Kể từ ngày chuyển nghề , tôi không còn cơ hội sáng sáng trước khi theo em tôi đến phòng mạch , mang giày " bata " đi vòng quanh vướn 100 bận , để vừa đi vừa nghiền ngẩm sự đời , hoặc cho trí óc mình quay về với quá khứ .
Dạo ấy tôi thuộc lòng từng chỗ lồi lõm của khu vườn , thuộc từng gốc cây bụi cỏ . Tôi đã cố gắng dẫm mạnh lên những đám cỏ dại cứng đầu ; măc dầu cố đạp cho chúng rạp xuống , vậy mà mới nhấc chân lên , chúng nó đã bật dậy ngạo nghễ như trêu ngươi . Ngay trong vườn , tôi cũng đã khám phá được nhiều điều kỳ lạ : như cây chuối , đã cho chúng tôi một buồng dăm nải , khi chuối chín , buồng chuối được chặt xuống , thân cây trở nên khô héo . Ông xã tôi đã cưa thân sát gần đến gốc . Chẳng bao lâu từ trong lõi của thân cây trồi ra một nụ hoa chuối , nở ra ba nải chuối con . Chúng tôi chặt hoa chuối để làm cơm hến , ăn ngon chẳng thua gì món cơm hến của Trần Kiêm Đoàn . Ba nải chuối lớn dần lên , nhưng tháng này qua tháng khác vẫn xanh rờn không chịu chín và vẫn đeo tòn teng giữa gốc cây chuối đã già cỗi . Chúng nó vẫn gan lì dính vào lõi của thân cây chuối khô cằn đó gần nửa năm trời mới bắt đầu trở màu vàng úa và quả bắt đầu teo lại . Chúng tôi chặt ba nải chuối , thử lột một quả ăn thử , vị rất ngọt nhưng thịt ở trong đã teo tóp đen đủi nên đành vất vào thùng rác . Còn cây đào , đã hết mùa từ lâu , vẫn còn một quả nở muộn . Sáng nào khi đi ngang qua đây , tôi vẫn thấy quả đào cô độc rung rinh trong nắng sớm . Tôi bỗng cảm thấy thương hại quả đào lẻ loi đơn chiếc .
Trên cành cây ổi , một sáng sớm bỗng nhiên tôi chợt thấy một màn lưới nhện đẹp tuyệt vời . Khi ánh nắng xuyên qua màn lưới , tôi đã sững sờ nhìn không rời mắt . Những sợi tơ đan vào nhau như được đo bằng kích thước , tạo nên những hình vuông , tam giác , chữ nhật , bình hành ... sắp đều đặn cân đối cạnh nhau . Những hạt sương còn đọng lại trên màn lưới óng ánh như những hạt kim cương đủ màu sắc . Mỗi bận đi ngang cây ổi , tôi không thể nào không dừng lại vài phút để chiêm ngưỡng hình ảnh đẹp lung linh ấy . Nhưng vài hôm sau , tôi chẳng tìm thấy màn lưới nhện ấy đâu nữa . Hỏi ra mới biết chiều hôm trước ông xã tôi đã vô tình phá hủy kiệt tác thiên nhiên ấy bằng cách tưới nước lên cây ổi . Tôi đã tiếc ngẩn ngơ , giận mình vô ý không chịu dặn trước .
Có cặp chim " blue jade " bay đến vườn tôi . Chúng rất dạn dĩ . Tôi thường bỏ gạo vào đĩa , đổ nước vào tách để trên chiếc bàn tròn ngoài vườn cho chúng đến ăn . Sau này tôi thử bỏ chiếc đĩa đựng gạo vào trong lồng chim , để ngỏ cửa lồng - thế mà thoạt đầu chúng còn ngại ngùng không dám vào . Về sau chắc không cưỡng được sức quyến rũ của những hạt gạo trắng ngần đang phơi mình trên chiếc đĩa như mời gọi . Chúng đã thử nhảy vào đớp vài hạt gạo rồi lẹ làng nhảy vọt ra khỏi lồng , vẫn không thấy gì nguy hiểm . Từ đấy ngang nhiên nhảy vào lồng thoải mái ăn gạo , xong lại nhảy ra chúi đầu vào ly nước giải khát trước khi cất cánh bay đi . Có bận tôi quên bỏ thêm gạo , chúng nó " chét chét " gọi , hoặc bay vào tận hàng hiên nơi ông xã tôi đang ngồi hút thuốc lá như nhắc nhở . Sáng nào tôi đi quanh vườn , chúng vẫn dạn dĩ nhảy nhót gần đấy , không tỏ vẻ gì sợ hãi . Có một bận khi tôi đang thong thả sải từng bước đi , đầu óc miên man say với quá khứ và hiện tại , bỗng nghe một tiếng " chạch " rồi vai mình cảm thấy lành lạnh ươn ướt . Ngẩng nhìn lên thì bắt gặp một trong đôi chim ấy đang vắt vẻo đậu trên dây điện , tôi giận quá mắng nó :
" Mi là đồ vô ơn , ta đã cho ăn cho uống mà trả ơn ta như rứa đó hả ? ... "
Còn định mắng thêm vài câu nữa , nhưng thấy nó đang nhướng thân mình , đôi cánh gù lên , nên tôi chạy vội qua chỗ khác ngay , chứ lần này nó lại cho mình một bãi trên đầu thì khổ thân ! Không hiểu chim hay gió đã tha đến vườn tôi vài cây hoa lạ . Tôi đặt tên chúng là " hoa lồng đèn " . Cả thân cây chỉ một cọng thẳng như chiếc đũa , trên đỉnh là một chùm lông trắng tròn . Thoạt nhìn tôi đã mừng rỡ vì cứ ngỡ đấy là những cây hoa ở làng Mai Xá , là nơi gia đình tôi đến tản cư tránh quân đội viễn chinh Pháp , chúng phát ra một ánh sáng kỳ lạ . Nhưng tôi đã thất vọng biết bao , khi bóng đêm vừa đổ xuống , tôi chạy vội ra tìm những bông hoa lồng đèn ấy , cố giương mắt nhìn mãi vẫn chẳng thấy ánh sáng nào tỏa ra . Những bông hoa này đã đưa trí óc tôi quay về quá khứ xa xăm : gia đình ông bà ngoại tôi , các cậu , dì , dượng tôi và gia đình chúng tôi đã rời bỏ tỉnh Quảng Trị để lên thuyền tản cư về làng Mai Xá . Những ngày ở làng này , đối với người lớn là cả một cực hình , nhưng đối với bọn trẻ con chúng tôi , là những ngày hè kéo dài vui thú .
Ban ngày chúng tôi theo dân làng đi xem cắt lúa , đập lúa , giã gạo ; đi tìm bắt những con dế đực đen huyền , hoặc màu nâu đỏ , gọi là dế lửa , đem về cột chúng bằng sợi tóc , rồi quay vòng vòng . Khi ngừng quay , thả chúng xuống là chúng sửng cồ dơ nanh múa vuốt xáp vào nhau như hai con gà chọi say máu . Chị họ tôi và tôi là những nạn nhân , vì có mái tóc dài , thường bị các anh xin vài sợi để xoáy dế . Nếu không bằng lòng , các anh đợi khi chúng tôi không để ý , bất thần bị dựt tóc , đôi khi đứt luôn vài sợi một lúc , đau muốn phát khóc . Thường thường buổi trưa , đợi khi người lớn an giấc , bọn trẻ chúng tôi chạy đến những thửa vườn trồng bắp , bẻ trộm những thân cây non để hút chất nước ngọt từ trong lõi cây . ban đêm chúng tôi đi tìm bắt đom đóm mà tôi đã khám phá ra được những bông hoa tỏa ánh sáng kỳ lạ đó . Về sau này , dù tôi cố công tìm kiếm cũng chẳng bao giờ tìm thấy lại được những cành hoa ấy nữa .
