Kính thưa Cô Ngọc Mai,
Em xin phép mang về góp thêm trong Danh Mục Cám Ơn này bài viết của chị Mỹ Phương ( Khoa Học 74) em đọc bên Khoa HọcSG.
Chắc cũng có những anh chị em tìm thấy tâm tư của mình trong bài viết này giống như em, tâm tư của một người luôn cảm thấy mình thật diễm phúc, đã có 20 năm được bảo vệ để sống một thời tuổi trẻ đẹp đẽ yên lành dưới thời tao loạn chiến tranh. Càng nhìn thấy đời sống nhọc nhằn tủi nhục của thế hệ con cháu mình đang sống tại đất nước VN sau khi đất nước đã thanh bình gần 35 năm, em lại càng thấy mình đã mắc một món nợ mà bao lời cảm ơn cũng chưa thể an lòng.
Bút ký của Mộc Hương
Hôm nay là ngày thứ hai của niên học đầu tiên con gái tôi bước vô trường Nha, cũng là ngày Lễ Áo Trắng - White Coat Ceremony, được tổ chức cho sinh viên năm thứ nhất, nhằm trung tuần tháng 9 mỗi năm.
Hai vợ chồng tôi theo dòng người lũ lượt kéo vô hội trường Schoenberg Hall của trường đại học UCLA, nơi buổi lễ được cử hành. Nhìn nét mặt hớn hở của các phụ huynh sinh viên, ai cũng cảm nhận được nỗi hân hoan đang tràn ngập trong lòng mỗi người.
Vợ chồng tôi sắp hàng đôi, chậm rãi tiến về phía cửa vô. Minh, chồng tôi, vừa đi vừa nhìn quanh:
-“Họ đi dự cũng đông ghê!”
-“Chớ sao”.
Tôi trả lời thờ ơ vì còn đang ngóng về phía trước coi con gái đã vô chưa, bất chợt nghe một giọng nói thật nhẹ nhàng:
-“Có phải học trò trường Nha làm Lễ Áo Trắng ở đây không, cô?
Tôi quay qua:
-“Dạ phải, thưa bác”.
Một người đàn bà lặng lẽ theo sau chúng tôi, bà không nói thêm một lời nào.
Chúng tôi vô không sớm lắm nên chỉ còn ghế trống ở nửa sau của hội trường. Tôi và Minh chọn một chỗ thuộc dãy giữa. Tám mươi tám tân sinh viên đã an tọa nơi các hàng ghế đầu. Minh mau chóng nhận ra con gái của chúng tôi trong đám sinh viên mà đa số là nam sinh.
Phụ huynh sinh viên lần lượt vô đầy hội trường, da trắng chen lẫn da màu. Xoay người nhìn quanh một vòng, mắt tôi chợt chạm phải cái bới tóc rất Việt Nam của người đàn bà đã hỏi tôi ngoài cửa. Dù biết gặp gỡ người Việt ở Cali là chuyện thường, tôi vẫn không ngăn được tò mò khi thấy bà ấy ngồi một mình giữa những người da trắng. Người đàn bà tuổi độ bảy mươi ngoài này đi với ai mà ngồi lạc lõng như vậy. Tôi chưa kịp thắc mắc thêm thì hội trường bỗng trở nên im lặng vì người điều khiển buổi lễ đang tuyên bố bắt đầu chương trình.
Sau phần chào cờ là diễn văn của Hiệu Trưởng trường Nha, nối tiếp bởi phần phát biểu của hội cựu sinh viên trường Nha - Apollonian Society, rồi từng tân sinh viên được giới thiệu với quan khách.
Mỗi sinh viên bước lên sân khấu đều cầm trong tay một chiếc áo choàng trắng, sắp hàng chờ tới phiên để được một vị giáo sư trường Nha tận tay khoác chiếc áo này lên người.
