Từ 26 chữ cái ta có thể ghi hằng trăm âm vi Từ số âm vị ta có thể ghi hằng chục ngàn âm tiết. Tiếng Hán có 41 âm vị và 1347 âm tiết. Vì chữ Hán ghi âm tiết nên tối thiểu cũng phải có hằng ấy chữ tượng hìmh. Nhưng số từ cần thiết dùng trong văn hóa kỹ thuật cần ít nhất hằng chục ngàn từ nên không thể tránh được mỗi từ có rất nhiều từ đồng âm. 'ÿể tránh từ nọ đọ với từ kia họ phải sáng chế nhiều chữ Hán khác nhau cho mỗi từ đồng âm, vì thế có chừng mười ngàn chữ Hán cho hơn một ngàn âm tiết. Muốn đọc được sách báo phải cần hơn hai ngàn chữ và mất khoảng bảy năm.
Chữ Quốc ngữ dùng mẫu tự Latin để ghi âm vị và tổng số âm vị tiếng Việt là 81 nên học rất dễ trung bình chừng hai tháng. Làm một con tính ta thấy ngay nếu phải học 2000 chữ Hán thì thời gian là (2000: 81) x 2 = 49 tháng hay 4 năm. Còn nếu phải học 10000 chữ thì thời gian dài gắp năm lần tức 20 năm.
Bỏ ra 20 năm chỉ để học chữ Hán thì hơi phí của. Thời gian dài đăng đẳng này có thể dùng để lấy được mấy cái bằng Tiến sị Thời cổ văn minh Trung Hoa rất xán lạn nhưng dần dần đứng khựng lại trong khi Tây phương phát triển mạnh mẽ, có thể một phần là lối chữ tượng hình, tuy có điểm lợi là thống nhất được nước Trung Hoa nhưng đồng thời một phần nào đó đã ngăn cản sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật. 'ÿể ghi tiếng nói người Nhật dùng chữ chữ Hán và chữ Nhật. Cả hai ghi âm tiết nhưng vì tiếng Nhật chỉ có 140 âm tiết nên chữ Nhật chỉ cần bằng ấy chữ viết.
Tiếng Việt phức tạp hơn nhiều vì có số âm tiết khổng lồ khỏang 18000, tạm gọi là đủ để diễn tả mọi sự việc thông thường mà không bị làm khó hiểu bởi từ đồng âm và do đó có thể dùng chữ cái Latin để viết rời từng từ một cách dễ dàng, rõ ràng và gọn ghẹTrái lại nếu ta dùng chữ Hán để ghi tiếng Việt thì sẽ gặp muôn vàn khó khăn, như chữ Nôm chẳng Hạn khó học khó nhớ hơn cả chữ Hán vì phải nhớ tới 18000 chữ khác nhau .
Ngôn ngữ có thể có từ 2 tới 25 nguyên âm, và 5 tới 100 phụ âm (độ chừng, có ai biết chính xác là bao nhiêu không?). Tổng số âm vị trong mỗi ngôn ngữ thay đổi từ ít nhất là 11 trong tiếng Rotokas (Papa New Guinea), 12 trong tiếng Hawaiian tới nhiều nhất lên đến 141 của bộ lạc !Xu ở Phi châu. Xin kể thêm vài trường thái quá như có: 2 nguyên âm trong vài phương ngữ của tiếng Abkhaz 3 nguyên âm trong nhiều tiếng dân da đỏ Mỹ châu, Á Rập hay Úc đen
25 nguyên trong tiếng Punjabi
6 phụ âm trong tiếng Rotokas
Hơn 100 phụ âm trong tiếng Xu
Ta thấy có sự tương tự giữa Vật lý và ngôn ngự Phân tử, nguyên tử và hạch nhân tương ứng với từ, âm tiết và âm vi Từ gồm một hay nhiều âm tiết giống như phân tử cấu tạo bởi một hay nhiều nguyên tự Nguyên tử có thành phần là hạt nhân tương ứng âm tiết có thành phần là âm vị . Tưởng cũng nên lập lại vài định nghĩa để dễ bề so sánh
Phân tử (molecule) : mãnh nhỏ nhất (thường là một nhóm nguyên tử) của vật chất được làm cho nhỏ hơn bằng cách phân chia mà không làm thay đổi đặc tính hoá học.
