Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Truyện ngắn  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 5 6 7 8 9 ... 11
Send Topic In ra
Truyện ngắn (Read 28271 times)
Thuc-Khanh
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 839
Re: Truyện ngắn
Reply #90 - 12. Feb 2008 , 06:09
 
Quote:
Bích Định ơi,

Ở đây nè , mà chỉ có truyện chứ chưa thấy có thấy câu đố  Huh

Mấy chị ơi à ,

anh Đ Q đố ở bên mục Thơ ->1 ngày tình cũng trăm năm đó. Ko phải ở đây đâu.
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #91 - 14. Mar 2008 , 20:23
 
Chuyện đời thường-
Phần 1

Khuyết danh

Cưới nhau được hai năm, chồng tôi bàn với tôi về quê đón mẹ anh lên ở với chúng tôi để bà được sống an nhàn những ngày cuối đời. Bố anh ấy mất sớm từ khi anh còn nhỏ, nên bà mẹ gửi gắm tất cả mọi hy vọng vào anh, một mình bà chắt chiu thắt lưng buộc bụng nuôi anh khôn lớn cho tới ngày học xong đại học.

Tôi đồng ý ngay và lập tức dọn dẹp dành riêng cho bà căn phòng có ban công hướng Nam, vừa có thể sưởi nắng vừa có thể bày vài chậu cây cảnh. Bước vào căn phòng chan hòa ánh sáng vừa dọn xong, anh ấy chẳng nói chẳng rằng bất chợt bế xốc lấy tôi và quay một vòng quanh phòng. Khi tôi sợ quá cào cấu anh xin anh bỏ xuống thì anh bảo:

- Nào, chúng mình về quê đón mẹ nhé!

Chồng tôi cao lớn, còn tôi thì bé nhỏ và thích được nép đầu vào ngực anh. Những lúc ấy, tôi có cảm giác như anh có thể nhét gọn tôi vào túi áo. Những bận hai người tranh cãi nhau mà tôi không chịu thua, anh bèn nhấc bổng tôi lên ngang đầu và quay tít cho đến khi tôi sợ hết hồn xin anh buông tha mới thôi. Tôi thích cái cảm giác vừa sợ vừa sung sướng ấy.

Mẹ anh sống ở thôn quê lâu năm nên rất khó có thể sửa ngay được những tập quán của người nhà quê. Chẳng hạn, thấy tôi hay mua hoa tươi bày ở phòng khách, bà có vẻ khó chịu. Cực chẳng đã, một hôm bà bảo:

- Các con thật chẳng biết chi tiêu gì cả. Hoa có ăn được đâu mà mua làm gì kia chứ?

Tôi cười:

- Mẹ ơi, trong nhà có hoa tươi nở rộ thì ai nấy đều vui vẻ cả.

Bà cúi đầu lầu bầu gì gì đấy. Chồng tôi bảo:

- Ðây là tập quán của người thành phố, mẹ ạ. Lâu ngày mẹ sẽ quen thôi.

Bà không nói gì nữa, nhưng sau đấy mỗi bận thấy tôi mua hoa về, bao giờ bà cũng không thể im lặng mà cứ hỏi mua hết bao nhiêu tiền. Khi tôi nói giá cả thì bà chép miệng tiếc rẻ. Có lần thấy tôi xách về túi to túi nhỏ các thứ mua sắm được, bà gặng hỏi giá tiền từng thứ một. Tôi kể lại giá mỗi thứ. Nghe xong bà chép miệng thở dài thườn thượt. Chồng tôi véo mũi tôi và thì thầm:

- Ngốc ơi, nếu em đừng nói giá thật với mẹ thì sẽ chẳng sao cả, phải không nào?

Cuộc sống đang vui tươi thế là dần dần có những hòa âm trái tai.