Nhìn con gái tôi trong áo choàng trắng, tôi không thể dấu đôi mắt rưng rưng với hai ngấn lệ chực tuôn trào. Những giọt nước mắt hạnh phúc vì con tôi đã trưởng thành và chọn được cho mình một hướng đi, cũng là những giọt nước mắt thương cảm cho đời một người khoác áo trắng. Chiếc áo tưởng nhẹ nhàng nhưng ngầm mang bao trọng trách mà vợ chồng tôi khoác lên vai đã nửa đời người.
Sau khi chụp hình lưu niệm với Hiệu Trưởng, tân sinh viên tự giới thiệu về bản thân mình. Mỗi khi một sinh viên dứt lời thì tiếng vỗ tay lại vang dội. Nếu để ý, sẽ biết ngay thân nhân của tân sinh viên đó là ai, vì tức nhiên họ vỗ tay nồng nhiệt hẳn lên, những người trẻ còn ngay cả hò hét vang dậy. Tôi cố để ý coi người đàn bà Việt Nam bới tóc vỗ tay cho ai trong số dăm ba sinh viên Việt Nam của lớp Nha này, nhưng bà ta không biểu lộ cảm xúc nào đặc biệt cho ai. Tôi nghĩ, có lẽ đó là cung cách trầm lặng của người Á Đông.
Sau khi các tân sinh viên đọc xong lời thề thì buổi lễ được kết thúc. Mỗi gia đình chờ đón con em của mình, họ ôm hôn chúc mừng và cùng kéo nhau qua Health Sciences Patio của trường Nha, nơi tiếp đãi bữa ăn trưa.
Gia đình tôi lấy thức ăn mang tới một cái bàn riêng rẽ nơi đầu dãy. Tôi vừa ngồi xuống băng gỗ, thì cũng vừa đúng lúc người đàn bà Việt Nam bới tóc đi ngang, tay mang dĩa thức ăn, mắt ngó quanh, có lẽ đang tìm chỗ ngồi. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi gọi:
-“Bác ngồi đây đi, thưa bác”.
Bà ấy quay lại, mắt chợt sáng lên:
-“Hên quá! Cô cho tôi ngồi chung với”.
Sau vài câu xã giao, chúng tôi im lặng thưởng thức bữa ăn trưa. Được một lát, Minh đứng dậy, hỏi:
-“Bác dùng nước chi, để cháu đi lấy?”
Bà ấy nhìn Minh bằng cặp mắt biết ơn:
-“Nhờ cậu lấy giùm tôi chút nước mát”.
Tôi nói với theo:
-“Cho em một lon "Coke" luôn”.
Con gái tôi cũng theo Ba nó đi lấy nước. Còn lại hai người, tôi bắt đầu gợi chuyện:
-“Thưa bác thứ mấy để cháu tiện xưng hô?”
Bà ấy mỉm cười:
-“Tôi thứ bảy”.
Tôi gật đầu:
-“Dạ thưa bác Bảy. Con của bác cũng mới vào trường Nha năm nay phải không, thưa bác?”
-“Không phải đâu, cô. Tôi tám mươi tư tuổi rồi, làm gì có con nhỏ như vậy”.
Minh vừa mang nước tới, nghe câu nói của bà Bảy thì tròn xoe đôi mắt:
-“Bác đã tám mươi tư tuổi rồi mà coi còn sõi quá chừng. Cháu tưởng bác độ bảy mươi lăm tuổi thôi”.
-“Vậy chắc là cháu của bác?” Tôi hỏi tiếp.
Minh mới ngồi xuống, nghe tôi hỏi như vậy thì lén đá chân tôi một cái, ngầm nhắc tôi đừng tiếp tục tò mò chuyện riêng của người khác. Nhưng bà Bảy không tỏ vẻ gì khó chịu hết:
-“Tôi không có cháu con nào học ở đây, tôi chỉ muốn tới coi học trò mặc áo choàng trắng ra làm sao thôi”.
Tôi liếc qua Minh, nhưng không thể ngưng tò mò:
-“Sao bác biết được ngày Lễ Áo Trắng này, thưa bác?”
