Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - TẾT  NGUYÊN  ĐÁN  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra
TẾT  NGUYÊN  ĐÁN (Read 2314 times)
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #15 - 28. Jan 2007 , 18:48
 
Chị Đậu Đỏ thân mến,
Thực ra không phải đây là lối nói chuyện huề vốn, mà chính thực là ngôn ngử ngoại giao , hay còn được gọi là : lời nói không mất tiền mua mà lị
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #16 - 29. Jan 2007 , 04:21
 
hanlenhan wrote on 26. Jan 2007 , 00:42:
Chào chị Mỹ,

Bởi mới có Internet lại nên chưa được tin tức gì về cô gà MT cũng như cụ Sơn bên Algérie. Từ ngày cụ toá hoả tam tinh bỏ Paris về bên nớ, e chưa hoàn hồn nên im hơi, lơ là chuyện viết tiếp Lưu Đày/Tự Do chi chi đó.

Ờ, xin hỏi: tận bên ni mà muốn ủng hộ cụ thể Đặc San LVD thì phải mần răng, Paypall được không, chị chỉ cho cách thức, cám ơn trước. Thăm chị và gia quyến, HLN.


Anh Hàn Lệ Nhân ơi ,
Sau tết tây khi về lại Algérie  anh Sơn có vào d/d viết và  hẹn "mai mốt" , rồi bặt tin luôn tới nay ???.  My đang định email hỏi thăm nhưng lại nghĩ nếu anh Sơn không vào net đuợc thì cũng đâu có xem mail  được  Undecided Anh có số phôn không ạ?  nhờ anh phôn hỏi thăm thử xem sao nha anh.  Wink
My có hỏi thăm về dặc san thì bên Cali cho biết đặc san chưa in xong nữa. My cám ơn anh đã nghĩ đến việc ủng hộ tài chính cho đặc san. My sẽ hỏi rõ ràng về việc gửi tiền ra sao  rồi trả lời anh sau nhé  Wink
Back to top
« Last Edit: 29. Jan 2007 , 04:25 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #17 - 08. Feb 2007 , 16:44
 
Kể Chuyện Làng Quê
Hòa Đa
Kính tặng anh Nguyễn Nam Trân
Tôi sinh ra ở một xóm nhỏ ngay cạnh tỉnh lỵ Phan Rang nhưng đến năm ba tuổi gia đình chuyển về sinh sống ở một làng nhỏ phía bắc Bình Thuận, tôi lớn lên ở đó. Làng tôi nằm trên quốc lộ 1 xuyên Việt trên một giải đồng bằng hẹp. Tuổi thơ chỉ gồm những trưa hè gánh nước trên những con đường ngoằn nghèo quanh xóm đầy cát lún, hay cùng đám bạn đồng lứa nô đùa, la hét trong dòng sông. Con sông Lũy chảy song song với quốc lộ, cạn nước gần như sát đáy vào mùa khô và hung dữ tràn bờ cuốn phăng những gì nó gặp trên đường đi vào mùa nước đổ... Xa xa là những chỏm núi đá cuối cùng của dãy Trường Sơn, đứng cô độc giữa bình nguyên chật hẹp, không có vẻ gì là hùng vĩ của núi non. Khí hậu khắc nghiệt, chỉ gồm hai mùa mưa nắng. Quận lỵ nằm cạnh đó với tất cả những cơ ngơi của các văn phòng hánh chánh, bưu điện, nhà thương... Nhưng cái gì cũng mang vẻ nghèo nàn, xốc xếch.
Dân làng, hầu hết sông bằng nghề ruộng rẫy, hay buôn bán nhỏ, căn bản dựa vào nông sản tại chỗ và hải sản từ một thị trấn cạnh bờ biển gần đó, Phan Rí Cửa. Người lớn ai cũng đầy vẻ khắc khổ vì phải tranh sống. Giải trí vui chơi, có họa chăng là các ngày lễ Tết, hay năm khi mười họa mới có một gánh cải lương lưu diễn tập tuồng, ghé lại thị trấn; rồi cũng không nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của cư dân trong làng, vài hôm sau lại lẳng lặng dọn đi, trả lại cho dân làng cái quạnh quẻ cố hữu. Cũng thỉnh thoảng có vài nhóm bán dạo, kiểu sơn đông mãi võ, vừa bán hàng vừa phụ diễn văn nghệ hay ảo thuật, cái này thì hấp dẫn bọn con nít chúng tôi hơn người lớn, nên cũng chỉ được vài hôm... Dạng giải trí thường gặp nhất là những buổi chiếu phim ngoài trời do phòng thông tin quận tổ chức mà bao giờ cũng bắt đầu bằng lễ chào quốc kỳ và suy tôn Ngô tổng thống. Tôi không nhớ người lớn giải trí một cách đông đảo bằng cách nào, có lẽ cuộc vui thu hút được bà con nhiều nhất la cái máy hát quay tay. Những buổi tối có trăng, gần như cả xóm tụ tập ở sân sau nhà chú Ba, cách nhà tôi một căn, nghe say sưa mấy tuồng cải lương thu trên dĩa đá. Kim chạy dĩa là loại kim sắt, mỗi mặt dĩa thay một kim, kim cũ cũng được cất lại phòng hờ. Tuồng hát cũ mèm mà vẫn được chiếu cố, vở tuồng được yêu cầu cho nghe nhiều nhất mà tôi còn nhớ là tuồng San Hậu, Tô Ánh Nguyệt...
