Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - TẾT  NGUYÊN  ĐÁN  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra
TẾT  NGUYÊN  ĐÁN (Read 2307 times)
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
13. Oct 2006 , 21:46
 

Nguyễn Thị Chân Quỳnh     21/03/2006
Nguyên = đầu, Đán = buổi sớm mai. Nguyên Đán là buổi sớm mai của đầu năm. Tết Nguyên Đán là cái lễ đầu tiên của năm mới, vào ngày mồng một tháng giêng âm lịch, song không phải tháng giêng bao giờ cũng bắt đầu vào tháng Dần như hiện nay vì thuở xưa mỗi triều đại lên ngôi lại đổi ngày Chính sóc (sóc = mồng một, đầu tháng âm lịch) .
Âm lịch lấy tên 12 chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...) đặt tên cho 12 tháng, 6 tháng thuộc dương, 6 tháng thuộc âm, theo luật "tiêu trưởng": hễ âm tiêu thì dương trưởng, âm trưởng thì dương tiêu v.v..Nhà Tần chọn tháng Hợi (tháng 10) làm tháng giêng. Theo Kinh Dịch thì quẻ Khôn ở Hợi cung (Khôn là Đất, là đầu mối mọi cuộc biến thiên) và tháng 10 thì khí dương đã hàm chứa ở dưới. Nhà Chu chọn tháng Tý (tháng 11) làm tháng giêng. Quẻ Phục ở Tý cung, tháng 11 thuộc tiết Đông chí, dương bắt đầu sinh, khôi phục lại nguyên khí.
Nhà Thương, sau đổi gọi là nhà Ân, chọn tháng Sửu (tháng l2) làm tháng giêng. Quẻ Lâm ở Sửu, Sửu là trâu, trâu thuộc Thổ là Đất, Đất có thể ngăn nước, chống rét nên trong lễ Lập Xuân người ta làm trâu bằng đất để tống khí lạnh đi.
Nhà Hạ, nhà Hán và hiện thời chọn tháng Dần làm tháng giêng. Quẻ Thái ở Dần cung (Thái = hanh thông), khí hậu ấm áp trở lại, tiện cho việc nông, nên ngày Tết Nguyên Đán vừa là ngày lễ mừng mùa Xuân trở lại, vừa là ngày lễ bắt đầu năm mới [1] .
Chúng ta ăn Tết Nguyên Đán chắc là theo Trung quốc vì có nhiều tục lệ của Trung quốc thấy bên ta cũng áp dụng :

1 - Lập Xuân:
Kinh Lễ ghi rằng trước Tiết Lập Xuân ba ngày, quan Thái sử tâu ngày hôm ấy lập Xuân, thịnh đức ở Mộc, thiên tử bèn trai giới. Ngày Lập Xuân, thiên tử dẫn các quan và chư hầu ra cửa thành phía Đông đón Xuân. Khi quay về thưởng cho các công khanh, đại phu ở triều đình rồi ra lệnh ban bố ân đức cho muôn dân, hoàn tất lễ lớn [2].

2 - Lễ Ban Sóc:
Tương truyền đời vua Nghiêu (2357-2257 tr. TL) sai Hy Hòa làm lịch, phân định bốn mùa để dân thuận theo mùa và thời tiết mà cầy cấy, trồng trọt. Do đó có lệ đầu năm triều đình phát lịch, gọi là Lễ Ban Sóc.
Lịch ấy tính một năm có 360 ngày và có tháng nhuận, song độ số mặt trời tính còn sai. Đời Nam Tề, Tổ Xung Chi sửa lại ; đời Minh, châm chước theo lịch Hồi Hồi cũng vẫn chưa đúng. Đến đời Thanh, Thang Nhược Vọng (Adam Schall) sửa lại lần nữa, theo cách tính của Âu châu [3].

3- Tết Nguyên Tiêu:
Ở Trung quốc có tục chơi đèn suốt đêm rằm tháng giêng, có thể kéo dài từ 13 đến 17 tháng giêng. Khắp thành phố nhà nào cũng chăng đèn ngũ sắc trước cửa, bầy biện trong nhà như ngày đại hội, làm những toà giả sơn trên kết rồng xanh hoặc trắng, có tới mấy nghìn ngọn đèn sáng, có khi giả sơn kết hai con rồng đỏ, vây rất lớn, mỗi cái vây rồng là một ngọn đèn, miệng rồng phun nước trong v.v... Trên cầu, dưới sông thắp đèn rực rỡ, hát múa đủ trò, tiếng ca nhạc vang xa hàng chục dậm, du khách chật đường.

Lê Quý Đôn cho biết : Hán Vũ Đế thờ thần Thái Nhất (Thiên Hoàng Đại Đế ), cúng từ tối đến sáng . Về sau cứ ngày Thượng nguyên (rằm tháng giêng) người ta trưng đèn, tục trưng đèn ngày rằm tháng giêng có từ đấy [4].

Theo Văn Hòe thì nguồn gốc Tết Nguyên Tiêu là ở đạo Lão. Đạo Lão cho là có ba vị thần chủ tể việc giáng phúc, xá tội cho người trần :

a - Thiên quan giáng phúc vào lễ Thượng nguyên là lễ long trọng hơn cả nhất là về ban đêm. Từ đời Đường đã làm lễ này, cũng gọi là lễ Cầu Phúc.
Đường Thư chép rằng đêm Nguyên tiêu hay Nguyên tịch, tức đêm rằm tháng giêng, vua Đường Duệ Tông sai làm một cây đèn cao 20 trượng, thắp 5 vạn ngọn đèn, ánh sáng chiếu khắp nơi, gọi là HỏaThụ (cây lửa), vì thế đêm Nguyên tiêu cũng gọi là Đăng Tiết (Tết Đèn) [5].

b - Địa quan xá tội vào lễ Trung nguyên, ngày rằm tháng 7 ;

c - Thủy quan giải ách nạn vào lễ Hạ nguyên, ngày rằm tháng 10.

I - Tết Nguyên Đán thời Cổ

Nước ta ăn Tết từ bao giờ thì chưa rõ. Nếu căn cứ vào tục ăn bánh chưng ngày Tết và truyền thuyết cha ông ta biết làm bánh chưng từ thời Hùng vương thì ta đã ăn Tết từ đời các vua Hùng, song đấy chỉ là phỏng đoán, không có bằng chứng. Sách sử của ta chép về Tết rất sơ lược, chỉ một vài chi tiết cho thấy từ đời Lê Đại Hành (980-1005) ta đã có tục chơi đèn vào tháng giêng :
"Năm 992, tháng giêng, Vua ngự điện Càn nguyên để xem đèn"
"Năm 1100,  tháng giêng, Lý Nhân Tông bầy hội Quảng-chiếu đăng ở ngoài cửa Đại-Hưng (cửa Nam,
Thăng-Long).

A - Nhà Trần

1 - Tết Nguyên Đán.

Trong An-nam Chí Lược, Lê Tắc chép tương đối khá nhiều tục lệ ăn Tết thời nhà Trần :
Trước Tết hai ngày, vua đi xe ngự dụng, các quan mặc triều phục hầu đạo tiền, tế điện Đế-Thích (một vị thần trong Phật giáo, làm chủ chư thiên) ở ngoài thành Thăng-Long.
30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-củng cho bề tôi làm lễ, rồi xem con hát múa trăm lối. Đến tối qua cung Động-nhân, bái yết tiên vương. Đêm, cho thầy tu làm lễ Khu-na (đuổi tà ma) ở trong nội.
Dân gian mở cửa, đốt pháo tre, cỗ bàn, trà rượu, cúng tế.
Ngày Nguyên Đán, khoảng canh năm, vua ngự điện Vĩnh-thọ cho các tôn tử (con cháu) và cận thần làm lễ hạ trước, rồi vào cung Trường-xuân vọng bái các lăng tổ.
Sáng sớm, vua ngự điện Thiên-an, các phi tần sắp lớp ngồi, các quan trong nội đứng lộn xộn trước điện tấu nhạc. Các tôn tử và bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần. Dâng rượu xong, các tôn tử lên điện chầu dự yến. Các quan nội thần (hoạn quan) ngồi ở tiểu điện phía Tây, các ngoại thần ngồi ở Tả vu, Hữu vu (nhà bên trái và bên phải nối vào chính điện). Tiệc đến trưa mới tan.
Lại sai thợ khéo làm đài Chúng tiên hai từng, ở trước điện. Làm một lúc thì xong, vàng ngọc chói ngời. Vua ngồi ăn trên đài, các quan làm lễ chín lạy, dâng chín tuần rượu rồi giải tán.
Mồng 2, các quan làm lễ riêng ở nhà.
Mông 3, vua ngồi trên gác Đại-hưng xem các tôn tử, các quan nội cung đánh cầu, ai bắt được, không để cầu rơi xuống, là thắng. Quả cầu to bằng nắm tay, làm bằng gấm thêu, có 20 sợi tua dài lòng thòng.
Mồng 5, làm lễ Khai-hạ (hạ nêu, trở lại cuộc sống bình thường). Ăn yến xong, các quan và dân chúng đi lễ chùa, miếu hay đi du ngoạn các vườn hoa.
Đêm Nguyên tiêu (rầm tháng giêng) trồng những cây đèn Quang-chiếu ở giữa sân rộng, thắp mấy vạn ngọn, sáng rực trời đất. Chư tăng đi quanh tụng kinh Phật (...) các quan lễ bái, gọi là lễ Chầu đèn.
Tháng 2, làm cái Xuân Đài. Con hát hoá trang thành 12 vị thần, múa hát trên đài.
Vua coi các trò tranh đua dưới sân, lực sĩ và trẻ con đấu nhau, ai thắng được thưởng. Công hầu cưỡi ngựa, đánh cầu, quan nhỏ thì đánh cờ, đánh vu bồ (bài thẻ) . . . [6]

2 - Tiết Lập Xuân và Lễ Nghênh Xuân.

Sách Lễ ký thiên "Nguyệt lệnh" chép : "Tháng cuối mùa Đông, vua sai quan Hữu-ty (chuyên viên) đem con Trâu đất ra lễ để đuổi khí lạnh đi, trâu giỏi cày có thể chỉ bảo việc làm ruộng sớm hay muộn.
Tùy thư, Lễ Nghi Chí chép : 5 ngày trước Tết Lập Xuân, làm tượng con Trâu đất, Người cày ruộng và Cái cày để ở ngoài cửa Đông môn. Rạng sáng ngày hôm ấy, quan cầm roi ngũ sắc đánh trâu ba roi để tỏ ý khuyến nông.
Điển nhà Thanh chép rằng trong ngày Lập Xuân, dâng vua tượng Mang thần (thần Cỏ Mang, hoa nở sớm hơn các loài hoa khác, hay thần Câu Mang, trông coi tháng giêng, tượng trưng cho mùa Xuân mới đến), tượng Trâu đất và tượng Núi mùa Xuân, đều bầy trên án để làm lễ đón Xuân cùng khí hòa ấm.

Đánh trâu ngụ ý trọng nông [7].

Thời nhà Trần, ngày Lập Xuân, vua quan làm lễ Nghênh Xuân ở phương Đông (Đông giao). Vua sai vị trưởng họ dùng roi đánh Trâu đất. Sau đó, các quan cài hoa lên mũ rồi vào cung dự tiệc.