Bà Bảy hớp xong một ngụm nước, chậm rãi trả lời:
-“Cháu của người bạn tôi trong Hội Cao Niên được nhận vô trường này, bà ấy kể cho tôi nghe chuyện lễ lạc ở đây, tôi xin đi theo, nhưng cuối cùng thì đứa cháu ấy đổi ý, qua học trường ở Bắc Cali, nên hôm nay gia đình họ không đi dự, tôi nhờ người trong hội đưa tới đây” .
Tôi còn cả chục điều thắc mắc nhưng sợ khi về tới nhà, Minh lại cằn nhằn cái tật tọc mạch của tôi nên đành nói những chuyện bâng quơ, chẳng dính dáng vô đâu.
Con gái tôi vừa giúp Ba nó dọn dẹp mấy cái dĩa giấy xong thì một sinh viên năm thứ ba tới hỏi ai muốn đi thăm phòng học, mời theo em ấy. Chúng tôi nhập chung với hai gia đình nữa thành một nhóm, dĩ nhiên có cả bà Bảy.
Cả nhóm đi một vòng qua các giảng đường và các phòng thực tập rồi chia tay. Bà Bảy nhờ chúng tôi đưa bà trở lại chỗ hội trường hồi sáng để chờ người trong Hội Cao Niên tới đón.
Tôi chỉ về phía một băng ghế trống:
-“Bác ngồi đây đi”.
Bà Bảy cầm tay tôi:
-“Cám ơn cô cậu nhiều lắm. Không có cô cậu chắc tôi đi lạc, trường lớn quá!”
-“Không có chi đâu, thưa bác”. Minh đỡ lời.
Bà Bảy nhìn con gái tôi một lúc, rồi mở xách tay lấy ra một phong bì nhỏ, kiểu có sọc xanh đỏ viền quanh, vừa nhìn vô là biết ngay loại phong bì từ Việt Nam. Bà trao cho tôi:
-“Hôm nay tận mắt thấy được học trò mặc áo choàng trắng ra sao thì tôi mãn nguyện lắm rồi. Tôi tặng cho cháu cái này”.
Tôi cầm lấy phong bì, trong lòng hết sức bâng khuâng, tự hỏi trong đó có cái gì đây, mình nhận hay là không nhận. Minh cũng ngập ngừng nắm lấy cườm tay tôi. Nhưng khi nhìn thấy ánh mắt thiết tha của bà Bảy thì tôi quyết định mở phong bì. Một mảnh giấy tập kẻ hàng vuông được lôi ra, loại giấy tập Olympic mà tôi hay dùng thuở còn đi học ở Việt Nam. Mảnh giấy xếp làm tư đã ngã màu vàng lốm đốm. Sau khi trải thẳng mảnh giấy để đọc được những dòng chữ trên ấy thì tôi bỗng thấy hơi choáng váng. Tôi nắm vội tay bà Bảy, kéo bà ngồi xuống băng ghế:
-“Ở đâu bác có bài thơ này?”
Không biết lúc ấy nét mặt tôi ra sao mà bà Bảy có vẻ xao động:
-“Bài thơ này của con trai tôi chép cho tôi, sao vậy cô?”
Mất hết e dè, tôi hỏi tới tấp:
-“Phải thầy Phùng không?”
Không còn lời nào để diễn tả hết nét ngạc nhiên trên gương mặt của bà Bảy:
-“Cô biết con tôi sao?”
-“Thầy Phùng là thầy giáo lớp nhất của cháu”. Tôi gật đầu.
-“Trời ơi! Vậy sao?” Bà Bảy nắm lấy vai tôi.
Đặt bàn tay lên tay bà Bảy, tôi nói:
-“Thầy Phùng dạy cháu nửa năm thì đi lính, đây là bài văn vần cuối cùng mà thầy dạy cho lớp”.
Mắt bà Bảy buồn rười rượi:
-“Nó đi lính được mấy tháng thì chết trận rồi, cô. Trận Tết Mậu Thân”.
Tôi vuốt ve bàn tay bà Bảy:
-“Cháu đã biết tin này. Thầy Phùng có được cháu nào không, bác?”