Ðiều làm bà khó chịu nhất là thấy con trai mình ngày ngày dậy sớm chuẩn bị bữa sáng. Ðàn ông mà chui vào bếp nấu ăn cho vợ thì coi sao được, bà nghĩ vậy. Vì thế mà bữa sáng nào bà cũng nặng mặt không vui. Tôi giả tảng không thấy gì thì bà khua đũa đụng bát tỏ ý không bằng lòng. Làm giáo viên dạy múa ở Cung Thiếu niên, ngày nào tôi cũng phải nhảy nhót mệt bã người nên khi ngủ dậy thường nằm rốn tận hưởng chăn đệm ấm áp, coi đó là một thú hưởng thụ. Vì thế tôi đành giả câm giả điếc trước sự chống đối của bà mẹ chồng. Ðôi khi bà cũng làm giúp tôi một ít việc nhà, nhưng thật ra chỉ làm tôi thêm bận bịu mà thôi. Chẳng hạn, những túi ni lông đựng đồ, mọi khi tôi đều quẳng vào thùng rác thì bà tích cóp lại, bảo là để hôm nào bán cho đồng nát. Thế là khắp nhà đầy những túi ni lông. Mỗi lần rửa bát hộ tôi, bà đều hà tiện không dùng nước rửa chén thế là tôi phải rửa lại, dĩ nhiên phải kín đáo để bà khỏi tự ái.

Một tối nọ, khi tôi đang rửa chén trộm như thế thì bà nhìn thấy. Thế là bà sập cửa đánh sầm một cái, nằm lì trong buồng khóc gào lên. Chồng tôi cuống quýt chẳng biết làm gì. Cả tối hôm ấy anh không nói với tôi câu nào. Tôi làm nũng với anh, anh cũng chẳng thèm để ý. Tôi điên tiết lên vặn lại:

- Thế thì rốt cuộc em sai chỗ nào ạ?

Anh trợn mắt:

- Tại sao em không thể phiên phiến một chút nhỉ, bát không sạch thì ăn cũng có chết đâu, hả?

Một thời gian dài sau đấy, bà chẳng nói chuyện với tôi. Không khí trong nhà bắt đầu dần dần căng thẳng. Chồng tôi rất mệt mỏi, chẳng biết nên làm ai vui lòng trước.

Không muốn để con trai làm bữa sáng, bà cả quyết nhận lấy "nhiệm vụ nặng nề" này. Rồi khi thấy anh ăn uống ngon lành, bà lại nhìn ngó tôi với ý trách móc tôi không làm tròn bổn phận người vợ, khiến tôi rất khó xử. Ðể thoát khỏi cảnh ấy, tôi đành không ăn bữa sáng ở nhà mà mua túi sữa trên đường đi làm, mang đến cơ quan ăn. Tối hôm ấy lúc đi ngủ, anh bực bội bảo:

- Có phải là em chê mẹ anh nấu ăn bẩn nên mới không ăn sáng ở nhà, đúng không?

Rồi anh lạnh nhạt nằm quay lưng lại, mặc cho tôi nước mắt đầm đìa vì ấm ức. Sau cùng anh thở dài:

- Cứ coi như là em vì anh mà ăn sáng ở nhà, được không nào?

Thế là sáng sáng tôi đành ngồi vào bàn ăn với tâm trạng ê chề.

Một hôm, khi đang ăn món cháo bà nấu, tôi chợt thấy buồn nôn, mọi thứ trong bụng muốn oẹ ra, gắng kìm lại mà không tài nào kìm được, tôi đành quăng bát đũa chạy ù vào phòng vệ sinh, nôn thốc nôn tháo. Sau một hồi hổn ha hổn hển thở, khi tôi bình tâm lại thì nghe thấy bà bù lu bù loa vừa khóc vừa đay nghiến oán trách tôi bằng những từ ngữ nhà quê, còn anh thì đứng ngay trước cửa phòng vệ sinh căm tức nhìn tôi. Tôi há hốc miệng chẳng nói được gì, thật ra nào mình có cố ý nôn đâu. Lần đầu tiên chúng tôi cãi nhau to. Mới đầu mẹ anh còn giương mắt đứng nhìn, sau đấy bà thất thểu bỏ ra ngoài. Anh tức tối nhìn tôi rồi đi ra theo bà.
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #92 - 14. Mar 2008 , 20:26
 