Cuộc sống quá cơ cực làm người lớn không có hứng thú gì trong việc giải trí. Có chăng là vào dịp Tết, họ quần năm tụm bảy sát phạt nhau. Người bình dân thì chơi bầu cua cá cọp, sóc dĩa, bài cào... các bà thì rủ nhau gầy sòng tứ sắc. Có "văn hóa" hơn một chút là các ông tụ nhau đổ tam hường, giựt trạng em, trạng anh. Theo lời người lớn kể lại thì cuộc chơi bình dân được quần chúng tham gia nhiệt tình trong các ngày Tết là các sòng bài chòi, ở đó có trống có mõ, có hò có ca... Bài chòi phát xuất từ vùng Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Các chòi chơi cất trên một bãi đất trống, thường được dựng khá chắc chắn để chơi trong ba ngày Tết. Người có tiền thì lên chòi ngồi chơi, người không tiền thì đứng vây quanh nghe hò bài chòi và bàn luận... chỉ tiếc là cách chơi phức tạp và chỉ hấp dẫn khi những người hò bài chòi có giọng tốt và sáng tạo, nên dần dần cũng mai một, không có sức sống như các điệu hát chèo, quan họ ở ngoài Bắc, hay điệu vọng cổ, các điệu ca trong cải lương ở miền Nam. Một cuộc chơi khác, tương đối cũng hấp dẫn giới bình dân là chơi lô-tô (giống như "bingo" ở Mỹ), trò chơi này cũng tùy thuộc vào người hô. Họ đọc có câu có kệ, nghe có vần có diệu. Người chơi trước thỏa máu đỏ đen, sau có vài phút giải trí dễ dãi:
Tôi xóc tôi móc, con cờ bằng cây, con gì nó ra đây?
-Nước chảy bon bon, dắt mẹ bồng con, lên non hái trái, cảm thương nàng, phận gái mồ côi, số một (1) ôi, là con số một.
-Chị bảy ăn trầu bô bô, cái miệng thì xỉa thuốc, việc làm trật vuột, làm biếng làm nhác, tối thì coi hát, sáng ngủ dậy cho trưa, đổ thừa cho con bú, cái mặt sù sụ, cái đầu chôm bôm, xuống bếp lục cơm, lên giàn bốc cá, chồng thấy chồng đánh, đâm đầu nhảy sải, con bảy mươi bảy (77) là con bảy mươi bảy, con gì nó tiếp theo?....
Người lớn ai cũng phải làm lụng vô cùng cực nhọc. Đất thiếu màu mỡ, nhiều cát, nên ruộng không có năng suất cao, hơn nữa vì gần biển nên nước sông bị nhiễm mặn gần như quanh năm, ruộng chỉ nhờ vào nguồn nước mưa. Năm nào mưa thuận thì còn đỡ, năm nào hạn hán hay mưa bão dầm dề thì trăm đường cơ cực. Hoa màu phụ cũng là một nguồn lợi tức quan trọng cho người sản xuất lẫn người bán lẻ. Những rẫy hoa màu nằm phần lớn bên kia sông, bên động cát, loại cát có pha đất thịt, nơi có nhiều mạch nước ngọt để tưới, người dân tận dụng từng vạt đất nhỏ để trồng, mùa nào thức đó. Hoa lợi thu được đem tiêu thụ ở chợ. Một nghề chính, nhưng chỉ sinh hoạt trong mùa nắng, là tráng bánh. Có cả nguyên một xóm chuyên nghề này được gọi là Xóm Bánh Tráng. Vào trong xóm vào mùa tráng bánh, ở đâu người ta cũng gặp những vĩ tre phơi bánh, không phải là loại bánh nhỏ, mà là những bánh lớn, có đường kính chừng 40 -50 cm, mỏng có, dày có; loại bánh dày rắc đầy mè, nướng trên than hồng, nở ra, cong vòng, vàng lườm và thơm phức, ăn với mắm ruốc giầm ớt cho thiệt cay là hết sẩy... Tất nhiên, bánh làm ra không thể tiêu thụ hết ở địa phương, họ bán cho những mối thu mua chở đi bán ở Phan Thiết hay Sài Gòn. Sự giao lưu về hàng hóa lúc bấy giờ dựa vào đường xe lửa xuyên Việt. Ga Sông Mao nằm về phía tây nam quận lỵ và cách đó chừng 10 km.
Vùng quê tôi không có những đồi cát hùng vĩ như Mũi Né, nơi đã có diễm phúc được ghi vào ống kính của các nhiếp ảnh gia tên tuổi, nhưng quê tôi cũng có những vùng toàn là cát, loại cát mủn, màu ngà ngà vì lẫn quá nhiều thứ rác bẩn. Người dân ai cũng biết gánh, đòn gánh không phải làm bằng tre như ở miền Nam mà làm bằng gỗ một loại cây rừng có tên là cây sò đo, có khắc mấu ở hai đầu. So với tre, đòn gánh sò đo dẻo và chịu được trọng lượng ở hai đầu rất lớn, lên đến 60 - 70 kg. Đòn gánh loại này thông dụng ở vùng Phan Rí, Phan Thiết, Bình Tuy. Có thể nói không ngoa là người dân vùng này lớn lên với cây đòn gánh trên vai. Từ Phan Rang trở ra, đòn gánh được làm bằng tre, giống như trong Nam, hoặc bằng cây săng có hai mấu sắt ở hai đầu. Ở Phan Rang có câu hát:
...
Đòn gánh kia có gảy thì còn chờ mụt măng,
Em có chồng, như cá vào đăng,
Ra vô không có đặng, nói năng uổng lời.
Tuy cuộc sống có vẻ cực khổ như vậy, trẻ con chúng tôi đứa nào cũng được đi học. Tôi không nhớ có đứa nào trong khoảng tuổi tôi mà không được cho đi học. Trải dài theo quốc lộ 1 non ba cây số, nhà cửa dân chúng phần lớn tập trung ở hai bên con lộ chính này, chia thành ba làng, sâu hơn vào phía trong là một làng của người Chàm, làng Hậu Quách, họ sống riêng biệt với gia súc của họ trong một ngôi làng có tre, me keo và xương rồng rào kín chung quanh, sống bằng nghề nông và chăn nuôi. Tuy vậy, họ không hoàn toàn cô lập với người Việt quanh đó, họ cũng đến chợ mua bán, giao dịch. Họ đi chợ bằng xe bò hay đi bộ với hàng hóa trong thúng đội trên đầu. Tuy văn hóa và tín ngưỡng khác nhau, nhưng người Chàm và người Việt sống với nhau rất hòa thuận, không có những mâu thuẫn đi đến xô xát với nhau như giữa người Việt và người Miên thỉnh thoảng vẫn xảy ra ở Nam Bộ.
