Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - TÀI LIỆU LỊCH SỬ  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra
TÀI LIỆU LỊCH SỬ (Read 8988 times)
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỬ MỞ NƯỚC
Reply #15 - 19. Jul 2006 , 05:01
 
3.- CÔNG CHÚA NGỌC KHOA  
Như trên đã viết, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên có bốn cô con gái. Hai người lớn nhất và trẻ nhất có chồng Việt. Người thứ nhì là công chúa Ngọc Vạn kết hôn với vua Chân Lạp. Vậy số phận cô công chúa thứ ba tên là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa như thế nào mà trong Đại Nam liệt truyện tiền biên, tiểu truyện của Ngọc Khoa cũng đề là „khuyết truyện“ ?  
May thay, sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, do chính Hội Đồng Nguyễn Phúc tộc viết lại, đã chép rằng:"...Năm tân mùi [1631] bà [Ngọc Khoa] được đức Hy Tông [Sãi Vương] gả cho vua Chiêm Thành là Pôrômê. Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình giao hảo giữa hai nước Việt Chiêm được tốt đẹp (7)  
Vấn đề không đơn giản chỉ là tình giao hảo giữa hai nước, mà lý do cuộc hôn nhân nầy còn sâu xa hơn nhiều.  
Thứ nhất, chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc vừa mới bùng nổ năm đinh mão (1627) tại vùng Bố Chính (Quảng Bình ngày nay).  
Thứ nhì, năm 1629, lưu thủ Phú Yên là Văn Phong (không biết họ) liên kết vơi người Chiêm Thành nổi lên chống lại chúa Nguyễn. Sãi Vương liền cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh, chồng của công chúa Ngọc Liên, đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.( Sãi Vương rất lo ngại nếu ở phía nam, Chiêm Thành mở cuộc chiến tranh chống chúa Nguyễn thì ông sẽ lâm vào tình trạng“lưỡng đầu thọ địch“.  
Thứ ba, vào cuối thế kỷ 16, người Chiêm Thành thường buôn bán với người Bồ Đào Nha ở Macao, thuộc địa của Bồ trên đất Trung Hoa. Thương thuyền Bồ Đào Nha hay ghé buôn bán trao đổi với người Chiêm ở các hải cảng Cam Ranh và Phan Rang.(9) Do đó, nếu triều đình Chiêm Thành liên kết với người Bồ Đào Nha để chống lại Đại Việt, thì thật là nguy hiểm chẳng những cho chúa Nguyễn và nguy hiểm cho cả nước ta. Điều nầy làm cho chúa Nguyễn lo ngại, nhất là khi Pô Ro mê là một người anh hùng, lên làm vua Chiêm Thành (trị vì 1627-1651).(10)  
Có thể vì các nguyên nhân trên, Sãi Vương quyết định phải dàn xếp với Chiêm Thành, và đưa đến cuộc hôn nhân hòa hiếu Việt Chiêm năm 1631 giữa Ngọc Khoa, con của Sãi Vương, với vua Chiêm là Poromê, nhắm rút ngòi nổ của phía Chiêm Thành, bảo đảm an ninh mặt nam.  
Các sách tây phương ghi nhận rằng không hiểu vì sao, sau năm 1639 thì cuộc giao thương giữa Chiêm Thành và người Bồ Đào Nha không còn được nghe nói đến nữa.(11) Phải chăng việc nầy là hậu quả của chuyện công chúa Ngọc Khoa sang làm hoàng hậu Chiêm Thành tám năm trước đó (1631)?  
Sử sách không ghi lại là bà Ngọc Khoa đã làm những gì ở triều đình Chiêm Thành, chỉ biết rằng truyền thuyết cũng như tục ngữ Chiêm Thành đều có ý trách cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng bà Ngọc Khoa đã làm cho vua Pô Ro mê trở nên mê muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ.  
Trong sách Dân tộc Chàm lược sử, hai ông Dohamide và Dorohiem cho biết theo lời của một vị "Pô Thea", người phụ trách giữ tháp Pô Ro mê, kể cho tác giả E. Aymonier câu chuyện rằng vua Pô Ro mê có ba vợ. Bà vợ đầu là Bia Thanh Chih, con của vị vua tiền nhiệm đã truyền ngôi cho Pô Ro mê. Bà nầy không có con. Pô Ro mê cưới người vợ thứ nhì là một cô gái gốc Ra đê, tên là Bia Thanh Chanh. Bà nầy sinh được một công chúa, sau gả cho hoàng thân Phik Chơk. Hoàng thân Phik Chơk lại "liên kết với vua Yuôn [chỉ người Việt] và cho triều đình Huế rõ nhược điểm trong tâm tánh của Pô Ro mê: sự yếu đuối trước sắc đẹp mỹ nhân. Vua Yuôn đã cho một công chúa thật đẹp giả dạng làm khách thương sang nước Chàm. Do sự sắp xếp khéo léo, tin tức về nữ khách thương duyên dáng ngoại bang nầy đến tai Pô Ro mê, nên Pô Ro mê đã cho dời đến và khi vừa thấy mặt thì đã phải lòng ngay. Người Chàm gọi vị công chúa Yuôn nầy là Bia Ut hay Nữ Hoàng Ut cũng thế. (12)  
Theo truyền thuyết Chiêm Thành, bà Ngọc Khoa hay Bia Ut đã dùng sắc đẹp mê hoặc Pô Ro mê, khiến ông chặt bỏ cây "kraik", biểu tượng thiêng liêng của vương quốc Chiêm Thành, vì vậy sau đó vương quốc nầy sụp đổ.(13) Dân chúng Chàm thường truyền tụng câu đố: "Ô hay ngài linh thiêng, rước vợ từ kinh, lim ngài mất ứng."(Sanak jak po ginrơh patrai, tok kamei Ywơn mưrai kraik po lihik ginrơh). Ngoài ra, người Chàm còn dùng tên bà Bia Ut trong một câu thành ngữ để mỉa mai những phụ nữ béo mập: "Béo như bà Ut " (Limuk you Bia Ut).(14)  
Ngoài việc thần linh hóa câu chuyện, truyền thuyết trên đây đã phản ảnh một phần sự thật lịch sử, đó là nước Chiêm Thành, một lần nữa suy yếu hẳn đi sau cuộc hôn nhân Việt Chiêm năm 1631, nhờ đó, người Việt nhanh chóng vượt qua Chiêm Thành, xuống đồng bằng sông Cửu Long.  
Như thế, hai công chúa Ngọc Khoa và Ngọc Vạn, tuy không chính thức đem lại đất đai về cho đất nước như công chúa Huyền Trân, nhưng cả hai đều đã mở đường cho cuộc Nam tiến, và quả thật khoảng một thế kỷ sau đó, chúa Nguyễn đã mở rộng biên cương về phía nam như địa hình nước Việt ngày nay.  
Trong lịch sử, những chiến công oanh liệt để bảo vệ đất nước và mở nước ở dạng bùng nổ luôn luôn được ghi nhận đầy đủ, nhưng những cuộc mở nước âm thầm như việc làm của các bậc nữ lưu trên đây ít được chú ý đến. Thi sĩ Pierre Corneille (Pháp, 1606-1684), trong kịch phẩm cổ điển Le Cid, đã viết: „A vaincre sans péril, on triomphe sans gloire“ (Chiến thắng không gian nguy thì khải hoàn không vinh dự). Tuy nhiên những cuộc mở nước êm đềm, không tốn xương máu của dân tộc, thì chỉ có những bậc nữ lưu can đảm và anh hùng như trên mới có thể thực hiện.  
 
TRẦN GIA PHỤNG


CHÚ THÍCH:  
1. Nghi lễ vợ hỏa thiêu theo chồng trong Ấn giáo gọi là trà tỳ (suttee), còn thịnh hành ở Ấn Độ cho đến khi người Anh cai trị và bãi bỏ vào năm 1829.  
2. Đại Việt sử ký toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: bản dịch Nxb. Khoa học Xã hội, 1993, tập 2, tr. 91.  
3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch tập 3 của Viện Sử học, Huế: Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1997, tr. 358.  
4. Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, Trần Lê thời đại [Quyển 2], Nxb. Văn Hữu Á Châu, Sài Gòn, 1959, tt. 272-273.  
5. Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc, Nguyễn Phúc tộc thế phả, Huế: Nx. Thuận Hóa, 1995, tt. 113-114, 126. Trần Trọng Kim trong VNSL bỏ qua sự kiện nầy. Trong Việt sử xứ Đàng Trong, Phan Khoang chép việc nầy nhưng không đưa tên công chúa Ngọc Vạn. Trong phần chú thích, ông viết : "Việc nầy sử ta đều không chép, có lẽ các sử thần nhà Nguyễn cho là việc không đẹp nên giấu đi chăng? " Sau đó, Phan Khoang cẩn án rằng: "...Xem Liệt truyện tiền biên, mục công chúa, thấy chúa Hy Tông có bốn con gái, hai nàng Ngọc Liên và Ngọc Đảnh thì có chép rõ sự tích chồng con, còn hai nàng Ngọc Vạn, Ngọc Khoa thì chép là "khuyết truyện", nghĩa là không rõ tiểu truyện, tức là không biết chồng con như thế nào. Vậy người gả cho vua Chey Chetta II phải là Ngọc Vạn hay Ngọc Khoa." (Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong [Sài Gòn], Houston: Nxb. Xuân Thu tái bản không đề năm, gồm 2 quyển thượng và hạ, đánh số trang xuyên suốt từ q. thượng qua q. hạ, tt. 400-401) Phan Khoang có lý khi viết như vậy. Về khu dinh điền, sách Thế phả (tr. 113) nói vùng Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay). Sách của Phan Khoang (trang 401) viết là Prey Kôr tức Sài Côn hay Sài Gòn ngày nay, nhưng dựa vào lời tấu trình của Nguyễn Cư Trinh năm 1755, nói rằng người Việt vào Hưng Phước, Đồng Nai (nói chung là Phước Long), rồi mới đến Sài Côn, vậy Thế phả đúng.  
6. Phan Khoang, "Cuộc tranh giành ảnh hưởng ở nước Chân Lạp giữa Tiêm La và các chúa Nguyễn" , đăng trên tập sang Sử Địa, số 14, Sài Gòn: 1969, tr. 78. Phan Khoang dựa vào tài liệu của người Pháp viết như trên. Các sách trước đây chép rằng Nặc Ông Chân chịu thần phục nên được Hiền Vương cho đưa về nước tiếp tục cai trị.  
7. Thế phả, sđd. tr. 126.  
8. Trấn Biên: thường được dùng để đặt tên cho những dinh vùng biên giới. Khi biên giới được mở rộng, dinh Trấn Biên xuống đến vùng Biên Hòa ngày nay. Nguyễn Phúc Vinh: tên thật là Mạc Cảnh Vinh, con của Mạc Cảnh Huống, có vợ là Nguyễn Phúc Ngọc Liên, con gái đầu của Sãi Vương, nên được đổi qua quốc tính là Nguyễn Phúc.  
9. Pierre Bernard Lafont, "On the Relations Between Champa and Southeast Asia", đăng trong sách Proceedings of the Seminar on Champa, gồm những bài thuyết trình trong cuộc hội thảo quốc tế về Chiêm Thành tại đại học Copenhagen (Đan Mạch) ngày 23-5-1987. Sách nầy nguyên bản bằng Pháp văn, do Hội Nghiên cứu Lịch sử và Văn hóa Bán đảo Đông Dương, Paris ấn hành năm 1988, đã được giáo sư Huỳnh Đình Tế dịch sang Anh văn, ấn hành tại California, Nxb. Southeast Asia Community Resource Center (viết tắt SACRC), 1994, tr. 73.  
10. Pô Ro mê là một vị vua anh hùng của Chiêm Thành, cai trị khá lâu nước nầy trong thời gian 24 năm (1627-1651). "Với những chiến công hiển hách được tô thêm nhiều chi tiết huyền thoại, Pô Ro mê đã được người dân Chàm thần linh hóa..." (Dohamide và Dorohiem, Dân tộc Chàm lược sử, Sài Gòn: 1965. tr. 147.)  
11. Pierre Bernard Lafont, bđd., sđd. tr. 73.  
12. Dohamide và Doroheim, sđd. tr. 149.  
13. Ngô Văn Doanh, Tháp cổ Chămpa, Sự thật & Huyền thoại, Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin, 1994, tt. 187-196.  
14. Inrasara, Văn học dân gian Chăm, tục ngữ - thành ngữ - câu đố, TpHCM: Nxb. Văn hóa Dân tộc, 1995, tr. 201, 230. [Tác giả Insara có tên Việt là Phú Trạm.]  


Back to top
« Last Edit: 21. Aug 2006 , 12:41 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re:  NHỮNG NỬ ANH THƯ  CUẢ ĐẤT NƯỚC V
Reply #16 - 03. Aug 2006 , 23:56
 
Cuộc Khởi Nghĩa Của Hai Bà Trưng


(bài của GS Nguyễn Lý-Tưởng)


Người Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa đã có truyền thống tôn sùng các bậc anh hùng đánh đuổi xâm lăng, giải phóng dân tộc. Trong các anh hùng của dân tộc Việt Nam, thì Hai Bà Trưng và Trần Hưng Đạo đã được xem như các bậc thần thánh và được người dân lập đền thờ, có Hội Đền Đức Thánh Trần, Hội Đền Hai Bà Trưng. Sự sùng bái của nhân dân đối với các Ngài đã đi quá giới hạn bình thường, với niềm tin và sinh hoạt đặc biệt chẳng khác gì các tôn giáo. Tuy nhiên, với tư cách một người nghiên cứu sử học, chúng tôi có nhiệm vụ đi tìm sự thật lịch sử khách quan, gạt ra ngoài những tình cảm và sự sùng kính đặc biệt như đã có từ lâu đời trong dân tộc chúng ta. Nhân ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng, chúng tôi xin cống hiến quý vị độc giả những tài liệu lịch sử vốn rất quen thuộc với những nhà nghiên cứu lịch sử xưa nay, nhưng cũng có thể là mới mẻ đối với một số người vì không thuộc lãnh vực chuyên môn của họ.
1. Nước Lạc Việt
Trong các sách cổ của Trung Hoa có nói đến một dân tộc gọi là Lạc Việt. Hậu Hán Thư, quyển 54, phần nói về Mã Viện, danh tướng của nhà Hán, có chép rằng: “Viện hảo kỵ, thiện biệt danh Mã, chinh Giao Chỉ, đắc Lạc Việt đồng cổ, nải chú vi mã thức” (Viện cưỡi ngựa giỏi, nên có biệt danh là Mã, khi sang đánh Giao Chỉ, ông đã lấy được trống đồng của người Lạc Việt, đem đúc thành con ngựa). Thế kỷ thứ 6, có một người tên Lệ Đào Nguyên, đã từng đến đất Lạc Việt xưa (vùng Mê Linh) và đã ghi lại những điều nghe thấy qua sách Thủy Kinh Chú như chuyện Trưng Trắc, Trưng Nhị, v.v...Lệ Đào Nguyên cũng có nhắc đến một sách cổ tên là “Giao Châu ngoại vực ký”. Sách nầy được sử gia Pháp là Aurousseau cho rằng có thể do Cố Vi vào đời nhà Tấn (205- 420), trong đó có một đoạn nói đến đời sống của dân Lạc Việt như sau:“ Giao Chỉ tích hữu quận, huyện chi thời, thổ địa hữu Lạc Điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân. Thiết Lạc vương, Lạc hầu, chủ chư quận huyện. Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ” (Lệ Đào Nguyên, Thủy Kinh Chú, quyển 7, tờ 4b), dịch nghĩa: “Ngày xưa khi đất Giao Chỉ chưa trở thành quận, huyện của nhà Hán, ở đó có ruộng gọi là ruộng Lạc. Ruộng đó tùy theo nước thủy triều lên xuống (ruộng ngập nước), dân khai khẩn ruộng đó nên gọi là ruộng Lạc. Họ lập ra các chức Lạc vương, Lạc hầu để làm chủ các huyện. Có nhiều Lạc tướng có ấn đồng lụa xanh”. Tư Mã Trinh khi chú giải Sử Ký của Tư Mã Thiên có nhắc đến một sách khác của họ Đào là “Quảng Châu Ký” trong đó có nói đến đời sống của dân Lạc. Lê Tắc, trong An Nam Chí Lược (viết vào khoảng năm 1333) trang 24 cũng có nhắc đến đời sống của dân Lạc...Thế kỷ 15, Ngô Sĩ Liên, trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng nhắc đến Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng...Thế kỷ 17, Cao Hùng Trưng, trong “An Nam Chí Nguyên” và thế kỷ 19, sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” cũng nhắc lại chi tiết đó...Nhiều học giả cho rằng các sách nầy đều lấy lại tài liệu của “Giao Châu ngoại vực ký” nói trên vì tất cả các tác giả đều lặp lại những chi tiết mà sách Giao Châu Ngoại Vực Ký đã nói đến. Qua đoạn văn trên chúng ta biết được dân lạc Việt đã có đời sống nông nghiệp, biết khai thác ruộng ngập nước (ruộng Lạc), họ có vua gọi là Lạc vương và dưới vua có Lạc hầu, Lạc tướng...Vua cấp cho các tướng con dấu bằng đồng, có giải lụa xanh,v.v... hoặc là các tướng tự đúc ra con dấu bằng đồng, có giải lụa xanh. Như vậy thời đó họ đã dệt được lụa hoặc mua lụa của người Trung Hoa (nhà Tần nổi tiếng về tơ lụa). Xã hội thời đó đã có tổ chức, kinh tế phát triển và họ cũng có luật pháp riêng. Theo Phạm Việp, tác giả Hậu Hán Thư, thì: “Luật của người Lạc Việt và luật của nhà Hán khác nhau đến mười điều vì thế Mã Viện phải giải thích luật pháp cũ cho họ và bắt họ từ này về sau phải tuân giữ” (Hậu Hán Thư, quyển 54, trang 747, cột 2: “Điều tấu Việt luật dữ Hán luật bác giả thập dư sự. Dữ Việt nhân minh cựu chế dĩ ước thúc chi, tự hậu Lạc Việt cử hành Mã tướng quân cổ sự”).
Những chi tiết trên đây là hình ảnh của dân Lạc Việt trước khi bị người Trung Hoa xâm chiếm, thế kỷ thứ I trước Công nguyên. Sử liệu có sớm nhất cũng xuất hiện vào thế kỷ thứ IV, nghĩa là sau các biến cố nói trên mấy trăm năm và do người Trung Hoa ghi chép. Sử gia Việt Nam khi nói về thời kỳ nầy cũng dựa vào sử sách của Trung Hoa là chính. Khi viết về người Lạc Việt người Trung Hoa dùng Hán tự để phiên âm những tên người, tên đất hoặc diễn tả ý nghĩa của sự việc. Do đó những từ “Lạc vương”, “Lạc hầu”, “Lạc tướng” là ngôn ngữ của Trung Hoa chỉ các chức vụ của người Trung Hoa tương đương với chức vụ của người Lạc Việt.
Nói tóm lại, người Lạc Việt đã có một xã hội, có tổ chức, có người lãnh đạo, có luật pháp, có văn hóa nghệ thuật, kinh tế phát triển so với các dân tộc khác cùng thời. (Ở đây, chúng tôi xin lưu ý một điều: Người Mường và người Việt ở miền Trung từ Nghệ An vào đến Quảng Trị là vùng đất cổ của tổ tiên chúng ta trước thế kỷ thứ 10, thường phát âm chữ “Nước” thành chữ “Nác” (nước uống). Chữ nầy rất gần với “Ruộng Nước”, “Ruộng Nác”, chúng tôi nghĩ rằng người Trung Hoa đã phiên âm chữ “Nác” thành chữ Lạc có nghĩa là một dân tộc chuyên làm ruộng nước, cấy lúa trên ruộng ngập nước chứ không gieo hạt lúa trên nương rẫy. Đó là điểm đặc biệt của người phương Nam khác với người phương Bắc (Bắc kinh).
2. Chính Sách Thực Dân Của Nhà Tần
(221-206 trước Công Nguyên): Triệu Đà Và Nước Nam Việt
(Danh từ “thực dân” được hiểu là đem dân từ nơi nầy đến lập nghiệp nơi khác và không cho họ trở về quê cũ, nơi sinh quán nữa. “Thực” ở đây theo Hán tự có nghĩa là “Trồng” như trồng cây). Sau khi Lữ Chính diệt được 6 nước nhỏ (lục quốc), thống nhất thành một nước lớn và lên ngôi tức Tần Thủy Hoàng (221-206 trước Công Nguyên). Nhà Tần có một chính sách thực dân rất quy mô. Sử gia Tư Mã Thiên (thế kỷ thứ I trước Công Nguyên) đã cho chúng ta biết một số chi tiết về chính sách đó như sau:“Năm thứ 33 đời Tần Thủy Hoàng (tức năm 214 trước Công Nguyên), vua bắt tất cả những kẻ lang thang vô thừa nhận, bọn ăn dưng ở nể và bọn con buôn đi chiếm đất Lục Lương. Ông lập ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận, và đày những người có tội đến ở để giữ” (Sử Ký, quyển 6, tr. 25, cột 2). Đạo quân thực dân thời Triệu Đà từ phương Bắc đến trong đó có cả lính tráng và dân thường lên đến nửa triệu người. Để thực hiện chính sách đó, nhà Tần cho đào sông, bắc cầu, xẻ núi, mở đường, sai Sử Lộc chế ra lâu thuyền để vận tải hàng hóa, binh khí...Bọn người nầy vượt Ngũ Lĩnh đi về phương Nam, chiếm đất mới và lập nghiệp ở đó, không trở về. Khi chiếm được đất rồi, họ cho những người nầy đến ở lẫn lộn với người Lạc Việt. Sách Sử Ký đã dùng chữ “tạp xư”(ở lẫn lộn) cho thấy chính sách đồng hóa thâm độc của nhà Tần. Nhưng người Lạc Việt chống lại chính sách đó bằng cách trốn vào rừng, bất hợp tác. Trong sách “Nhân Gian Huân”, quyển 18, tờ 18, Lưu Ẩn cho biết thêm một chi tiết sau đây:“Tất cả người Lạc Việt rút vào rừng rậm, sống chung với cầm thú chứ không chịu làm tôi nhà Tần” Việt nhân nhập tùng bạc trung dữ cầm thú xử, mạc khẳng vi Tần lỗ). Sử Ký của Tư Mã Thiên, quyển 118 trang 260 còn ghi lại một chi tiết như sau:“Triệu Đà đã sai sứ mang thư về cho vua Tần xin gởi đến cho ông ba vạn đàn bà góa chồng hoặc con gái ế chồng để cho lính của ông cưới làm vợ” (Sử nhân thượng thư cầu nữ vô giá giả tam vạn nhân dĩ vi sĩ tốt y bố). Điều đó chứng minh rằng không những người Lạc Việt tìm cách xa lánh người Tàu, mà chính người Tàu cũng không muốn làm bà con với người Lạc Việt. Cũng có thể vì trình độ văn hóa, văn minh của hai giống người đó quá chênh lệnh, khó hòa đồng được. Sự hiện diện của ba vạn đàn bà, con gái góa, hoặc ế chồng vào thời đó đã thành lập được ba vạn gia đình và họ sinh con đẻ cháu từ thế hệ nầy qua thế hệ khác đã tạo nên con số đông đảo người phương Bắc tại vùng đất của người Lạc Việt. Trong số những tướng của nhà Tần sai đi thực hiện cuộc Nam tiến có quan Đồ Thư, Nhâm Ngao và Triệu Đà...là những người được sử sách nhắc đến nhiều nhất. Đồ Thư đem quân đến đánh nước Âu Lạc, buộc Thục Phan phải khuất phục nhà Tần. Nhưng sau đó, nhà Tần suy yếu, dân Âu Lạc nổi dậy giết Đồ Thư, giành lại độc lập. Quan nhà Tần ở quận Nam Hải là Nhâm Ngao muốn đem quân lấy lại đất Âu Lạc, nhưng việc chưa thành thì bị bệnh mất. Trước khi chết, ông trao quyền lại cho Triệu Đà. Lúc bấy giờ Triệu Đà đang trấn giữ đất Long Xuyên được kiêm chức Lệnh Úy Nam Hải. Năm 208 trước Công nguyên, Triệu Đà đem quân đánh nước Âu Lạc củaAn Dương Vương (Thục Phán) lập ra nước Nam Việt. Sử Ký của Tư Mã Thiên có một chương nói về Triệu Đà rất lý thú. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, nhà Tần suy yếu, xã hội loạn lạc...Lưu Bang diệt được nhà Tần, thắng được Hạng Vũ, thống nhất thiên hạ, lập ra nhà Hán, xưng là Hán Cao Tổ. Trong thời gian đó, Triệu Đà lấy được nước Âu Lạc của Thục Phán, hợp nhất Âu Lạc và Nam Hải thành một nước độc lập gọi là nước Nam Việt, tự xưng làm vua, lập ra nhà Triệu, tức là Triệu Vũ Vương (207-137 trước Công nguyên), đóng đô ở Phiên Ngung (nay thuộc Quảng Châu bên Trung Quốc). Năm 196 trước Công nguyên, Hán Cao Tổ sai sứ là Lục Giả sang Nam Việt kêu gọi Triệu Đà về thần phục nhà Hán. Lúc bấy giờ Triệu Đà làm vua Nam Việt đã được 12 năm rồi và Lưu Bang mới lên ngôi được 11 năm. Triệu Đà tự xem mình là anh hùng trong thiên hạ, sánh ngang với Hán Cao Tổ Lưu Bang, nên khi tiếp sứ nhà Hán ông đã có thái độ ngang nhiên tự đắc. Nhưng Lục Giả cũng đã thuyết phục được Triệu Đà về thần phục nhà Hán vì Triệu Đà vốn là người Tàu, quan của nhà Tần. Về sau, nhân khi Hán Cao Tổ mất, Lữ Hậu chuyên quyền, có sự xích mích biên giới với Triệu Đà nên Triệu Đà tự lập làm Hoàng đế và đem quân đánh chiếm đất của nhà Hán. Từ đó thanh thế của Triệu Đà lừng lẫy và ông đã dùng mọi nghi vệ như vua nhà Hán. Sau khi Lữ Hậu qua đời, Hán Văn Đế lên nối ngôi, lại viết thư qua kêu gọi Triệu Đà thần phục nhà Hán, từ đó Triệu Đà mới chịu từ bỏ đế hiệu. Triệu Đà làm vua nước Nam Việt được 70 năm, thọ 121 tuổi, truyền ngôi cho cháu nội (con của Trọng Thủy) tên là Triệu Hồ, tức Triệu Văn Vương. Văn Vương là người tầm thường, không nối được chí của ông nội là Triệu Đà, nên bị nhà Hán chèn ép. Văn Vương làm vua được 12 năm thì mất (137-125 trước Công nguyên). Con là Anh Tề nối ngôi tức Triệu Minh Vương, được 12 năm (125-113 trước Công nguyên), lấy vợ người Hán là Cù Thị, lập làm Hoàng hậu. Minh Vương chết, con là Hưng nối ngôi tức Triệu Ai Vương (113) được 01 năm thì mất nước. Mẹ là Cù Thị lấy sứ nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý và đem nước Nam Việt của Triệu Đà dâng cho nhà Hán. Lữ Gia là tướng của nhà Triệu (nước Nam Việt) giết Cù Thị, Thiếu Quý và Ai Vương, lập Thái tử Kiến Đức con của Minh Vương, mẹ là người Nam Việt, lên làm vua tức Triệu Dương Vương. Được một năm thì vua Hán sai tướng Lộ Bác Đức đem quân đánh lấy Nam Việt, vua và quan của Nam Việt bị giết. Năm 11 trước Công nguyên, nước Nam Việt bị đổi tên là Giao Chỉ bộ, chia làm 9 quận do các quan của nhà Hán cai trị. Từ năm 111 trước Tây lịch cho đến năm 939, Ngô Quyền giành được độc lập, sử gọi là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất.
3. Anh Hùng Lạc Việt:
Cuộc Khởi Nghĩa Của Trưng Trắc, Trưng Nhị Năm 40