Nguyên tố (element) : Chất không thể phân giải được thành chất đơn giản hơn bằng phương tiện hoá học. Nguyên tử (atome) : phần tử nhỏ nhất của nguyên tố hoá học hay là phần nhỏ nhất của vật chất không thể chia nhỏ hơn nữa bằng phương tiện hoá học.
Hạch nhân (nucleus) : Hạt nằm ở trung tâm nguyên tử gồm có proton và neutron. Âm vị là cái mầm, cái lỏi, cái cốt lỏi, cái cùi, cái ngòi, cái hạt nhân hay hạch nhân của tiếng Việt.
Và cũng giống như sinh vật, mọi sinh vật ngoài một số gen riêng biệt còn có một số gen chung với các giống khác. Ngôn ngữ cũng thế, kể cả tiếng Việt, ngoài một số từ riêng tư cho từng ngôn ngữ còn có một số từ chung cho toàn thể tiếng nói của nhân loại. Tiếng Việt chứa nhiều tiếng Anh từ thời tiền sử cũng là chuyện thường tình, không có mới là quái la Nếu DNA có thể được dùng để tìm nguồn gốc người Việt thì ngôn ngữ cũng rất hữu dụng trong công cuộc truy cứu gốc tích người Việt nói riêng và Bách Việt nói chung.
Allophone (âm vị giống) là biến thể của âm vi Allophone của miền này có thể là phoneme của miền khác. Ch và Tr là allophone của miền Bắc nhưng là phoneme của miền Trung và Nam. Tương tự n và ng cuối âm tiết là âm vị miền Bắc nhưng là allophone của miền Nam. Câu ""Chị Lan than thở trên thang"" nếu ở miền Bắc thì trở thành ""Chzị Lan zầu zĩ than thở chzên thang"" còn miền Nam sẽ là ""Chị Lang rầu rỉ (dấu hỏi) thang thở trên thang"" Morpheme (hình vị) là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa (a word or meaningful part of a word for instance 'thé, 'speak' or the 'en' of 'spoken') như là một cơ bản (base), tiền tố hoặc hậu tố .
Một từ có thể chứa hơn một hình vi "Unable" có thể chia thành hai hình vị- tiền tố "un" và "able", trong khi đó "mahogamy" không thể chia nhỏ được nữa. Tiếng Việt không có tiếp tố nên không có hình vị và mỗi từ đa số chỉ có một âm, ngoại trừ một số ít từ đa âm tiết như sa-vông, lông bông, cà nhổng, ba bả .
Vì ngôn ngữ học rất rắc rối và khó hiểu nên ít người chú ý tới và do đó số học giả ngôn ngữ học rất hiếm, đếm được trên đầu các ngón tay của một bàn tay. Nếu người nào để ý nghiên cứu thì lại hiểu vấn đề một cách lộn xộn, kể cả những nhà ngôn ngữ học. May ra thì mấy nhà toán học mới hiểu thấu mọi gút mắc của vấn đề nhưng mấy ông này còn lâu mới rớ tới vì đâu phải là nghề của chàng. Mà có muốn cũng không được.
Sau khi đã trang bị đầy đủ các định nghĩa thì bây giờ là lúc ta thẩm định lại số âm vị tiếng Việt.
Âm vị tiếng Việt
Nếu ta theo đúng định nghĩa Tây phương về âm vị và phân tích theo các nhà ngôn ngữ Tây phương về nguyên âm thì tiếng Việt có rất nhiều âm vi Xin liệt kê âm vị tiếng Việt phát âm miền Bắc như sau:
Phân tử (molecule) : mãnh nhỏ nhất (thường là một nhóm nguyên tử) của vật chất được làm cho nhỏ hơn bằng cách phân chia mà không làm thay đổi đặc tính hoá học.
Nguyên tố (element) : Chất không thể phân giải được thành chất đơn giản hơn bằng phương tiện hoá học. Nguyên tử (atome) : phần tử nhỏ nhất của nguyên tố hoá học hay là phần nhỏ nhất của vật chất không thể chia nhỏ hơn nữa bằng phương tiện hoá học.
Hạch nhân (nucleus) : Hạt nằm ở trung tâm nguyên tử gồm có proton và neutron. Âm vị là cái mầm, cái lỏi, cái cốt lỏi, cái cùi, cái ngòi, cái hạt nhân hay hạch nhân của tiếng Việt.
Và cũng giống như sinh vật, mọi sinh vật ngoài một số gen riêng biệt còn có một số gen chung với các giống khác. Ngôn ngữ cũng thế, kể cả tiếng Việt, ngoài một số từ riêng tư cho từng ngôn ngữ còn có một số từ chung cho toàn thể tiếng nói của nhân loại. Tiếng Việt chứa nhiều tiếng Anh từ thời tiền sử cũng là chuyện thường tình, không có mới là quái la Nếu DNA có thể được dùng để tìm nguồn gốc người Việt thì ngôn ngữ cũng rất hữu dụng trong công cuộc truy cứu gốc tích người Việt nói riêng và Bách Việt nói chung.
Allophone (âm vị giống) là biến thể của âm vi Allophone của miền này có thể là phoneme của miền khác. Ch và Tr là allophone của miền Bắc nhưng là phoneme của miền Trung và Nam. Tương tự n và ng cuối âm tiết là âm vị miền Bắc nhưng là allophone của miền Nam. Câu ""Chị Lan than thở trên thang"" nếu ở miền Bắc thì trở thành ""Chzị Lan zầu zĩ than thở chzên thang"" còn miền Nam sẽ là ""Chị Lang rầu rỉ (dấu hỏi) thang thở trên thang"" Morpheme (hình vị) là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa (a word or meaningful part of a word for instance 'thé, 'speak' or the 'en' of 'spoken') như là một cơ bản (base), tiền tố hoặc hậu tố .
Một từ có thể chứa hơn một hình vi "Unable" có thể chia thành hai hình vị- tiền tố "un" và "able", trong khi đó "mahogamy" không thể chia nhỏ được nữa. Tiếng Việt không có tiếp tố nên không có hình vị và mỗi từ đa số chỉ có một âm, ngoại trừ một số ít từ đa âm tiết như sa-vông, lông bông, cà nhổng, ba bả .
Vì ngôn ngữ học rất rắc rối và khó hiểu nên ít người chú ý tới và do đó số học giả ngôn ngữ học rất hiếm, đếm được trên đầu các ngón tay của một bàn tay. Nếu người nào để ý nghiên cứu thì lại hiểu vấn đề một cách lộn xộn, kể cả những nhà ngôn ngữ học. May ra thì mấy nhà toán học mới hiểu thấu mọi gút mắc của vấn đề nhưng mấy ông này còn lâu mới rớ tới vì đâu phải là nghề của chàng. Mà có muốn cũng không được.
Sau khi đã trang bị đầy đủ các định nghĩa thì bây giờ là lúc ta thẩm định lại số âm vị tiếng Việt.
Âm vị tiếng Việt
Nếu ta theo đúng định nghĩa Tây phương về âm vị và phân tích theo các nhà ngôn ngữ Tây phương về nguyên âm thì tiếng Việt có rất nhiều âm vi Xin liệt kê âm vị tiếng Việt phát âm miền Bắc như sau:
6 thanh điệu: không, sắc, huyền, hỏi, nặng, ngã 20 phụ âm (ký hiệu phát âm được ghi trong hai gạch //, nhưng để giản dị, không ghi ký hiệu nếu phát âm trùng với chữ
cái).
B, /K/ (C vàK), /Chz/ (CH và Tr miền Bắc), /d/ ('ÿ), /G/ (G và Gh), H, Kh, L, M, N, Ng (Ngh), Nh, P (Phụ âm đầu từ P là âm cổ nay dần dần phục hồi trở lại như pông sô, pia nô, pin), /Kw/ (Qu như quít), /F/ (Ph), T, Th, V, X, /Z/ (D, R, Gi miền Bắc).
Miền Nam có thêm 7 phụ âm Ch, Tr, R, S, J (/ / như Jarai, jăm bông, ăn jơ), Y (Y, ghi âm quốc tế là /j/, là phụ âm đầu từ D nhẹ miền Nam và dùng cho các từ ngoại quốc như đồng Yen, ya ua, yo yo, yoga), W (Qu, oa, Hoa), nhưng không có âm Chz, Z, Kw, V.