Quận lỵ Hòa Đa đóng trên địa bàn của làng giữa, làng Thoại Thủy và do đó trường tiểu học cũng nằm ở đó. Bây giờ tôi không còn nhớ rõ trường có bao nhiêu phòng học, nhưng là một cơ ngơi rộng rãi, vững chắc, xây gạch lợp ngói trên một nền cao ngang bụng, lót gạch tàu hay tráng xi măng. Năm tôi học lớp Nhất (lớp năm bây giờ) trường đã có hai lớp Nhất A và Nhất B, với sĩ số mỗi lớp chừng 30- 40 học sinh, mà số nữ sinh trong lớp không ít. Tính ra số học sinh học hết tiểu học lúc đó (1957) trong vùng không phải là nhỏ. Ngay cả người Chàm cũng gửi con em của họ đến trường học chung với trẻ em Việt Nam. Hiện tượng này cũng dễ giải thích: công việc không đủ cho người lớn, thì có đâu cho trẻ con. Để chúng lêu lổng ở nhà sao bằng cứ gửi chúng đến trường, chỉ tốn chút tiền sách vở, bút mực... may thì lớn lên có chút chữ nghĩa, kiếm được việc làm khá hơn, thoát khỏi cảnh khốn cùng, còn không thì ít ra cũng không lâm cảnh dốt nát. Uy tín của thầy giáo rất lớn, được phụ huynh kính nể và học sinh vâng lời. Dọa một đứa trẻ mà hăm mét với cha mẹ chúng, không có tác dụng bằng hăm mét với thầy giáo. Câu mắng "Thầy giáo mày không biết dạy ! " là một câu mắng rất nặng. Vào khoảng đó, trong làng có một ông Thầy, thường được gọi là thầy Năm De, mở một trường tư nhỏ (dạy tại nhà) đến lớp ba. Trò nào làm biếng không đến lớp, cha mẹ đánh đến cách mấy cũng không chịu đi, thầy cho học trò đến nhà cùng với một đoạn dây thừng và bảo : " Thầy kêu mày đi học kìa" thế là cậu líu ríu theo đến lớp, đủ biết uy của thầy giáo lớn đến mức nào! Thầy dạy theo phương pháp riêng, học chữ cái không theo thông lệ a, b, c mà thầy ghép chữ thành vần theo kiểu trong kháng chiến, dễ học, dễ nhớ : "i tờ (t) tờ i ti, i u mờ (m) mờ i mi... " Chì cần học với thầy chùng hai ba tuần là có thể nhận được đủ mặt chữ cái, ghép được vần xuôi. Cũng có đứa, vì hoàn cảnh gia đình, nghỉ học sớm, nhưng ít ra cũng đã biết đọc biết viết thành thạo, tỉ lệ thất học rất thấp. Ngay cả người lớn, số người hoàn toàn mù chữ chiếm một số rất nhỏ. Tôi biết chắc như thế, vì thỉnh thoảng chính quyền vẫn tổ chức những buổi "đón chợ, đố chữ" : học sinh chúng tôi được chia thành nhiều tốp, chăng dây chận hết các ngõ, ai muốn vào chợ phải đọc được một chữ do chúng tôi viết trên bảng đá... và tôi nhớ là không mấy người bị mời về vì không đọc được chữ. Trong làng, số người lớn có bằng "primaire" (bằng tiểu học thời Pháp) không phải là ít. Họ đọc và nói trôi chảy tiếng Pháp, tất nhiên chữ quốc ngữ họ cũng thành thạo. Họ là những người được dân trong làng kính nể, nhờ vả những khi cần làm đơn từ giao tiếp với chính quyền. Trong làng cũng có một ngôi chùa, tên chữ là gì tôi không biết, nhưng vẫn thường được gọi là chùa Phật Học. Chùa nằm trên một khoảng đất rất rộng, quay mặt ra đường lộ, sân sau chùa tiếp giáp với bờ sông, trong sân chùa còn nguyên cả những cây cổ thụ. Mấy vị sư trong chùa đọc được chữ Nho, coi được sách bằng chữ Hoa, viết về ngày tốt, tháng kỵ; tuổi khắc, tuổi hạp... là chỗ dựa cho dân làng vào những dịp ma chay, hiếu hỉ, động đất, cất nhà, khai trương, xuất hành... Cũng có hẳn một ngôi chùa của người Hoa, thờ bà Thiên Hậu, thường vẫn được gọi là chùa Bà, ở cách đó không xa. Ngày rằm, ngày vía thiện nam tín nữ, không phân biệt Việt, Hoa tấp nập viếng chùa, xin xâm, hương khói nghi ngút. Trong thị trấn cũng đã có một ngôi nhà thờ Thiên Chúa nhỏ và một nhà thờ Tin Lành. Sinh hoạt của các nhà thờ này tuy được chính quyền hổ trợ mạnh mẽ nhưng cũng chỉ giới hạn trong vòng giáo hữu còn rất khiêm nhường quanh đó, hầu hết là đồng bào di cư từ ngoài Bắc, hồi 54. Lúc nhỏ, tụi tôi sợ ông Cha ở nhà thờ, một phần vì chiếc áo chùng màu đen, phần khác vì tuổi nhỏ tụi tôi ưa phá phách, trửng giởn... ông Cha không thích. Đối với tụi tôi, Thầy ở Chùa có vẻ hiền hơn Cha ở Nhà Thờ.