Nước Nam Việt của Triệu Đà bao gồm lãnh thổ của Triệu Đà và lãnh thổ của An Dương Vương Thục Phán trong đó có hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt gọi chung là người Việt như đã nói ở phần trên. Sau khi nhà Triệu mất ngôi, nước Nam Việt được đổi thành Giao Chỉ bộ và được chia thành quận huyện đặt dưới quyền cai trị của quan lại nhà Hán. Người Lạc Việt phải chịu nhiều sự áp bức, bất công, nhất là dưới thời Thái thú nhà Hán là Tô Định. Do đó, hai vị nữ anh hùng của Lạc Việt là Trưng Trắc và em là Trưng Nhị đã nổi lên chống lại nhà Hán, diệt Tô Định, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc. Khi đề cập đến biến cố nầy, sử gia Trung Quốc không xem thường những anh hùng của Lạc Việt.
a. Lý Lịch Trưng Trắc Phạm Việp, tác giả Hậu Hán Thư (sử nhà Hán) đã viết về Trưng Trắc, Trưng Nhị với lời lẽ rất cảm phục:“Hựu Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc, cập nữ muội Trưng Nhị phản công đầu kỳ quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, man di giai ứng chi, khấu lược Lĩnh Ngoại lục thập dư thành. Trắc tự lập vi vương” (Hậu hán Thư, quyển 54, trang 747 trong Nhị Thập Ngũ Sử). Dịch:“Ở quận Giao Chỉ, có người đàn bà tên Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị nổi lên làm loạn, đánh phá trong quận. Dân man di ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, cướp phá hơn 60 thành ở vùng Lĩnh Ngoại.Trắc tự xưng làm vua”Theo đoạn văn trên đayHai Bà Trưng nổi lên ở quận Giao Chỉ, phong trào lan rộng ra các nơi và dân man di (chỉ dân Lạc Việt lúc đó) hưởng ứng và cùng nổi lên đánh phá quân Tàu (Hán), chiếm được 60 thành. Không một lãnh tụ nào của các nhóm mà sử Tàu gọi là man di dám xưng vương, ngoại trừ Trưng Trắc. Như vậy, Trưng Trắc là người kiệt hiệt nhất trong số đó. Con số hơn 60 thành trì nói đây, so với hoàn cảnh 1lúc đó, chúng ta có thể hiểu rằng đây không phài là thành trì to lớn như ở Việt nam hay ở Trung Hoa mà chúng ta thấy trước đây. Có thể đây chỉ là những công sự chiến đấu do người phương Bắc (người Hán) xây dựng lên để tự vệ trước sức tấn công của người bản xứ (Lạc Việt). Số người Hán nầy đã di dân đến đất Lạc Việt thời Triệu Đà, theo chính sách thực dân của nhà Tần. Cho đến thời nhà Hán, số người đó càng ngày gia tăng và họ lập được hơn 60 căn cứ gọi là “thành”. b. Chồng Trưng Trắc là Thi Hay Thi Sách? Theo sách Thủy Kinh Chú của Lệ Đào Nguyên, khoảng thế kỷ thứ 6, tác giả đã từng đến vùng Mê Linh, đã ghi lại được những điều nghe thấy như sau:“Châu Diên Lạc tướng tử, danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ, danh Trưng Trắc, vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc. Mã Viện tương binh thảo. Trắc, Thi tẩu nhập Cấm Khê” (quyển 37, tờ 6 a). Chúng ta để ý trong Hán văn xưa, không có chấm, phẩy...Tùy theo mạch văn mà ngừng lại cho trọn nghĩa của câu. Trong đoạn văn trên nếu ngừng ở chữ Sách thì câu văn sẽ như sau:“Châu Diên Lạc tướng tử danh Thi Sách”, nghĩa là:“Con trai Lạc tướng huyện Châu Diên tên là Thi Sách”, và câu sau: “Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê”, nghĩa laø:“Con gái Lạc tướng huyện Mê Linh tên là Trưng Trắc là vợ”. Nhưng Thái tử Hiền, con vua Cao Tông nhà Đường, khi bị bà Võ Tắc Thiên đày ra vùng quan ngoại, vào thế kỷ thứ 8, ông đã ngồi đọc lại sách sử và chú thích như sau:“Cứu Triêu Nhất Thanh viết Sách thê do ngôn thú thê” (tra cứu theo Triêu Nhất Thanh thì chữ Sách Thê là cưới vợ). Do đó câu văn trên phải ngừng ở chữ Thi:“Châu Diên Lạc tướng tử danh Thi” (con trai Lạc tướng huyện Châu Diên tên là Thi) và: “Sách Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê” (đi hỏi con gái Lạc tướng huyện Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ). Đọc tiếp đoạn Hán văn trên, chúng ta thấy: “Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc. Mã Viện tương binh thảo, Trắc, Thi tẩu nhập Cấm Khê”.(Trắc là người có can đảm và dũng lược, cùng với Thi nổi lên làm giặc. Mã Viện đem quân đánh đuổi. Trắc, Thi chạy vào Cấm Khê). Do chỗ sai lầm đó mà về sau các sách sử viết tên chồng của Trưng Trắc là Thi Sách. Sự lầm lẫn nầy khởi từ sử gia Trung Quốc là Phạm Việp trong sách Hậu Hán Thư, quyển 54 trang 747, cột 3, ông viết: “Trưng Trắc giả, Mê Linh Lạc tướng chi nữ giả, giá vi Châu Diên nhân Thi sách thê, thậm hùng dũng”. (Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh được gả làm vợ cho một người huyện Châu Diên là Thi Sách, bà rất hùng dũng). Dựa vào đó, các sử gia Việt Nam như Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư hoặc Lý Tế Xuyên trong Việt Điện U Linh Tập (một chuyện hoang đường) cũng gọi chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, họ đều trích dẫn từ sách hậu hán Thư của Phạm Việp, nhưng họ không để ý đến phần chú thích của Thái tử Hiền ở phần cuối sách. Từ đó mới xuất hiện tên Thi Sách trong lịch sử. Cho đến nay, không ai có thể đính chính được ngoại trừ nah nước ra lệnh sửa lại điều sai lầm đó trong sách vở. c.Nguyên Nhân Cuộc Khởi Nghĩa:
Vì Thù Chồng Hay Vì Lý Do Chính Trị?
Theo sử Việt Nam mà chúng ta học từ nhỏ thì Trưng Trắc nổi lên đánh đuổi quân Tàu vì chồng bà là Thi sách bị Thái thú nhà Hán là Tô Định giết. Điều đó có đúng hay không? Lý do đó có thể vận động dân chúng căm hờn cùng đứng lên đánh đuổi xâm lăng được hay không?
Vào thế kỷ thứ 8, khi chú thích hậu Hán Thư của Phạm Việp, Thái tử Hiền có nói đến một chi tiết khác, chúng tôi cho đó là một yếu tố rất quan trọng, là nguyên nhân đưa đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Ông viết: “Giao Chỉ Thái thú Tô Định, dĩ pháp thằng chi, Trắc oán nộ, cố phản”. (Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy luật pháp mà ràng buộc, nên Trắc tức giận, chống lại) (Chữ “thằng” là sợi giây, cũng có nghĩa là cột buộc).
Qua chi tiết trên đây, chúng ta thấy rằng Trưng Trắc là người Lạc Việt, một giống người bản xứ, có phong tục tập quán riêng. Khi Tô Định đến cai trị dân nầy, ông đã đem luật pháp của người Hán (Tàu) bắt dân Lạc Việt phải thi hành. Việc đó có thể đụng chạm đến cả tín ngưỡng của họ nữa. Đó là điều rất dễ gây căm phẫn trong nhân dân. Đó là chưa kể chính sách bóc lột về mặt kinh tế đối với họ. Cả Hậu Hán Thư và Thủy Kinh Chú đều nói rằng: Trắc cùng với Thi nổi lên làm giặc và khi bị Mã Viện đánh đuổi thì cả hai người chạy vào Cấm Khê. Vậy khi Trưng Trắc khởi nghĩa thì chồng bà là Thi vẫn còn sống và cùng chiến đấu bên cạnh bà. Lý do khởi nghĩa là vì quyền lợi dân tộc và được cả dân tộc làm hậu thuẫn chứ không phải vì báo thù chồng. Có thể về sau người chồng bị chết dưới tay quân thù, nhưng giai đoạn đầu chồng vẫn còn sống. Lý do vì chống lại chế độ, chống lại luật pháp hà khắc nên Trưng Trắc khởi nghĩa đã được chứng minh bằng sự thay đổi chính sách cai trị của nhà Hán sau khi Mã Viện thắng được Trưng Trắc. Việc cử Mã Viện là một tướng già, bách chiến bách thắng và được gọi là “phục ba tướng quân” (vị tướng làm cho sóng gió phải yên lặng) qua đánh Trưng Trắc chứng tỏ tầm mức quan trọng của cuộc chiến. Mã Viện không những là một tướng có tài về quân sự mà còn là một tướng có tài về chính trị. Ông cùng Phó tướng là Lưu Long, Lâu thuyền tướng quân Đoàn Chí với một lực lượng hai vạn quân. Đến Hợp Phố, Đoàn Chí bị bệnh chết nên ông phải gánh vác trách nhiệm nặng nề hơn. Ngoài ra, ông còn tuyển thêm 12.000 quân tại Giao Chỉ nữa và phải mở đường, xẻ núi, phá rừng mà đi. Lúc bấy giờ phong trào chống đối người Tàu lan rộng rất nhanh. Chỉ trong một thời gian ngắn mà cả một vùng rộng lớn gồm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều nổi dậy. Không cần tổ chức lãnh đạo, dân các nơi đều hưởng ứng, chứng tỏ cuộc khởi nghĩa hợp lòng dân. Hậu Hán Thư, quyển 54 trang 747 (trong Nhị Thập Ngũ Sử) chép:“Thập bát niên, Xuân, quân chí Lãng Bạc, dữ tặc chiến, phá chi, trảm thù sổ thiên, cập hàng giả vạn dư nhân. Viện truy Trưng Trắc đẳng, chí Cấm Khê, sổ bại chi, giặc toại tán tẩu” ( Năm thứ 18 -hiệu Kiến Vũ nhà Hán- tức năm 42, mùa Xuân, quân đi đến vùng Lãng Bạc, cùng giặc đánh nhau, phá được chúng, chém đầu cả ngàn tên, bọn ra hàng có đến cả vạn. Viện đuổi theo bọn Trưng Trắc đến Cấm Khê, giặc bị thua liền mấy trận, bỏ chạy tán loạn). Mã Viện còn đuổi theo dư đảng của Trưng Trắc đến tận Cửu Chân, giết được hơn 5.000 người nữa. Vừa đánh, vừa cũng cố, đến huyện nào Viện cũng xây thành đắp lũy, tổ chức lại đơn vị hành chánh, dạy cho dân biết canh tác làm ăn. Sau đó mới giải thích cho dân hiểu luật pháp, dân mới dần dần nghe theo lời ông. Những quan của nhà hán cử sang cai trị dân Lạc Việt sau vụ Trưng Trắc đều ra sức giáo hóa dân, dạy cho dân biết cày cấy, biết lễ nghĩa. Trước thời Tô Định cũng đã có hai quan Thái thú có tiếng tốt đối với dân, đó là Tích Quang ở quận Giao Chỉ và Nhâm Diên ở quận Cửu Chân. Phần nói về Nhâm Diên trong sách Hậu Hán Thư cho biết dân Giao Chỉ thích săn bắn chứ không biết dùng bò để cày. Dân Cửu Chân thì đốt cỏ rồi gieo giống làm ruộng. Nhâm Diên truyền đúc các thứ điền khí (lưỡi cày, lưỡi cuốc,v.v...) dạy cho dân cày bừa, khẩn ruộng để trồng chọt. Dân lạc Việt thời đó không biết cưới hỏi như người Hán. Họ không quen sống chung với nhau, nên không biết đạo cha con, đạo vợ chồng. Nhâm Diên phải gởi thư đi các huyện thuộc quyền ông truyền cho đàn ông từ 20 tuổi đến 50 tuổi, đàn bà từ 15 đến 40 tuổi phải tùy tuổi tác mà cưới hỏi nhau..cùng một lúc có đến 2.000 người tổ chức cưới hỏi...năm đó trời cho mưa thuận gió hòa, lúa má được mùa, dân đẻ con ra biết họ biết dòng...có người lấy tên Nhâm đạt cho con để tỏ lòng biết ơn...Những việc này xảy ra vào năm 29 đời Kiến Vũ nhà Hán, trước khi Tô Định đến cai trị Giao Chỉ. Vì Tô Định không chịu cai trị dân theo chính sách của các vị tiền nhiệm mà lại quá hà khắc nên dân nổi loạn. Sử Tàu nói rõ lý do của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là vì chế độ hà khắc, nhưng sử gia Việt Nam lại gom cả hai làm một: vừa thù chồng, vừa chống chính sách. Đọc đoạn văn sau đây của Ngô Sĩ Liên, chúng ta thấy rõ điều đó:“Canh Tý nguyên niên, Hán Kiến Vũ thập lục niên, Xuân, nhị nguyệt, vương khổ Thái thú Tô Định thằng dĩ chính, cập thù Định sát kỳ phu, nải dữ kỳ muội Nhị, cử binh công hãm châu trị” (Năm Canh Tý (40) năm đầu, năm thứ 16 hiệu Kiến Vũ nhà Hán, mùa Xuân, tháng Hai. Vương đau lòng vì Tô Định lấy chính pháp ràng buộc, lại căm thù vì Định đã giết mất chồng, bèn cùng em gái là Nhị cử binh đánh phá châu trị). Theo ý của câu trên thì chồng phải bị giết trước khi khởi nghĩa, vừa thù chồng, vừa nợ nước! Trong phần nói về Mã Viện (Mã Viện liệt truyện), sử gia Tàu đã nói đến Trưng Trắc vì có liên quan đến công trạng của Mã Viện. Nhờ chỗ có liên quan đó mà dời sau mới biết đến Trưng Trắc. Nếu sử Tàu khôgn nói đến thì sử gia Việt Nam như Ngô Sĩ Liên khó mà có tài liệu để viết lại thời quá khứ. Sử Tàu nói rõ Trưng Trắc cùng chồng nổi lên đánh đuổi Tô Định. Vậy không phải vì thù chồng mà Trưng Trắc nổi dậy. Đưa yếu tố thù chồng vào sử sách đã làm lu mờ chính nghĩa vì dân tộc của cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc đi.
d. Cái Chết Của Trưng Trắc
Sử Việt mà chúng ta học từ bậc tiểu học nói rằng Trưng Trắc, Trưng Nhị nhảy xuống sông Hát (Hát giang) tự tử. Và chúng ta có bài “dòng sông Hát...” ca tụng cái chết bất khuất của hai Bà. Nhưng Hậu Hán Thư lại nói một câu rất vắn gọn:“Minh niên, chính nguyệt, trảm Trưng Trắc, Trưng Nhị, truyền thủ Lạc Dương”. (Năm sau (42) tháng Giêng, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, gửi đầu về Lạc Dương). Lạc Dương là kinh đô nhà Hán lúc đó. Tuy vắn gọm nhưng gồm đủ mấy chi tiết ngày, tháng, lý do chết và gởi đầu về để làm chứng cho vua Hán biết. Về chi tiết nầy, ông Ngô Thời Sĩ trong sách Việt Sử Tiêu Án trang 40 viết rằng: “Trong đền thờ Hai bà Trưng, những đồ thờ tự, tất cả đều sơn đen, tuyệt không có sơn đỏ, dân địa phương không dám mặc áo đỏ, những khi đến yết cáo, có ai mặc áo đỏ đều cởi bỏ đi, không ai dám xúc phạm đến cấm lệ. Tục truyền rằng Trưng Vương chết vì việc binh đao, nên kiêng sắc đỏ vì giống như máu”. Điều đó phù hợp với lời thuật của Hậu Hán Thư. Trong hai sử liệu thì Hậu hán Thư có trước Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cả ngàn năm. Chắc chắn Toàn Thư đã lấy từ Hậu Hán Thư các dữ kiện nầy. Có sách nói rằng người nhảy xuống sông tự tử là bà Mang Thiện, mẹ của Trưng Trắc. Sau khi Trần Hưng Đạo thắng quân Mông Cổ ở trận Bạch Đằng, Lê Tắc chạy theo giặc lưu vong qua Trung Hoa. Thời gian sống ở đây, ông có nghiên cứu nhiều sách vở và có viết một cuốn sách nhan đề “An Nam chí lược”. Ông là người Việt Nam đồng ý rằng Trưng Trắc bị Mã Viện chém đầu. Sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” do Quốc Sử Quán triều Nguyễn cũng nói:“Trưng Vương và em gái chống với quân Hán bị binh lính bỏ trốn, lại thế cô, cả hai thất trận chết”. Chết trận, có nghĩa là bị chém, không phải tự tử. Xin lưu ý một điều, vào thế kỷ 19, thời nhà Nguyễn, sự tiến bộ về khoa nghiên cứu sử học (phương pháp sử học) ở Trung Quốc đã hơn hẳn thời xưa vì lúc đó trí thức bên Tàu đã có nhiều tiếp xúc với Tây phương và họ đã đặt lại vấn đề, xem xét lại các điều ghi chép thời xưa có hợp lý và đáng tin hay không. Do đó, sử gia nhà Nguyễn cũng đã học được từ nhà Thanh nhiều tiến bộ trong phương pháp nghiên cứu sử học. Sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” do Quốc Sử Quán nhà Nguyễn biên soạn thời Tự Đức đã được đánh giá cao hơn so với các sử sách của nước ta ra đời trước đó.
Kết Luận
Người Việt Nam đã xem Hai Bà Trưng thực sự là anh hùng của dân tộc mình. Từ Lý, Trần trở về sau, sử sách đã hết lời ca tụng Hai Bà. Hình ảnh Hai Bà đã đi vào lòng người Việt Nam như là những thần thánh, khắp nơi nhân dân lập đền thờ Hai Bà. Ý thức độc lập đã có từ lâu đời với dân Lạc Việt thời Hai bà Trưng cũng như với những người di dân từ phương Bắc tới, tranh đấu để tự mình làm chủ giang sơn của mình. Từ Lý Cầm, Lý Tiến thời nhà Hán đến Triệu Thị Trinh, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng cho đến Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền...Từ thế kỷ thứ mười trở đi, tổ tiên chúng ta đã vĩnh viễn giành được độc lập, đánh đuổi xâm lăng, tạo nên truyền thống tự chủ, tự cường của dân tộc Việt Nam chúng ta, giống dân làm chủ vùng đất phương Nam như Lý Thường Kiệt đã khẳng định: “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư...” (Nước Việt Nam của người Việt Nam).

Back to top
« Last Edit: 04. Aug 2006 , 20:36 by admin »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: tiep theo bai viet DICH TRONG THIEN
Reply #17 - 21. Aug 2006 , 12:41
 
KHÁI NIỆM VỀ SỐ TRONG KINH DỊCH
Tuệ sỹ

Giới hạn trong phạm vi lý luận, chúng ta tóm tắt nét đặc trưng của kinh Dịch: giản dị hóa bằng TƯỢNG và cụ thể hóa bằng SỐ. Tức là qui chiếu vạn hữu về trên một căn bản đồng nhất mà kinh Dịch gọi là thiên hạ chi động, trình phù nhất, hay đồng qui nhi thù đồ, nhất tri nhi bách lự - từ nhiều hướng nhưng cùng về một chỗ; cùng một mục đích những có trăm nghìn mối nghĩ. Vì động, cho nên có thiên sai vạn biệt; nhưng tất cả chúng khởi đi từ cái một và trở về trong một cái. Nếu vậy, khi đã qui chiếu được vạn hữu vào căn bản đồng nhất, người ta có thể phân phối cái động thiên sai vạn biệt trong thiên hạ thành trật tự có qui củ. Ý tưởng then chốt ở đây là : tại thiên thành tượng, tại địa thành hình. Tượng, có thể được hiểu như là những nguyên tắc tiên thiên. Khi những nguyên tắc này được ứng dụng vào các lãnh vực cụ thể, chúng sẽ là những sự thực hữu hình trong một trật tự cân xứng. Trong toán học, đó là trật tự tỉ đối. Chúng ta khởi đầu từ khái niệm với một trật tự cân xứng này để đi đến sự ứng dụng về Số của kinh Dịch trong lãnh vực lý luận.
Một trật tự cân xứng là một thế giới trong đó các sự vật được phân phối đồng đều ở các vị trí tương đối. Sau đây là những nguyên tắc chỉ đạo cho sự ứng dụng Dịch vào các lãnh vực lý luận và thực tế: THỜI, VỊ, TRUNG, CHÍNH. Nói về những trường hợp ứng dụng có kết quả, kinh Dịch thường diễn tả: đắc thời, đắc vị, đắc trung"hoado "lục vị thời thành" "các chính tính mệnh, bảo hợp thái hòa"hoado vân vân. Đây là do bản tính tồn tại của sự thực hữu hình, không phải là những ứng dụng tùy tiện. Kinh nói: phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân. Sự cân xứng trong thế giới hữu hình được kể theo loại và nhóm. Như vậy, khi đối chiếu với các biểu tượng tiên nhiên, hay bát quái, thì mỗi biểu tượng trong thế giới hữu hình đều trấn giữ tại một phương hướng: khảm, chính Bắc, cấn, Đông Bắc, đoài, chính Tây; vân vân.
Khái niệm về một trật tự cân xứng như vậy có hiệu lực như thế nào khi được ứng dụng vào đường lối suy luận?
Ơû trình độ gần như tổng quát của mọi đường lối suy luận, ta có thể lấy thí dụ từ Thiên Thai Tông (một trong các tông phái của Đại thừa Phật giáo Trung Hoa). Cái đặc sắc là người ta căn cứ trên đường lối theo sự hướng dẫn của Dịch để thấu triệt những khái niệm rất trừu tượng và rất xa lạ đối với truyền thống tư tưởng Trung Hoa. Tông này lấy số Ba làm số trật tự cân xứng của luận lý, hay một tập hợp luận lý nói theo danh từ luận lý học Tây phương (combinaison logique), và họ gọi là TAM VIÊN DUNG. Đại cương, khi vận dụng, tông này sử dụng những cặp tương phản trong một tập hợp luận lý, gọi là cặp song phi và song chiếu. Một tập hợp luận lý của họ gồm có ba thành tố căn bản: KHÔNG, GIẢ, TRUNG. Mỗi thành tố sẽ được thiết lập bằng những biến thiên như hủy diệt và tồn tại, rồi khi vượt qua cả hai tuờng hợp đó, người ta có một sự thực bên trên tất cả khái niệm. Nghĩa là vượt qua tính cách đối đãi hay phản danh của một khái niệm bằng song phi và song chiếu: khái niệm trừu tượng được đưa vào thực tại cụ thể.
Lối suy luận trên đây, có thể coi như một đường lối căn bản mà ta có thể tìm thấy thường xuyên nơi Dịch.
Ngày nay, người Tây phương gọi con số ba của kinh Dịch, là một tập hợp luận lý, là con số thần bí của tính phân phối và tập hợp (permutation et combinaison). Chúng ta đừng nghĩ con số ba ở đây là con số của một quá trình biện chứng. Nơi kinh Dịch, ta biết mỗi một quẻ của Bát quái đều gồm có ba hào. Xưa kia, người ta thường giải thích vì có ba lãnh vực hay ba cấp bậc của trật tự: trật tự của thiên giới, trật tự của nhân giới và trật tự của vạn vật (không phải vạn hữu). Nghĩa là TAM TÀI. Vì vậy, một quẻ có ba hào. Chúng ta cũng có thể hiểu điều này theo một chiều hướng khác. Trước hết, có thể coi số ba như là biểu tượng của sự ổn định và cân xứng, nghĩa là hợp lý. Khi nói đến hợp lý của tương quan nhân quả, một tương quan đồng thời, cái này gá vào cái kia và ngược lại mỗi cái vừa nhân vừa quả; để diễn tả sự hợp lý này, người ta lấy thí dụ về hình ảnh kim tự tháp của những cây gậy tựa vào nhau. Vả lại, torng các nền luận lý học cổ điển, với tam đoạn luận của Aristole, hay với nhân minh học của Digna Aán độ, người ta thấy một lập luận vững chãi được phân phối theo con số ba, với ba mệnh đề. Một tập hợp luận lý, như vậy, tự căn bản là mộ ttập hợp của số ba. Theo đó mà nói, con số ba tượng trưng cho ý niệm về một sự hợp lý vững chắc của các tương quan nhân quả. Đây chỉ là những trường hợp gợi ý. Dù vậy, tất cả, có thể nói là tất cả, mọi trật tự cân xứng của hữu hình được phản chiếu trên con số ba. Hay nói chính xác hơn: con số ba là hình ảnh phản chiếu của trật tự hữu hình và cân xứng. Từ mộ tthành số tượng trưng cho trật tự toàn diện của thế giới là số mười, nếu ta qui chiếu về trên căn bản đồng nhất, tức số một, ta c hiện sự tiết giảm theo tính cách cân xứng và tương đối: năm – ba – một, cuối cùng sẽ có một hình tam giác, nếu mỗi một số được ghi thành một điểm.
Chúng ta đã nói, số ba không phải là một quá trình biện chứng, mà là con số của một tập hợp luận lý. Trong mỗi tập hợp này, người ta phân phối bằng tính cách có lặp lại (permutation avec répétition), hai thế lực tương phản âm và dương. Kết quả đạt được là có tám tập hợp, tức Bát Quái, chúng tương ứng với tâm phương vị của trời đất. Từ khái niệm trừu tượng mà đạt đến trật tự cân xứng của thế giới hữu hình, đó là sự thành tựu cao nhất của lý luận. Câu nói của kinh Dịch: Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình", có thể được hiểu theo chiều hướng vừa kể.
Khuynh hướng của Dịch là từ những phúc tạp mà tiến tới chỗ THUẦN NHẤT: Dịch giả, dị dã. Ba đặc tính của một nguyên tắc tiên thiên khiến cho nó khả dĩ ứng dụng được trong thế giới hữu hình, kinh Dịch gọi là Thuần, Túy, Tinh. Đây là một chiều hướng lý luận không bị giới hạn trong những nguyên tắc phân tích và tổng hợp. Nói cách khác, người ta không khảo sát giá trị của một mệnh đề luận lý qua phân tích hay tổng hợp. Trong chiều hướng của phân tích hay tổng hợp, người ta cần phải lưu ý các trường hợp đơn hay phức. Nhưng ở đây khỏi cần lưu ý như vậy. Thí dụ về luận lý tứ cú (logic of four alternatives hay tetralemma), ta có:
(A)   I. Có………………………..(khẳng định đơn)
II.Không………………..(phủ định đơn)
                    III.V ừ a có vừa không (khẳng định phức)
                    IV.Kh ông phải có không phải Không (phủ định phức)

Xét theo các trường hợp đơn cú, bốn mệnh đề trên rút lại chỉ co hai, vì III và IV là trường hợp phức số của I và II.
Cũng trong luận lý tứ cú, ta thử lấy một lối lập luận của Đỗ Thuận, người khai sáng Hoa Nghiêm Tông:
(B)    I. Phi dị biệt
II.Phi đồng nhất
                    III.P hi đồng nhất tức phi dị biệt
                     IV.P hi dị biệt tức phi đồng nhất.

Ơû đây, mỗi mệnh đề phải có một giá trị biệt lập, trong nhất tính độc hữu của nó; biệt lập nhưng chúng phản chiếu lẫn nhau như các đỉnh của một tứ giác. Yù nghĩa của mou cánh được thành tựu ở tâm điểm của những phản chiếu này.
Chúng ta ghi nhận một điểm khác nhau rất nhỏ giữa III và IV của (A) là "Vừa Có vừa Không"…và III và IV của (B): "Tức". Một đằng diễn tả thể cách của Có và Không, do đó, đáng gọi là khẳng định đơn cú. Trường hợp (B), ý niệm về tức ở đây là tương tức, chỉ cho thể tính vô phân biệt giữa các sự hữu; nó không hàm chứa một ý tưởng về thể cách tổng hợp.
Với lối lý luận bằng tứ cú trên đây, trường hợp (B), người ta rút ra một hình ảnh của thế giới như sau:
I. Một trong tất cả
II.Tất cả trong Một
III.Tất cả torng Tất cả
IV.Một trong Một

Nói tóm lại, hậu quả của một chiều hướng lý luận "TRINH PHÙ NHẤT" sẽ dẫn đến một thế giới quan như vừa kể.
Một trường hợp điển hình khác có thể xảy ra ở đây, để xác định lối luận TIRNH PHÙ NHẤT của kinh Dịch ấy.
Đây là trường hợp của Trí Nghiễm, tác giả của Hoa nghiêm nhất thừa thập huyền môn, vị tổ thứ hai của Hoa nghiêm tông. Oâng lý luận về sự tăng và giảm của một và mười, theo hai chiều hưng hạ, để giải thích thế giới quan vô tận; và con số mười được gọi là Thập vô tận.
Trước hết, ông chia hai trường hợp tương quan giữa một và mười: dị thể và đồng thể. Trong mỗi tương quan đều có tăng và giảm. Dĩ nhiên muốn tính sự tăng giảm này, người ta phải lấy số một và số mười làm chuẩn đích. Một chỉ cho sai biệt và mười chỉ cho toàn thể. Rồi ở dị thể và đồng thể, mỗi trường hợp lại được chia thành hai:
I. Một trong Nhiều, Nhiều trong Một
II.Một tức Nhiều, Nhiều tức Một.

Bằng đường lối quanh co và chậm chạp như vậy, ông đi từng bước một: từ một lên mười, rồi từ mười tiết giảm đến một, thực hiện cho đến kỳ cùng – ở đây xin phép không bàn rộng – người ta đạt đến điều này: thế giới như một màn lưới được kết dệt vô số hạt ngọc. Mỗi mắt lưới là một hạt ngọc, ch1ung phản chiếu lẫn nhau – phản chiếu giữa cái Một và Tất cả – thành một thế giới trùng trùng vô tận. Nếu trở lại từ đầu khái niệm về trật tự cân xứng, chúng ta cũng bắt gặp cái thế giới quan vừa kể.
Trật tự cân xứng là trật tự của những đối xứng tương quan và tương giao. Từ điểm này các nhà Hoa Nghiêm tông giải thích tương quan hiện hữu, hay lý Duyên Khởi, là lý thuyết căn bản của Phật giáo, thành tương do. Bằng tính cách tương do này, sự đôí xứng của hai sự thể được quan niệm rằng phải có một hữu lực và một vô lực, một thực thể và một vô thể. Cái vô lực thì tựa vào cái hữu lực; cái vô thể thì lẫn vào cái hữu thể. Như vậy, tương do chính là tương tức. Đó là lý luận căn bản của một thế giới quan vô tận.
Tất cả những thí dụ điển hình đã nêu lên ở trên tạm thời cho chúng ta một nhãn quan bao quát về đường lối vận dụng trong phạm vi luận lý, gợi hứng từ khái niệm về SỐ của kinh Dịch. Vì không thể đi sâu vào chi tiết như một thiên khảo cứu chuyên môn, chúng ta hãy dừng lại trong giới hạn vừa phải này.



KINH DỊCH VÀ PHẬT HỌC TRUNG HOA

Tuệ Sỹ

1. DỊCH

Hình như vạn hữu bắt đầu tự hư vô. Bởi vì hư vô là biên tế cùng cực vừa hữu lý vừa vô lý của lý niệm. Nó là biên tế hữu lý của lý niệm vì ba lý do:
(a)    Tác nhân của hiện hữu chỉ đồng tính mà không đồng cách với hiện hữu ấy. Đồng tính nhưng không đồng cách, vì là tương quan nhân quả.
(b)   Tác nhân của hiện hữu đồng tính nhưng không đồng thời với chính hiện hữu ấy, vì là sự vận chuyển của sinh thành và hủy diệt.
(c)    Hư vô và hiện hữu được truy nhận trong tương quan đối đãi.