Tổng số phụ âm của phát âm miền Nam là 20 - 4 + 7 = 23. Tổng số phụ âm cho mọi phương ngữ là 20 + 7 = 27 'ÿến đây ta mới thấy sự khó khăn và tài tình của các nhà tiền phong khi sáng tạo chữ Quốc ngự Họ phải suy nghĩ nhiều cách để cả ba miền cùng xữ dụng một thứ chữ nhưng có thể đọc theo phát âm của mình, tương tự như Hán tự dùng cho mọi sắc dân Trung Quốc.
Các ca sĩ trẻ nước ngoài phát âm Ch thành Chs tương tự như âm Ch tiếng Anh, nghe rất kỳ lạ và ngộ nghĩnh y như Mỹ nói tiếng Việt, lơ lớ giọng mũi .
Liệt kê các âm vị rất khó khăn nên mỗi người một ý kiến. Như Giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn 'ÿình Hòa trong "Tiếng Việt không son phấn" cho tiếng Việt gồm mọi phương ngữ có 22 tử âm, thể theo một bài lấy từ Internet ""'ÿáng lưu ý là bảng liệt kê 22 âm vị tử âm (consonant phonemes) dùng trong mọi phương ngữ VN -- bằng ký hiệu như /b-/, /f-/, /z-/, vân vân -- có thể đứng đầu các âm tiết, cùng với những chữ cái trong mẫu tự Việt được dùng để biểu hiện những âm vị này. Thí dụ, âm vị /k-/ thường được biểu hiện bằng những chữ cái c-, k-, q- (con cá, cái kim, quả cam) (trang 20). Biểu đồ của 6 thanh điệu (trang 20) cho người đọc thấy rõ độ cao thấp cùng với đường uốn lượn của từng thanh điệu""
22 phụ âm là gồm cả R, Tr, S. Không có nên không biết GS cho biết có bao nhiêu nguyên âm.
Ch và Tr ở miền Bắc hơi nặng phát âm thành chz, không có âm J nhưng có âm nặng hơn Gị Vì thế các âm J đều bị thay thế bởi âm Gi như Jarai, Java, jăm bông, nạc jăm biến thành Gia Lai, Gia va, giăm bông, nạc giăm. Gi không phải là một âm gồm hai âm vị G và I mà là một vị duy nhất /z/. Âm Gi có nguồn gốc xa xưa từ âm /ji/ tiếng Hán, ngày nay chỉ một số nhỏ đọc đúng Gi, còn đa số đọc là /z/ nên ta có thể cho nhập chung vào âm vị /z/.
Tương tự Qu không phải tạo thành bởi hai âm vị mà là một âm vị duy nhất /kw/ , khác biệt với âm vị /k/ (phụ âm c). Quả cam không phải là /k/ủa cam -vì như thế sẽ đọc là của cam- mà là /kw/ả cam. Tương tự quốc là /kw/ốc chớ không phải là /k/uốc vì như thế sẽ đọc là cuốc (xuổng). Sở dĩ các nhà tiền phong không dùng Kw mà dùng Qu để ba miền đều đọc được theo đúng phát âm của mình. Qu đọc là /kw/ như trong từ quit tiếng Anh. Tiếp theo là nói về nguyên âm.
11 nguyên âm đơn (monothong): a, ă, â, e, ê, i (y), o, ô, o, u, u
28 nguyên âm kép (diphthong, nh? trùng âm) : ai, ay, ây, ao, au, âu, eo, êu, ia, iu,iê, oa, oa, oe, oi , ôi, oi, ua, uâ, uê, ui, uô, uy, ua, ui, uo, uu, iạ
9 nguyên âm ba (triphthong, tam trùng âm): iêu, oai, oay, uây, uôi, uoi, uou, uya, uyê
Tuy tên gọi là tam trùng âm nhưng nhiều khi chỉ là nhị trùng âm dài. Thí dụ như uôi là uui, ươi là ư ư i,ươu là ưưu.
Tổng số nguyên âm là 11 + 28 + 9 = 48
Miền Bắc có 6 thanh +20 phụ âm + 48 nguyên âm = 74 âm vị, bằng với số âm vị tiếng Thái.
Miền Nam có 5 thanh +23 phụ âm + 48 nguyên âm = 77 âm vị, Tiếng Việt chung cho mọi phương ngữ có = 74 + 7 = 81 âm vị .
ể tiện so sánh xin ghi lại (pâ là phụâm, nâ là nguyên âm) các nhận định của
Tiến sĩ 6 thanh +19 pâ+11 nâ đơn= 36 bài Internet 6 thanh +22 pâ+ 13 nâ đơn+ 3 nâ kép = 44
Tiếng Thái 5 thanh +21 pâ +48 nâ =74 âm vị Tiếng Khmer 33 pâ + 24 nâ =57 âm vị
Tiếng Anh 24 pâ+11 nâ đơn+4 nâ kép+1 untressed âm= 40 âm vị Tiếng Việt 6 thanh+23 pâ+11nâ đơn+28 nâ kép+9 nâ ba= 81 âm vị
Số âm vị phù hợp với dự đoán là tiếng Việt phải có số âm vị bằng hay nhiều hơn số âm vị tiếng Khmer (57) hay tiếng Thái (74) và nhiều hơn hai lần tổng số 36 âm vị do các nhà ngôn ngữ học Việt và Trung Hoa gán cho tiếng Việt. Tiếng Việt có ít phụ âm nhưng có rấtù nhiều nguyên âm. Miền Nam tuy có âm vị nhiều hơn miền Bắc nhưng có ít âm tiết hơn vì không phân biệt được các phụ âm cuối từ như lan với lang, tiếc với tiết, hoa với qua và oạ
Nếu kể thêm nhiều phụ âm kép đầu từ Bl, Dr, Pl, Fl, Fr, Ge đã được áp dụng vào khoa học kỹ thuật hoặc trong các từ Việt hoá như blốc nhà, dra trải giường, Pleiku, platin, miếng plắc mạ vàng, fluor, Freon, bẹt gê, gen nhiểm sắc thể, mà thời tiền sử đã từng hiện diện trong tiếng Việt thì tổng số âm vị tiếng Việt còn cao hơn nữa, gần con số 90. Nhưng thôi, như thế là quá đủ để chứng minh số âm vị tiếng Việt trội hẳn số âm vị mà các nhà ngôn ngữ học Ta và Tàu đã gán cho tiếng Việt. Nếu đếm theo kiểu Trung Hoa tức là nhập thanh sắc vào âm vị thì tổng số âm vị tiếng Việt là (81- 6)x 6 = 450. Số này quá cao, và không ai đếm lọa kỳ như thệ Xem ra thì ngôn ngữ học rất khó hiểu nên ngay cả viện ngôn ngữ học cũng sai lầm như thường.
Một số câu hỏi mà thầy giáo không muốn gặp : -Tại sao âm học không đánh vần theo cách phát âm như Y được ghi âm là /j/ ?
-Tại sao monosyllabic chỉ từ đơn âm sao lại có 5 âm tiết ?
-Tại sao ề li 24 giờ, 365 ngày một năm mà lại có ổ khoá ?
-Tại sao vô giá trái ngược với vô giá trị hay không giả - Nếu xe chạy nhanh bằng tốc độ ánh sáng, cái gì xãy ra nếu ta vặn đèn sáng lên ?
Âm R trong tiếng Việt cổ
Có người cho miền Bắc thời cổ không có âm R. Nếu không xem xét kỹ ta thấy nhận xét này không phải là không có lý vì các ngừơi bạn láng giềng như Lào, Miến iện và mọi loại người Tàu đều không có R.
Thực sự thời tiền sử người Văn Lang đã phát âm R, có thể giống âm R của phát âm miền Trung hay âm R của Khmer, hơi khác với miền Nam. Ở miền Trung âm khi phát ra âm R thì lưởi chạm vào bên trên phía trong, phát âm lăn tròn (rolling) gần âm R tiếng Anh còn miền Nam thì lưỡi ở phía ngoài gần âm R tiếng Pháp. Âm R Khmer thì lưỡi run động nhiều hơn.
Âm R Miền Bắc bị biến mất là do ảnh hưởng phát âm Bắc Kinh. Thật vậy có nhiều từ cổ miền Bắc vay mượn tiếng Mã Lai có âm R như co ro tiếng Mã Lai dùng để chỉ con rùa, rông chơi là do ronda tiếng ML, rổng là do rongga tiếng ML và râng tiếng Khmer.