Trước tôi vài năm, khoảng trước 1956 sau khi xong tiểu học, học sinh phải đi xa, hoặc về tỉnh lỵ Phan Thiết; hoặc vào Sài Gòn để học tiếp trung học. Đây là một trở ngại lớn cho những gia đình nghèo khó, nên có thể nói hơn 90% ngừng lại ở Tiểu học. Đi Phan Thiết còn đỡ, đi học ở Sài Gòn chẳng khác gì sau này người ta du học bên Pháp, tuy thủ tục không có gì khó khăn nhưng chỉ những nhà có tiền hay có thế lực mới có khả năng cho con đi học ở Sài Gòn. Chúng tôi may mắn hơn, một năm trước khi tôi lên trung học, một nhân sĩ trong vùng xin mở được một trường Trung Học Đệ Nhất Cấp, nằm trên địa bàn xã Phan Rí Cửa (xã trù phú và đông dân nhất của Quận). Thế là trẻ con trong vùng với một khoảng cách từ 10 đến 15 cây số có chỗ để học tiếp. Trường nằm trên một đồi cát, cạnh miếu thờ Cá Ông. (Người vùng biển kính cẩn thờ cá voi, họ gọi là cá Ông, vì họ tin rằng cá Ông giúp ngư dân khi gặp nạn ngoài biển khơi,. Khi cá Ông chết, tấp vào bãi, họ gọi là Ông lụy (chết), người đầu tiên gặp Ông lụy phải để tang, và cả xóm biển phải làm tang lễ cho Ông.) Trường có tên là Trung Học Bán Công Phan Rí Cửa. Không biết tại sao lại gọi là bán công, nhưng học sinh phải đóng tiền như trường tư. Có điều, ngôi trường ấy là trường trung học duy nhất của Tỉnh Bình Thuận không nằm trên địa bàn tỉnh lỵ, cho nên nó là niềm hãnh diện chung của dân chúng trong vùng bắc Bình Thuận. Trường dạy cho đến lớp Đệ Tứ (lớp 9). Ngoài Thầy Trương Minh Huệ mà người địa phương gọi thân mật là thầy Sáu Huệ, làm Hiệu Trưởng, còn những thầy giáo được mời từ nơi khác về. :Thầy Nguyễn Xuân Nhiên (Văn, Hội Họa, Nhạc) Thầy Trịnh Thế Trụ (Toán, Lý-Hóa, Vạn Vật) Thầy Đinh Tôn (Pháp Văn) Thầy Nguyễn đình Tín (Anh Văn)... Học sinh đi học, ngoài thứ hai chào cờ phải mặc đồng phục : quần trắng, áo trắng; còn thì tự do, nhưng phổ biến là bộ bà ba, sang thì màu trắng, hèn thì màu đen, quần này áo kia cũng không sao, áo vá cũng được, có tiền thì mang dép, không thì mang guốc vông, không có nữa thì chân không. Trường học từ sáng 8 giờ đến 11 giờ,đến chiều 1:30 đến 3:30, nên bọn học sinh ở xa trường phải đem cơm trưa theo. Cơm được bỏ trong gào mên (cà mèn) loại hai hay ba ngăn: ngăn lớn đựng cơm, ngăn nhỏ đồ ăn. Buổi trưa, quanh trường. chỗ nào cũng có những bếp lửa nhỏ do học sinh gầy để hâm đồ ăn. Cũng có đứa không có khả năng mang theo cơm và đồ ăn, buổi ăn trưa chỉ có vỏn vẹn vài nắm cơm và muối mè, hay miếng cá khô nướng trước. Cũng có những học sinh từ những xã cách trường xa quá (Chợ Lầu, Lương Sơn, Long Hương) thi ở lại luôn ở trường cho đến cuối tuần hay cuối tháng, tối ghép hai bàn học lại làm chỗ ngủ, sáng dọn lại trả cho lớp. Họ cũng mang theo cả mùng mền chiếu gối, hai ba người chung nhau nồi nấu cơm. Mấy thằng bạn ngoài Duồng thì lại khác, đứa nào cũng rách rưới thê thảm, mắt đứa nào cũng bị bét (toét) vì cát bụi. Duồng là một làng đánh cá nhỏ nằm giữa Phan Rí Cửa và Long Hương, nhưng nghèo xơ, nghèo xác, cả làng chỉ có chừng vài chục nóc gia, nhà cửa xiêu vẹo, lụp xụp... Đám bạn học ở Phan Rí Cửa gần trường thì khá hơn, thị trấn này giàu có nhất so với mấy xã khác, sống nhờ vào biển: đánh cá và làm nước mắm, các ngành nghề khác cũng phát triển khá hơn. Vào thời đó (60 -61) mà Phan Rí Cửa đã có điện, cây xăng, nhà máy nước đá, rạp hát... Nhà thằng Dũng, thằng Thạnh, bạn cùng lớp là nhà hàm hộ (làm nước mắm), trong nhà có cả bàn Ping-pong. Tụi nó con nhà giàu, học giỏi, lại đẹp trai... nhưng vì chỉ quanh quẩn chỉ có tụi tôi là đồng lứa nên cũng hòa đồng với nhau mà chơi, mà học, mà nghịch phá... không thấy có những phân biệt như ở những chỗ khác.
Tôi không biết lúc đó tiêu chuẩn học hành của các trường ở Sài Gòn hay các trường Tỉnh ra sao, nhưng quả thật ở Trung Học Bán Công Phan Rí Cửa ấy, chúng tôi được dạy kỹ, dù về sau, tôi biết những Thầy của chúng tôi lúc đó chỉ có trình độ Tú Tài I là cao. Sĩ số đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp hàng năm của trường rất cao. Ở trình độ đệ Tứ lúc bấy giờ mà chúng tôi phải dùng tiếng Pháp trong giờ Pháp Văn, tiếng Anh trong giờ Anh Văn dù là nói chậm và ngắn (lúc đó ở trường dạy cả hai sinh ngữ cùng một lúc, không phân biệt sinh ngữ chính hay sinh ngữ phụ như sau chương trình cải tổ 1961). Pháp Văn thì học bộ sách (từ đệ Thất đến đệ Tứ) của giáo sư Bùi Hữu Sủng, Anh Văn thì học bộ L'anglais Vivant, Edition bleue. Có điều là học sinh dù có anh đã 17, 18 tuổi, nhưng vẫn nghịch như quỉ, và sợ Thầy như sợ cọp. Một lần, một bọn học sinh trường kéo nhau sang vườn táo và đào gần đó phá phách, bị bắt được, mắng vốn; thầy phạt quì gối trước cửa lớp và chép phạt 200 câu"từ nay tôi không đi ăn trộm làm hại thanh danh nhà trường nữa", vậy mà không một ai oán hận. Một lần khác, trong giờ Pháp Văn, anh này ném cho anh kia một mẩu giấy vo tròn, bị thầy Tôn bắt được, mở ra thấy có hàng chữ : "nid bonze maison toi ", cả lớp, kể cả Thầy, không biết anh nói gì, hỏi mãi anh mới ấp úng nói: "thưa Thầy, con chưởi nó" - "chưởi cái gì?" - "thưa Thầy con chưởi  tổ sư nhà mày". Cả lớp được một trận cười. Trường nằm cạnh một phụ lưu của sông cái. Đường quốc lộ khúc trên, chỗ làng tôi, chạy song song với sông. Mỗi sáng đi học, chúng tôi thường nhìn mực nước ở sông cái, để quyết định có nên đi đường tắt, lội ngang sông nhỏ để lên trường, nếu được chúng tôi có thể lợi được gần nửa giờ, so với phải đi đường vòng. Khổ một điều, vì khúc sông này quá gần cửa biển, nên đôi khi thủy triều lên, nước ở khúc này lớn, có khi khi lút đầu, bọn con gái thường quay trở lại đi đường vòng, bọn con trai chúng tôi, lột hết quần áo cuộn lại, một tay cầm sách vở, một tay cầm quần áo và cơm trưa, đưa lên khỏi đầu, cứ trần truồng lội đứng bằng hai chân sang sông; qua bờ bên kia, chui ngay vào lùm mặc quần áo vô. Làng tôi ở cách xa trường khoảng 3 cây số, học sinh thường tụ họp chừng năm ba đứa đi cho có bạn. Tôi có biệt tài kể chuyện nên tụi bạn thường tụ họp ở nhà tôi để cùng đi. Từ Tây Du, Phi Long diễn nghĩa... đến Ngũ Hổ Bình Tây, La Thông Tảo Bắc... kể theo chuyện cũng có mà bịa thêm cũng có. Tôi không hiểu sao, bài học thì nhét vào đâu một cách khó khăn, mà chuyện đọc thì sao cứ vô cùng dễ dàng. Những Triệu Khuôn Dẫn, Trịnh Ân, Đào Tam Nương, Hàng Tố Mai... La Thành, Đơn Hùng Tín, Tần Thúc Bảo... Tôn Ngộ Không, Bát Giái, Ngưu Ma Vương... chỉ đọc lướt qua mà sao tôi nhớ giỏi thế, còn mấy bài học, ngồi mài cả buổi mà khi trả bài cho thầy cứ quên đầu, quên đuôi. Vừa đi , vừa kể chuyện, đường không còn thấy xa. Lúc chấm dứt, bao giờ tôi cũng lựa một chỗ ly kỳ, hấp dẫn (nếu cần thì bịa ra, tụi bạn đâu có biết) rồi bắt chước cách nói trong chuyện Tàu lúc đó "Muốn biết khúc sau thế nào, xin chờ ngày mai sẽ rõ" khiến tụi bạn không thể rời tôi được . Một trong những trò quỉ quái của bọn học trò con trai chúng tôi là xích (đu) xe ngựa. Phương tiện di chuyển công cộng của người bình dân là xe ngựa, hình dáng cũng như xe thổ mộ ở Sài Gòn, nhưng bánh xe nhỏ hơn. Người đánh xe lựa chỗ ngồi trên càng xe để tạo cân bằng, thành ra khi có một thằng nhóc đu trên bàn đạp, sự cân bằng sẽ mất ngay, và thằng nhóc sẽ lãnh một roi quất ngược về phía sau, rủi mà trúng dám rướm máu lắm. Bị đòn đau như vậy, nhưng mười thằng là đã hết chín thằng thích đu xe. Có lần bác Tư Nhường đánh xe ngựa mắng vốn má tôi " Cái thằng con chị, tui đâu có làm hiểm với nó, nó muốn thì đón xe, tui cho quá giang; lần nào cũng xích theo xe, có ngày té chết."
Cứ thế cho đến ngày tôi thi đậu được bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, thì gia đinh tôi dời về Phan Thiết. Xa trường, xa đám bạn nghịch ngợm, xa cả làng quê nghèo khổ...
Làm sao quên được những kỷ niệm của thời thơ ấu? Những đêm sáng trăng , bắt chước mấy gánh hát rong, tụ nhau trên nhà lồng chợ giả làm đào làm kép, đứa nào cũng muốn đóng vai chánh. Hô một tiếng "tam quân" là lũ nhóc con dạ ran, lũ nhóc này cũng là đám khán giả nhiệt tình của đám đào kép nửa mùa đó. Nhớ những lúc chơi, nhảy dây, u mọi... nhất là rượt bắt, trẻ con mỗi xóm là một phe, cũng có phục kích, dụ địch, bắt và giải cứu tù binh. Mà không biết sao, ở đó tụi tôi chơi nhiều trò có nguồn gốc khác nhau, từ Bắc (rồng rắn lên mây) Trung (Đúc hột đúc hạt...vùng Qui Nhơn, Phú Yên) đến cả những trò chơi xuất phát từ tôn giáo (Thiên đàng Địa Ngục...) . Cũng có cả trò chơi du nhập từ nước ngoài: trò đánh banh (quả banh nhỏ băng cao su) mà sau này tôi biết là đã nhái theo gần như y hệt môn thể thao base ball của Mỹ...
