Nguyễn Mạnh Trinh
Tháng Mười Hai, ký ức Giáng Sinh
Mấy ngày hôm nay trời đã vào mùa Ðông. Buổi sáng, sương mù giăng trước mặt và xa lộ chảy dài như một dòng sữa loãng. Buổi chiều trở về, dãy núi xám nâu đã trở thành mầu đen của bóng tối. Vặn radio nghe nhạc, những bản nhạc giáng sinh, biết một năm đã qua, và mình già thêm một tuổi. Ở xứ người, sao cứ tưởng như mình đang ở Sài gòn thuở nào. Có mưa, có nắng, có tình buồn, tình vui. Có đời lúc trầm, lúc động. Tạm ngụ ở đây hơn hai chục năm, vẫn không bỏ quên được con người xưa cũ. Gánh vai nặng quá những quá khứ. Mà, ở lúc cuối năm, là những dong tay kéo về thuở nào, từ thời tiết đến con người.
Mỗi lúc, cứ tới tháng 12, khi ngày ngắn đêm dài, không hiểu tại sao tự nhiên trong lòng tôi lại nhen lên một cảm giác bâng khuâng. Ở vào thời điểm ấy, khi ngồi vào bàn viết lên những tấm thiệp giáng sinh, tôi vẫn nghĩ là mình đang sống lại một thuở nào đã xa nhưng lại thân gần trong ký ức. Ðời sống thật nhanh, một tuần, thứ Hai tới thứ Sáu, vùn vụt. Hai ngày cuối tuần, không đủ để nhìn lại, không đủ một giây để “ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng”...
Tháng 12, khi tóc đã điểm bạc, khi những con đường lóng lánh ánh đèn điểm tô cho hang đá Noel, khi những bản nhạc thánh ca mừng chúa Hài Ðồng xuống thế, nhắc nhở nao nao một nỗi niềm.Tôi tưởng như mình vẫn còn trẻ, trẻ lắm, của những tháng ngày xưa cũ.
Hôm nay, ngồi trang trí mấy mẫu thiệp giáng sinh trên máy điện toán, tình cờ tôi thấy hình bìa của tập thơ “Chuông mơ” trước mặt. Thơ của thi sĩ này thường có hình ảnh của Chúa và họa sĩ trình bày bìa sách, chị Nguyễn Thị Hợp, đã dùng hình ảnh tà áo dài và ngôi giáo đường để chuyên chở ý tình ấy. Áo trắng, mái tóc xõa dài, tháp chuông cao vút, với hoa lá viền quanh, tất cả gợi một không khí thật thơ mộng và bàng bạc chất thi ca. Nhìn sách tự nhiên nhớ đến người, nhớ đến những câu thơ làm thơm hương cuộc sống...
Và, năm nay, tôi lấy tranh bìa của tập thơ, sửa đổi đôi chút để làm thiệp giáng sinh cho cá nhân riêng mình gửi đi cho bằng hữu bạn bè và các người cộng sự trong sở. Tôi chọn kiểu chữ, chọn mầu sắc để có một tấm thiệp giáng sinh như ý muốn. Nhất là, như một cách để nhớ lại người đã ra đi từ thập niên trước. Người có bài thơ được phổ nhạc mà mỗi khi tôi vào quán khi còn ở Pleiku thì Tiểu Lan lại cho máy quay đúng bắt đầu bản nhạc này với một nụ cười. Thà như giọt mưa. Vỡ trên tượng đá. Nguyễn Tất Nhiên.
Thơ của Nguyễn Tất Nhiên hay có hình ảnh Chúa và ngôi giáo đường. Nhưng không phải là hình ảnh của cứu rỗi trong thơ Hàn Mặc Tử:
“Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến
Lạy bà là Ðấng tinh tuyền thanh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hội từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế...” ;
Và, cũng chẳng phải là chân dung Ðức Mẹ Ðồng Trinh trong bài thơ “Madonna” của Puskin mà bản dịch của Văn Khôi diễn tả:
“Tôi không treo trong trai phòng đạm bạc
Những bức tranh của danh họa cổ xưa
Ðể khách thăm phải tôn kính sững sờ
Ðứng lặng nghe lời phẩm bình uyên bác
Trong góc đơn sơ bộn bề sách vở
Tôi hằng mong chiêm ngưỡng một bức tranh
Dõi nhìn tôi trìu mến tự mây xanh
Mẹ Ðồng Trinh bồng Hài Ðồng cứu thế
Nàng trang nghiêm ánh mắt Người thông tuệ
Trong hào quang thanh thoát vẻ nhân từ
Dưới gốc cọ Sion lặng lẽ suy tư
Chỉ hai người không thiên thần hộ vệ
Ðiều ước nguyện giờ đây thành sự thật
Tạo hóa ban em giáng tự trên trời
Tuyệt tác hình ngươi đẹp xinh thanh khiết
Em! Ðức Mẹ Ðồng Trinh của lòng tôi...”
Yêu người yêu để thấy rằng người tình của mình giống hình Ðức Mẹ trong bức tranh cổ của Raphael “Madonna” thì hạng nhất phải là Puskin. Tình yêu ấy, thanh khiết và đẹp đẽ dường nào...
Còn với Nguyễn Tất Nhiên, thơ có hình ảnh khác hơn. Chúa, có vóc dáng khác, chẳng những có tính cách cứu rỗi, che chở mà có khi còn là hình tương đau đớn của tình yêu chịu nạn cho đời.
Nhiên in tập thơ “Chuông Mơ” vào đúng dịp Giáng Sinh năm 1988. Nhanh thật, lật bật mà đã gần 20 năm. Những bài thơ của tình buồn, của những ngôn ngữ chân phương và gần cận cuộc sống. Tôi nhớ, Nguyễn Tất Nhiên là người có nhiều mộng ước và những đấng thần linh tôn giáo như Chúa hay Phật thường bị anh bắt đóng vai làm người chứng cho những chia ly, khổ đau. Với anh, Chúa hay Phật ở gần thêm một đoạn đường những chia sẻ. Các ngài không đứng cao trên bệ nữa, mà, đứng gần cạnh nhân sinh. Và, nếu có thể, chúng ta cũng thể đối thoại với lời nói bình thường.
Người thơ viết:
“Chúa cũng lắc đầu vô phương cứu rỗi
(Cứu rỗi làm gì một thứ nghênh ngang
Cứ nổi cơn đòi Thượng Ðế ngang hàng
Ðấng ngàn tuổi tim già khô độ lượng)
Ta phải chết cho Nước Trời thịnh vượng
Cho thánh thần chúc phúc bình an
Cho em còn mãi mãi dịu hiền ngoan
Mà hãnh diện có thằng đen đúa.
Luôn nhăn nhó mặt mày chê Chúa khó
Nhưng cắn răng không mở miệng trách em!” Thơ của anh có cái nỗi niềm của một người quá nhiều hối tiếc. Thi sĩ có lúc cảm thấy tuyệt vọng, cũng như, có những ý nghĩ thật kỳ lạ của một người như muốn từ chối bước đi vào cõi nhân sinh náo nhiệt ngoài kia. Thơ, là ngôn ngữ để đối thoại được với những u uẩn đã ngầm chứa trong cuộc sống. Giữa tự tôn và tự ti, giữa đời hoa mộng thơ văn và sống thô nhám đời thương, thi sĩ đu dây giữa hạnh phúc và bất hạnh. Thơ, là đoạn đường tàu để hai bên hai gót chân chàng bám víu. Và, cho đến lúc, hai đường tưởng là song song gặp gỡ nhau, là một cuộc ra đi...
Người làm thơ đầy tưởng tượng. Chàng nghĩ ra trò vui. “Kẻ tự đóng tim mình”. Chúa, bỗng dưng xuống thế, làm người nhân chứng:
“Vì chẳng được cầm tay nhau kể lể
Nên chuyện tình cứ thế, thảm hơn
Chúa cũng cau mày ngắm nỗi cô đơn
Của một kẻ đóng tim mình trên thập giá...” Ghê gớm chưa? Ai đã đóng vai khổ hình trên thập giá như thế. Nhưng, chỉ là một cách nói của một người làm thơ thất tình:
“...Chiều em đi học về, thơm tóc thả
Áo suông eo trinh bạch cả giáo đường
Ta ngọt ngào gọi khẽ người đi luôn
Nên lũ thiên thần bỗng nhiên thất chí
Bay xuống trần gian làm thi sĩ
Nâng Thánh Kinh mà hát thơ tình
Có con chiên nào thoáng ngạc nhiên
Rồi lại đắm chìm trong vần nhã nhạc...” Thi sĩ có phải là lũ “thiên thần bỗng nhiên thất chí” bay xuống trần gian không? Hay còn hơn thế nữa, có lúc thi sĩ nghĩ mình là một tượng chúa, trân mình oằn vai nặng gánh khổ đau. Và, em, có lúc thành tín đồ để ta đóng vai thập giá chịu tội thay em.
“...chiều em đi học về, chim trắng bước
ngang giáo đường nhòe nhạt màu vôi phai
có động lòng xin hãy rút khăn tay
lau giùm mắt kẻ xương bày trên thánh giá
là ta đó, em ơi, đang tầm tã
mưa đầy hồn đau đớn thương thân
lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân
phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ
tính nhân hậu đã hồi nào hóa dữ
chỉ vì em đành đoạn quên chàng
chỉ vì em... gõ nhẹ cửa thiên đàng
bình thản gửi cho hai hàng bím tóc...” Thơ có nỗi buồn thê thảm nhưng cũng có nét hồn nhiên của một chàng tuổi trẻ muôn năm không bao giờ biết tuổi già.Chàng đổ thừa cho tình yêu của mình, vì nó mà chàng giao du cùng quỷ sứ và mất đi tính nhân hậu sẵn có của trời. Tội lỗi duy nhất của chàng chỉ là bởi... biết yêu mà thôi. Tội trời dành...
Thi sĩ có lúc thành... linh mục. Là người hay tưởng tượng, chàng thấy mình tự nhiên như một người:
“dĩ vãng là địa ngục
giam hãm đời muôn năm
tôi - người yêu dĩ vãng
nên sống gần Satan
ngày xưa nghe lời quỷ
giáng thế thêm một lần
trong kiếp người linh mục
xao gầy cơn điên trăng...” Có đoạn thơ bỗng thành khúc nhạc. Tôi chợt nghĩ đến câu nói của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng khi sinh tiền: “Thơ của Nhiên chữ nghĩa mềm mại và nhiều nhạc tính nên phổ nhạc không làm mất đi ý nghĩa của thi ca”. Quả thật nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang đã bắt gặp trong thơ Nguyễn Tất Nhiên những yếu tố để thành một ca khúc bất tử. “Vì tôi là linh mục” có những câu thơ làm xao động hồn người:
“...Vì tôi là linh mục
không mặc chiếc áo dòng
nên suốt đời hiu quạnh
nên suốt đời lang thang
vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian...” hay
“tín đồ là người tình
người tình là ác quỷ
ác quỷ đầy quyền năng
quyền năng là tín đồ” Nếu có một thứ tôn giáo thì tôn giáo của Nguyễn Tất Nhiên chỉ dành riêng cho những kẻ si mê tình yêu mà thôi. Không có bổn đạo mà cũng chẳng có giáo đường, kinh thánh của chàng chỉ là những lời tình của nhân gian, của những câu thơ buồn bã:
“vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
(một tín đồ duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông!)
vì tôi là linh mục
phổ lời tình nhân gian
thành câu thơ buồn bã
nên hạnh phúc đâu còn
nên người tình duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông
vì tôi là linh mục
không biết mặt thánh thần
nên tín đồ duy nhất
cũng là đấng quyền năng!” Nghe bản nhạc này, trong một lúc chiều tà vừa tối, hé một chút cửa kính, để thấy cái lạnh len vào trong từng thớ thịt, để nghe tâm thức mình vời vợi trên cao. Quả là đã thiệt! Những giây phút hiếm hoi ấy có phải đáng trân quý không trong cái dòng sống biền biệt kéo dài không ngơi như xa lộ về tối ánh đèn dằng dặc. Tôi nhớ những cái Noel khi còn trẻ. Ở những xóm đạo, không khí giáng sinh thật rộn ràng. Nhà thờ với hàng cờ nhiều màu đã làm rộn ràng hơn những tiếng thánh ca réo rắt của ca đoàn sửa soạn cho những ngày lễ trọng. Những tà áo trắng. Những nóc thánh đường. Làm sao quên vóc dáng người con gái mà tôi đạp xe đi theo cả năm trời rụt rè với lời tình không thể ngỏ. Ngày giáng sinh năm ấy, cũng chỉ là đôi mắt ngó theo em, rưng rưng không nói...
Kết một chuyện tình buồn. Như bài thơ “Chuông Mơ” với những câu:
“...chiều nay anh ở đất bon chen
cái mộng tan theo cái thấp hèn
cái thực lem theo ngày sống vội
không cách chi dài phút nhớ em
chiều nay em bước ngang giáo đường
mắt Chúa chắc buồn thăm thẳm hơn
chắc cây thánh giá thành di tích
chuyện một người chuộc tội hoài công...
chiều nay em bước trên quê hương
chắc tóc không còn óng ả chuông
chắc chuông không mượt nâng bờ tóc
chắc tóc và chuông đã... đoạn trường
chiều nay em bước trên quê hương
chắc Chúa chẳng nhìn như mọi hôm
bởi vì mắt Chúa và em đã
lóng lánh vùi chôn ngấn lệ lòng...” Qua những cuộc biển dâu, Chúa vẫn ở cạnh nhân gian dù bất cứ vóc dáng nào. Với người thơ, hình ảnh Ðức Mẹ và Chúa hài đồng trong đêm Noel lạnh lẽo muôn đời vẫn là hình ảnh thiêng liêng và thơ mộng, nhất là của đôi lứa yêu nhau. Tình cảm ấy, có những bậc thiêng liêng làm nhân chứng trong cái không khí lễ hội xôn xao có lẽ là những kỷ niệm khó quên của cuộc đời nhiều người...
Riêng với Nguyễn Tất Nhiên, anh đã mang vào thơ mình hình ảnh thiêng liêng ấy một cách lãng mạn và tưởng vọng nhiều hơn. Và tôi cũng biết thêm một điều, lúc cuối đời anh đã viết Minh Khúc với nỗi đau có thực và phảng phất bóng dáng của tình yêu một người mang thập giá trên vai.