Cứ cho là người Việt thời tiền sử không có âm R và sau đó đã vay mượn tiếng ML từ thời Văn Lang đi, nhưng ta không thể giải thích được tại sao lại có những từ trùng hợp với tiếng Khmer mà ta chỉ mới tiếp xúc với họ từ thế kỷ 17, như ruồi là do ruôi và rượt là do rươt tiếng Khmer? Còn nữa, tại sao có nhiều từ trùng với tiếng Mon như rồi là rà, mưa rào là pròa mà ta không bao giờ tiếp xúc với ho Chỉ có thể giải thích là tiếng Việt có âm R từ thời tiền sử và tiếng Việt có liên hệ với tiếng Mon Khmer và Mã Lai. Âm R bị biến mất dưới thời Bắc thuộc vì vùng Hà Nội bị ảnh hưởng nặng nề của phát âm Bắc Kinh. Và không phải mọi người Bắc đều không nói được R. Có nhiều vùng miền Bắc xa trung ương dân chúng nói ra R khá rõ, có khi còn rõ ràng hơn cả miền Trung và Nam.
iều đáng chú ý là âm R hầu như hiện diện trong mọi ngôn ngữ chỉ trừ ngữ tộc Sino-Tiberto, Lào và miền Bắc. Tiếng Thái trên nguyên tắc có âm R nhưng người Thái thường nói thành L. Lý do là một số người Thái từ Vân Nam tràn tới Thái Lan chiếm đất của người Mon Khmer vào thế kỷ thứ 13 không có R như người Lào. Phát xuất từ bên Tàu thì đương nhiên không có R. Còn người Thái củ hay có học Phạn ngữ, cùng với người Mon và người Khmer gần ranh giới Campuchia thì có R. Các tiếng nói thuộc ngữ tộc Sino-Tiberto như tiếng Tàu (mọi loại), tiếng Tây Tạng và Miến iện đều không có R nhưng lại có âm Z, tương tự như phát âm miền Bắc.
Ngữ hệ tiếng Việt
Như vậy có phải là tiếng Việt thuộc ngữ tộc Sino-Tiberto như vài học giả đã và đang đưa ra giả thuyết này ? Nếu cho là không thì tại sao một số âm miền Bắc lại gần với phát âm Hán Tạng? Câu trả lời là sỡ dĩ phát âm giống tiếng BK là do bị ảnh hưởng tiếng BK cả về từ ngữ lẫn phát âm.
Các âm R, Tr và cả các âm W, phụ âm đầu từ Y, Dr, Pl, Pr, Fl, Fr và nhiều phụ âm phức tạp đầu từ khác đã hiện hữu trong phát âm người Văn Lang, nhưng dưới thời đô hộ các âm trên đã bị âm Hán lấn áp. Cửu Chân và Nhật Nam ít bị ảnh hưởng nên vẫn còn giữ được âm R, Tr như ta đã thấy.
Có rất nhiều giả thuyết về ngữ hệ tiếng hệ, không có giả thuyết nào đúng mà cũng không có giả thuyết nào hòan tòan sai hẳn.
Tiếng Việt không thuộc ngữ hệ Hán Tạng nghĩa là không có nguồn gốc Trung Hoa vì
nhiều lý so như sau :
-Tiếng Việt có số âm vị gần với tiếng Thái và Khmer hơn là tiếng Hán.
-Mặc dầu tiếng Việt có chứa hơn phân nửa tiếng Hán Việt nhưng các tiếng Nôm lại trùng với ngữ tộc Mon-Khmer và Thái hơn.

hát âm miền Bắc tuy gần giống phát âm BK, nhất là âm Z, nhưng không vì thế mà ta có thể kết luận tiếng Việt thuộc ngữ tộc Hán Tạng vì có nhiều âm vị mà tiếng Hán không cọ
Một điểm đặc biệt của ngữ hệ Hán Tạng là chứa rất nhiều từ có âm vị Z như tiếng BK có âm Z, Zh, Tz, tiếng Tây Tạng có và âm giống Z như tso là hồ, zing-kyong, tiếng Miến iện có Z, không R và Tr. Mã Lai có một số âm Z. Các tiếng thuộc ngữ tộc Mon-Khmer và Thái, Lào đều không có Z. Phát âm miền Bắc có rất nhiều âm Z và không R. Phải chăng tiếng Việt thuộc ngữ hệ Hán Tạng?
Không phải, tiếng Việt nhất định không phải thuộc ngữ hệ Hán Tạng. Sau 1000 năm bị ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Trung Hoa, tiếng Việt khó có thể phát triển nhanh chóng từ 41 âm vị sang 81 âm vị và từ 1347 âm tiết thành 18000 âm tiết, trừ phi là tiếng Việt lại chịu ảnh hưởng nề của tiếng một nước khác. Lịch sử trong thời kỳ độc lập không thấy nói người Việt bị người Mon Khmer, Thái hay bất kỳ một nước nào khác đô hô Tiếng Việt chịu ảnh hưởng tiếng Thái không phải trong thời độc lập, và càng không phải trong thời Bắc thuộc, mà phải trước hay chậm nhất trong thời Văn Lang Âu Lạc.
Phát âm Hà Nội
Phát âm Hà Nội ngày nay nghiên về phát âm Thanh Nghệ Tĩnh do dân chúng các nơi khác tràn vào thành phố nâng mực độ từ 100000 lên hơn một triệu, phát âm Hà Nội ngày xưa trở thành thiểu số, chỉ còn chừng 50000, có cơ bị tuyệt giống. Như vậy phát âm Hà Nội xưa không phổ quát, chỉ tập trung ở khu vực Hà Nội và vùng lân cận, có thể không phải là phát âm nguyên thuỷ của người Việt. Nếu là thế thì nó có nguồn gốc từ đâu? Có thể từ phát âm BK chăng ?
Tiếng Việt bị ảnh hưởng nặng nề tiếng Hán về mặt từ ngữ thì quá đã quá rõ ràng. Nếu ta cho rằng tiếng Việt chỉ bị ảnh hưởng về mặt từ ngữ mà không bị ảnh hưởng bởi phát âm BK thì là một chuyện hi hữu, trái với đà phát triển tự nhiên. Một số âm Hà Nội rất gần với phát âm Bắc Kinh như các âm rịu (rượu) là do jỉu, không có âm R, Tr nhưng có nhiều Z (tiếng BK có âm ghi là R nhưng lại có phát âm tương tự S với lưỡi đụng vào vòm khẩu cái). Chỉ có dân chúng chung quanh Hà Nội bị ảnh hưởng sâu đậm phát âm BK vì ngày xưa chỉ có Hà Nội và Nam ịnh là có trường dạy và thi tiếng Hán, do các giáo sư nguyên gốc giảng dạy nên dân chúng ở đây giỏi tiếng Hán về cả từ ngữ và phát âm. Các vùng khác chỉ học lóm hay do mấy Ông đồ lô can giảng dạy nên phát âm sai giọng hay ít bị ảnh hưởng tiếng Hán. Chính vì thế có thể dân ở khu vực xa trung ương còn giữ được phần nào phát âm nguyên thủy của người Việt. Miền Nam thì dốt đặc cán mai, một chữ Hán cũng không có .
Cứ so sánh tên họ hai miền thì thấy rõ ngay . Tên họ miền Bắc và Trung nghe rất văn chương tao nhã, đôi khi quá Hán làm cho không ai hiểu nghĩa là gị Thí dụ như Cung Tằng Tôn Nữ Trịnh Nhữ Như Thi made in Hòang gia, oàn Châu Các Các made in phim Hongkong, Tăng Thiên Diệp made in China, ặng Trần Quế made by
Ông đồ tạ Hầu như không tìm được ai có tên họ hoàn toàn tiếng Nôm ở Hà Nội, trừ bần cố nông như Thị Mẹt.
Trái lại Miền Nam rất ư là nôm na, tuy dễ hiểu nhưng nhiều khi bình dân quá độ như Trần Trụi Bông Giấy, Nguyễn thị Út Nữa (rán nín đẻ nhưng cuối cùng lại lọt thêm một trự), Trịnh thị Rót (miễn bàn), ịch thanh Tủng, Bùi thị Rớt (bị đẻ rớt), ặng Thành ược (đánh cá ngựa là trúng cá cặp ngay), Huỳnh văn ực Rựa (làm gì có Huỳnh thị ực Rựa?), Thái Thành Mắm (con cháu bà giáo Thảo hay gốc gác Châu ốc), Thạch Sanh Mười Lăm (đẻ dữ tợn).
Phát âm Sàigòn
Phát âm Sàigòn và phát âm miền Nam rồi đây cũng sẽ thay đổi vì chịu ảnh hưởng của phát âm Hà Nội và Hà Nội cũng sẽ phải thay đổi phần nào đó theo phát âm Sàigòn vì nhiều lý dọ Một trong các lý do là dân Hà Nội, dân miền Trung vào miền Nam khá đông. Mặt khác thông tin, giao lưu văn hoá hai miền sẽ có ảnh hưởng qua lại .
Phát âm miền Nam đã được tôi luyện, xào nấu, thêm thắt lại từ phát âm miền Trung và miền Bắc, do di dân nghèo hay của tội phạm nhẹ bị phát vãng trong công cuộc Nam tiến, lại thêm mắm thêm muối từ các tiếng Quảng ông, Phúc Kiến, Triều Châu, Khmer, Chàm, Chà Châu Giang (Giang là sông, Chà là do chữ Java, Châu ốc là do Châu Toch, tên con sông ở gần Châu ốc, phía bên Kampuchiạ Tên núi Sam ở Châu ốc là từ nói trại đi của từ Chàm, Kompong Chàm ở Campuchia là Vũng Chàm. Java đã biến thành sông Bà Hoà ở Cửu Chân. Một số người Chà Châu Giang hay một số dân miền Trung có thể lai giống Á Rập nên khá cao, nhất là các em sinh tại nước ngòai rất cao mặc dầu cha mẹ ở mức trung bình).
Như vậy phát âm miền Nam đã được chọn lọc tự nhiên để từ từ trở thành đại chúng, do đó phải giản dị, dễ hiểu, dễ phát âm để mọi sắc tộc đều nói được. Chính vì thế mà âm V, Z đã biến mất nhường chỗ cho âm D nhẹ, W, J, R, Tr. Tuy nhẹ nhàng uyển chuyển và dễ uốn lưỡi theo tiếng nước khác nhưng cũng rất khó thay đổi thêm vì nó đã thay đổi rồi, không còn đường nào để binh
""Hai mươi năm mới gặp lại mà sao anh trông vẫn còn tre""ủ
""Vâng. Trẻ mãi không già vì tôi đã già ngay từ khi còn rất trẻ""
Phát âm Hà Nội rồi ra cũng phải thay đổi cho hiện đại, hợp thời trang, với khuynh hướng tòan cầu hóa ngôn ngữ và kinh tế, với Anh ngữ, với trào lưu thông tin, Internet, và dân nước ngoài, nhất là dân Hà Nội xưa trong lẫn ngòai nước
"Khi cán ngố vào Sàigòn thì mức độ thông minh IQ cả hai miền trở nên ngang ngửa"
Phát âm người Việt nước ngoài khác người trong nước vì nhiều phương diện như không dùng từ made in China, lai giọng Tây, nói chậm hơn do ít xữ dụng, ít người để đối thoại, nhiều khi cả ngày chỉ nói chuyện bà xã hay với đầu gối, không bị thúc đẩy bởi cuộc sống lúc nào cũng "khẩn trương".
Bạn biết mình là Việt kiều khi:
Thủ sẵn giấy 5, 10 đô trước khi về đến phi cảng. Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh
bao, xài tiền như công tử Bạc Liêu, hơn cả Mẽo thời xưa .
Dân buôn bán mừng húm như bắt được vàng khi vớ được mình, tha hồ trấn lột.
Thậm thụt bên vệ đường -""Vùng vằng nữa ở nữa về""- để chờ cơ hội ngàn năm một thuở theo bén gót đoàn bộ hành băng qua đường. Người trong nước coi xe cộ là vật hư ảo, đường ta ta cứ đi, cùng lắm là vào nhà thương, nhằm nhò gì . Già cúp bình thiếc củng cưới được vợ trẻ .
Tiếng Việt cho mọi phương ngữ có khoảng 81 âm vi Con số có thể thay đổi đôi chút nhưng không thể nào là 36 hay 44 được. Quí vị độc giả nghĩ sao ?
Đoàn Văn Phi Long