Nhưng hư vô còn là biên tế vô lý của lý niệm. Nếu hư vô và hiện hữu được truy nhận bằng tương quan đối đãi thì cả hai chỉ là giả thiết tạm ước của một căn bản đồng nhất. Chúng lại chỉ đồng tính mà không đồng thời và 9dồng cách, như vậy chỉ sai biệt vì tương quan tiếp nối của vận chuyển. Theo lối suy luận nghịch đảo này thì hư vô không còn là biên tế hữu lý của lý niệm nữa. Cuối cùng phải thừa nhận một lập trường triệt để phủ định. Trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Trung Hoa, đây là một trong những lập trường luận thuyết đầu tiên về Phật học của xứ này, được mệnh danh là thuyết BẢN VÔ1. Trước khi kumàrajìva2 phiên dịch các tác phẩm Bát nhã và Trung quán, thuyết này là một điển hình về giải thích của tánh Không, vận dụng những khái niệm cố hữu của truyền thống tư tưởng Trung hoa. Nhờ những dịch phẩm của Kumàrajìva, Tăng Triệu3 đã thực hiện bước đầu, cố gắng thoát khỏi sự khống chế của hai thái cực phủ định và khẳng định. Trong ngôn ngữ Trung hoa, tất cả phủ định chỉ là mặt trái của khẳng định. Những phủ định từ như phi, bất hay vô có thể được dùng như những danh từ, tức là chúng vẫn có thể biểu thị các sự thể bất biến hay tư hữu. Như vậy, khi những phủ định từ này được đặt trước một mệnh đề, chúng không phương hại đến hiệu lực khẳng định của mệnh đề ấy. Trong ngôn ngữ Sanskrit, ngược lại, tất cả khẳng định chỉ là mặt trái của phủ định. Những biến thể của các danh từ tùy nhiệm vụ và hoàn cảnh những biến hóa của các động từ tùy tác dụng trong thời gian và thể cách; các qui tắc văn pháp tổng quát này ẩn dấu tính cách vô căn của mọi diễn tả hữu lý. Qua lối viết của văn tự Trung hoa, người ta khám phá ra rằng trật tự của thế giới chính là sự thành tựu toàn vẹn từ nội tại của mỗi cá thể. Nhưng qua lối viết Devanagari của ngôn ngữ Sanskrit thì thế giới hiện hữu quả tình là một thế giới hỗn độn; trật tự của toàn thể chỉ là một đường thẳng vạch đôi giới hạn của hiện hữu và hư vô. Người ta sẽ thấy các nhà Phật học Trung hoa sau này, rõ rệt nhất là từ các triều đại Tùy và Đường trở đi, ở Hoa nghiêm tông, tánh Không đã được lật ngược thành tánh Khởi; ở Thiên thai tông, tánh Không thành tánh Cụ; độc đáo nhất là ở Thiền tông, vô ngôn của tánh Không được diễnt ả bằng tác động rất hiện thực và rất sôi nổi là đánh và hét.
Giữa Hán tự và Sanskrit có một giới hạn nghiêm khốc, giống như giới hạn giữa hữu ngôn và vô ngôn. Lấy hai cái không đồng tính, không đồng cách và cũng không cùng một trật tự mà thay thế lẫn nhau, đấy tức là một sự lật ngược từ vô thành hữu. Trong một tình trạng như vậy, ngươì ta có thể trực nhận được tính cách phiêu đốt bất định của ngôn ngữ; vì ở đây, ngôn ngữ thực sự chỉ là một phương tiện cho mọi nghịch đảo, như sự nghịch đảo của đi và đến. Ý nghĩa của nghịch đảo này cũng là ý nghĩa của chũ dịch trong kinh Dịch. Dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch và giản dị1. Vì biến dịch, cho nên có sự sống; vì bất dịch, cho nên có trật tự của sự sống; và vì giản dị, nên loài người có thể qui tụ mọi biến động sai biệt vào một để tổ chức đời sống: Thiên hạ chi động, trinh phù nhất (Dịch hệ từ hạ truyện).
Theo truyền thuyết, Kinh Dịch đầu tiên của người Trung hoa được gọi là Liên Sơn Dịch2 lấy quẻ Thuần Cấn làm đầu3. Trong quẻ này, nội quái là cấn, tượng là núi, ngoại quái cũng là cấn. Như vậy, tượng của nó là hai hòn núi liên tiếp nhau, do đó gọi là Liên Sơn. Thuyết quái truyện của Chu Dịch có nói: Đế xuất hồ chấn, tề hồ tốn, tương kiến hồ ly, trí dịch hồ khôn, duyệt ngôn hồ đoài, chiến hồ càn, lao hồ khảm, thành ngôn hồ cấn. (Đấng chủ tế ra ở phương chấn (phương đông), muôn vật đều thanh khiết ở phương tốn (đông nam), cùng thấy nhau ở phương ly (nam), làm việc ở phương khôn (tây nam), vui nói ở phương đoài (tây), đánh nhau ở phương kiền (tây bắc), khó nhọc ở phương khảm (bắc), làm xong là nói ở phương cấn (đông bắc). Bản Việt văn của Nguyễn Duy Tinh, Chu Dịch Bản Nghĩa II, tr, 362). Đấy là Liên Sơn Dịch, theo ý kiến của Can Bửu4. Từ ba vạch âm của khôn, -- nếu đặt một vạch dương của càn tiềm phục ở dưới     , tức là chấn. Sự sống bắt đầu từ khi dương khởi sự lẫn vào âm vậy: vạn vật xuất hồ chấn. Nếu một hào dương của càn này đi lần lên, lẫn vào chính giữa không     , tức khảm. Cái mềm (âm), bao trùm cái cứng (dương), tượng trưng cho sự nghỉ ngơi sau những công việc nhọc nhằn. Vạch dương của càn đi lần lên nữa, thành quẻ cấn , tượng trưng cho sự thành tựu. Trong thân thể người ta, cấn tượng trưng cho phần lưng, lấy ý một vạch dương tựa trên hai vạch âm. Ngoài công việc nghỉ ngơi, lưng không có nhiệm vụ nào khác, như các bộ phận tay chân. Tuy nhiên, mọi hoạt động của các bộ phận trong thân thể người ta phải lấy lưng làm tựa. Như vậy, cấn tượng trưng cho thời gian mà mọi vật trong trời đất đã được phối trí thành trật tự xong rồi. Nhưng, với biểu tượng hai ngọn núi liên tiếp nhau của quẻ thuần cấn, lại là hình ảnh của sự bất động trong biến động. Loài người xuất hiện, đối đầu ngay với sự nghịch đảo giữa biến động và bất động ấy. Mọi biến động diễn ra trong trật tự của lý tính, như những khoảng lên và xuống của các đỉnh núi liên tiếp nhau. Ý thức được biến dịch trong bất dịch như vậy để tổ chức thành một xã hội có qui củ và trật tự, đấy là ý nghĩa của Dịch lý. Lời tượng của quẻ Hỏa Sơn Lữ trong Chu Dịch cũng đã nói: ơn thượng hữu hỏa, quân tử dĩ minh, thận, dụng hình luật nhi bất lưu ngục. (Trên núi có lửa tượng trưng cho sự đi xa quê nhà, người quân tử coi đó lấy điều sáng suốt cẩn thận để áp dụng vào hình luật mà chẳng cấm giữ1 lại việc ngục tụng. Ng. Duy Tinh, SĐD. II, Tr. 191). Lửa bốc cháy trên đỉnh núi là biểu tượng của một cuộc hành trình phiêu lưu, như sự vận chuyển từ sống và chết, từ sinh thành đến hủy diệt. Khi thấy lửa bốc cháy trên đỉnh núi, là trực nhận rằng mọi biến động đều diễn ra trong trật tự bất biến; căn cứ theo đó thiết lập qui củ cho trật tự của xã hội. Cổ nhân Trung Hoa nói: Không học Kinh Dịch thì không thể làm Tể tướng. Bởi vì người thiết lập và duy trì trật tự của xã hội phải thấu triệt những ý nghĩa: biến dịch, bất dịch và giản dị hóa của DỊCH. Thấu triệt được biến dịch và bất dịch, mới thấu triệt được vận hành của trời đất; biết giản dị hóa mới có thể giáo dục nhân quần để thiết lập và duy trì một trật tự phù hợp với vận hành ấy: dịch dữ thiên địa chuẩn; cố năng di luân thiện địa chi đạo. (Đạo dịch cùng làm chuẩn đích với trời đất, cho nên hay sửa sang được cái đạo của trời đất. Nguyễn Duy Tinh, SĐD. II, tr 271).
Nhưng, DỊCH là gì? Kinh Dịch (hệ từ thượng truyện) nói:Dịch giả, tượng dã. DỊCH tức là TƯỢNG. Lại nữa, TƯỢNG là gì? Chu Dịch lược lệ của Vương Bật viết: "Phù tượng giả xuất ý giả dã; ngôn giả dã, minh tượng giả dã. Tận ý mạc nhược tượng, tận tượng mạc nhược ngôn…. Cố ngôn giả sở dĩ minh tượng, đắc tượng nhi vong ngôn. Tượng giả sở dĩ tồn ý, đắc ý nhi vong tượng. Do…….thuyên giả sở dĩ tại ngư, đắc ngư nhi vong thuyên. TƯỢNG là để tỏ bày Ý; LỜI là để tỏ bày TƯỢNG. Mô tả hết Ý không gì bằng TƯƠNG; mô tả hết TƯỢNG không gì bằng LỜI… cho nên, sở dĩ có LỜI là vì để tỏ bày TƯỢNG; đã nắm được TƯỢNG thì hãy quên LỜI. TƯỢNG là để giữ Ý, nắm được Ý thì hãy quên TƯỢNG. Cũng như…..cái rọ là để bắt cá; bắt được cá thì bỏ cái rọ đi.) Giải thích theo cung cách này là điều rất thường thấy trong các tác phẩm Phật học. Thí dụ, kinh Kim Cang: Phật pháp chỉ như một chiếc thuyền để qua sông. Qua được bên kia sông rồi thì hãy bỏ thuyền mà lên bờ.
Nói tổng quát, DỊCH là lý tính
Back to top
« Last Edit: 21. Aug 2006 , 12:43 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Sinh Mệnh Việt Qua Văn Hiến Việt
Reply #18 - 13. Oct 2006 , 21:56
 
* - Chữ Trung mình để phần Cha
* - Chữ Hiếu cho Mẹ, đôi ta chữ Tình
(Ca Dao)1) .
Từ Nhân Đến Quả
  Nhân-Quả là một chu kỳ nằm trong tiến trình: Sống, Còn, Nối, Tiếp, Tiến, Hóa đến vô cùng của muôn vật muôn loài. Nhân-Quả cũng là tóm lược của chu kỳ nhiều phức tạp chứađầy những trợ duyên Thuận-Nghịch trong một sự tổng hợp gồm đủ cả không gian lẫn thời gian. Nhân là cái mầm mống phát sinh ra sự kiện, đó cũng là khởi điểm. Quả là cái hình thành được tạo dựng, đó cũng là đích điểm. Ở loài thảo mộc, nhân là hạt giống được gieo trồng trên đất để theo ngày tháng nẩy mộng đâm mầm, thành cây xanh lá rậm, rồi đâm cành trổ bông, để đến sinh trái, kết quả. Ở loài người, nhân là tinh cha huyết mẹ và quả là kết con sinh cái (con cái). Vì vậy chẳng bao giờ một vật gì bỗng không lại có. Tất cả được tạo nên bởi một nguồn gốc một nguyên nhân. Trồng dưa thì được ăn dưa, trồng cà thì được ăn cà và con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.Không có tổ tiên, ông bà tất không có cha mẹ. Không có cha mẹ tất cũng không có con cái và không có Ta hiện diện trên cõi đời này ! Tổ Tiên, Giòng Giống, Cha Mẹ là điều mà đã là người thì chẳng ai dám dứt bỏ hay từ chối. Đó là những mối giây lớn kết nối ta với đồng bào, đồng loại, giằng kéo bắt Ta cắn chặt răng để chịu thua thiệt, đứng vững gót để được làm người ở ngay cả trong một xã hội hư hèn, biến loạn. Mối giây lớn đó được gọi là Duy Nhân Cương Thường trong tương quan nhân tính. Vì vậy mà người xưa có câu:
Đọc tám vạn nghìn từ mặc kệ
Không quân thần phụ tử chẳng ra người
(Nguyễn Công Trứ)

Nhìn ngược lại giòng lịch sử, suốt từ Đông sang Tây, không ai là không do cha mẹ sinh ra với những ẩn tích không thể tẩy xóa về gia thế, giòng dõi và chủng tộc. Thích Ca là con vua Sudhodana Gautama thuộc bộ tộc Sakyas bên Ấn Độ. Jésus Christ là con bà Maria giòng dõi vua David xứ Do Thái bên Trung Đông. Và dân tộc Việt Nam chúng ta, cùng với 99 giòng Việt khác đã cùng có chung một mẹ một cha “cha là Lạc Long Quân, mẹ là Âu Cơ” mang một thân xác da vàng và giòng máu luân lưu dào dạt ý chí quật cường, bất khuất ...
Nếu người ăn quả còn biết nhớ kẻ trồng cây, uống nước còn nhớ đến nguồn thì sự yêu cha mẹ, kính ông bà, tôn sùng tổ tiên và anh hùng liệt nữ chỉ là làm một điều thuận với lẽ thường hằng, hợp với một chân lý phổ quát: Đạo Hiếu. Bài viết này không bàn sâu về Đạo Hiếu, nhưng trình bày về Việt Nam như một quê hương của nòi tình, mà ở đó người đàn bà vì thấm nhuần đạo hiếu đã giữ một vai trò quan trọng trong việc đóng góp công sức, hy sinh một cách thản nhiên và lặng lẽ để làm cho tổ quốc vinh quang, dân tộc được trường tồn qua sự hoàn tất những nhiệm vụ liên tiếp của một chu kỳ sống “một đời người”, như làm theo trách nhiệm của một đứa con hiếu thuận, làm một người vợ đảm ngoan chung sức cùng chồng tát cạn biển đông, làm bổn phận người mẹ quên mình vì con mà tận tụy một đời với những lo nghĩ yêu thương.

2). Tình: Những Sắc Thái Của Nhân Tính
Đã là người, tất khi sinh ra đã có đủ những nhân tính căn bản. Sống là một tiến trình biểu lộ tình cảm qua những phát huy nhân tính:
2a). Tình cảm
Tình có bảy thứ gọi chung là “thất tình” gồm những biến thái như: Thương, ghét, vui, buồn, sợ, muốn, giận. Tình nằm sâu trong tâm hồn con người, nhưng bản chất của tình thì động. Vì vậy, chữ tình (情) được viết bằng bộ Tâm (心) là trái tim và chữ Thanh (青) mầu xanh lá cây. Về ý nghĩa mầu sắc, xanh lá cây tượng trưng cho sự tươi trẻ, thanh xuân, nhưng theo ý nghĩa của y lý Đông Phương qua triết lý ngũ hành thì xanh thuộc Mộc (cây). Ở con người, Mộc chủ về gan mật mà gan mật thì liên quan tối gân cốt để hành động. Do đó, người xưa thường khen kẻ dám làm là can đảm hay là to gan lớn mật. Tình tuy bản chất động nhưng chỉ phát lộ ra ngoài khi bị cảm kích bằng ngoại cảnh. Cảnh sinh tình, nên vì tương quan nhân quả, tình thường được ghép chung với cảm. Cảm ( ) gồm chữ Tâm (心) ở dưới và chữ Hàm ( 咸 ) ở trên. Hàm có nghĩa là khắp cả, đều hết. Nghĩa là khi tình cảm ở tâm bị kích động thì sẽ lan truyền ra khắp hết thân thể để biểu lộ bằng hành động.
2b). Tình Nghĩa
Tình tuy có tới thất tình, nhưng khi nói đến tình thì con người đều thường chỉ nghĩ đến cái khía cạnh tốt đẹp của nó là yêu thương, tình ái. Ngay cả đến yêu thương cũng có những khung bậc (bệ, bậc) khác nhau tùy đối tượng như yêu cha mẹ, anh em ... nhưng đa số cũng chỉ nghĩ đến sự yêu thương giữa trai và gái qua chữ tình ái. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là điều thông thường, vì đó là đầu dây mối nhợ căn bản để nẩy sinh những mối tương quan nhân tính khác theo luật nhân quả. Có tương quan vợ chồng rồi mới có tương quan cha mẹ, con cái. Khi sống thành xã hội phồn tạp mà muốn tránh hỗn loạn thì phải có trật tự, có ngôi thứ trên dưới, vì vậy mà có vua tôi, quan dân. Những mối quan hệ này người xưa gọi là Tam Cương, ba giềng mối lớn chi phối toàn diện sinh hoạt con người trong xã hội.
Đa cảm tất đa tình ! cổ nhân đã có câu: “Tình như tình để”. Nghĩa là tình cảm như mạch nước ngầm, nơi đáy giếng với những vơi đầy bất tận. Tình là thứ nhu nhuyễn không có hình thức nhất định, ví như nước mà đặc tính của nước là thẩm thấu, ngấm ngầm để mang sự sống cho muôn loài . Không có nước tất đất sẽ khô cằn không thể trồng trọt, không có nước tất không có sự sống, nhưng nước quá nhiều cũng gây thành úng lụt tàn hại mùa màng hủy diệt sinh mạng. Đối với đất khô hạn thì phải tưới bằng cách dẫn thủy, tát nước. Đối với đất úng lụt thì phải khơi bằng cách đào ngòi tháo nước, thì đối với người việc dạy dỗ uốn nắn tình cảm cũng có ý nghĩa như công tác trị thủy, tưới bón hay tiêu tháo kể trên. Tình được uốn nắn bằng lễ nghĩa là những hình thức được coi là tiêu chuẩn áp dụng cho từng trường hợp, tùy người, tùy cảnh. Vì vậy, Tình thường được Nghĩa đi theo để điều hòa ở mức vừa phải, không thái quá mà cũng không bất cập. Chữ Nghĩa (義 ) có nghĩa là điều phải, việc đúng nên làm. Chữ Nghĩa gồm chữ Dương (恙 ) là con dê, tượng trưng cho quyền lợi vật chất và chữ Ngã (我) là cái Ta chung của mọi người, tức là quyền lợi chung phù hợp cho mọi người theo đúng tinh thần đại đồng “kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Điều mình không muốn thì cũng đừng làm cho người.

2c). Tâm Lý

Tình cảm được coi như một nguồn năng lực chủ yếu của con người, nhưng vấn đề là xử dụng nguồn năng lực đó làm sao cho hợp lý và tốt đẹp. Người không thể sống như tĩnh vật vô tình, như gỗ đá vô tri. Cho nên tình không thể diệt mà phải chính, không thể lạnh lùng nhổ bỏ như loài cỏ dại mà phải xuất lực ra tưới bón như lúa, như ngô, kiên tâm uốn nắn như cây kiểng. Tình phải nuôi mới lớn, nuôi bằng những cảm xúc cao đẹp, mà gây cảm xúc thì không gì bằng đọc lịch sử, văn chương, thi phú. Vì vậy mới nói “khởi ư thi” bắt đầu bằng thơ văn. Nhưng phát triển thì phải định hướng quy về một chủ đích, không thể để tự do buông thả như ngựa không cương, như thuyền không lái mà phải khuôn phép theo lễ nghĩa. Vì vậy mới nói “chế ư lễ”, dùng lễ nghĩa để uốn nắn. Một khi tình đã nuôi cho mạnh, uốn cho ngay chính đó là lúc tình có thể đem ra ứng dụng một cách hợp lý và tốt đẹp trong mọi hoàn cảnh, vì đã đạt được tới mức độ thuần thục “phát nhi trúng tiết” như một nốt nhạc góp phần làm nên một hợp âm, như một khí cụ trong tay người nghệ sĩ tài ba tham dự hòa tấu. Vì vậy mới nói “hòa ư nhạc” và bản chất của nhạc là “hòa nhi bất đồng”, âm thanh chỉ tương ứng mà hòa hợp với nhau, chứ không tan lẫn vào nhau như màu sắc.
  Nói thì giản dị nhưng chuyện không phải dễ làm. Vì đó là một tiến trình Tự Thắng để làm người, phát huy trọn vẹn Nhân Tính, “tận kỳ tính”, để đạt tới mức Nhân Chủ, làm chủ mình, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Nhân Chủ là một lý tưởng cao đẹp, làm chủ mình mà thảnh thơi như Tiên, Phật, làm chủ xã hội mà không áp chế bóc lột đồng loại, làm chủ thiên nhiên mà biết lấy chổ dư bù chổ thiếu để của kho thành vô tận. Hòa được với mọi người với vũ trụ mà không mất bản sắc, kết hợp được cả hai yếu tố mâu thuẫn nhau là Sống và Chết bằng Thủ Đoạn Nhân Ái, qua phong cách sống nội Thánh ngoại Vương để an định không chỉ một xã hội một quốc gia, một thế giới mà là cả vũ trụ trong tình trạng Duy Nhiên Thái Hòa. Lý Tưởng Nhân Chủ này được gói ghém trong biểu tượng Tiên Rồng, mà tổ tiên ta đã để lại như một bí quyết để giữ nước nòi cho con cháu trong nhiệm vụ Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
3). Đạo Hiếu: Nền Tảng Sâu Xa Của Duy Nhân Cương Thường
3a). Đạo Là Gì ?
Đạo là một thứ hệ thống tư tưởng bao gồm nhiều ý niệm, dùng để hướng dẫn con người sống một cách tốt đẹp phù hợp với những tiêu chuẩn lý tưởng. Nhưng Đạo cũng có nghĩa là con đường phải theo để đạt đến một đích điểm nào đó. Theo chiết tự, Đạo (導) gồm bộ Xước (逴) là chân bước đi thong thả và chữ Thủ (取) là cái đầu. Đầu để trầm tư suy nghĩ những ý niệm trừu tượng, phân biệt phải trái, đúng sai. Nhưng ý thức được trọn vẹn sự việc, mà không quyết tâm thi hành, thì đó chỉ là hạng thanh đàm bạc nhược. Người xưa có câu “kiến nghĩa bất vi vô dũng giả” nghĩa là thấy việc đúng phải, nên làm, mà không làm là kẻ hèn mọn. Nhưng tri hành phải hợp nhất, biết thì phải đi đôi với làm. Kẻ cầu đạo khi được học đạo tất phải hành đạo để đắc đạo. Học đạo, sống đạo, thực hành đạo đều là những hành động có ý thức đòi hỏi sự kiên tâm quyết chí, thúc đẩy bằng một niềm tin mãnh liệt. Đạo không sống thì đạo không thành, đường đi không tới. Do đó chữ Đạo bao gồm chữ Thủ chỉ sự biết và bộ Xước chỉ sự làm trong một toàn thể gọi là Đạo.
3b). Nhận Định Căn Bản

Đạo Hiếu bắt đầu bằng một nhận định căn bản “Nhân bản hồ tổ”, người gốc ở tổ tiên. Sự liên hệ nguồn gốc này mang đủ hai đặc tính huyết thống và tinh thần, được di truyền từ đời tổ tiên xuống đến con cháu, nối những thế hệ thành một xâu chuỗi, thành một sinh mệnh có tính bất tử, vì thống nhất được cả quá khứ, hiện tại và tương lai vào một giòng sống miên man và bất tuyệt. Ý niệm sinh mệnh nói trên được chứng thực qua cách nói ví với những bộ phận bất khả phân ly của một con người đang sống. chẳng hạn đã có những câu phương ngôn như:
* - Cốt nhục thâm tình.
* - Anh em như thể tay chân.
* - Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
* - Máu chảy ruột mềm.
* - Môi hở răng lạnh.
Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã trở thành một niềm tin làm cơ sở siêu hình cho Đạo Hiếu. Trong ngôn ngữ Việt đã có những câu như:
* - Phúc đức ông bà để lại.
* - Phúc đức tại mẫu.
* - Sống gởi thác về.
* - Tu nhân tích đức để phúc cho con.
* - Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
* - Sống vì mồ vì mả, không ai sống vì cả bát cơm.
Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã được chấp nhận trong đời sống quốc gia, được thể hiện qua định chế lập pháp. Tội tru di tam tộc (giết ba họ), hay khi thi đỗ đại khoa được cấp ngựa xe võng lọng để vinh quy bái tổ, trở về quê quán để làm lễ tuyên cáo với tổ tiên về thành quả đã đạt được trong việc học hành. Cha mẹ, vợ con của những người đỗ đạt làm quan tước đều được phong hàm. Do đó mà có câu “một người làm quan cả họ được nhờ”, nhờ vì được tiếng thơm lây cho cả giòng họ .
    Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã đưa đến một thói quen được thấy trong đời sống hàng ngày và đồng hóa cá nhân với cả giòng họ, coi người được tiếp xúc như là đại diện chính thức của giòng họ, chẳng hạn như Lão Trần, Chu Tiên Sinh, Trần Thi, Nhan Thị, v.v... Do đó, một người có thể lưu danh thơm thiên cổ làm rạng rỡ tổ tiên giòng họ, hay di xú, để tiếng xấu đến muôn đời làm điếm nhục tông môn bằng những hành động có tính cách cá nhân. Ca dao có câu:
* - Yêu người yêu cả đường đi
* - Ghét người ghét cả tông chi họ hàng

3c). Những Ý Niệm Tạo Dựng Nên Chữ Hiếu.
Hiếu ( ) là con đường thờ cha mẹ hết lòng. Thờ là đối xử một cách cung kính lúc cha mẹ còn trên đời cũng như lúc cha mẹ khuất núi. Phân tích theo chiết tự thì Hiếu ( ) là đất ở trên và chữ Tử ( ) là con ở dưới. Chữ Thổ và chữ Tử được phân biệt tách bạch bằng nét phẩy ( ) thuộc bộ Phiệt. Dấu phẩy này tượng trưng cho cương giới, phân định vị trí người con đối với cha mẹ và các bậc tôn trưởng. Vì vậy mà chữ Tử đứng ở dưới chữ Thổ chỉ phận ở dưới.
Sách có câu “Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình”, ở trên trời là biểu tượng, ở dưới đất là hình thể, đó là ý nhờ mẹ nên mới có con. Thổ, tức là địa phối hợp với thiên để tượng trưng cho ý niệm Âm Dương đầu mối của muôn vật với ý nghĩa “Nhất âm, nhất dương chi đạo”, mà cái đức lớn nhất của trời đất là sinh hóa “Thiên địa chi đại đức viết sinh”, và cái công lao cha mẹ cũng nằm trong việc sinh đẻ con cái, nuôi dưỡng chúng nên người.
Theo kinh Dịch, Thổ là đất địa, tương ứng với quẻ Khôn ( ) Khôn chỉ yếu tố Âm, người mẹ, sự chứa đựng bao dung, lòng nhân ái … đối lập với quẻ (Kiền) Càn ( ) chỉ yếu tố Dương, người cha, sự cứng rắn … Con là kết quả của tinh cha huyết mẹ. Sự thụ nhân và cưu mang mầm sống, là khả năng thuộc bản chất người nữ với tấm lòng bao dung nhu thuận, vì đó mà quẻ Khôn được tượng trưng bằng một khoảng trống vắng ở giữa, hai hàng vạch nằm chồng liên tiếp lên nhau. Trong vòng chín tháng mười ngày thai nhi với mẹ chỉ là Một. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, khi thai nhi cất tiếng khóc chào đời và được cắt rốn giữa cơn đau xé ruột của người mẹ, thì Một đã trở thành Hai. Mẹ và Con với sự chia cách của hai thân xác, nhưng lại được ràng buộc chặt chẽ bằng mối tương quan nhân tính bền vững của tình mẫu tử và những nghi thức, bổn phận do chữ Hiếu qui định.
  Theo triết lý ngũ hành, Thổ có vị trí đứng giữa thuộc Trung cung, mang số năm (5), mầu vàng. Thổ đứng ở giữa vì thổ có đức bao dung chứa đựng. Tục ngữ có câu: “Bậc trưởng thượng lòng phải rộng, tính phải thẳng-quân tử tiết trực tâm hư”, vì vậy mà Thổ tượng trưng cho Mẹ mà cũng tượng trưng cho Vua mặc hoàng bào, ở trung ương. Đó là lý do người chết thường chôn theo địa táng chứ không thả trôi sông, trôi biển theo thủy táng hay treo cao bỏ mặc kiểu thiên táng. Câu “sống gởi thác về” được hiểu là nhập thổ về với tổ tiên. Ý niệm ngũ hành còn là đầu mối của nhiều nghi thức. chẳng hạn chữ Tỉnh (井 ) là đào giếng để lấy nước ăn, uống, là dấu vết để lại của thời bình sản kinh tế qua các hình thức phân quân điền địa. Đất phân làm chín (9) khu, chia cho tám (8) nhà cầy cấy, còn thửa ruộng ở giữa có giếng để dùng chung. Lúa thu hoạch được ở ruộng giữa này do sức đóng góp của tám nhà chung quanh sẽ thay cho thuế nộp vào kho vua. Do đó đại gia đình chỉ giới hạn trong chín đời, gọi là cửu tộc, lấy mình làm gốc ở giữa kể lên bốn (4) đời gồm cha mẹ, ông bà, cụ, kị, và dưới mình bốn (4) đời gồm con, cháu, chắt, chút. Trong từ đường của giòng họ ngành trưởng thì thần chủ thờ vị thủy tổ không bao giờ thay đổi gọi là “Bách thế bất điêu chi chủ”, nhưng trong những nhà thờ ngành thứ nhì, thì có lệ chôn thần chủ khi vượt quá năm (5) đời. Ví dụ nếu người cha chết, người con lên thay thì người cha sẽ được thờ, thần chủ của kị người cha sẽ được đem chôn và thay vào đó là thần chủ của cụ người cha nay là kị của người con.
Việc thờ cha kính mẹ phải xuất phát tự đáy lòng, đột khởi tự con tim và được hướng dẫn bởi trí óc. Nghĩa là việc hiếu thảo phải được thúc đẩy bởi năng lực tình yêu qua những biểu lộ hình thức gọi là Lễ. Cốt tủy của Lễ là ở chỗ thành tâm, tức là sự thực lòng được thể hiện qua thái độ cung kính bên ngoài. Không có sự chân thật thì Lễ chỉ là hư văn, hình thức giả dối. Chữ Thành (成 ) ngoài ý là chân thành không giả dối, đổi thay còn có nghĩa là làm nên công, xong việc, hoàn tất một cách tốt đẹp như chữ Thành Công, Thành Nhân. Chữ Thành được ghép bởi chữ lực (力) là sức mạnh và bộ Qua (戈) là một thứ binh khí thời cổ để diễn tả sự muốn thành công hay thành nhân không phải là chuyện dễ làm. Để Thành Công hay Thành Nhân tất phải dùng tới cả sức mạnh của ý chí tinh thần lẫn thể xác và vũ khí vật chất để thắng kỷ và thắng nhân, bắt mình vào khuôn phép hay khuất phục người. Thắng người còn dễ nhưng chiến thắng chính bản thân mình là một điều thật khó. Đó cũng là lý do nói. Đạo Hiếu là đạo để tu thân, khởi điểm của tiến trình đi đến Nhân Chủ qua những cấp bậc liên tiếp là: thương gia đình, lo cho tổ quốc, trăm họ bình yên và hài hòa cùng vũ trụ. Đó cũng là lý do nói Thành là khởi điểm tu thân cầu học trong nền Đạo Hiếu của 99 giòng Việt với những giai đoạn: “Thành ý, Chính tâm, cách vật, chí tri, thành nhân chi mỹ”. Nghĩa là ý muốn phải mãnh liệt và chuyên nhất, không thay đổi, lòng dạ phải ngay lành không khuất tất gian tà, làm việc phải phân minh rõ ràng đến nơi đến chốn, hiểu biết phải sâu xa đến ngành đến ngọn. Có thành tâm thì mới hy vọng có thành công được vậy ! và Tu để làm gì nếu không là để thành người tốt, đó là ý nghĩa của câu “thành nhân chi mỹ”. (Sau này Khổng Khâu tức Khổng Tử đã lấy năm (5) ý trên mà sửa lại để bình trị (làm vua) thiên hạ là: “Thành kỳ ý, Chính kỳ tâm, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc Bình Thiên Hạ”)
Đạo Hiếu là đạo tu thân, sống Làm Người và để Thành Người trong xã hội, nên trên từ vua, quan đến thứ dân đều theo đạo Hiếu. Chữ Hiếu ( ) khi được ứng dụng vào tầm vóc quốc gia thì chữ Tử ( ) ngoài ý nghĩa là con thông thường còn để chỉ những người tôn quý, có đức hạnh, có học vấn, có chức vụ cao, chẳng hạn như đại thần Chu Văn An hay vua (thiên tử) và chữ Thổ ( ) chỉ công trình kiến trúc được đắp bằng đất cao và vuông vắn để làm nơi tế lễ. Vua, trong cương vị là thiên tử đứng dưới để làm lễ tế trời đất.
Nếu hiểu sống Làm Người để Thành Người đạt tới lý tưởng Nhân Chủ thì trăm năm của kiếp nhân sinh phù du có lẽ quá ngắn ! Thích Ca đã phải luân hồi bao nhiêu kiếp để thành chính quả ? Nhưng bổn phận là điều mà không ai có thể chối từ. Sự khác biệt của các vị Tiênthanks.gifhật với chúng ta là: Họ đã có một quá khứ, còn chúng ta có một tương lai. Tương lai thì có biết bao điều hứa hẹn, cho nên chữ Liễu ( ) là sự hiểu biết, sự hoàn tất, làm xong công, xong việc đã bị làm cho dở dang, ngăn cách bởi một vạch ngang ( ) chữ Nhất. Ý nhắc nhở là ở vị trí người con ( ) ta còn biết bao việc phải hoàn tất. Thật vậy sống làm người đến khi nhắm mắt xuôi tay có mấy ai dám nghĩ mình phải thảnh thơi trả xong ơn nghĩa, ơn tổ tiên, ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, làm xong bổn phận với gia đình thân thích, đối với đồng bào ruột thịt và đối với tổ quốc thân thương yêu quý.
3d). Đạo Hiếu
   Từ sự nhận định “Nhân Bản Hồ Tổ”, đến việc ý thức toàn thể giòng họ như một sinh mệnh không thể chia lìa, đã đặt các phần tử trong một gia tộc trước những bổn phận phải hoàn tất để thực thể đó được Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng. Sống làm người không ai không mong được đủ năm điều: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh, nghĩa là sang, giàu, sống lâu, mạnh khỏe, bình an. Nhưng làm sao để sống, để còn là điều quan trọng hàng đầu, Chết, mất vẫn là điều tệ hại nhất. Hiểu được vậy tất thông cảm nổi lo âu của các bậc tôn trưởng khi thấy mình tuổi đã cao, cái chết đã cận kề mà chưa thấy có kẻ nối dõi, vì e sợ giòng họ do sự thua kém của mình và tuyệt tự. Việc bái lễ cầu con, lấy vợ lẽ cho chồng, nuôi nghĩa tử ... chỉ là những cố gắng đớn đau tuyệt vọng của những người mang mặc cảm chưa làm xong trách nhiệm với giòng họ “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại” không con để cho giòng dõi bị tuyệt diệt là một tội nặng. Tuy nhiên, việc làm cho giòng họ được trường tồn, chỉ là bước đầu. Những phần tử có trách nhiệm còn phải cố gắng làm sao để làm cho rạng danh giòng họ. Con phải hơn cha, cháu phải hơn ông, con cháu hưng vượng, thì đó mới thật sự là nhà có phúc. Vì đó là sự tiến lên của một gia đình, giòng họ và đất nước.
Đạo Hiếu là đạo thờ người vì (và) truy nhận nguồn gốc tổ tiên. Tổ tiên tuy không là đấng toàn năng tạo ra muôn loài, muôn vật, có toàn quyền ban phát phúc họa với sự thưởng phạt thiên đường, địa ngục, với cõi niết bàn, với ngục thất a tì, nhưng tổ tiên đã để lại gương tốt oai linh làm anh thư liệt nữ, hào kiệt anh hùng, với những công trạng hiển hách muôn đời ghi lại trong gia phả, trong sử sách để con cháu đời sau học theo, làm theo. Những lúc hành lễ cúng thờ tổ tiên, những lúc xem lại gia phả, đọc lại sử nước nhà, trong cái tịch mịch của sự suy tưởng bằng một tấm lòng thành kính, tất sẽ thấy được hình bóng phảng phất của hồn thiêng tổ phụ qua hương bay khói tỏa trở về chứng giám, sẽ cảm được từ đáy sâu của tiềm thức thế nào là vinh quang và tủi nhục của một giòng họ, của một nước nòi đã trải qua trong cuộc đấu tranh gay gắt để: Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa. Do đó, Đạo Hiếu là đạo tu thân để làm người con xứng đáng, nhưng cũng là đạo tu thân để làm người công dân tốt trong một đất nước trong một xã hội. Có yêu nhà thì mới yêu nước. Có giữ được nước thì mới giữ được nhà. Câu “quốc phá gia vong” là một quy luật biện chứng lịch sử mà tổ tiên ta đã từng đưa ra để giáo dục con dân:
“Nay ta bảo thật các ngươi nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông, Hậu Nghệ thì mới có thể dẹp tan được giặc mà lập nên được công danh. Chẳng những là thái ấp của ta được bền vững, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc. Chẳng những gia quyến của ta được yên ổn, mà các người cũng được vui với vợ con, chẳng những tiền nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được thờ phụng tổ phụ trăm năm vinh hiển, chẳng những một mình ta được sung sướng mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, nghìn đời thơm tho. Đến bấy giờ các ngươi dầu không vui vẻ, cũng tự khắc được vui vẻ ...” (Hịch Tướng Sĩ Hưng Đạo Vương).
Đạo Hiếu thâm trầm giản dị là thế, gần gủi và thiết thực đối với chúng ta trong tư cách con dân là thế, có thể coi là trong gang tấc mà sao vẫn bị ngộ nhận như một kẻ xa lạ vô cùng ! Đã có biết bao người khi mở miệng, hễ đặt bút là chê tổ tiên, khinh khi giòng giống. Theo họ, đạo xưa là hẹp hòi, hủ lậu, là bất công, áp chế con người ..v.v.. Nhưng họ có hiểu rõ bản chất của Đạo Hiếu và dụng ý của người xưa chăng ? Một ngàn năm (1000) bị giặc phương Bắc đô hộ mà không bị đồng hóa. Tám mươi năm (80) giặc Pháp xâm thực, mà không bao giờ ngớt đổ máu xương tranh giành độc lập. Những kết quả đó tất phải tạo được bởi một Nhân. Và nhân nào nếu không là những người con hiếu thảo, những người vợ đảm ngoan, những người mẹ hiền thục ? Hiếu tử luôn luôn sẽ trở thành trung thần, nghĩa sĩ, bạn hiền. Những phường bạc tình, vong ân, bội nghĩa, khinh khi cha mẹ, coi thường nòi giống. Cuối cùng rồi cũng đi làm tay sai cho người, bán nước cho ngoại bang. Vì họ đều có chung một bản chất ích kỷ, tham lam, ti tiện, những loại người này họ sống hay chết thì cũng thối tha, vô tích sự cho xã hội và cho đất nước.
4). Những Cống Hiến Vĩ Đại Của Người Phụ Nữ Việt Cho Quê Hương, Nguyện vọng sâu xa nhất của loài người là sống còn mãi mãi. Những phương pháp tu luyện, những linh đơn, tiên dược có khả năng trường sinh hoặc kéo dài tuổi thọ mà ngày nay ta còn được nghe tới, chỉ là những dấu tích của một ước mơ chưa trọn vẹn. Dù chưa tìm được phép Trường Sinh, nhưng loài người lại có khả năng Truyền Sinh để tiếp nối sự sống đến vô cùng. Tuy nhiên, khả năng truyền sinh lại có thể hoàn tất một cách tốt đẹp qua sự thuận tình hợp tác của hai yếu tố nam và nữ, qua tương quan vợ chồng, trên căn bản bình đẳng. Vì con cái phải là kết quả của tình nghĩa, của lòng yêu thương và tinh thần trách nhiệm được biểu lộ bằng một mong ước thật tình và một sự chờ đợi nôn nóng ...
Nhiều người theo tây học đã cho rằng phụ nữ Việt Nam bị kỳ thị coi rẽ, coi khinh và mất nhân cách vì họ bị lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ ở nhà, vào chồng khi xuất giá vào con khi chồng chết … Do đó, họ đã hô hào giải phóng phụ nữ và đòi nam nữ bình quyền, rập theo khuôn mẫu của những phong trào tương tự ở Âu Mỹ. Phải nhìn nhận là thiện chí của họ rất tốt, thái độ của họ rất đúng, nhưng đối tượng của họ sai. Bên Âu Châu, phong trào giải phóng phụ nữ và đòi nam nữ bình quyền bắt nguồn sâu xa từ một ý niệm triết lý căn bản: “…đàn bà là vật phụ thuộc của đàn ông”, qua chuyện tích bà Eva được làm nên bởi cái xương sườn của Adam. Thượng đế đã tạo nên Eva trong mục đích làm cho Adam vui sống. Eva với bản tính nhẹ dạ cả tin và ưa phù phiếm nên đã bị rắn Satan cám dỗ ăn trái cấm. Sau khi phạm tội, Eva đã quyến rũ Adam phạm tội theo và cả hai bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Vả lại, ý niệm tự do Tây phương đặt trên quyền lợi cá nhân. Quyền lợi đưa tới tư hữu. Tư hữu đưa tới chiếm đoạt mà chính sách đế quốc thực dân là một hậu quả tất nhiên. Ngược lại, ý niệm tự do Đông phương xây dựng trên bổn phận. Bổn phận đưa đến trách nhiệm. Trách nhiệm đưa đến hy sinh quên mình mà sự tu thân tự tỉnh là đều kiện chủ yếu. Do đó, thiện chí “giải phóng phụ nữ” đã không đặt đúng chỗ, vì trên cả hai phương diện lý thuyết và thực tế người đàn bà Việt Nam đã, đang và mãi mãi được quý trọng không những bởi con cái, bởi chồng mà còn bởi cả toàn thể dân tộc. Họ được tôn xưng và giữ một địa vị không thể thay thế được trong triết lý Âm Dương, trong nguồn gốc dân tộc, trong việc trồng người gồm cả hai mặt sinh dưỡng và giáo hóa, để bảo tồn giòng sinh mệnh lịch sử của nước nòi được Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
4a). Vị Trí Người Phụ Nữ Trên Căn Bản Triết Lý Dịch
Dịch là những ý niệm triết lý lâu đời nhất của nhân loại, được hệ thống lại từ khi nhân loại chưa có chữ viết. Dịch xây dựng trên ý niệm Âm-Dương. Âm biểu tượng bằng một vạch đứt đoạn (--), và Dương biểu tượng bằng một vạch liên tục (-). Định lý căn bản của dịch là: “nhất âm nhất dương chi vị đạo”, một âm phối hợp với một dương đó là đạo lớn. Hệ luận của “độc dương bất sinh, cô âm bất trưởng”, riêng một mình yếu tố dương thì không thể sinh trưởng được, riêng một mình yết tố âm thì cũng không thể nào lớn lên được. Và “âm trung chi dương, dương trung cho âm”, trong âm có dương, trong dương có âm.Biểu tượng của dịch được vẽ bằng một vòng tròn tượng trưng cho sự viên mãn tròn đầy của lý tưởng, sự duy nhất chỉ có một chân lý mang tính phổ quát bao trùm cả mọi nơi chốn, ảnh hưởng suốt khắp mọi thời. Bên trong vòng tròn là hai yếu tố Âm Dương được phân biệt bằng một mầu trắng âm và mầu đen dương, với một chữ S cân xứng làm bằng hai nửa vòng tròn nối tiếp nhau, diễn tả ý “âm dương tương thôi” yếu tố âm và yếu tố dương đun đẩy và bù đắp lẫn cho nhau, tạo nên một thế Thăng Bằng Động của một sự Bình Đẳng Tuyệt Đối trên giá trị bản chất, nhưng khác biệt nhau vì hoàn cảnh: Vị trí và nhiệm vụ. Sự khác biệt vị trí và nhiệm vụ nói lên tính hợp lý trong việc phân công. Yếu tố dương có một đầu to và một đầu nhỏ, yếu tố âm cũng có một đầu nhỏ và một đầu to. Nếu đầu to tượng trưng cho ưu điểm và đầu nhỏ tượng trưng cho nhược điểm thì với sự phối trí của biểu tượng dịch lý, yếu tố âm và yếu tố dương đã hoàn toàn bổ túc, bù đắp cho nhau để tạo thành một toàn thể có đủ những tính chất: hợp lý, cân xứng, hài hòa. Còn hai điểm nhỏ, điểm đen nằm ở đầu to yếu tố âm trắng và điểm trắng nằm ở yếu tố dương đen, tượng trưng cho mầm nhân của khả năng biến đổi tiến hóa để thích nghi với hoàn cảnh, phù hợp với nhiệm vụ mới, diễn tả hệ luận biến dịch “Âm trung tri Dương, Dương trung tri Âm”, căn bản của quy luật chân lý tương đối trong môi trường động.Đặt nền trên những căn bản triết lý trên, người phụ nữ đã có một địa vị xứng đáng và cao trọng trong xã hội Việt Nam đặc biệt là trên tương quan vợ chồng. Vợ chồng là đạo lớn “phu thê chi đại đạo” hay của người quân tử bắt đầu từ mối liên hệ vợ chồng “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”, chỉ là những diễn dịch từ định đề căn bản của dịch “nhất âm nhất dương chi vị đạo” là mối cương thường đứng hàng đầu trước mối liên hệ cha mẹ-con cái và vua tôi, tạo nên ba giềng mối lớn gọi là Tam Cương. Lấy vợ, sinh con nối dõi vừa là một nhu cầu thuộc bản năng, vừa là một nhiệm vụ trong việc làm người để thành người. Do đó, đời một người được chia làm ba thời kỳ với ba mục tiêu rõ rệt. Tuổi vị thành niên thì lo học hành “Định Học”. Tuổi trưởng thành thì lo lập gia đình “Định Tình”. Sau khi đã yên bề gia thất, vợ con mới lo công danh sự nghiệp “Định Nghiệp”. Việc lấy vợ còn quan trọng hơn việc thi đỗ. Vì vậy, thi đỗ được coi là tiểu đăng khoa, còn lấy vợ là đại đăng khoa.Khi vợ chồng ăn ở với nhau đã có con cái, người vợ nay thêm bổn phận làm mẹ lại càng được tôn kính nhiều hơn. Chỉ nhìn qua lễ nghi, tang ma thì đủ rõ mục đích biểu lộ lòng nhớ ơn sâu xa của người con đối với công lao sinh dưỡng của người mẹ. Nào mũ mấn đội đầu tượng trưng cho cái “nhau” lúc ra đời, nào áo sô trắng tượng trưng cho lúc còn nằm trong bụng mẹ. Nào để tang ba năm, khoảng thời gian tối thiểu để đứa bé có thể sống xa mẹ ... Kể ra khi nhìn vào thực tế xã hội tất cũng nhìn thấy nhiều sự sai lạc và biến đổi không thập phần hoàn hảo như những ước tính hoạch định trên lý thuyết. Tuy nhiên, đó chỉ là những khuyết điểm về phần nhân sự thực hành mà những người có trách nhiệm cải tạo xã hội phải sửa sai. giáo dục chứ không đập bỏ, phá vỡ một cách vô trách nhiệm. Thái độ phê bình “vơ đũa cả nắm” chỉ chứng tỏ một trình độ hiểu biết nông cạn và phiến diện về đối tượng được phê bình, nếu không muốn nói đó là thái độ thù nghịch. Không thể lấy con đường 14th ở Washington D.C. để đại diện cho cả thủ đô Hoa Kỳ hay nguy hại hơn nửa cho cả nước Hoa Kỳ rộng lớn. Cũng không thể đọc vài tờ báo như: Penthouse, Playboy, Sirs ... để định mức tình trạng trí thức Hoa Kỳ ! Nếu tin vào sự chính xác của quy luật “tư tưởng hướng dẫn hành động”, thì chỉ ý niệm Âm Dương trong vòng Thái Dịch cũng đủ minh chứng sự “Bình Đẳng Tuyệt Đối” của vợ với chồng trên giá trị bản chất người, Nhân Bản. Và để kết luận, người phụ nữ có một địa vị cao trọng được tôn kính đúng mức ở xã hội Việt Nam, với những chứng tích không thể chối bỏ được trong lịch sử dân tộc.














Back to top
« Last Edit: 13. Oct 2006 , 22:09 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Sinh Mệnh Việt Qua Văn Hiến Việt
Reply #19 - 13. Oct 2006 , 21:57
 
Trần Chính Trung

* - Chữ Trung mình để phần Cha
* - Chữ Hiếu cho Mẹ, đôi ta chữ Tình
(Ca Dao)1) .
Từ Nhân Đến Quả
   Nhân-Quả là một chu kỳ nằm trong tiến trình: Sống, Còn, Nối, Tiếp, Tiến, Hóa đến vô cùng của muôn vật muôn loài. Nhân-Quả cũng là tóm lược của chu kỳ nhiều phức tạp chứađầy những trợ duyên Thuận-Nghịch trong một sự tổng hợp gồm đủ cả không gian lẫn thời gian. Nhân là cái mầm mống phát sinh ra sự kiện, đó cũng là khởi điểm. Quả là cái hình thành được tạo dựng, đó cũng là đích điểm. Ở loài thảo mộc, nhân là hạt giống được gieo trồng trên đất để theo ngày tháng nẩy mộng đâm mầm, thành cây xanh lá rậm, rồi đâm cành trổ bông, để đến sinh trái, kết quả. Ở loài người, nhân là tinh cha huyết mẹ và quả là kết con sinh cái (con cái). Vì vậy chẳng bao giờ một vật gì bỗng không lại có. Tất cả được tạo nên bởi một nguồn gốc một nguyên nhân. Trồng dưa thì được ăn dưa, trồng cà thì được ăn cà và con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
Không có tổ tiên, ông bà tất không có cha mẹ. Không có cha mẹ tất cũng không có con cái và không có Ta hiện diện trên cõi đời này ! Tổ Tiên, Giòng Giống, Cha Mẹ là điều mà đã là người thì chẳng ai dám dứt bỏ hay từ chối. Đó là những mối giây lớn kết nối ta với đồng bào, đồng loại, giằng kéo bắt Ta cắn chặt răng để chịu thua thiệt, đứng vững gót để được làm người ở ngay cả trong một xã hội hư hèn, biến loạn. Mối giây lớn đó được gọi là Duy Nhân Cương Thường trong tương quan nhân tính. Vì vậy mà người xưa có câu:
Đọc tám vạn nghìn từ mặc kệ
Không quân thần phụ tử chẳng ra người

(Nguyễn Công Trứ)

Nhìn ngược lại giòng lịch sử, suốt từ Đông sang Tây, không ai là không do cha mẹ sinh ra với những ẩn tích không thể tẩy xóa về gia thế, giòng dõi và chủng tộc. Thích Ca là con vua Sudhodana Gautama thuộc bộ tộc Sakyas bên Ấn Độ. Jésus Christ là con bà Maria giòng dõi vua David xứ Do Thái bên Trung Đông. Và dân tộc Việt Nam chúng ta, cùng với 99 giòng Việt khác đã cùng có chung một mẹ một cha “cha là Lạc Long Quân, mẹ là Âu Cơ” mang một thân xác da vàng và giòng máu luân lưu dào dạt ý chí quật cường, bất khuất ...
Nếu người ăn quả còn biết nhớ kẻ trồng cây, uống nước còn nhớ đến nguồn thì sự yêu cha mẹ, kính ông bà, tôn sùng tổ tiên và anh hùng liệt nữ chỉ là làm một điều thuận với lẽ thường hằng, hợp với một chân lý phổ quát: Đạo Hiếu. Bài viết này không bàn sâu về Đạo Hiếu, nhưng trình bày về Việt Nam như một quê hương của nòi tình, mà ở đó người đàn bà vì thấm nhuần đạo hiếu đã giữ một vai trò quan trọng trong việc đóng góp công sức, hy sinh một cách thản nhiên và lặng lẽ để làm cho tổ quốc vinh quang, dân tộc được trường tồn qua sự hoàn tất những nhiệm vụ liên tiếp của một chu kỳ sống “một đời người”, như làm theo trách nhiệm của một đứa con hiếu thuận, làm một người vợ đảm ngoan chung sức cùng chồng tát cạn biển đông, làm bổn phận người mẹ quên mình vì con mà tận tụy một đời với những lo nghĩ yêu thương.

2). Tình: Những Sắc Thái Của Nhân Tính
Đã là người, tất khi sinh ra đã có đủ những nhân tính căn bản. Sống là một tiến trình biểu lộ tình cảm qua những phát huy nhân tính:
2a). Tình cảm
Tình có bảy thứ gọi chung là “thất tình” gồm những biến thái như: Thương, ghét, vui, buồn, sợ, muốn, giận. Tình nằm sâu trong tâm hồn con người, nhưng bản chất của tình thì động. Vì vậy, chữ tình (情) được viết bằng bộ Tâm (心) là trái tim và chữ Thanh (青) mầu xanh lá cây. Về ý nghĩa mầu sắc, xanh lá cây tượng trưng cho sự tươi trẻ, thanh xuân, nhưng theo ý nghĩa của y lý Đông Phương qua triết lý ngũ hành thì xanh thuộc Mộc (cây). Ở con người, Mộc chủ về gan mật mà gan mật thì liên quan tối gân cốt để hành động. Do đó, người xưa thường khen kẻ dám làm là can đảm hay là to gan lớn mật. Tình tuy bản chất động nhưng chỉ phát lộ ra ngoài khi bị cảm kích bằng ngoại cảnh. Cảnh sinh tình, nên vì tương quan nhân quả, tình thường được ghép chung với cảm. Cảm ( ) gồm chữ Tâm (心) ở dưới và chữ Hàm ( 咸 ) ở trên. Hàm có nghĩa là khắp cả, đều hết. Nghĩa là khi tình cảm ở tâm bị kích động thì sẽ lan truyền ra khắp hết thân thể để biểu lộ bằng hành động.
2b). Tình Nghĩa
Tình tuy có tới thất tình, nhưng khi nói đến tình thì con người đều thường chỉ nghĩ đến cái khía cạnh tốt đẹp của nó là yêu thương, tình ái. Ngay cả đến yêu thương cũng có những khung bậc (bệ, bậc) khác nhau tùy đối tượng như yêu cha mẹ, anh em ... nhưng đa số cũng chỉ nghĩ đến sự yêu thương giữa trai và gái qua chữ tình ái. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là điều thông thường, vì đó là đầu dây mối nhợ căn bản để nẩy sinh những mối tương quan nhân tính khác theo luật nhân quả. Có tương quan vợ chồng rồi mới có tương quan cha mẹ, con cái. Khi sống thành xã hội phồn tạp mà muốn tránh hỗn loạn thì phải có trật tự, có ngôi thứ trên dưới, vì vậy mà có vua tôi, quan dân. Những mối quan hệ này người xưa gọi là Tam Cương, ba giềng mối lớn chi phối toàn diện sinh hoạt con người trong xã hội.
Đa cảm tất đa tình ! cổ nhân đã có câu: “Tình như tình để”. Nghĩa là tình cảm như mạch nước ngầm, nơi đáy giếng với những vơi đầy bất tận. Tình là thứ nhu nhuyễn không có hình thức nhất định, ví như nước mà đặc tính của nước là thẩm thấu, ngấm ngầm để mang sự sống cho muôn loài . Không có nước tất đất sẽ khô cằn không thể trồng trọt, không có nước tất không có sự sống, nhưng nước quá nhiều cũng gây thành úng lụt tàn hại mùa màng hủy diệt sinh mạng. Đối với đất khô hạn thì phải tưới bằng cách dẫn thủy, tát nước. Đối với đất úng lụt thì phải khơi bằng cách đào ngòi tháo nước, thì đối với người việc dạy dỗ uốn nắn tình cảm cũng có ý nghĩa như công tác trị thủy, tưới bón hay tiêu tháo kể trên. Tình được uốn nắn bằng lễ nghĩa là những hình thức được coi là tiêu chuẩn áp dụng cho từng trường hợp, tùy người, tùy cảnh. Vì vậy, Tình thường được Nghĩa đi theo để điều hòa ở mức vừa phải, không thái quá mà cũng không bất cập. Chữ Nghĩa (義 ) có nghĩa là điều phải, việc đúng nên làm. Chữ Nghĩa gồm chữ Dương (恙 ) là con dê, tượng trưng cho quyền lợi vật chất và chữ Ngã (我) là cái Ta chung của mọi người, tức là quyền lợi chung phù hợp cho mọi người theo đúng tinh thần đại đồng “kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Điều mình không muốn thì cũng đừng làm cho người.

2c). Tâm Lý

Tình cảm được coi như một nguồn năng lực chủ yếu của con người, nhưng vấn đề là xử dụng nguồn năng lực đó làm sao cho hợp lý và tốt đẹp. Người không thể sống như tĩnh vật vô tình, như gỗ đá vô tri. Cho nên tình không thể diệt mà phải chính, không thể lạnh lùng nhổ bỏ như loài cỏ dại mà phải xuất lực ra tưới bón như lúa, như ngô, kiên tâm uốn nắn như cây kiểng. Tình phải nuôi mới lớn, nuôi bằng những cảm xúc cao đẹp, mà gây cảm xúc thì không gì bằng đọc lịch sử, văn chương, thi phú. Vì vậy mới nói “khởi ư thi” bắt đầu bằng thơ văn. Nhưng phát triển thì phải định hướng quy về một chủ đích, không thể để tự do buông thả như ngựa không cương, như thuyền không lái mà phải khuôn phép theo lễ nghĩa. Vì vậy mới nói “chế ư lễ”, dùng lễ nghĩa để uốn nắn. Một khi tình đã nuôi cho mạnh, uốn cho ngay chính đó là lúc tình có thể đem ra ứng dụng một cách hợp lý và tốt đẹp trong mọi hoàn cảnh, vì đã đạt được tới mức độ thuần thục “phát nhi trúng tiết” như một nốt nhạc góp phần làm nên một hợp âm, như một khí cụ trong tay người nghệ sĩ tài ba tham dự hòa tấu. Vì vậy mới nói “hòa ư nhạc” và bản chất của nhạc là “hòa nhi bất đồng”, âm thanh chỉ tương ứng mà hòa hợp với nhau, chứ không tan lẫn vào nhau như màu sắc.
   Nói thì giản dị nhưng chuyện không phải dễ làm. Vì đó là một tiến trình Tự Thắng để làm người, phát huy trọn vẹn Nhân Tính, “tận kỳ tính”, để đạt tới mức Nhân Chủ, làm chủ mình, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Nhân Chủ là một lý tưởng cao đẹp, làm chủ mình mà thảnh thơi như Tiên, Phật, làm chủ xã hội mà không áp chế bóc lột đồng loại, làm chủ thiên nhiên mà biết lấy chổ dư bù chổ thiếu để của kho thành vô tận. Hòa được với mọi người với vũ trụ mà không mất bản sắc, kết hợp được cả hai yếu tố mâu thuẫn nhau là Sống và Chết bằng Thủ Đoạn Nhân Ái, qua phong cách sống nội Thánh ngoại Vương để an định không chỉ một xã hội một quốc gia, một thế giới mà là cả vũ trụ trong tình trạng Duy Nhiên Thái Hòa. Lý Tưởng Nhân Chủ này được gói ghém trong biểu tượng Tiên Rồng, mà tổ tiên ta đã để lại như một bí quyết để giữ nước nòi cho con cháu trong nhiệm vụ Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
3). Đạo Hiếu: Nền Tảng Sâu Xa Của Duy Nhân Cương Thường
3a). Đạo Là Gì ?
Đạo là một thứ hệ thống tư tưởng bao gồm nhiều ý niệm, dùng để hướng dẫn con người sống một cách tốt đẹp phù hợp với những tiêu chuẩn lý tưởng. Nhưng Đạo cũng có nghĩa là con đường phải theo để đạt đến một đích điểm nào đó. Theo chiết tự, Đạo (導) gồm bộ Xước (逴) là chân bước đi thong thả và chữ Thủ (取) là cái đầu. Đầu để trầm tư suy nghĩ những ý niệm trừu tượng, phân biệt phải trái, đúng sai. Nhưng ý thức được trọn vẹn sự việc, mà không quyết tâm thi hành, thì đó chỉ là hạng thanh đàm bạc nhược. Người xưa có câu “kiến nghĩa bất vi vô dũng giả” nghĩa là thấy việc đúng phải, nên làm, mà không làm là kẻ hèn mọn. Nhưng tri hành phải hợp nhất, biết thì phải đi đôi với làm. Kẻ cầu đạo khi được học đạo tất phải hành đạo để đắc đạo. Học đạo, sống đạo, thực hành đạo đều là những hành động có ý thức đòi hỏi sự kiên tâm quyết chí, thúc đẩy bằng một niềm tin mãnh liệt. Đạo không sống thì đạo không thành, đường đi không tới. Do đó chữ Đạo bao gồm chữ Thủ chỉ sự biết và bộ Xước chỉ sự làm trong một toàn thể gọi là Đạo.
3b). Nhận Định Căn Bản

Đạo Hiếu bắt đầu bằng một nhận định căn bản “Nhân bản hồ tổ”, người gốc ở tổ tiên. Sự liên hệ nguồn gốc này mang đủ hai đặc tính huyết thống và tinh thần, được di truyền từ đời tổ tiên xuống đến con cháu, nối những thế hệ thành một xâu chuỗi, thành một sinh mệnh có tính bất tử, vì thống nhất được cả quá khứ, hiện tại và tương lai vào một giòng sống miên man và bất tuyệt. Ý niệm sinh mệnh nói trên được chứng thực qua cách nói ví với những bộ phận bất khả phân ly của một con người đang sống. chẳng hạn đã có những câu phương ngôn như:
* - Cốt nhục thâm tình.
* - Anh em như thể tay chân.
* - Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
* - Máu chảy ruột mềm.
* - Môi hở răng lạnh.
Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã trở thành một niềm tin làm cơ sở siêu hình cho Đạo Hiếu. Trong ngôn ngữ Việt đã có những câu như:
* - Phúc đức ông bà để lại.
* - Phúc đức tại mẫu.
* - Sống gởi thác về.
* - Tu nhân tích đức để phúc cho con.
* - Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
* - Sống vì mồ vì mả, không ai sống vì cả bát cơm.
Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã được chấp nhận trong đời sống quốc gia, được thể hiện qua định chế lập pháp. Tội tru di tam tộc (giết ba họ), hay khi thi đỗ đại khoa được cấp ngựa xe võng lọng để vinh quy bái tổ, trở về quê quán để làm lễ tuyên cáo với tổ tiên về thành quả đã đạt được trong việc học hành. Cha mẹ, vợ con của những người đỗ đạt làm quan tước đều được phong hàm. Do đó mà có câu “một người làm quan cả họ được nhờ”, nhờ vì được tiếng thơm lây cho cả giòng họ .
     Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã đưa đến một thói quen được thấy trong đời sống hàng ngày và đồng hóa cá nhân với cả giòng họ, coi người được tiếp xúc như là đại diện chính thức của giòng họ, chẳng hạn như Lão Trần, Chu Tiên Sinh, Trần Thi, Nhan Thị, v.v... Do đó, một người có thể lưu danh thơm thiên cổ làm rạng rỡ tổ tiên giòng họ, hay di xú, để tiếng xấu đến muôn đời làm điếm nhục tông môn bằng những hành động có tính cách cá nhân. Ca dao có câu:
* - Yêu người yêu cả đường đi
* - Ghét người ghét cả tông chi họ hàng

3c). Những Ý Niệm Tạo Dựng Nên Chữ Hiếu.
Hiếu ( ) là con đường thờ cha mẹ hết lòng. Thờ là đối xử một cách cung kính lúc cha mẹ còn trên đời cũng như lúc cha mẹ khuất núi. Phân tích theo chiết tự thì Hiếu ( ) là đất ở trên và chữ Tử ( ) là con ở dưới. Chữ Thổ và chữ Tử được phân biệt tách bạch bằng nét phẩy ( ) thuộc bộ Phiệt. Dấu phẩy này tượng trưng cho cương giới, phân định vị trí người con đối với cha mẹ và các bậc tôn trưởng. Vì vậy mà chữ Tử đứng ở dưới chữ Thổ chỉ phận ở dưới.
Sách có câu “Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình”, ở trên trời là biểu tượng, ở dưới đất là hình thể, đó là ý nhờ mẹ nên mới có con. Thổ, tức là địa phối hợp với thiên để tượng trưng cho ý niệm Âm Dương đầu mối của muôn vật với ý nghĩa “Nhất âm, nhất dương chi đạo”, mà cái đức lớn nhất của trời đất là sinh hóa “Thiên địa chi đại đức viết sinh”, và cái công lao cha mẹ cũng nằm trong việc sinh đẻ con cái, nuôi dưỡng chúng nên người.
Theo kinh Dịch, Thổ là đất địa, tương ứng với quẻ Khôn ( ) Khôn chỉ yếu tố Âm, người mẹ, sự chứa đựng bao dung, lòng nhân ái … đối lập với quẻ (Kiền) Càn ( ) chỉ yếu tố Dương, người cha, sự cứng rắn … Con là kết quả của tinh cha huyết mẹ. Sự thụ nhân và cưu mang mầm sống, là khả năng thuộc bản chất người nữ với tấm lòng bao dung nhu thuận, vì đó mà quẻ Khôn được tượng trưng bằng một khoảng trống vắng ở giữa, hai hàng vạch nằm chồng liên tiếp lên nhau. Trong vòng chín tháng mười ngày thai nhi với mẹ chỉ là Một. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, khi thai nhi cất tiếng khóc chào đời và được cắt rốn giữa cơn đau xé ruột của người mẹ, thì Một đã trở thành Hai. Mẹ và Con với sự chia cách của hai thân xác, nhưng lại được ràng buộc chặt chẽ bằng mối tương quan nhân tính bền vững của tình mẫu tử và những nghi thức, bổn phận do chữ Hiếu qui định.
   Theo triết lý ngũ hành, Thổ có vị trí đứng giữa thuộc Trung cung, mang số năm (5), mầu vàng. Thổ đứng ở giữa vì thổ có đức bao dung chứa đựng. Tục ngữ có câu: “Bậc trưởng thượng lòng phải rộng, tính phải thẳng-quân tử tiết trực tâm hư”, vì vậy mà Thổ tượng trưng cho Mẹ mà cũng tượng trưng cho Vua mặc hoàng bào, ở trung ương. Đó là lý do người chết thường chôn theo địa táng chứ không thả trôi sông, trôi biển theo thủy táng hay treo cao bỏ mặc kiểu thiên táng. Câu “sống gởi thác về” được hiểu là nhập thổ về với tổ tiên. Ý niệm ngũ hành còn là đầu mối của nhiều nghi thức. chẳng hạn chữ Tỉnh (井 ) là đào giếng để lấy nước ăn, uống, là dấu vết để lại của thời bình sản kinh tế qua các hình thức phân quân điền địa. Đất phân làm chín (9) khu, chia cho tám (8) nhà cầy cấy, còn thửa ruộng ở giữa có giếng để dùng chung. Lúa thu hoạch được ở ruộng giữa này do sức đóng góp của tám nhà chung quanh sẽ thay cho thuế nộp vào kho vua. Do đó đại gia đình chỉ giới hạn trong chín đời, gọi là cửu tộc, lấy mình làm gốc ở giữa kể lên bốn (4) đời gồm cha mẹ, ông bà, cụ, kị, và dưới mình bốn (4) đời gồm con, cháu, chắt, chút. Trong từ đường của giòng họ ngành trưởng thì thần chủ thờ vị thủy tổ không bao giờ thay đổi gọi là “Bách thế bất điêu chi chủ”, nhưng trong những nhà thờ ngành thứ nhì, thì có lệ chôn thần chủ khi vượt quá năm (5) đời. Ví dụ nếu người cha chết, người con lên thay thì người cha sẽ được thờ, thần chủ của kị người cha sẽ được đem chôn và thay vào đó là thần chủ của cụ người cha nay là kị của người con.
Việc thờ cha kính mẹ phải xuất phát tự đáy lòng, đột khởi tự con tim và được hướng dẫn bởi trí óc. Nghĩa là việc hiếu thảo phải được thúc đẩy bởi năng lực tình yêu qua những biểu lộ hình thức gọi là Lễ. Cốt tủy của Lễ là ở chỗ thành tâm, tức là sự thực lòng được thể hiện qua thái độ cung kính bên ngoài. Không có sự chân thật thì Lễ chỉ là hư văn, hình thức giả dối. Chữ Thành (成 ) ngoài ý là chân thành không giả dối, đổi thay còn có nghĩa là làm nên công, xong việc, hoàn tất một cách tốt đẹp như chữ Thành Công, Thành Nhân. Chữ Thành được ghép bởi chữ lực (力) là sức mạnh và bộ Qua (戈) là một thứ binh khí thời cổ để diễn tả sự muốn thành công hay thành nhân không phải là chuyện dễ làm. Để Thành Công hay Thành Nhân tất phải dùng tới cả sức mạnh của ý chí tinh thần lẫn thể xác và vũ khí vật chất để thắng kỷ và thắng nhân, bắt mình vào khuôn phép hay khuất phục người. Thắng người còn dễ nhưng chiến thắng chính bản thân mình là một điều thật khó. Đó cũng là lý do nói. Đạo Hiếu là đạo để tu thân, khởi điểm của tiến trình đi đến Nhân Chủ qua những cấp bậc liên tiếp là: thương gia đình, lo cho tổ quốc, trăm họ bình yên và hài hòa cùng vũ trụ. Đó cũng là lý do nói Thành là khởi điểm tu thân cầu học trong nền Đạo Hiếu của 99 giòng Việt với những giai đoạn: “Thành ý, Chính tâm, cách vật, chí tri, thành nhân chi mỹ”. Nghĩa là ý muốn phải mãnh liệt và chuyên nhất, không thay đổi, lòng dạ phải ngay lành không khuất tất gian tà, làm việc phải phân minh rõ ràng đến nơi đến chốn, hiểu biết phải sâu xa đến ngành đến ngọn. Có thành tâm thì mới hy vọng có thành công được vậy ! và Tu để làm gì nếu không là để thành người tốt, đó là ý nghĩa của câu “thành nhân chi mỹ”. (Sau này Khổng Khâu tức Khổng Tử đã lấy năm (5) ý trên mà sửa lại để bình trị (làm vua) thiên hạ là: “Thành kỳ ý, Chính kỳ tâm, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc Bình Thiên Hạ”)
Đạo Hiếu là đạo tu thân, sống Làm Người và để Thành Người trong xã hội, nên trên từ vua, quan đến thứ dân đều theo đạo Hiếu. Chữ Hiếu ( ) khi được ứng dụng vào tầm vóc quốc gia thì chữ Tử ( ) ngoài ý nghĩa là con thông thường còn để chỉ những người tôn quý, có đức hạnh, có học vấn, có chức vụ cao, chẳng hạn như đại thần Chu Văn An hay vua (thiên tử) và chữ Thổ ( ) chỉ công trình kiến trúc được đắp bằng đất cao và vuông vắn để làm nơi tế lễ. Vua, trong cương vị là thiên tử đứng dưới để làm lễ tế trời đất.
Nếu hiểu sống Làm Người để Thành Người đạt tới lý tưởng Nhân Chủ thì trăm năm của kiếp nhân sinh phù du có lẽ quá ngắn ! Thích Ca đã phải luân hồi bao nhiêu kiếp để thành chính quả ? Nhưng bổn phận là điều mà không ai có thể chối từ. Sự khác biệt của các vị Tiênthanks.gifhật với chúng ta là: Họ đã có một quá khứ, còn chúng ta có một tương lai. Tương lai thì có biết bao điều hứa hẹn, cho nên chữ Liễu ( ) là sự hiểu biết, sự hoàn tất, làm xong công, xong việc đã bị làm cho dở dang, ngăn cách bởi một vạch ngang ( ) chữ Nhất. Ý nhắc nhở là ở vị trí người con ( ) ta còn biết bao việc phải hoàn tất. Thật vậy sống làm người đến khi nhắm mắt xuôi tay có mấy ai dám nghĩ mình phải thảnh thơi trả xong ơn nghĩa, ơn tổ tiên, ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, làm xong bổn phận với gia đình thân thích, đối với đồng bào ruột thịt và đối với tổ quốc thân thương yêu quý.
3d). Đạo Hiếu
    Từ sự nhận định “Nhân Bản Hồ Tổ”, đến việc ý thức toàn thể giòng họ như một sinh mệnh không thể chia lìa, đã đặt các phần tử trong một gia tộc trước những bổn phận phải hoàn tất để thực thể đó được Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng. Sống làm người không ai không mong được đủ năm điều: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh, nghĩa là sang, giàu, sống lâu, mạnh khỏe, bình an. Nhưng làm sao để sống, để còn là điều quan trọng hàng đầu, Chết, mất vẫn là điều tệ hại nhất. Hiểu được vậy tất thông cảm nổi lo âu của các bậc tôn trưởng khi thấy mình tuổi đã cao, cái chết đã cận kề mà chưa thấy có kẻ nối dõi, vì e sợ giòng họ do sự thua kém của mình và tuyệt tự. Việc bái lễ cầu con, lấy vợ lẽ cho chồng, nuôi nghĩa tử ... chỉ là những cố gắng đớn đau tuyệt vọng của những người mang mặc cảm chưa làm xong trách nhiệm với giòng họ “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại” không con để cho giòng dõi bị tuyệt diệt là một tội nặng. Tuy nhiên, việc làm cho giòng họ được trường tồn, chỉ là bước đầu. Những phần tử có trách nhiệm còn phải cố gắng làm sao để làm cho rạng danh giòng họ. Con phải hơn cha, cháu phải hơn ông, con cháu hưng vượng, thì đó mới thật sự là nhà có phúc. Vì đó là sự tiến lên của một gia đình, giòng họ và đất nước.
Đạo Hiếu là đạo thờ người vì (và) truy nhận nguồn gốc tổ tiên. Tổ tiên tuy không là đấng toàn năng tạo ra muôn loài, muôn vật, có toàn quyền ban phát phúc họa với sự thưởng phạt thiên đường, địa ngục, với cõi niết bàn, với ngục thất a tì, nhưng tổ tiên đã để lại gương tốt oai linh làm anh thư liệt nữ, hào kiệt anh hùng, với những công trạng hiển hách muôn đời ghi lại trong gia phả, trong sử sách để con cháu đời sau học theo, làm theo. Những lúc hành lễ cúng thờ tổ tiên, những lúc xem lại gia phả, đọc lại sử nước nhà, trong cái tịch mịch của sự suy tưởng bằng một tấm lòng thành kính, tất sẽ thấy được hình bóng phảng phất của hồn thiêng tổ phụ qua hương bay khói tỏa trở về chứng giám, sẽ cảm được từ đáy sâu của tiềm thức thế nào là vinh quang và tủi nhục của một giòng họ, của một nước nòi đã trải qua trong cuộc đấu tranh gay gắt để: Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa. Do đó, Đạo Hiếu là đạo tu thân để làm người con xứng đáng, nhưng cũng là đạo tu thân để làm người công dân tốt trong một đất nước trong một xã hội. Có yêu nhà thì mới yêu nước. Có giữ được nước thì mới giữ được nhà. Câu “quốc phá gia vong” là một quy luật biện chứng lịch sử mà tổ tiên ta đã từng đưa ra để giáo dục con dân:
“Nay ta bảo thật các ngươi nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông, Hậu Nghệ thì mới có thể dẹp tan được giặc mà lập nên được công danh. Chẳng những là thái ấp của ta được bền vững, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc. Chẳng những gia quyến của ta được yên ổn, mà các người cũng được vui với vợ con, chẳng những tiền nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được thờ phụng tổ phụ trăm năm vinh hiển, chẳng những một mình ta được sung sướng mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, nghìn đời thơm tho. Đến bấy giờ các ngươi dầu không vui vẻ, cũng tự khắc được vui vẻ ...” (Hịch Tướng Sĩ Hưng Đạo Vương).
Đạo Hiếu thâm trầm giản dị là thế, gần gủi và thiết thực đối với chúng ta trong tư cách con dân là thế, có thể coi là trong gang tấc mà sao vẫn bị ngộ nhận như một kẻ xa lạ vô cùng ! Đã có biết bao người khi mở miệng, hễ đặt bút là chê tổ tiên, khinh khi giòng giống. Theo họ, đạo xưa là hẹp hòi, hủ lậu, là bất công, áp chế con người ..v.v.. Nhưng họ có hiểu rõ bản chất của Đạo Hiếu và dụng ý của người xưa chăng ? Một ngàn năm (1000) bị giặc phương Bắc đô hộ mà không bị đồng hóa. Tám mươi năm (80) giặc Pháp xâm thực, mà không bao giờ ngớt đổ máu xương tranh giành độc lập. Những kết quả đó tất phải tạo được bởi một Nhân. Và nhân nào nếu không là những người con hiếu thảo, những người vợ đảm ngoan, những người mẹ hiền thục ? Hiếu tử luôn luôn sẽ trở thành trung thần, nghĩa sĩ, bạn hiền. Những phường bạc tình, vong ân, bội nghĩa, khinh khi cha mẹ, coi thường nòi giống. Cuối cùng rồi cũng đi làm tay sai cho người, bán nước cho ngoại bang. Vì họ đều có chung một bản chất ích kỷ, tham lam, ti tiện, những loại người này họ sống hay chết thì cũng thối tha, vô tích sự cho xã hội và cho đất nước.
4). Những Cống Hiến Vĩ Đại Của Người Phụ Nữ Việt Cho Quê Hương
Nguyện vọng sâu xa nhất của loài người là sống còn mãi mãi. Những phương pháp tu luyện, những linh đơn, tiên dược có khả năng trường sinh hoặc kéo dài tuổi thọ mà ngày nay ta còn được nghe tới, chỉ là những dấu tích của một ước mơ chưa trọn vẹn. Dù chưa tìm được phép Trường Sinh, nhưng loài người lại có khả năng Truyền Sinh để tiếp nối sự sống đến vô cùng. Tuy nhiên, khả năng truyền sinh lại có thể hoàn tất một cách tốt đẹp qua sự thuận tình hợp tác của hai yếu tố nam và nữ, qua tương quan vợ chồng, trên căn bản bình đẳng. Vì con cái phải là kết quả của tình nghĩa, của lòng yêu thương và tinh thần trách nhiệm được biểu lộ bằng một mong ước thật tình và một sự chờ đợi nôn nóng ...
Nhiều người theo tây học đã cho rằng phụ nữ Việt Nam bị kỳ thị coi rẽ, coi khinh và mất nhân cách vì họ bị lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ ở nhà, vào chồng khi xuất giá vào con khi chồng chết … Do đó, họ đã hô hào giải phóng phụ nữ và đòi nam nữ bình quyền, rập theo khuôn mẫu của những phong trào tương tự ở Âu Mỹ. Phải nhìn nhận là thiện chí của họ rất tốt, thái độ của họ rất đúng, nhưng đối tượng của họ sai. Bên Âu Châu, phong trào giải phóng phụ nữ và đòi nam nữ bình quyền bắt nguồn sâu xa từ một ý niệm triết lý căn bản: “…đàn bà là vật phụ thuộc của đàn ông”, qua chuyện tích bà Eva được làm nên bởi cái xương sườn của Adam. Thượng đế đã tạo nên Eva trong mục đích làm cho Adam vui sống. Eva với bản tính nhẹ dạ cả tin và ưa phù phiếm nên đã bị rắn Satan cám dỗ ăn trái cấm. Sau khi phạm tội, Eva đã quyến rũ Adam phạm tội theo và cả hai bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Vả lại, ý niệm tự do Tây phương đặt trên quyền lợi cá nhân. Quyền lợi đưa tới tư hữu. Tư hữu đưa tới chiếm đoạt mà chính sách đế quốc thực dân là một hậu quả tất nhiên. Ngược lại, ý niệm tự do Đông phương xây dựng trên bổn phận. Bổn phận đưa đến trách nhiệm. Trách nhiệm đưa đến hy sinh quên mình mà sự tu thân tự tỉnh là đều kiện chủ yếu. Do đó, thiện chí “giải phóng phụ nữ” đã không đặt đúng chỗ, vì trên cả hai phương diện lý thuyết và thực tế người đàn bà Việt Nam đã, đang và mãi mãi được quý trọng không những bởi con cái, bởi chồng mà còn bởi cả toàn thể dân tộc. Họ được tôn xưng và giữ một địa vị không thể thay thế được trong triết lý Âm Dương, trong nguồn gốc dân tộc, trong việc trồng người gồm cả hai mặt sinh dưỡng và giáo hóa, để bảo tồn giòng sinh mệnh lịch sử của nước nòi được Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
4a). Vị Trí Người Phụ Nữ Trên Căn Bản Triết Lý Dịch

Dịch là những ý niệm triết lý lâu đời nhất của nhân loại, được hệ thống lại từ khi nhân loại chưa có chữ viết. Dịch xây dựng trên ý niệm Âm-Dương. Âm biểu tượng bằng một vạch đứt đoạn (--), và Dương biểu tượng bằng một vạch liên tục (-). Định lý căn bản của dịch là: “nhất âm nhất dương chi vị đạo”, một âm phối hợp với một dương đó là đạo lớn. Hệ luận của “độc dương bất sinh, cô âm bất trưởng”, riêng một mình yếu tố dương thì không thể sinh trưởng được, riêng một mình yết tố âm thì cũng không thể nào lớn lên được. Và “âm trung chi dương, dương trung cho âm”, trong âm có dương, trong dương có âm.Biểu tượng của dịch được vẽ bằng một vòng tròn tượng trưng cho sự viên mãn tròn đầy của lý tưởng, sự duy nhất chỉ có một chân lý mang tính phổ quát bao trùm cả mọi nơi chốn, ảnh hưởng suốt khắp mọi thời. Bên trong vòng tròn là hai yếu tố Âm Dương được phân biệt bằng một mầu trắng âm và mầu đen dương, với một chữ S cân xứng làm bằng hai nửa vòng tròn nối tiếp nhau, diễn tả ý “âm dương tương thôi” yếu tố âm và yếu tố dương đun đẩy và bù đắp lẫn cho nhau, tạo nên một thế Thăng Bằng Động của một sự Bình Đẳng Tuyệt Đối trên giá trị bản chất, nhưng khác biệt nhau vì hoàn cảnh: Vị trí và nhiệm vụ. Sự khác biệt vị trí và nhiệm vụ nói lên tính hợp lý trong việc phân công. Yếu tố dương có một đầu to và một đầu nhỏ, yếu tố âm cũng có một đầu nhỏ và một đầu to. Nếu đầu to tượng trưng cho ưu điểm và đầu nhỏ tượng trưng cho nhược điểm thì với sự phối trí của biểu tượng dịch lý, yếu tố âm và yếu tố dương đã hoàn toàn bổ túc, bù đắp cho nhau để tạo thành một toàn thể có đủ những tính chất: hợp lý, cân xứng, hài hòa. Còn hai điểm nhỏ, điểm đen nằm ở đầu to yếu tố âm trắng và điểm trắng nằm ở yếu tố dương đen, tượng trưng cho mầm nhân của khả năng biến đổi tiến hóa để thích nghi với hoàn cảnh, phù hợp với nhiệm vụ mới, diễn tả hệ luận biến dịch “Âm trung tri Dương, Dương trung tri Âm”, căn bản của quy luật chân lý tương đối trong môi trường động.
Đặt nền trên những căn bản triết lý trên, người phụ nữ đã có một địa vị xứng đáng và cao trọng trong xã hội Việt Nam đặc biệt là trên tương quan vợ chồng. Vợ chồng là đạo lớn “phu thê chi đại đạo” hay của người quân tử bắt đầu từ mối liên hệ vợ chồng “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”, chỉ là những diễn dịch từ định đề căn bản của dịch “nhất âm nhất dương chi vị đạo” là mối cương thường đứng hàng đầu trước mối liên hệ cha mẹ-con cái và vua tôi, tạo nên ba giềng mối lớn gọi là Tam Cương. Lấy vợ, sinh con nối dõi vừa là một nhu cầu thuộc bản năng, vừa là một nhiệm vụ trong việc làm người để thành người. Do đó, đời một người được chia làm ba thời kỳ với ba mục tiêu rõ rệt. Tuổi vị thành niên thì lo học hành “Định Học”. Tuổi trưởng thành thì lo lập gia đình “Định Tình”. Sau khi đã yên bề gia thất, vợ con mới lo công danh sự nghiệp “Định Nghiệp”. Việc lấy vợ còn quan trọng hơn việc thi đỗ. Vì vậy, thi đỗ được coi là tiểu đăng khoa, còn lấy vợ là đại đăng khoa.
Khi vợ chồng ăn ở với nhau đã có con cái, người vợ nay thêm bổn phận làm mẹ lại càng được tôn kính nhiều hơn. Chỉ nhìn qua lễ nghi, tang ma thì đủ rõ mục đích biểu lộ lòng nhớ ơn sâu xa của người con đối với công lao sinh dưỡng của người mẹ. Nào mũ mấn đội đầu tượng trưng cho cái “nhau” lúc ra đời, nào áo sô trắng tượng trưng cho lúc còn nằm trong bụng mẹ. Nào để tang ba năm, khoảng thời gian tối thiểu để đứa bé có thể sống xa mẹ ...
Kể ra khi nhìn vào thực tế xã hội tất cũng nhìn thấy nhiều sự sai lạc và biến đổi không thập phần hoàn hảo như những ước tính hoạch định trên lý thuyết. Tuy nhiên, đó chỉ là những khuyết điểm về phần nhân sự thực hành mà những người có trách nhiệm cải tạo xã hội phải sửa sai. giáo dục chứ không đập bỏ, phá vỡ một cách vô trách nhiệm. Thái độ phê bình “vơ đũa cả nắm” chỉ chứng tỏ một trình độ hiểu biết nông cạn và phiến diện về đối tượng được phê bình, nếu không muốn nói đó là thái độ thù nghịch. Không thể lấy con đường 14th ở Washington D.C. để đại diện cho cả thủ đô Hoa Kỳ hay nguy hại hơn nửa cho cả nước Hoa Kỳ rộng lớn. Cũng không thể đọc vài tờ báo như: Penthouse, Playboy, Sirs ... để định mức tình trạng trí thức Hoa Kỳ !
Nếu tin vào sự chính xác của quy luật “tư tưởng hướng dẫn hành động”, thì chỉ ý niệm Âm Dương trong vòng Thái Dịch cũng đủ minh chứng sự “Bình Đẳng Tuyệt Đối” của vợ với chồng trên giá trị bản chất người, Nhân Bản. Và để kết luận, người phụ nữ có một địa vị cao trọng được tôn kính đúng mức ở xã hội Việt Nam, với những chứng tích không thể chối bỏ được trong lịch sử dân tộc.

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #20 - 13. Oct 2006 , 21:59
 
Trần Chính Trung
Sinh Mệnh Việt Qua Văn Hiến Việt
* - Chữ Trung mình để phần Cha
* - Chữ Hiếu cho Mẹ, đôi ta chữ Tình
(Ca Dao)1) .
Từ Nhân Đến Quả
   Nhân-Quả là một chu kỳ nằm trong tiến trình: Sống, Còn, Nối, Tiếp, Tiến, Hóa đến vô cùng của muôn vật muôn loài. Nhân-Quả cũng là tóm lược của chu kỳ nhiều phức tạp chứađầy những trợ duyên Thuận-Nghịch trong một sự tổng hợp gồm đủ cả không gian lẫn thời gian. Nhân là cái mầm mống phát sinh ra sự kiện, đó cũng là khởi điểm. Quả là cái hình thành được tạo dựng, đó cũng là đích điểm. Ở loài thảo mộc, nhân là hạt giống được gieo trồng trên đất để theo ngày tháng nẩy mộng đâm mầm, thành cây xanh lá rậm, rồi đâm cành trổ bông, để đến sinh trái, kết quả. Ở loài người, nhân là tinh cha huyết mẹ và quả là kết con sinh cái (con cái). Vì vậy chẳng bao giờ một vật gì bỗng không lại có. Tất cả được tạo nên bởi một nguồn gốc một nguyên nhân. Trồng dưa thì được ăn dưa, trồng cà thì được ăn cà và con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
Không có tổ tiên, ông bà tất không có cha mẹ. Không có cha mẹ tất cũng không có con cái và không có Ta hiện diện trên cõi đời này ! Tổ Tiên, Giòng Giống, Cha Mẹ là điều mà đã là người thì chẳng ai dám dứt bỏ hay từ chối. Đó là những mối giây lớn kết nối ta với đồng bào, đồng loại, giằng kéo bắt Ta cắn chặt răng để chịu thua thiệt, đứng vững gót để được làm người ở ngay cả trong một xã hội hư hèn, biến loạn. Mối giây lớn đó được gọi là Duy Nhân Cương Thường trong tương quan nhân tính. Vì vậy mà người xưa có câu:
Đọc tám vạn nghìn từ mặc kệ
Không quân thần phụ tử chẳng ra người

(Nguyễn Công Trứ)

Nhìn ngược lại giòng lịch sử, suốt từ Đông sang Tây, không ai là không do cha mẹ sinh ra với những ẩn tích không thể tẩy xóa về gia thế, giòng dõi và chủng tộc. Thích Ca là con vua Sudhodana Gautama thuộc bộ tộc Sakyas bên Ấn Độ. Jésus Christ là con bà Maria giòng dõi vua David xứ Do Thái bên Trung Đông. Và dân tộc Việt Nam chúng ta, cùng với 99 giòng Việt khác đã cùng có chung một mẹ một cha “cha là Lạc Long Quân, mẹ là Âu Cơ” mang một thân xác da vàng và giòng máu luân lưu dào dạt ý chí quật cường, bất khuất ...
Nếu người ăn quả còn biết nhớ kẻ trồng cây, uống nước còn nhớ đến nguồn thì sự yêu cha mẹ, kính ông bà, tôn sùng tổ tiên và anh hùng liệt nữ chỉ là làm một điều thuận với lẽ thường hằng, hợp với một chân lý phổ quát: Đạo Hiếu. Bài viết này không bàn sâu về Đạo Hiếu, nhưng trình bày về Việt Nam như một quê hương của nòi tình, mà ở đó người đàn bà vì thấm nhuần đạo hiếu đã giữ một vai trò quan trọng trong việc đóng góp công sức, hy sinh một cách thản nhiên và lặng lẽ để làm cho tổ quốc vinh quang, dân tộc được trường tồn qua sự hoàn tất những nhiệm vụ liên tiếp của một chu kỳ sống “một đời người”, như làm theo trách nhiệm của một đứa con hiếu thuận, làm một người vợ đảm ngoan chung sức cùng chồng tát cạn biển đông, làm bổn phận người mẹ quên mình vì con mà tận tụy một đời với những lo nghĩ yêu thương.

2). Tình: Những Sắc Thái Của Nhân Tính
Đã là người, tất khi sinh ra đã có đủ những nhân tính căn bản. Sống là một tiến trình biểu lộ tình cảm qua những phát huy nhân tính:
2a). Tình cảm
Tình có bảy thứ gọi chung là “thất tình” gồm những biến thái như: Thương, ghét, vui, buồn, sợ, muốn, giận. Tình nằm sâu trong tâm hồn con người, nhưng bản chất của tình thì động. Vì vậy, chữ tình (情) được viết bằng bộ Tâm (心) là trái tim và chữ Thanh (青) mầu xanh lá cây. Về ý nghĩa mầu sắc, xanh lá cây tượng trưng cho sự tươi trẻ, thanh xuân, nhưng theo ý nghĩa của y lý Đông Phương qua triết lý ngũ hành thì xanh thuộc Mộc (cây). Ở con người, Mộc chủ về gan mật mà gan mật thì liên quan tối gân cốt để hành động. Do đó, người xưa thường khen kẻ dám làm là can đảm hay là to gan lớn mật. Tình tuy bản chất động nhưng chỉ phát lộ ra ngoài khi bị cảm kích bằng ngoại cảnh. Cảnh sinh tình, nên vì tương quan nhân quả, tình thường được ghép chung với cảm. Cảm ( ) gồm chữ Tâm (心) ở dưới và chữ Hàm ( 咸 ) ở trên. Hàm có nghĩa là khắp cả, đều hết. Nghĩa là khi tình cảm ở tâm bị kích động thì sẽ lan truyền ra khắp hết thân thể để biểu lộ bằng hành động.
2b). Tình Nghĩa
Tình tuy có tới thất tình, nhưng khi nói đến tình thì con người đều thường chỉ nghĩ đến cái khía cạnh tốt đẹp của nó là yêu thương, tình ái. Ngay cả đến yêu thương cũng có những khung bậc (bệ, bậc) khác nhau tùy đối tượng như yêu cha mẹ, anh em ... nhưng đa số cũng chỉ nghĩ đến sự yêu thương giữa trai và gái qua chữ tình ái. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là điều thông thường, vì đó là đầu dây mối nhợ căn bản để nẩy sinh những mối tương quan nhân tính khác theo luật nhân quả. Có tương quan vợ chồng rồi mới có tương quan cha mẹ, con cái. Khi sống thành xã hội phồn tạp mà muốn tránh hỗn loạn thì phải có trật tự, có ngôi thứ trên dưới, vì vậy mà có vua tôi, quan dân. Những mối quan hệ này người xưa gọi là Tam Cương, ba giềng mối lớn chi phối toàn diện sinh hoạt con người trong xã hội.
Đa cảm tất đa tình ! cổ nhân đã có câu: “Tình như tình để”. Nghĩa là tình cảm như mạch nước ngầm, nơi đáy giếng với những vơi đầy bất tận. Tình là thứ nhu nhuyễn không có hình thức nhất định, ví như nước mà đặc tính của nước là thẩm thấu, ngấm ngầm để mang sự sống cho muôn loài . Không có nước tất đất sẽ khô cằn không thể trồng trọt, không có nước tất không có sự sống, nhưng nước quá nhiều cũng gây thành úng lụt tàn hại mùa màng hủy diệt sinh mạng. Đối với đất khô hạn thì phải tưới bằng cách dẫn thủy, tát nước. Đối với đất úng lụt thì phải khơi bằng cách đào ngòi tháo nước, thì đối với người việc dạy dỗ uốn nắn tình cảm cũng có ý nghĩa như công tác trị thủy, tưới bón hay tiêu tháo kể trên. Tình được uốn nắn bằng lễ nghĩa là những hình thức được coi là tiêu chuẩn áp dụng cho từng trường hợp, tùy người, tùy cảnh. Vì vậy, Tình thường được Nghĩa đi theo để điều hòa ở mức vừa phải, không thái quá mà cũng không bất cập. Chữ Nghĩa (義 ) có nghĩa là điều phải, việc đúng nên làm. Chữ Nghĩa gồm chữ Dương (恙 ) là con dê, tượng trưng cho quyền lợi vật chất và chữ Ngã (我) là cái Ta chung của mọi người, tức là quyền lợi chung phù hợp cho mọi người theo đúng tinh thần đại đồng “kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Điều mình không muốn thì cũng đừng làm cho người.

2c). Tâm Lý

Tình cảm được coi như một nguồn năng lực chủ yếu của con người, nhưng vấn đề là xử dụng nguồn năng lực đó làm sao cho hợp lý và tốt đẹp. Người không thể sống như tĩnh vật vô tình, như gỗ đá vô tri. Cho nên tình không thể diệt mà phải chính, không thể lạnh lùng nhổ bỏ như loài cỏ dại mà phải xuất lực ra tưới bón như lúa, như ngô, kiên tâm uốn nắn như cây kiểng. Tình phải nuôi mới lớn, nuôi bằng những cảm xúc cao đẹp, mà gây cảm xúc thì không gì bằng đọc lịch sử, văn chương, thi phú. Vì vậy mới nói “khởi ư thi” bắt đầu bằng thơ văn. Nhưng phát triển thì phải định hướng quy về một chủ đích, không thể để tự do buông thả như ngựa không cương, như thuyền không lái mà phải khuôn phép theo lễ nghĩa. Vì vậy mới nói “chế ư lễ”, dùng lễ nghĩa để uốn nắn. Một khi tình đã nuôi cho mạnh, uốn cho ngay chính đó là lúc tình có thể đem ra ứng dụng một cách hợp lý và tốt đẹp trong mọi hoàn cảnh, vì đã đạt được tới mức độ thuần thục “phát nhi trúng tiết” như một nốt nhạc góp phần làm nên một hợp âm, như một khí cụ trong tay người nghệ sĩ tài ba tham dự hòa tấu. Vì vậy mới nói “hòa ư nhạc” và bản chất của nhạc là “hòa nhi bất đồng”, âm thanh chỉ tương ứng mà hòa hợp với nhau, chứ không tan lẫn vào nhau như màu sắc.
   Nói thì giản dị nhưng chuyện không phải dễ làm. Vì đó là một tiến trình Tự Thắng để làm người, phát huy trọn vẹn Nhân Tính, “tận kỳ tính”, để đạt tới mức Nhân Chủ, làm chủ mình, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Nhân Chủ là một lý tưởng cao đẹp, làm chủ mình mà thảnh thơi như Tiên, Phật, làm chủ xã hội mà không áp chế bóc lột đồng loại, làm chủ thiên nhiên mà biết lấy chổ dư bù chổ thiếu để của kho thành vô tận. Hòa được với mọi người với vũ trụ mà không mất bản sắc, kết hợp được cả hai yếu tố mâu thuẫn nhau là Sống và Chết bằng Thủ Đoạn Nhân Ái, qua phong cách sống nội Thánh ngoại Vương để an định không chỉ một xã hội một quốc gia, một thế giới mà là cả vũ trụ trong tình trạng Duy Nhiên Thái Hòa. Lý Tưởng Nhân Chủ này được gói ghém trong biểu tượng Tiên Rồng, mà tổ tiên ta đã để lại như một bí quyết để giữ nước nòi cho con cháu trong nhiệm vụ Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
3). Đạo Hiếu: Nền Tảng Sâu Xa Của Duy Nhân Cương Thường
3a). Đạo Là Gì ?
Đạo là một thứ hệ thống tư tưởng bao gồm nhiều ý niệm, dùng để hướng dẫn con người sống một cách tốt đẹp phù hợp với những tiêu chuẩn lý tưởng. Nhưng Đạo cũng có nghĩa là con đường phải theo để đạt đến một đích điểm nào đó. Theo chiết tự, Đạo (導) gồm bộ Xước (逴) là chân bước đi thong thả và chữ Thủ (取) là cái đầu. Đầu để trầm tư suy nghĩ những ý niệm trừu tượng, phân biệt phải trái, đúng sai. Nhưng ý thức được trọn vẹn sự việc, mà không quyết tâm thi hành, thì đó chỉ là hạng thanh đàm bạc nhược. Người xưa có câu “kiến nghĩa bất vi vô dũng giả” nghĩa là thấy việc đúng phải, nên làm, mà không làm là kẻ hèn mọn. Nhưng tri hành phải hợp nhất, biết thì phải đi đôi với làm. Kẻ cầu đạo khi được học đạo tất phải hành đạo để đắc đạo. Học đạo, sống đạo, thực hành đạo đều là những hành động có ý thức đòi hỏi sự kiên tâm quyết chí, thúc đẩy bằng một niềm tin mãnh liệt. Đạo không sống thì đạo không thành, đường đi không tới. Do đó chữ Đạo bao gồm chữ Thủ chỉ sự biết và bộ Xước chỉ sự làm trong một toàn thể gọi là Đạo.
3b). Nhận Định Căn Bản

Đạo Hiếu bắt đầu bằng một nhận định căn bản “Nhân bản hồ tổ”, người gốc ở tổ tiên. Sự liên hệ nguồn gốc này mang đủ hai đặc tính huyết thống và tinh thần, được di truyền từ đời tổ tiên xuống đến con cháu, nối những thế hệ thành một xâu chuỗi, thành một sinh mệnh có tính bất tử, vì thống nhất được cả quá khứ, hiện tại và tương lai vào một giòng sống miên man và bất tuyệt. Ý niệm sinh mệnh nói trên được chứng thực qua cách nói ví với những bộ phận bất khả phân ly của một con người đang sống. chẳng hạn đã có những câu phương ngôn như:
* - Cốt nhục thâm tình.
* - Anh em như thể tay chân.
* - Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
* - Máu chảy ruột mềm.
* - Môi hở răng lạnh.
Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã trở thành một niềm tin làm cơ sở siêu hình cho Đạo Hiếu. Trong ngôn ngữ Việt đã có những câu như:
* - Phúc đức ông bà để lại.
* - Phúc đức tại mẫu.
* - Sống gởi thác về.
* - Tu nhân tích đức để phúc cho con.
* - Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
* - Sống vì mồ vì mả, không ai sống vì cả bát cơm.
Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã được chấp nhận trong đời sống quốc gia, được thể hiện qua định chế lập pháp. Tội tru di tam tộc (giết ba họ), hay khi thi đỗ đại khoa được cấp ngựa xe võng lọng để vinh quy bái tổ, trở về quê quán để làm lễ tuyên cáo với tổ tiên về thành quả đã đạt được trong việc học hành. Cha mẹ, vợ con của những người đỗ đạt làm quan tước đều được phong hàm. Do đó mà có câu “một người làm quan cả họ được nhờ”, nhờ vì được tiếng thơm lây cho cả giòng họ .
     Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã đưa đến một thói quen được thấy trong đời sống hàng ngày và đồng hóa cá nhân với cả giòng họ, coi người được tiếp xúc như là đại diện chính thức của giòng họ, chẳng hạn như Lão Trần, Chu Tiên Sinh, Trần Thi, Nhan Thị, v.v... Do đó, một người có thể lưu danh thơm thiên cổ làm rạng rỡ tổ tiên giòng họ, hay di xú, để tiếng xấu đến muôn đời làm điếm nhục tông môn bằng những hành động có tính cách cá nhân. Ca dao có câu:
* - Yêu người yêu cả đường đi
* - Ghét người ghét cả tông chi họ hàng

3c). Những Ý Niệm Tạo Dựng Nên Chữ Hiếu.
Hiếu ( ) là con đường thờ cha mẹ hết lòng. Thờ là đối xử một cách cung kính lúc cha mẹ còn trên đời cũng như lúc cha mẹ khuất núi. Phân tích theo chiết tự thì Hiếu ( ) là đất ở trên và chữ Tử ( ) là con ở dưới. Chữ Thổ và chữ Tử được phân biệt tách bạch bằng nét phẩy ( ) thuộc bộ Phiệt. Dấu phẩy này tượng trưng cho cương giới, phân định vị trí người con đối với cha mẹ và các bậc tôn trưởng. Vì vậy mà chữ Tử đứng ở dưới chữ Thổ chỉ phận ở dưới.
Sách có câu “Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình”, ở trên trời là biểu tượng, ở dưới đất là hình thể, đó là ý nhờ mẹ nên mới có con. Thổ, tức là địa phối hợp với thiên để tượng trưng cho ý niệm Âm Dương đầu mối của muôn vật với ý nghĩa “Nhất âm, nhất dương chi đạo”, mà cái đức lớn nhất của trời đất là sinh hóa “Thiên địa chi đại đức viết sinh”, và cái công lao cha mẹ cũng nằm trong việc sinh đẻ con cái, nuôi dưỡng chúng nên người.
Theo kinh Dịch, Thổ là đất địa, tương ứng với quẻ Khôn ( ) Khôn chỉ yếu tố Âm, người mẹ, sự chứa đựng bao dung, lòng nhân ái … đối lập với quẻ (Kiền) Càn ( ) chỉ yếu tố Dương, người cha, sự cứng rắn … Con là kết quả của tinh cha huyết mẹ. Sự thụ nhân và cưu mang mầm sống, là khả năng thuộc bản chất người nữ với tấm lòng bao dung nhu thuận, vì đó mà quẻ Khôn được tượng trưng bằng một khoảng trống vắng ở giữa, hai hàng vạch nằm chồng liên tiếp lên nhau. Trong vòng chín tháng mười ngày thai nhi với mẹ chỉ là Một. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, khi thai nhi cất tiếng khóc chào đời và được cắt rốn giữa cơn đau xé ruột của người mẹ, thì Một đã trở thành Hai. Mẹ và Con với sự chia cách của hai thân xác, nhưng lại được ràng buộc chặt chẽ bằng mối tương quan nhân tính bền vững của tình mẫu tử và những nghi thức, bổn phận do chữ Hiếu qui định.
   Theo triết lý ngũ hành, Thổ có vị trí đứng giữa thuộc Trung cung, mang số năm (5), mầu vàng. Thổ đứng ở giữa vì thổ có đức bao dung chứa đựng. Tục ngữ có câu: “Bậc trưởng thượng lòng phải rộng, tính phải thẳng-quân tử tiết trực tâm hư”, vì vậy mà Thổ tượng trưng cho Mẹ mà cũng tượng trưng cho Vua mặc hoàng bào, ở trung ương. Đó là lý do người chết thường chôn theo địa táng chứ không thả trôi sông, trôi biển theo thủy táng hay treo cao bỏ mặc kiểu thiên táng. Câu “sống gởi thác về” được hiểu là nhập thổ về với tổ tiên. Ý niệm ngũ hành còn là đầu mối của nhiều nghi thức. chẳng hạn chữ Tỉnh (井 ) là đào giếng để lấy nước ăn, uống, là dấu vết để lại của thời bình sản kinh tế qua các hình thức phân quân điền địa. Đất phân làm chín (9) khu, chia cho tám (8) nhà cầy cấy, còn thửa ruộng ở giữa có giếng để dùng chung. Lúa thu hoạch được ở ruộng giữa này do sức đóng góp của tám nhà chung quanh sẽ thay cho thuế nộp vào kho vua. Do đó đại gia đình chỉ giới hạn trong chín đời, gọi là cửu tộc, lấy mình làm gốc ở giữa kể lên bốn (4) đời gồm cha mẹ, ông bà, cụ, kị, và dưới mình bốn (4) đời gồm con, cháu, chắt, chút. Trong từ đường của giòng họ ngành trưởng thì thần chủ thờ vị thủy tổ không bao giờ thay đổi gọi là “Bách thế bất điêu chi chủ”, nhưng trong những nhà thờ ngành thứ nhì, thì có lệ chôn thần chủ khi vượt quá năm (5) đời. Ví dụ nếu người cha chết, người con lên thay thì người cha sẽ được thờ, thần chủ của kị người cha sẽ được đem chôn và thay vào đó là thần chủ của cụ người cha nay là kị của người con.
Việc thờ cha kính mẹ phải xuất phát tự đáy lòng, đột khởi tự con tim và được hướng dẫn bởi trí óc. Nghĩa là việc hiếu thảo phải được thúc đẩy bởi năng lực tình yêu qua những biểu lộ hình thức gọi là Lễ. Cốt tủy của Lễ là ở chỗ thành tâm, tức là sự thực lòng được thể hiện qua thái độ cung kính bên ngoài. Không có sự chân thật thì Lễ chỉ là hư văn, hình thức giả dối. Chữ Thành (成 ) ngoài ý là chân thành không giả dối, đổi thay còn có nghĩa là làm nên công, xong việc, hoàn tất một cách tốt đẹp như chữ Thành Công, Thành Nhân. Chữ Thành được ghép bởi chữ lực (力) là sức mạnh và bộ Qua (戈) là một thứ binh khí thời cổ để diễn tả sự muốn thành công hay thành nhân không phải là chuyện dễ làm. Để Thành Công hay Thành Nhân tất phải dùng tới cả sức mạnh của ý chí tinh thần lẫn thể xác và vũ khí vật chất để thắng kỷ và thắng nhân, bắt mình vào khuôn phép hay khuất phục người. Thắng người còn dễ nhưng chiến thắng chính bản thân mình là một điều thật khó. Đó cũng là lý do nói. Đạo Hiếu là đạo để tu thân, khởi điểm của tiến trình đi đến Nhân Chủ qua những cấp bậc liên tiếp là: thương gia đình, lo cho tổ quốc, trăm họ bình yên và hài hòa cùng vũ trụ. Đó cũng là lý do nói Thành là khởi điểm tu thân cầu học trong nền Đạo Hiếu của 99 giòng Việt với những giai đoạn: “Thành ý, Chính tâm, cách vật, chí tri, thành nhân chi mỹ”. Nghĩa là ý muốn phải mãnh liệt và chuyên nhất, không thay đổi, lòng dạ phải ngay lành không khuất tất gian tà, làm việc phải phân minh rõ ràng đến nơi đến chốn, hiểu biết phải sâu xa đến ngành đến ngọn. Có thành tâm thì mới hy vọng có thành công được vậy ! và Tu để làm gì nếu không là để thành người tốt, đó là ý nghĩa của câu “thành nhân chi mỹ”. (Sau này Khổng Khâu tức Khổng Tử đã lấy năm (5) ý trên mà sửa lại để bình trị (làm vua) thiên hạ là: “Thành kỳ ý, Chính kỳ tâm, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc Bình Thiên Hạ”)
Đạo Hiếu là đạo tu thân, sống Làm Người và để Thành Người trong xã hội, nên trên từ vua, quan đến thứ dân đều theo đạo Hiếu. Chữ Hiếu ( ) khi được ứng dụng vào tầm vóc quốc gia thì chữ Tử ( ) ngoài ý nghĩa là con thông thường còn để chỉ những người tôn quý, có đức hạnh, có học vấn, có chức vụ cao, chẳng hạn như đại thần Chu Văn An hay vua (thiên tử) và chữ Thổ ( ) chỉ công trình kiến trúc được đắp bằng đất cao và vuông vắn để làm nơi tế lễ. Vua, trong cương vị là thiên tử đứng dưới để làm lễ tế trời đất.
Nếu hiểu sống Làm Người để Thành Người đạt tới lý tưởng Nhân Chủ thì trăm năm của kiếp nhân sinh phù du có lẽ quá ngắn ! Thích Ca đã phải luân hồi bao nhiêu kiếp để thành chính quả ? Nhưng bổn phận là điều mà không ai có thể chối từ. Sự khác biệt của các vị Tiênthanks.gifhật với chúng ta là: Họ đã có một quá khứ, còn chúng ta có một tương lai. Tương lai thì có biết bao điều hứa hẹn, cho nên chữ Liễu ( ) là sự hiểu biết, sự hoàn tất, làm xong công, xong việc đã bị làm cho dở dang, ngăn cách bởi một vạch ngang ( ) chữ Nhất. Ý nhắc nhở là ở vị trí người con ( ) ta còn biết bao việc phải hoàn tất. Thật vậy sống làm người đến khi nhắm mắt xuôi tay có mấy ai dám nghĩ mình phải thảnh thơi trả xong ơn nghĩa, ơn tổ tiên, ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, làm xong bổn phận với gia đình thân thích, đối với đồng bào ruột thịt và đối với tổ quốc thân thương yêu quý.
3d). Đạo Hiếu
    Từ sự nhận định “Nhân Bản Hồ Tổ”, đến việc ý thức toàn thể giòng họ như một sinh mệnh không thể chia lìa, đã đặt các phần tử trong một gia tộc trước những bổn phận phải hoàn tất để thực thể đó được Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng. Sống làm người không ai không mong được đủ năm điều: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh, nghĩa là sang, giàu, sống lâu, mạnh khỏe, bình an. Nhưng làm sao để sống, để còn là điều quan trọng hàng đầu, Chết, mất vẫn là điều tệ hại nhất. Hiểu được vậy tất thông cảm nổi lo âu của các bậc tôn trưởng khi thấy mình tuổi đã cao, cái chết đã cận kề mà chưa thấy có kẻ nối dõi, vì e sợ giòng họ do sự thua kém của mình và tuyệt tự. Việc bái lễ cầu con, lấy vợ lẽ cho chồng, nuôi nghĩa tử ... chỉ là những cố gắng đớn đau tuyệt vọng của những người mang mặc cảm chưa làm xong trách nhiệm với giòng họ “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại” không con để cho giòng dõi bị tuyệt diệt là một tội nặng. Tuy nhiên, việc làm cho giòng họ được trường tồn, chỉ là bước đầu. Những phần tử có trách nhiệm còn phải cố gắng làm sao để làm cho rạng danh giòng họ. Con phải hơn cha, cháu phải hơn ông, con cháu hưng vượng, thì đó mới thật sự là nhà có phúc. Vì đó là sự tiến lên của một gia đình, giòng họ và đất nước.
Đạo Hiếu là đạo thờ người vì (và) truy nhận nguồn gốc tổ tiên. Tổ tiên tuy không là đấng toàn năng tạo ra muôn loài, muôn vật, có toàn quyền ban phát phúc họa với sự thưởng phạt thiên đường, địa ngục, với cõi niết bàn, với ngục thất a tì, nhưng tổ tiên đã để lại gương tốt oai linh làm anh thư liệt nữ, hào kiệt anh hùng, với những công trạng hiển hách muôn đời ghi lại trong gia phả, trong sử sách để con cháu đời sau học theo, làm theo. Những lúc hành lễ cúng thờ tổ tiên, những lúc xem lại gia phả, đọc lại sử nước nhà, trong cái tịch mịch của sự suy tưởng bằng một tấm lòng thành kính, tất sẽ thấy được hình bóng phảng phất của hồn thiêng tổ phụ qua hương bay khói tỏa trở về chứng giám, sẽ cảm được từ đáy sâu của tiềm thức thế nào là vinh quang và tủi nhục của một giòng họ, của một nước nòi đã trải qua trong cuộc đấu tranh gay gắt để: Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa. Do đó, Đạo Hiếu là đạo tu thân để làm người con xứng đáng, nhưng cũng là đạo tu thân để làm người công dân tốt trong một đất nước trong một xã hội. Có yêu nhà thì mới yêu nước. Có giữ được nước thì mới giữ được nhà. Câu “quốc phá gia vong” là một quy luật biện chứng lịch sử mà tổ tiên ta đã từng đưa ra để giáo dục con dân:
“Nay ta bảo thật các ngươi nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông, Hậu Nghệ thì mới có thể dẹp tan được giặc mà lập nên được công danh. Chẳng những là thái ấp của ta được bền vững, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc. Chẳng những gia quyến của ta được yên ổn, mà các người cũng được vui với vợ con, chẳng những tiền nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được thờ phụng tổ phụ trăm năm vinh hiển, chẳng những một mình ta được sung sướng mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, nghìn đời thơm tho. Đến bấy giờ các ngươi dầu không vui vẻ, cũng tự khắc được vui vẻ ...” (Hịch Tướng Sĩ Hưng Đạo Vương).
Đạo Hiếu thâm trầm giản dị là thế, gần gủi và thiết thực đối với chúng ta trong tư cách con dân là thế, có thể coi là trong gang tấc mà sao vẫn bị ngộ nhận như một kẻ xa lạ vô cùng ! Đã có biết bao người khi mở miệng, hễ đặt bút là chê tổ tiên, khinh khi giòng giống. Theo họ, đạo xưa là hẹp hòi, hủ lậu, là bất công, áp chế con người ..v.v.. Nhưng họ có hiểu rõ bản chất của Đạo Hiếu và dụng ý của người xưa chăng ? Một ngàn năm (1000) bị giặc phương Bắc đô hộ mà không bị đồng hóa. Tám mươi năm (80) giặc Pháp xâm thực, mà không bao giờ ngớt đổ máu xương tranh giành độc lập. Những kết quả đó tất phải tạo được bởi một Nhân. Và nhân nào nếu không là những người con hiếu thảo, những người vợ đảm ngoan, những người mẹ hiền thục ? Hiếu tử luôn luôn sẽ trở thành trung thần, nghĩa sĩ, bạn hiền. Những phường bạc tình, vong ân, bội nghĩa, khinh khi cha mẹ, coi thường nòi giống. Cuối cùng rồi cũng đi làm tay sai cho người, bán nước cho ngoại bang. Vì họ đều có chung một bản chất ích kỷ, tham lam, ti tiện, những loại người này họ sống hay chết thì cũng thối tha, vô tích sự cho xã hội và cho đất nước.
4). Những Cống Hiến Vĩ Đại Của Người Phụ Nữ Việt Cho Quê Hương
Nguyện vọng sâu xa nhất của loài người là sống còn mãi mãi. Những phương pháp tu luyện, những linh đơn, tiên dược có khả năng trường sinh hoặc kéo dài tuổi thọ mà ngày nay ta còn được nghe tới, chỉ là những dấu tích của một ước mơ chưa trọn vẹn. Dù chưa tìm được phép Trường Sinh, nhưng loài người lại có khả năng Truyền Sinh để tiếp nối sự sống đến vô cùng. Tuy nhiên, khả năng truyền sinh lại có thể hoàn tất một cách tốt đẹp qua sự thuận tình hợp tác của hai yếu tố nam và nữ, qua tương quan vợ chồng, trên căn bản bình đẳng. Vì con cái phải là kết quả của tình nghĩa, của lòng yêu thương và tinh thần trách nhiệm được biểu lộ bằng một mong ước thật tình và một sự chờ đợi nôn nóng ...
Nhiều người theo tây học đã cho rằng phụ nữ Việt Nam bị kỳ thị coi rẽ, coi khinh và mất nhân cách vì họ bị lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ ở nhà, vào chồng khi xuất giá vào con khi chồng chết … Do đó, họ đã hô hào giải phóng phụ nữ và đòi nam nữ bình quyền, rập theo khuôn mẫu của những phong trào tương tự ở Âu Mỹ. Phải nhìn nhận là thiện chí của họ rất tốt, thái độ của họ rất đúng, nhưng đối tượng của họ sai. Bên Âu Châu, phong trào giải phóng phụ nữ và đòi nam nữ bình quyền bắt nguồn sâu xa từ một ý niệm triết lý căn bản: “…đàn bà là vật phụ thuộc của đàn ông”, qua chuyện tích bà Eva được làm nên bởi cái xương sườn của Adam. Thượng đế đã tạo nên Eva trong mục đích làm cho Adam vui sống. Eva với bản tính nhẹ dạ cả tin và ưa phù phiếm nên đã bị rắn Satan cám dỗ ăn trái cấm. Sau khi phạm tội, Eva đã quyến rũ Adam phạm tội theo và cả hai bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Vả lại, ý niệm tự do Tây phương đặt trên quyền lợi cá nhân. Quyền lợi đưa tới tư hữu. Tư hữu đưa tới chiếm đoạt mà chính sách đế quốc thực dân là một hậu quả tất nhiên. Ngược lại, ý niệm tự do Đông phương xây dựng trên bổn phận. Bổn phận đưa đến trách nhiệm. Trách nhiệm đưa đến hy sinh quên mình mà sự tu thân tự tỉnh là đều kiện chủ yếu. Do đó, thiện chí “giải phóng phụ nữ” đã không đặt đúng chỗ, vì trên cả hai phương diện lý thuyết và thực tế người đàn bà Việt Nam đã, đang và mãi mãi được quý trọng không những bởi con cái, bởi chồng mà còn bởi cả toàn thể dân tộc. Họ được tôn xưng và giữ một địa vị không thể thay thế được trong triết lý Âm Dương, trong nguồn gốc dân tộc, trong việc trồng người gồm cả hai mặt sinh dưỡng và giáo hóa, để bảo tồn giòng sinh mệnh lịch sử của nước nòi được Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #21 - 13. Oct 2006 , 22:02
 
BÀI VIẾT TIẾP THEO
VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CUẢ NGƯỜI PHỤ NỬ TRONG TRIẾT LÝ KINH DỊCH
Dịch là những ý niệm triết lý lâu đời nhất của nhân loại, được hệ thống lại từ khi nhân loại chưa có chữ viết. Dịch xây dựng trên ý niệm Âm-Dương. Âm biểu tượng bằng một vạch đứt đoạn (--), và Dương biểu tượng bằng một vạch liên tục (-). Định lý căn bản của dịch là: “nhất âm nhất dương chi vị đạo”, một âm phối hợp với một dương đó là đạo lớn. Hệ luận của “độc dương bất sinh, cô âm bất trưởng”, riêng một mình yếu tố dương thì không thể sinh trưởng được, riêng một mình yết tố âm thì cũng không thể nào lớn lên được. Và “âm trung chi dương, dương trung cho âm”, trong âm có dương, trong dương có âm.Biểu tượng của dịch được vẽ bằng một vòng tròn tượng trưng cho sự viên mãn tròn đầy của lý tưởng, sự duy nhất chỉ có một chân lý mang tính phổ quát bao trùm cả mọi nơi chốn, ảnh hưởng suốt khắp mọi thời. Bên trong vòng tròn là hai yếu tố Âm Dương được phân biệt bằng một mầu trắng âm và mầu đen dương, với một chữ S cân xứng làm bằng hai nửa vòng tròn nối tiếp nhau, diễn tả ý “âm dương tương thôi” yếu tố âm và yếu tố dương đun đẩy và bù đắp lẫn cho nhau, tạo nên một thế Thăng Bằng Động của một sự Bình Đẳng Tuyệt Đối trên giá trị bản chất, nhưng khác biệt nhau vì hoàn cảnh: Vị trí và nhiệm vụ. Sự khác biệt vị trí và nhiệm vụ nói lên tính hợp lý trong việc phân công. Yếu tố dương có một đầu to và một đầu nhỏ, yếu tố âm cũng có một đầu nhỏ và một đầu to. Nếu đầu to tượng trưng cho ưu điểm và đầu nhỏ tượng trưng cho nhược điểm thì với sự phối trí của biểu tượng dịch lý, yếu tố âm và yếu tố dương đã hoàn toàn bổ túc, bù đắp cho nhau để tạo thành một toàn thể có đủ những tính chất: hợp lý, cân xứng, hài hòa. Còn hai điểm nhỏ, điểm đen nằm ở đầu to yếu tố âm trắng và điểm trắng nằm ở yếu tố dương đen, tượng trưng cho mầm nhân của khả năng biến đổi tiến hóa để thích nghi với hoàn cảnh, phù hợp với nhiệm vụ mới, diễn tả hệ luận biến dịch “Âm trung tri Dương, Dương trung tri Âm”, căn bản của quy luật chân lý tương đối trong môi trường động.
Đặt nền trên những căn bản triết lý trên, người phụ nữ đã có một địa vị xứng đáng và cao trọng trong xã hội Việt Nam đặc biệt là trên tương quan vợ chồng. Vợ chồng là đạo lớn “phu thê chi đại đạo” hay của người quân tử bắt đầu từ mối liên hệ vợ chồng “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”, chỉ là những diễn dịch từ định đề căn bản của dịch “nhất âm nhất dương chi vị đạo” là mối cương thường đứng hàng đầu trước mối liên hệ cha mẹ-con cái và vua tôi, tạo nên ba giềng mối lớn gọi là Tam Cương. Lấy vợ, sinh con nối dõi vừa là một nhu cầu thuộc bản năng, vừa là một nhiệm vụ trong việc làm người để thành người. Do đó, đời một người được chia làm ba thời kỳ với ba mục tiêu rõ rệt. Tuổi vị thành niên thì lo học hành “Định Học”. Tuổi trưởng thành thì lo lập gia đình “Định Tình”. Sau khi đã yên bề gia thất, vợ con mới lo công danh sự nghiệp “Định Nghiệp”. Việc lấy vợ còn quan trọng hơn việc thi đỗ. Vì vậy, thi đỗ được coi là tiểu đăng khoa, còn lấy vợ là đại đăng khoa.
Khi vợ chồng ăn ở với nhau đã có con cái, người vợ nay thêm bổn phận làm mẹ lại càng được tôn kính nhiều hơn. Chỉ nhìn qua lễ nghi, tang ma thì đủ rõ mục đích biểu lộ lòng nhớ ơn sâu xa của người con đối với công lao sinh dưỡng của người mẹ. Nào mũ mấn đội đầu tượng trưng cho cái “nhau” lúc ra đời, nào áo sô trắng tượng trưng cho lúc còn nằm trong bụng mẹ. Nào để tang ba năm, khoảng thời gian tối thiểu để đứa bé có thể sống xa mẹ ...
Kể ra khi nhìn vào thực tế xã hội tất cũng nhìn thấy nhiều sự sai lạc và biến đổi không thập phần hoàn hảo như những ước tính hoạch định trên lý thuyết. Tuy nhiên, đó chỉ là những khuyết điểm về phần nhân sự thực hành mà những người có trách nhiệm cải tạo xã hội phải sửa sai. giáo dục chứ không đập bỏ, phá vỡ một cách vô trách nhiệm. Thái độ phê bình “vơ đũa cả nắm” chỉ chứng tỏ một trình độ hiểu biết nông cạn và phiến diện về đối tượng được phê bình, nếu không muốn nói đó là thái độ thù nghịch. Không thể lấy con đường 14th ở Washington D.C. để đại diện cho cả thủ đô Hoa Kỳ hay nguy hại hơn nửa cho cả nước Hoa Kỳ rộng lớn. Cũng không thể đọc vài tờ báo như: Penthouse, Playboy, Sirs ... để định mức tình trạng trí thức Hoa Kỳ !
Nếu tin vào sự chính xác của quy luật “tư tưởng hướng dẫn hành động”, thì chỉ ý niệm Âm Dương trong vòng Thái Dịch cũng đủ minh chứng sự “Bình Đẳng Tuyệt Đối” của vợ với chồng trên giá trị bản chất người, Nhân Bản. Và để kết luận, người phụ nữ có một địa vị cao trọng được tôn kính đúng mức ở xã hội Việt Nam, với những chứng tích không thể chối bỏ được trong lịch sử dân tộc.



4b). Vị Trí Người Phụ Nữ Trong Giòng Sinh Mệnh Dân Tộc

Lịch sử Việt là cuốn gia phả của dân tộc Việt cũng đã truy nhận nguồn gốc của nòi giống và xưng tôn mẹ Âu Cơ như Tổ Mẫu. Mở đầu cuốn gia phả là một truyện tích chép rằng: “...Kinh Dương Vương làm vua nước Xích quỷ vào năm 2879 trước Tây Lịch , lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi cha xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ đẻ ra trăm người con, gốc của trăm giòng Việt. Sau Âu Cơ mang năm mươi con lên núi, Long Quân mang năm mươi con xuống bể ...” Núi và Biển là những vùng đất và vùng biển được Âu Cơ và Long Quân chiếm lĩnh trong việc mở mang bờ cõi coi như không gian sinh tồn của một dân tộc, được gói gọn ý nghĩa trong chữ kép: Giang Sơn, Non Sông, Đất Nước. Âu Cơ cũng đã hoàn tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp so với chồng trong việc mang năm mươi con đi mở mang bờ cõi, dựng nước, giữ nòi. Đó không phải là một sự bình đẳng trước nghĩa vụ hay sao ?!
Gia phả lại chép “... Năm Giáp Ngọ (34 tây lịch), tức năm Kiến Võ thứ mười, vua Quang Võ nhà Hán sai Tô Định làm Thái Thú Quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược làm lắm điều tàn ác, khiến lòng dân oán giận. Năm Canh Tí (40 tây lịch), Tô Định giết Thi Sách. Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định. Tô Định phải trốn về Nam Hải. Hai Bà hạ được 65 thành trì, giành lại độc lập rồi tự xưng là vua, đóng đô ở Mê Linh”. Đọc sử tất phải xét sử để phân định đúng sai, biện biệt lẽ nên, không. Vì chồng mà trả thù không phải là tình hay sao ? Vì muôn dân mà diệt bạo không phải là đại nghĩa hay sao ? Nhưng tình nghĩa đều là những điều căn bản của bổn phận làm người được quy định bởi Duy Nhân Cương Thường, mà không hoàn tất , tất không thể thành người. Đó cũng không phải là sự bình đẳng không phân biệt trai gái trước nghĩa vụ hay sao ?!
Sử gia Lê Văn Hưu đời nhà Trần khi viết về sự nghiệp của hai Bà có bình luận như sau: “Trưng Trắc và Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh đuổi Tô Định lấy lại được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người Tàu mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng?” câu văn kể trên không hề mang ý nghĩa kỳ thị coi rẽ, coi khinh đàn bà như nhiều người ngộ nhận, mà ngược lại là một câu văn khích động, mang tính chất “văn dĩ tải đạo”, văn chương được dùng để truyền bá đạo lý. Do đó, xấu hổ không vì “người mình” gồm toàn đàn ông sức dài vai rộng, mà vì, “người mình” đã không hoàn tất bổn phận làm con dân đúng nghĩa đối với nước nhà khi bị ngoại bang đô hộ, vì “kiến nghĩa bất vi vô dõng giã”, nghĩa là thấy việc đại nghĩa mà không dám làm là bọn hèn mọn vậy! Phương ngôn ta có câu: “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để minh chứng quan niệm bình đẳng trong nghĩa vụ sống làm người để thành người trong cương vị làm con, làm dân đối với nước, với nhà. Ơn tổ quốc, ơn cha mẹ là những nghĩa vụ mà đã sống làm người, không phân biệt trai gái, già trẻ không ai mà không phải hoàn tất một cách thành tâm kính cẩn.
Gia phả lại chép: “…Năm Mậu Thìn (248 tây lịch) năm Xích Ô thứ 11 của nhà Đông Ngô, Ngô Chủ sai Lục Dận sang làm thứ sử Giao Châu. Năm ấy ở quận Cửu Chân có người đàn bà tên Triệu Thị Trinh khởi binh giúp anh là Triệu Quốc Đạt đánh nhà Ngô. Quân lính của người anh thấy Bà làm tướng có đủ mọi điều kiện hơn người như: chí khí, sức mạnh và mưu lược bèn tôn bà lên làm minh chủ. Khi Bà ra trận thường cỡi voi mặc áo giáp vàng xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân. Lục Dận đem quân đánh dẹp, Bà chống cự được năm sáu tháng. Sau vì quân ít thế cô nên bị thua, Bà chạy đến xã Bồ Điền thì tự tử. Bấy giờ Bà mới có 23 tuổi”.
Vua Lý Nam Đế (nhà tiền Lý) khen là người trung dũng cho lập miếu thờ, phong Bà là “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân”. Hậu thế khi đọc lại tiểu sử của Bà không khỏi thầm cảm phục chí khí cang cường của một người quyết tâm chọn con đường cách mạng giải phóng đất nước. Câu nói bất hủ của Bà :“Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh giải đạp đầu sóng dữ, chém cá Tràng Kình ở bể Đông, quét sạch quân Ngô ra khỏi bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, lầm than, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta”.
     Nhân tính vẫn thường yêu sống ghét chết, thích an ổn nhàn rỗi, sợ khó khăn gian khổ, chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ trước mắt mà không thấy cái hại lớn sau lưng. Vì vậy, mà trong nội tâm con người luôn luôn có một sự dằn co giữa tình và nghĩa, giữa nước và nhà, giữa cái riêng và cái chung. Vợ đẹp, con khôn, nhà cao cửa rộng dễ gì ai dám bỏ !

* - Chàng từ biệt vợ con thơ dại

* - Lên đường ra quan ải xa xăm

* - Bước đi quay ngắm lại nhà

* - Bên tình bên nghĩa đâu là nặng hơn ?!
Do đó, sống làm người để thành người là chuyện khó. trốn tránh nghĩa vụ là điều thường thấy trong xã hội. Có vậy mới càng khâm phục chí lớn gan liền của Nhụy Kiều Tướng Quân trong sự lựa chọn lấy nước làm nhà, trong thái độ quyết tâm và dám chết vì đại nghĩa. Chết không phải là hết! Voi chết để Ngà, Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Sát thân thành nhân, còn Bà chết thì thành Thần được tổ quốc ghi công, dân tộc muôn đời chiêm ngưỡng và hậu thế muôn đời tưởng nhớ với khói hương thành kính. Mười chữ vua Lý Nam Đế sắc phong cho Bà: “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân” đã biểu lộ sự kính phục vô cùng của một tâm hồn đồng điệu, cùng chung chí hướng. Tất cả có thể tóm lược lại là: “Phu nhân là người quyết tâm nêu cao chính nghĩa, dám làm hơn người và dám chết hơn người”, khen một người sống cho sự trường tồn của Dân Tộc và chết cho sự vinh quang của tổ quốc đến thế là hết chữ. Người đời theo lẽ nhi nữ thì chỉ cần theo chồng cũng đủ khen là tiết liệt, còn Bà theo nước, yêu nước như yêu chồng. Hai chữ Trinh Nhất đó dành cho Bà thật xứng đáng lắm thay.Yêu nước là một tiến trình từ tiềm thức lên ý thức, từ trừu tượng sang cụ thể, từ tư tưởng bước sang hành động. Do đó, yêu nước không thể chỉ để ngấm ngầm trong lòng, cũng không chỉ phô bày bằng miệng lưỡi. Yêu nước phải được thể hiện bằng hành động cụ thể bởi vì, chỉ có lửa mới thử được vàng, lấy gian nan mới thử được sức người và hành động mới tỏ lộ được mức độ tinh thần. Bản chất của tình yêu là quên mình và tận hiến, là phục vụ và hy sinh. Do đó, là phải dám hy sinh cho nước. Hy sinh không phải vì xung động nhất thời như lửa với rơm bung lên rồi tắt ngúm, trái lại phải hy sinh với một ý thức cao độ của một kẻ tu đạo tận hiến cuộc đời cho lý tưởng, để nghĩa vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Nói đến kẻ thù, thì có kẻ thù nào đáng sợ và nguy hiểm hơn chính cái Ta. Cái Ta của sự ươn hèn, ỷ lại, của sự cầu an hưởng thụ, của sự phản bội ích kỷ. Từ xưa đến nay tự thắng mình không phải là chuyện dễ làm và mới thấy cái khó khăn của sự tự thắng, khi phải cắn chặt răng để chịu thiệt, đứng vững gót để làm người mới thấy được cái giá trị của sự hy sinh: hy sinh hạnh phúc của đời mình, Nhưng phải chết đi để không ngừng sống lại với sự vinh quang của tổ quốc.Gia phả của dân tộc chép: “Vua Nhân Tông truyền ngôi cho con là Anh Tông còn mình lên làm Thái Thượng Hoàng, sau lại bỏ đi tu. Năm Tân Sửu (1301) Thượng Hoàng sang Chiêm Thành xem phong cảnh, có ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu, Chế Mân cho người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận. Chế Mân lại xin dâng hai châu Ô và châu Rí để làm sính lễ, bấy giờ Anh Tông mới quyết định thuận gả. Đến tháng sáu năm Bính Ngọ (1306) vua cho công chúa về Chiêm Thành. Năm sau (1307), vua Anh Tông thu nhận hai châu Ô và châu Rí, đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, rồi sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan giám sát”.Người đời chỉ xét trên khía cạnh cá nhân để oán hận triều đình và cảm thương cho công chúa Huyền Trân, nên cao dao đã có câu:

* - Tiếc thay thân quế giữa rừng

* - Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Mà lại không thấy đó là một cuộc hôn nhân có tính cách chính trị, tạo thế ỷ dốc, lập một liên minh quân sự để giữ an bờ cõi bằng liên hệ tình cảm giữa hai họ xui gia. Nếu người đời nghĩ rằng trong chiến công vĩ đại hiển hách của dân binh nhà Trần đã đánh thắng quân Nguyên và sự chiến thắng của toàn dân ta có sự đóng góp của dân tộc Chiêm Thành (Chiêm Thành không cho quân Nguyên mượn đất, mượn đường để đánh tập hậu vào sau lưng ta), thì tất cả đã không trách cứ với câu ca dao trên. Vua Trần Nhân Tông đã quyết định đúng, phù hợp với tình nghĩa đồng minh. Gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân không chỉ là hành động đãi ngộ đề bù mà còn là thái độ ngoại giao khôn khéo, tạo thêm tình thắt chặt giữa hai dân tộc Việt-Chiêm Riêng với Huyền Trân Công Chúa, chỉ kể về giá trị của đồ sính lễ gồm hai châu Ô và châu Rí cũng đủ nói lên công lao đóng góp, mở nước, xây dựng tổ quốc của bà, Huyền Trân không đóng góp bằng xương máu chiến sĩ, nhưng Bà đã cống hiến đời mình bằng những giọt nước mắt tài hoa của một vị công chúa, Bà đã hiến dâng đời mình cho tổ quốc. Trên cương vị lãnh đạo, Nhân Tông đã vì nước mà hy sinh con mình. Trên cương vị là con dân Việt, Huyền Trân đã vì nước quên mình.Vâng ! Đó là những mệnh lệnh của trách nhiệm và bổn phận, đã là trách nhiệm và bổn phận thì không một ai được chối từ.Ngoài những đóng góp vĩ đại cho tổ quốc như Tổ Mẫu Âu Cơ, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Huyền Trân Công Chúa ... lịch sử còn biết bao gương hy sinh cho tổ quốc cần phải nói đến, hay đúng ra là hiện tại trong chúng ta những kẻ hậu sinh, phải nhớ đến những công lao khó nhọc của tiền nhân và đã có biết bao sự hy sinh đóng góp một cách tân tụy và âm thầm của biết bao thế hệ phụ nữ Việt cho nhà, cho nước. Không ai có thể phủ nhận công ơn của người phụ nữ Việt trong lãnh vực gia đình cũng như ngoài xã hội. Gia đình là nền tảng của xã hội, là thành phần làm nên đoàn thể. Nếu gia đình êm ấm thì xã hội sẽ an định, nếu gia đình tan nát thì xã hội sẽ biến loạn. Sự liên hệ song phương có tính quy luật đó đã được bao hàm trong hai chữ: Quốc Gia hay Nước Nhà.Trong gia đình, với cương vị làm con, con gái cũng đã làm tròn bổn phận hiếu thảo như con trai và còn hơn con trai nửa ! Có nhiều người đã dựa vào câu Hán Nho: “Nhất Nam viết hữu, thập nữ viết vô” để đã phá nền mống gia đình Việt Nam là kỳ thị phụ nữ. Đó là sự phê phán vội vàng đáng trách, vì trong ngôn ngữ của Việt Nam ta không thiếu gì những câu đề cao vai trò người phụ nữ. Chẳng hạn: “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng” để tỏ hiệu năng giúp đỡ cha mẹ của người con gái. Tuy nhiên, đối với kinh nghiệm của các bậc mẹ cha thì con nào cũng là con, không phân biệt trai gái mà chỉ phân biệt ngoan, hư, như trong một câu ca dao:

* - Trai mà chi, gái mà chi

* - Con nào có hiếu có nghì thì hơn.
Có hiếu, có nghĩa bao gồm cả những việc làm cho cha mẹ vui lòng. Ở địa vị cha mẹ, chúng ta sẽ nghĩ sao khi đang nóng giận với con gái mà được nghe lời khôn ngoan dịu dàng này:

* - ... Má ơi đừng đánh con đau

* - Để con đi chợ mua cau ăn trầu ...

* - ... Má ơi đừng mắng con hoài

* - Để con đi chợ mua xoài má ăn ...
Ngay từ những ngày còn lên chín lên mười, người con gái đã lớn không hơn con trai và biết giúp đỡ mẹ cha với những công việc trong nhà, kể cả việc săn sóc các em như một người mẹ nhỏ. Cảnh tượng “Con chị bồng con em” ru cho em ngủ trong một buổi sáng muộn của một ngày mùa, là một cảnh điển hình của làng quê Việt Nam vào những ngày đất nước thanh bình. Trong những gia đình chẳng may người mẹ đau ốm hay chết sớm thì trăm sự chỉ trông vào người con gái để “tay hòm tay khóa” quán xuyến gia đình ... Có biết bao nhiêu người con gái đã quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha mẹ già, em thơ dại cho tròn đạo hiếu. “Trẻ nhờ cha, già cậy con” là một thực tế xã hội không thể chối bỏ trên cả hai phương diện tình cảm và vật chất. Với quan niệm khoa học hiện nay coi sinh lý như một nhu cầu căn bản của một cơ thể ở mức độ trưởng thành cần phải thỏa mãn, thì sự quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha mẹ và các em là một sự hy sinh tuyệt vời. Sức mạnh nào đã giúp họ chiến thắng những đòi hỏi ghê gớm của một cơ thể mạnh khỏe, nếu không là tình yêu cha mẹ, anh em, giòng tộc ... trong ý nghĩa yêu là hy sinh, quên mình, sống cho, sống vì kẻ khác !

* - Chắp tay van vái Phật trời

* - Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Trong xã hội Việt Nam cổ truyền, ý niệm người tình gắn liền với ý niệm người vợ. Tình yêu phải tiến tới hôn nhân và yêu nhau với ước mơ được sống trọn kiếp bên nhau trong tình nghĩa vợ chồng. Và vì chuyện vợ chồng là chuyện quan trọng trong đời người, không thể nay lấy mai bỏ như thay một chiếc áo, nên việc kén chọn tất phải cẩn thận qua nhiều mai mối lễ nghi, như ca dao có câu:
* - Chim khôn đậu nóc nhà quan
* - Trai khôn tìm vợ, gái ngoan chọn chồng.

Chuyện tích Sơn Tinh, Thủy Tinh là một điển hình của việc chọn dâu kén rể. Một phong tục tốt đẹp của Việt Nam có từ thời Hùng Vương thứ 18. Đã nói đến kén chọn tất là phải dựa vào một tiêu chuẩn để luận xét, cân nhắc nặng nhẹ, tốt xấu. Trong chuyện tích, Sơn Tinh cưới được Mỵ Nương vì đến sớm đúng hẹn, còn Thủy Tinh đến chậm, lỡ hẹn nên mất vợ. Xét cho kỹ, câu chuyện có bao hàm một triết lý sâu xa: Thứ nhất, việc đúng hẹn là giữ tròn chữ Tín với một tấm lòng thành. Sơn Tinh đã coi việc lấy vợ là quan trọng nên chuẩn bị chu đáo và quyết tâm làm đúng. Với tấc lòng thành tất cảm được người, với đức Tín tất được người Tin. Tương quan vợ chồng là một tương quan bình đẳng, đặt nền trên sự thành tín, nghĩa là thành thật với nhau và tin nhau. Thứ hai, Sơn Tinh là thần núi non, núi tượng trưng cho đức Nhân. Thủy Tinh là thần sông biển, tượng trưng cho đức Trí. Chữ có câu: “Trí giả nhạo thủy, Nhân giả nhạo sơn, Trí giả động, Nhân giả tĩnh”, nghĩa là người Trí thích nước, người Nhân thích núi, người Trí thích tính hiếu động, người Nhân thì ưa tĩnh. So nặng nhẹ thì Nhân là đầu mối sinh ra các đức tính khác, có nhân mới có ái, có lòng đôn hậu bao dung được người. Còn Trí thì dũng lược có thừa, nhưng hiếu động ưa ganh đua, tất phải có điều tàn nhẫn với người. Vua Hùng Vương gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh, người có đức Nhân mà không gả cho Thủy Tinh là người có đức Trí là lý do trên vậy.
Nếu trong thời gian dạm hỏi, xêu tết trước khi cưới xin, được coi như giai đoạn làm người tình (ý trung nhân) thì người con gái cũng đã tỏ ra xứng đáng, trong việc khuyến khích hôn phu tu tỉnh học tập để lo danh phận và tương lai đôi lứa:

* - Anh về học lấy chữ nhu

* - Ba năm em đợi, chín thu em chờ.

Huống hồ trong cương vị một người vợ đưa lưng gánh vác giang sơn nhà chồng thì việc an ủi chồng, khuyến khích chồng và giúp đỡ chồng, chỉ là một sự đương nhiên như một bổn phận không thể thoái thác. Đã có biết bao nhiêu thế hệ, người vợ tảo tần khuya sớm nuôi chồng ăn học để thành danh phận, làm rạng rỡ tông môn và góp công xây dựng tổ quốc ?

* - Canh một dọn cửa dọn nhà
* - Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm
* - Canh tư bước sang canh năm
* - Trình anh dậy học chớ nằm làm chi
* - Một mai Chúa mở khoa thi
* - Bảng vàng chói lọi, kia đề tên anh
* - Bỏ công cha mẹ sinh thành
* - Công em tần tảo nuôi anh học hành.

Nhìn những hàng bia đá ghi danh các vị đại khoa tiến sĩ, tất không thể vô ơn làm lãng quên được những người vợ đáng kính đã tận tụy hy sinh, góp bao công sức để chồng thành công, thành danh và thành người.
Ước mơ “như chim liền cánh, như cây liền cành” là ước mơ chung của tất cả những cặp vợ chồng. Chia ly là một sự đau khổ vô cùng mà Chinh Phụ Ngâm đã phản ảnh trọn vẹn ý tình của người vợ trẻ gánh vác việc nhà khi chồng đi làm nghĩa vụ chinh nhân như:

* - Anh đi em ở lại nhà
* - Chăn tằm dệt lụa, mẹ già em lo.
Nếu hiểu rằng đàn bà là cái “thiên cổ chi mê”, tức nỗi say mê truyền kiếp của đàn ông, và anh hùng dù là mặt sắt cũng ngay vì tình, thì tất hiểu lý do của sự suy sụp của bao triều đại, lý do thân bại danh liệt của những kẻ làm lớn, cũng như làm láo, trốn tránh nhiệm vụ làm người và để từ đó, càng cảm phục thêm tấm lòng cao đẹp của những người chinh phụ đóng của phòng khuê, chờ chồng đi làm nghĩa vụ với non sông, còn mình ở nhà thay chồng làm bổn phận với cha mẹ và con cái. Họ đã ý thức được tương quan nhân quả qua câu quốc phá gia vong, để chấp nhận hy sinh hạnh phúc cá nhân cho tập thể nước nòi (phép công là trọng, niềm tây xá nào) và âm thầm sống làm tròn nhiệm vụ:

* - Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
* - Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
* - Nay một thân nuôi già dạy trẻ
* - Mối quan hoài mang mể biết bao

Có một điều hình như đã thành quy luật là: “Chồng có chung thì vợ mới trinh” tình yêu bao giờ cũng đi đôi với sự kính trọng đặt nền trên tương quan bình đẳng. Chẳng trách nào người xưa thường nói “yêu nhau vì nết, trọng nhau vì tài”. Nết là cái nhân cách, mà nhân cách được thể hiện trong việc chu toàn bổn phận làm người. Trốn tránh trách nhiệm là hèn nhát, mà đã hèn nhát thì không còn gì để nói nửa ! Đó cũng là lý do để giải thích thái độ quyết liệt của những tiết phụ, liệt nữ, quyết sống xứng đáng với chồng “chàng đi theo nước, thiếp theo chàng” mà lịch sử cận đại có thể nêu danh như cụ bà Phan Bội Châu, nhũ danh Thái Huyên. Khi cụ Phan bị Pháp bắt giải về Việt Nam do sự chỉ điểm của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau này. Khi đến thăm cụ Phan, Bà cụ chỉ vắn tắt vài lời: “vợ chồng ly biệt hơn hai mươi năm nay được một lần giáp mặt thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ mong cho thầy giữ được lòng xưa. Thầy làm những việc gì mặc thầy, thầy chớ nghĩ đến vợ con”.
Như Cô Giang, người tình và là đồng chí của Nguyễn Thái Học, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng khi tổ chức vỡ, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị Pháp xử chém, cô Giang đã trở về làng của Nguyễn Thái Học và tự sát bằng súng lục trong ý muốn được nhìn nhận và được chôn cất như con dâu họ NguyễnVà còn biết bao nhiêu tiết phụ, liệt nữ khác đã sống và đang sống ở khắp nơi trên quê hương Việt Nam yêu dấu. Mẹ, vợ, người tình của những chiến sĩ cách mạng đang chiến đấu trên khắp nẽo đường đất nước để tiêu diệt chế độ Công sản tàn bạo. Họ là những vọng phu với niềm tin vô biên vào sức sống của chính mình những ngày tháng trầm luân trong cuộc đời trôi nổi theo vận nước, cả trái tim và tấm lòng, tâm trí hòa vào hồn nước đi theo cùng chồng, những người mẹ, người vợ họ chấp nhận những thua thiệt để chỉ lo cho chồng, cho con và cho gia đình, để mong được chia xẻ ngọt bùi chứa chan tình nghĩa.
Họ là những vọng phụ của thời đại, những người mẹ hiền đáng kính, những người vợ đáng thương, những người tình đáng yêu, họ không quên lời thề hứa, gian khổ cùng chịu, hạnh phúc cùng chia, để cùng nhau sánh bước đi xa hơn cả cuộc đời.
Làm mẹ, làm con, làm vợ, làm người tình, những giai đoạn được khoa học phân ra theo diễn biến tâm lý cơ thể học, thì lại được người Việt Nam nhìn như những bổn phận phải chu toàn trong tiến trình sống Làm Người để Thành Người. Vì được coi là một tiến trình nên bổn phận đã không xung đột nhau mà là kế tiếp, bổ túc cho nhau nối kết thành một xâu chuỗi, một toàn thể. Sự xung đột quyền lợi giữa cá nhân và gia đình, giữa nhà và nước như nhiều người đã cố chứng minh từ lâu nay, chỉ là biểu lộ một nhân cách không toàn vẹn, một lập trường chao đảo vì thiếu căn bản, thiếu nền móng. Trái lại với cái nhìn của Đạo Hiếu Duy Nhân Cương Thường thì đó chỉ là những nhiệm vụ xếp theo cấp bậc có tính biện chứng, đi từ thấp lên cao trong một tiến trình hướng thượng, trong cái tinh thần ở địa vị nào phải hoàn tất nhiệm vụ đó như “quân quân, thần thần, tử tử” vậy !
Thấm nhuần truyền thống Đạo Hiếu của dân tộc, người phụ nữ Việt Nam đã làm tròn mọi nghĩa vụ đối với đất nước, đối với nhà một cách trọn vẹn và tuyệt đẹp, cuộc sống đối với người phụ nữ Việt ngoài những trách nhiệm nêu trên còn là cuộc hành trình hoàn mãn của sự chết, chết trong yêu thương, chết nhưng để lại danh thơm cho đời sau. Họ đã đứng thật thẳng, sống khiêm tốn trong sự giản dị đến khó nghèo, làm biểu tượng cho sự hy sinh cao đẹp của muôn đời, sự hy sinh cao đẹp của một nòi tình đặt lý tưởng Tổ Quốc lên trên hết .
Như đã trình bày ở trên, dân tộc Việt Nam là một nòi tình, quê hương Việt Nam là một quê hương ân sâu nghĩa nặng, đúng hơn là một dân tộc biết yêu, biết ghét. Ý thức được sự yêu, sự ghét với những đối tượng rõ rệt, có lý do biện chứng rõ ràng. Yêu cái nên yêu và ghét cái đáng ghét làm hai nhân tính, một dân tộc biểu lộ tình cảm của mình qua những khuôn phép của lễ nghĩa được kết tinh trong Đạo Hiếu.
Và cũng như đã trình bày ở trên, Đạo Hiếu là một triết lý sống, một phương cách tu thân xử thế, sống Làm Người để Thành Người mà Nhân Chủ là lý tưởng phải đạt tới, như di huấn của tiền nhân đã để lại, truyền đời là bí quyết để giữ nước nòi qua biểu tượng Tiên Rồng.
Định đề căn bản của Đạo Hiếu là Nhân Bản Hồ Tổ, người gốc từ tổ tiên, tức là truy nhận nguồn gốc Người của mình (khác với Bọn người cho rằng người từ khỉ). Từ định đề căn bản này với việc truy nhận tổ tiên từ xa xưa đã đưa đến hệ luận: Giòng tộc, nước nòi là một thực thể, sống động bất khả phân ly, ở đó quá khứ với những thế hệ đã qua, hiện tại với những thế hệ đang sống còn và tương lai với những thế hệ sẽ nối tiếp để Tiến-Hóa chỉ là Một, một giòng sinh mệnh như ngàn vạn con suối nhỏ đi ra sông và từ ngàn vạn con sông kia lại cuồn cuộn cuốn trôi về biển Đông.Trong giòng sinh mệnh dân tộc ấy người phụ nữ Việt Nam, như những thành phần làm nên toàn thể, trong cương vị làm con, làm người tình, làm vợ, làm mẹ trong gia đình và cương vị làm dân trong phạm vi đất nước, cũng đã hoàn tất những bổn phận được giao phó một cách thập phần hoàn hảo, để làm cho dân tộc được trường tồn và tổ quốc thêm vinh quang ./.



Trần Chính Trung

Back to top
« Last Edit: 13. Oct 2006 , 22:04 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
THUẬT TRỊ NƯỚC CUẢ TIỀN NHÂN
Reply #22 - 03. Nov 2006 , 21:40
 
Tâm thuật :
‘Tâm là chủ của thân. Thân là dụng của Tâm. Tất cả mọi việc lành, việc dữ đều do Tâm mình tạo ra. Tâm mình tu thiện thì thân mình an vui. Tâm mình làm ác thì thân mình khốn khổ. Đạo do Tâm học, Đức do Tâm chứa, Công do Tâm tu, Phưóc do Tâm tạo, Họa do Tâm làm. Tất cả công đức đều do Tâm của mình tự tu lấy, chứ không phải ngoài mình ra mà tìm kiếm được. Tất cả Đạo vô thượng đều từ trong Tâm mình phát xuất ra. Tâm ấy vô cùng tận, không thể phá hoại, không thể tạp nhiễm."

‘Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Ta mưu phạt tâm công,
Không đánh mà người phải khuất'

Muốn thực hiện được Chiến lược Tâm Công, chúng ta phải có Tâm thành thật, Tâm bình đẳng (thương yêu đồng loại, kẻ thù hay người thân như nhau), Tâm thương người, vật và tôn trọng sự sống (Tâm Từ Bi), Tâm sáng suốt hành động (Tâm Trí Tuệ) và Tâm dũng cảm tự tồn, không còn sự sợ hãi (Tâm Dũng Lực).
chiến lược lấy sức mạnh của Tâm (Tâm lực, heart-force) để kết hợp lòng người, thay đổi lòng dạ độc ác và hung tàn của con người, hoán chuyển nghịch cảnh thành thuận cảnh và đi đến mục đích cuối cùng để chấm dứt bạo lực, chiến tranh và hận thù hầu đem lại hạnh phúc cho sinh dân.

Vũ trụ chức phận nội
Ðấng trượng phu một túi kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị dân,
Sắp hai chữ "quân, thân" mà gánh vác,
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh tế
Người thế trả nợ đời là thế
Của đồng lần thiên hạ tiêu chung,
Hơn nhau hai chữ anh hùng
9 bước công tâm của đức nguyển trãi<
Khi học lại những trang sử oai hùng của công cuộc kháng chiến kỳ vĩ để lật đổ chế độ đô hộ của nhà Minh (1414 - 1427) do Bình Định Vương Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo (1418 - 1427), người viết xin được ghi chép lại và đóng góp những nhận định hết sức tổng quát và đơn giản về chiến lược Tâm Công do Nguyễn Trãi dâng lên cho Lê Lợi, người anh hùng áo vải ở đất Lam Sơn, để thực hiện công cuộc kháng chiến 10 năm đầy gian khổ và chưa từng có trong lịch sử xưa nay. Đây chính là quốc bảo để lấy lại nước, giữ nước và dựng nước mà tất cả người Việt đều có quyền hãnh diện thừa hưởng, học hỏi và áp dụng.

B.1 Bình Định Vương Lê Lợi: ‘người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Đã mấy đời làm nghề canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục,... Ông Lê Lợi khảng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: ‘Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người!’(Tâm Trí)



B.2 ‘Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong. Đến mùa xuân năm mậu tuất (1418), ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch và Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn tự xưng là Bình Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rõ cái mụch đích của mình khởi nghĩa đánh kẻ thù của nước.’ (Tâm truyền Tâm)
B.3 Bình Định Vương Lê Lợi là bậc anh hùng hội đủ tất cả những đức tính cần thiết để thực hiện chiến lược Tâm Công giải phóng đất nước ra khỏi ách đô hộ của nhà Minh do Nguyễn Trãi dâng lên cho Vương trong ‘Bình Ngô Sách’<O:p< font O:p<>

B.4 Trước khi đi gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã hoàn tất chiến lược cứu nước qua tác phẩm Bình Ngô Sách. (Tâm Trí)

Tiếc thay, bản chiến lược Bình Ngô Sách này đã thất lạc. Tuy không biết Bình Ngô Sách trình bày những nhận định gì về con đường cứu nước và về tình hình ta và địch. Nhưng điều may mắn nhất của chúng ta là vẫn còn biết được yếu chỉ hành động của Bình Ngô Sách nhờ bài tựa của Ngô Thế Vinh (viết năm 1833) trong Ức Trai Di Tập (quyển 1): ‘Bình Ngô Sách hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người, cuối cùng nhân dân và đất nước của 15 đạo nước ta đều đem về cho ta cả.’ (Chiến lược Tâm Công)

B.5 Sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đã dẹp xong giặc Minh năm 1427, Người đã ra lệnh cho Nguyễn Trãi soạn thảo bài tuyên cáo cho toàn dân biết và Nguyễn Trãi đã minh định chiến lược này qua bản Bình Ngô Đại Cáo (1427)

<...‘Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, <
Lấy chí nhân mà thay cường bạo. ... < Ta mưu phạt tâm công , không đánh mà người phải khuất. ...(Tâm Công)
Tướng giặc bắt tù, xin thương hại vẫy đuôi cầu sốngUy thần chẳng giết, lấy khoan hồng thể bụng hiếu sinh. ... (Tâm Từ Bi)
Chúng đã sợ chết xin hòa, thực thà cầu sống, < Ta muốn toàn quân làm cốt, ngơi nghỉ cùng dân. <
Chẳng những mưu kế cực sâu xa,
Cũng là cổ kim chưa nghe thấy. ...’ (Tâm Trí, Tâm Từ Bi )


B.6 Trong Bình Ngô Đại Cáo, Tâm Từ Bi đã thể hiện hết sức mạnh mẽ trong Chiến lược Tâm Công qua sự bừng nở của Tâm Trí Tuệ áp dụng trong chiến tranh chưa từng nghe thấy từ xưa đến nay để bảo toàn lực lượng khởi nghĩa, giữ đúng lệnh khoan hồng cho các trấn thành cùng quan quân đối phương đầu hàng, giảm thiểu những tổn thất về sinh mạng cho cả hai bên đang trong cuộc chiến, chấm dứt chiến tranh, đi đến chiến thắng sau cùng và mang lại hạnh phúc cho toàn dân.

B.7 ‘Tới giai đoạn này viện quân của Minh triều bị đại bại, tinh thần của đối phương ở nhiều trấn thành sa xuống rất mạnh. Nhiều tướng lĩnh Minh xin quy phục, chỉ còn 4 thành: Tây Đô, Cổ Lộng (nền cũ của thành này còn ở làng Bình Cách, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), Đông Quan và Chí Linh vẫn chưa xao xuyến lắm. Đáng lẽ quân ta tổng tấn công các thành đó trong lúc quân dân của chúng ta đang thừa hăng hái, Bình Định Vương sai viên thông sự Đặng Hiếu Lộc dẫn Thôi Tụ, Hoàng Phúc và một số lớn tù binh cùng quả ấn song hổ và cờ kiếm, sổ sách đưa vào thành Đông Quan....’ ‘Mưu thuật này đạt được đúng kết quả mong muốn là đánh một đòn nặng vào tâm lý địch giữa lúc họ đang khủng hoảng tinh thần. Biết tình thế hoàn toàn đổ vỡ, Vương Thông, Sơn Thọ cử phái viên là Thiên Hộ họ Hà đến đại bản doanh của Bình Định Vương đề nghị thành thực cầu hòa và xin mở đường cho chúng lui binh về nước.’ (Tâm Trí)

< B.8 ‘Tướng sĩ và nhân dân tỏ ý không tán thành cuộc hòa giải vì lòng người còn căm giận sự tàn bạo trước đây của giặc Minh. Dư luận còn đang phân vân, Nguyễn Trãi bàn: ‘- Giặc Minh tàn bạo nhân dịp này giết hết chúng đi là phải, nhưng phải nghĩ nước mình nhỏ, nước chúng lớn gấp mấy chục lần thì xung đột với chúng chỉ là sự bất đắc dĩ. Nếu mối thù ngày một thêm sâu, giặc mất thể diện lại kéo binh sang nữa thì cuộc chiến tranh biết bao giờ mới dứt được. (Tâm Trí). Sao bằng chấp thuận cuộc hòa hiếu để tạo phúc cho sinh linh hai nước. (Tâm Từ Bi)

B.9 ‘Tha Vương Thông và đồng bọn về, hẳn chúng không còn lòng nào trở sang nữa. Xem như bài biểu dấu trong thỏi sáp của y gửi về Minh triều có câu: ‘ Xin thôi đừng vì miếng đất ‘hẻo lánh một phương mà làm nhọc nhằn quân lính đi xa muôn dặm. Bấy giờ muốn đánh lại phải huy động đại quân như buổi ra đi, đại tướng phải sáu bẩy người vào hạng Trương Phụ. Nhưng dù lấy lại được thì sự giữ sau này cũng vẫn khó lòng...’Bình Định Vương Lê Lợi gật đầu khen phải, nói: ‘Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng bản tâm người nhân không muốn có việc giết người bao giờ, huống hồ người ta đã hàng mà giết thì không hay. Thỏa cái giận một lúc mà đeo cái tiếng muôn đời giết kẻ đầu hàng, sao bằng cho muôn vạn người cùng sống để tránh cuộc chiến tranh cho đời sau, lại còn được tiếng thơm lưu truyền sử xanh mãi mãi.’ (Tâm Từ Bi và Trí Tuệ)

Muốn được thánh triết phải chính ở tâm
Thắng được giặc tâm là danh tướng


Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3541
Gender: male
Đặng Dung
Reply #23 - 23. Nov 2006 , 15:18
 
Đặng Dung



Đặng Dung là con Đặng Tất, một tướng tài thời Hậu Trần. ( 1407-1413 ).


Năm sinh và năm mất của ông không rõ, chỉ biết ông người làng Tả Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng theo gia đình vào lập nghiệp tại vùng đất nay thuộc tỉnh Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Giận cha mình bị vua Giản Định giết oan (1408 ) vì lời gièm pha của gian thần sau trận Bô Cô, ông đem quân từ Thuận Hóa về Thanh Hóa, tôn Trần Quý Khoáng lên ngôi vua, lấy hiệu là Trùng Quang, và được giữ chức Đồng bình chương sự.



Ông cùng Nguyễn Cảnh Dị nhiều lần trực tiếp chiến đấu với quân Minh. Đêm tháng 9 năm Quý Tỵ (1413), Đặng Dung đánh úp doanh trại giặc và suýt bắt sống tướng Minh Trương Phụ (vì không biết rõ mặt nên Phụ lợi dụng đêm tối dùng thuyền nhẹ trốn thoát được). Tháng 11 năm 1413, vua tôi nhà Hậu Trần thế cô bị quân Minh bắt giải về Yên Kinh. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư không ghi chép gì về cái chết của ông. Theo Ngô Thì Sĩ trong Việt Sử Tiêu Án thì ông và Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ moi gan ăn. Ông còn để lại duy nhất bài thơ Cảm Hoài (chép trong Toàn Việt Thi Lục). Lý Tử Tấn có lời bình: Phi hào kiệt chi sĩ bất năng (Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt, ắt không thể làm được bài thơ này).



Tương truyền rằng CẢM HOÀI là bài thơ được Đặng Dung cảm tác trước giờ lâm tử.
Bài thơ này - với lời thơ khí khái, hào hùng, pha lẫn nét chua xót của một vị anh hùng lâm vào tuyệt lộ - đã để lại tiếng vang lớn trong lòng dân tộc . Đọc bài thơ ấy, không ít người đời sau đã phải sa nước mắt cảm thương


Thơ văn

Cảm Hoài
( nguyên tác Hán văn )



Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu[1] thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh[2] vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền[3] đới nguyệt ma


...


Bản dịch của Tản Đà



Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.



Bản dịch của Phan Kế Bính:



Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.



Bản dịch Vân Trình:



Việc lớn chưa xong tuổi đã già
Đất trời thu gọn tiệc ngâm nga
Gặp thời bần tiện thành công dễ
Lỡ bước Anh Hùng dạ xót xa
Giúp Chúa những mong xoay trục đất
Rửa dòng không lối kéo ngân hà
Bạc đầu thù nước còn chưa trả
Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà




Chú thích

1.  Điển tích đời Hán, Phàn Khoái làm nghề bán thịt chó, Hàn Tín làm nghề câu cá, cả hai sau này đều là Khai quốc Công thần, giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang phá Tần diệt Sở.
2. Điển tích từ hai câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Tẩy Binh Mã: An đắc tráng sĩ vãn Ngân Hà; Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng (Ước gì có được người tráng sĩ kéo sông Ngân Hà; Rửa sạch giáp binh để mãi mãi không dùng đến nữa).
3.  Long Tuyền: tên một loại gươm báu thời xưa




LƯU Ý :

Trong dân gian, một số người thường bị lẫn lộn giữa 2 nhân vật ĐẶNG DUNGMẠC ĐĂNG DUNG. Xin nói thêm cho rõ :

1-ĐẶNG DUNG : người được đề cập đến ở đây là một dũng tướng, một bề tôi lương đống của nhà HẬU TRẦN , một bậc anh hùng dân tộc, tuy rằng sự nghiệp chống quân MINH không thành công, nhưng cả 2 cha con ông (Đặng gia phụ tử) đều lưu lại tiếng thơm cùng thanh sử

2-MẠC ĐĂNG DUNG : phản thần của nhà HẬU LÊ, cướp ngôi của vua LÊ, dựng nên nhà MẠC, khởi đầu những cuộc chinh chiến nồi da xáo thịt giữa "NAM BẮC TRIỀU" (Trịnh Mạc xung đột), tiếp theo là "TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH" kéo dài hơn 200 năm, đến TÂY SƠN khởi nghĩa mới thống nhất được đất nước. Triều MẠC khởi đầu từ Mạc Đăng Dung là một trong số các triều đại tồi tệ trong lịch sử VN .

Hai nhân vật này khác nhau xa, xa lắm,

Wikipedia
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #24 - 11. Feb 2007 , 10:04
 
TIỂU SỬ HAY TIỂU THUYẾT? Nguyễn văn Chức  
(Bài một )  

Anh Lê Hồng Long , chủ nhiệm tờ Thế Giới Ngày Nay, biếu tội quyển "Un Vietnamien Bien Tranquille " của Jean Claude Pomonty, xuất bản tháng 3 năm 2006 vừa qua tại Pháp . Quyển sách  ca tụng một tên mật vụ Việt Cộng Phạm Xuân Ẩn nào đó.  Rất tiếc, ca tụng  quá đáng. Và  đầy rẫy những cái sai .
   
Pomonty viết :
Phạm Xuân Ẩn sinh tại  Miền Nam Việt Nam  năm 1927. Nhà nghèo, lúc hai tuổi y được trao cho bà ngoại đem ra nuôi tại Huế.  Bà ngoại chết, y trở về sống với cha mẹ  tại Saigon .
   Thập niên 1940 , cùng  với  thế hệ  Việt Nam trẻ  lúc đó, Ẩn bị quyến rũ bởi phong trào Kháng Chiến chống Pháp,, với  những cuộc xuống đường , như  vụ Trần Văn Ơn.
   Ẩn viết tiếng Anh thông thạo.  Ẩn đã giúp nhiều sĩ quan -trong đó có Nguyễn văn Thiệu --làm đơn để  vào học những trường sĩ quan cao cấp của Mỹ. Ẩn được bác sĩ  Phạm Ngọc Thạch ở chiến khu D để ý đến. Bác sĩ Thạch muốn y trở thành một điệp viên cao cấp của tình báo chiến lược Việt Minh.
Lúc đó, Ẩn chưa vào đảng.  Trước lời đề nghị của BS Thạch,  Ẩn không thích thú lắm,.  Ẩn cho đó là  một nghề đê tiện , cái nghề đi  làm  chó săn  hoặc chim mồi.
Cuối cùng, Ẩn đã trở thành vừa chó săn, vừa chim mồi . Y xin  được vào làm ở sở quan thuế Saigòn. . Tết  năm  Con Rồng  1952, Y xin  nghỉ việc  một tháng ,  ra chiến khu D trình diện  BS Thạch.  Năm sau, (1953),  Y  tuyên thệ vào đảng, trong một buổi lễ  tại chiến khu U Minh do Lêâ Đức Thọ chủ tọa. Và y đã trỡ thành một điêp viên chiến lược của đảng, với chỉ thị phải sống rất trầm lặng.
Năm 1955, theo  lệnh đảng, y phải  đi Mỹ học một thời gian từ 4 đến 6 năm.  Năm 1957, Y đi Mỹ.  Người  giúp Y đi Mỹ, là BS Trần Kim Tuyến.  
Sang Mỹ, Y  được vào học tại  Đại Học  Cộng Đồng của quận Orange (nguyên văn tiếng Pháp : Community University du comté d' Orange). Sau hai năm học ,  không cần đợi lệnh của đảng, y tự ý trở về Việt Nam.  Lúc đó là năm 1959, Mười Hướng, tên chúa đảng tình báo Việt Cộng,  với khoảng 80 % cán bộ Việt Cộng nằm vùng tại Miền Nam Việt Nam đã  bị chính quyền Ngô đình Diệm thanh tóan.
Ẩn trở về Sàigòn với nỗi lo sơ có thể bị bắt tại ngay phi trường Tân Sơn Nhất, hoặc  sơ bất cứ lúc nào. Y lại đến với Trần Kim Tuyến,  và đuơc Trần Kim Tuyến  cho vào làm trong Việt Tấn Xã (Viet Nam Press). Với tư cách nhân viên Việt Tấn Xã và  người của Trần Kim Tuyến, y đã trở thành thông tín viên của hãng Reuter, và tò Time. Y cũng có dịp kết thân với nhiều tai to mặt lớn của chế độ Miền Nam, đặc biệt Nguyễn Cao Kỳ. Nguyễn Cao Kỳ rất mê nuôi chó, và để lấy lòng Nguyễn Cao Kỳ, y cũng nuôi chó.

Trong những năm cuối cùng của Miền Nam Việt Nam,  Ẩn  đã đóng góp nhiều cho Việt Cộng .Võ Nguyên Giáp đã  vỗ tay hoan hỉ:  nhờ Phạm Xuân Ẩn, chúng ta đã ngồi trong phòng hành quân của Ngũ Giác Đài Mỹ.
Trước khi trận đánh cuối cùng lật đổ Miền Nam Việt Nam xẩy ra, Ẩn đã mật  báo cho Võ Nguyên Giáp: Mỹ sẽ không phản ứng, nếu quân đội "ta" tấn công Miền Nam.    Tháng Tư 1975, khi Miền Nam nghiêng đổ,  Ẩn được  hãng Reuter  đề nghị đưa ra ngoại quốc, nhưng y không đi ,vì còn mẹ già. Ngày  29/4/ 1975, không cần xin phép lệnh trên, y đã đưa Trần  Kim Tuyến lên  trïực thăng của CIA  trốn ra ngoại quốc.

   Trên đây là những nét chính về Phạm Xuân Ần,,  trong quyển "Un Vietnamien Bien Tranquille" của Jean Claude Pomonty. Tôi đã đọc  quyển  sách khoảng 10 lần, và tự hỏi: Pomonty viết  tiểu sử   hay tiểu thuyết ?

Năm 1952, tức là cách đây gần 60  năm,  tôi có dịp sống trọn một ngày với đại văn hào Graham Greene tại nhà người Anh Cả tôi : Nguyễn Đức Chiểu. Lúc dó Anh Cả tôi là tỉnh trưởng Nam Định kiêm thanh tra chính trị Sáu  tỉnh miền duyên hải Bắc Việt. Lúc đó, Graham Greene muốn về thăm chiến khu Phát Diệm của Giám Mục Lê Hữu Từ., để có tài liệu viết quyển  "A Quiet American". Ông cần giấy phép của hai người: đại tá Leon Gambiez, tư lệnh quân đội Pháp miền duyên hải . Và  Anh Cả tôi.
    Graham Greene đã dậy tôi nhiều lắm.  Ông nói : đứa phản bội chaỵ theo quân  thù thường  ca tụng quân thù  bằng những luận điệu hèn hạ và lộ liễu .
Hơn nửa thế kỷ đã qua , tôi vẫn nhớ lời ông.  Tôi liên tưởng đến  Stanley Karnow, tác giả  "Vietnam, A History" ca tụng  tên chó đẻ Hồ Chí Minh. Tôi liên tưởng đến  tên khố xanh Đỗ Mậu, tác giả "Viêt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi" ca tụng "bác Hồ" chó đẻ  và bè lũ Thích Trí Quang . Tôi liên tưởng đến Robert McNamara, tác giả " "In Retrospect, The Tragedy and Lessons In  Viet Nam " ca tụng Hồ  Chí Minh và chửi quân đội  VNCH . Tôi liên tưởng đến mụ Shelly H. Penney và tên Kevin Bowen của trường đại học Massachusetts trong vụ thuê văn nô Việt Cộng viết về Người Việt Tỵ Nạn. Vân vân và vân vân..

Phải chăng :quyển "Un Vietnamien Bien Tranquille" cùng  dòng máu đó? . Quả quyết   CSVN không làm nghĩa vụ quốc tế vô sản,:  ca tụng Hồ Chí Minh là người yêu nước. Tôi không thể kể ra cho hết những cái sai cái  hèn trong quyển sách của Pomonty.
Bài hôm nay, tội chỉ xin nói về một điểm : BS Trần Kim Tuyến.
Pomonty viết  : ngày 29/4/ 1975, không cần biét đến lệnh trên, cũng không cần có ý kiến của đảng, Phạm Xuân Ẩn đã tự ý đưa  BS Trần Kim Tuyến lên trực thăng  của CIA Mỹ trốn ra ngoại quốc. Tức là: BS Tuyến đã trốn  ra được ngoại quốc là nhờ Phạm Xuân Ẩn. Viết thế,  sai..
Sau cuộc đảo chánh tháng 11/1963, tôi là luật sư duy nhất của BS Tuyến. Suốt  hai năm bị tù tội, và bị đưa đi hết tòa này đến tòa khác, BS Tuyến chỉ có tôi-Nguyễn Văn Chức--mặc áo đen đứng bên cạnh.
Đêm  26/3/ 1975  rạng 27/3/ 1975,  lực lượng  công an của  tên Nguyễn Khắc  Bình-một tay chân   đốn mạt của bọn Thiệu- Khiêm --- xông vào nhà tôi, xích tay tôi, bịt mắt tôi và  mang tôi đi giam một nơi , đợi ngày đưa tôi đi Côn  Đảo.

Rạng  thứ Bẩy (26/4/1975), tôi được vị nghị sĩ  đã từng  ngồi bên cạnh tôi hai năm tại Thượng Nghị Viện-Tổng thống Trần Văn Hương-mang ra khỏi tù. Tôi về đến nhà; người đầu tiên gọi cho tôi là Vũ Văn Mẫu. Vũ văn Mẫu nói chính ông đã ra lệnh phóng thích tôi.  Ông khuyên tôi nên ở lại để tham gia  chính quyền Dương văn Minh.

Người thứ hai gọi cho tôi là BS Tuyến. Ông nói cho tôi hiểu : phải đi ngay, trước khi quá muộn . Vì vậy, tôi có thể nói: tôi biết khá nhiều về BS Tuyến , đặc biệt trong 4 ngày cuối cùng của tháng Tư Đen.

Ngoài  tôi , còn một người nữa. Suốt thời gian BS Tuyến  bị tù tội, cũng như sau khi BS Tuyến ra khỏi tù,  người đó  ra vào thăm viếng săn sóc thuốc men cho gia đình BS Tuyến,. Người đó  là em ruột tôi,  bác sĩ  Nguyễn Văn Luân.

Hai anh em chúng tôi có thể nói.: chúng tôi biết khá nhiều và khá rõ  về BS Tuyến, do chính ông -vô tình hay hữu ý-tiết lộ.  

Trong quyển "Un Vietnamien  Bien Tranquille" (tran.g 123, 124),  Pomonty viết: ngày 29/ 4 /1975 , không đơi lệnh trên, cũng không cần có ý kiến của đảng  , Phạm Xuân Ẩn đã tự ý đưa BS Tuyến lên trực thăng CIA trốn ra ngoại quốc. Nghĩa là: BS Tuyến trốn thoát được ra ngoại quốc ,  là nhờ Phạm Xuân Ẩn..
Điều đó hoàn toàn sai, và cường  điệu.
Nhưng ai sai?  Ai cường điệu?  Pomonty hay Phạm Xuân Ẩn. Theo tôi: cả hai. Cán bộ Việt  Cộng, hoặc mấy đứa nhà văn nhà báo tay sai Việt Cộng, thằng đ,,,, nào cũng vậy.
Trong bài này (bài một) , tôi chỉ nêu ra  những cái sai cái cương điệu đuợc tìm  thấy trong quyển sách của Pomonty. Trong bài sau ( bài hai) tôi sẽ  vạch rõ: sai và cưòng điệu ở chỗ nào.
                                                                                     (xin đón đọc bài  2)
Back to top
« Last Edit: 11. Feb 2007 , 10:10 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #25 - 17. Jul 2007 , 11:53
 
Đòi Giữ Trường Sa, Hoàng Sa; CSVN Ghi Công Quân Đội VNCH
   

Việt Báo Thứ Hai, 7/16/2007, 12:02:00 AM

Một điều hiếm có đang xảy ra: báo nhà nước trong khi đăng bài nghiên cứu về chủ quyền Việt Nam trên các đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã công nhận công lao của quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong việc gìn giữ các phần lãnh thổ và lãnh hải này. Và công trình nghiên cứu công phu này là do một Tiến sĩ Sử học Hà Nội thực hiện, và bài nghiên cứu đăng trên báo Lao Động ngày 15-7-2007. Tuy nhiên, vẫn còn ít nhất là một lỗi nhỏ cần phải điều chỉnh.

Lao Động số 27 Ngày 15/07/2007 đã đăng 2 bài viết  của Tiến Sĩ Sử Học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, một bài tựa đề "Một số tư liệu quý về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" và một bài tựa đề "Những tư liệu lưu trữ quan trọng về Hoàng Sa và Trường Sa."

Cả hai bài đều nêu rõ chủ quyền của Việt Nam trên các đảo Trường Sa và Hoàng Sa, trong khi nêu rõ rằng Trung Quốc không hề có chủ quyền gì trên các đảo này.
Bài "Những tư liệu lưu trữ quan trọng về Hoàng Sa và Trường Sa" đã phản bác việc chính phủ Trung Quốc dàn dựng bằng lý luận như sau, trích:

"…Sang thời kỳ Triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của VN trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt phải kể đến một tài liệu rất quý giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương 1 ở Hà Nội.

Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của VN trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ hoạ đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc...

Tài liệu đặc biệt này trước đây được tàng tàng trữ tại chi nhánh Văn khố quốc gia ở Đà Lạt. Trước ngày 30.4.1975, chính quyền Sài Gòn cho chuyển về Nha Văn Khố ở Sài Gòn. Sau 1975 được đổi là Kho Lưu trữ Trung ương 2 và sau đó được chuyển ra Kho Lưu trữ Trung ương 1 ở Hà Nội. Việt Sử Cương Giám Khảo Lược quyển IV của Nguyễn Thông (1877) cho biết ở buổi quốc sơ thường kén những đinh tráng hai hộ An Hải và An Vĩnh. Trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần 2 và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản.

Trong quyển III Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, đời Vua Minh Mạng, có ba đoạn văn liên quan đến việc xác lập chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.

Ngoài ra, các bản đồ cổ của VN từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.

Những tư liệu của Trung Quốc và phương Tây minh chứng chủ quyền VN tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:

* Hải Ngoại Kỷ Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Ký Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa và đã khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.

* Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa chưa thuộc về Trung Quốc.

Khảo sát tất cả các bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả các bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả các bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực Nam của biên giới phía Nam của Trung Quốc.

Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1.1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là "phát hiện" nhằm nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt Bắc ngôi miếu "Hoàng Sa Tự" ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của VN." (hết trích)

Đặc biệt, trong bài viết tựa đề "Một số tư liệu quý về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" cũng trên Lao Động, đã ghi việc quân lực VNCH gìn giữ các đảo như sau, trích:

"…Ngày 14.10.1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 7.9.1951, Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của VN, không có ý kiến nào phản đối. Theo Hiệp định Genève, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chánh của phía chính quyền ở miền Nam vĩ tuyến 17.

Tháng 4.1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi miền Nam VN, Philippines nêu vấn đề chủ quyền. Trong thời gian trên cho đến năm 1956, quân đội Quốc Gia VN sau gọi là VN Cộng Hoà đã chiếm đóng các đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 1.6.1956, Ngoại trưởng chính quyền VN Cộng Hoà Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của VN đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vài ngày sau, Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết những quyền hạn mà Pháp đã có đối với hai quần đảo trên từ năm 1933.

Ngày 22. 8. 1956, lục hải quân VN Cộng Hoà đổ bộ lên các đảo chính của quần đảo Trường Sa và dựng bia, kéo cờ. Ngày 13.7.1961, Tổng thống VN Cộng Hoà ra sắc lệnh đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam.

Ngày 6.9.1973, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ của chính quyền VN Cộng Hoà đã sửa đổi việc quản lý hành chính của Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy mà trước đây vào năm 1956, thời chính quyền Ngô Đình Diệm đã có sắc lệnh gọi quần đảo Spratly là quần đảo Hoàng Sa…." (hết trích)

Câu cuối cùng ở đoạn trên là nơi cần hỏi lại tác giả, vì có thể là nhầm lẫn đánh máy: Spratly vẫn được dịch là quần đảo Trường Sa, trong khi Paracels vẫn được dịch là quần đảo Hoàng Sa.

Tình hình Hà Nội công khai nêu lên chủ quyền và chỉ rõ việc Trung Quốc đưa quân chiếm đảo bất hợp pháp đã cho thấy có tăng mức độ trong tình hình tranh chấp vùng Biển Đông. Cũng đặc biệt trong bài, tuy chưa chính thức ghi công quân lực VNCH đã gìn giữ các đảo, nhưng Hà Nội đã xóa bỏ ngôn ngữ xách mé thường có với kiểu gọi "ngụy quân, ngụy quyền."

Điều đặc biệt nữa, trong bài nghiên cứu đăng trên báo Lao Động không nhắc gì tới chuyện Thủ Tướng VN Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng năm 1958 đã gửi thư trao tặng chủ quyền Trường Sa cho Trung Quốc, theo phần Niên Biểu Thế Kỷ 20 về Trường Sa trên Bách Khoa Wikipedia, trích:

"1958 - Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đưa ra tuyên bố xác định lãnh thổ biển của họ gồm cả quần đảo Trường Sa. Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Phạm Văn Đồng, gửi một công văn chính thức tới Chu Ân Lai, tuyên bố rằng "Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy."

http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A7n_%C4%91%E1%BA%A3o_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_S...
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
Hạnhtrần
YaBB Newbies
*
Offline



Posts: 12
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #26 - 07. Nov 2010 , 10:07
 
Nhân xem được một tài liệu lịch sử về CS Soviet rất hay, xin gởi cho các bạn cùng xem
Nếu Post không đúng tiêu đề (vì không phải TLLS của VN) thì mong Chủ vườn dời dùm
Link : http://vimeo.com/12057428
Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #27 - 16. Jan 2011 , 00:05
 
Chũ vườn ở đây chính là Ban Biên tập , hay là những anh chị điều hành Diễn Đàn LVD , Lam Sơn củng chỉ là người mang những cành hoa đẹp đem về để làm đẹp cho Vườn Hoa trong công viên Trường Nữ Trung Học  Lê Văn Duyệt được nhìn như một như một nơi chốn có nhiều kỳ hoa dị thảo
Back to top
« Last Edit: 15. Nov 2017 , 00:10 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Reply #28 - 13. Feb 2017 , 01:37
 
   Thể theo lời đề nghị của chị Mỹ, Lam Sơn sẻ gửi dến Diển Dàn các bài vở mà mình dã sưu tập dược, có liên quan đến Văn Học Sử Viêt , ngoài ra còn Huyền Sử , Cổ Sử và những giai đoạn lịch sử cận đại ,  để các bạn có thể cùng tham khảo và trao đổi cho qua ngày đoạn tháng,
          Lê Đức Thọ cựu học sinh Trung Học HNC 59_65
Back to top
« Last Edit: 15. Nov 2017 , 00:12 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: TÀI LIỆU LỊCH SỬ : Những Nữ Anh Thư Dựng Nước và Giữ Nước
Reply #29 - 15. Nov 2017 , 00:19
 
HAI BÀ TRƯNG

Năm 41, Vua Quang Vũ đời Đông Hán sai Mã Viện mang 20’0000 quân sang  tái xâm lăng nước ta. Mã Viện là danh tướng thời Đông Hán, rất nhiều kinh nghiệm chiến trường, quân sĩ lại được tập luyện tinh nhuệ.

Hai Bà Trưng, tuy đầy nhiệt huyết, nhưng còn nhỏ tuổi, quân sĩ lại mới thu nhận.

Sau mấy lần nhất quyết tấn công quân Mã Viện tại Lãng Bạc, Hai Bà yếu thế đã phải lui quân về Cẩm Khê. Mã Viện tấn công đuổi theo cho đến Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây. Ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão (43), thế bức quá, nhưng Hai Bà không chịu ra hàng, đã gieo mình xuống sông Hát Giang tuẫn tiết.

Đây là cái chí khí thà chết chứ không chịu đầu hàng giặc ! (Theo Nguyễn Phúc Liên :LỊCH SỬ KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM, Nhà Xuất Bản DAY&NIGHT, Ventura, California, USA, 2006, trang 14)

*          BÀ TRIỆU THỊ CHINH

Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Chinh là hai anh em ruột, người vùng Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa (quận Cửu Chân). Bà Triệu Thị Chinh đã từng tuyên bố : « Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta ! »

Sau khi được Triệu Quốc Đạt trao quân cho, Bà Triệu Thi Chinh ra trận, xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân, thống lãnh cuộc khởi nghĩa. Khi ra trận, Bà mặc áo giáp vàng, cỡi voi bành vàng, xông vào chiến địa.

Thứ sử Giao Châu là Lục Dận đem quân vây đánh Cửu Chân. Bà anh dũng chống trả trong vòng 6 tháng. Nhưng cuối cùng, vì quân số quá ít sánh với đoàn quân của Lục Dận, Bà mở vòng vây máu, đem quân lui về được xã Bồ Điền, huyện Mỹ Hóa, Thanh Hoá, và trong thế bức quá, Bà đã tự sát .

Đúng như lời Bà đã từng tuyên bố, thà tự sát chứ không chịu hàng giặc để làm tôi đòi (Sách đã trích dẫn, trang 20)

*          VUA LÊ ĐẠI HÀNH

Vua Lê Đại Hành không những là một anh quân thiện về binh bị, mà còn là một nhà chính trị giỏi về ngoại giao. Khi cương thì tấn công giặc như làm tan quân Tống xâm lăng, bắt được hai chủ tướng Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng.

Nước ta thắng quân Tống về binh bị, nhưng Vua Lê Đại Hànnh, vốn là người ưa dùng nhu về ngoại giao theo cách đối xử mà dân ta đã áp dụng đối với cây Cột Đồng Trụ thời Mã Viện, nên đã sai Sứ đem hai tướng đã bắt được, Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng, trả lại cho Nhà Tống và xin giao hảo. Bị thất trận nên vua Nhà Tống không hống hách nữa. Nên lưu ý là khi nhận chiếu, Vua Lê Đại Hành đã không nghiêng mình lậy, lấy cớ khi chiến tranh bị ngã ngựa đau chân không nghiêng mình được. Vua Tống biết kiểu khước từ nghiêng mình đó, nhưng không thể bắt bẻ. (Sách đã trích dẫn, trang 42)

*          LÝ THƯỜNG KIỆT

Danh tướng  LÝ THƯỜNG KIỆT là người giỏi về binh bị, về tâm lý chiến và là vị tướng duy nhất đánh sang nước Tầu để bảo vệ bờ cõi Việt Nam, nghĩa là vị danh tướng này đã áp dụng chiến thuật  BẢO VỆ bằng TẤN CÔNG.

Thời Tống Nhân Tông, Tầu lại quyết định mang quân sang chiếm nước ta. Trước thái độ quyết liệt xâm chiếm nước ta, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản được vua ta giao trọng trách chống đỡ. Chương trình chống đỡ của Lý Thường Kiệt như sau : 1) Phá hủy trước các kho dự trữ binh khí và lương thực trên chính đất địch ; 2) Chuẩn bị phòng vệ trên Lãnh thổ nước ta nơi các yếu điểm.

Thực hiện chương trình phòng thủ này, Lý Thường Kiệt  thống lãnh thủy quân đánh vào ven bể Quảng Châu, hạ được Châu Khâm , chiếm Châu Liêm. Tôn Đản thống lãnh lục quân tiến lên bao vây thành Ung Châu

Thủy quân và Lục quân hợp lại lấy xong Ung Châu. Cùng lùc ấy, Lý Thường Kiệt hay tin quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết mang đại binh sang xâm chiếm nước ta. Lý Thường Kiệt và Tôn Đản thần tốc mang Thuỷ quân và Lục quân trở lại Việt Nam bảo vệ Lãnh thổ.

Sau khi thắng được quân Tống trên đất nhà, Vua ta lại dùng mềm giẻo ngoại giao đối với Tống triều, sai Sứ sang trả lại binh sĩ đã bắt sống được để làm quà, đồng thời còn cống voi cho nhà Tống.

Mềm dẻo sử dụng ngoại giao, nhưng nhất định không hèn hạ nhận sự thống trị hay mất một tấc đất. (Sách đã trưng dẫn, trang 49)

*          TỪ THỜI NHÀ TRẦN & LÊ (thịnh)

Từ thời Nhà Trần & Lê (thịnh), Vua, Quan, Dân (Diên Hồng) lấy cương mà thắng giặc. Vua và các Tướng đã đưa ra những lời trừng phạt nặng nề đối với những kẻ hàng giặc, mưu mô đưa giặc vào lãnh thổ.

Lời Di Chúc của Vua Trần Nhân Tôn :
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Tàu Hán. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta .Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:
"Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác".
Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.“
Áp dụng hậu thế: CSVN đang bán từng hòn đảo, đã nhường cho Tầu những mảng đất liền từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu như hình da báo

Hưng Đạo Vương TRẦN QUỐC TUẤN đã viết để cảnh cáo những người có trách nhiệm mà phản bội cần phải loại trừ:
“Nay các ngươi... trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức,...Chẳng những ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mải.“
Áp dụng hậu thế: CSVN hầu giặc Tầu mà không biết tức, không biết hổ thẹn sao ?

Lời của vua Lê Thánh Tôn (1460-1497) đã nói như sau:
..  Một thước núi, một tấc đất của ta lẽ nào lại tự liệu vất bỏ được !  Kẻ nào dám đem một thước núi, một tấc đất của Tổ Tiên giống nòi để làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng !.
Áp dụng hậu thế : Phải trừng trị nặng đảng CSVN bán đất liền và biển đảo

Trần Ích Tắc là một HÀNG TƯỚNG trong cuộc chiến chống quân Nguyên và được đem về Tầu. Sau này quân Nguyên lợi dụng Trần Ích Tắc, thuộc Hoàng Tộc, như một cái cớ sang xâm chiếm nước ta lần thứ hai. Dầu vậy Trần Ích Tắc cũng đã bị trừng phạt. Mạc Đăng Dung là một HÈN TƯỚNG, không những phản quốc đem đất đai và sổ dân dâng cho Tầu, mà còn HÈN HẠ tự buộc dây vào cổ như chó má súc vật, đi chân đất đến phủ phục dâng đất và dân cho một quan nhà Minh. Tội bán nước Trời không  tha, Đất không dung, mà còn trở nên HÈN HẠ như chó má súc vật làm mất thể diện một Dân Tộc.

CSVN chủ tâm viết sai đi Lịch sử của tiền nhân. Chúng tôi không kể CSVN là một Lực Lượng KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LĂNG vì Lực Lượng này chỉ là tay sai của Cộng sản Quốc tế đã đem Lý thuyết ngoại lai và phương tiện chiến tranh từ nước ngoài vào xâm lăng Lãnh thổ và Lãnh hải Việt Nam. Ngược lại, chính Lực Lượng Việt Nam Cộng Hòa mới đích thực là Lực Lượng KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LĂNG của Đế quốc Cộng sản.


Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra