tieuvuvi
Gold Member
   
Offline

Vũ Tuyết Như - Tiểu Long Nhi-TiênDung
Posts: 4065
Bordeaux - france
Gender:
|
Kỳ 3:
Thôi Hiệu, một thi nhân nổi tiếng thời Đường thịnh khi qua đây, cảm hứng nét đẹp huyền ảo của trời chiều dần buông trên dòng Trường Giang,cảnh mỹ miều lộng lẫy của Hán Dương bên kia sông, đã để lại một áng thơ tuyệt tác bất hủ trên vách lầu Hoàng Hạc. Bài thơ đó như sau :
Hoàng Hạc Lâu Nguyên tác: Thôi Hiệu
七言律詩
崔顥
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去, 此地空餘黃鶴樓。 黃鶴一去不復返, 白雲千載空悠悠。 晴川歷歷漢陽樹, 芳草萋萋鸚鵡洲。 日暮鄉關何處是? 煙波江上使人愁。
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi, Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc: Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không Lòng sông quang tạnh in rõ cây đất Dương Hán Cỏ xanh mướt ở bãi sông Anh Vũ, Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu? Khói sóng trên sông khiến ai buồn sầu.
Bài dịch I: Hoàng Hạc Lâu
Người đi cưỡi hạc từ xưa, Đất này Hoàng Hạc còn lưa một lầu. Hạc vàng đi mất từ lâu, Ngàn năm mây trắng một mầu mênh mông. Hán Dương cây bóng lòng sông, Bãi kia Anh Vũ, cỏ trông xanh rì. Chiều hôm lai láng lòng quê, Khói lan sóng vỗ, ủ ê nỗi sầu.
- Trần Trọng Kim
Bài dịch II: Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ. Hạc vàng đi mất từ xưa, Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay. Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non. Quê hương khuất bóng hoàng hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
-Tản Đà
Bài dịch III: Hoàng Hạc Lâu
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay, Lầu hạc còn suông với chốn nàỵ Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn, Nghìn năm mây bạc vẩn vơ baỵ Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng, Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dầỵ Trời tối quê hương đâu tá nhỉ ? Đầy sông khói sóng gợi niềm tây
- Ngô Tất Tố
Bài dịch IV : Lầu Hoàng Hạc (1)
Người xưa cỡi hạc đã đi rồi Lầu Hạc còn trơ đất cũ thôi Một thoáng hạc vàng xa thẳm lánh Ngàn năm mây trắng lững lờ trôi. Hán Dương sông tạnh hàng cây thắm Anh Vũ bờ xanh lớp cỏ tươi (2) Lai láng tình quê chiều lữ thứ Trên sông khói sóng dạ bồi hồi
Trần Nhất Lang
(1) Hoàng Hạc Lâu trên ghềnh đá Hoàng Hộc thuộc huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc
2) Bãi Anh Vũ thuộc bắc ngạn sông Trường Giang, gần thành Hán Dương phía tây nam huyện Vũ Xương.

Hôm nay đứng trên ngôi lầu Hoàng hạc này, nhớ đến bài dịch của cha tôi, lòng tôi bỗng dâng một nỗi sầu miên man ...Chốn cũ còn đây nhưng cảnh không còn thơ mộng tao nhã như ngày xưa nữa. Hoàng hạc lâu đã trở thành một khu du lịch đầy tính cách thương mại, cạnh tranh thị trường. Ngôi tháp lầu bằng gỗ đã được thay thế bằng kiến trúc xi măng .Thiết trí trong lầu quá hiện đại tuy đẹp nhưng không còn biểu lộ hết nét diễm tình huyền ảo mong manh của Hoàng hạc Lâu thuở xưa...
Nhưng khi đứng trước bài thơ của Thôi Hiệu tôi cảm thấy chơi vơi như đi ngược dòng thời gian. Tôi mơ hồ thấy mình như đang trở về một thời thịnh Đường. Nhắm mắt lại tôi để hồn mình chìm vào quá khứ với những tiếng cười ròn rã, tiếng ngâm thơ sang sảng lồng trong tiếng sáo tiêu vi vút...Mùi hương nồng nàn của rượu ...Một khúc nhạc âm hưởng liêu trai...Phải chăng đây là Khúc " lạc mai hoa " trong bài thơ của Lý Bạch.
Dữ Sử lang trung ẩm thính Hoàng Hạc lâu thượng xuy địch
與史郎中欽聽黃鶴樓上吹笛
一為遷客去長沙 西望長安不見家 黃鶴樓中吹玉笛 江城五月落梅花
Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa Tây vọng Trường An bất kiến gia Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch Giang thành ngũ nguyệt "Lạc mai hoa"
Dịch Nghĩa:
Thân là một người khách đến tận Trường Sa xa vạn dặm Trông ngóng sang phía Tây về thành Trường An mà không thấy nhà Ở trên lầu Hoàng Hạc, tiếng sáo ngọc thổi Giữa tháng năm, (sáo thổi) vang lên khúc "Lạc Mai Hoa" trên sông nước dưới chân thành
Lạc mai hoa: tên một khúc địch (loại sáo thổi ngang), âm điệu não nề gợi niềm lữ thứ tha hương
Dịch Thơ:
Ngàn dặm Trường Sa khách tới đây Trường An nhà cũ khuất trời tây Tháng Năm tiếng sáo trên Lầu Hạc Vọng xuống thành sông khúc Lạc Mai.
Tiểu Vũ Vi dịch.
Cung điệu du dương trầm bỗng đã làm tôi nhớ đến bài "Trường Tương Tư " mà Sơn đã tặng cho tôi viết theo ý thơ của Lý Bạch. Em tôi rất mến chuộng vị thi hào tài ba lỗi lạc này nên thường hay chọn những bài thơ hay của ông để phổ nhạc như " tương tiến tửu ", "thu tịch lữ hoài" hay "cổ phong"...
Thu tịch lữ hoài Nguyên tác: Lý Bạch
秋夕旅懷
涼風度秋海。 吹我鄉思飛。 連山去無際。 流水何時歸。 目極浮云色。 心斷明月暉。 芳草歇柔艷。 白露催寒衣。 夢長銀漢落。 覺罷天星稀。 含悲想舊國。 泣下誰能揮。
Giờ đúng trước bút tích của Lý Bạch, tôi nghĩ đến câu chuyện truyền thuyết lãng mạn của lầu Hoàng Hạc, bài thơ của Thôi Hiệu, bản dịch của cha tôi, dòng nhạc của em tôi...Tôi đã viết một bài thơ về Lầu Hoàng Hạc khi tâm tôi bồi hồi xúc động. Bao nỗi niềm tôi gửi trọn vào trong mấy vần thơ này:
Lầu Hoàng Hạc
Người đi theo hạc khuất chân trời Lầu vắng hoàng hôn lặng lẽ trôi Muôn thuở phượng hoàng bay viễn xứ Nghìn năm mây trắng giạt ngàn khơi Hán Dương lộng bóng rừng cây thắm Anh Vũ mượt mà thảm cỏ tươi Chiều xuống, sầu thương về cố quận Sương đêm khói sóng lệ đầy vơi...
Tiểu Vũ Vi
Chùa Linh Ẩn
Cách Tây Hồ không xa là chùa Linh Ẩn, nằm trong thung lũng dưới chân một ngọn núi, là một trong 10 ngôi chùa lớn nhất Trung Quốc. Trên con đường vào chùa, tôi mê say ngắm nhìn nhiều pho tượng lớn nhỏ khắc trong đá núi với những đường nét cổ kính phủ đầy rêu phong.
Theo kinh sách thì vào năm 326 trước Tây lịch, có một nhà sư Ấn Độ pháp danh Huệ Căn đã đến Hàng Châu. Khi Ngài nhìn thấy thung lũng yên tịnh, ba mặt vây phủ bởi núi đồi và cây rừng, nhận ra đây là địa linh thích hợp cho việc ẩn tu. Ngài đã xây một ngôi chùa và đặt tên là Linh Ẩn. Chùa Linh Ẩn là một thắng cảnh du khách dập dìu : ngôi chùa chính vĩ đại và cổ kính gồm nhiều điện rộng lớn tồn trữ những pho tượng uy nghi đẹp đẽ..

Đại sảnh là một công trình kiến trúc đời nhà Đường với nhiều lớp mái cong. Trên nóc có chạm "Lưỡng long tranh châu". Tượng Đức Thích Ca Mâu Ni, tọa trên một tòa sen, giữa đại sảng đường, cao khoảng 20 thước. Đây là bức tượng Phật ngồi lớn nhất Trung Quốc hiện nay.
Trên trán tượng Phật Thích Ca là huệ nhãn sáng lấp lánh, phía sau đầu Ngài là một tấm gương tròn lớn, bao quanh gương là bảy tiền thân của Đức Phật. Đầu Ngài hơi ngả về phía trước, tay phải đặt trước ngực. Gần cửa, từ trên trần buông xuống một ngọn đèn vĩnh cửu mà ngọn nến trong đèn cháy được giữ cháy suốt ngày đêm, từ năm này sang năm khác.
Núi Phật Phi lai Phong

Đây là ngọn núi đá trước chùa Linh Ẩn, cách chùa bởi dòng suối nhỏ, cao 168m, có vô số hang hốc. Triền núi được tạc khắc khoảng 380 pho tượng Phật giáo từ niên kỷ thứ 10.
Tại vách phía đông có ba bức tượng khá cổ của năm 951, tạc đức Thích-ca, Quan Âm và Dược Sư. Tượng lớn nhất là tượng Di-lặc thuộc đời nhà Tống (960-1270), tay cầm xâu chuỗi.

Dựa trên truyền thuyết thì ngày xưa trước chùa chỉ là bãi đất trống, rồi đến một đêm nọ, sau tiếng sấm vang dội, thình lình có ngọn núi lướt gió bay đến đáp xuống đó. Vào thế kỷ thứ 3 có nhà sư Ấn Độ viếng cảnh chùa thấy núi bỗng buột miệng nói rằng “Ở Ấn Độ có vách đá y hệt như thế nầy, có lẽ, vách đá Ấn Độ đã bay đến đây chăng?”. Đó là ngọn Linh Thứu, chỗ Phật thuyết Diệu pháp liên hoa, đã bay từ Ấn Độ về cực lạc và "nghỉ chân" ngay trước Linh Ẩn tự. Từ sự tích đó, ngọn núi mới có tên là Phi Lai phong.
Xe lửa chuyển bánh để lại Hàng Châu sau lưng tôi chìm trong sương khói lam chiều, lòng tôi sao hắt hìu một nỗi buồn. Như trong lời dịch "Mùa Xuân Trên Hồ" của cha tôi, tôi cũng mang một tâm tư quyến luyến như thi hào Bạch Cư Dị:
"...Rời chốn Hàng Châu chưa nở bước Nơi đây còn vướng nửa tâm tình..."
HẾT
Viết tại Paris 8/2005 – Bích Phượng
|