Bà Bảy gật đầu:
-“Nó có một cháu trai, khi cháu 14 tuổi đã cùng tôi và má cháu đi vượt biên. Giữa biển gặp hải tặc. Lúc hải tặc bắt má cháu thì cháu xông tới đánh với họ và bị họ túm quăng xuống biển, còn má cháu thì bị bắt đi mất tích”.
Nói tới đây, cái miệng của bà Bảy trở nên méo xẹo, đôi mắt già leo nheo đỏ hoe, nhưng ráo hoảnh vì nước mắt chừng như đã cạn. Minh ái ngại nhìn bà rồi nói nhỏ với tôi:
-“Em ở lại đây, anh đưa con về “dorm” trước, chút nữa anh quay lại đón em”.
Tôi nhẹ gật đầu. Minh và con gái tôi cúi chào bà Bảy rồi lẳng lặng rút lui.
Còn lại hai người, tôi thấy thoải mái hơn:
-“Vậy bấy lâu nay bác sống với ai?”
-“Tôi sống một mình, “share” phòng với đứa cháu bà con xa, đi làm trong hãng may cho tới khi hưu trí thì vô Nhà Già tới bây giờ”.
Tôi không khỏi nhíu mày:
-“Bác chỉ có mình thầy Phùng là con, hả bác?”
-“Thằng Phùng còn một đứa em trai. Tội nghiệp, nó thích học nghề y lắm, cô. Năm 75, nó mới mười chín tuổi. Thi rớt vô trường Y, nó theo anh em bạn đi Thanh Niên Xung Phong, mong sau ba năm trở về thì được ưu tiên nhận vào trường. Nhưng chỉ hơn một năm, nó đạp trúng mìn mà chết”.
Có tiếng reng của điện thoại cầm tay, bà Bảy mở túi xách lấy điện thoại ra nghe. Đầu dây bên kia là tiếng người đàn ông trong Hội Cao Niên tới đón bà Bảy. Họ đang đậu xe ngoài đường đợi bà. Tôi đưa bà đi bộ xuống con dốc ra lộ. Bà Bảy vẫn không ngừng nói, tựa như cái tâm sự này đã chất chứa bao năm không được tỏ cùng ai:
-“Thằng Phùng cũng rất thích học trường Y như ông nhà tôi mong mỏi. Nhưng vì cha mất sớm, nó phải kiếm nghề đi làm lo cho gia đình. Thời gian nó đi dạy học, đã chép bài thơ này gởi về cho tôi. Khi chuẩn bị đi vượt biên, tôi soạn bài thơ này cho con trai nó coi. Cháu nói với tôi: “Bà nội, qua Mỹ cháu sẽ học trường Y, rồi mặc áo choàng trắng chụp hình với bà nội, thích không?”. Tội cho cháu lắm, cô ơi!”
Một tiếng kèn xe vang lên, người lái quay kiếng xuống và hối:
-“Bác lẹ lên, cháu đang đậu ở chỗ cấm”.
Tôi mở cửa xe và giúp bà Bảy leo lên. Bà nói:
-“Cám ơn cô, tôi về nghe cô”.
Tôi chào bà Bảy và đóng cửa xe lại. Chiếc xe chuyển bánh. Tôi chợt nhớ ra mình chưa xin số điện thoại của bà Bảy. Tôi chạy theo chiếc xe:
-“Khoan đã, bác Bảy, bác Bảy…”
Đôi giày cao gót mới không cho tôi chạy nhanh. Chiếc xe cứ tiếp tục chạy mất hút qua ngã quẹo. Tôi đứng nhìn theo rồi thẫn thờ quay trở lại chỗ cũ. Gió thổi mấy cây tràm hai bên đường lá khua xào xạc, hương thơm thoang thoảng. Tôi bỏ đôi giày ra xách trong tay, đi chân không, chầm chậm leo lên con dốc, tâm tư đắm chìm trong hương lá , tưởng như mình đang đứng tựa cổng rào phủ đầy xác lá tràm nâu trước nhà thầy giáo của tôi. Dĩ vãng thời thơ ấu với bao kỷ niệm vui buồn cùng thầy tôi lại tràn về.
X
Hết hè này tôi sẽ lên lớp ba, còn chị tôi thì lên lớp nhất. Chưa bao giờ tôi thấy chị tôi hớn hở như vậy:
-“Ê! Bé Nhỏ! Năm tới cô Hai xin đổi về Sài Gòn, thầy Tĩnh cũng đi lí.í.ính, tình tính tang là tang tính tì.ì.ình”.
Cô Hai là em họ của Ba tôi, dạy lớp nhất nữ, còn thầy Tĩnh dạy lớp nhất nam. Hai người này là giáo viên kỳ cựu và nổi tiếng là “sát thủ”, phạt học trò thẳng tay. Cả cái chợ quận này, không phải chỉ có mình chị tôi hớn hở, mà có lẽ tất cả học trò sắp lên lớp nhất đều thấy nhẹ nhõm khi biết tin qua năm học mới sẽ không phải gặp hai thầy cô này. Cái lo âu là không biết ai sẽ tới thay đây, hiền dữ ra làm sao. Người lớn thì cứ nói:
-“Lớp nhất khó lắm, thầy cô phải nghiêm như vậy học trò mới nên được”.
Đợi chờ thấp tha thấp thỏm rồi cũng phải tới ngày. Một tuần trước khi tựu trường, khắp chợ quận nhốn nháo lên vì cái tin 7 ông giáo trẻ được bổ về một lúc, thiệt là một lực lượng giáo viên hùng hậu chưa từng có. Một điều tức cười là tụi tôi đi học mà bắt tin còn chậm hơn bà bếp ở nhà. Chỉ một buổi chợ, bà bếp nhà tôi đã đem về tin tức đầy đủ:
Thầy Thành 25 tuổi, già nhất bọn nhưng chưa có vợ.
Thầy Trà 23 tuổi, có vợ và một con.
Thầy Phùng 21 tuổi, cũng đã lập gia đình.
Thầy Hành và Thầy Phúc 21 tuổi, vẫn còn độc thân.
Thầy Nghĩa 20 tuổi và trẻ nhất là Thầy Ba 19 tuổi, cả hai cũng chưa có ai nâng khăn sửa túi.
Hầu hết các thầy đều có quê quán ở các quận lân cận như Cái Vồn, Phụng Hiệp. Chỉ có thầy Thành và thầy Ba là dân Sài Gòn. Thầy Ba lại nói giọng Bắc, nghe lạ lắm.
Năm đó, thầy Thành thế cô Hai dạy lớp nhất nữ của chị tôi. Thầy Nghĩa thế thầy Tĩnh dạy lớp nhất nam. Thầy Ba cũng dạy một lớp nhất nam. Thầy Trà dạy lớp ba nữ, nhưng không phải lớp tôi. Thầy Phùng, thầy Hành, thầy Phúc phải qua dạy trường xã Thục Nhàn ở cù lao Mây, bờ bên kia của con sông Bassac, cửa Ba Thắt của dòng Cửu Long.
Hồi nào tới giờ, các thầy cô trường tiểu học quận tôi đều có tuổi. Bỗng dưng bây giờ có mấy ông thầy trẻ khô này tới đây, như mang theo luồng gió mới, khiến mọi sinh hoạt trở nên sống động hơn.
Các thầy ở trọ nơi một căn nhà đối diện trường học. Căn nhà lớn, mái ngói rêu phong, cây cối trước sân um tùm, thường khi quạnh quẽ, nay trở nên nhộn nhịp. Lúc sáng lúc chiều học trò tới lui ôm tập, ôm sổ cho các thày. Đôi vợ chồng chủ nhà đã đứng tuổi, không con cháu, có thêm việc nấu cơm tháng, cũng bớt thấy cô đơn. Chiều chiều, các thầy lại kéo nhau qua sân trường đánh vũ cầu, khiến cho ngôi trường ngoài giờ học đỡ vắng vẻ.
Học trò rất thích các thầy giáo mới, nhất là vào cuối giờ, các thầy hay cho hát, những bài tân nhạc nghe trên radio. Ngay cả thầy cô cũ cũng thích chuyện trò với các thầy trong giờ chơi.
Mỗi sáng, khi tôi còn chưa ra khỏi nhà đến trường, đã thấy thầy Phùng và hai thầy kia cắp nách mấy quyển sách, đi ngang qua nhà tôi để ra bến đò sang sông. Mỗi trưa, khi tôi tan học về tới nhà, lại thấy mấy thầy từ bến đò trở lại. Má tôi thường nhìn theo mấy thầy rồi chép miệng:
-“Tội nghiệp! Băng sông Cái mỗi ngày hai bận, chịu sao thấu. Con sông Cái minh mông, bữa nào mưa, sóng to gió lớn, ghe xuồng chìm bất tử lắm”.
Hôm nào không thấy các thầy đi ngang là biết các thầy đã được học trò trong xã mật báo: “phía bên kia” đang kéo về xã, các thầy không dám qua sông.
Mỗi chiều, bài vở cơm nước xong, tôi thường cùng vài đứa bạn đến trường coi các thầy đánh vũ cầu. Các thầy đánh tới trời sập tối mới nghỉ. Chúng tôi bu quanh các thầy ngồi ở băng gỗ dưới giàn bông giấy đỏ trước nhà trò chuyện rất vui. Riêng thầy Phùng và thầy Trà hiếm khi ra sân. Ngoài giờ dạy, hai thầy mãi mê học hành, nghe nói là thầy đang học để lấy cử nhân gì đó.
Hết niên học, thầy Ba xin đổi về Sài Gòn, thầy Thành lại tòng quân, chị tôi cũng đi Sài Gòn học trung học.
Năm tôi học lớp nhì, có lần cô giáo tôi bệnh thình lình, trường nhờ thầy Phùng giữ trật tự cho lớp tôi. Thầy cầm theo quyển sách, ngồi trên bàn cô giáo, chăm chỉ đọc, không nói gì, vẻ thiệt lạnh lùng xa cách.
Khi tôi lên lớp nhất thì thầy Trà cũng thi hành quân dịch. Nhóm các thầy chỉ còn bốn người và không ở ngang trường nữa mà mướn một căn nhà trống đối diện Chi Cảnh Sát.
Trường Tiểu Học Quận lại thiếu giáo viên nên kéo thầy Phùng về dạy lớp nhất của tôi. Được học với thầy, tôi mới biết thầy rất hiền lành và ân cần chớ không lạnh lùng xa cách như tôi đã tưởng.
Ngôi nhà mấy thầy đang ở lại gần nhà đứa bạn thân của tôi. Mỗi chiều, khi tôi tới nhà con bạn để học bài chung thì thỉnh thoảng chúng tôi qua nhà thầy. Em gái tôi học buổi chiều, người lớn lo buôn bán, tôi ở nhà thui thủi một mình, nên việc tới nhà con bạn học bài và ghé qua nhà thầy đã trở thành thói quen. Dần dần, chúng tôi ghé thường hơn và ở lại lâu hơn. Thầy cho hai đứa tôi phụ kiểm bài tập toán của lớp. Thày thường rầy tôi:
-“Hương, em giải toán đố trúng hết nhưng lần nào cũng sai toán cộng toán trừ, cho nên em khó mà được điểm tối đa”.
Tôi chỉ biết gãi đầu gãi tai, hấp tấp là cái tật bất trị của tôi. Thày dặn thêm:
-“Mỗi khi làm bài xong, em phải dò đi dò lại rồi mới nộp”.
Tôi dạ dạ nhưng không chắc sẽ thực hiện, vì mỗi khi làm bài xong tôi chỉ muốn nộp quách đi cho rồi, đặng ra chơi sớm. Ở đó mà dò!
Có khi chúng tôi ghé thì thầy bận học, hai đứa tôi lẳng lặng dọn dẹp nhà cửa cho các thầy. Căn nhà nhỏ với cái sân vuông vắn phía trước coi rất dễ thương. Cây tràm cạnh cổng rào chưa lớn lắm nhưng mùa thu lá rụng đầy sân. Thấy tụi tôi lụi đụi quét lá, thầy ngăn lại:
-“Hai em đừng quét nữa, để như vậy cho thơm”.
Chỉ vì thầy thấy tụi tôi không quen làm thôi, chớ lá tràm khô mà thơm nỗi gì!
Mỗi cuối tháng, chúng tôi giúp thầy cộng sổ điểm và sắp hạng. Thầy khuyến khích tôi:
-“Em học khá lắm, nếu chăm chỉ hơn nữa thì em có thể vượt hẳn các bạn”.
Quả thật, ở tuổi đó, tôi không biết làm việc gì chăm chỉ hết. Học hành cũng vậy, tôi thích cái gì thì học cái đó. Tôi thích nhất là những bài ám đọc văn vần. Còn mấy môn khác thì còn phải tùy hứng.
Có hôm, sắp lại kệ sách cho thầy, tôi bắt gặp quyển thơ Lục Vân Tiên. Thấy tôi mãi mê với quyển thơ truyện, thầy hỏi:
-“Hương, lớn lên em muốn làm nghề gì?”
Tôi trả lời không cần suy nghĩ:
-“Em thích đi khắp nơi và kể lại cho mọi người nghe những cảnh đẹp mà em thấy”.
Thầy Phùng cười ra tiếng:
-“Nghề gì vậy?” Rồi thầy nghĩ ngợi một lát. “Em có thể làm hướng dẫn viên du lịch”. Thầy lại gật gù. “Ừ! Làm nghề gì cũng được. Cho dù không đúng với mơ ước của mình, em cũng phải làm cho đàng hoàng, vì nghề nào cũng có ích cho xã hội”.
Tôi chỉ tròn xoe mắt nhìn thầy. Tôi chưa hiểu hết lời thầy nói, nhưng tôi biết rằng lời nào của thầy cũng đúng và tôi nên nghe theo.
Duy có một điều, tôi thật không cam tâm. Trong lớp tôi có một học trò mới từ Sài Gòn chuyển về theo nhiệm sở của cha bạn. Bạn này thấp nhỏ và yếu đuối, vậy mà trò chơi nào cũng muốn vô. Khi đánh tù tì bắt bồ, không phe nào xí bạn đó hết. Thầy Phùng thấy vậy kêu tôi lại:
-“Em cho bạn đó vô phe em đi”.
Tôi làm theo nhưng bực bội trong bụng lắm, vì bạn đó chơi dở quá, báo hại tôi phải cứu bồ muốn hụt hơi. Tới chiều, tôi ghé nhà thầy thì thầy nói với tôi:
-“Em được sanh ra khỏe mạnh thì nên che chở cho các bạn yếu đuối. Hồi nhỏ, thầy ở nhờ nhà người chú để đi học, thân cô, thế cô, lại yếu đuối, bị mấy đứa khác ăn hiếp, lấy mủ mít trét lên đầu, phải lấy dầu dừa chùi từng sợi tóc. Dù vậy, cũng phải ráng nhịn để được học hành”.
Lời này khiến tôi không cãi được, nhưng cưu mang bạn đó thiệt là nỗi khổ của tôi.
Vậy mà những ngày tháng êm đềm của thầy trò tôi lại không kéo dài được bao lâu. Thi đệ nhất lục cá nguyệt xong thì thầy Phùng nhận được giấy gọi nhập ngũ. Trước khi nghỉ dạy, thầy cho lớp tôi học bài văn vần cuối cùng. Thầy cắt nghĩa từng chữ, từng câu.
Cô giáo lớp nhì đã giúp chúng tôi tổ chức buổi tiệc nhỏ tiễn đưa Thày. Tiệc tàn, tôi tới từ giã thầy mà nước mắt như mưa. Thầy đặt tay lên đôi vai nhỏ của tôi đang run lên theo từng tiếng nấc, tôi ngước nhìn lên và thấy mắt thầy đỏ hoe. Đó là hình ảnh cuối cùng của thầy Phùng trong trí tôi. Bài văn vần cuối cùng tôi còn chưa kịp trả thuộc lòng cho thầy nghe, để thầy cho tôi 8 điểm, thì thầy trò tôi đã vĩnh viễn rời xa.
X
Cả chiều hôm nay, từ lúc rời trường UCLA về nhà tới giờ, tâm trí tôi lan man, hết nghĩ chuyện này lại nghĩ đến chuyện kia. Cơm nước xong, tôi đứng tần ngần bên cửa sổ. Tết Trung Thu mới qua, trăng 17 vẫn còn tròn trịa lắm. Ánh trăng vừa lên, xuyên qua mành gỗ, in lên cây dương cầm những lằn sáng tối. Nắp cây đàn vẫn đóng kín trong những ngày con gái tôi xa nhà. Tôi móc trong túi áo tờ giấy tập kẻ ô vuông đã ố vàng. Dưới ánh trăng, lờ mờ nét chữ của thầy tôi. Ê a giọng trả bài, tôi đọc nho nhỏ:
“Tôi yêu lắm những thiên thần áo trắng
“Hiến dâng đời cho đau đớn xót xa
“Thân đơn sơ không trau chuốt ngọc ngà
“Mà vẫn đẹp khi mang tình nhân loại
“Tôi khao khát khoác lên mình áo trắng
“Góp sức gieo hương dịu đến mọi đàng
“Cho muôn nơi thôi vọng tiếng thở than
“Cho vạn nẻo hết vang lời rên siết
“Nào ngờ vui đời bảng đen phấn trắng
“Sách vở giờ bập bẹ đám trò thơ
“Cho tâm khai ra khỏi tuổi dại khờ
“Cho thế hệ tương lai thêm ngời sáng
“Rồi mai đây vai lại mang áo chiến
‘Tuổi thanh xuân dâng hiến nước non nhà
"Cho an bình ngự trị khắp gần xa
"Cho bao lứa được xây thành mơ ước
Tôi quay vào mở computer lên internet, đọc mail của con gái tôi:
“Má ăn cơm chưa? Năm nay chương trình học nặng gấp đôi mấy năm trước, oải lắm đó!”
Tôi chậm rãi đánh vào bàn phím:
“Đã chọn thì dù khó cũng phải cố gắng học cho đàng hoàng nghe con. Không phải ai cũng may mắn đạt được mơ ước của mình”.
Rồi chỉnh con chuột vào chữ “send” và bấm xuống. Mail đã gởi đi. Ở tuổi con gái tôi, chắc chắn nó hiểu được tôi muốn nói gì chớ không phải tròn xoe đôi mắt như tôi nhìn thầy tôi ngày nào.
Tôi cúi mặt bùi ngùi, thương cảm cho bao lớp trai trong thời loạn, dâng hiến tuổi thanh xuân để người người được bình an dệt thành mộng ước.
Trăng đã lên cao. Tôi tới bên cửa sổ đưa tay đóng các mành gỗ lại. Ngoài kia, ánh nguyệt sau rằm đang tỏa lên mọi nẻo, soi sáng đường con gái tôi đi, con đường của những người xây mộng khoác áo trắng.
Mộc Hương
Viết cho Ngày Lễ Tạ Ơn.
Viết xong ngày 14 tháng 11 năm 2008.
Kính tặng Giáo Sư Việt Văn Thái Chân, và các bậc Thầy Cô, những người đã dành cả cuộc đời cho thế hệ tương lai, với lòng kính mến.
Mến tặng các Bạn Trung Học trong thời đôn quân, và những Người Trai đã dâng tuổi thanh xuân cho an bình của đất nước, với muôn vàn cảm kích.
Thương tặng các anh chị em trong nhà, với những tháng ngày dấu yêu.
Thương tặng con gái cưng và những Người Khoác Áo Trắng, với những sẻ chia.
Yêu tặng Người Tình Khoa Học cũng là ông xã yêu quí và tặng tất cả Cựu Sinh Viên Khoa Học của một thời để yêu.