Rồi những ngày tản cư cũng chấm dứt . Đại gia đình chúng tôi trở về Quảng Trị . Trên đường hồi cư , chúng tôi ghé lại huyện Gio Linh là nơi cụ Từ Bộ Tần đang nhậm chức . Thuở ấy chỉ có ba ái nữ cùng ở với Cụ là Từ Thị Như Mai , Từ Thị Như Tùng và Từ Thị Kim Cúc ( hai trong ba người này đã trở thành thân hữu nhiệt tình cho các Tập San 48-55 Khải Định ) là những người bạn chí thiết của tôi sau này . Dù thời gian trú ngụ tại huyện Gio Linh quá ngắn ngủi , cũng để lại cho chúng tôi những kỷ niệm khó quên và khi chia tay chúng tôi không khỏi bùi ngùi lưu luyến . Tôi còn nhớ mỗi buổi trưa khi ăn xong , người lớn bắt tất cả chúng tôi nằm sắp lớp trên chiếc sập gỗ . Có một buổi trưa , chúng tôi còn ham chơi không đi ngủ , một trong ba ái nữ của cụ Từ đã đến thỏ thẻ với anh họ tôi : " Anh lên đi ngủ , rồi em cho ăn kẹo chocolat "
Anh tôi mặc dầu ham chơi , nhưng có lẽ kẹo chocolat quyến rũ hơn , nên đã bằng lòng bỏ cuộc chơi . Bây giờ mỗi bận nhắc lại những kỷ niệm ấy , chúng tôi không khỏi cười thầm và luyến tiếc những ngày thơ ấu đã mãi mãi trôi qua .
Mấy mươi năm sau khi Mai và tôi được tái ngộ với nhau trên đất Mỹ này , để nối lại tình bạn xưa , tôi cũng liên lạc được với Kim Cúc cô bé xinh xắn như con búp bê mà tôi đã rất yêu mến thuở nào , bằng những lá thư bay về từ Pháp và Mỹ , chỉ tiếc thương cho Như Tùng đã chịu cảnh hồng nhan mệnh bạc quá đau thương !
Lứa tuổi chúng tôi , thuở còn học các lớp đệ thất , đệ lục ai mà chẳng mê đọc chuyện " Nửa bồ xương khô " của Vũ Anh Khanh và thuộc lòng bài thơ " Tha La Xóm Đạo " ? Ông là thần tượng của tôi dạo ấy . Giờ đây nghe Thầy Nguyễn Văn Đãi cho biết ông đã bị lính cộng sản bắn chết trong khi bơi qua sông Bến Hải , để trở về lại miền Nam vì đã chán ngán chế độ xã hội chủ nghĩa của cộng sản , tôi không khỏi bùi ngùi xúc động . Thầy Đãi là một trong những người tôi đã liên lạc , để xem Thầy có thể giúp tôi ghi lại bài thơ Tha La Xóm Đạo ? Thầy đã mất công đến thư viện San Francisco tìm kiếm nhưng chỉ chép được một phần do Uyên Thao trích ra mà thôi . Tôi chỉ nhớ lõm bõm câu được câu mất . Mộng Hà với trí nhớ tuyệt vời cũng không thể nhớ trọn bài . Bởi vậy nên tôi phải cầu cứu đến Nguyễn Mậu Diễn ( người đầu tiên năm 1975 đã chép trọn bài Tha La Xóm Đạo tặng tôi , nhưng tôi đã để lạc mất và Diễn giờ đây cũng không còn nhớ được toàn vẹn bài thơ ) Nguyễn Xuân Thiệp , anh chị Hồ Huy , Hồ Văn Lợi , Kim Thoa . Các anh Nguyễn Ngọc Nhâm , Trần Sĩ Lâm , Tôn Thất Ngự , anh Ngự vì bận đi Canada nên đã không gởi kịp bài thơ cho tôi , mà thời hạn nộp bài cho anh Hà Thúc Giảng đã gần kề ) , Huy Trâm , Nguyễn Đức Cung ... ai ai cũng hứa sẽ giúp tôi , thì may mắn thay thi sĩ Hà Nguyên Du ( là bạn thân của anh Huy Trâm , có sẵn bài thơ ấy và sẽ viết về nhà văn Vũ Anh Khanh ) đã hứa sẽ gửi bài thơ Tha La Xóm Đạo cho anh Lâm để anh Lâm chuyển đến tôi . Tôi rất nóng lòng không thể chờ đợi lâu hơn nữa , nên đánh bạo gọi điện thoại thẳng cho anh Du và nhờ anh ấy đọc luôn trên máy cho tôi chép . Anh Du đã bằng lòng thế là tôi có trọn bài Tha La Xóm Đạo .
Sau khi gởi bài này lên ban biên tập của Bắc Cali , tôi chắc vẫn còn nhận được vài bài thơ Tha La Xóm Đạo nữa ? Nhân tiện đây , tôi cũng xin chân thành cám ơn Thầy Nguyễn Văn Đãi và các bạn nêu trên đã tận tình hứa giúp tôi và nhất là anh Hà Nguyên Du .
Tôi xin chép lại bài thơ này , để các bạn cùng tôi sống lại thời mà chúng ta còn mê đọc những truyện như " SLAO chi Mai " , " Xin đắp mặt tôi mảnh lụa hồng " ... và bài thơ " Tha La Xóm Đạo " của Vũ Anh Khanh đã in đậm nét vào lòng chúng ta . Nó không những chỉ là một bài thơ , nó còn là một bản bi hùng ca , nhưng nó không " hùng " như bản Tiến quân ca , tuy vậy nó cũng đã khơi dậy tấm lòng yêu quê hương tổ quốc trong mỗi chúng ta . Chẳng trách dạo ấy phần lớn chúng ta đều " mê" theo phong trào học sinh kháng chiến ! Nó không " bi " quá để chúng ta phải rơi lệ mà nó thấm thấu vào lòng chúng ta , gây cho ta một nổi buồn nhẹ nhàng thanh thoát nhưng day dứt :
Đây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh
Ngậm ngùi Tha La bảo :
Đây rừng xanh , rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng
Khói đùn quanh nóc tranh
Gió đùn quanh mây trắng
Và lửa loạn xây thành .
" VIễn khách ơi ! Hãy dừng chân cho hỏi "
Nắng hạ vàng , ngàn hoa gạo rưng rưng
Đây Tha La một xóm đạo ven rừng
Có trái ngọt cây lành im bóng lá
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm , lòng viễn khách bơ vơ
" Về chi đây , Khách hỡi có ai chờ ? "
" Ai đưa đón ? " " Xin thưa , tôi lạc bước "
" Không là duyên, không là bèo kiếp trước "
" Không có ai chờ , đưa đón tôi đâu . "
Rồi quạnh hiu khách lặng lẽ cúi đầu
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ
Ngàn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng , ngàn hoa máu rưng rưng
Nhìn hoa rơi , lòng khách bỗng bâng khuâng .
Tha La hỏi :" Khách buồn nơi đây vắng ? "
" Không , tôi buồn vì mây trời đây trắng "
Và Khách buồn vì tiếng gió đang hờn
Khách rùng mình nghe gió nổi từng cơn
Gió vun vút , gió rợn rùng , gió rít
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch
Thôi hết rồi ! Còn chi nữa Tha La !
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn
Tiếng địch càng cao , não nùng ai oán
Buồn trưa trưa , ngây ngất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa , lây lất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng mình , ngẩn ngơ người hiu quạnh
Thôi hết rồi ! Cón chi nữa Tha La !
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch
Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng
Đang đón mây xa , Khách bỗng ngại ngần
" Kính thưa cụ , vì sao Tha La vắng ? "
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng
Nhẹ bảo chàng : " Em chẳng biết gì ư ?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù
" Người nước Việt ra đi vì nước VIệt .
" Tha La vắng vì Tha La đã biết
" Thương giống nòi , đau đất nước lầm than. "
Trời xa xanh mây trắng quyện ngàn hàng
Ngày hiu quạnh, ờ ơ hơ ... tiếng hát
Buồn như gió lướt, lạnh dài đôi khúc nhạc
Tiếng hát rằng :
" Tha La giận mùa thu
" Tha La giận quốc thù
" Tha La hờn quốc biến "
" Tha La buồn tiếng kiếm
" Não nùng chưa ! Tha La nguyện hy sinh
Ờ ơ hơ .. " Có một đám chiên lành
" Quỳ lạy chúa một chiều xưa lửa dậy
" Quỳ lạy chúa đám chiên lành run rẩy
" Lạy Đức thánh Cha
" Lạy Đức thánh Mẹ
" Lạy Đức thánh thần
" Chúng con về cõi tục để làm dân
" Rồi cởi trả áo tu
" Rồi xếp Kinh cầu nguyện
" Rồi nhẹ bước trở về trần
" Viễn khách ơi ! Người hãy dừng chân
" Nghe Tha La kể , nhưng mà thôi Khách nhé
" Đất đã chuyển , rung lòng bao thế hệ
" Trời Tha La vần vũ đám mây tang
" Vui gì đâu mà tâm sự !
" Buồn làm chi cho bẽ bàng
Ờ ơ hơ .. tiếng hát
Rung lành lạnh ngân trầm đôi khúc nhạc
Buồn tênh tênh " Não lòng lắm Khách ơi ! "
" Tha La thương người viễn khách quá đi thôi !
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trong nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao vàng rụng , lá rừng bay
" Giờ Khách đi , Tha La nhắn câu này :
" Khi hết giặc , Khách hãy về thăm nhé
" Hãy về thăm xóm đạo
" Có trái ngọt cây lành ,
" Tha La dâng ngàn hoa gạo
" Với suối mát rừng xanh
" Thăm đám chiên lành thương áo trắng
" Nghe trời nổi gió , nhớ quanh quanh . "

Những buổi sáng sau vườn không những tôi chỉ quay về với quá khứ , đôi khi cũng nghĩ đến hiện tại xa và gần . Trí óc tôi luôn nhớ đến các bạn đồng nghiệp và các em học sinh Lê Văn Duyệt thương mến của tôi , nhớ đến những buổi họp mặt đượm tình nghĩa thầy trò . Nhớ đến các bệnh nhân tí hon của em tôi , với những câu chuyện tưởng tượng trẻ con nghe mà cười đến nôn ruột . Nhớ lại sự hình thành của nhóm 48-55 Khải Định và các tập san đã ra đời . Cũng nhờ đấy mà tôi cảm thấy thích thú viết , viết để nhớ lại và để viết cho các bạn mình đọc những câu chuyện tầm phào của mình . Cũng nhờ có nhóm 48-55 Khải Định mà tôi đã mừng biết rằng mình có thêm hai người bà con , đấy là " Chú " Nguyễn Tuệ và " Anh " Hoàng Xuân Đỉnh , nhưng lại buồn vì tự nhiên mình bị xuống chức . Thế là phải nghĩ ra một kế để điều chỉnh tình trạng này : Số là người Mỹ thường tôn trọng đàn bà , đàn bà được xem trọng hơn đàn ông , đàn bà muốn là như trời muốn , mà hiền thê của " Chú " Tuệ là Phương Thanh đang gọi tôi là " Chị " xưng " Em " cũng như Hoàng Hương Thủy em gái " Anh " Hoàng Xuân Đỉnh cũng vậy . Chúng ta đang sống tại Mỹ muốn hay không muốn cũng đã trở thành công dân Hoa Kỳ , vậy nên chúng ta phải tôn trọng " Điều lệ " của họ , thế là tôi lại được lên chức ! Nếu điều lệ này được thi hành dứng đắn thì các anh Hậu , Lâm , Quỳnh Loan , Nhâm , Ngưng , Phú ( phu quân của Hương Thủy ) , Thiều , Quỳnh Tiêu ... nghĩ sao đây ? Tôi lại chợt nghĩ đến Quỳnh Hoa , Dạ Khê , Nguyệt , Lệ Thủy , Mỹ Trang và Lưu Ty . Nguyệt là cô của Quỳnh Hoa và anh Liễn cũng phải gọi tôi là " cô " ( mong rằng Nguyệt đừng đặt điều kiện ngược lại ) . Nhưng Dạ Khê nếu kể về phương diện bà con , mẹ tôi và các dì tôi , lại kêu Dạ Khê bằng " Chị " , còn Lệ Thủy , Lưu Ty , Mỹ Trang lại ngang hàng với mợ tôi là cả một vấn đề ! Vậy có lẽ tôi phải trở về vị trí cũ , bạn là bạn , không nhận ai là bà con nữa.
Đây là những chuyện sáng sáng nào khi đi quanh vườn tôi cũng miên man nghĩ đến , nhảy từ chuyện này qua chuyện khác , không đầu không đuôi mà vẫn thấy thích thú . Từ ngày có " job mới " , tôi không còn thời giờ đi dạo quanh vườn như trước , vì phải lái xe đi làm từ sáng sớm . Nếu muốn đi vòng quanh vườn như vậy phải bắt đầu từ 5 giờ sáng , giờ ấy trời đang tối mù , nhìn qua nhà bên cạnh tôi đã rợn tóc gáy vì cứ tưởng tượng ông hàng xóm ( đã chết bất đắc kỳ tử ) đang đứng sau hàng rào . Thôi thì đành phải giã từ khu vườn với nhiều kỷ niệm và cũng xin tạm ngưng nghĩ đến quá khứ và hiện tại trong lúc này để hoàn thành bài viết kịp gởi cho Tập San 48-55 Khải Định tập 5 , kẻo kỳ hạn cuối cùng đã đến .
Cali ngày 24 tháng 9 năm 1999Ngô T. Vân