Đất nghèo quá, chỉ có cát và bụi, thì lấy gì để tạo ra của cải để làm giàu? Người dân quê tôi nghèo quá, chân và vai to bè va chai cứng vì phải gánh nặng và lội bộ trên cát nóng, nhưng họ vẫn hy sinh làm việc để gửi con cái họ đến trường. Họ quê mùa, dốt nát, nhưng họ muốn con cháu họ phải có đời sống khá hơn, không rơi vào con đường đau khổ mà họ đã trải. Họ sống đời tối tăm nhưng họ muốn con cháu họ sống trong tươi sáng. Ước mơ của họ, như bao bậc cha mẹ của những miền quê nghèo khó của miền Trung là làm sao họ đổi được đời, con họ đổi được đời... Họ đổi được đời chưa thì không biết nhưng ước mơ của họ về tương lai của con cháu thì có thể đã đạt được. Mà sao trong lòng thấy như có gì cay đắng. Làng quê tôi, cát bụi, nghèo đói vẫn còn nguyên bụi cát đói nghèo, những người con thành đạt cũng tìm những nơi khác để cống hiến. Có chăng chỉ là những tình cảm không làm nên cơm gạo cho phần đất nghèo nàn, cơ cực ấy.
Con sông Lũy vẫn khô cạn và mặn chát trong mùa nắng và vẫn cuồn cuộn hung hăng tràn bờ trong mùa mưa lũ. Và làng quê tôi không có cây đa cao vút từng xanh, có con sông lơ lững vờn quanh... cũng không có bao mái tranh san sát kề nhau, bóng tre ru ôm mấy hàng cau... Có chăng là những mái tranh lụp sụp, úp trên những vách đất được trét bằng bùn và rơm, những con đường quanh co trong xóm đầy cát lầm, cái thứ cát màu xam xám vì lẫn quá nhiều thứ, trong đó có cả mồ hôi của người dân quê tôi.
Hòa Đa 
Tháng 3/2001
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  TẾT  NGUYÊN  ĐÁN
Reply #18 - 11. Feb 2007 , 10:02
 
Mồng 1 Tết năm nay, ngày 17 hay 18 tháng 2, 2007?
Trần Gia Phụng
Năm Bính Tuất sắp hết. Năm Đinh Hợi gần tới. Dư luận người Việt trong và ngoài nước xôn xao, vì các lịch mới phát hành vào đầu năm 2007 trong và ngoài nước khác nhau ngày đầu năm Đinh Hợi. Theo lịch trong nước, ngày Mồng Một Tết năm nay là ngày 17/2/2007 so với dương lịch. Theo lịch ngoài nước, ngày Mồng Một Tết năm nay là ngày 18/2/2007. Câu hỏi đặt ra là tại sao có sự khác biệt nầy?
Trước hết, cần chú ý là bên cạnh dương lịch, tính theo chu kỳ vận chuyển của quả đất quanh mặt trời, truyền thống dân Việt chúng ta còn dùng âm lịch, tính theo chu kỳ chuyển động của mặt trăng quanh quả đất, trong một số việc gia đình, nông tang…Âm lịch mỗi năm có 24 tiết, mỗi tiết trung bình khoảng 15 ngày. Kinh nghiệm cho thấy âm lịch sai lệch khá nhiều so với thực tế diễn biến của thời tiết, nên người ta phải dùng dương lịch để điều chỉnh, và âm lịch ngày nay không còn là âm lịch thuần túy, mà là âm dương lịch với những tháng nhuận khác nhau tùy theo từng năm.
Trong dương lịch, mỗi ngày có 24 giờ. Trong âm lịch, mỗi ngày có 12 giờ. Người xưa lấy tên 10 thiên can và 12 địa chi ghép lại với nhau để đặt tên giờ. Mười thiên can là giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỹ, canh, tân, nhâm, quý; và 12 địa chi là tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Bội số chung của 10 thiên can và 12 địa chi là 60. Do đó, cứ sau 60 ngày, thì có một ngày mang đầy đủ thiên can và địa chi giống nhau tái hiện. (Ví dụ ngày 1 là ngày giáp tý, thì ngày thứ 61, thứ 121, 181… cũng là ngày giáp tý. Ngày 2 là ất sửu, thì ngày thứ 62, thứ 122, 182 … là ngày ất sửu. Cứ thế xoay vần cho đến hết 60 ngày, là hết một lục thập hoa giáp, rồi bắt đầu trở lại.) Đó là quy ước chung về việc dùng 10 thiên can và 12 địa chi để đặt tên giờ, ngày, và năm theo âm lịch.
Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, trong bài nghiên cứu về “Lịch và lịch Việt Nam”, thì một ngày bắt đầu từ “nửa đêm nầy đến nửa đêm sau”, và ngày sóc là ngày đầu tháng (mồng một), bắt đầu từ nửa đêm mang điểm “định sóc”.(1) Về vấn đề giờ tý là giờ đầu ngày, cũng trong bài nghiên cứu trên, và trong mục “Giờ và khắc”, giáo sư Hoàng Xuân Hãn thêm rằng: “Có điều lạ là trong một ngày, có hai nửa giờ tý không liên tục: một nửa sau đứng vào đầu ngày, một nửa trước ở cuối. Có lẽ vì sự ấy, các giờ cũ khác cũng được chia làm đôi: nửa giờ đầu xưng tính rằng sơ, nửa sau rằng chính…”(2)
Lý luận của giáo sư Hoàng Xuân Hãn có vài điểm cần phải xét lại:
1) Thứ nhất chữ “sơ”, trong mỗi giờ (sơ tý, sơ ngọ…) không nhất thiết bắt nguồn từ việc có hai nửa giờ tý, các giờ khác mới được chia hai như thế. Thông thường, người xưa (Trung Hoa và Việt) thường dùng chữ “sơ” để chỉ phần khởi đầu của một giai đọan, hay thời khắc nào đó: Thời sơ Nguyễn (đầu đời nhà Nguyễn), sơ tuần tháng giêng (vào đầu tháng giêng)…, nên đầu giờ là sơ, và sơ tý chỉ có nghĩa là đầu giờ tý chứ không nhất thiết là “nửa đầu giờ tý”.