Trong tháng Xuân, người làm mối bưng tráp trầu cau đến nhà gái hỏi và tặng lễ vật, thường dân giá trăm, nhà cao sang giá hàng nghìn, những người chuộng lễ nghĩa thì không kể ít nhiều. Con trai, con gái nhà nghèo không có người mai dong để làm hôn lễ thì tự mình phối hợp với nhau (xin xem chú thích [6])

B - Nhà Lê

Sử chép rất ít về Tết đầu thời Lê :
- Năm 1435, mồng một, vua (Thái Tông) dẫn các quan làm lễ yết miếu. Khi về cung mặc áo trắng coi chầu, nổi nhạc, thét đường. Các quan mặc cát phục dâng biểu yên ủi (Thái Tổ mới băng).
  Ban yến trong 5 ngày cho các quan văn võ trong ngoài, phát trên cho các quan làm việc ở ngoài theo thứ bực [8] .
- Năm 1 449, tháng giêng ban yến cho các quan- Múa nhạc Bình Ngô Phá Trận do vua Thái Tông làm, .nhớ lại công khó nhọc sáng nghiệp của Thái Tổ, dùng vũ công định thiên hạ. Công thần có người cảm xúc phát khóc [9].

Các lễ Nghênh Xuân thời Trung Hưng

1 - Lễ Tiến lịch - Lược Phan Huy Chú :

Hàng năm, Tư-thiên-giám tính trước lịch cho năm sau, đến tháng 6 viết hai bản dự thảo, một bản dâng lên Vua và khai Chúa xin tiền in. Vua xem xong, giao cho Trung-thư-giám viết lại, Tri-giám coi việc khắc, khắc rồi Tư-thiên-giám đối chiếu trước khi đem in.
Trong tháng chạp chọn ngày dâng lên Vua chuẩn.
Đến ngày 24 tháng chạp làm lễ Tiến lịch.
Sáng hôm ấy, các quan mặc phẩm phục, theo chỉ của Chúa vào triều làm lễ.
Sáng sớm, Nghi-chế-ty và các Tự-ban đặt cái án dâng lịch ở giữa ngự đạo trước sân rồng. Bốn viên thông-tán, hai viên đứng ở phía Đông và phía Tây, hai viên đúng ở bên Tả và bên Hữu của Đoan-môn.

   Ba hồi trông nghiêm , Tự-ban dẫn hai viên Tiến-lịch quan vào bên Đông sân rồng. Vua ngự lên ngai. Tự-ban dẫn quan Tiến-lịch đến giữa ngự-đạo. Xướng: "Cúc cung , bái, hưng (bốn lần), bình thân ". Lễ quan. Xướng .' "Tiến hoàng lịch ", Tự-ban dẫn quan Tiến- lịch đến trước án lịch giấy vàng. Xướng : "Quy, tiến lịch", quan Tiến-lịch để lịch lên án. Xướng:  "Phủ phục, hưng, bình thân, phục vị",  Tự-ban dẫn quan Tiến lịch từ phía Đông ngự đạo xuống đến vị bái. Xướng: "Cúc cung , bái, hưng (bốn lần), bình thân ". Tự-ban nhấc cái án để lịch lui ra.
Cáp-môn xướng : "Bài ban, ban tề", các quan chia thứ bậc đứng vào ban tề chỉnh. Lại xướng ."Cúc cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân ".

   Quan Truyền-chế đến giữa ngự đạo quỳ : "Tấu  truyền chế" rồi lạy xuống, vẫn quỳ. Quan Tư-lễ -giám đem tờ chế trao cho quan Truyền-chế. Viên này đỡ lấy lui ra, đúng phía Đông, hô .' "Hữu chế". Cáp môn xướng: "Bách quan giai quỵ", các quan quỳ xuống. Quan Truyền-chế đọc chế xong lui về chỗ đứng cũ. Xướng: Phủ phục, hưng, bái (bốn lần), bình thân". Lại xướng : "Bách quan phân ban thị lập", các quan phân ban đứng hai bên mà hầu. Nghi-chế-ty đến giữa ngự đạo quỳ : "Tấu lễ tất". Vua ngự về cung.

Tư-thiên-giám bưng cái án lịch trước ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa. Quan Lễ khoa đem lịch ban cho các quan. Các quan quỳ xuống nhận, giơ lịch ngang trán. Xong lễ lui ra [10].

2 - Lễ Khóa ấn

25 tháng chạp làm lễ Khóa ấn trong một tháng, hộp đựng  ấn úp mặt xuống. Chỉ những việc trọng đại như sát nhân, phản quốc. . . mới được xét ngay, còn trộm cắp lặt vặt, đánh nhau, đòi nợ VV. thì đình chỉ, đợi ngày khai ấn mới xét xử [11].

3 - Lễ Tiến Xuân Ngưu

Hàng năm đến tháng 11, Tư-thiên-giám tâu ngày nào, tháng nào là tiết lập ít và kê cả kiểu mẫu làm Xuân ngưu (Trâu đất) giao cho Công bộ sai Thường-ban-cục làm. Tượng trâu to bằng thật, mỗi năm nhuộm một mầu, ứng với năm đó, tính theo âm dương ngũ hành.
Trước tiết Lập Xuân một ngày, buổi chiều, Thường ban-cục đem Trâu đến đàn tế, dựng ở phường Đông-hà. Lễ tế vào giờ Tý (nửa đêm), mở đầu ngày Lập Xuân. Quan Phủ-doãn và hai quan huyện Thọ-xương và Quảng-đức làm lễ xong thì sai rước đến đàn ở phường Hà-khẩu. Hôm sau rước đi sớm. Quan Phủ-doãn và các quan huyện lấy cành dâu đánh con trâu đất, rồi đem vào sân điện Vua làm Lễ Tiến Xuân Ngưu

Các quan vâng chỉ của Chúa, mặc phẩm phục làm lễ. Lễ xong, quan Tư-lễ-giám bưng cái án để Xuân ngưu trước ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa [12] .
- Các nghi tiết thời Trung Hưng

1- Nghi tiết ở điện Kính-thiên. (lược Phan huy Chú) :

Sáng sớm mồng một, Tiết-chế-phủ (Con cả của Chúa Trịnh) vâng chỉ Chúa, dẫn trăm quan mặc phẩm phục vào chầu Vua để chúc  mừng năm mới.
Trước  một ngày, Thượng-thiết ty đặt ngự tọa của Hoàng thượng ở chính giữa kính thiên, đặt bảo án ở phía Đông, hương án ở trước  ngự tọa. Giáo phường đặt Thiều nhạc (nhạc đời vua Thuấn, chính trị tốt, đức hiện rõ) và Đại nhạc gồm  nhiều kèn, trống lớn, thanh la, tù và...) ở hai bên Đông và Tây sân rồng. Thủ vệ-ty  dàn cớ xí, khí giới. Nghi-chế-ty đặt cái án đế các tờ biểu của Thừa-ty các xứ ở công đường Lễ bộ. Quan Lễ bộ và quan Thừa-ty các xứ trực đêm ở công trường Lễ bộ. Khi canh đã điểm lần thứ năm, trời sáng, trống và nhạc đi trước, các quan Thị dạ (hầu đêm) rước án biểu đến ngoài cửa Đoan-môn, tiến vào để ở phía Đông sân rồng, hơi ngoảnh về Bắc. Các quan rước án biểu đều đứng.
Trống nghiêm hồi đầu, các quan văn võ [kể cả Chấp-sự (Đạo lễ) và Triều-yết] đứng sắp ban ở ngoài cửa Đoan-môn.
Trống hồi thứ hai, quan Đạo-lễ dẫn Tiết-chế-phủ vào chỗ điếm ở Tả, Hữu sân rồng ngồi tạm. Các quan Đạo-lễ tiến vào sân điện Vạn-thọ rước Vua lên ngự giá, làm lễ năm  lạy ba vái. Lễ xong lui về chỗ cũ ở hai bên Đông, Tây sân rồng.
Ngự giá đến cửa Kính-thiên thì quan Đạo-lễ dẫn Tiết-chế-phủ đứng phía Đông sân rồng, hơi về hướng Bắc. Tự-ban dẫn các quan vào sắp hàng hai bên Đông, Tây sân rồng. Các quan Thừa-ty, Triều-yết chìa đứng ở ngoài cửa Đoan-môn. Vua lên ngai. Giáo phường tấu khúc nhạc Văn-quang. Dứt tiếng chuông, vút roi (ra lệnh yên lặng khi làm lễ triều bái), nhạc nghi. Tư-thần-lang báo trời sáng. Thông-tán xướng: "Ban tề". Lại xướng: "Cúc cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân".
Quan Điển-nghi xướng: "Tiến biểu". Nhạc lại nổi lên. Hai viên Khoa quan dẫn bốn Tự-ban rước án biểu có tàn vàng che từ bên Đông sân rồng đem đặt giữa ngự đạo. Các Khoa quan dẫn bốn Tự-ban  rước án biểu có tàn vàng che từ bên Đông sân rồng đem đặt giữa ngự đạo. Các Khoa quan, Tự-ban lui ra chia đứng hai bên Đông, Tây. Dẫn-tán xướng: "Tuyên biểu mục", quan Tuyên-biểu vào giữa ngự đạo quỳ đọc biểu chú c mừng của công hầu và các quan văn võ 12 đạo. Đọc xong, lạy rồi lui về chỗ đứng trước.
(Đến lượt đọc biểu phó của các quan triều thần, cũng theo nghi tiết trên).
Thông -tán xướng: "Phủ phục, hưng, bình thân, các cung tam cũ đạo". Lại xướng: "Bách quan  giai quỵ, tung  hô", các quan quỳ xuống, giơ tay ngang trán hô theo: "Vạn tuế" , ba  lần như thế. Mỗi lần hô thì quân sĩ, phường  nhạc, đồng thanh hô theo. Lại xướng: "Phủ phục, hưng, cú cung, bái (nhạc nổi lên), hưng (bốn lần), bình thân". Nhạc nghỉ.

Quan Đạo-lễ dẫn Tiêt-chế-phủ đến bên Đông, đứng ở vị trước. Thóng-tán xướng : "Bách quan phân ban thị lập". Nghi-chế-ty đến giữa ngự-đạo quỳ tâu : "Tấu lễ tất". Giáo phường ty cùng các Thụ đồng văn, Nhã nhạc (nhạc khí nhỏ hơn Đại nhạc) tấu khúc Hưu-minh. Vút roi. Vua về cung. Quan Tư-lễ-giám bưng tờ biểu để tiến vào nội điện. Nhạc nghỉ. Tiết-chế phủ và các quan lui ra [13] .

2 - Nghi tiết ớ phủ Chúa. (lược) :

Sáng mồng một, hiệu Thiên-hùng bắn súng hiệu, hiệu Thị-trung đánh trống nghiêm. Tướng sĩ thuộc các đội thuyền đứng hầu hoặc đi tuân sát.
Tư-thiên-giám đã chọn giờ và phương hướng tốt để Chúa đi lễ. Các quan rước Chúa đến Thái miếu và Cung miếu hành lễ rồi về phủ.
Chúa ngự long tọa. Quan và lính hiệu Thị-hậu đứng hầu. Binh phiên ban tiền thưởng Xuân theo cấp bậc : nhất phẩm được 5 quan tiền, nhị phẩm được 4 quan cửu phẩm một quan, Tư-thiên-giám được 6 tiền, nhạc công một tiên.

