Tôi chưa từng đi thi chữ nho bao giờ, nhưng tâm sự của những người học trò ngày xưa, mười năm đèn sách đi thi cũng chỉ hồi hộp đến như người có thủy tiên dự thi. Trước một hôm, cả thầy tôi và mẹ tôi không ngủ, thức suốt đêm để canh từng cái nụ hoa và dự đóan về thủy tiên của mấy tay cừ khôi luc bấy giờ, là các cụ Mỹ Ký, Cả Nam, Hai Khương và mấy ông khác trên Nghi Tàm. Chẳng biết ai sẽ giật được giải quán quân?
- Mấy hôm nay, Hải Phòng cũng có mấy nguời lên, trong số này có Bảy Lợi, Phó Dâu, và Lý Hựu, không biết có dự thi ở đền nào không, nhưng quyết rằng các cụ Cả Lan và Hàn Chấn thì không lên đâu, vì nghe đồn ở Nghè Vẽn có cuộc thi long trọng, mà giải thưởng nghe chừng to lắm.
Thời gian trôi đi một cách nặng nề. Nhưng rồi ngày quyết định cũng đến.
Thầy tôi, trang trọng lạ lùng, tự tay lên gác lấy nước ở trên bàn thánh xuống để rửa ráy một lần chót và thay nước cho ba cốc thủy tiên thi.
Trước kia, thường mẹ tôi vẫn lo công việc này. Nước dùng thì là nước máy, nhưng từ khi lá bắt đầu xanh, nước máy không dùng tới nữa, mà là nước sông mua từng gánh của những người đẩy cái xe hai bánh, trên có một thùng gổ to mà hồi đó người ta vẫn kéo đi bán rong các phố. Một xu một gánh, có khi hai xu một gánh, nhà nào mua thì xe đỗ lại. Người bán mở nút cho các thứ nước hồng màu phù sa đó chảy vào những thùng thật đầy tràn. Mẹ tôi cho đánh phèn vào nước rồi để đấy cho nước thật lắng, mới đem ra rửa và đổ vào trong những cốc thủy tiên. Các cụ bảo thế thì thủy tiên nó mát, tốt rễ, mà bẹ lại trắng, chứ cái nước máy, Tây họ cho thuốc vàng vào, dùng có hại cho sự phát triển sinh lực của cây mà lại còn làm xám mất cả bẹ là đàng khác.
Xong đâu đấy rồi, thầy tôi chít khăn, mặc áo chỉnh tề đi trước, một người bõ già mang thủy tiên theo sau, hai tay nâng lên phía trước mặt, y như người đương lễ .
Ờ mà cũng lạ thật, cầm cốc thủy tiên như thế mà thành ra thủy tiên cũng thấy trang trọng hơn lên nhiều. Người ta thấy rằng đó không còn phải là một thú chơi tầm thường nữa, nhưng là cả một sự thành kính, cả một sự tôn thờ.
Nhất là đến lúc cuối cùng, sắp sữa đến trường thi, thầy tôi lại cắm vào cái giò ở đàng sau một thanh tre cật vót thật tròn và nhỏ, trên đầu có dán một cái biển con bằng giấy hồng điều viền trắng, cắt thành hình quạt và đề hai chữ chân phương “Quảng Thịnh” (1).
Thì ra không phải chỉ bây giờ người ta mới có thói bất cứ cái gì cũng đặt tên, như cuộc hành quân “Quả quit”, “Trái ổi” hay là trận bảo “Cào cào”, “Uếch”, “Bàm bàm” đâu!
Từ ngày xưa, trong những cuộc thi thủy tiên, Các cụ cũng đã có cái lối đặt tên hiệu cho từng cốc, cũng như những bậc cha mẹ đặt tên cho từng đứa con, duy khác một đìều là những tên của các cụ đặt cho hoa thì có điển tích mà lại đẹp hơn bây giờ một chút.
Thầy tôi đặt tên cho một cốc cái tên “Quảng Thịnh”, một cốc tên là “Đồ Nam”, một cốc tên là “Vạn Lý Trình” ra cái ý tôi là chim bằng “bằng phi vạn lý”. Bây giờ tôi không còn nhớ đến tên thủy tiên của các cụ khác nữa, trừ một cốc của cụ Tham Chấn tên là “Tắc Danh”. Sở dĩ nhớ được như thế, cũng là vì đã có một cuộc thảo luận sôi nỗi về hai chữ ấy. Cụ lấy làm thích thú về sự bí hiểm của cái tên cụ chọn và đợi cho ai cũng chịu mới ung dung cười ha hả:
- Tắc danh là tất có danh. Ấy là do cái điển “Thủy long tắc linh, thủy tiên tắc danh” đó, thưa các cụ!
Thôi khỏi cần phải nói. Ngồi trong một hội đồng chấm thi thủy tiên, bên những lư trầm hương ngát, các cụ chẳng thiếu điều gì thử thách, bàn tán, ngâm ngợi, chỉ trích và tán thưởng.
Bàn thờ sáng ngời như ban ngày, Lư, nến, mới đánh xong, bóng cứ lộn lên. Nhang thấp la liệt như sao sa, tỏa khói ra trong khắp đền, làm cho ta nhớ lại cảnh trẩy chùa Hương, vào tinh mơ sáng thì đến chùa Trong, rừng núi u huyền, mờ ảo như một cảnh tiên giới vẽ trong tranh thủy mặc Tàu .
Cao hơn hết, những cốc thủy tiên thi trên có lọng che, ngự riêng một chỗ tôn nghiêm nhất, chỉ duy kém các vị thần linh một bực. Tiếng nói, tiếng cười, câu bàn, lời cải vang lên. Trong ban giám khảo, cụ nào cũng muốn tỏ ra mình minh mẫn, công bằng nhất, xem đi xét lại từng cái lá, từng cái giò, cái mạng, cái bẹ và cái rễ, tranh luận rất là ráo riết.
Mạng chỉ được bóc ra rồi để nguyên đấy, như hai làn môi chúm chím cười, ai bóc hẳn ra, bị đánh hỏng; được lá, hỏng nụ; được rễ, chạm lá, hỏng; cả một bắp mà có một cánh hé nở rồi, cũng hỏng luôn .
Muốn trúng cách, phải tòan bích mới được, dù rằng mình muốn gọt kiểu Long, kiểu Phượng, kiểu Lân, kiểu Ly, nhưng đúng giờ định đọat, mỗi giò phải có vài cái nụ, mà nụ thì phải là hàm tiếu.
Có ai đã từng xem một cuộc trưng bày thủy tiên, hẳn đã thấy các cụ ta ngày trước đã đạt đến tuyệt đích sự thần-thánh-hóa lòai hoa. Chẳng hiểu ngày xưa Võ Hậu suy tôn giống mẫu đơn tài tình đến bậc nào, chứ cứ trông thấy các cụ nhà ta trịnh trọng với lòai thủy tiên, ta tự nhiên cảm thấy rờn rợn, như hoa là một vị thần linh thiêng thật sự.
Phút quyết định càng kéo dài bao nhiêu, thì sự hồi hộp của những người có thủy tiên thi lại càng rộn rã bấy nhiêu. Tim óc trút ra mấy tháng trời đằng đẳng cùng với bao nhiêu công trình thức khuya dậy sớm, mất ngủ quên ăn, đều thu lại trong một phút này đây.
Thầy tôi, năm ngóai đã trúng giải ngọai hạng ở đền Phúc Kiến, năm nay lại càng hồi hộp, lo âu quá. Cứ ngồi đó nửa tiếng đồng hồ, thầy tôi lại đứng lên canh bắp thủy tiên, rồi, không hiểu nghĩ sao, lại ngồi xuống, rồi vụt mọt cái, thuê xe về nhà để nói với mẹ tôi một câu – một câu thôi – rồi lại đi ngay:
- Cụ Từ Đàm, cụ Trần Quỳ, cụ Đào Huống Mai năm nay đều có dự thi, nhưng xem chừng ban giám khảo không được vừa ý lắm. Bắp của nhà có cơ …
Cả nhà tôi hy vọng. Hình như mẹ tôi lại lên gác thắp nhang lễ nữa. Lạy Thánh mớ bái, ban giám khảo năm ấy cũng minh mẫn và công bằng lắm. Quyết định khác mọi năm một chút là đáng lẻ cho một giải quán quân, hai giải nhất thì lại lấy hai giải nhất thượng hạng, một giải nhất thường, một giải nhì và một giải ba. Thầy tôi được giải nhất thường.
Nói cho đúng, không được lựa vào giải nhất thượng hạng, thầy tôi cũng có ý không được hả hê như năm trước, nhưng sau khi được mẹ tôi an ủi, thầy tôi cũng nguôi nguôi.. Đến khi tin ấy lan ra ngòai, mọi người đổ đến mừng thì thầy tôi vui hẳn lên và cũng cho thế là một vinh dự đặc biệt mà nhiều người thèm khát.
Ngay từ bảnh mắt hôm sau, mẹ tôi đã dậy thật sớm; kê án thư, tràng kỷ ra ngòai sân để tiếp đón các quan khách đến thăm. Rồi mai kia đây, còn gọi là khối khách, phải lo ngay từ bây giờ mới kịp. Thôi thì nhà cứ lọan lên, bỏ cả buôn ca bán, hết ông Cả Năm lại đến cụ Tú Thanh, có khi ba bốn cụ cùng nói cùng một lúc, nghe cứ ríu ra ríu rít. Không khí gia đình tôi thật quả là tấp nập hơn ngày Nguyên Đán nhiều.
Thầy tôi vừa nhìn cái móng tay út lá lan vừa nói một lời khiêm nhượng:
- Không, cứ kể ra thì các cụ Hội đồng chấm cũng công minh lắm. Tôi vẫn chịu bắp “Tân Hương” của cụ Trần ngay từ đầu ….
- Thế nhưng cụ bảo củ “Thanh Xuân” của cụ Đào kém chắc? Sao lại phải liệt xuống thứ hai?
Không ai đồng ý với ai cả. Đến trưa thì có tin sáng sớm hôm sau hai bắp “Tây Thi” và “Vân Hương” được giải nhất ngọai hạng, vào hồi chín giờ sẽ được rước lên kiệu để đem cúng Thánh, một ở trên đền Trấn Võ và một ở đền Ngọc Sơn .
Củ “Quảng Thịnh” của thầy tôi được giải nhất thường, sẽ được ruớc về vào sáng sớm hôm mùng sáu Tết.
Vừa có tin đó, một cụ bạn lại đến báo tin cho một tin mừng khác là củ “Đồ Nam” cũng của thầy tôi ở Bạch Mã được giải thưởng nhì.
Thật, chưa bao giờ đầu năm thiên thủ, nhà tôi lại có một cái mừng “cặp ríp” mê ly đến thế. Thầy tôi cứ như là có rôm trong người, không ngồi đâu đứng đâu yên, hết ra lại vào, hết đi lại đứng, sướng quá phờ cả người ra, trông vừa thú mà cũng vừa ái ngại.
Đến mẹ tôi nữa mới lại càng vất vã. Mắt người sáng ngời lên, đôi má cũng thắm màu hơn một chút, nhưng mà còn bao nhiêu việc phải làm!
Tôi mở mắt dậy sáng mồng sáu thì nhà tôi mới hẳn và đẹp quá chừng là đẹp! Từ trên trần nhà rũ xuống một bức “mi môn” do chính chú “Công Thái” mua từ ở Tàu về .Ở hiên, có án thư, tràng kỹ .Còn ngay ở cửa vào thì bày một cái bàn treo “quần màn” thêu kim tuyến “sư tử hí cầu” tuyệt đẹp . Trên bàn, là một bộ ngũ sự bằng đồng bạch sáng choang, khói trầm tỏa lên nghi ngút làm cho cả gian nhà thơm ngát như một động tiên . Bây giờ, ngồi mà nhớ lại, một vài tình tiết cũng đã phai mờ trong trí óc tôi; nhưng tôi không thể nào quên được lúc nghe thấy tiếng kèn tàu ở đầu đường, thầy tôi ở trong nhà vội vàng mặc cái áo thụng xanh vào,đứng chắp tay ở cạnh bàn thờ nghi ngút khói hương .
Đám rước đến đầu phố, đám rước đến giữa phố . Mọi người đổ cả ra xem, trang trọng hơn là xem một đám rước thần . Đây thầy tôi vẫn cứ đứng nguyên như thế để đợi, dáng điệu trịnh trọng mà vẻ mặt thì nghiêm nghị .
Đây có phải là một sự thành côngcủa một người đem hết tâm hồn ra gọt nên bắp thủy tiên trúng cách đâu, mà cũng không phải chỉ là một niềm hân hoan của một người đi thi đã được kể là có văn học cao hơn bạn hữu; đây là một điều cao cả, thiêng liêng hơn nhiều lắm, một ơn huệ của các đấng tối cao linh thần đã dành cho mình và nhà mình, một cái “phúc” mà Trời ban cho buổi đầu năm để mọi công việc trong năm sẽ được hanh thông vậy . Có tiền cũng không mua được giây phút này đâu!
Đám rước thủy tiên càng đi chậm, lòng người càng sôi nổi và sự hân hoan càng gia tăng . Sống đến thế này, thật quả là mãn nguyện quá đi, Trời ạ!
Kìa, đám rước đã đến cửa nhà tôi .
Cả một khu phố tôi ở tự nhiên nổi bật hẳn lên với những màu đỏ tươi lộng lẩy mà tôi chưa từng thấy bao giờ . Bốn người quấn xà cạp thổi kèn tàu và bốn người khiêng bàn độc đều mặc áo đỏ nẹp trắng mới tinh, như thể vừa mới bước ở trong một bức tranh cổ kính ra .
Hai bên bàn độc, có hai người cầm hai cái quạt và che bắp thủy tiên trúng giải của thầy tôi đặt ở giữa, một bên bàn thì có ba vuông nhiễu điều, hai bao chè, còn một bên nữa thì có một đôi liễn màu hồng, cuộn lại và buộc bằng dây gai đỏ . Một cụ bước vào đưa cho thầy tôi một bức hoa tiên viết chữ, rồi một người khác cúi đầu, trịnh trọng ra nâng cốc thủy tiên lên, bưng ngang trước mặt, đi chậm chậm vào đặt lên trên bàn thờ .
Bắp thủy tiên mong đợi!
Bắp thủy tiên thần thánh!
Bắp thủy tiên đặt lên bàn rồi, cả nhà tôi và những người kéo đến xem ở cửa bỗng thấy một sự im lặng khả kính vương vấn trong không khí vừa ấm cúng, mà lại vừa nghiêm trọng .
Thầy tôi châm hương và đốt trầm rồi chắp tay lại lễ ở trước bàn thờ, đọan, vái ông cụ dẫn đầu đám rước thủy tiên một vái dài .
Tôi tưởng ngay lúc đó tôi có thể lăn ra đất vì cố nhịn thở mãi, đầu óc cứ quay đi .May, chính giữa khi ấy thì có những tiếng nổ làm cho tôi tỉnh lại, và lại càng làm cho lòng tôi phấn khởi hơn: đó chính là tiếng pháo “công tường cát” mà mẹ tôi đã bảo người nhà châm lửa đốt, đốt “liên chi hồ điệp” để đánh dấu một ngày vui đẹp, chứa chan hạnh phúc .
Ngay chiều hôm ấy, một bữa tiệc được xếp dặt từ mấy hôm trước được thiết lập ngòai vườn . Các ông bạn thầy tôi lại kéo nhau đến ngắm củ thủy tiên trúng giải, vừa uống rượu, vừa làm thơ, đến nửa đêm mới ra về .
Mai đây, và mốt nữa, những bữa tiệc mừng như thế còn kéo dài, có khi đến rằm tháng giêng chưa hết . Mỗi cụ đều tặng thầy tôi một bài thơ mừng thủy tiên . Thầy tôi chép tất cả những bài thơ đó vào những tờ thủy tiên rắc bạc rồi đưa cho mẹ tôi để lấy “lề” đóng lại thành một tập, giữ làm kỷ niệm .
Thỉnh thỏang, cụ Cả Nam lại sang nhà tôi nhấm rượu với lạc rang, cùng thầy tôi ngâm đi ngâm lại những bài thơ đó trong những buổi chiều tà . Rồi cùng sung sướng, hai cụ cùng cười ha hả với nhau, đặt sách lên trên kỷ, nhìn nhau không nói .
Sau mãi, cụ Nam mới bảo:
-Thú lắm, thú lắm! Được giải thế này cũng bỏ cái công mình nhịn ăn nhịn ngủ để mà chăm chút cho hoa …
Thầy tôi hút một điếu thuốc lào, thở khói xanh một giây lâu mới đáp:
- Nhưng mà tổn thọ,ông ạ . Khong phải bây giờ tôi mới nghĩ thế đâu, chứ đàn ông mà chơi cái giống thủy tiên này, giảm thọ đi mất đến mười năm; mà đàn bà (thầy tôi hạ thấp giọng xuống một chút), đàn bà gọt thủy tiên thi thì …mất một lứa đẻ đấy ông Cả ạ !
Vũ Bằng
Chú thích: (1) Quảng Tịnh là tên cửa hàng bán sách và xuất bản của thầy mẹ tôi, ở Hàng Gai, Hà Nội in trên dưới 8,000 lọai sách cả văn vần như Kiều, Thạch Sanh, Tống Chân và văn xuôi như Bao Công Kỳ án …