2) Nếu dựa vào lối chia giờ trong ngày theo âm lịch, một ngày chia thành 12 giờ, mà nói theo giáo sư Hãn, “có hai nửa giờ tý không liên tục: một nửa sau (chính tý) đứng vào đầu ngày, một nửa trước (sơ tý) ở cuối ...”, thì từ xưa đến nay, chưa có sử sách nào ghi theo cách nầy cả. Ví dụ: từ 11 giờ đêm đến 12 giờ đêm là sơ tý, vậy từ 11 giờ đêm đến 12 giờ đêm ngày mồng 1 là sơ tý của ngày nào? Nếu là của ngày trước, tức của ngày mồng 1, thì vô lý vì sơ sao lại cuối ngày? Sử sách chưa bao giờ viết rằng giờ Tý đầu ngày, hay giờ Tý cuối ngày, bởi vì như thế thì người ta sửa lại cách chia và đặt tên giờ cho dễ gọi, chứ không ai gọi giờ Tý đầu ngày và giờ Tý cuối ngày cho rắc rối
3) Từ khi có dương lịch, mới có việc chia mỗi ngày thành 24 giờ, chứ trước đây, khi sáng chế ra âm lịch, và chưa có dương lịch, người xưa đâu có tính giờ theo số học, và giờ tý là giờ bắt đầu trong ngày, dù sơ tý hay chính tý, cũng đều nằm trong giờ tý.
Riêng về việc tính lịch năm nay, trên nhật báo Nhân Dân ngày 19/6/2006, ông Trịnh Tiến Điều, Trưởng ban Lịch nhà nước thuộc Viện Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam, đã trình bày về lý do tại sao lịch trong nước chọn ngày 17/2/2007 là ngày Mồng Một Tết như sau:
“Điểm sóc tính cho Mồng Một Tết là 16 giờ 15 phút 23 giây (giờ GMT), nếu cộng thêm bảy giờ (múi giờ Việt Nam) là 23 giờ 15 phút 23 giây, vẫn trong ngày, nên lịch Việt Nam ghi Mồng Một Tết âm ứng với 17 tháng 2 dương lịch là đúng. Nếu cộng tám giờ (múi giờ Bắc Kinh) thì sang ngày hôm sau, nên lịch Trung Quốc ghi Mồng Một Tết âm ứng với 18 tháng 2 dương lịch là đúng với âm lịch Trung Quốc. Ngày dương và ngày can chi vẫn như nhau.”
Lý luận theo ông Trịnh Tiến Điều, có điểm cần lưu ý: Đã tính ngày âm lịch, thì phải tính theo giờ âm lịch, chứ sao lại tính theo giờ dương lịch? Giờ âm lịch ở đây phải là giờ âm lịch Việt Nam. Nếu tính theo múi giờ 7 là múi giờ Hà Nội mà ông Trịnh Tiến Điều dùng, thì theo quy ước về âm lịch Việt Nam, giờ tý bắt đầu từ 11 giờ khuya (tức 23 giờ) đến 1 giờ sáng.(3) Nếu tính theo múi giờ 8 là múi giờ Bắc Kinh, thì giờ tý bắt đầu từ 12 giờ khuya (tức 0 giờ) đến 2 giờ sáng.(4)
Như thế, dù “Điểm sóc tính cho Mồng Một Tết là 16 giờ 15 phút 23 giây (giờ GMT), nếu cộng thêm bảy giờ (múi giờ Việt Nam) là 23 giờ 15 phút 23 giây” như lời ông Trịnh Tiến Điều, thì ở Việt Nam, dầu theo múi giờ 7 hay múi giờ 8, thì điểm sóc đã ra khỏi giờ hợi (cuối ngày) của ngày hôm trước, và rơi vào giờ tý (từ 11 giờ đến 1 giờ) đầu ngày của ngày hôm sau. Vậy dầu là múi giờ 7 hay múi giờ 8, đều là giờ tý của ngày Mồng Một Tết, mà tính theo dương lịch năm nay là ngày 18/2/2007.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm của những người làm lịch thời xưa, muốn biết Mồng Một Tết năm sắp tới là ngày nào, thì cứ lục lại lịch cũ, tìm ngày rằm tháng 2 cách 8 năm trước, thì biết ngày Mồng Một Tết năm đó. Kinh nghiệm nầy được truyền miệng qua các câu phú sau đây:
“Tiền bát chi niên nhị nguyệt trung (Tám năm trước, giữa tháng 2)
Hậu gia nguyên đán tiện tương đồng (Ngày nguyên đán (người) sau tương đồng (với ngày nầy))
Mỗi nguyệt thập ngũ vi sơ nhất (Thường tháng (đó) ngày 15 làm ngày mồng một)
Thiên niên vạn tải bất sai phùng.” (Hàng ngàn vạn năm không sai được.)
Tám năm trước của năm 2007 (đinh hợi) là năm 1999 (kỷ mão). Ngày rằm tháng 2 năm kỷ mão là ngày “quý mùi”. Xét trong tháng 2/2007, ngày “quý mùi” rơi vào ngày 18/2/2007 dương lịch, đúng như lịch ở hải ngoại, chứ không phải là ngày 17/2/2007 như lịch phát hành ở trong nước hiện nay.
Sự khác biệt về âm lịch năm nay bắt nguồn từ việc đổi âm lịch từ năm 1968 ở Bắc Việt. Theo những nhà làm lịch của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam năm 1967, khi đổi âm lịch năm 1968, các ông cho biết: “Cụ thể là, từ năm 1968 đến năm 2000 có tất cả 29 ngày tiết và 26 tháng âm lịch thiếu, đủ khác với lịch cũ. Sự khác nhau đó đưa đến kết quả là, so với lịch cũ, ngày Tết Mậu Thân (1968) và Kỷ Dậu (1969) sớm hơn một ngày. Ngày Tết Ất Sửu (1985), sớm hơn một tháng…”(5)
Đổi âm lịch vì lý do chánh trị và quân sự là một việc đặc biệt (sẽ có bài viết sau), nhưng sau đó vẫn giữ âm lịch nầy đến nỗi “Ngày Tết Ất Sửu (1985), sớm hơn một tháng”, làm hại cho dân chúng trong nước không ít. Nông dân Việt Nam không được hướng dẫn thời tiết như các nước tiến bộ, nên thường căn cứ trên âm lịch để gieo trồng, cày cấy. Âm lịch năm 1985 lệch đi một tháng làm cho nông dân rất lúng túng. Sự thay đổi thời tiết trong năm đó rõ ràng không tương ứng với âm lịch do nhà nước ban hành.
Việc nầy thấy rõ trong các đồn điền (nông trường) cao su ở miền Nam năm 1985. Hằng năm, công nhân đồn điền cao su nghỉ Tết âm lịch một tháng. Có hai lý do chánh: Thứ nhất, công nhân cao su thường là dân tứ xứ, từ các nơi khác đến làm ăn. Nghỉ một tháng để cho công nhân có thời giờ về thăm gia đình, quê nhà ở xa. Thứ hai, năm nào cũng vậy, mùa Tết là mùa rụng lá cao-su. Khi cây cây cao-su rụng lá, chồi non bắt đầu nhú ra và lớn dần. Lúc đó, cây cao su rất yếu, cần nghỉ ngơi, nên không cạo mủ được. Vì vậy cần phải nghỉ một tháng để cây cao-su mạnh trở lại mới cạo mủ. Riêng năm 1985, sau khi nghỉ Tết một tháng (không lương), công nhân trở về lại sở làm, thì cây cao-su mới bắt đầu rụng lá, nghĩa là âm lịch năm nầy không phù hợp với sự thay đổi của thời tiết thiên nhiên, và Tết được tính sai khoảng một tháng. Công nhân phải nghỉ thêm một tháng (không lương) nữa. Đã nghèo đói lại càng nghèo đói thêm, vì lịch nhà nước tính sai. Điều nầy không phải chỉ là kinh nghiệm của một vài rẫy (đồn điền) cao su, mà cứ về Long Khánh, Bà Rịa hỏi toàn thể các rẫy cao-su thì sẽ được kể rõ hơn. Năm đó, người Việt hải ngọai chỉ chú trọng đến việc công an nhân dân bắt bớ những người vui Tết trễ một tháng ở thành phố, nhất là ở Chợ Lớn, nên ít chú ý đến đời sống ở các đồn điền xa thành phố.
Tóm lại, “ Điểm sóc tính cho Mồng Một Tết là 16 giờ 15 phút 23 giây (giờ GMT), nếu cộng thêm bảy giờ (múi giờ Việt Nam) là 23 giờ 15 phút 23 giây” là chuyện không có gì bàn cãi, nhưng vì lấy giờ “dương lịch” (23 giờ 15 phút 23 giây) để gán vào ngày âm lịch (Mồng Một Tết) nên những nhà lịch pháp nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã cho rằng 23 giờ 15 phút 23 giây, vẫn còn thuộc vào ngày 17/2/2007 (tương đương ngày nhâm ngọ), chứ không phải là giờ tý ngày quý mùi (tương đương ngày 18/2/2007).
Sự giải thích nầy của ban Lịch nhà nước thuộc Viện Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam đưa đến việc năm nay lịch trong và lịch ngoài nước khác biệt một ngày, thì cũng ít tai hại. Tuy nhiên, nếu tiếp tục với lối tính toán nầy, theo chu kỳ tuần hoàn, đến một lúc nào đó sự sai biệt sẽ đưa đến việc sai biệt một tháng so với thời tiết thiên nhiên như năm 1985, thì nhà nước cộng sản thời WTO có lẽ nên xét lại thật kỹ cho bà con nông dân trong nước đỡ khổ, tránh tái diễn cảnh năm 1985. Nên nhớ rằng hiện nay, nông dân vẫn còn chiếm khoảng 70% dân số hoạt động ở Việt Nam, và vẫn còn lạc hậu, thiếu thông tin khí tượng để lo việc điền trang, nên vẫn cần phải nhờ vào âm lịch để làm việc.
Toronto, 5/1/2007
------------ --------- --------- --------- --------- --------- --------- --------- -----
(1) Hoàng Xuân Hãn, “Lịch và lịch Việt Nam”, đăng trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập 1, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tt. 860, 874.
(2) Hoàng Xuân Hãn, sđd. tr. 861. Câu “…có hai nửa giờ tý không liên tục…” do người viết in đậm.
(3) Vân Đàng Thái Thứ Lang, Tử vi đẩu số tân biên, Sài Gòn: Tín Đức Thư Xã, 1957, tr. 10.
(4) Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử, Tử vi ảo bí, Sài Gòn, 1972, tr. 12.
(5)Nha Khí Tượng Việt Nam, Lịch thế kỷ XX (1901-2000), Hà Nội: Nxb. Văn Hóa, 1982. “Lời giới thiệu của Nha Khí Tượng”, không ghi số trang.


Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra