Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Thơ Tình Khiếu Long  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 21 22 23 24 
Send Topic In ra
Thơ Tình Khiếu Long (Read 31443 times)
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #330 - 02. May 2007 , 17:31
 
...

Chiều Lạnh Lùng


Khi anh về nắng chập chùng màu nhớ
Chiều  lạnh lùng chất ngất  nỗi sầu riêng
Sân trường xưa vẫn xanh màu kỷ niệm
Em giờ đâu  ngày tháng cũ ngoan hiền

Ngôi trường xưa dưới hàng cây phượng vĩ
Lớp học chờ đàn bướm nhỏ về thăm
Anh như đi trên  nỗi buồn ngóng đợi
Những bước chân hờ hững rất âm thầm

Phương trời xưa mây mùa này rất lạ
Hình như  mây chuyên chở những niềm đau
Mắt lặng sầu ngày xa nhau  từ tạ
Em tình yêu  một thưở   giấc mơ đầu

Chiều hôm nay lạnh lùng trên  phố cũ
Tiếng ve buồn như báo hiệu mùa sang
Em về đâu não nùng mùa yêu cũ
Anh lăng căm lạc giữa tiếng ai đàn ....


Khieu Long


Back to top
« Last Edit: 02. May 2007 , 17:56 by khieulong »  
 
IP Logged
 
tieuvuvi
Gold Member
*****
Offline


Vũ Tuyết Như - Tiểu
Long Nhi-TiênDung

Posts: 4065
Bordeaux - france
Gender: female
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #331 - 02. May 2007 , 20:27
 
...


Đêm bơ vơ



Lang thang trên phố mưa buồn gợi nhớ
Mưa trút xuống đời  giọt lệ tình riêng
Lòng em rét mướt chìm trong hoài niệm
Nước mắt rơi cuốn trôi giấc mơ hiền

Làm sao em quên được nhành phượng vĩ
Một thuở hạ hồng rộn ràng ghé thăm
Xưa đắm đuối bên nhau niềm vui đợi
Giờ lặng lẽ mình em bước âm thầm

Hạnh phúc về nơi nao bên trời lạ
Một người đi, một người héo hắt đau
Tím môi sầu ướt đọng lời từ tạ
Xót xa nào hơn lỡ mối duyên đầu

Gửi lại anh vùng trời yêu thương cũ
Giữ lại trong em khúc giao mùa sang
Xa anh rồi, còn đâu hương tình cũ
Em nghẹn ngào ...gục khóc trên phím đàn



Tiểu Vũ Vi


Back to top
 

...
 
IP Logged
 
tieuvuvi
Gold Member
*****
Offline


Vũ Tuyết Như - Tiểu
Long Nhi-TiênDung

Posts: 4065
Bordeaux - france
Gender: female
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #332 - 03. May 2007 , 07:54
 
Save The Last Dance For Me



...


Give my love

Korean Version


...

My dream

Eugene


...

The Best

Eugene


...

Stay with me

Eugene



...


If not her then nothing

Eugene



...


Our Love Will Always Last 

OST


...


Back to top
 

...
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #333 - 03. May 2007 , 14:36
 
...

MƯA TÍM


Em lại đến chiều nay cơn mưa tím
Màu tím buồn như màu áo em yêu
Anh ngồi đây vùng trời buồn xa lạ
Hồn chìm sâu trong sắc tím yêu kiều

Những hạt mưa long lanh trời kỷ niệm
Ánh tím buồn lên đôi mắt sầu thương
Ngày tháng qua đời chúng mình vẫn vậy
Giấc mơ trôi trong nhung nhớ lạ thường

Cơn mưa tím bay trong chiều hiu quạnh
Hạt tím buồn ướt đẫm cuộc tình xanh
Chợt giữa khuya anh giật mình ngơ ngác
Em quay lưng hờ hững quá sao đành .


Khiếu Long


Back to top
 
 
IP Logged
 
tieuvuvi
Gold Member
*****
Offline


Vũ Tuyết Như - Tiểu
Long Nhi-TiênDung

Posts: 4065
Bordeaux - france
Gender: female
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #334 - 03. May 2007 , 14:40
 
...


Màu tím tương tư



Em dịu hiền  thật xinh tà áo  tím
Màu hoa soan lúng liếng cả trời yêu
Đôi mắt nai long lanh buồn chi lạ
Để lòng ai vương vấn dáng  yêu kiều

Từng giọt sương mang sắc màu kỷ niệm
Khúc tình sầu lắng đọng khúc sầu vương
Giòng nhạc rơi trên phím buồn khắc khoải
Tay lả lơi trên giấc mộng vô thường


Hoàng hôn tím biển loang  chiều cô quạnh
Cơn mưa tình  đẫm ướt hạt ngàn  xanh
Con dã tràng cô đơn hồn ngơ ngác
Nụ tương tư tím cả giấc mơ lành


Tiểu Vũ Vi
07/04/07
Back to top
« Last Edit: 04. May 2007 , 02:49 by tieuvuvi »  

...
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #335 - 04. May 2007 , 18:19
 
THẰNG BÉ ĐÁNH GIÀY NGƯỜI NGHĨA LỘ


Mấy ngày ngắn ngủi ở Sài Gòn, tôi thường đến ăn tối tại một quán ăn gần khách sạn tôi ở, đi bộ chừng năm phút, có tên Nhà Hàng Thanh Niên, nằm phía sau nhà thờ Đức Bà. Một nơi tương đối yên tĩnh, khu vườn lộ thiên nhỏ nhưng với những khóm trúc dễ thương, và nhất là được nghe lại những bản nhạc tình ca -kể cả tình lính- của miền Nam thuở trước.

Sài Gòn dường như không kịp thở vào những ngày cuối năm. Ngoài đường tấp nập xe cộ và trên vỉa hè cũng kín cả người. Tất cả đều hối hả ngược xuôi, làm như tất cả không còn đủ thời gian để kịp “đổi đời”. Tôi thấy mình lạc lõng trong cái không gian ấy. Tốt nhất là tìm một nơi vắng vẻ ngồi một mình để suy tư và hồi tưởng về Sài Gòn của một thời xưa cũ, mà bây giờ mơ hồ như chỉ còn trong cổ tích.

- Chào chú, cháu đánh giày cho chú nhé.

Tôi giật mình khi nghe một giọng rặt bắc kỳ, chưa kịp quay lại thì ba chú bé đã đến trước mặt tôi. Thằng bé nhất và cũng đứng gần tôi nhất nhìn tôi gật đầu chào:

- Sao chú ngồi một mình buồn thế ? Trông chú hơi lạ. Chắc chú là Việt Kiều mới về thăm quê ?

Tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao thằng bé biết mình là “Việt kiều”. Bởi tôi ăn mặc rất đơn giản. Có thể nói là đơn giản nhất so với những thực khách có mặt ở đây. Và mặc dù không ưa cái danh xưng “Việt kiều” này, nhưng thấy thằng bé lễ phép dễ thương, tôi giả tiếng bắc đùa:

- Chú ở nước ngoài về chứ không phải Việt Kiều. Thế ngoài ấy quê cháu ở đâu.

- Cháu ở tận Nghĩa Lộ - Yên Bái

Tôi nắm tay nó:

-   Thế hóa ra mình là đồng hương đấy. Chú cũng từng ở Nghĩa Lộ một thời gian lâu lắm.

Thằng bé tròn xoe đôi mắt:

-  Chú cứ đùa. Trông chú chẳng phải người quê cháu.

Tôi bèn kể một mạch về Nghĩa Lộ cho thằng bé nghe, từ con sông, con đường cho đến cái dốc Cổng Trời và cái thung lũng Hang Dơi nằm sâu trong vùng núi rừng cực bắc.

Thằng bé ngạc nhiên thích thú, nhưng đôi mắt cứ nhìn tôi không chớp. Tôi bật cười, vỗ vai thằng bé:

-  Xin lỗi cháu. Chú đùa cho vui. Đúng là chú từng ở Nghĩa Lộ gần năm năm. Nhưng mà chú bị tù cải tạo ngoài ấy.