Tư-thiên-giám chọn giờ tốt khải Chúa khai ấn. Tiết-chế-phủ dẫn các quan từ cửa Cáp-môn tiến vào phủ đường. Bốn viên Điển-gìám (dùng Khoa quan), hai đứng ở bên Tả và bên Hữu trong phủ, hai đứng ở ngoài phủ. Tiết-chế-phủ và các quan theo thứ tự lạy mừng. Chúa ban yến. Dự yến xong, các quan làm Iễ tạ ơn. Chúa về cung,

Tiết-chế-phủ về phủ.
Các quan lại đến phủ Tíết-chế chúc mừng  [13].

3- Tết Đàng Trong
Lê Quý Đôn cho biết ở Thuận-hóa, năm Canh-Dần, Tết Chính Đán thì 2 viên Cai cơ công tộc chỉ mừng tiền trầu 2 quan ; Cai đội 11 viên đều một con lợn thay tiền 10 quan, tiền trầu 1 quan ; chư tướng Ngoại tả 1 viên, Chưởng dinh 2 viên, Chưởng cơ 4 viên đều lợn một con thay tiền 10 quan, tiền trầu 5 hay 10 quan tùy hạng ; Cai cơ 10 viên chỉ mỗi viên 2 tiền trầu ; Cai đội 28 viên cũng như lệ Cai đội công tộc ; văn ban 5 viên, mỗi viên 2 tiền trầu vv. (14).
4 - Tết qua ngòi bút của một chứng nhân ổ thế kỷ 17
Năm 1659, Bento Thiện. một "Thảy giảng" đạo Thiên chúa đã viết về Tết như sau :
"Thói nước Annam, đầu năm mùng một tháng giêng, gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy Vua, đoạn lạy Chúa, mới lạy ông bà ông vải, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy Vua Chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn Tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì Vua Chúa đi đền Giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng Địa Kì. Vua Chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng bẩy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ an mười ngày. Lại xem ngày nào tốt mới mở ấn ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện mọi việc ; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội Đài, Ngoại Hiến, Phú Huyện, quan đảng nha môn, mới có kiện cáo. Đến trung tuần mới có Khánh thọ bảo thần cho thiên hạ mừng tuổi Vua. Ai có nghề nghiệp gì thì làm cho Vua xem. Đến hạ tuần tháng giêng, ĐứcChúa lại Tế Kỳ Đạo dưới bãi cát, làm đàn thờ. Trước thì thờ Thiên Chúa Thượng Đê' một đàn, là một đàn từ Vua Lê Thái Tổ cho đến nay, một đàn thì thó Thần Kì Đạo. Đức Chúa lạy ba dàn này. Đoạn đến đàn Thần Kì Đạo, Đức Chúa lạy đoạn, liền chỉ gươm cùng chém, lại bắn cung. Đoạn lại đánh trống mà chỉ gươm cho thiên hạ mới đuôi đi, thì gọi là khao quân. Đoạn liền về tập voi tập ngựa, gọi rằng đã hết năm mới (15).
II - Tết Nguyên Đán thời nhà Nguyễn
A - Nghi tiết trong triều
1 - Lễ Ban Sóc (ban lịch mới)
Lễ Ban Sóc được coi trọng vì lịch liên quan đến việc cầy cấy sinh tồn của dân. Theo Đào Trinh Nhất thì từ đầu thế kỷ 14 ta đã phái người sang Nguyên triều khảo cứu Thiên văn học và phép làm lịch, tức là lịch Hiệp kỷ (lịch xem ngày tốt xấu). Sau đây là luật lệ thời nhà Nguyễn :
- Năm 1820, bộ Lễ tâu về việc ban lịch Hiệp Kỷ :
"Ban bảo Chính sóc là việc chính trị lớn của vương giả kính Trời chăm dân. Xin lấy ngày 1 tháng 12 đặt Đại triều ở điện Thái-hoà để truyền chỉ ban lịch theo phép cũ".

- Năm Minh Mệnh 13 (1833) định lệ :
Lễ Chính Sóc là một lễ lớn để tỏ trong nước dùng cùng một thứ chữ. Nguyên trước lịch do Kinh ban ra, in ở địa phương, chuyển cấp cho dân. Từ nay các tỉnh Quảng-bình, Quảng-trị, Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh do Kinh cấp phát. Từ Ninh-bình ra Bắc cứ tháng 5 mỗi năm Khâm-thiên-giám đưa mẫu lịch cho Hà-nội in và cấp phát. Đến tháng 9, Khâm-thiên-giám làm tờ bìa mặt quyển lịch, bìa vàng có chữ Hiệp kỷ lịch, đến ngày mồng một tháng chạp các tỉnh làm lễ Chính Sóc và phụng hành cấp phát.
Năm Minh-mệnh 20 ( 1840) lại đổi :
Lệ cũ ngày 1 tháng 12 đặt nghi lễ Đại triều ở điện Thái-hòa để ban lịch Hiệp Kỷ năm sau cho trăm quan. Nay đổi :
Trước một ngày, ty chức trách đặt một cái án vàng trước Ngọ môn, chính giữa, một bàn vàng ở phía nam cái án, đều có lọng vàng che. Hai bên tả hữu sân đặt chỗ đứng lạy của các hoàng thân, các quan từ tam phẩm trở lên ở trước sân Ngọ môn, từ tứ phẩm trở xuống đặt vị đứng lạy ở phía nam cầu Kim thủy. Ở viện Tả đãi lậu đặt một long đình. Nghi trượng, nhã nhạc xếp hàng hai bên trước sân Ngọ môn.
Sớm hôm ấy các quan đều mặc triều phục đứng ngoài cửa Ngọ môn. Khâm-thiên-giám bưng hòm đựng lịch đặt lên long đình. Bộ Lễ xướng :"Hành tiến lịch lễ ' " đàm lễ dâng lịch). Khâm-thiên-giám bưng hòm đựng lịch đến cạnh viên quản lý quỳ dâng hòm.
Tất cả làm lễ 5 lạy. Vệ-]oan-nghi khiêng án vàng do cửa Ngọ môn đi vào, nhã nhạc, nghi trượng đi trước, qua cầu Trung đạo đến cửa Đại cung, án vàng đi vào cửa giữa đến sân điện Cân chính đặt ở dưới thềm giữa. Khâm-thiên-giám trao hòm lịch cho viên Nội các chuyển cho nội giám đệ vào cung.
Ngày hôm ấy trăm quan đến viện Tả đãi lậu lĩnh lịch. Phủ Thừa-thiên họp nhân viên 6 huyện lĩnh lịch cấp phát

cho các làng xã để dân chúng xem chung, lịch do các thầy Chánh, thầy Lý giữ (16).
- Năm 1919 , lễ Ban Sóc diễn ra ở trước cửa Ngọ môn vào ngày 1 tháng 12 âm lịch, tức là ngày 2/1/919.
2 - Lễ Phất-thức và lễ Phong ấn.
Năm 1807, định lệ hàng năm đến ngày 25 tháng chạp âm lịch thì khóa ấn, mồng 7 tháng giêng thì khai ấn.
- Năm 1827, vua dụ : " Hết năm có lệ phong ấn để các nha dành ít ngày nghỉ ngơi, nhàn hạ trong khi cả năm phải siêng năng, chăm chỉ làm việc. Đấng vương giả theo phép Trời làm việc mạnh mẽ, tự cường, không nghỉ ngơi còn sợ chưa hợp ý Trời, chưa thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân nên trẫm không muốn một ngày nhàn rỗi. Từ nay ấn tín quốc gia, hành dụng vẫn theo thường lệ. Còn các nha môn trong ngoài, cuối năm phong ấn, đầu giêng, khai Xuân, khai ấn, cứ theo lệ cũ mà làm".
Trước khi khai ấn phải rửa ấn, gọi là lễ Phất-thức. Nguyễn Công Hoan viết : Rửa ấn chỉ được phép ngâm rượu cho các chất bẩn giắt trong kẽ rã ra, không được lấy tăm khều cho nhanh vì làm thế sẽ độc, trong năm có nhiều án mạng xẩy ra (17). Nhưng đấy là ở các nha môn, trong triều lễ Phất-thức long trọng hơn nhiều :
Nội Các chọn một trong mười ngày cuối tháng chạp làm lễ, được vua chuẩn. Các Hoàng thân, các quan trong viện Cơ Mật, trong Nội Các dự lễ cũng do Nội Các đề cử. Sáng hôm Phât-thức, bộ Lễ sai bầy bàn ở điện Cân-chánh. Sáu cái tủ khảm lớn đặt ở hai bên cửa điện, trong đựng các hộp ấn được mờ ra trước mặt Hoàng thượng. Các ấn triện bằng vàng, ngọc, pha lê vv. của các tiên đế, Hoàng thượng, phi tần, được rửa bằng nước hương thủy (nước có ngâm các thứ hoa) rồi chùi bằng nhiễu điều. Ban đầu, các quan dự lễ mặc thường triều, sau thấy bất tiện nên đổi ra mặc áo thụng xanh. Sau khi rửa xong, ấn triện được cất lại vào trong tủ, rồi vua ban yến (18).
Năm 1830, định lệ sau ngày phong ấn, gập những việc cần, Lục bộ, các nha và Nội Các tâu lên dùng ấn vàng. Đến ngày khai ấn triện quan phòng, chưa rõ năm, tháng, ngày nào dùng để làm bằng chiếu.
Lễ Phât-thúc đầu tiên của triều Nguyễn diễn ra vào năm 1837. Lễ Phât-thức năm 1919 được cử hành
vào ngày 24 tháng chạp, tức là ngày 25/11/1919
3 - Nghi tiết Lễ Trừ tịch và Tiết Nguyên Đán.
- Năm 1807, Lễ bộ dâng nghi tiết :
Lễ Trừ tịch, vua đến nhà Thái miếu làm lễ, các quan văn võ từ ngũ phẩm trở lên làm bồi tế. Lễ Nguyên Đán cũng thế.
Ở miếu Triệu tổ và miếu Hoàng khảo, đêm Trừ tịch, sai quan làm lễ. Các quan văn võ từ tứ phẩm trở lên túc trực hai bên công thự tả hữu, các lễ quan túc trực ở các miếu. Nhạc công hát thờ.
Ngày Nguyên Đán, vua đến Thái miếu và miếu Hoàng khảo làm lễ. Miếu Triệu tổ thì sai quan làm Lễ xong vua đem các quan đến cung Trường-thọ làm lễ chúc mừng, rồi vua ngự điện Thái-hòa nhận lễ chầu mừng, sau đó các quan xin phép đến cung Khôn-đức lạy mừng.
Mông 2, sai các quan làm lễ ở các miếu.
Mồng 3, vua đến nhà Thái miếu làm lễ. Miếu
Triệu tổ và miếu Hoàng khảo thì sai các quan làm lễ.
Sai chép làm lệ ( 19 ) .
- Năm 1848 vua Thiệu-trị mất, có quốc tang nên nghi lễ hơi đổi : Ngày mồng 1, vua mặc áo cát phục dấn cung Hoàng mẫu kính dâng 100 lạng vàng, 1000 lạng bạc, biểu tâu làm lễ người nhà. Lễ xong vua ngự điện Văn-minh, trăm quan mặc áo đẹp lần lượt lễ năm lạy. Mồng 2, vua mặc lễ phục đến điện Long-an (chỗ để quan tài vua Thiệu-trị) làm lễ, các quan mặc lễ phục theo lạy. Mông 3, vua mặc lễ phục đến Dao-cung làm lễ, các thân phiên, Hoàng thân, văn từ tứ phẩm, võ từ tam phẩm mặc lễ phục theo vào lạy.
Những cuộc chầu mừng, ban yến, nhạc đều đình, duy có ban thưởng thân phiên, Hoàng thân, trăm quan, gia cấp cho các lính trạm, lính gián binh đều như lệ (20) .
- Năm 1853 định lại lệ mở cửa cung thành ba đêm Tết Nguyên-đán. Lệ trước, các đêm 30 tháng chạp, mồng 1 và mồng 2 các cửa cung thành, hoàng thành, kinh thành đều mở rộng. Nay phải chiểu lệ thường canh giữ.
4 - Ban yến
Năm 1823, ngày mồng một tháng giêng, vua đến cung Từ-thọ làm lễ khánh hạ, dâng mười lạng vàng.
Xong, ngự điện Thái-hòa, bầy tôi chầu mừng. Lễ xong ban yến và thưởng theo thứ bực :
Các Hoàng tử tước công, mỗi người 20 lạng bạc ;
Quan văn võ chánh nhất phẩm, mỗi người 12 lạng
Tùng nhất phẩm, mỗi người 10 lạng bạc ;
Chánh nhị phẩm, mỗi người 8 lạng bạc ;
Chánh ngũ phẩm, mỗi người 2 lạng bạc ;
Hành tẩu, Thị nội, Chánh đội trưởng, Suất đội... mỗi người 1 lạng bạc (21 )

Chú thích:
1 L'Armoricain 25/11/1840 - Moniteur Universel 5/1/1841 theo Hồng Lam, Trung Bắc Chủ Nhật 2/4/1944 và A. Delvaux, Bulletin des Amis du Vieux Huế, Oct. - Déc. 1928
2 - Bổ tử = miếng vải vuông đáp trước ngực áo, thêu hình chim nếu là quan văn, hình thú nếu là quan, võ cấp bậc cao thấp tùy loại chim hay thú.
3- Đào Trinh Nhất, Trung Bắc Chủ Nhật, 17/10/1943
4 - "Nên 5 nên 6" chép theo chính tả của tác giả.
5- P. Bỉnh, tr. 494 - 499.
6 - Phạm Phú Thứ với Tư tưởng canh tân , tr. 49 .
7- Thực Lục , XXXIV, tr. 118 .
8- Phạm Phú Thứ với Tư tưởng canh tân , tr.  57.
9- Phạm Phú Thứ với Tư tưởng canh tân , tr.  5 1 .
10 - Phạm Phú Thứ với Tư tưởng canh tân , tr.  64.
11 - Phạm Phú Thứ với Tư tưởng canh tân , tr. 64, 67 .
12 - Phạm Phú Thứ với Tư tưởng canh tân , tr. 59.
13 - Nguyễn văn Trấn, tr. 203-4.
14 - Cours d'Histoire annamite, II, tr. 259 - Nguyễn
văn Trung, tr. 14.
15 - Bouchot, tr. 18.
16 - Lê Trọng Văn, tr. 32-3.
17 - Nguyễn văn Trấn, tr. 25 , không cho biết xuất xứ. Tôi chưa tìm ra thư gửi cho ai.
18 - Nguyễn văn Trấn, tr. 228 - Bằng Giang, tr. 192 - Lê Trọng Văn, tr. 100.
19 - Thực Lục, XXXII, tr. 60. Trương Bá Cân, tr. 426.
20 - Trương Bá Cần, tr. 28.
21 - Trương Bá Cần , ti . 30 .
22 - Phan Trần Chúc , tr. 41 .
23 - Thực Lục, XXXIV, tr. 65.
24 - P.T. Chúc, tr. 118-22, 132.
25 - Phạm Phú Thứ với Tư tưởng canh tân, tr. 47.
26 - Phạm Phú Thứ với Tư tưởng canh tân, tr. 8 0 .
27 - Tùng Phong, Trung Bắc Chủ Nhật số 104, 29/3/1942.
28 - Ptchúc, tr. 24, 32.
29 - Sở Bảo,  Trung Bắc Chủ Nhật,  21 /3/ 1943 .
30 - Thực Lục, XX, tr. 252 - Đào Trinh Nhất, Trung Bắc Chủ Nhật, số 227, 5/ 11/1944.
31 - Quán Chi, TTrung Bắc Chủ Nhật, 21 /3/1943 .

(còn tiếp)
Trích từ quyển Lối Xưa Xe Ngựa tập II - An Tiêm xuất bản - Paris - 2002

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Sài gòn ngày mồng năm
Reply #1 - 02. Nov 2006 , 23:29
 
Sài gòn ngày mồng năm năm Át Dậu
Hai thân,
Lâu quá tao mới viết thơ thăm mầy. Thôi mong mầy thông cảm. Bà con vùng Dakao mình cũng bình thường, và lúc nào cũng nhắc đến anh chị Ba, tía má mầy và vợ chồng mày.
Bà con mình lúc nầy làm ăn có khó khăn hơn. Làm bậy làm bạ thì được, chứ cái nghề may mặc bây giờ, thằng Chệt nó cạnh tranh lắm. Mới mấy năm trước, bà con mình ai có tí vốn liếng thì bỏ ra mở xưởng may thi công. Các nhà may kỷ nghệ nhận may cho các hảng xưởng lớn của nước ngoài làm không kịp nên giao công lại cho các xưởng nhỏ của bà con mình lảnh thi công làm phụ. Nhờ vậy nên nhà nào nhà đó cũng khấm khá.
Lúc này, các thằng Chệt : Chệt cộng Chệt Đài loan, Chệt Thái lan bán hàng phá giá, tràn đầy chợ Việtnam, hàng rẻ hơn, phẩm chất, mà mấy thằng nói ngọng ở ngoải nói là chất lượng lại tốt hơn, nên thiên hạ mua hàng hóa Chệt, các công xưởng mua hàng Chệt, dán nhản Made in Vietnam là bán ra vô thưởng vô phạt, huề cả làng, chỉ có dân ta là kêu trời.
Chẳng những đã nhập cảng hàng Chệt lậu vô Việt nam, Chệt Đài loan còn mở xưởng lớn, mướn Xẩm bên Tàu qua, nuôi ăn nuôi ở làm gía' thành rẻ hơn, dán nhản China, Viet nam, hổng ai kiểm soát nổi. Mà dầu có kiểm soát thì lì xì một cái là xong. Chệt lúc nầy nó lộng hành hơn thời trước của mình nữa.
Nghe nói năm nay, xứ Tây của mầy, xả cảng bỏ quota nhập cảng hàng Chệt. Chệt nó ouánh xả láng, chết Tây, mà chết luôn cả ta nữa. Rồi thì WTO ! Viet nam ai cũng mê vào WTO để Mỹ nó mua hàng hóa, để dễ làm ăn, nhưng rồi đây Chệt nó mở xưởng tại Việt nam, mướn Xẩm thì dân ta cũng CCCD nữa, mầy ạ !
Chệt nó cũng WTO với Mỹ, Chệt cũng làm ăn với Âu châu. Dân ta dẩu có theo, cũng theo sau. Dân ngoài Bắc vô kể cho tao hay là Chệt nó mua Sừng Nghé, giá bao nhiêu cũng mua, thế là thiên hạ ùn ùn đi giết nghé. Không có nghé làm sao có trâu, ít bửa là hoặc mua máy cày, hoặc người kéo thế trâu.
Chệt mua rễ tre để làm bàn chải đành răng ; Xứ Tầu bây giờ văn minh cần đánh răng. Hồi sanh tiền Mao Trạch Đông hổng bao giờ đánh răng ? Bây giờ Chệt văn minh đánh răng, mua rễ tre. Dân Bắc phá luỷ tre lấy rễ bán. Ngày nào xâm lược dân ta hết tre che chở.
Mà có riêng gì dân thành thị, nông dân cũng vậy, bây giờ những ai trồng mía làm đường đểu kêu trời, đường mình làm ra gía' thành cao hơn đường Chệt, phẩm chất, ý chết chất lượng thấp hơn.
Riêng phần tao thì nhờ nghề giáo cơm nên ngon ăn lắm. Thiên hạ khoái học tiếng Mỹ : nào là luyên giọng , nào là luyên thi, nhờ ơn ... tao cũng không biết ơn ai bây giờ, gia đình chú thím mầy bây giờ ngon lành lắm, Hai à !.
Thím mầy, thấy nghề giáo sư Anh văn của tao ngon ăn, nên bả cũng luyện thêm với tao vài chưởng, rồi cũng mở lớp, bỏ nghề bán phở. Nhờ lúc xưa ở Sài gòn bả có học ở British Council, nên nay bả bày đặng xổ giọng Anh Cát Lợi , pure british, để kiếm cơm. Giọng ấy bây giờ có giá lắm, nhờ bà Tân Đại sứ Tôn nữ thị Ninh ( không biết mầy có theo dõi biết bà ấy không ?) đi biểu diển được báo chí nhà ta khen là giọng quí phái dữ dội. Nhớ ngày nào tao khổ sở vì cốt ngụy, ở tù vì làm sở Mỹ, giáo sư Anh ngữ quân đội, Xịa, ngày nay nhờ Mỹ ngữ, Anh ngữ mà sống phây phả. Thật đổi đời, bây giờ ai cũng mong Mỹ hết, Clinton tới thăm mừng hết lớn, tàu Mỹ đến thăm là OK ào ào, rồi mai này làm ăn với Mỹ, rồi .. ôi lắm chuyện.
Thảo nào dân Việt ở Mỹ ào ào về thăm nhà ăn Tết. Tao ngao ngán quá ! nên cũng lơ là viết thơ cho vợ chồng mày, phong trào nhận họ nhận hàng ở Mỹ, ở ngoại quốc, cũng giống như hồi mấy chả mới vô nhận họ nhận hàng vậy. Nhưng hồi đó, dân nam tụi mình nhận họ, còn mấy chả nhận hàng. Bây giờ không khéo rồi cũng y chang như hồi đó. Lại cái cảnh CCCĐ nữa đây, nhưng theo tao thì CCCĐ là cái vồn của dân nam tụi mình. Này tao kể một chuyện động trời :
Hôm mùng hai Tết tao theo thím mầy về Cần thơ thăm quê ngoại mấy đứa, ôi thôi, tưng bừng đất Tậy Độ Nhưng ăn Tết lạ lùng : ăn Tết bằng thịt chó. Mầy nghĩ thử xem, làm sao mà xứ Đạo, xứ Đức Thầy, mà ăn thịt chó, vậy mà họ ăn, mà còn ăn bạo nữa. Tao hết ý kiến. Thĩt chó lên giá vùn vụt , trước Têt mới 20 ngàn đồng một ký, nay đã 50 ngàn. Còn có cái mốt di ăn Cháo Chó đêm.
Tao giận quá ! Thăm qua loa bà con rồi tao về hôm qua, để bả ở dưới với em Tư mầy. Xứ Dakao mình coi vậy vẫn còn hiền hòa, tuy hàng quán cũng đầy rẩy nhưng buôn bán còn thật thà ! Thiệt tình mà nói, bà con xóm mình cũng quanh quẩn ở với nhau từ mấy chục năm nay, mấy chả vô ở cũng ít, thành thử cũng không nói lai nói ngọng bao nhiêu. Chứ mầy thử nghĩ xem, hồi năm ngoái tao có chuyện phải xuống Rạch giá, về tận sông Ông Đốc làm giấy tờ. Tao gặp phải một cha Trưởng Ty , người miền ngoại nói ngọng, tao hết ý kiến luôn.
Nói đến chuyện mấy chả, tao nói kể chuyện tình hình cho vui, chứ tao cũng chẳng phải kỳ thị gì. Hồi xưa, các cơ quan chánh phủ quân đội mình thiếu gì các anh ở ngoải, nhưng họ nhập về mình dễ dàng. Mới ngày nào 54 di cư qua mấy năm sau, thông cảm bà con lối xóm tôn trọng, giúp đở nhau. Bây giờ thì xất xất láo láo, coi người bằng vung. Tao với thím mầy tuổi tác cũng trên 70 mươi mà bọn công an khu vực vẫn anh anh chị chị. Bà con mình thì cứ gọi nhau bằng thứ, mấy thằng nầy cứ tên tục của tao, của thím mầy mà gọi. Mà có gọi đúng đâu ?
thí dụ tên thằng út của tao là Hữu, mà nó cứ gọi là Hiễu. Thôi ít hàng nói chuyện Tết với mầy, cho tao gởi lời thăm mấy bạn nhà giáo của mầy, anh giáo già ở Cali, anh Hai Cần Giuộc. Mầy nói cho ảnh biết là xứ ảnh bên giờ hết quê rồi, mà biến thành chợ. Đổi hết rồi mầy ơi ! Mầy có qua Hòa lan thăm anh giáo Tư Bắc, cho tao gởi lời thăm, mua tặng ảnh dùm tao hai gói thuốc, nghe nói anh vẫn còn ghiền nặng, và vẫn cười hoài. Anh giáo Năm Bắc, bạn ảnh mới về thăm nhà, tao không đi thăm vì trong nhà ảnh có mấy chả ở chơi thường trực nên chán lắm. Nhớ Anh chị Ba tía má mầy lắm !
Thăm mầy
Chú thím Bảy

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #2 - 08. Nov 2006 , 11:45
 
Hương Vị Miền Nam: Chè Xôi Nước, vừa ngon vừa ngộ...
Friday, October 27, 2006Trần Văn Chi
Chè xôi nước là tên gọi loại chè viên tròn bằng cái bánh ít, làm bằng bột nếp, trong có cục nhân đậu xanh cà bỏ vỏ nấu chín đánh tơi.
Nhà văn nhà báo thấy viên chè thả trôi trong xoong nước đường nên gọi tên là chè trôi nước. Nghe có lý nhưng người bình dân không chịu uống lưỡi, bẻ miệng nói theo! Và tới nay người mình trong ngoài cũng cứ gọi là chè xôi nước, về miệt quê miệt vườn có người còn kêu trại là chè siêu nước nữa!
***
Chè xứ mình phong phú lắm, có nhiều loại chè chúng ta chưa nghe tên và chưa ăn qua bao giờ. Chưa có thống kê xem xưa nay ta có bao nhiêu loại chè, loại nào đã mai một, lai lịch gốc tích ra sao.
Trong tự điển tiếng Việt có ghi mấy loại chè như: chè bà-ba, bà cốt, chè bắp, chè bông lau, chè bột báng bột năng bột khoai, chè củ năng củ mài, chè chuối, chè đậu xanh, đậu đen, đậu đo,Ư đậu trắng, chè hột lựu, hột sen, hột mít, hột me, chè hạnh nhân, chè nhãn, chè khoai lang khoai môn khoai mì, chè thưng, chè thập cẩm, chè trứng gà trứng cút, chè trái cây, chè xôi nước, chè yến...
Ði về miệt Bạc Liêu, Hà Tiên, Châu Ðốc... thấy bà con người Tiều có món chè gọi là chè ỷ. Người Triều Châu ta quen gọi là Tiều từ Quảng Ðông bên Tàu chạy qua nước ta vào thế kỷ 18 sống chung lộn với người mình ở miền Tây, vẫn giữ tục lệ hằng năm vào tiết Ðông Chí nấu chè cúng mừng Tết Ðông Chí. Sau đó cả nhà cùng ăn gọi là ăn ỷ. Chữ ỷ nghĩa là tốt, nên dùng đặt tên chè để mong cả nhà tốt lành? Chè ỷ giống chè xôi nước, chè trôi nước của Việt Nam.
(Ðông chí là tiết giữa mùa đông nhằm vào khoảng 21, 22, 23 tháng 12 dương lịch, lúc này mặt trời xa xích đạo nhứt nên ngày ngắn nhứt và đêm dài nhứt, tiết Ðông chí là một trong 24 Tiết của năm, theo lịch cổ Trung quốc).
Nói về chè, tục ngữ mình có câu “chè trên cháo dưới” nói lên cái sành ăn uống của người xưa, bởi chè phải ăn trên mặt mới ngọt (nhiều đường), cháo ăn dưới đáy có nhiều thịt cá mới ngon! Còn câu: “chè hâm lại, gái ngủ trưa/ Vợ đẹp đau lưng, chè ngon khan cổ” có lẻ xuất phát ở miền Bắc, bởi chè ở trường hợp này hiểu là nước trà.
Chè không như trà, từ khi xuất hiện đã có sự phân biệt giàu nghèo, nên có loại chè chỉ dành riêng vua chúa, quý tộc người dân không được ăn, chưa được nghe.
*Chè cung đình, chè vương giả mang tánh y lý bổ dưỡng mà không ngon!
Trước tiên là chè yến được tìm thấy trong danh mục bát trân : 8 món ăn quý hiếm dành riêng cho vua là nem công, chả phượng, da tê ngưu, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, chân voi và yến sào.Yến sào là ổ yến có ở Quảng Bình, Quảng Ngãi, Ðà Nẵng, Côn Ðảo, Phú Quốc nhưng là loại quý hiếm, dinh dưỡng cao có tác dụng kéo dài tuổi thọ theo y lý đông phương. Chè yến là loai chè cung đình, dành cho vua hoặc người được vua ân sủng ban cho.
Chè long nhãn, chè hột sen cũng thuộc cao cấp dành cho hàng quí tộc. Bởi nhãn là “vương giả chi quả”, sen là “vương giả chi hoa”. Hột sen, long nhãn nấu riêng thành hai loại chè, nấu chung gọi là chè long nhãn hột sen ăn rất bổ. Ngày nay chè long nhãn, chè hột sen thường dùng cúng Phật và người có tiền có thể ăn dễ dàng.
Chè Sơn Qui Gò Công xưa là loại chè tiến cung. Sơn Qui còn gọi là Gò Rùa, quê hương của ông Phạm Ðăng Hưng, sanh ra bà Từ Dũ. Nơi đây có duyên làm ra món chè rất công phu, tỉ mỉ, bổ dưỡng bằng sản vật địa phương. Sơn Qui đất giồng pha cát cho trái dừa, cây mía đường, đậu xanh, đậu thạch (đậu ngự), củ năng... có hương vị ngon tinh khiết. Chè Sơn Qui lại được bàn tay khéo léo của con gái Gò Công, tinh chế thành từng hột giống như hột lựu nên sau này chè Sơn Qui được gọi là chè hột lựu.
*Chè dân giả lưu truyền tới nay vì ăn ngon và đã miệng.
Có thể chia ra hai nhóm chè dân giả; một là chè nấu với các loại đậu trái khoai củ và hai là chè nấu với các loại bột. Trên tiêu chuẩn ngon cũng như có nhiều người ưa thích thì chè đậu trắng và chè xôi nước đáng dẫn đầu mỗi nhóm.
Chè đậu trắng là loại chè nấu đậu trắng chung với nếp cùng phụ gia nước cốt dừa và phẩm mùi. Nếp có tác dụng như chất xúc tác dùng bọc dung dịch ngọt béo quanh hột đậu trắng; nếp vừa là chất keo nối kết những hột đậu trắng với với nhau làm nên món chè đậu. Nếp không được người ăn nhắc tên, kể đến trong thành phần làm nên chè đậu trắng! Và tên đậu trắng dành độc quyền cái thương hiệu chè “đậu trắng”. Chè đậu trắng gọi là khéo và ngon phải không cho thấy còn hột nếp.
Hồi xưa đậu trắng mua về ngâm ngoài nắng cả ngày để cho đỡ tốn củi. Nấu cho mềm, đem xả nước lạnh, gỡ bỏ hết mài đậu, lựa bỏ hết hột hư hột lép. Ngày nay đậu trắng đã được nấu chín, sạch mài, hột nào hột nấy trông “biết nói”, vô lon bán sẵn ngoài chợ.
Mấy bà già bảo rằng nấu chè đậu trắng bằng đường vàng mỡ gà thơm hơn đường cát trắng mà nhìn cũng lịch sự nữa, nên nhứt không chịu dùng đường cát trắng như ngày nay. “Sang mà không ngon!”, mấy bà bảo như vậy. Nước cốt dừa và lá dứa phải cho vào xoong chè khi còn nóng trên bếp ăn ngon hơn lối để riêng như “chè Cali”.
Chè đậu trắng thuở xưa được ăn kèm với xôi trắng và ăn nóng. Ngày nay mấy bà mấy cô hảo ngọt chỉ thích ăn chè lạnh, ăn chè “ên” không chịu ăn kèm với xôi. Ðó là kiểu ăn chè của người Little Saigon.
Chè đậu trắng với tên gọi “đậu trắng” bởi cái chất bùi, béo của hột đậu trắng, cái dai của vỏ đậu độc đáo mà loại đậu khác không sao có. Còn cái ngọt của đường, béo của nước dừa, cùng cái sền sệt của nếp chỉ là ở bên ngoài.
Và chè đậu trắng với tên nghe dân giả mà ngon, nhai nghe đã nên xưa nay vẫn đứng đầu là vậy.
***
Còn chè xôi nước ăn ngon, nhìn ngộ ngộ, gợi hình gợi cảm.
Chè xôi nước, trôi nước, siêu nước, hay chè ỷ. Cách nấu cách ăn, viên to, viên nhỏ như thừa như thiếu, như chơi như thật, nổi trôi bồng bềnh trong xoong, gây ấn tượng cho người nấu người ăn.
Ai chế ra viên chè xôi nước thì không biết nhưng hình như nó có họ hàng gần với “bánh ít trần”. Bánh ít trần với tên gọi đặc sệt Nam Kỳ nhà quê, bánh ít mà không mặc áo, viên tròn, bột trắng nhân trắng. Bánh ít trần luộc chín trong nước, chè xôi nước thì thả trôi trong dung dịch đường phải có liên hệ nhau.
Viên chè xôi nước xưa to bằng cái bánh ít, nằm trụm lũm trong cái chén. Bột nếp bao bên ngoài rất dày. Nhưn chè xôi nước giống hệt như nhưn bánh ít được vò cứng để khi dùng đũa dẽ đôi, nhân chè không bị rơi rớt.
Tất cả viên chè vò tròn sẵn sàng chờ nước đường sôi thả vào một lúc. Giữ lửa cho nước đường tiếp tục sôi tới khi chè nổi lên đều mới hạ lửa. Cho vào ít gừng, đảo nhẹ sao cho chè chín đều, cho bột bên trong không bị nín, không có chỗ chín chỗ sượng.
Các công đoạn nhồi bột, vắt nhân, nắn chè cho đến giờ chót luôn gặp cảnh thiếu nhân dư bột. Và viên chè nhỏ bằng đầu tay cái không nhưn xuất hiện bên viên chè xôi nước. Viên chè nhỏ do cảnh dư thừa mà có, được ai đó gọi khôi hài là chè lũm chũm, thả vô nước kêu lũm chũm; hoặc tên là chè ực, nuốt vô nghe ừng ực!
Không xoong chè xôi nước nào mà không có những viên lũm chũm, lâu ngày khiến người ăn phải ghiền chè lũm chũm. Nay làm chè lũm chũm, chè ực không phải vì dư bột thiếu nhưn mà là nhu cầu. Ăn chè xôi nước thiếu viên lũm chũm như mất ngon, như thiếu vắng cái gì đó... Thế nhưng mãi mãi dưới cái nhìn của người ăn, người nấu thân phận viên chè lũm chũm chỉ là “cô vợ bé”. Không fair chút nào!
Chè xôi nước nay cải tiến: sau khi luộc viên chè như làm bánh ít trần, ngâm vào nước lạnh pha chút muối cho nguội, cho hết nhớt, để ráo rồi mới cho vào xoong nước đường sôi. Viên chè nay nhỏ hơn, ít bột và nhiều nhân, nước cốt dừa để riêng cho người ăn tùy nghi. Viên chè dẹp chớ không tròn như xưa, trình bày trong ly, nước đường trong veo cộng thêm vài viên lũm chũm cho đúng cách và không quên điểm cài hột mè trắng.
Chè xôi nước tròn dẹp, viên to viên nhỏ, có nhân không nhân, ngoài ngọt trong lạc, nhìn ngô ngộ mà ăn vào thấy ngon, nhai thấy đã.
Ðặc biệt chè xôi nước dành độc quyền cúng đầy tháng, thôi nôi cho bé gái. Không sách nào dạy mà không thấy ai làm trái...
tranvanchi@earthlink.net
Trân Trọng Giới Thiệu
hai tác phẩm có nhiều người đọc hiện nay:
Hương Vị Ngày Xưa, 12 USD
Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư, 15 USD      
Hỏi các nhà sách hoặc tác giả( xin kèm thêm 3 USD cước mỗi cuốn)
Trần Văn Chi, 1911W 148 st ST, Gardena, Ca 90249
Email : tranvanchi@earthlink.net

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
hanlenhan
Full Member
***
Offline



Posts: 127
Gender: male
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #3 - 24. Jan 2007 , 01:22
 
Quote:
Nguyễn Thị Chân Quỳnh     21/03/2006

Chúng ta ăn Tết Nguyên Đán chắc là theo Trung quốc vì có nhiều tục lệ của Trung quốc thấy bên ta cũng áp dụng:


Chào anh LS,

2 tuần ni Modem ADSL bị hư, France Telecom mới gửi đến cái khác hôm qua nên vắng mặt trên LVD. Đọc bài Tết anh đưa lên, Hàn tui thắc mắc:

* Vậy chớ Tết con Heo năm ni, anh và Hàn tui nên đón giao thừa vào ngày nào: Tiếp tục theo các Chú hay bắt đầu theo các Bác ? Hoặc giả đón cả hai ?

Hồi mới "giải phóng", các Bác đã từng chủ trương ăn Tết trước các Chú những 1 tháng, nay rút lại trước 1 ngày ! Chẳng biết "lập dị" như rứa để mần được cái chi chi. Bởi lay hoay ở ngả ba đường nên Hàn tui mới hỏi riêng anh và hỏi chung các anh chị khác trong trường. Wink

Thăm anh và các bạn, HLN.
Back to top
 

Đối thoại giữa chúng ta là đối thoại không chân dung, nghĩa là khiếm diện nhưng nhất định không khiếm nhã.
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #4 - 24. Jan 2007 , 06:53
 
hanlenhan wrote on 24. Jan 2007 , 01:22:
Chào anh LS,

2 tuần ni Modem ADSL bị hư, France Telecom mới gửi đến cái khác hôm qua nên vắng mặt trên LVD.



Anh Hàn Lệ Nhân ơi ,

Thế mà My nghe chị Miên Thuỵ nói bi bão bên Hoà Lan , nên My hỏi thăm chị Miên Thuỵ bên Pháp của anh có bão không, mà lâu không thấy anh.  Wink
Bây giờ còn anh Sơn bên Algerie nữa , anh có  liên lạc gì với anh Sơn không anh?  Wink



Quote:
Đọc bài Tết anh đưa lên, Hàn tui thắc mắc:

* Vậy chớ Tết con Heo năm ni, anh và Hàn tui nên đón giao thừa vào ngày nào: Tiếp tục theo các Chú hay bắt đầu theo các Bác ? Hoặc giả đón cả hai ?

Hồi mới "giải phóng", các Bác đã từng chủ trương ăn Tết trước các Chú những 1 tháng, nay rút lại trước 1 ngày ! Chẳng biết "lập dị" như rứa để mần được cái chi chi. Bởi lay hoay ở ngả ba đường nên Hàn tui mới hỏi riêng anh và hỏi chung các anh chị khác trong trường. Wink

Thăm anh và các bạn, HLN.


Hihihi, My không biết "các chú" và "các bác" , ai làm lịch đúng , ai làm lịch sai , nhưng nghe anh hỏi sao các bác cứ phải lập dị như thế để làm gì , thì My đoán là tại "các bác " bị nguyền rủa quá về tội  tay sai ngoại bang, dâng đất... nên "các bác"  muốn chứng tỏ   "các bác"   độc lập với quan thầy   Roll Eyes Cheesy


Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #5 - 24. Jan 2007 , 06:53
 
hanlenhan wrote on 24. Jan 2007 , 01:22:
Chào anh LS,

2 tuần ni Modem ADSL bị hư, France Telecom mới gửi đến cái khác hôm qua nên vắng mặt trên LVD.



Anh Hàn Lệ Nhân ơi ,

Thế mà My nghe chị Miên Thuỵ nói bi bão bên Hoà Lan , nên My hỏi thăm chị Miên Thuỵ bên Pháp của anh có bão không, mà lâu không thấy anh.  Wink
Bây giờ còn anh Sơn bên Algerie nữa , anh có  liên lạc gì với anh Sơn không anh?  Wink



Quote:
Đọc bài Tết anh đưa lên, Hàn tui thắc mắc:

* Vậy chớ Tết con Heo năm ni, anh và Hàn tui nên đón giao thừa vào ngày nào: Tiếp tục theo các Chú hay bắt đầu theo các Bác ? Hoặc giả đón cả hai ?

Hồi mới "giải phóng", các Bác đã từng chủ trương ăn Tết trước các Chú những 1 tháng, nay rút lại trước 1 ngày ! Chẳng biết "lập dị" như rứa để mần được cái chi chi. Bởi lay hoay ở ngả ba đường nên Hàn tui mới hỏi riêng anh và hỏi chung các anh chị khác trong trường. Wink

Thăm anh và các bạn, HLN.


Hihihi, My không biết "các chú" và "các bác" , ai làm lịch đúng , ai làm lịch sai , nhưng nghe anh hỏi sao các bác cứ phải lập dị như thế để làm gì , thì My đoán là tại "các bác " bị nguyền rủa quá về tội  tay sai ngoại bang, dâng đất... nên "các bác"  muốn chứng tỏ   "các bác"   độc lập với quan thầy   Roll Eyes Cheesy


Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  MỒNG MỘT TẾT NĂM ĐINH HỢI
Reply #6 - 25. Jan 2007 , 12:42
 
Mồng 1 Tết năm nay, ngày 17 hay 18 tháng 2, 2007?
Trần Gia Phụng
Năm Bính Tuất sắp hết. Năm Đinh Hợi gần tới. Dư luận người Việt trong và ngoài nước xôn xao, vì các lịch mới phát hành vào đầu năm 2007 trong và ngoài nước khác nhau ngày đầu năm Đinh Hợi. Theo lịch trong nước, ngày Mồng Một Tết năm nay là ngày 17/2/2007 so với dương lịch. Theo lịch ngoài nước, ngày Mồng Một Tết năm nay là ngày 18/2/2007. Câu hỏi đặt ra là tại sao có sự khác biệt nầy?
Trước hết, cần chú ý là bên cạnh dương lịch, tính theo chu kỳ vận chuyển của quả đất quanh mặt trời, truyền thống dân Việt chúng ta còn dùng âm lịch, tính theo chu kỳ chuyển động của mặt trăng quanh quả đất, trong một số việc gia đình, nông tang…Âm lịch mỗi năm có 24 tiết, mỗi tiết trung bình khoảng 15 ngày. Kinh nghiệm cho thấy âm lịch sai lệch khá nhiều so với thực tế diễn biến của thời tiết, nên người ta phải dùng dương lịch để điều chỉnh, và âm lịch ngày nay không còn là âm lịch thuần túy, mà là âm dương lịch với những tháng nhuận khác nhau tùy theo từng năm.
Trong dương lịch, mỗi ngày có 24 giờ. Trong âm lịch, mỗi ngày có 12 giờ. Người xưa lấy tên 10 thiên can và 12 địa chi ghép lại với nhau để đặt tên giờ. Mười thiên can là giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỹ, canh, tân, nhâm, quý; và 12 địa chi là tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Bội số chung của 10 thiên can và 12 địa chi là 60. Do đó, cứ sau 60 ngày, thì có một ngày mang đầy đủ thiên can và địa chi giống nhau tái hiện. (Ví dụ ngày 1 là ngày giáp tý, thì ngày thứ 61, thứ 121, 181… cũng là ngày giáp tý. Ngày 2 là ất sửu, thì ngày thứ 62, thứ 122, 182 … là ngày ất sửu. Cứ thế xoay vần cho đến hết 60 ngày, là hết một lục thập hoa giáp, rồi bắt đầu trở lại.) Đó là quy ước chung về việc dùng 10 thiên can và 12 địa chi để đặt tên giờ, ngày, và năm theo âm lịch.
Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, trong bài nghiên cứu về “Lịch và lịch Việt Nam”, thì một ngày bắt đầu từ “nửa đêm nầy đến nửa đêm sau”, và ngày sóc là ngày đầu tháng (mồng một), bắt đầu từ nửa đêm mang điểm “định sóc”.(1) Về vấn đề giờ tý là giờ đầu ngày, cũng trong bài nghiên cứu trên, và trong mục “Giờ và khắc”, giáo sư Hoàng Xuân Hãn thêm rằng: “Có điều lạ là trong một ngày, có hai nửa giờ tý không liên tục: một nửa sau đứng vào đầu ngày, một nửa trước ở cuối. Có lẽ vì sự ấy, các giờ cũ khác cũng được chia làm đôi: nửa giờ đầu xưng tính rằng sơ, nửa sau rằng chính…”(2)
Lý luận của giáo sư Hoàng Xuân Hãn có vài điểm cần phải xét lại:
1) Thứ nhất chữ “sơ”, trong mỗi giờ (sơ tý, sơ ngọ…) không nhất thiết bắt nguồn từ việc có hai nửa giờ tý, các giờ khác mới được chia hai như thế. Thông thường, người xưa (Trung Hoa và Việt) thường dùng chữ “sơ” để chỉ phần khởi đầu của một giai đọan, hay thời khắc nào đó: Thời sơ Nguyễn (đầu đời nhà Nguyễn), sơ tuần tháng giêng (vào đầu tháng giêng)…, nên đầu giờ là sơ, và sơ tý chỉ có nghĩa là đầu giờ tý chứ không nhất thiết là “nửa đầu giờ tý”.
2) Nếu dựa vào lối chia giờ trong ngày theo âm lịch, một ngày chia thành 12 giờ, mà nói theo giáo sư Hãn, “có hai nửa giờ tý không liên tục: một nửa sau (chính tý) đứng vào đầu ngày, một nửa trước (sơ tý) ở cuối ...”, thì từ xưa đến nay, chưa có sử sách nào ghi theo cách nầy cả. Ví dụ: từ 11 giờ đêm đến 12 giờ đêm là sơ tý, vậy từ 11 giờ đêm đến 12 giờ đêm ngày mồng 1 là sơ tý của ngày nào? Nếu là của ngày trước, tức của ngày mồng 1, thì vô lý vì sơ sao lại cuối ngày? Sử sách chưa bao giờ viết rằng giờ Tý đầu ngày, hay giờ Tý cuối ngày, bởi vì như thế thì người ta sửa lại cách chia và đặt tên giờ cho dễ gọi, chứ không ai gọi giờ Tý đầu ngày và giờ Tý cuối ngày cho rắc rối
3) Từ khi có dương lịch, mới có việc chia mỗi ngày thành 24 giờ, chứ trước đây, khi sáng chế ra âm lịch, và chưa có dương lịch, người xưa đâu có tính giờ theo số học, và giờ tý là giờ bắt đầu trong ngày, dù sơ tý hay chính tý, cũng đều nằm trong giờ tý.
Riêng về việc tính lịch năm nay, trên nhật báo Nhân Dân ngày 19/6/2006, ông Trịnh Tiến Điều, Trưởng ban Lịch nhà nước thuộc Viện Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam, đã trình bày về lý do tại sao lịch trong nước chọn ngày 17/2/2007 là ngày Mồng Một Tết như sau:
“Điểm sóc tính cho Mồng Một Tết là 16 giờ 15 phút 23 giây (giờ GMT), nếu cộng thêm bảy giờ (múi giờ Việt Nam) là 23 giờ 15 phút 23 giây, vẫn trong ngày, nên lịch Việt Nam ghi Mồng Một Tết âm ứng với 17 tháng 2 dương lịch là đúng. Nếu cộng tám giờ (múi giờ Bắc Kinh) thì sang ngày hôm sau, nên lịch Trung Quốc ghi Mồng Một Tết âm ứng với 18 tháng 2 dương lịch là đúng với âm lịch Trung Quốc. Ngày dương và ngày can chi vẫn như nhau.”
Lý luận theo ông Trịnh Tiến Điều, có điểm cần lưu ý: Đã tính ngày âm lịch, thì phải tính theo giờ âm lịch, chứ sao lại tính theo giờ dương lịch? Giờ âm lịch ở đây phải là giờ âm lịch Việt Nam. Nếu tính theo múi giờ 7 là múi giờ Hà Nội mà ông Trịnh Tiến Điều dùng, thì theo quy ước về âm lịch Việt Nam, giờ tý bắt đầu từ 11 giờ khuya (tức 23 giờ) đến 1 giờ sáng.(3) Nếu tính theo múi giờ 8 là múi giờ Bắc Kinh, thì giờ tý bắt đầu từ 12 giờ khuya (tức 0 giờ) đến 2 giờ sáng.(4)
Như thế, dù “Điểm sóc tính cho Mồng Một Tết là 16 giờ 15 phút 23 giây (giờ GMT), nếu cộng thêm bảy giờ (múi giờ Việt Nam) là 23 giờ 15 phút 23 giây” như lời ông Trịnh Tiến Điều, thì ở Việt Nam, dầu theo múi giờ 7 hay múi giờ 8, thì điểm sóc đã ra khỏi giờ hợi (cuối ngày) của ngày hôm trước, và rơi vào giờ tý (từ 11 giờ đến 1 giờ) đầu ngày của ngày hôm sau. Vậy dầu là múi giờ 7 hay múi giờ 8, đều là giờ tý của ngày Mồng Một Tết, mà tính theo dương lịch năm nay là ngày 18/2/2007.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm của những người làm lịch thời xưa, muốn biết Mồng Một Tết năm sắp tới là ngày nào, thì cứ lục lại lịch cũ, tìm ngày rằm tháng 2 cách 8 năm trước, thì biết ngày Mồng Một Tết năm đó. Kinh nghiệm nầy được truyền miệng qua các câu phú sau đây:
“Tiền bát chi niên nhị nguyệt trung (Tám năm trước, giữa tháng 2)
Hậu gia nguyên đán tiện tương đồng (Ngày nguyên đán (người) sau tương đồng (với ngày nầy))
Mỗi nguyệt thập ngũ vi sơ nhất (Thường tháng (đó) ngày 15 làm ngày mồng một)
Thiên niên vạn tải bất sai phùng.” (Hàng ngàn vạn năm không sai được.)
Tám năm trước của năm 2007 (đinh hợi) là năm 1999 (kỷ mão). Ngày rằm tháng 2 năm kỷ mão là ngày “quý mùi”. Xét trong tháng 2/2007, ngày “quý mùi” rơi vào ngày 18/2/2007 dương lịch, đúng như lịch ở hải ngoại, chứ không phải là ngày 17/2/2007 như lịch phát hành ở trong nước hiện nay.
Sự khác biệt về âm lịch năm nay bắt nguồn từ việc đổi âm lịch từ năm 1968 ở Bắc Việt. Theo những nhà làm lịch của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam năm 1967, khi đổi âm lịch năm 1968, các ông cho biết: “Cụ thể là, từ năm 1968 đến năm 2000 có tất cả 29 ngày tiết và 26 tháng âm lịch thiếu, đủ khác với lịch cũ. Sự khác nhau đó đưa đến kết quả là, so với lịch cũ, ngày Tết Mậu Thân (1968) và Kỷ Dậu (1969) sớm hơn một ngày. Ngày Tết Ất Sửu (1985), sớm hơn một tháng…”(5)
Đổi âm lịch vì lý do chánh trị và quân sự là một việc đặc biệt (sẽ có bài viết sau), nhưng sau đó vẫn giữ âm lịch nầy đến nỗi “Ngày Tết Ất Sửu (1985), sớm hơn một tháng”, làm hại cho dân chúng trong nước không ít. Nông dân Việt Nam không được hướng dẫn thời tiết như các nước tiến bộ, nên thường căn cứ trên âm lịch để gieo trồng, cày cấy. Âm lịch năm 1985 lệch đi một tháng làm cho nông dân rất lúng túng. Sự thay đổi thời tiết trong năm đó rõ ràng không tương ứng với âm lịch do nhà nước ban hành.
Việc nầy thấy rõ trong các đồn điền (nông trường) cao su ở miền Nam năm 1985. Hằng năm, công nhân đồn điền cao su nghỉ Tết âm lịch một tháng. Có hai lý do chánh: Thứ nhất, công nhân cao su thường là dân tứ xứ, từ các nơi khác đến làm ăn. Nghỉ một tháng để cho công nhân có thời giờ về thăm gia đình, quê nhà ở xa. Thứ hai, năm nào cũng vậy, mùa Tết là mùa rụng lá cao-su. Khi cây cây cao-su rụng lá, chồi non bắt đầu nhú ra và lớn dần. Lúc đó, cây cao su rất yếu, cần nghỉ ngơi, nên không cạo mủ được. Vì vậy cần phải nghỉ một tháng để cây cao-su mạnh trở lại mới cạo mủ. Riêng năm 1985, sau khi nghỉ Tết một tháng (không lương), công nhân trở về lại sở làm, thì cây cao-su mới bắt đầu rụng lá, nghĩa là âm lịch năm nầy không phù hợp với sự thay đổi của thời tiết thiên nhiên, và Tết được tính sai khoảng một tháng. Công nhân phải nghỉ thêm một tháng (không lương) nữa. Đã nghèo đói lại càng nghèo đói thêm, vì lịch nhà nước tính sai. Điều nầy không phải chỉ là kinh nghiệm của một vài rẫy (đồn điền) cao su, mà cứ về Long Khánh, Bà Rịa hỏi toàn thể các rẫy cao-su thì sẽ được kể rõ hơn. Năm đó, người Việt hải ngọai chỉ chú trọng đến việc công an nhân dân bắt bớ những người vui Tết trễ một tháng ở thành phố, nhất là ở Chợ Lớn, nên ít chú ý đến đời sống ở các đồn điền xa thành phố.
Tóm lại, “ Điểm sóc tính cho Mồng Một Tết là 16 giờ 15 phút 23 giây (giờ GMT), nếu cộng thêm bảy giờ (múi giờ Việt Nam) là 23 giờ 15 phút 23 giây” là chuyện không có gì bàn cãi, nhưng vì lấy giờ “dương lịch” (23 giờ 15 phút 23 giây) để gán vào ngày âm lịch (Mồng Một Tết) nên những nhà lịch pháp nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã cho rằng 23 giờ 15 phút 23 giây, vẫn còn thuộc vào ngày 17/2/2007 (tương đương ngày nhâm ngọ), chứ không phải là giờ tý ngày quý mùi (tương đương ngày 18/2/2007).
Sự giải thích nầy của ban Lịch nhà nước thuộc Viện Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam đưa đến việc năm nay lịch trong và lịch ngoài nước khác biệt một ngày, thì cũng ít tai hại. Tuy nhiên, nếu tiếp tục với lối tính toán nầy, theo chu kỳ tuần hoàn, đến một lúc nào đó sự sai biệt sẽ đưa đến việc sai biệt một tháng so với thời tiết thiên nhiên như năm 1985, thì nhà nước cộng sản thời WTO có lẽ nên xét lại thật kỹ cho bà con nông dân trong nước đỡ khổ, tránh tái diễn cảnh năm 1985. Nên nhớ rằng hiện nay, nông dân vẫn còn chiếm khoảng 70% dân số hoạt động ở Việt Nam, và vẫn còn lạc hậu, thiếu thông tin khí tượng để lo việc điền trang, nên vẫn cần phải nhờ vào âm lịch để làm việc.
Toronto, 5/1/2007
------------ --------- --------- --------- --------- --------- --------- --------- -----
(1) Hoàng Xuân Hãn, “Lịch và lịch Việt Nam”, đăng trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập 1, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tt. 860, 874.
(2) Hoàng Xuân Hãn, sđd. tr. 861. Câu “…có hai nửa giờ tý không liên tục…” do người viết in đậm.
(3) Vân Đàng Thái Thứ Lang, Tử vi đẩu số tân biên, Sài Gòn: Tín Đức Thư Xã, 1957, tr. 10.
(4) Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử, Tử vi ảo bí, Sài Gòn, 1972, tr. 12.
(5)Nha Khí Tượng Việt Nam, Lịch thế kỷ XX (1901-2000), Hà Nội: Nxb. Văn Hóa, 1982. “Lời giới thiệu của Nha Khí Tượng”, không ghi số trang.



__._,_.___
Back to top
« Last Edit: 25. Jan 2007 , 12:43 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
hanlenhan
Full Member
***
Offline



Posts: 127
Gender: male
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #7 - 26. Jan 2007 , 00:42
 
Đặng-Mỹ wrote on 24. Jan 2007 , 06:53:
Anh Hàn Lệ Nhân ơi ,

Thế mà My nghe chị Miên Thuỵ nói bi bão bên Hoà Lan , nên My hỏi thăm chị Miên Thuỵ bên Pháp của anh có bão không, mà lâu không thấy anh.  Wink
Bây giờ còn anh Sơn bên Algerie nữa , anh có  liên lạc gì với anh Sơn không anh?  Wink


Chào chị Mỹ,

Bởi mới có Internet lại nên chưa được tin tức gì về cô gà MT cũng như cụ Sơn bên Algérie. Từ ngày cụ toá hoả tam tinh bỏ Paris về bên nớ, e chưa hoàn hồn nên im hơi, lơ là chuyện viết tiếp Lưu Đày/Tự Do chi chi đó.

Ờ, xin hỏi: tận bên ni mà muốn ủng hộ cụ thể Đặc San LVD thì phải mần răng, Paypall được không, chị chỉ cho cách thức, cám ơn trước. Thăm chị và gia quyến, HLN.

Chào anh LS,

Cám ơn anh đã đưa bài về hai ngày 17-18/02-07 của TGP, tuy chính anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của Hàn tui. Thân, HLN.
Back to top
 

Đối thoại giữa chúng ta là đối thoại không chân dung, nghĩa là khiếm diện nhưng nhất định không khiếm nhã.
 
IP Logged
 
mien_thuy
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 1272
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #8 - 26. Jan 2007 , 13:05
 
hanlenhan wrote on 26. Jan 2007 , 00:42:
Chào chị Mỹ,

Bởi mới có Internet lại nên chưa được tin tức gì về cô gà MT cũng như cụ Sơn bên Algérie. Từ ngày cụ toá hoả tam tinh bỏ Paris về bên nớ, e chưa hoàn hồn nên im hơi, lơ là chuyện viết tiếp Lưu Đày/Tự Do chi chi đó.




Anh Hàn ơi, tưởng đâu anh cũng trốn tuyết như mọi người chớ, ai dè  đường dây ADSL bên anh bị trục trặc , lúc trước MT cũng xài hệ thống này đay, sau đổi lại Tiscali cho đỡ tốn tiền điện thoại gọi riêng, nhưng khổ là hể Internet  down là  điện thoại nhà cũng hết liên lạc được luôn . Hoà lan cũng gần 10 ngày trong tình trạng  mưa bão nên lúc có NET lúc thì Không, mới vừa mấy hôm nay trời đẹp lại thôi đó

Riêng Anh Sơn, Gà cũng đoán là tâm trạng anh ấy chán nản chuyện xui xảy ra vừa qua, mà cũng hỏng chừng không có máy riêng cho nên sự ra  vào cỗng Lê văn Duyệt sẽ không dễ dàng như trước nữa

Mà anh Hàn này , năm nay bên Pháp có tổ chức tết Nguyên Đán mình  không vậy anh ?

MT

Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #9 - 26. Jan 2007 , 14:43
 
mien_thuy wrote on 26. Jan 2007 , 13:05:
Anh Hàn ơi, tưởng đâu anh cũng trốn tuyết như mọi người chớ, ai dè  đường dây ADSL bên anh bị trục trặc , lúc trước MT cũng xài hệ thống này đay, sau đổi lại Tiscali cho đỡ tốn tiền điện thoại gọi riêng, nhưng khổ là hể Internet  down là  điện thoại nhà cũng hết liên lạc được luôn . Hoà lan cũng gần 10 ngày trong tình trạng  mưa bão nên lúc có NET lúc thì Không, mới vừa mấy hôm nay trời đẹp lại thôi đó

Riêng Anh Sơn, Gà cũng đoán là tâm trạng anh ấy chán nản chuyện xui xảy ra vừa qua, mà cũng hỏng chừng không có máy riêng cho nên sự ra  vào cỗng Lê văn Duyệt sẽ không dễ dàng như trước nữa

Mà anh Hàn này , năm nay bên Pháp có tổ chức tết Nguyên Đán mình  không vậy anh ?

MT




Miên Thuy ơi ,

Mấy hôm nay trời bên Hòa Lan đẹp rồi hỉ  Wink , mong cho cứ đẹp mãi để ăn Tết cho vui vẻ ha Miên Thuỵ.  Wink Có hình ảnh gì Miên Thuỵ nhớ cho cả nhà xem với nha  Cheesy
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #10 - 28. Jan 2007 , 00:22
 
hanlenhan wrote on 26. Jan 2007 , 00:42:
Chào chị Mỹ,

Bởi mới có Internet lại nên chưa được tin tức gì về cô gà MT cũng như cụ Sơn bên Algérie. Từ ngày cụ toá hoả tam tinh bỏ Paris về bên nớ, e chưa hoàn hồn nên im hơi, lơ là chuyện viết tiếp Lưu Đày/Tự Do chi chi đó.

Ờ, xin hỏi: tận bên ni mà muốn ủng hộ cụ thể Đặc San LVD thì phải mần răng, Paypall được không, chị chỉ cho cách thức, cám ơn trước. Thăm chị và gia quyến, HLN.

Chào anh LS,

Cám ơn anh đã đưa bài về hai ngày 17-18/02-07 của TGP, tuy chính anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của Hàn tui. Thân, HLN.
 , Khi anh xem được bài viết nói trên, thì anh nên hiểu ngầm rằng đây là thông điệp ngắn, mình vốn thích trường phái cổ điển,nên đôi khi củng có lối hành sự như thế,  
à chuyện anh hỏi về ngày giờ đón giao thừa , thì, tuỳ ý thích cuả anh,
Back to top
« Last Edit: 28. Jan 2007 , 00:24 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #11 - 28. Jan 2007 , 00:31
 
mien_thuy wrote on 26. Jan 2007 , 13:05:
Anh Hàn ơi, tưởng đâu anh cũng trốn tuyết như mọi người chớ, ai dè  đường dây ADSL bên anh bị trục trặc , lúc trước MT cũng xài hệ thống này đay, sau đổi lại Tiscali cho đỡ tốn tiền điện thoại gọi riêng, nhưng khổ là hể Internet  down là  điện thoại nhà cũng hết liên lạc được luôn . Hoà lan cũng gần 10 ngày trong tình trạng  mưa bão nên lúc có NET lúc thì Không, mới vừa mấy hôm nay trời đẹp lại thôi đó

Riêng Anh Sơn, Gà cũng đoán là tâm trạng anh ấy chán nản chuyện xui xảy ra vừa qua, mà cũng hỏng chừng không có máy riêng cho nên sự ra  vào cỗng Lê văn Duyệt sẽ không dễ dàng như trước nữa

Mà anh Hàn này , năm nay bên Pháp có tổ chức tết Nguyên Đán mình  không vậy anh ?

MT

Chị Miên thuỵ thân,
  Hằng năm mình củng như mọi người và mọi nhà, đều đón giao thưà vào đúng giờ Tý canh 3; còn bà con vẩn có tổ chức đón tết trong phạm vị các Hội Đoàn,vùng mình ở, đã chuẩn bị tiệc Tân niên , như thường lệ, Anh Hội Trưởng sẻ mặc bộ Quốc Phục,và sẻ có đôi lời chúc tết Đồng bào đồng hương, sau đó, bà con sẻ cùng dùng chung bưả cơm Làng xả, củng có Thịt Kho dưa giá, nồi thịt kho truyền thống ,dùng cho khoảng Trăm người ăn, sẻ do bà Nội Tướng nhà mình đảm nhận,chúc mừng năm mới chị nghe, sẻ gửi lên diển đàn hình ảnh Lể Đón mừng Tết Nguyên Đán năm Đinh Hợi 2007 nếu có  
Back to top
« Last Edit: 28. Jan 2007 , 00:32 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11596
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #12 - 28. Jan 2007 , 05:05
 
Quote:
Chị Miên thuỵ thân,
 Hằng năm mình củng như mọi người và mọi nhà, đều đón giao thưà vào đúng giờ Tý canh 3; còn bà con vẩn có tổ chức đón tết trong phạm vị các Hội Đoàn,vùng mình ở, đã chuẩn bị tiệc Tân niên , như thường lệ, Anh Hội Trưởng sẻ mặc bộ Quốc Phục,và sẻ có đôi lời chúc tết Đồng bào đồng hương, sau đó, bà con sẻ cùng dùng chung bưả cơm Làng xả, củng có Thịt Kho dưa giá, nồi thịt kho truyền thống ,dùng cho khoảng Trăm người ăn, sẻ do bà Nội Tướng nhà mình đảm nhận,chúc mừng năm mới chị nghe, sẻ gửi lên diển đàn hình ảnh Lể Đón mừng Tết Nguyên Đán năm Đinh Hợi 2007 nếu có  


Hoan hô anh Lam Sơn, nhưng mà anh đừng hẹn "nếu có", nghe sao hơi giống giống ANh VSN nói chữ "mai mốt" mà chờ hoài hỏng thấy  Tongue  Tongue. Anh nhớ mang theo máy hình và chụp nhiều nhiều hình cho các anh chị em ở xa được nhìn cảnh CĐVN ở Paris đón tết nha anh  8)  8)

Back to top
 

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #13 - 28. Jan 2007 , 05:28
 
Quote:
Hoan hô anh Lam Sơn, nhưng mà anh đừng hẹn "nếu có", nghe sao hơi giống giống ANh VSN nói chữ "mai mốt" mà chờ hoài hỏng thấy  :P  :P. Anh nhớ mang theo máy hình và chụp nhiều nhiều hình cho các anh chị em ở xa được nhìn cảnh CĐVN ở Paris đón tết nha anh  8)  8)

, chị đậu Đỏ ơi, đó là nguyên tắc khi viết thư hoặc nói gì với ai đó, không bao giờ chúng ta nên nói kiểu BA BÓ MỘT GIẠ , nên nói phân hai, cho chắc ăn, nếu có thì càng tốt, nếu không thì củng chẵng sao?? Phải vậy không thưa chị
Back to top
« Last Edit: 28. Jan 2007 , 05:29 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Dau Do
Gold Member
*****
Offline


Quân Sư

Posts: 11596
Thành Phố Phượng Hoàng
Gender: female
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #14 - 28. Jan 2007 , 13:34
 

Grin  Grin
Cám ơn anh Lam Sơn chỉ cho nghệ thuật nói chuyện huề vốn nha! Môn này thì Đ Đ còn phải xin  thọ giáo anh và anh Sơn dài dài  Tongue

Back to top
 

Triệu người quen, có mấy người thương
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra