một niềm hãnh diện vô biên.
    Nhiều diễn đàn điện tử đã đưa tin này với những tựa như: “Niềm hãnh diện chung của người Việt Nam. Nhiều video clips về những cuộc phỏng vấn hay tin tức về ông đã được đưa lên trang mạng You Tube với những tựa bắt đầu với hai chữ “Việt Nam pride” (dịch là niềm kiêu hãnh của Việt Nam).
    Từ Đức, tiến sĩ kinh tế Nguyễn Ngọc Hùng, phát biểu:
    “Ở tại Đức thì người ta kỳ thị lắm. Một người trẻ, đồng thời là một người không phải là người Đức, mà họ còn đạt được địa vị đó. Những người da trắng khác cũng không đạt được những địa vị như ông Roesler này.
    Ngừơi trứơc ông làm chủ tịch đảng Tự Do Dân Chủ tiểu bang đã nói rằng ông Roesler là người suy nghĩ và có lối giải quyết rất nhanh. Và ông luôn luôn tìm được một lối giải quỵết tốt đẹp nhất và nhanh nhất. Ông không bao giờ bí ở trường hợp nào cả.”
    Người Việt hải ngọai còn quý mến ông Roesler về việc dù ông tuy đã được nuôi dưỡng như một người Đức từ nhỏ, đã không quên nguồn gốc của mình là một người Việt Nam, và là một nạn nhân chiến tranh.
    Cựu đại tá CSVN, ông Bùi Tín, hiện đang sống ở Pháp, kể:
    “Khi ông ông Roesler trờ thành một người nổi tiếng ở Cộng Hòa Liên Bang Đức ông có dự định tham dự buổi khai trương tượng đài thuyển nhân ở Hamburg đó. Thì sứ quán VN tại Berlin đã liên hệ với ông, và gần như là hăm dọa và can ngăn thuyết phục ông ấy là không nên đến tham dự buổi khai trương đó, nhưng chính ông đã đến dự, và một tay cầm lá cờ Đức, một tay cầm lá cờ VNCH mà bà con mà bà con thuyền nhân mang theo, và chụp hình chung với bà con.
    Ông ta nói là sứ quán VN đã làm những cái chuyện vô duyên là định ép ông không dự khai mạc tượng đài như thế. Rồi còn yêu cầu chính quyền địa phương là bỏ cái chữ ghi ở trên bệ là “thuyền nhân Việt Nam”, thế nhưng mà chính quyền địa phương họ không nghe theo.”
    Diễn đàn X-Càfe cũng có nhiều bloggers bình phẩm về sự kiện sứ quán VN không muốn cho ông Roesler tham dự buổi lễ khánh thành tượng đài thuyền nhân tại Hamburg.
    Nếu vẫn còn ở Khánh Hòa, chẳng bao giờ anh trở thành một trí thức được trọng vọng chứ đừng nói là có thể làm Bộ trưởng! Cơ chế Việt Nam từ xưa đến nay chỉ cơ cấu chức Bộ trưởng cho tầng lớp con ông cháu cha.
    Ô. Hà Văn Thịnh, Huế

    Nếu cón ở Việt Nam…
    Nhưng dường như xen lẫn trong niềm hãnh diện dân tộc và nỗi vui mừng cho sự thăng tiến của ông Roeler, người ta có một chút ngậm ngùi, và những quan tâm sâu xa hơn.
    Và tại Việt Nam, ông Hà Văn Thịnh – thuộc Đại học Khoa học Huế, trong bài có tựa “Nghĩ Về Phillip Roesler” được đăng trên trang mạng BauxiteInfo viết:
    “Nếu vẫn còn ở Khánh Hòa, hiện tại của Roesler (tạm đặt tên là Đức) là điều ai cũng biết: Chẳng bao giờ anh trở thành một trí thức được trọng vọng chứ đừng nói là có thể làm Bộ trưởng! Cơ chế Việt Nam từ xưa đến nay chỉ cơ cấu chức Bộ trưởng cho tầng lớp con ông cháu cha.”
    Ông Bùi Tín chia xẻ nhận định của Ông Hà Văn Thịnh:
    “Tôi nghĩ là nó gợi cho ta rất nhiều suy nghĩ, là chỉ có dưới một chế độ dân chủ, dân chủ thực sự cơ, tài năng mới được biểu lộ ra, và mọi công dân mới được bình đảng, và người ta lựa chọn đúng là những nhân tài tinh hoa nhất của đất nước.
    Tôi nghĩ là nếu mà ông Roesler còn ở Việt Nam, thì bây giờ ông ấy còn gay go điêu đứng lắm. Trẻ mồ côi thì khó mà có thể học hành đựơc tấn tới, và dù học hành giỏi đến đâu đi nữa, cũng khó có thể ở vào một chức vụ cao được.”
    Ông Hà Văn Thịnh đặt vấn đề:
    “Tại sao không thấy lớp trẻ đang giỏi giang hơn và họ phải được trọng dụng hơn? Phải chăng vì nghĩ rằng mình càng ngồi trên cái ghế quyền lực lâu bao nhiêu thì bổng lộc còn nhiều chừng đó, bất kể cộng đồng, dân tộc, tuổi tác, năng lực.
    Một trong những nỗi đau lớn nhất của thực trạng cán bộ của ta hiện nay là vô khối người không đủ năng lực, thiển đức, kém tài lại giành được những vị trí thơm thảo để tha hồ thao túng, trục lợi cá nhân.”
    Nếu còn ở Việt Nam, thì liệu ông Roesler sẽ có cơ hội làm bộ trưởng không? Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Hùng phát biểu:
    “Nếu ông Phillip Roesler ở VN, không những ông không thể trở thành Bộ Trưởng, mà còn bị cấm hành nghề, và bị kết án vi phạm điều luật 88 của bộ luật hình sự là tuyên truyền chống đối nhà nứơc CHXHCNVN bởi vì ông là thành viên của đảng Tự Do Dân Chủ, chứ không phải là thành viên của đảng CSVN.”
    Nếu ông Phillip Roesler ở VN, không những ông không thể trở thành Bộ Trưởng, mà còn bị cấm hành nghề, và bị kết án vi phạm điều luật 88 của bộ luật hình sự là tuyên truyền chống đối nhà nứơc CHXHCNVN.
    TS Nguyễn Ngọc Hùng

    Một người ký tên Nguyễn Quang Lập viết trong diễn đàn X-Càfe:
    “Nói thật giá nước ta có vài mươi anh như Philipp Roesler , kẹt lắm thì năm bảy anh cũng được, giữ những vị trí quan trọng thì đất nước mình chắc sẽ khá lên nhiều. Một ông nhà văn nói chơi vui, nói lãnh đạo nước mình không có ai để mình gọi bằng thằng cả, toàn phải gọi bằng anh bằng ông bằng cụ, chán mớ đời.”
    Theo ông Hà Văn Thịnh thì sự kiện ông Roesler đựơc làm Bộ Trưởng còn làm nổi bật lên niềm đau xót về nền giáo dục Việt Nam. Cũng trong bài “Nghĩ Về Phillip Roesler”, ông viết:
    “Bộ GD-ĐT có cảm thấy buồn không khi con nuôi, nhận tại Khánh Hòa, bỗng chốc, “tự nhiên” trở thành Bộ trưởng của nước Đức lừng danh? Riêng tôi, đau và xót bởi tôi biết chắc rằng trí tuệ người Việt Nam không kém nhưng nghèo và hèn, dốt và nát bởi nền giáo dục này kém cỏi.
    Hai không rồi bốn không; những lời có cánh. Vậy mà, đọc chép vẫn hoàn đọc chép. Nói mà không có chế tài thì nói để làm gì?
    Tôi thấy thật tội nghiệp cho ngài Bộ trưởng. Khi lên chức vụ đó mà không được quyền thay bất kỳ ai của cơ chế cũ, giàn khung cũ thì làm sao có thể thay đổi? Nếu muốn có một nền giáo dục với hai vạn Tiến sĩ thật thì làm sao có thể khi 33% TS hiện nay chỉ là giấy như chính ông Bành Tiến Long, Thứ trưởng, đã thừa nhận với báo chí?
    Thay một cái cũ bằng một cái mới giả tưởng bằng chính những con người kém cỏi cỡ ấy, thiển cận cỡ ấy, bảo thủ đến mức ấy, sợ mất bổng lộc đến chừng ấy? Vô khả thi!”
    Sự kiện ông Phillip Roesler, 36 tuổi, một người mồ côi không phải dân bản xứ đã được cử làm Bộ Trưởng Bộ Y Tế của nước Đức đã khiến nhiều trí thức Việt Nam suy nghĩ.
    Điều gì đã ngăn cản không cho nước Việt Nam có những người lãnh đạo trẻ như ông Phillip Roesler?  Và phải làm gì để tuổi trẻ Việt Nam có thực tài có đựơc cơ hội lãnh đạo đất nước.?
    Chúng tôi xin mượn lời phát biểu của Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Hùng thay cho lời kết:
    “Sự kiên của ông Roesler tại Đức đã cho biết rằng Việt Nam cần phải thay đổi. Tại vì trong một chế độ độc tài, thì con ngừơi không thể phát triển được như vậy. Ông Roesler ông ấy ở Đức thì ông ấy mới đựơc phát triển như vậy, còn nếu ông ấy ở Việt Nam, thì chắc chắn ông ấy không được như vậy. Cái nguyên nhân của sự chậm phát triển là do độc tài. Độc tài cản trở sự phát triển về mọi mặt.”
    Chương trình Câu Chuyện Hàng Tuần đến đây xin tạm kết thúc, Hà Giang hẹn gặp lại quý vị trong chương trình kỳ tới, mong quý vị đón theo dõi.

     
    Back to top
    « Last Edit: 27. Oct 2009 , 15:48 by nguyen_toan »  
     
    IP Logged
     
    nguyen_toan
    Gold Member
    *****
    Offline


    I love YaBB 1G - SP1!

    Posts: 4083
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #203 - 28. Oct 2009 , 20:54
     
    Cóc Mở  Miệng


    Chiều thứ Tư 21 tháng Mười bộ ngoại giao Việt Cộng đột nhiên bớt ngọng; dĩ nhiên đó là điều đáng mừng. Chúng còn “triệu” đại sứ Trung Cộng đến để trao công hàm yêu cầu Trung Cộng nghiêm trị bọn lính Tầu chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa vì bọn này đã có hành động vô nhân đạo đối với ngư phủ Việt Nam.
    Sở dĩ tôi đóng ngoặc kép chữ “triệu” để lưu ý bạn đọc, vì đây là việc lạ, việc cóc Việt Cộng lần đầu tiên mở miệng: thuờng khi có việc cần “trình” với thiên triều, Việt Cộng sai bọn quan chức cao cấp cỡ bộ trưởng hay phó thủ tướng khúm núm đến toà đại sứ Trung Cộng nhỏ nhẹ bẩm báo.

    Vốn ghét Việt Cộng hơn ghét cứt nhưng lần này tôi vỗ tay hoan nghênh việc chúng làm. Ðể bạn đọc hiểu rõ hơn, xin nhắc lại zụ ziệc: cuối tháng Chín, 16 tàu cá của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi vào tránh bão số 9 tại quần đảo Hoàng Sa đã bị lính Tầu nổ súng bắn chặn trước mũi tầu không cho vào đảo, bất chấp quy luật cứu nguy trên biển cả; cả 16 tầu cá đành chịu phép thả neo hứng bão giữa biển, trong lúc chỗ núp an toàn bên trong đảo chỉ cách vài phút.
    Sau nhiều tiếng đồng hồ chịu đựng, mỗi phút sóng càng lớn hơn, gió càng mạnh hơn, tầu này đập vào tầu kia, và sắp vỡ tan, chìm vào đáy biển, 200 ngư dân gọi nhau qua cell phôn, bảo nhau liều mạng chạy vào Hoàng Sa tránh gió, núp bão. Một người nêu ý kiến: “kéo cờ trắng đầu hàng chúng nó đi cho yên chuyện”. Cả đoàn 16 tầu làm theo: những mảnh khăn trắng cũ đuợc kéo lên cột cờ chỗ thường ngày họ phải treo cờ đỏ sao vàng.
    Hạ nhục được đồng chí Việt Cộng, lính Trung Cộng hả dạ, thôi không bắn thị oai nữa, để mặc ngư phủ Việt Nam vào núp sau hòn đảo Hoàng Sa của Việt Nam để tránh bão. Nhưng hạ nhục không thôi vẫn chưa đủ, sau khi bão tan, chúng cho chiến hạm chặn trước hải cảng không cho tầu cá Việt Nam trở ra biển, và cho lính Tầu sang tầu cá lục soát cướp của, đánh ngư phủ để trừng phạt cái tội dám đánh bắt cá trong Biển Ðông, hải sản chúng thè cái lưỡi bò xuống liếm và dành cho ngư phủ Tầu.

    Người đẹp phát ngôn viên mới của bộ ngoại giao Vi Xi, bà Nguyễn Phương Nga cho biết bộ của bà đã trao công hàm cho đại sứ Trung Cộng phản đối việc lính Tầu có những hành động vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam.
    Trong công hàm, bộ ngoại giao Việt Cộng đòi Trung Cộng lập tức điều tra làm rõ zụ ziệc và trừng phạt bọn lính Tầu vì hành động đối xử thô bạo với ngư dân Việt Nam, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại cho họ, đồng thời hoạch định những biện pháp cần thiết hầu ngăn chặn không để những hành vi tương tự tái diễn.
    Trước kia tôi thường “chửi” thằng Việt Cộng nói ngọng, không dám lên tiếng trước những hành động hà hiếp của Tầu. Lần này tôi xin lỗi chúng nó, và hứa sẽ không chửi chúng nữa, nếu chúng tiếp tục bảnh như vậy.

    Hà Nội bảnh thì Quảng Ngãi cũng bảnh theo: chiều 15 tháng Mười, tỉnh trưởng Quảng Ngãi Nguyễn Xuân Huế cho biết tỉnh đã tiếp xúc với 200 ngư dân bị lính Tầu ngược đãi để yêu cầu họ kê khai mọi tổn thất để đòi Trung Cộng bồi thường.
    Ngư dân liệt kê lính Tầu “tịch thu” của họ máy Icom, máy dò, máy định vị, bộ dây hơi và bình lặn, cùng thủy sản họ vừa đánh bắt được; ngoài ra lính Tầu còn hút dầu trong tầu cá Việt Nam, mỗi tàu bị lấy khoảng 2.000 lít dầu diesel.
    Hầu hết 16 chiếc tàu này mới ra khơi chưa đầy một tuần thì gặp bão, nên khi bị hút nhiên liệu, cướp thiết bị và ngư cụ đánh bắt, ngư dân phải trở về với nợ nần chồng chất, từ 50 triệu đến hơn 200 triệu đồng mỗi tàu.

    Hãnh diện về việc Việt Cộng thôi ngậm hột thị, nhưng tôi lại ngạc nhiên vì chúng nó xin Tây cho vay 14 triệu “ơ rô” để gắn dụng cụ phát tín hiệu cho 3,000 chiếc tầu cá, những dụng cụ này giúp xác định vị trí tầu đang hành nghề qua vệ tinh.
    Tại sao lại chỉ gắn máy cho 3,000 tầu cá trong lúc ngư phủ Việt Nam hành nghề bằng 15,000 con tầu viễn duyên? Và tại sao lại phải vay 14 triệu ơ rô trong lúc năm nào tôi cũng gửi về nước 10 tỉ mỹ kim?

    Phó thủ tướng Việt Cộng Hoàng Trung Hải trả lời: dự án "giám sát tàu cá sử dụng công nghệ vệ tinh" nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý nghề cá trên biển. Và vì đã “ăn” hết những tỉ mỹ kim tôi gửi vê, chúng đành vay tiền Tây.

    Thôi thì con dại cái mang, tôi đành chịu cho chúng nó “ăn” và cũng đành nhận trả những món nợ chúng nó vay, miễn là chúng mở miệng đòi Trung Cộng bồi thường cho ngư phủ Việt Nam là tôi hả dạ rồi.
    Nguyễn Ðạt Thịnh


    |


    Back to top
     
     
    IP Logged
     
    Đặng-Mỹ
    Gold Member
    *****
    Offline


    Đậu Xanh, U trẻ,
    Thiên Nga, Nghi Nương

    Posts: 14731
    Gender: female
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #204 - 04. Nov 2009 , 09:12
     
    Trích từ Diễn Đàn Lề Phải
    ______________________________________


    "Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn"

    (Lời: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)


    Tác giả: Shinra

    Đây là bài đầu tiên tôi viết trong diễn đàn này.

    Khỏi mất thời gian của quý vị, xin nói mấy lời chân tình.

    Quý vị có biết vụ tẩy trứng gà Tàu thành trứng gà ta không? Quý vị có suy nghĩ như thế nào?

    Nếu hỏi quý vị một câu rằng nếu quý vị là một người dân thuộc làng Đông Ngàn, quý vị có tham gia vào cái việc tẩy trứng rồi đem đầu độc lại đồng bào của các vị không, thì chắc 100% quý vị ở đây trả lời là không !

    Nhưng kỳ thực là quý vị đang làm những việc tệ hại hơn nhiều so với việc ấy.

    Quý vị có bao giờ thấy người dân các nước "tư bản thối nát" "theo đuôi Mỹ" như châu Âu, Nhật, hàn Quốc người ta làm những cái trò đồi bại như tẩy trứng bằng axit, trộn melamin vào sữa, bơm hoá chất vào rau quả, quết mật ong giả vào chân gà thối.... để đem đầu độc chính giòng giống của họ không? Tuyệt nhiên là không.

    Những vị nào đọc đến đây mà bảo tôi là "rân chủ", "ăn phải bả của tư bản", thì mời quý vị khỏi đọc nữa, đỡ mất thời gian của quý vị.

    Quý vị có bao giờ nói hàng Mỹ, châu Âu, Nhật, Hàn, Thái là rởm, là đểu, là lừa đảo, là chạy theo đồng tiền... không? Hay là quý vị lùng sục mua bằng được những món đồ sản xuất ở những nước "tư bản thối nát" ấy với giá đắt gấp đôi gấp ba so với hàng của Trung Quốc?

    Quý vị có thể không tẩm chất độc vào trứng, vào rau như những người nông dân kém hiểu biết, nhưng quý vị lại tẩm chất độc vào đầu óc của những con người xung quanh quý vị bằng những lời dối trá, hối lộ, chạy chọt để được vinh thân phì gia. Dần dần, mọi người trong xã hội đều chạy theo quý vị với một suy nghĩ cực kỳ lệch lạc rằng "mình không làm ắt sẽ có người khác làm".

    Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị lại có tác động ngược trở lại kinh tế.

    Một xã hội mà ai cũng chỉ biết lo cho bản thân mình như xã hội Việt Nam, xã hội Trung Quốc thì có đáng được gọi là "xã hội chủ nghĩa" không?

    Các vị có hiểu thế nào gọi là "xã hội chủ nghĩa" và "tư bản chủ nghĩa" không?
    Các vị hiểu "XHCN" tức là có đảng cộng sản lãnh đạo còn "TBCN" là có nhiều đảng thay nhau lãnh đạo, hoặc là "nhiều đảng tư sản thay nhau lãnh đạo" phải không? Sai lầm .

    Xã hội chủ nghĩa là đặt xã hội lên đầu, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, nó đối lập với tư bản chủ nghĩa nơi mà "tư bản" được đặt lên đầu, mà tư bản chính là "tiền nằm trong lưu thông", hay nói tóm lại "tư bản" là lợi ích cá nhân.

    Theo Hán Việt "tư bản" nghĩa là "vốn".

    Một xã hội như Mỹ, Nhật là nơi mà con người luôn sống vì lợi ích riêng, nhưng không chà đạp lên lợi ích chung.

    Người Nhật không bao giờ tẩm thuốc kích thích vào rau quả vì họ biết làm như thế sẽ gây hại cho đồng bào của họ . Họ cũng không xuất khẩu những đồ kém chất lượng vì nó sẽ gây hại đến đồng loại của họ, dù là người nước ngoài.

    Người Nhật có thể tự sát, kết thúc sinh mệnh của mình, để bảo toàn danh dự cho gia đình, cho dòng tộc của họ.

    Một xã hội như Việt Nam, trung Quốc là nơi con người miệng thì nói rằng "vì lợi ích tập thể", "xã hội chủ nghĩa", nhưng tay và chân thì chà đạp giày xéo lên người khác. Hãy nhìn thử một vụ tắc đường ở Việt Nam và một vụ tắc đường ở Thái Lan thì biết.

    Vậy ở đâu mới xứng đáng là xã hội chủ nghĩa?

    Đó là một điều mà tôi muốn nói với quý vị

    Các vị nói rằng ngày xưa dù nghèo khổ nhưng Việt Nam vẫn kiên cường chống lại hai đế quốc to. Điều này là đúng và theo một nghĩa nào đó, thì đáng tự hào .

    Nhưng các vị lại nói ngày nay để được hoà bình, hay nói toẹt ra là để các vị được yên ổn làm ăn, yên ổn kiếm tiền, thì Việt Nam cần mềm dẻo với Trung Quốc, cho dù trên thực tế và trên tuyên bố, Trung Quốc đã và đang chiếm nhiều đất của chúng ta.

    Vậy theo cái lý ngày xưa của quý vị thì đáng ra Việt Nam phải vùng lên đánh lại Trung Quốc, hoặc theo cái lý ngày nay của quý vị thì đáng ra ngày xưa Việt Nam không nên đánh lại Pháp và Mỹ mới phải.

    Nhưng sự thực thì quý vị luôn tự hào về ngày xưa và đớn hèn về ngày nay. Chẳng có cái lý nào ngoài cái lý tiền. Các vị sợ đánh nhau với trung quốc thì con cái các vị phải ra trận, hoặc ít ra thì khi có chiến tranh, việc làm ăn kiếm tiền của các vị sẽ khó khăn hơn. Tóm lại các vị chỉ biết có bản thân mình, các vị theo cá nhân chủ nghĩa ở trình độ cao cấp.

    Đó là cái thứ hai tôi muốn nói với các vị.

    Các vị khi thì hô hào "Việt Nam là bạn với thế giới" , khi thì hô hào "Việt Nam phải cảnh giác với Mỹ, Âu, Tàu, Nhật". Như thế là cái lý gì?

    Vì cái tư tưởng lúc nào cũng thù với hận của các vị, nên các vị không bao giờ thật lòng giao hảo với bất cứ ai. Các vị bắt tay người nước ngoài khi họ đến mang theo đô la và các vật dụng đắt tiền cho các vị hưởng, nhưng các vị lại vênh mồm lên chửi khi họ chỉ ra những cái sai lầm của quý vị. Quý vị biện luận rằng trong quan hệ quốc tế thằng nào cũng chỉ lợi dụng lẫn nhau thôi. Vậy thì người ta sẽ nghĩ về quý vị đúng như thế. Thuỵ Điển, Na Uy hàng năm cho không Việt Nam hàng triệu đô la và nhiều chương trình đào tạo phát triển, họ lợi dụng gì quý vị? Hay là quý vị nghĩ rằng họ chẳng qua muốn lấy lòng quý vị nên mới thế? Vậy nghĩ xem quý vị đã là cái thá gì mà người ta phải lấy lòng?

    Quý vị thử chìa tay ra cho một người, rồi biết được người ấy lúc nào cũng nhăm nhăm "cảnh giác cao độ" với cái chìa tay của quý vị, thì quý vị sẽ nghĩ gì về người đó?

    Đầu óc quý vị quá đen tối và nói thẳng ra quý vị cũng suốt ngày tìm cách lợi dụng người khác nên mới nghĩ cho người khác đen tối như thế.

    Vì thế nên Việt Nam ta mới tụt hậu so với nước ngoài như hôm nay. Những quốc gia như Nhật, Hàn, Thái Lan vốn có điểm xuất phát không hơn ta là mấy nhưng nay họ đã vượt ta nhiều, đó là vì sao? Vì họ có tầm nhìn hơn chúng ta. Vì họ hiểu được một lý thuyết cơ bản nhất của thương mại đó là cả hai bên cùng có lợi, họ không bao giờ bắt tay với người khác mà trong bụng thì cứ nơm nớp lo người ta "lợi dụng" mình. Suy nghĩ kiểu như thế chỉ tồn tại trong những bộ óc chưa tiến hoá hết từ vượn sang người.

    Nói thẳng ra, các vị là những kẻ hám tiền, lo cho lợi ích của cá nhân và cùng lắm là gia đình mình là hết. Các vị ưa xiểm nịnh, khi báo Washington Post đưa tin rằng nền kinh tế Việt Nam đang cất cánh thì quý vị tung hô tờ báo ấy như là chuẩn mực của sự trung thực, còn khi cũng báo Washington Post đưa tin về tham nhũng của Việt Nam thì các vị nói họ đưa tin không chính xác. Cái thái độ lá mặt lá trái ấy cũng đúng trong trường hợp người ta nói về "kẻ thù" của quý vị, ví như việc Ân Xá Quốc Tế lên án Mỹ vi phạm nhân quyền và cũng lên án Việt Nam với tội danh tương tự.

    Đây là điều thứ ba tôi muốn nói với quý vị

    Điều thứ tư nghe sẽ hơi sốc: nói thẳng ra là quý vị cực ngu

    Quý vị không tin vào các thông tin "lề trái", tức là những thông tin trái ngược với báo chí chính thống và những tuyên bố chính thức của Việt Nam. Nhưng bản thân quý vị đang sinh hoạt ở một diễn đàn có tên miền quốc tế, đã hoạt động được hơn 2 năm nhưng ngân khoản duy trì sự tồn tại của nó vẫn là từ tiền của cá nhân những con người đáng trân trọng đã lập ra website này. Tại sao website này không thể có đuôi .vn và cũng không thể đăng quảng cáo được, quý vị nếu đủ thông minh thì đã nghĩ ra từ lâu rồi.

    Quý vị quy kết tất cả những lời nói, bài viết của người khác là "phản động" "chống lại Việt Nam", "bán rẻ tổ quốc" chỉ vì những người ấy không có tư tưởng giống như quý vị. Quý vị bỏ ngoài tai mọi lời phân tích không theo ý kiến của quý vị . Quý vị biến một diễn đàn trao đổi tri thức thành một cái chợ để cãi nhau và sỉ vả nhau bằng những từ như "thằng chó", "con lợn", một cách tự nhiên không biết ngượng mồm. Nếu vậy quý vị mất thời gian lên diễn đàn làm gì? Sao không trùm chăn lại tự nói cho xong?

    Quý vị gọi người khác là "chống lại đất nước" bởi vì họ chống lại suy nghĩ của quý vị, như thế khác gì quý vị tự coi mình là đại diện của nước Việt Nam? Quý vị tự cho mình là người phát ngôn của chính phủ Việt Nam, hay ngắn gọn, quý vị chính là Việt Nam?

    Quý vị kêu gọi người ta "cảnh giác với những âm mưu gây chia rẽ", nhưng lại không nhận ra rằng chính cái lời kêu gọi ấy của quý vị là một âm mưu gây chia rẽ. Nếu quý vị muốn sống tốt với hàng xóm của mình, ắt quý vị không bao giờ bắc loa giữa phố mà rằng "hãy cảnh giác với thằng A, con B, hàng xóm của tôi, chúng nó đang âm mưu chia rẽ".

    Quý vị ngu lắm.

    Muốn đất nước phát triển được, hãy thôi mò mẫm và ảo tưởng trong cái thế giới độc tôn của quý vị, hãy tỉnh táo trước những khẩu hiệu, hãy đi vào bản chất thay vì hô hào bên ngoài, hãy lắng nghe xem người khác nói thế nào, và hãy chân thật trong mọi mối quan hệ.

    Nhưng tôi không vọng tưởng rằng một ngày nào đó quý vị sẽ thay đổi. Quý vị sẽ mãi mãi là người dân của một đất nước tụt hậu, tham nhũng, ô nhiễm và không được bạn bè quốc tế coi trọng.

    Đên đây chợt nhớ câu nói của cụ Tản Đà:
    "Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn..."
    Back to top
    « Last Edit: 04. Nov 2009 , 10:08 by Đặng-Mỹ »  
     
    IP Logged
     
    kienmay
    YaBB Newbies
    *
    Offline


    I love YaBB 1G - SP1!

    Posts: 35
    Gender: female
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #205 - 19. Nov 2009 , 14:28
     
    Một Câu Thơ Gây Nhiều Tranh Cãi

    Gió đưa cành trúc la đà,
    Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.

    Trong bao nhiêu năm nay, nhiều người Việt Nam ở nhiều lãnh vực khác nhau đã đua nhau tranh cãi về xuất xứ của hai câu thơ này.
    Trên Tập san Y Sĩ  ở Montréal Canada số 135 tháng 5 năm 1997, Lê Dư Khương cho rằng hai câu thơ đó không hề có ở xứ Huế, viện dẫn rằng ở Huế có chùa Thiên Mụ mà không ai nghe nói tới địa danh Thọ xương. Vậy thì câu thơ phải phát xuất từ miền Bắc là

    "Gió đưa cành trúc la đà,
    Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương".

    Thoạt nghe thấy có lý vì phía tây thành Thăng Long (Hà Nội cũ) có cả chùa Trấn Võ trên đường Cổ Ngư và có cả huyện Thọ Xương nằm trên bờ Hồ Tây.
    Liền sau đó, tháng bảy 1997, Hồ Văn Châm đăng bài phản biện cũng trên tập san này, chứng minh rằng  ở Huế cũng có vừa chùa Thiên Mụ vừa có làng Thọ Xương để xác định là câu thơ phát xuất từ vùng Huế bằng những lập luận dựa trên nhiều sự kiện lịch sử:
    Theo Văn Đàn Bảo Giám do Văn Học Tùng Thư ấn hành và theo Phan Phong Linh trong cuồn Việt Nam Phong Cảnh Qua Thi Ca thì bài thơ sau đây là của Dương Khuê:

    Phất phơ ngọn trúc trăng tà,
    Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương,
    Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
    Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ.

    Theo Thái Văn Kiểm trong bài " Hồi chuông Thiên Mụ" đăng trong Làng Văn Magazine (tháng Tư 1986) ước đoán rằng thơ Dương Khuê sơ khởi chỉ có hai câu đầu, về sau một nhà thơ nào đó thời cận kim thêm vào hai câu sau cho đầy đủ cảnh trí..
    Điều đáng chú ý là tất cả mọi trích dẫn trên đều thống nhất ở một điểm là "Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương" đi theo sau câu "Phất phơ ngọn trúc trăng tà".
    Trong khi đó sách báo tại Hà Nội vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 đều nhất loạt đổi "Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn võ, canh gà Thọ Xương" thành " Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương". Nhà văn Vũ Ngọc Phan thận trọng hơn, khi phải viết "Gió đưa cành trúc là đà, Tiếng chuông Trấn Võ..." thì phải a dua theo thời để được yên thân, nhưng cũng không quên chú thích rằng có bản chép là " Phất phơ ngọn trúc trăng tà" để cho lương tâm khỏi bị căn rứt.
    Gần đây, giáo sư Vũ Quốc Thúc, một vị giáo sư khả kính đã dạy tôi về môn kinh tế khi tôi còn theo học trường Luật ở Sài gòn, cũng đã lên tiếng trên Internet để góp ý về cuộc tranh luận văn học này. Giáo sư kể rằng khi còn học ở trường Thành Chung Nam Định vào năm 1934-1937, giáo sư đã từng được nghe bài thơ đó. Vì là người Hà Nội chính cống nên giáo sư rất rành rẽ ngọn ngành về những địa danh và những sinh hoạt trong bài thơ. Giáo sư đã từng đứng trên gác nơi cư ngụ ở gần đường Quan Thánh mà nhìn qua Vườn Ươn Cây của thành phố để thấy mặt nước Hồ Tây  và xa xa là huyện Thọ Xương và làng An Thái. Từ đó giáo sư hình dung được cái cảm hứng của tác giã khi làm bài thơ và xác nhận rằng đó là môt cảnh vật có thật, điều này không ai chối cãi. Giáo sư còn suy diễn  thêm những cảm nhận rất phong phú về đời sống, về chính trị qua các giai đoạn lịch sử bắt nguồn từ bài thơ bất hủ này. Giáo sư cũng lý luận rằng Thọ Xương và chùa Thiên Mụ cách nhau cả ngàn dặm thì làm sao một người có thể vừa nghe tiếng gà gáy ở Thọ Xương vừa nghe được thiếng chuông Thiên Mụ. Giáo sư cũng viện dẫn một bức hí họa đăng trên tuần báo Phong Hóa với hai câu thơ:

    Gió đưa cành trúc la đà,
    Một thuyền chật ních bài ngà thượng thư.

    Kẻ viết bàn này cũng được có dịp đọc và xem bức hí họa trên, trong đó cành trúc là những cần hút làm bằng trúc của mấy điếu thuốc lào, một tượng trưng của các quan chức ở Huế, và các Cụ Thượng trong quốc phục khăn đen áo dài với thẻ bài ngà trên ngực, chen chúc trong một chiếc thuyền trên sông Hương. Bức hí họa nhằm ám chỉ Cụ Phạm Quỳnh, được nhận ra với cặp kính cận thị gọng đen đậm, đã từ bỏ Bắc Hà trong lãnh vực cao quý là làm báo viết văn để đi vào con đường hoạn lộ, vào Huế nhận chức Lại Bộ Thương Thư, tương đương với Thủ Tướng chính phủ. Câu thơ châm biếm trên cũng đã vô hình dung nói lên là đã xuất xứ từ Huế, vì ờ Huế mới có bài ngà Thượng Thư.
    Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là tiếng chuông Trấn Võ hay tiếng chuông Thiên Mụ ?
    Trước hết, Thọ Xương là một địa danh có thật nằm đối diện với chùa Thiên Mụ ở bên kia bờ sông Hương, ngày nay là làng Nguyệt Biều có gò Long Thọ nơi có nhà máy vôi Long Thọ và có Phường Đúc, nơi tập trung các tiểu công nghệ làm đồ đồng, ngày nay vẫn còn. Dưới thời các chúa Nguyễn, nơi đây được gọi là Thọ Khương,  nơi có cung điện mùa hè của các chúa Nguyễn. Đến đầu đời vua Gia Long đổi thành Thọ Xương, đến năm Minh Mạng thứ năm (1824) lại đổi thành Long Thọ Cương. Thọ Xương ngày nay ít người biết tới cũng như ít ai biết tới Hà Nội đã từng được gọi là Đông Đô,Thăng Long,  Đại La, Bắc Thành, Đông Quan, Tống Bình....
    Có người cho rằng vì thấy mấy câu thơ hay của Dương Khuê nên người Huế mới ôm về cho mình mà đổi thành ra"Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương."  Điều này không thể có được vì chùa Thiên Mụ xây năm 1601, chuông Thiên Mụ đúc năm  1710 (có thể là tại Phường Đúc ngay bên kia sông), tên làng Thọ Xương có từ đời Gia Long  đến đời Minh Mạng (1802-1824), trong khi Dương Khuê vào làm quan dưới triều vua Tự Đức vào nửa sau thế kỹ 17.
       Tóm lại, câu ca dao ở Huế vẫn là của Huế, bài thơ Dương Khuê, cho dù người đời sau có thay đổi "Phất phơ ngọn trúc trăng tà " thành " Gió đưa cành trúc la đà " vẫn là của Dương Khuê, không ai lấy của ai hết.
    Câu ca dao trên đã in sâu vào lòng người dân Huế. Để thưởng thức trọn vẹn cái cảm khoái tỉnh niệm đó, người Huế tìm ra được cái thú là ngủ đò trên sông Hương. Vào những đêm mùa hè nóng bức, với những ngọn gió Lào khô cháy, một số gia đình, trong đó có gia đình tôi, thường mướn những chiếc đò cho trôi lững lờ trên sông Hương, để hưởng những giây phút thư giãn trong khung cảnh trăng thanh gió mát trên mặt nước bềnh bồng. Chung quanh đâu đó, thỉnh thoảng lại vọng lên những tiếng ca Nam Ai, Nam Bình, tiếng hò Mái Nhì Mái Đẩy nghe rất ngọt ngào. Vào thời đó, ở Huế có nhiều "ban nhạc bỏ túi," thường gồm có một tay đờn nguyệt, một tay đờn cò và một hoặc hai cô ca, được mướn đi ca hát trong những dịp vui mừng, lễ lạc, đám tiệc, hoặc trên sông Hương vào những đêm mùa hè sáng trăng. Trong dịp này các Cụ thường uống rượu, ngâm thơ, làm thơ để đưa cho mấy cô ca ngâm nga, đó là một cái thú chơi rất tao nhả, thanh lịch, không phải chỉ dành riêng của bực vương tôn công tử mà thôi. Cũng từ đó, nhiều văn nhân đã cảm hứng thành những bài thơ sau nay được truyền tụng trong dân gian mà cứ tưởng là ca dao:

    Chiều chiều trước bến Vân Lâu,
    Ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm,
    Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông,
    Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
    Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.

    Những đêm đẹp trời, nhiều khi đò chèo ngược giòng sông, qua khỏi cầu Bạch Hổ hướng về phía lăng Minh Mạng để được hòa mình trong cái vẽ đẹp tuyệt vời khi giòng sông Hương uốn khúc. Xa xa là dãy núi Trường Sơn mờ mờ mây phũ, một bên là chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, một bên là làng Nguyệt Biều, Long Thọ, Phường Đúc, ẩn hiện trong sương mù sau những rặng tre xanh mướt phất phơ theo gió hai bên bờ sông. Càng về khuya cảnh vật càng thêm phần huyền ảo mông lung, tiếng hát càng thêm thấm thía, và cũng từ đó có khi tôi được nghe và được thấy luôn cả câu thơ

      Gió đưa cành trúc la đà,
      Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

        Lời thơ hình như đã thấm vào da thịt tôi, ngây ngất  trong huyết quản tôi. Lúc đó tôi được khoảng mười tuổi.
        Thế rồi chiến tranh bùng nổ, sông Hương mất đi cái duyên dáng đài các của nó. Ngủ đò trên sông Hương đã trở thành một thứ kỹ nghệ xưa nhất của loài người, để rồi sau chiến tranh, Huế xác xơ với mấy vần thơ:

       Núi Ngự không cây, chim ngủ đất,
       Sông Hương vắng khách, đĩ kêu trời.

    Ngày nay du khách có thể tìm thấy trên sông Hương nhan nhản những chiếc " thuyền rồng" chạm trổ một cách cẩu thả, xấu xí, quê mùa, rồng không ra rồng, rắn không ra rắn, làm hổ thẹn cho cái quá khứ thi vị của đất Thần Kinh.
    Phê bình văn học không những là một đóng góp mà còn là một bổn phận để trao đổi, để phổ biến và học hỏi, để thu nhận những ý kiến, những kinh nghiệm của người khác. Điều quan trọng là phải chấp nhận và tôn trọng những ý kiến khác vì cùng một sự kiện mà mỗi người có một cảm nhận và một góc nhìn khác nhau. Đó là cái hương thơm của văn minh, của dân chủ.
    Áp đặt ý kiến mình cho kẽ khác bằng cách này hay cách khác là một hành động lỗi thời trắng trợn không chấp nhận đuợc. Thế mà chính quyền cộng sản Hà Nội đã chỉ đạo sinh hoạt văn hóa theo một chiều hướng nhất định và kễ từ cuối thập niên 80 bắt buộc sách báo khi viết hai câu thơ trên thì phải là

      Gió đưa cành trúc la đà,
    Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.

    Tại sao?
    Theo Hà Nội, đỉnh cao trí tuệ phải nằm ở miền Bắc, cái gì hay cũng phải được phát xuất từ miền Bắc kễ cả bộ xương của một người cổ được cho là thủy tổ của dân Việt cũng đào được ở dãy núi Hoàng Liên Sơn (?) Không hiểu vì mặc cảm hay vì muốn sơn phết cho cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, nên sau khi chiếm được miền Nam tất cả những tài sản vật chất cũng như văn hóa đều phải dời ra Bắc như là những chiến lợi phẩm khi đi chiếm thuộc địa. Trong số đó, ưu tiên phải dành cho16 tấn vàng trong kho của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, được chở ngay ra Bắc để rồi biến thành mây khói mà không còn lại một mảy may vết tích. Chỉ có một kho tàng mà họ không cưóp nổi, đó là chất xám của miền Nam. Cộng sản không những tom góp cái gì quý để đem ra Bắc mà còn trấn áp miền Nam bằng những cái gì mà dân Bắc đã phải chịu đựng dưới ách cai trị của họ. Họ đang phát động phong trào dùng tiếng Bắc làm tiếng tiêu chuẩn ( ! ), báo hại đồng nghiệp Nguyễn Hy Vọng , một nhà nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt, đã phải lớn tiếng  trên diển đàn Nội San này rằng tiếng Bắc  còn có nhiều sai sót từ phát âm cho tới cách viết. Đó là chưa kể tiếng Bắc của " Hà Nội mới " với giọng lên rất khó nghe, khác hẳn với giọng Hà Nội khoan thai quý phái của Hà Nội trước năm 1954. Nguy hại hơn nữa, họ còn áp đặt  cái gọi là Văn Hóa Xã Hội Chủ Nghĩa, mà tượng trưng là một tình thương và một niềm vui:

    "Thương cha thương mẹ thương chồng,
    Thương mình thương một, thương Ông (Staline) thương mười"
    "Vui biết mấy khi nghe con học nói,
    Tiếng đầu lòng con gọi Staline."

    Thôi thôi, xin cám ơn, thứ văn hóa đó xin các ông hãy giữ lấy!!
    Trong các trường học, học sinh đươc học chủ nghĩa Mac-xít Lê-ni-nít  như là những giáo điều chân lý tuyệt đối, trong khi chủ nghĩa này đã bị sụp đổ ngay tại cái nôi sinh ra nó. Bóp méo lịch sử  là sở trường của cộng sản. Những thế hệ trẻ Việt Nam được học rằng Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt vì người Nhật đã đầu hàng Nga chứ không phải là Mamoru Shigemitsu đã đại diện Nhật Hoàng để ký văn bản đầu hàng với Tướng Douglas Mac Arthur ngày 2/9/1945 trên chiến hạm Missouri. Họ cũng không hề được biết rằng người Mỹ đã lên tới mặt trăng, giả thử có người lên tới mặt trăng thì người ấy phải là người Nga v...v...Trong chuyến về thăm Việt Nam năm 2004, tôi được một cô hướng dẩn viên của Hanoi Tours tổ chức đi thăm Hoa Lư. Khi đi ngang trại tù Nam Hà, tôi bảo rằng trước kia tôi đã ở đây, cô ta tròn xoe đôi mắt ngạc nhiên, vì không hề được biết một chút gì về việc mấy trăm ngàn người tù miền Nam đã bị lưu đày trên khắp đất Bắc. Cô ta sinh vào năm 1980 nên đã học lịch sử theo bài bản của chính quyền cộng sản viết ra.
    Để kết luận, tuy tôi không đồng ý với giáo sư Vũ Quốc Thúc về xuất xứ của câu thơ "Tiếng Chuông Thiên Mụ", nhưng tôi rất hoan nghênh ý kiến của giáo sư trong đoạn kết. Giáo sư thấy rằng có một số người Việt hải ngoại đã hí lộng trên sự kém cỏi tiếng Việt của giới trẻ Việt Nam, đó là một điều đáng buồn, vì những thanh thiến niên đó đâu có được học hỏi về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam như những thế hệ đi trước. Giáo sư nói: " Kẽ đáng trách là chúng ta, những người lớn tuổi thuộc thế hệ ông cha của các thanh thiếu niên ấy. Chúng ta đã không làm hay không làm đủ bổn phận truyền đạt cho con cháu chúng ta những kiến thức về văn hóa dân tộc mà ta đã hấp thụ. Thiên phiếm luận đăng trên Internet về bài thơ " Gió đưa cành trúc là đà" đã giúp chúng ta ý thức sâu sắc hiễm họa vong bản đang đe dọa con cháu chúng ta. Chúng ta không nên trì hoản nữa: cấn phải làm một cố gắng quyết liệt để chấn chỉnh tình trạng này."   
    Vậy thì chúng ta phải thiết thực và cần có sự góp sức của nhiều người để có những hành động chung  Chúng ta nên thực hiện chương trình qua nhiều giai đoạn, ví dụ như mở lớp dạy tiếng Việt cho con em ở nhiều trính độ khác nhau, phổ biến sách báo, thành lập một thư viện, tổ chức những buổi nói chuyện, thuyết trình về những đề tài văn học, lịch sử v...v..., nhưng quan trọng hơn hết vẫn là thường xuyên nói tiếng Việt với con cháu trong nhà. Đó là những ý kiến sơ khởi mới thoáng qua, còn cần phải nhiều công phu và nhiều thiện chí. Câu thơ sau đây của Alfred de Vigny trong bài La Mort Du Loup đáng cho ta suy gẩm:

      "Gémir, pleurer, prier est également lâche,
        Fais énergiquement  ta longue et lourde tâche."

       Paris, tháng Mười năm 2009

    Phương-Vũ  Võ Tam-Anh
    Back to top
     
     
    IP Logged
     
    phu de
    Gold Member
    *****
    Offline



    Posts: 3628
    Gender: male
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #206 - 21. Nov 2009 , 01:19
     
    Băng đảng Peru giết người lấy mỡ bán cho công ty mỹ phẩm


    ...
    Hài cốt của những nạn nhân bị một băng đảng trong miền rừng núi Peru bắt cóc và ám sát, mà người ta tin rằng để lấy mỡ bán lậu cho các hãng mỹ phẩm. (Hình: Cảnh sát Quốc gia Peru/EPA)






    LIMA, Peru (AP) - Cảnh sát Peru cho hay một băng đảng trong vùng rừng rậm ở quốc gia này đang giết người rồi sau đó gạn lấy mỡ của các xác chết đem bán ra thị trường chợ đen để dùng trong kỹ nghệ mỹ phẩm, dù rằng các chuyên gia y tế nói rằng họ không nghĩ có một thị trường lớn cho loại mỡ này.

    Có ba nghi can thú tội giết năm người, nhưng băng đảng này có thể từng giết hàng chục người khác, theo lời Ðại Tá Jorge Mejia, chỉ huy trưởng lực lượng đặc nhiệm chống bắt cóc của cảnh sát Peru. Ông cho hay rằng một nghi can nói là nhóm của họ không phải là băng duy nhất liên hệ đến các vụ giết người lấy mỡ này.

    Ðại Tá Mejia nói hai nghi can bị bắt trong lúc mang theo các lọ đựng nước mỡ người và cho cảnh sát hay rằng nước mỡ này trị giá tới $60,000 mỗi gallon (khoảng 3.8 lít). Số nước mỡ này bán cho các tay trung gian ở thủ đô Lima và cảnh sát nghi rằng sau đó sẽ được chuyển sang Âu Châu, theo lời Ðại Tá Meja hôm Thứ Năm, nhưng ông không có bằng chứng rõ rệt nào.

    Giới chuyên gia y tế bày tỏ sự nghi ngờ là có thị trường chợ đen quốc tế cho mỡ người, dù rằng có những ứng dụng trong mỹ phẩm. Một giáo sư ở Ðại Học Yale, Bác Sĩ Lisa Donofrio, nghi rằng có một thị trường nhỏ cho mỡ người để dùng vào việc dưỡng da, nhưng trên căn bản khoa học, bà cho hay việc điều trị cách đó là “chuyện tào lao.”

    Tại cuộc họp báo, cảnh sát trưng bày hai chai đựng mỡ người tịch thu từ các nghi can và hình một đầu nam nạn nhân, 27 tuổi. Nghi can Elmer Segundo Castillejos, 29 tuổi, dẫn cảnh sát đến nơi chôn đầu này tại vùng thung lũng trồng lá coca hồi tháng qua, theo Ðại Tá Mejia.

    Ðại Tá Mejia cho hay Castillejos kể lại việc băng này cắt đầu, chân tay các nạn nhân, mổ bỏ nội tạng, rồi sau đó dùng móc treo ngược thân mình các nạn nhân trên các ngọn nến rồi đặt ống hút lấy mỡ.

    Có sáu thành viên trong băng này hiện còn đang tại đào. Trong số này có người được coi là thủ lãnh, Hilario Cudena, 56 tuổi, kể theo lời Castilleuos khai với cảnh sát thì từng giết người lấy mỡ từ hơn ba thập niên qua.

    Chỉ trong năm nay, có ít nhất 60 người bị coi là mất tích trong tỉnh Huanuco, vùng hoạt động của băng này, dù rằng nơi đây cũng là khu vực buôn bán ma túy của thành phần phiến quân tả phái.

    Giới chức y tế được hãng thông tấn AP hỏi ý kiến cho hay mỡ người có được dùng vào việc điều trị chống da nhăn - nhưng luôn lấy từ cơ thể của bệnh nhân, thường là từ bụng hay mông.

    Bác Sĩ Neil Sadick, giáo sư về các bệnh ngoài da ở Cornell Weill Medical College tại New York, nói rằng “có rủi ro phản ứng miễn nhiễm” nếu dùng mỡ người khác. (V.Giang)

    Trích báo Người Việt

    ...



    xem thêm ở đây
    Back to top
     
     
    IP Logged
     
    Mytat
    Gold Member
    *****
    Offline


    Peace - Love - Happiness

    Posts: 5276
    Gender: female
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #207 - 21. Nov 2009 , 19:02
     


    Chuyện thương tâm về cha tìm con
    Anh Chị Cựu Học Sinh Phan Thanh Giản TĂNG BẢO CAN

    TÌM CON GÁI BÍCH HẰNG


    (Cháu nội Thầy Cô Tăng Tùng Sinh & Công Huyền Tôn Nữ Mai Hương)



    ...


    Tang Bich Hang was born on March 13, 1971 and has a brown birth mark on the top of her right thight. She was taken by Thailand's pirates when escape on the boat from Vietnam since 1984. By the time she was 14 years of age. Parents, Tang Bao Can and Thai Thi Lan, also brother Tang Duc Khanh, are searching for her. Parents can be contacted at:  tangbaocan@gmail.com or chatimcon@gmail.com .



    Search Missing Daughter


    ...

     
    Hình chụp hơn 25 năm, trước khi bé Bích Hằng bị cướp Thái Lan bắt giử
    Sex: Female
    Birthday: March 13, 1971
    Hometown: Thất lạc trong hiện tại, sinh tại, Can Tho, Vietnam
    Parents: Tang Bảo Can, Thái Thị Loan    
    Siblings: Tang Đức Khánh


    Bé Bích Hẳng bị thất lạc từ năm 1984, 14 tuổi, cho đến nay.  Thời mới sanh, còn nhỏ, bé Bích Hằng có mang một đóm nâu trên đùi chân phải (a brown birth mark on top of right thight)

    Nếu Bích Hằng còn sống thì năm nay được khoản 39 tuổi. Bị cướp Thái Lan bắt khi vượt biên, lúc 14 tuổi, từ 1984 cho đến hiện tại, vẩn còn thất lạc. Có lẽ sinh sống tại Thái Lan hoặc một nơi nào khác. Đã xa gia đình và cha mẹ hơn 25 năm qua.
    Cầu xin các bạn, mọi người giúp chuyển link Facebook nầy đến mọi nơi qua mạng Facebook.
    http://www.facebook .com/profile. php?id=100000505 530568&ref=nam

    Mong rằng Bích Hằng sẽ được đoàn tụ với gia đình trước khi ngày cha mẹ qua đời. Muôn ngàn đa tạ và mang ơn các bạn. 
    Email: chatimcon@gmail. com
    hay: tangbaocan@gmail. com   
    Mobile Number: 714 487 4241
    Other: 714 839 1587


    Anh Tăng Bảo Can (tangbaocan@yahoo.com) là một người tù cải tạo, một người cha đau khổ vì con gái của anh - Tăng Bích Hằng bị hải tặc Thái Lan bắt cóc trên đường vượt biển tìm tự do. 

    Phần 1



    Phần 2



    Phần 3


    Phần 4


    Phần 5 


    Phần 6


    Phần 7


    Phần 8


    Phần 9


    Phần 10


    Phần 11


    Phần 12


    Phần 13


    Phần 14


    Phần 15


    Phần 16



    Back to top
    « Last Edit: 21. Nov 2009 , 20:46 by Mytat »  

    Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
     
    IP Logged
     
    nguyen_toan
    Gold Member
    *****
    Offline


    I love YaBB 1G - SP1!

    Posts: 4083
    Re: ĐỌC BÁO
    Reply #208 - 27. Nov 2009 , 14:04
     
    6 Câu hỏi hóc búa[size=16][/size]

    Dưới đây là 6 câu hỏi  hóc búa, đố  14 người trong Bộ Chính Trị  Đảng Cộng Sản dám trả lời suông  xẻ.

    Ðâu Là Sự Thật ?

    Ðặng Xuân Khánh
    (Sinh viên trẻ đang sống trong thiên đàng xã nghĩa VC)

    Giới trẻ chúng tôi, thành phần lớn lên sau chiến tranh không hiểu biết lý do tại sao đã có cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1954-1975), mà báo chí ngoại quốc thường gọi là chiến tranh Việt Nam (Vietnam War).

    Chúng tôi đã được học tập dưới hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) về lý do tại sao có cuộc chiến tranh Việt Nam qua những cụm từ như “chế độ khát máu Mỹ-Diệm”, ”miền Nam bị Mỹ, nguỵ kìm kẹp”, “đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào”, “ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ”, “giải phóng miền Nam” v.v…

    Nhưng ngày nay, với sự phổ biến của công nghệ thông tin, chúng tôi đã biết nhiều hơn trước. Về lý do tại sao đã có và do ai gây ra cuộc chiến Việt Nam 1954-1975, hoàn toàn không phải như chúng tôi đã được tuyên truyền trong nhà trường.

    Tuy nhiên, chúng tôi cũng còn vài thắc mắc rất đơn giản. Kính mong các bác, các chú, là những người đã và đang phục vụ cho đảng và nhà nước Việt Nam và những người vẫn khư khư cho rằng chiến tranh Việt Nam là cần thiết để “giải phóng miền Nam” thoát khỏi sự “kìm kẹp của Mỹ, Ngụy” v.v giải thích giùm:

    1. Sau năm 1954, sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, Hiệp định Geneve đã được ký kết ngày 27/10/1954 chấm dứt chiến tranh Ðông Dương lần thứ nhất. Trong thời gian chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) lãnh đạo chính quyền miền Bắc, tại sao 1 triệu người miền Bắc đã phải lên tàu đua nhau bỏ chạy vào miền Nam để cho “Mỹ - Diệm kìm kẹp” mà không ở lại cùng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và chủ tịch HCM? Số 1 triệu người này có thể còn nhiều lần hơn nếu nhà nước không dùng bạo lực ngăn chặn, không cho họ ra đi! Tại sao ngoại trừ một số các cán bộ đảng viên cộng sản (CS) tập kết ra Bắc, người dân miền Nam lại không đua nhau chạy ra Bắc theo chế độ CS của chủ tịch HCM, mà tuyệt đại đa số cứ nhất quyết ở lại cho “Mỹ - Diệm kìm kẹp”? Theo hiệp định Geneve thì lúc đó mọi người được hoàn toàn tự do lựa chọn đi ra miền Bắc hay ở lại miền Nam cơ mà??

    2. Tại sao hồi còn chiến tranh Việt Nam (trước 30/4/1975), mỗi khi có giao tranh giữa quân đội miền Nam (VNCH) và bộ đội “giải phóng” thì dân chúng đều chạy về phía có lính miền Nam trú đóng, chứ không chạy về phía bộ đội “giải phóng”? Nếu dân miền Nam bị “Mỹ, Ngụy kìm kẹp”, cần phải được “giải phóng”, thì lẽ ra họ phải hồ hởi mà chạy về phía các “đồng chí bộ đội”, tay bắt mặt mừng và cám ơn “được giải phóng”, chứ sao lại bồng bế nhau mà chạy trối chết để xa lánh các “đồng chí” ấy? Ðua nhau chạy vế phía có lính miền Nam để tiếp tục bị “kìm kẹp”, không lẽ họ ngu đần đến nỗi chỉ thích bị “Mỹ, Ngụy kìm kẹp” chứ không muốn được “giải phóng” à?

    3. Năm 1975, sau khi chiến tranh chấm dứt, “bộ đội giải phóng” chiếm toàn bộ miền Nam, đất nước thống nhất, Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào. Tại sao dân miền Nam lại lũ lượt trốn chạy ra đi, bất chấp nguy hiểm, bão tố, cá mập, hải tặc mà vượt Biển Ðông; bất chấp các bãi mìn, hay bị Khơ-me Ðỏ chặt đầu; để bằng đường bộ băng qua Campuchia sang Thái Lan?

    Theo ước tính của các cơ quan truyền thông, thông tin quốc tế thì hơn 1 triệu người đã đi bằng hình thức này (h**p://archives.cbc.ca/id-1-69-324/l...ty/boat_people).

    Chúng tôi đã được học tập là “Mỹ- Diệm đã ban hành đạo luật 10/59 tố Cộng, diệt Cộng, lê máy chém đi khắp miền Nam”, nào là “bè lũ tay sai quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu”, nào là “ghi khắc tội ác dã man của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”… v.v…. Khi học xong, đọc hay nghe những dòng chữ như thế, thì chúng tôi nghĩ, chắc hẳn chế độ ở miền Nam dù với Diệm hay Thiệu thì cũng tàn ác kinh khủng lắm, thế nhưng tại sao lại suốt từ 1954 cho thời điểm ngày “Giải phóng” 30/4/1975 - 20 năm trời, không hề có hiện tượng người dân miền nam từ bỏ, trốn khỏi miền Nam để xuống tầu đi vượt biên? Thay vì đến khi bộ đội ta từ miền Bắc vào Nam “giải phóng”, lẽ ra phải ở lại mừng vui, thì họ lại kéo nhau ra đi là thế nào? Thế thì có tréo cẳng ngỗng không? Tại sao hàng ngàn dân miền Bắc, nhất là từ Hải Phòng, đã có kinh nghiệm sống dưới sự lãnh đạo của Bác và Ðảng hơn 20 năm, cũng bỏ miền Bắc XHCN, vượt vịnh Bắc Bộ sang Hong Kong mong có cơ hội được sống với thế giới tư bản, chứ nhất định không ở lại miền Bắc XHCN “tươi đẹp”?

    4. Năm 2005, sau khi hoà bình đã về trên quê hương được 30 năm, đảng CS đã lãnh đạo đất nước được 30 năm, (chính quyền Sài Gòn chỉ lãnh đạo miền nam có 20 năm thôi, 1954-1975), thì tại sao dân chúng vẫn còn lũ lượt tìm cách rủ nhau ra đi. Trai thì đi lao động cho nước ngoài, rồi tìm cách trốn ở lại, gái thì cắn răng chịu đựng tủi nhục lấy toàn đàn ông (già cả, tàn tật, hết thời, …) của Ðài Loan, Singapore, Ðại Hàn, để có cơ hội thoát khỏi Việt Nam??? Tại sao du học sinh, thành phần gọi là tương lai của đất nước vẫn luôn tìm mọi cách (ngay cả khi chưa học xong) để ở lại nước ngoài, như lập hôn thú (giả có mà thật cũng có) với người Việt hải ngoại, chứ nhất định không chịu trở về Việt nam???

    5. Những năm gần nay, những người Việt trước nay đã trốn đi vượt biên, chạy theo để “bám gót đế quốc”, là “rác rưởi trôi dạt về bên kia bờ đại dương”, là “thành phần phản động”, là “những kẻ ăn bơ thừa, sữa cặn” như nhà nước Việt Nam vẫn từng đã nói. Nay được chào đón hoan nghênh trở về Việt Nam làm ăn sinh sống và được gọi là “Việt kiều yêu nước”, “khúc ruột ngàn dặm”? Có đúng họ “yêu nước” không? Tai sao họ không dám từ bỏ hoàn toàn quốc tịch Mỹ, Pháp, Canada, Úc, xé bỏ hộ chiếu nước ngoài và xin nhập lại quốc tịch Việt Nam và vĩnh viễn làm công dân nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam???

    6. Trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12, chúng tôi được giảng dạy rằng, “Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Theo như chúng tôi tìm hiểu, năm 1961 khi Ngô Ðình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ, thì miền Nam lúc ấy chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường xá… Mỹ chỉ bắt đầu đưa lính vào miền Nam từ năm 1965, sau khi lật đổ và giết Ngô Ðình Diệm do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Vậy thì vào thời điểm 20/12/1960, làm gì có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống?? Các bác, các chú chống ai, chống cái gì vào năm 1960???
    _________________

    Bằng Lăng
    (Theo : CanhThep)

    *************************************************

    Ghi chú: hiện nay cán bộ gốc bự đang tẩu tán tiền của, đưa con cháu họ hàng sang Bắc Mỹ và Âu Châu để mua nhà, mua cơ sở thương mại...dọn sẵn ổ cho các cán mau tẩu thoát.



    Back to top
    « Last Edit: 27. Nov 2009 , 23:08 by admin »  
     
    IP Logged
     
    Dau Do
    Gold Member
    *****
    Offline


    Quân Sư

    Posts: 11596
    Thành Phố Phượng Hoàng
    Gender: female
    CHUYỆN CẦN ĐỌC.
    Reply #209 - 28. Nov 2009 , 07:05
     

    CHUYỆN CẦN ĐỌC.



    Juval Aviv là một nhân viên Do Thái mà truyện phim “Munich” đã phỏng theo. Hồi trước ông là cận vệ của bà Golda Meir’s,bà đã cho lệnh ông truy nả và đem xét xử những kẻ khủng bố Palestin đã bắt các lực sỉ Do Thái làm con tin và giết họ trong Thế Vận Hội Munich.

    Trong cuộc thuyết trình tại New York cách đây vài tuần, ông đã cho biết nhiều tin tức mà ông nghĩ mọi người Mỹ cần nên biết. Nhưng chính quyền ta (Obama) chưa chia sẻ với chúng ta.

    Trước đây ông đã tiên đoán đường tầu điện ngầm ở Luân Đôn sẽ bị nổ bom,trong show của Bill O’reilly đài Fox, công bố rằng khủng bố sẽ xảy ra trong vòng một tuần.Khi đó, O’reilly cười chế nhạo và châm biếm ông và rằng muốn ông có mặt trên show này một lần nữa vào tuấn tới.Nhưng thật không may,trong tuần lễ đó khủng bố tấn công đã xảy ra.

    Juval Aviv cung cấp tin tức tình báo ( từ những tin tức lượm được từ Do Thái và Trung Đông) cho chính quyền Bush biết về khủng bố 9/11 vào khoảng một tháng trước khi xảy ra. Bản báo cáo đặc biệt rằng bọn chúng có thể dùng máy bay thay bom và nhắm vào các nhà chọc trời và các tượng đài.Sau đó Quốc hội đã mướn ông làm nhân viên cố vấn an ninh.

    Bây giờ ông tiên đoán tương lai. Ông cho biết cuộc tấn công khủng bố tới sẽ xảy ra trên lãnh thổ Hoa Kỳ trong vài tháng tới.

    Hãy quên đi chuyện cướp những máy bay,bởi vì, ông nói,những tên khủng bố sẽ không bao giờ cướp máy bay nữa,vì chúng biết rằng người trên phi cơ sẽ không khoanh tay và sẽ chống cự. Juval Aviv tin rằng an ninh phi trường hiện nay lỏng lẻo,chúng ta đã chỉ phản ứng thay vì đóng góp để kiện toàn hệ thống chống khủng bố hữu hiệu.

    Ví dụ :

    1- Kỹ thuật lỗi thời.Chúng ta tìm kim loại,nhưng hiện nay bom làm bằng nhựa.

    2- Ông nói về một tên ngu xuẩn đốt cháy giầy của hắn, vì vậy mọi người phải cởi giầy. Một số kẻ ngu khác cố đem chất nổ lỏng lên phi cơ. Bây giờ chúng ta không được đem theo nước uống. Ông nói ông đang đợi một tên đổ chất nổ vào quần lót, thì lập tức an ninh sẽ yêu cầu mọi người cởi hết quần áo. Những hành động đó chỉ là phản ứng thôi.

    3- Chúng ta chỉ lưu tâm an ninh khi mọi người đi vào cổng. Juval Aviv nói rằng trong tương lai nếu một tên khủng bố nhằm vào phi trường, chúng sẽ lợi dụng lúc đông người ở chỗ mọi người đang check in. Thật dễ dàng cho một tên khủng bố xách 2 vali hành lý chứa đầy chất nổ, đi thẳng vào hàng chờ check-in và nói với người đứng gần hắn làm ơn để ý dùm hành lý của hắn vài phút để hắn đi tiểu hay đi mua nước uống, rồi làm nổ tung hành lý trước khi nhân viên an ninh đến. Ở Do-Thái, những hành lý được kiểm soát trước khi vào phi trường.

    Juval Aviv nói rằng cuộc khủng bố sắp tới ở Hoa Kỳ quá rõ ràng và sẽ đánh bom tự sát và đánh bom không tự sát ở những nơi có nhiều người tụ tập.(ví dụ như Disneyland, Casino Las vagas, thành phố New York, San Francisco, Chicago v.v….) cùng các shopping mall, tầu điện ngầm trong giờ cao điểm, ga xe lửa v.v… cũng như ở các vùng thôn quê (Wyoming, Montana…) Tấn công sẽ đồng loạt phá hủy khắp nơi (quân khủng bố muốn có tác dụng lớn), liên quan ít nhất 5-8 thành phố bao gồm luôn cả thôn quê.

    Juval Aviv nói những tên khủng bố sẽ không cần đánh bom tự sát trong các thành phố lớn, bởi vì những nơi như MGM GRAND ở Las Vagas, chúng chỉ đơn giản đậu xe bằng Valet với xe chở đầy bom và sau đó biến mất dạng.

    Juval Aviv nói những tình huống trên đều được biết tường tận trong ngành tình báo,nhưng chính quyên không muốn báo động cho dân chúng biết sự thật.Thế giới sẽ trở thành “một nơi xa lạ”nhanh chóng và những vấn đề như ‘điạ cầu hâm nóng’ và sửa đổi đường lối trở thành vô nghĩa.

    Trên một ghi chú đặc biệt, ông nói người Mỹ không phải lưu tâm đến nguyên tử. Juval Aviv nói những tên khủng bố muốn tiêu diệt Mỹ sẽ không dùng những vũ khí tinh vi. Chúng thích dùng bom tự sát. Rẻ tiền, dễ dàng, hiệu quả và chúng có nhiều bật tận những thanh niên tình nguyện tự sát để được về với nơi mong ước của bọn chúng.

    Ông cũng nói trong những vụ khủng bố sắp tới, những tên khủng bố sẽ không đến từ các nước ngoài. Nhưng bọn chúng sẽ là những kẻ lớn lên tại Mỹ đã từng đi học và được giáo dục tại các Trường trung Đại học ở đây. Ông nói hãy để ý những “sinh viên” hay đi qua về Trung Đông, những tên khủng bố trẻ này rất nguy hiểm bởi vì chúng biết nói tiếng Anh và hiểu biết thói quen của người Mỹ. Nhưng chúng ta lại không biết không hiểu gì về chúng nó.

    Juval Aviv nói rằng người Mỹ không chuẩn bị và không được huấn luyện về những đe dọa khủng bố mà chúng ta phải đương đầu không tránh được.Nước Mỹ vẫn còn có nhiều người nói tiếng Arabic va Farsi trong hệ thống tình báo và Aviv nói chúng ta phải khẩn thiết thay đổi thực trạng ngay.

    Vì vậy,làm sao nước Mỹ tự bảo vệ được ? Trong ngành tình báo,Aviv khuyên Hoa Kỳ nên ngưng ngay sự trông cậy vào vệ tinh và các kỷ thuật tình báo.Thay vào đó chúng ta cáh§n theo phương cách của Do Thái,Ireland và nước Anh những thí dụ điển hình về tình báo nhân dân.Cả hai từ sự thanh lọc rỏ ràng cũng như tin cậy vào những người dân am hiểu .Chúng ta cần phải chú tâm và tự giáo dục mình. Tuy nhiên chính quyền tiếp tục xem chúng ta như con nít. Chính quyền nghĩ rằng chúng ta không có thể giải quyết sự thật và nghĩ rằng chúng ta sẽ kinh hải nếu chúng ta hiểu được sự thật của sự khủng bố. Aviv nói đây là một lỗi lầm chết người.
    Aviv vừa mới tạo ra một thí nghiệm an ninh mới và đem thử nghiệm cho Quốc hội xem,bằng cách đặt một va li trống không trong 5 địa điểm qua lại đông đúc trong 5 thành phố lớn.Kết quả ? Không lấy một người gọi 911 hay tìm một người Cảnh sát để tìm sự thật,trong thành phố Chicago,một người lại lấy cắp vali.

    Làm sự so sánh,Avis nói rằng dân Do Thái được huấn luyện rất kỷ khi thấy một bịch hay gói đồ không có chủ lập tức tri hô lên cho mọi người biết “Một bao không có chủ”, dân chúng lập tức chạy tản ra khỏi chổ đó.Nhưng ở Mỹ thì trái lại,vì chưa thấm đòn bởi khủng bố nhiều nên chính quyền chưa hoàn toàn hiểu rỏ cần phải dạy dổ dân chúng hay chính quyền phải hiểu rằng thường dân sẽ là những người tuyến đầu tốt nhất để chống trả lại sự khủng bố không thể tránh được.
    Aviv cũng quan tâm về số lớn trẻ con ở đây đang học ở các trường mẩu giáo hay tiến mẩu giáo sau 9/11 đã lạc lỏng vì không có cha mẹ có thể đến dem con cái về nhà,và trường học chúng ta đã không có kế hoạch tại chổ để săn sóc các học sinh cho đến khi cha mẹ có thể đến trường đón chúng. Ơ New York dẵ xảy ra một vài trường hợp). Ông nhấn mạnh phải có kế hoạch là điều cần thiết,có sự thông cảm với gia đình, để phản ứng trong trường hợp bị khủng bố. Ông khuyên cha mẹ hảy tiệp xúc với con em ở trường và yêu cầu ngược lại từ các trường.Phát triển kế hoạch hành động như ở Do Thái đang làm.

    Gia đình bạn sẽ phải làm gì khi bạn không thể gọi nhau bằng phone ? Bạn tụ tập ở đâu trong trương hợp khẩn cấp? Ông nói chúng ta nên có tất cả kế hoach thật đơn giản cho các con em chúng ta nhớ và thi hành.

    Aviv nói rằng chính quyền Mỹ có kế hoạch bắt buộc,trong trường hợp khủng bố tấn công khác, sẽ lập tức cắt hết mọi khả năng trong việc dùng cell phone,blackberries v.v…,đây là phương tiện liên lạc thích hợp của quân khủng bố và bọn chúng thường dùng đế nổ bom.

    Làm thế nào bạn liên lạc được với người thân khi xảy ra ?
    Bạn cần có một kế hoạch.

    Nếu bạn tin tuởng những gì bạn vừa đọc,vậy bạn nên gởi email đến mọi người làm cha mẹ,thủ hộ, ông bà,cô chú và bất cứ ai.Sẽ không có chuyện gì xảy tới cho bạn nếu bạn chọn lựa không chuyển đi,nhưng khi biến cố xảy tới,email này sẽ ám ảnh bạn.”Tôi nên gởi email này đến…” nhưng tôi đã không tin và đã xoá bỏ nó .


    MINH NGHIÊU (sưu tầm)
    “hinhtran.com”
    Back to top
     

    Triệu người quen, có mấy người thương
     
    IP Logged
     
    Pages: 1 ... 12 13 14 15 16 ... 40
    Send Topic In ra