Cả ba thằng bé cùng nhao lên:

-  À, đúng rồi, con đường ô tô từ dốc Cổng Trời về huyện, bây giờ người ta vẫn gọi là Đường Tù Cải Tạo. Vì nghe mấy ông bà cụ bảo do các chú trong Nam ra cải tạo đắp con đường ô tô ấy.

Ba thằng ở ba nơi khác nhau ngoài Yên Bái. Cả làng đang đói, nên rủ nhau bỏ quê vào miền Nam kiếm sống. Khởi nghiệp là đi xin, sau đó cũng chạy theo “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, ba thằng chung vốn làm ăn, kiểu công ty hợp doanh... Một thằng bán vé số, một thằng bán báo, còn thằng bé nhất đánh giày. Vậy mà cũng sống thoải mái (dù chỉ trên vỉa hè) lại còn dành dụm tiền gởi về cứu trợ gia đình. Thằng bé nhất đang nói chuyện với tôi quê ở Thôn Thượng Sơn, thuộc huyện Nghĩa Lộ. Một cái huyện miền núi nghèo xơ xác, có thể là một trong những nơi nghèo nhất nước, nằm cực bắc tỉnh Hoàng Liên Sơn ngày trước, cách thị xã Yên Bái khoảng một ngày đường. Và cũng là nơi đã từng nhốt nhiều tù cải tạo từ miền Nam chuyển ra, từ anh binh nhì TQLC bị bắt trận Hạ Lào, cho đến hơn ba mươi tướng lãnh, mà đa số đã không bỏ rơi đồng đội của mình vào giờ thứ hai mươi lăm.

Đã hơn ba mươi năm, và bây giờ đang ngồi giữa thủ đô Sài Gòn xưa, tôi cứ tưởng là mình đã quên rồi cái tên Nghĩa Lộ. Vậy mà hôm nay tôi có cảm giác như đang đứng giữa núi rừng Hoàng Liên Sơn, nhìn những thằng bạn tù - và thấy cả chính mình nữa - đang bị hành hạ, đói khổ khốn cùng.

-   Cháu đánh giày cho chú nhé. Cháu đánh để kỷ niệm, đề đền ơn chú đã từng đắp con đường ô tô cho quê cháu, chứ không phải xin tiền xin bạc gì chú đâu nhá.

Câu nói hơi dài của thằng bé làm tôi bật cười, trở về thực tại. Tôi cười bởi nghe thằng bé rất nhà quê này xài hai tiếng kỷ niệm, và nói năng ra điều nghĩa hiệp.

Mà có thể là nó nghĩa hiệp thiệt. Ngày xưa khi còn trong lính, sau mỗi lần hành quân về phố, tôi cũng từng quen, và đỡ đầu cho những em bé đánh giày. Tụi nó nghèo, ít học, nhưng biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, và chí nghĩa chí tình. Sau ngày ở tù về, trong lúc làm lơ xe, bất ngờ tôi gặp lại hai đứa đang làm bốc vác ở bến xe Tuy Hòa. Bây giờ là hai cậu thanh niên khỏe mạnh. Có điều sống dưới chánh quyền mới, “nhân dân làm chủ tập thể” nhưng hai thằng không có một mảnh đất cắm dùi, ngày làm ở bến xe, tối ngủ ở chợ. Nghề đánh giày cũng không còn. Không phải vì những thằng bé đánh giày giàu lên sau cuộc đổi đời, mà vì chẳng còn ai mang giày nữa để mà đánh. Vậy mà gặp lại tôi, hai đứa nhận ra, mừng rỡ như gặp lại người thân, vẫn một tiếng “anh Ba”, hai tiếng “anh Ba” như hơn mười năm truớc. Tôi tìm mọi cách từ chối, nhưng hai đứa bảo tôi nhất định phải nhậu với tụi nó một chầu, mừng cho cuộc trùng phùng này mới trọn nghĩa anh em. Khi chia tay, còn nhét vào túi tôi một mớ tiền nhăn nheo, bảo là gởi quà cho các cháu. Tôi thực sự cảm động trước lòng thủy chung cùa tụi nó, trong lúc có bao nhiêu thằng vốn học thức đầy mình, nhưng mới một sớm một chiều đã trở mặt phản thầy phản bạn chạy theo nịnh bợ những thằng “cách mạng 30”, mà mới hôm qua hôm kia còn khinh rẻ là đám lưu manh, xích lô xe kéo!

Anh tiếp thị của nhà hàng mang thức ăn đến và đuổi ba thằng bé ra khỏi quán. Tôi vui vẻ nói với anh là tôi mời ba cậu bé, rồi quay sang bảo ba đứa kéo ghế ra ngồi và gọi bất cứ thức ăn nào các cháu thích. Tất cả tròn mắt ngạc nhiên rón rén kéo ghế ngồi và mỗi đứa chỉ kêu một đĩa cơm chiên dương châu.

Điều đặc biệt làm tôi lưu tâm tới thằng bé nhỏ nhất bọn này, bởi quê nó ở thôn Thượng Sơn. Một làng quê xa nhất của cái huyện Nghĩa Lộ đèo heo hút gió. Vậy mà có lần tôi đã đến đó và ở lại đó gần cả một tuần. Môt tuần duy nhất được no, được vui và hạnh phúc trong tám năm tù tội.

Khi mới ra Bắc, tôi được “biên chế” về trại 3 Hang Dơi. Sau ba năm được chuyển về trại 6 Nghĩa Lộ, nằm cách trại 5 của mấy ông tướng mấy cái ao nuôi cá trám cỏ.

Sau một trận kiết lỵ, tôi chỉ còn da bọc lấy xương, đứng không vững thì còn sức ở đâu để mà biến “sỏi đá thành cơm”, nên được điều từ đội trồng trà sang đội “tăng gia”, tức là trồng rau, mà nhiều nhất là rau muống. Vào mùa đông, vùng Hoàng Liên Sơn khá lạnh, nên các loại rau không mọc ra được, đám chúng tôi phần đông chuyển qua trồng sắn, phát rừng, còn lại luân phiên nhau mấy toán, vào vùng núi mua thực phẩm, chủ yếu là cho “cán bộ trại”, chứ còn đám tù bọn tôi thì đã có “sắn” (khoai mì) để “khắc phục”.

Toán bốn thằng chúng tôi, do một chàng vệ binh dẫn đi, kéo theo hai cái xe cải tiến (loại xe đóng bằng gỗ giống như chiếc xe bò nhỏ) vào Thượng Sơn, nằm cách trại khoảng 60 cây số. Trong thời gian tù tội, những ngày được đi xa như thế này thật là hiếm hoi, hạnh phúc ghê gớm lắm. Chẳng khác gì người trong nước bây giờ được xuất ngoại. Ít nhất cũng được tự do hơn, ăn uống khá hơn, và nhất là được sống với dân để nghe họ nói những điều chân thật. Có một trùng hợp lý thú là trong bốn thằng tù bọn tôi đều có đủ bắc, trung, nam. Một thằng chính gốc Hà Nội 54, một thằng xứ Huế, một thằng Nha trang là tôi và một thằng nữa là dân Cần Thơ, Nam bộ.

Khởi hành từ sáng sớm, chiều chúng tôi đến làng. Nếu không đến đây có lẽ chẳng ai ngờ là giữa núi rừng xa xôi hẻo lánh này lại có một cái làng với khoảng một trăm nóc nhà nằm dọc bên bờ con suối lớn dưới những tàn cây che kín mặt trời. Vậy mà trông rất sạch sẽ và thơ mộng. Từ cổng làng, bọn tôi đã nghe tiếng chim hót líu lo hòa trong tiếng suối chảy róc rách giữa một vùng núi rừng tĩnh mịch.

Bọn tôi được sắp xếp ở trong một căn nhà mái lá cọ, có vách bằng nứa, nằm dưới một tàn cây cao, sát bên bờ suối.  Chủ nhà là một bà già trọng tuổi. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là trông bà không giống những người dân mà chúng tôi thường gặp ở vùng này, từ cách ăn mặc tới cử chỉ nói năng. Lúc nào bà cũng vui vẻ niềm nở với chúng tôi, trên môi lúc nào cũng có sẵn nụ cười.

Thằng bạn tù gốc Hà Nội của bọn tôi quả quyết là bà nói đúng giọng Hà Nội, cái thời còn một Hà Nội thanh lịch. Trên vách, treo một tấm giấy khen với một cái tên cũng rất Hà Nội, không hợp với khung cảnh núi rừng này: “Bà Vương Chu Khánh Hà “. Cái tên trùng tên một cô ca sĩ miền Nam, làm chúng tôi dễ nhớ.

Bà ở với người con trai, vừa làm y tá cho thôn, vừa làm rẫy, trồng thơm (dứa), trồng nhản. Một phần đất anh dành ra trồng rau và nếp nương. Anh nói năng hiền lành dễ mến. Đặc biệt rất thương và chiều mẹ.

Ngày đầu tiên, bà chỉ cười chào bọn tôi, không dám đến gần “quan hệ”. Nhưng hôm sau, bà mua chuộc anh vệ binh và giới thiệu cô thợ may ở nhà kế bên cho anh ta, nên anh ta đóng đô luôn bên ấy. Bà cho chúng tôi ăn xôi, ăn thịt rừng, còn thêm đủ loại trái cây bà mua được trong làng. Ở đây, ăn uống như thế là thuộc hàng “tư bản”. Ban ngày chúng tôi đi khắp nơi mua thực phẩm các lọai, chiều về lại nhà, kéo nhau xuống suối tắm, rồi được ăn một bữa cơm “thịnh soạn”, bọn tôi có cảm giác như đang ở đâu đó trên thiên đàng.

Đêm nào bà cũng mang đến một ấm trà tươi, ngồi tâm sự với bọn tôi tới khuya. Đúng như thằng bạn tù gốc Hà Nội nhận xét, bà dân Hà Nội chính tông. Ngày xưa gia đình bà giàu có. Vợ chồng làm chủ một hãng dệt lớn nhất nhì Hà Nội. Sau hiệp định Genève, chia đôi đất nước, chần chờ tiếc của, chưa kịp xuống tàu há mồm chạy vào Nam thì bị đánh tư sản. Chồng bà chết trong tù, nhà cửa bị tịch thu, bà bị bắt buộc phải dắt theo hai đứa con, một trai một gái, đứa nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi, cùng một số “đối tượng” khác lên vùng núi non này, lúc ấy gọi là Khu Kinh Tế Mới Thượng Sơn.

-   Ngày ấy, cả khu này chỉ là rừng thiêng nước độc. Chỉ ba tháng sau là con bé gái chết vì sốt vàng da, mà không tìm đâu ra một viên thuốc.

Bà nhìn lên trời mơ màng, kể lại cho bọn tôi những ngày đầu mới đến, nước mắt chảy dài trên má.

Sau đó, vì bản năng tự tồn, những người “Hà Nội lưu đày” (chữ của bà), ngồi lại, cùng bàn bạc nắm tay vượt lên số phận. Trong số những người lên đây, có nhiều thành phần, đa số là tư sản và trí thức. Với bộ óc và với kinh nghiệm trên thương trường, vậy mà họ đã tận dụng được để cùng nhau vươn lên trong chốn thâm sơn cùng cốc này. Dù nghèo khổ, họ vẫn giữ được cái tình, cái thanh lịch của người Hà Nội. Điều mà chính quyền cần họ phải gột rửa.

Ngày tiễn chúng tôi đi, bà năn nỉ và đút lót anh vệ binh cho chúng tôi được nhận một kí nếp, một ít thịt rừng muối mặn, nhưng bị chối từ, mặc dù anh ta cũng rất quí bà. Cuối cùng để cho bà vui, anh vệ binh cho chúng tôi được ăn tại chỗ một bữa no nê, lần này còn có cả rượu nếp, do chính tay bà cất.

Một tháng trước ngày rời Nghĩa Lộ, bọn chúng tôi ngày đêm phải đắp cho xong một con đường ô tô kéo dài từ Nghĩa Lộ lên tận dốc Cổng Trời. Chúng tôi thắc mắc không biết để làm gì, vì gần năm năm ở đây, thỉnh thoảng chỉ thấy vài người đạp xe đạp hoặc thồ ngựa trên con đường ngoằn ngoèo heo hút này. Đến ngày chuyển trại vào Nghệ Tĩnh, chúng tôi mới biết con đường này dùng để chuyển quân lên Lạng Sơn ngăn chặn bọn bá quyền Trung Quốc vừa xua quân tràn qua biên giới đòi “dạy cho người anh em một bài học”.

Hơn ba mươi năm, con đường ”làm lại cuộc đời” của riêng tôi cũng thăng trầm, quanh co không kém, đã làm tôi tạm quên một quá khứ buồn thảm, dù tất cả vẫn còn nằm sâu chôn chặt tận đáy lòng. Bất ngờ hôm nay, thằng bé đánh giày gợi tôi nhớ lại. Có điều trong bao nhiêu đau đớn chất chồng cũng có đôi điều vô cùng đẹp đẽ, chẳng khác gì một đóa hoa nở trên sỏi đá, một cành lan mọc giữa rừng già, trên một thân cây héo khô cằn cỗi.

-    Thế cháu ở Thượng Sơn có biết bà Vương Chu Khánh Hà. Bây giờ chắc cũng đã hơn tám mươi ?

Tự dưng tôi buộc miệng hỏi thằng bé, để rồi ngẩn người ra khi nghe nó trả lời:

-    Ố, đó là bà nội cháu. Bà mất hơn năm năm rồi!

Lòng tôi chùn xuống.

Thằng bé kể lại những ngày cuối cùng của bà nội, lúc ấy nó mới tám tuồi. Khi mà ở Hà Nội đầy dẫy quán bar và nhà hàng sang trọng, dành cho khách nước ngoài và những ông quan lớn, thì cái thôn Thượng Sơn này vẫn cứ nghèo xơ xác. Một số đã phải bỏ làng tìm về thành phố cũ, sống trước mái hiên nhà của chính mình ngày trước. Bà nội nó chỉ về được một lần, đứng nhìn ngôi nhà của mình bây giờ đang là một khách sạn mấy tầng, mà chủ nhân là một ông ngồi trong Ủy Ban Cải Tạo Tư Sản ngày xưa, bây giờ đã là ông lớn, chức hàm cở bộ trưởng. Tài sản duy nhất còn lại của gia đình bà là ngôi mộ hoang của ông chồng, ngày xưa nằm trong một nghĩa trang ở ngoại ô thành phố, nhưng bây giờ nhà cửa mọc kín chung quanh. Cây cối và cỏ rác như muốn phủ lấp mộ phần. Bà phải ở lại đó mấy ngày mới dọn dẹp xong.Sau lần ấy, bà về nhà rồi ngã bệnh. Vợ chồng cậu con trai bán đủ thứ trong nhà, cùng với hảo tâm của mấy người hàng xóm, nhưng cũng không đủ tiền đưa bà đi bệnh viện. Trước khi chết bà chỉ ước ao duy nhất một điều là đuợc chôn cất bên cạnh mộ chồng dưới thủ đô Hà Nội, cũng là vùng đất của dòng họ qua bao nhiêu đời. Vậy mà cái điều ước ao trối trăn duy nhất đó của bà, cũng không ai thực hiện được, bởi cái nghĩa trang đó bây giờ nằm trong qui họach thành phố, tấc đất tấc vàng, không dễ gì mua được.

Nghe thằng bé kể, nhìn nhà thờ Đức Bà trước mặt và nhớ tới bà, tôi lại thầm nghĩ là Thượng Đế đã không có mặt trên đất nước tôi. Thực ra điều này tôi cũng đã từng nói với mấy thằng bạn tù, sau tháng 4/75. Bởi nếu có Thượng Đế, sao ngài lại bắt dân chúng miền Nam, những người hữu thần, đã bao nhiêu đời hằng tin và thờ phụng ngài, lại phải vác cây thánh giá nặng nề, để tan tác điêu linh như thế. Lòng tôi thấy xốn xang và tôi nghiệp cho bà. Tôi thầm trách mình cũng chỉ là kẻ vong ơn, đã quên mất lòng tốt của bà trong những ngày mình vô cùng khốn khó. Mà lẽ đời là thế. Khi đã sang sông còn có mấy ai nghĩ tới con đò.

Thằng bé lại nhắc tôi về chuyện đánh giày, đền ơn đáp nghĩa. Tôi đưa chân ra, cả đám cười ồ, tôi đang mang dép. Thằng bé lấy một tập báo đủ loại trên tay thằng bạn, để trước mặt tôi:

- Vậy thì chúng cháu biếu chú mấy tờ báo, về khách sạn chú đọc cho vui. Toàn chuyện mấy ông lớn tham nhũng ăn chơi tiền tỉ đấy!

Tôi cám ơn và hỏi mua một xấp vé số. Trả tiền xong tôi chia đều cho ba đứa, coi như món quà may mắn, rồi hẹn ngày mai đến gặp tôi ở khách sạn, tôi sẽ dẫn đi chơi bất cứ nơi nào các cháu thích. Khi chia tay tôi ôm vai thằng bé đánh giày:

-    Ngày mai cháu nhớ đến nhá. Chú rất cần gặp cháu.

Suốt ngày hôm sau, sau khi dắt ba thằng bé vào chợ Bến Thành mua sắm một số áo quần, cho các cháu một ít tiền, tôi thuê xe chở cả đám đi Vũng Tàu. Cả ba đứa đều mong ước được đến đây một lần cho biết thành phố biển nổi tiếng này, và cũng muốn xem “tình hình” để chuyển xuống đây kiếm sống, bởi nghe nói ở đây có nhiều khách ngoại quốc đến du lịch, hơn nữa ở Sài gòn càng lúc càng khó khăn, vì số trẻ em (và cả nguời lớn) từ ngoài Bắc vào kiếm ăn ngày càng đông.Trong lúc ngồi trên bãi sau, tôi tâm tình thật nhiều với thằng bé đánh giày, kể cho nó nghe chuyện ngày xưa bọn tôi có lần đến ở nhà bà nội nó một tuần và được bà thương yêu giúp đỡ. Nó ngồi bên tôi nghe rơm rớm nước mắt, rồi dùng ngón tay viết tên của bà nội trên cát.

Trên đường về lại Sàigòn, tôi ghé lại Nghĩa Trang Quân Đội cũ, nằm bên xa lộ Biên Hòa. Khó khăn lắm, phải hỏi thăm nhiều người, anh tài xế taxi mới tìm đựợc lối vào.

Bức tượng Tiếc Thương đã từng tạo huyền thoại một thời, không còn nữa, nhưng Nghĩa Dũng Đài còn đứng sừng sững giữa những ngôi mồ hoang phế, im lìm. Tôi nghe trong gió như có tiếng oan hồn tử sĩ. Tìm đến ba ngôi mộ của ba thằng bạn lính cùng đơn vị cũ, mà chính tôi là người thân quen duy nhất chào tiễn biệt tại dây vào những giờ phút thứ hai mươi lăm của cuộc chiến, cùng với những người lính chung sự vẫn âm thầm tận tụy như từng bao nhiêu năm mai táng những đồng đội chưa bao giờ gặp mặt. Ba thằng bé phụ tôi hì hục dựng lại mấy tấm bia gãy đổ.  Tôi ngồi trước những nấm mộ sụt sùi. Ba thằng bé chưa từng biết những gì đớn đau và bất công của cuộc chiến bắc-nam, cũng ngậm ngùi cảm động, trịnh trọng hứa với tôi sẽ thường xuyên rủ nhau đến đây để hương khói và chăm sóc các mộ phần.

-   Bạn đồng đội của chú chắc chắn là những người tốt.

Ba đứa bé nói với tôi trên đường ra xe về lại Sài Gòn, trong lúc tôi còn đang miên man về cách hành xử tàn tệ từ những con người không có trái tim, không còn biết thế nào là “nghĩa tử nghĩa tận”.

Về khách sạn, ba cháu xin được ở lại với tôi đêm nay, để khuya được đưa tôi ra phi trường. Không ngờ những đứa bé từ một vùng núi non Việt bắc xa xôi lại chí tình với một người miền Nam, và bây giờ chỉ còn là.. “khúc ruột ngàn dặm”, như tôi.

Tôi lấy thêm một phòng, cho hai đứa kia, còn thằng bé đánh giày nhỏ nhất, ở cùng phòng với tôi. Trước khi đi ngủ, tôi cho thằng bé một ngàn đô-la, bảo nó ngày mai mua vé xe lửa về lại Nghĩa Lộ, đưa cho ba má nó. Tôi viết một mảnh giấy kèm theo, bảo với ba nó tôi là một trong bốn người tủ cải tạo lúc xưa, và dùng số tiền này tìm mọi cách đưa bà cụ về Hà Nội nằm bên ông cụ như lời bà trăn trối lúc lâm chung. Tôi có cho địa chỉ để anh ta liên lạc. Tôi còn căn dặn thằng bé phải hết sức cẩn thận, vì các chuyến xe Thống Nhất Bắc-Nam sẽ rất đông người vào những ngày giáp tết. Nó tròn mắt nhìn tôi ngạc nhiên, rồi nắm chặt bàn tay tôi, nói ngày mai, sẽ may thêm một cái túi bên trong chiếc áo để khâu tiền vào trong đó.



“Kính thưa Anh,

Vợ chồng em và chắc chắn là vong linh của mẹ em nữa, xin muôn vàn cảm tạ ơn anh.

Không ngờ chỉ có mấy ngày ngắn ngủi rất xa xưa, mà mãi đến nay anh vẫn còn nhớ đến mẹ con em. Riêng em thì gần như đã quên chuyện ấy nếu không có anh nhắc lại hôm nay.

Giờ em mới nhớ lại, sau khi các Anh rời khỏi nhà em, mẹ em khóc mất mấy hôm. Bà bảo phần thì tội nghiệp các anh, phần thì nghĩ tới số phận oan khiên của gia đình em vào những ngày đảng vừa lên nắm chánh quyền. Bà bảo các anh và gia đình chúng em cũng cùng gánh chung số phận.

Chúng em cũng xin báo tin để anh mửng, là với số tiền anh cho, chúng em đã đưa được mộ phần của bố em ra một nghĩa địa khác, trước khi chính quyền cho san bằng khu nghĩa địa cũ để xây đô thị. Khu nghĩa địa mới dù nằm khá xa thành phố nhưng sạch sẽ và yên tĩnh. Vợ chồng em cũng cãi táng phần mộ của mẹ em và đứa em gái ở Nghĩa Lộ, đưa về chôn bên cạnh bố em. Gọi là nghĩa địa, nhưng phải mua với giá rất cao. Nếu không có tiền của Anh cho, biết đến lúc nào chúng em mới thực hiện được lời ước ao trăn trối của mẹ em.

Nghe đất nước đã đổi mới từ lâu, nhưng có lẽ chỉ đổi mới ở dưới những thành phố lớn, chứ cái làng Thượng Sơn của chúng em thì ngày thêm khốn khó. Rồi nay mai vợ chồng em cũng phải bỏ Thượng Sơn mà về Hà Nội, hoặc chạy thẳng vào Sài gòn. Có làm ô xin hay phải sống ngoài đường chắc cũng còn khá hơn.

Phân vân mãi, cuối cùng chúng em cũng phải báo đến anh một tin buồn. Thằng bé Khiêm con em cũng không còn. Trên chuyến tàu Thống Nhất ngày ba mươi tết hôm ấy, nó bị cướp. Không hiểu có phải bọn cướp biết được cháu giữ số tiền lớn của anh cho, nên đánh để cướp. Nhưng dù bị máu me thương tích đầy người cháu vẫn hai tay ôm chặt lấy túi tiền khâu kỷ trong mấy lớp áo trước ngực. Bọn cướp tháo chạy trước khi có công an đường sắt tới.

Về nhà cháu tỉnh táo được một vài hôm, ăn tết với chúng em, kể lại chuyện bất ngờ gặp anh, được anh yêu thương và gởi cho chúng em một số tiền quá lớn. Chúng em cứ tưởng mình nằm mơ. Nhưng chỉ một tuần sau cháu bị sốt nặng rồi hôn mê. Đem vào bệnh viện huyện, bác sĩ bảo cháu bị chấn thương sọ não. Cháu qua đời vài ngày sau đó.

Bây giờ cháu cũng đang nằm bên cạnh ông bà nội, và cô út của nó, chắc cháu nó cũng được ấm lòng nơi chín suối.. Chúng em tin là cháu sẽ mãi mãi theo phù hộ cho Anh trong những ngày Anh xa quê lưu lạc xứ người.

Chúng em xin gởi đến Anh trọn lòng kính mến và lúc nào cũng cầu nguyện mọi điều tốt đẹp cho Anh cùng gia đình.

Kính thư

Bố mẹ cháu Khiêm
Trần Trọng An




Bức thư tôi nhận được đúng một tháng sau ngày tết nguyên đán. Suốt cả đêm trằn trọc, tôi không biết có đúng là mình đã trả ơn Bà, hay là lại mang thêm tai họa đến cho gia đình Bà. Thì ra trong cái xã hội đang có nhiều ông lớn và đại gia giàu có, thì cái sinh mạng của những người nghèo khổ khốn cùng cũng vẫn chỉ là cỏ rác. Dường như tôi có nghe ai đó nói “ cuối niềm vui nào cũng có xót xa, sau cuộc trùng phùng nào cũng có mầm mống của ly tan “.

phạmtínanninh

(vương quốc Nauy)



Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #336 - 04. May 2007 , 18:53
 
Anh Long ơi ,

Em đọc mấy truyện ngắn của ông Phạm Tín An Ninh ở trong D/D này , truyện nào cũng đầy tình nghĩa và cảm động. Không biết là truyện hay là chuyện có thật vậy , anh có biết không ạ ?
Back to top
« Last Edit: 04. May 2007 , 18:53 by Đặng-Mỹ »  
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #337 - 05. May 2007 , 19:54
 
Đặng-Mỹ wrote on 04. May 2007 , 18:53:
Anh Long ơi ,

Em đọc mấy truyện ngắn của ông Phạm Tín An Ninh ở trong D/D này , truyện nào cũng đầy tình nghĩa và cảm động. Không biết là truyện hay là chuyện có thật vậy , anh có biết không ạ ?


Cái này shiệt tình anh hổng biết .....Chỉ thấy chuyện nào ổng cũng noái là chuyện có " Shiệt "...nhưng mà chuyện nào cũng thấy hay và cảm động cả nên rinh về cho bà con đọc thưởng thức vậy mà ...... Wink Wink 8)
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #338 - 05. May 2007 , 20:05
 
...


RIÊNG MỘT GÓC TRỜI


Tiếng Hát : Tuấn Ngọc
Nhạc và Lời :Ngô Thụy Miên


Tình yêu như nắng, nắng đưa em về bên giòng suối mơ
Nhẹ vương theo gió, gió mang câu thề xa rồi chốn xưa
Tình như lá úa, rơi buồn trong nỗi nhớ
Mưa vẫn mưa rơi, mây vẫn mây trôi, hắt hiu tình tôi

Người vui bên ấy, xót xa nơi này thương hình dáng ai
Vòng tay tiếc nuối, bước chân âm thầm nghe giọt nắng phai
Đời như sương khói, mơ hồ trong bóng tối
Em đã xa xôi, tôi vẫn chơi vơi riêng một góc trời

Người yêu dấu, người yêu dấu hỡi,
Khi mùa xuân vội qua chốn nơi đây
Nụ hôn đã mơ say, bờ môi ướt mi cay... nay còn đâu
Tìm đâu thấy, tìm đâu thấy nữa
Khi mùa đông về theo cánh chim bay,
Là chia cách đôi nơi, là hạnh phúc rã rời, người ơi!!

Một mai em nhé, có nghe thu về trên hàng lá khô
Ngàn sao lấp lánh hát câu mong chờ, em về lối xưa
Hạ còn nắng ấm, thấy lòng sao buốt giá
Gọi tên em mãi trong cơn mê này...mình nhớ thương nhau
Back to top
 
 
IP Logged
 
tieuvuvi
Gold Member
*****
Offline


Vũ Tuyết Như - Tiểu
Long Nhi-TiênDung

Posts: 4065
Bordeaux - france
Gender: female
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #339 - 05. May 2007 , 20:39
 
...

Xuân muộn



Ngày vơi chầm chậm ngày vơi
Thu đông lá trút bồi hồi sang xuân
Ru em sóng bủa muôn trùng
Võng thanh xuân giữa lòng nhân gian
Ru da diết ru muộn màng
Hồng nghìn trước cúc vàng nghìn sau

Ru nhau đườm đượm ru nhau
Từ ban sơ áo chưa nhàu chiêm bao
Đến phai câu hát mận đào
Hình như lòng vẫn ngọt ngào hình như...

Ru mưa rồi vội ru mưa
Hạt thiếu muối mặn hạt thừa gừng cay
Hạt nào gối mộng khuya nay
Cho ta thắp lại chút ngày lãng quên.



MƯỜNG MÁN


Back to top
« Last Edit: 05. May 2007 , 20:43 by tieuvuvi »  

...
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #340 - 06. May 2007 , 13:22
 
Hạnh thân mến !

Gởi cho Hạnh bài này đọc vì trong đó có  kỷ niệm xưa của chúng ta ở những tháng ngày đi học nhưng Hạnh đọc không được vì chữ nhận được toàn là chữ Ấn Độ ....Nên anh mượn chỗ ở đây xem Hạnh có đọc được hay không nhá ! Thỉnh thoảng khi rảnh rỗi Hạnh có thể register vào sân trường LVD để tìm lại những ngày tháng học trò .....



...

TRƯỜNG XƯA BẠN CŨ


Tôi đã lặng người trong niềm xúc động vô cùng khi nhìn lại hình ảnh của mái trường Hồ Ngọc Cẩn thân yêu trong những năm tháng xa rồi của những ngày đi học . Niềm xúc động ấy làm tôi như đến rưng rưng khi nhìn thấy hình bóng của các thầy cô thân thương và bạn bè yêu dấu đang hiển hiện trước mắt của mình. Thời gian vô tình vẫn trôi qua một cách lặng thầm , ngoảnh mặt lai , chúng tôi , cả thầy lẫn trò những mái tóc đã nhuốm bạc màu sau  những tháng năm dài chồng chất .

Tôi vào trường  Hồ Ngọc Cẩn năm 1959. Ngày đó trường Hồ Ngọc Cẩn là trường Trung học công lập duy nhất của tỉnh Gia Ðịnh . Muốn được vào học , các học sinh phải qua được kỳ thi tuyển Ðệ Thất được tổ chức hàng năm sau khi đỗ xong bằng Tiểu Học . Lớp học đầu tiên của tôi nằm ở dãy bên tay trái của cổng vào trường , tôi còn nhớ dãy lớp này sát bên Trường Tiểu học Nam Tỉnh Lỵ đối diện với chợ Bà Chỉểu  .Nỗi háo hức của một cậu học trò mới lớn được đi học trường công, nỗi hãnh diện hơn những bạn bè trong chòm  xóm của mình  đã làm tôi bước vào  ngôi trường mới với nhũng bước chân sáo tung tăng và trong lòng đậm một niềm vui vô kể .

Trong những thầy cô của tôi thời gian học từ đệ Thất đến đệ Tứ . Không hiểu sao cũng như hầu hết những bạn học khác . Người gây cho tôi những tình cảm lưu luyến nhất vẫn là cô Ngọc Anh , cô Anh dạy tôi môn Vạn Vật cả hai lớp Ðệ Ngũ và Ðệ Tứ . Ngày ấy cô Anh còn rất trẻ và đẹp lắm , cô lại thật hiền và rất là nhỏ nhẹ với các học trò của mình . Hình như trong một  lúc nào đó , cô đã là một thần tượng dịu hiền trong trái tim nhỏ bé của tôi . Hình ảnh của cô ngày xưa  nói theo bây giờ , thì như là hình ảnh một nàng công chúa hay là một nàng thơ diễm kiều trong các chuyện thần tiên  của những anh chàng thích mộng thích mơ và thich thơ thích  thẩn .Tôi học môn này  cũng chăm , nên cô đã cho tôi những điểm và những lời phê rất tốt ..

Người thứ hai mà tôi nhớ đến là cô Ðỗ Nguyên Phi Phượng , Cô Phượng day tôi môn Việt văn đệ Ngũ , so sánh với cô  Ngọc Anh thì cô Phượng có một nét đẹp rất là tương phản , nét đẹp của cô Phượng  sắc sảo , sống động và rất hồn nhiên vui tươi.khác hẳn với nét đẹp dịu hiền của cô  Ngọc Anh . Hồi đó đi dạy , cô Phượng thường mặc bộ áo dài màu trắng , tôi không biết có phải là áo lụa Hà Ðông hay không , nhưng nhìn đẹp lắm , thêm cô lại rất trẻ nên nhìn cứ như là một cô nũ sinh của một lớp đàn chị mà thôi  . Mấy ông đàn anh Ðệ nhị của tôi ngày đó , anh nào anh ấy  mắt cứ thòm thèm nhìn trộm và ngẩn ngơ con cá vàng , cá chép . Trong cái cảm xúc non dại lúc ấy  của tôi, tôi thấy  rất bực mình trong bụng , và vì muốn binh vực cho cô của mình ,  tôi cứ lầm bầm , nếu em mà lớn như các anh thì em sẽ thụi cho các anh mỗi người mấy quả .
Ngoài Cô Phượng , cô Ngọc Anh , thời gian đó tôi còn học với các cô Diệu Hương , Cô Tuy , Cô Hoa , cô Ngoạn . Trong tất cả các cô  , tôi vẩn ngán nhất là cô Ngoạn , vì tơ lơ mơ là cô cho ăn trứng một cách không thương tiếc , chắc vì nhà cô có sạp bán trứng vịt hay  chăng . Thầy Anh Văn đầu tiên của tôi thời đó là thầy Nguyễn Chi Hoa , thầy rất hiền lành ,  rất đẹp trai với đôi kính cận . Như một bạn nào đó nhắc lại , ngày xưa bắt đầu học quyển Langlais Vivant , trong đó có cái bài hát chèo thuyền " Rào Rào   your boat " mà bây giờ nhớ lại những lần hát hò trong lớp , tôi đã tưởng tượng, thay vì  mình chèo thuyền thì không chèo  mà đi trèo lên quan dốc,  để ngồi gốc í a cây đa ,  đi tìm mấy cô gái Bắc Ninh quan họ . Ngoài thầy Chi Hoa những thầy khác ,  tôi còn nhớ là thầy Trần Thế Xương day Quốc văn, thầy Chính dạy Sử  , thầy Sửu dạy Công Dân , thầy Cát dạy Hóa học , thầy Thăng dạy nhạc, thầy Lục dạy toán , thầy Huệ dạy vẽ . có cả thầy Trần văn Ðiền sau này . Thầy Xương dạy môn văn rất là hay và lôi cuốn , Còn  thầy Lục mỗi khi  thấy tôi là cứ lắc đầu và bảo " Sao mày dốt thế .".hay là " Ðã dốt mà lạicòn thêm làm biếng ".và tôi cứ lủi thủi tủi thân  mà buồn .ơi là buồn ....Thầy giáo thì thường không nhớ hết những học trò của mình , trừ những anh học thật giỏi , hoăc những chàng chuyên viên phá phách có tiếng . Tôi thì không nằm trong những thứ hạng đó , mà tôi   lẫn lộn nằm trong cái  hạng nửa chừng xuân , nên rất thuận lợi trong vấn đề lặn hụp vì không ai để ý .

Nếu chỉ nói đến trường , đến thày cô mà không nhắc đến  cái góc nhỏ nằm phía cuối Phòng Thí Nghiệm thì quả là một điều thiếu sót . Ðó chính là cái địa điểm thư dãn , vung vít của chúng tôi trong giờ ra chơi . Những miếng bánh mì chiên tôm , những gói  xôi đậu xanh  , những miếng bánh khúc , rồi thì những viên kẹo đủ màu sặc sỡ , cùng những cục đá nhận xirô màu xanh màu đỏ , những trái ổi, trái cóc , trái mận chính là những chất liệu phục hồi cho những cơ năng non nớt của chúng tôi sau những giờ trong lớp học hành căng thẳng . Tôi có thằng bạn cùng lớp tên Vũ Thế Ðàn  mà người nhà của nó hình như là chú gác dan của nhà  trường , chính vợ của chú ấy phụ trách bán hàng trong trường  . Vì vậy , mới oắt tỳ con mà tôi đã biết thế nào là credit với cuốn sổ ghi thiếu mua quà vô cùng lịch sự từ dạo đó .


Thời gian học ở Ðệ Nhất cấp , Hai người thầy đã cho tôi nhiều ấn tượng nhất đó là thầy Doãn Quốc Sỹ và Vũ văn Hải dạy Việt văn  . Các thầy rất thương tôi vì những kết quả thật tốt của tôi vê môn học khó ăn này .Và chính những nét phóng khoáng như bất cần đời , bình thản trước mọi việc của hai thầy đã ảnh hưởng rất nhiều trong đời sống của tôi khi bước vào cuộc sống  với nhiều  sự chua cay và phức tạp . Thầy Doãn Quốc Sỹ thời  gian đó ,  khi đi dậy thường hay mặc chiếc áo sơ mi trắng dài tay với chiếc quần sậm màu rất là đơn giản , lời giảng rất nhỏ nhẹ hiền hòa nhưng không kém phần  lôi cuốn và đầy thích thú , có những bài giảng mà đến hôm nay sau mấy mươi năm mà tôi vẫn nhớ mãi trong lòng đó là bài Chí Nam Nhi của Nguyễn Công Trứ . Đặc biệt là những câu ...

Kinh luân khởi tâm thượng
Binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi gian giaiphận sự
Nam nhi đaó thử thị hào hùng 

Người học chữ thì kiến thức về việc nước phải được sẵn sàng trong lòng , cũng như binh giáp phải luôn sắp sẵn trong bụng . Khoảng trời đất ta sống người làm trai phải biết ở đâu cũng là nhiệm vụ của mình thì mới là xứng đáng một kẻ sĩ chân chính của thời đại .....

Khi bước qua Ðệ nhị cấp , lúc này   tình cảm chúng tôi  bắt đầu có những đổi thay và cơ thể bắt đầu  trổ mã.  Ðó là  có những lúc vừa ngồi trong lớp học mà vừa mơ mết mơ màng về một tà áo trắng Lê Văn Duyệt nào đó đang tung bay trong các quả tim còn non nớt của chúng tôi. Bản thân tôi là một thằng khờ khạo nhất trong những thằng khờ khạo , khờ như chú nai vàng chưa có sừng của nhà thơ Lưu Trọng Lư đang đạp trên những chiếc lá vàng khô.  Ấy vậy mà cũng đã bắt đầu mơ mộng vẩn vơ , Nhìn mấy thằng bạn quỷ quái, thằng nào cũng có một nàng để nhớ để thương , mà mình chả có con ma nào nên lòng cứ là sót ruột . Nhiều lúc tôi cứ tự hỏi , biết đến bao giờ mình mới có một người yêu để mà mình trổ tài làm thơ con cóc tặng nàng , hoặc ngon lành hơn một bước là có thể nắm tay nắm chân người yêu mà nhìn trời hiu quạnh .


Bên cạnh những thầy cô thương yêu của tôi , đám bạn bè hồn nhiên cùng lứa tuổi  trong những ngày tháng kỷ niệm học trò , chính  là những hành trang đậm đà mà tôi không thể nào quên trong ký ức của mình  . Ngày đó nhà tôi nghèo lắm , Cha tôi mất sớm khi em gái tôi mới vừa một tuổi , không bà con họ hàng , không người nương tựa , nhưng mẹ tôi đã can đảm bỏ tất cả để di cư vào Nam với hai bàn tay trắng  trốn chạy Cộng Sản mang theo  hai đứa con còn thơ dại của mình   , Lúc ấy chúng tôi mướn được một căn nhà lá nhỏ nằm trong cái xóm nghèo sau đường Lê Quang Ðịnh và Phan văn Trị khu Ðồng Ông Cộ .  Căn nhà ọp ẹp nằm cạnh một cây khế thật cao , mùa khế chín , những trái khế rơi trên mái nhà nghe lộp độp lạnh lùng  mang theo một âm vang thật  buồn hiu  trong khô héo . Những bạn tôi thời đó như Nghiêm Xuân Trường , Phạm đình Hồ , Phạm văn Ðích đều học chung Hồ Ngọc Cẩn với tôi , nhà tụi nó ở sát cạnh bên  và chúng tôi lúc nào cũng bên nhau trong các cuộc chơi như đánh đáo , bắn chim , thả diều , bắt cá ....Hồi ấy nhà nghèo đến nỗi mẹ tôi chỉ may được cho tôi mõi bộ đồng phục quần xanh áo trắng để đi học , không có được đến bộ thứ hai , thành ra khi đi học về là cứ xà lỏn cởi trần và chạy chơi long nhong trong xóm . Nhà của tôi nằm ngay trên cái ngõ của lối đi chính đi từ đường Lê Quang Ðịnh tắt ngang Phan Văn Trị . Mỗi buổi chiều,  mặc dù mới nứt mắt tụi tôi đã biết cùng nhau tụ tập ở dưới một gốc cây vú sữa đã già đầy bóng mát bên đường để ngóng nhìn mấy cô bé học trường Cấp Tiến đi về , thằng này nhìn thằng kia rồi cười ngô nghê với nhau  khúc kha khúc khích .

Khi học lên lớp  Ðệ Tam thì nhà tôi dọn về khu Hàng Dừa số hai nằm ngay khu Lăng Ông Bà chiểu và cũng rất gần trường Lê văn Duyệt . Những buổi chiều tan trường , hình ảnh những chiếc áo dài trắng tung bay trong gió , phải nói là những hình ảnh tuyệt vời  vẫn còn hiện diện trong tôi tới mãi hôm nay . Con đường Lăng ông là con đường với nhũng hàng cây Sao thẳng tắp , những chiều gió nổi , nhất là vào mùa Thu khi lá đã trở úa vàng , màu lá vàng của vấn vương , của yêu thương , của tình yêu đầu đời bay ngào ngàn trong không gian , thêm những cánh lá chuồn chuồn  huyền ảo cứ như đưa tôi bay cao , bay cao và hồn tôi như mãi lang thang  về một phương  trời thật  xa xôi, tự tình đầy  phiêu  lãng .

Thời gian đó , phong trào các Thi Văn Ðoàn rất là thịnh hành trong các sinh hoạt văn hóa nơi trường học, Hai thằng bạn thân của tôi là Nguyễn Phước Mỹ và Trần minh Triết không biết tụi nó tìm cách nào mà quen được mấy cô Lê Văn Duyệt và cũng kéo tôi chui vào được cái Thi Văn Ðoàn mà tôi còn nhớ mãi với cái tên rất là mộc mạc . Khi chọn  tên choThi Văn Ðoàn  thường thì người ta  chọn một cái tên có cái  vẻ ướt át hoặc trữ tình một chút như là Mắt Tím , Môi Hồng hoặc là Phấn thông vàng ..Hoa Thương Nhớ v...v....Cái  Thi văn đoàn của tụi tôi,  chị trưởng nhóm chọn một cái tên rất là dễ nhớ , mà đúng thật,  tôi vẫn nhớ cái tên đó  cho  đến bây giờ , đó là TVÐ " Trăng Rụng Xuống Cầu"  , Cái tên này hầu như ai cũng phải biết vì nó là tên cái bản nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ mà trong các xóm lao động , mấy chàng thanh niên thường hay hát  tỉ tê " Ai đang đi trên cầu Bông , Té xuống sông ướt cái quần Nylon , Vô đây em , dù trời khuya anh sẽ đưa em về ". Tụi tôi lúc đầu phản đối dữ lắm , nhưng chị trưởng nhóm  này chằng lắm ," Mấy cậu không vào thì thôi tớ đếch cần  ". Ba đứa tôi đành phải chịu thôi , vì đây là cái môi trường tốt lành để chúng tôi có thể làm quen với mấy nàng Lê Văn Duyệt  . Sau này hỏi ra thì sở dĩ chị chàng chọn tên này vì cái tên trong giấy khai sinh của chị là Nguyễn thị Sông Cầu , Chị thích chọn cái tên này  vì trong ấy có cái tên cúng cơm  mĩ miều và ướt át của chị . Bây giờ nhiều lúc  ngồi nghĩ lại tôi  cứ thấy buồn cười và tủm tỉm một mình  trong  thích thú .

Từ trường Lê Văn Duyệt đi thẳng lên hướng cầu Bông , chúng ta phải đi qua Chợ chiều , trại cưa Trần Phát , tiệm dậy đánh máy Nguyên Hưng và nhà vẽ Bướm Vàng , Qua khỏi cầu Bông là tới ngã tư ÐaKao kế tiếp là rạp Cine Casino ÐaKao và tiệm thạch chè Hiển Khánh . Tại cái tiệm thạch  chè này , tôi đã có một kỷ niệm nhớ đời không thể nào quên,  trong những tháng ngày đi học .

Vào một buổi trưa tan trường như thường lệ , bữa đó không biết hai thằng bạn quỷ quái của tôi là Triết và Mỹ , tụi nó hẹn được nguyên cả nhóm Lê Văn Duyệt đi ăn chè Hiển Khánh , Tôi hồi nào đến giớ rất là khờ khạo , được đi ăn chè là thích rồi , đằng này lại được đi với mấy cô Lê Văn Duyệt nữa thì ôi là vinh hạnh và sung sướng quá. Vào tiệm hai thằng bạn tôi cùng với mấy cô chuyện trò , cười nói ròn tan , bánh xu xê , bánh cốm , bánh gai mấy cô  cứ ăn xối xả , ăn một cách không gì thương tiếc . Ðang nửa chừng hai thằng bạn tôi đứng lên bảo tôi "Mày cứ ở lại chờ, để tụi tao đi mua thuốc lá tụi tao về ngay ", và tụi nó vọt  rất nhanh không để lại một chút gì ân hận . Mấy cô Lê Văn Duyệt ăn no cũng từ từ  cùng nhau vui vẻ đứng lên bỏ ra về,  sau khi cám ơn rối rít . Ôi lúc ấy mặt tôi cứ đực ra như là con ngỗng đang bị quay , Trong túi thì chỉ có mấy đồng , mà cả bọn , chúng nó ăn tới mấy chục , tiền đâu mà trả bây giờ . Hai  thằng bạn tôi tụi nó nói là sẽ trở lại , nhưng giác quan thứ bẩy của tôi đã cho tôi biết là " Em biết anh đi chẳng trở về " trong bài thơ của Thi sỉ Thái Can thời tiền chiến . Tôi lúc ấy như muốn độn thổ để trốn mà thôi , Ngồi chết dí một lúc , rồi cũng phải giải quyết vấn đề . Tôi nhẹ nhàng đứng lên trân trọng lại gần ông chủ quán năn nỉ với một điệu bộ vô cùng thành khẩn , mềm mại như  con chi chi xin thiếu  . May quá ông ấy cũng quen mặt tụi tôi , và ông ấy cười cười thông cảm và đồng ý cho thiếu đến ngày mai mang tiền lại trả .

Tuổi học trò là những ngày tháng buồn vui như vậy đó , Tôi vẫn nhớ vẫn thương những bạn tôi cho đến bây giờ ,dù chúng tôi có những lúc thật vui , nhưng cũng có những lúc tức đến muốn hộc cả máu mồm vì nghịch ngợm . Ðó là nhũng ngày tháng không thể nào quên của tôi và  chúng ta  sẽ không bao giờ còn gặp lại nhũng ngày tháng đó , trong đời người đầy lãng quên và ngắn ngủi .

Người ta thường nói lá rụng rồi sẽ về lại với côi nguồn , đó là triết lý về  thân phận con người , mà chúng ta thường chấp nhận một cach  tự  nhiên  không chối cãi , Từ cát bụi chúng ta đã đến với cuộc đời , rồi một ngày nào  khi nhắm mắt buông tay chúng ta cũng sẽ trở về cát bụi như từ thưở hồng hoang xa thẳm .

Trong một thoáng này đây , tự nhiên tôi bỗng có một cái ý tưởng  rất  lạ lùng  Tôi thấy đời mình như những dòng nước trên nhũng con sông , con suối nào đó đang  cuồncuộn chảy , những dòng nước đó có hiền hòa ,  được bình yên hay cuồng loạn , nó sẽ tùy thuộc vào những thác ghềnh mà nó phải chảy qua . Nhưng  cuối cùng tất cả các dòng nước nào đó rồi sẽ một ngày đều phải qui tụ  về lòng biển yêu thương bát ngát . Là dòng nước nước nhỏ nhoi thầm lặng , tôi muốn được khi về  biển , từ biển tôi lại muốn bốc lại thành hơi , thành những đám mây chập chùng  để  tôi có thể bay về  lại côi nguồn của tôi , về  những dòng sông  xưa mang đầy dấu yêu  kỷ niệm . Tôi sẽ là những hạt mưa rơi xuống trên rừng núi ngút ngàn , tôi sẽ rơi trên đồng ruộng khô cằn tàn úa của quê hương tôi hay là tôi lại rơi về trên dòng sông của  ngày nào để tiếp tục nổi trôi  theo dòng thác cuộc đời quên lãng .

Kính thưa các thầy cô thương yêu của tôi , Xin cho tôi được gởi đến tất cả lời tri ân chân thành , thân quí  nhất  từ đáy sâu của tâm hồn chúng tôi đến tất cả những người đã dạy dỗ chúng tôi ỡ nhũng bước chập chững của thuở mới vào đời  , Các thầy cô đã dạy chúng tôi những kiến thức cần thiết phải có ,  các thày cô đã dạy chúng tôi sống thế nào cho có nghĩa tình , sống  thế nào cho có đạo đức và các thày cô đã dạy chúng tôi thế nào để trở thành một người hữu dụng trong cuộc sống . Một góc độ khác là sống thế nào để hãnh diện là một người xuất thân từ một ngôi trường vang danh ....Trường Hồ Ngọc Cẩn . ...

Với những thày cô đã yên nghỉ và vĩnh viễn ra đi , xin cho tôi được tháp nén hương lòng ngậm ngùi tưởng nhớ , xin cúi đầu trong xúc động nghĩa ân , xin cho những giọt nước mắt được rơi trên những ân tình nồng ấm thày trò ...xin được vô cùng  tiếc thương trong nhung nhớ  ...

Những bạn bè yêu dấu của tôi , đứa còn lang bạt giang hồ viễn xứ  , đứa ấm êm  trong nhung lụa sang giầu , đứa đã nằm xuống cho quê hương khốn khổ đọa đày .... Các bạn sống còn , xin các bạn hãy để một phút giây  nhớ đến nhau , nhớ về mái  trường xưa  mà trong đó tuổi thơ của chúng ta bây giờ chỉ còn chăng là kỷ niệm, Cuộc sống có khác biệt như thế nào, nhưng thời gian rồi sẽ lặng qua , một lúc nào sực tỉnh ta sẽ không thẹn lòng là mình không phải những con người vong tình , bội nghĩa .

Tôi ngả người nằm dài trên chiếc ghế dựa ở phía sau nhà , Gió từ biển thổi về mang theo cái cảm giác lạnh buồn đến ray rứt , thời gian đã qua vội thật nhanh , mới ngày nào mà đã hơn bốn mươi năm chồng chất , tôi đã làm được gì , nhận được gì trong cuộc sống này đây , tóc đã bạc màu mà chí chưa thành danh chưa toại .Ôi còn chăng là những phút giây với kỷ niệm dấu yêu mặn nồng , những kỷ niệm với trường xưa bạn cũ  thật  ấm áp , nhẹ nhàng , yêu thương , những kỷ niệm mà tôi nghĩ sẽ ở mãi bên tôi như những hành trang cuối cùng  cho tới ngày tôi phải đi về nơi  miên viễn ....

Khieu Như Long
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2770
Gender: male
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #341 - 07. May 2007 , 15:44
 
...

Nhắp môi


Nhắp môi  miệng dắng thôi cười
Tình chung  ta gởi  em người sang ngang
Tà bay  áo lụa hoa vàng
Lênh đênh đời giữa dương gian bụi hồng

Ngất ngây hương rượu thơm nồng
Hỏi em phương đó còn không chút tình
Mưa trên kỷ niệm chúng mình
Hồn  nghe  giá buốt  linh đinh cơn sầu ....


Khieu Long


Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #342 - 07. May 2007 , 19:31
 
khieulong wrote on 05. May 2007 , 19:54:
Cái này shiệt tình anh hổng biết .....Chỉ thấy chuyện nào ổng cũng noái là chuyện có " Shiệt "...nhưng mà chuyện nào cũng thấy hay và cảm động cả nên rinh về cho bà con đọc thưởng thức vậy mà ...... Wink Wink 8)


Oh, tại em nghe anh quen nhiều bên Na Uy nên tưởng anh quen với ông ấy chứ  Roll Eyes Cheesy
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #343 - 07. May 2007 , 19:38
 
khieulong wrote on 06. May 2007 , 13:22:
Hạnh thân mến !

Gởi cho Hạnh bài này đọc vì trong đó có  kỷ niệm xưa của chúng ta ở những tháng ngày đi học nhưng Hạnh đọc không được vì chữ nhận được toàn là chữ Ấn Độ ....Nên anh mượn chỗ ở đây xem Hạnh có đọc được hay không nhá ! Thỉnh thoảng khi rảnh rỗi Hạnh có thể register vào sân trường LVD để tìm lại những ngày tháng học trò .....


Chị Hạnh ơi ,

Anh Long viet cho chị , nhưng chị chưa ghi danh nên chị đọc mà không giả nhời được và cũng không nói cho tụi em biết được là ông anh Dẻo We.o này có thêm mắm muối gì trong chuyện này không  Tongue Grin
Em mời chị ghi danh đi chị nhé  Wink
Back to top
 
 
IP Logged
 
tieuvuvi
Gold Member
*****
Offline


Vũ Tuyết Như - Tiểu
Long Nhi-TiênDung

Posts: 4065
Bordeaux - france
Gender: female
Re: Thơ Tình Khiếu Long
Reply #344 - 08. May 2007 , 12:46
 


...
Ở cuối hai con đường
 


(Một câu chuyện hoàn toàn có thật. Tác giả xin được kể lại nhân dịp 32 năm từ ngày miền Nam thất thủ)

********



    Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.
   Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.
 Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.
 Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Môt nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ : - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ ?.
 Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi , miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.
 Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản "lý lịch trích ngang".
     Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
         - Trong này có anh nào thuộc Sư 23 ?
     Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng :
         - Thưa cán bộ, có tôi ạ,.
         - Anh ở trung đoàn mấy
         - Trung Đoàn 44
         - Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
         - Vâng, có ạ.
     Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên ;
         - Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
     Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
         - Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào ?
         - Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.  
     Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:
         - Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
         - Sau đó cán bộ được trao trả ? tôi hỏi .
         - Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị . Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.
     Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói :
         - Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
     Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một nguòi tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.
     Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bắng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.
     Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng :
         - Tôi để một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
     Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
     Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân , quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luột sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luột sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh em tức khắc dấu hết "tang vật" xuống một cái hố đã đào sẵn.
     Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no sắn-
     Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao ban" , quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng ?
     Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ :
         - Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
     Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em :
         - Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm . Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
     Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.
         - Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? - một anh tù hỏi.
         - Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằng vặt mãi cho đến hôm nay.
     Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.
     Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.
           Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.
     Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.
     Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ hoc. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.
     Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.
     Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ , đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.
     Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen, cho biết, bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.
     Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.
     Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ dến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thưở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ : "ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn ". Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.    
     Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.
     Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.
     Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe, Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.
         - Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ ? tôi hỏi.
         - Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
     Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:
         - Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
         - Ông Thà, Nguyễn văn Thà, Bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan ?
         - Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
         - Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.
     Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những nguòi đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.
     Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi .
         - Bây giờ cháu đang ở đâu ? Tôi hỏi.
         - Cháu đang trốn ở nhà một nguòi bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.
         - Ba cháu bây giờ làm gì ?
         - Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.
     Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.
     Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau. anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.
     Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang . Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
     Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm . Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.
     Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.
     Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.
     Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.

--------------------------------------------------------------------------------


       "Các Anh thân quí,
     Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại". Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.
     Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người
     Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới . Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.
     Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.
     Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian..."


--------------------------------------------------------------------------------

       Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?

 Phạm Tín An Ninh, Vương Quốc Na Uy
Back to top
« Last Edit: 08. May 2007 , 15:59 by tieuvuvi »  

...
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 21 22 23 24 
Send Topic In ra