Chuyện đời thường

Khuyết danh

Phần 2

Ba ngày liền không thấy bà và anh về nhà, cả đến điện thoại cũng không thấy gọi. Tôi tức điên người mỗi khi nghĩ lại từ hôm bà lên đây ở mình đã phải chịu bao nhiêu nỗi oan ức, thế mà anh ấy còn muốn tôi thế nào nữa đây? Không hiểu sao dạo này tôi hay buồn nôn thế, ăn gì cũng không thấy ngon, lại thêm trong nhà bao nhiêu chuyện rắc rối, tâm trạng vô cùng tồi tệ. Cuối cùng, vẫn là các bạn ở cơ quan bảo:

- Sắc mặt cậu xấu lắm, nên đi khám bệnh thôi!

Kết quả kiểm tra ở bệnh viện cho thấy tôi đã có bầu. Bây giờ mới rõ tại sao sáng hôm ấy tôi bỗng dưng buồn nôn. Niềm hạnh phúc sắp có con pha trộn với một chút buồn giận oán trách: Tại sao chồng mình và cả bà mẹ chồng nữa lại không nghĩ tới chuyện ấy nhỉ?

Tôi gặp anh tại cổng bệnh viện. Xa nhau mới có ba ngày mà trông anh tiều tụy quá chừng. Tôi định quay đi, nhưng bộ dạng ấy khiến lòng tôi xót xa, không nén được, tôi gọi anh. Anh nhìn tôi như người xa lạ, ánh mắt không giấu nổi nỗi chán ghét như một mũi kim lạnh buốt đâm vào lòng tôi. Tôi tự nhủ "đừng nhìn anh ấy, đừng nhìn anh ấy", và chặn một chiếc taxi lại. Thật ra lúc ấy tôi chỉ muốn hét to: "Anh yêu của em, em sắp sinh cho anh một cục cưng đây!" rồi được anh bế xốc lên sung sướng quay một vòng. Ước muốn ấy đã không xảy ra. Khi ngồi trên taxi, nước mắt tôi ứa ra lã chã. Vì sao chỉ một lần cãi nhau đã làm cho tình yêu của chúng tôi trở nên tồi tệ tới mức này cơ chứ?

Về nhà, tôi nằm trên giường nghĩ tới chồng, tới nỗi chán ghét đầy trong mắt anh. Tôi nắm lấy góc chăn khóc nấc lên. Nửa đêm, có tiếng lạch cạch mở ngăn kéo. Khi bật đèn lên tôi trông thấy khuôn mặt đầy nước mắt của anh. Thì ra anh về nhà lấy tiền. Tôi lạnh nhạt nhìn anh không nói gì. Anh cũng làm như không thấy tôi, lấy xong các thứ liền vội vã bỏ đi. Có lẽ anh định thật sự chia tay với tôi đây. Thật là một người đàn ông có lý trí, biết tách bạch tình và tiền rạch ròi như thế đấy. Tôi cười nhạt, nước mắt lã chã tuôn rơi.

Hôm sau tôi không đi làm mà ở nhà, muốn xem xét lại mọi ý định của mình rồi tìm anh trao đổi cho xong mọi chuyện. Khi đến công ty của anh, cậu thư ký ngạc nhiên nhìn tôi:

- Ơ kìa, mẹ tổng giám đốc bị tai nạn, hiện đang nằm bệnh viện kia mà.

Tôi trố mắt cứng họng, lập tức đến ngay bệnh viện. Nhưng khi tìm được anh thì bà đã tắt thở rồi. Anh không hề nhìn tôi, mặt cứ lầm lầm. Tôi nhìn khuôn mặt vàng vọt không hồn của bà, nước mắt ứa ra: Trời ơi! Tại sao lại đến nông nỗi này cơ chứ?

Cho tới hôm an táng mẹ, anh vẫn không thèm nói với tôi một câu nào, thậm chí mỗi khi nhìn tôi, ánh mắt anh đều hiện lên nỗi chán ghét tột độ. Nghe người khác kể lại, tôi mới biết sơ qua về vụ tai nạn. Hôm ấy bà bỏ nhà rồi thẫn thờ đi về phía ga xe lửa, bà muốn về quê mà. Chồng tôi đuổi theo, thấy thế bà rảo bước đi nhanh hơn. Khi qua đường, một chiếc xe buýt đâm vào bà... Cuối cùng thì tôi đã hiểu tại sao anh ấy chán ghét mình. Nếu hôm ấy mình không nôn oẹ, nếu hôm ấy mình không to tiếng cãi nhau với anh ấy, nếu... Trong lòng anh, tôi là kẻ tội phạm gián tiếp giết chết bà.

Anh lẳng lặng dọn vào ở phòng mẹ, tối tối khi về nhà, người sặc mùi rượu. Lòng tự trọng bị tổn thương bởi nỗi xấu hổ và tự thương hại đè nặng khiến tôi thở không ra hơi nữa. Muốn giải thích mọi chuyện, muốn báo anh biết chúng tôi sắp có con rồi, nhưng cứ thấy ánh mắt ghẻ lạnh của anh là tôi lại thôi không nói gì. Thà anh đánh tôi mắng tôi một trận còn hơn. Tôi có cố ý để xảy ra mọi tai họa ấy đâu! Ngày tháng cứ ngột ngạt lặp đi lặp lại. Càng ngày anh ấy càng về nhà muộn hơn. Chúng tôi cứ thế căng với nhau, xa lạ hơn cả người qua đường. Tôi như cái thòng lọng thắt vào tim anh.

Một hôm, khi đi qua một hiệu ăn Âu, tôi nhìn qua cửa kính thấy chồng mình đang ngồi đối diện với một cô gái trẻ và nhè nhẹ vuốt tóc cô. Thế là tôi đã hiểu rõ tất cả. Sau giây lát ngớ người ra, tôi vào hiệu ăn, đến đứng trước mặt chồng mình, trân trân nhìn anh, mắt ráo hoảnh. Tôi không muốn nói gì hết, và cũng chẳng biết nói gì. Cô gái nhìn tôi, nhìn chồng tôi rồi đứng lên định bỏ đi. Anh ấn cô ngồi xuống rồi cũng trân trân nhìn lại tôi, không chịu thua. Tôi chỉ còn nghe thấy tim mình đập chầm chậm từng nhịp như đang sắp kề cái chết. Kẻ thua cuộc là tôi, nếu cứ đứng nữa thì tôi và đứa bé trong bụng sẽ ngã xuống. Ðêm ấy anh không về nhà. Bằng cách đó anh báo cho tôi biết: Cùng với sự qua đời của mẹ anh, tình yêu giữa hai chúng tôi cũng đã chết.

Những ngày sau, anh vẫn không về nhà. Có hôm đi làm về, tôi thấy tủ áo như bị sắp xếp lại, chắc anh ấy về lấy các thứ của anh. Tôi chẳng muốn gọi điện thoại cho anh, ý định giải thích mọi chuyện cho anh cũng biến mất hẳn.

Tôi sống một mình. Ði bệnh viện khám thai một mình. Trái tim tôi như vỡ vụn mỗi khi trông thấy cảnh các bà vợ được chồng dìu đến bệnh viện. Các bạn ở cơ quan bóng gió khuyên tôi bỏ cái thai đi cho yên chuyện nhưng tôi kiên quyết không chịu. Tôi như điên lên muốn được sinh đứa bé này, coi đó như sự bù đắp việc bà mẹ chồng qua đời.

Một hôm đi làm về nhà, tôi thấy anh ngồi trong phòng khách mù mịt khói thuốc lá, trên bàn đặt một tờ giấy. Không cần xem, tôi đã biết tờ giấy đó viết gì rồi. Trong hơn hai tháng chồng vắng nhà, tôi đã dần dà học được cách giữ bình tĩnh. Tôi nhìn anh, cất mũ rồi bảo:

- Ðợi một tí, tôi sẽ ký ngay đây.

Anh nhìn tôi, ánh mắt lộ vẻ bối rối chẳng khác gì tôi. Vừa cởi cúc áo khoác, tôi vừa tự nhủ: "Chớ có khóc đấy, chớ có khóc đấy... ". Hai mắt nhức lắm rồi, nhưng tôi quyết không cho chúng nhỏ lệ nữa. Mắc xong áo lên móc, thấy anh cứ chằm chằm nhìn cái bụng to của tôi, tôi mỉm cười đi đến bàn, cầm lấy tờ giấy, rồi chẳng xem gì hết, liền ký tên mình và đẩy tờ giấy cho anh.

- Em có bầu rồi đấy à?

Ðây là lần đầu tiên anh ấy nói chuyện với tôi kể từ hôm bà bị nạn. Nước mắt tôi trào ra không thể nào ngăn nổi.

- Vâng, nhưng không sao cả, anh có thể đi được rồi.

Anh không đi mà ngồi lại, hai chúng tôi nhìn nhau trong bóng tối. Anh từ từ ôm lấy tôi, nước mắt nhỏ ướt đầm vai áo tôi. Thế nhưng lòng tôi đã không còn gì nữa, rất nhiều thứ đã biến đi xa lắm rồi, xa tới mức có đuổi theo cũng chẳng lấy lại được nữa.

Không nhớ là anh ấy đã nói với tôi bao nhiêu lần câu "Xin lỗi" nữa. Trước đây tôi cứ tưởng mình sẽ tha thứ cho anh, nhưng bây giờ thì không. Suốt đời tôi sao quên được ánh mắt băng giá anh nhìn tôi khi đứng trước cô gái nọ ở hiệu ăn Âu hôm ấy. Chúng tôi đã rạch vào tim nhau một vết thương sâu hoắm. Tôi không cố tình, còn anh thì cố tình. Quá khứ không thể nào trở lại được nữa. Trái tim tôi chỉ ấm lên mỗi khi nghĩ đến đứa bé trong bụng, còn với anh thì tim tôi đã lạnh như băng. Tôi không đụng đến tất cả những thức ăn anh mua về, không nhận bất cứ món quà nào anh tặng, không nói với anh nửa lời. Kể từ hôm ký vào tờ giấy kia, hôn nhân và tình yêu, tất cả đều đã biến mất khỏi trái tim tôi. Có hôm anh định trở lại phòng ngủ của chúng tôi. Anh vào thì tôi ra phòng khách nằm. Thế là anh đành phải về ngủ ở phòng của bà.

Ðêm đêm, đôi lúc từ phòng anh vẳng ra tiếng rên rỉ khe khẽ. Tôi nghe thấy nhưng lặng thinh. Lại dở trò cũ chứ gì. Ngày trước, mỗi bận bị tôi làm mặt giận phớt lờ, anh ấy đều giả vờ ốm như vậy, khiến tôi ngoan ngoãn đầu hàng và chạy đến hỏi xem anh có sao không. Thế là anh ôm lấy tôi cười ha hả. Anh quên rồi, ngày ấy tôi thương anh vì hai người yêu nhau. Bây giờ thì chúng tôi còn có gì nữa đâu? Tiếng rên rỉ ấy kéo dài đứt quãng cho tới ngày đứa bé ra đời. Suốt thời gian chờ đợi ấy, hầu như ngày nào anh cũng mua sắm thứ gì cho con, nào là đồ dùng của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nào là sách nhi đồng v.v... Những thứ ấy chất gần đầy căn phòng của anh. Tôi biết anh làm thế là để tôi cảm động, nhưng tôi giờ đã trơ như đá. Anh đành giam mình trong phòng, ngồi gõ phím máy tính lạch cạch. Chắc là tìm vợ trên mạng. Nhưng chuyện ấy đâu còn có ý nghĩa gì với tôi nữa.

Năm sau, vào một đêm khuya cuối xuân, cơn đau bụng dữ dội khiến tôi thét lên. Anh nhảy xổ vào buồng, hình như khi đi nằm anh vẫn không thay quần áo chỉ là để chờ giây phút này. Anh cõng tôi chạy xuống cầu thang, chặn taxi lại. Dọc đường, anh cứ nắm chặt tay tôi, luôn lau mồ hôi trên trán tôi. Ðến bệnh viện, anh lại cõng tôi chạy đến khoa sản. Khi nằm trên đôi vai gầy guộc mà ấm áp của anh, một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc tôi: "Trên đời này, liệu có ai yêu thương mình như anh ấy không nhỉ?"

Rồi anh vịn cánh cửa khoa sản, đưa ánh mắt ấm áp dõi theo tôi đi vào trong. Tôi cố nhịn đau mỉm cười với anh. Khi tôi ra khỏi phòng đẻ, anh nhìn tôi và thằng bé, rưng rưng nước mắt mỉm cười. Tôi chạm vào tay anh, chợt thấy anh mềm nhũn người, mệt mỏi từ từ ngã xuống. Tôi gào tên chồng mình, anh chỉ mỉm cười, nhắm nghiền mắt lại...

Tôi cứ tưởng mình sẽ không bao giờ còn nhỏ nước mắt vì anh, thế mà lúc ấy một nỗi đau xé ruột xé gan bỗng dội lên trong lòng.

Bác sĩ cho biết chồng tôi bị ung thư gan, cách đây 5 tháng mới phát hiện, khi đó bệnh đã ở thời kỳ cuối, anh chịu đựng được lâu thế quả là một chuyện lạ hiếm có. Ông bảo: "Chị nên chuẩn bị hậu sự đi thì vừa". Mặc y tá ngăn cấm, tôi trốn ngay về nhà, xộc vào phòng anh, mở máy tính ra xem. Một nỗi đau nhói lên làm trái tim tôi nghẹn lại. Thế đấy, 5 tháng trước đây anh đã phát hiện mình bị ung thư gan, những tiếng rên rỉ của anh là thật cả, nhưng tôi lại cứ cho là...

Những điều ghi trong máy tính rất dài, đó là lời trăn trối anh để lại cho con mình:

"Con của bố. Vì con mà bố ráng chịu đựng cho tới nay, chờ bao giờ trông thấy con thì bố mới chịu ngã xuống. Ðấy là nguyện vọng lớn nhất của bố hiện giờ...

Bố biết rằng, đời con sẽ có nhiều niềm vui hoặc có thể gặp trắc trở. Nếu bố có thể cùng con đi suốt quãng đời con lớn lên thì vui biết bao. Nhưng bố không có dịp may ấy nữa rồi. Bây giờ bố ghi lại vào máy tính từng vấn đề con sẽ có thể gặp phải trên đường đời, khi nào gặp những vấn đề ấy thì con có thể tham khảo ý kiến của bố, con nhé!

Con ơi, viết xong mấy chục trang này, bố cảm thấy như mình đã cùng đi với con suốt chặng đường trưởng thành của con. Bây giờ bố thật sự vô cùng sung sướng. Hãy yêu mẹ con nhé! Mẹ rất vất vả vì con đấy. Mẹ con là người yêu con nhất và cũng là người bố yêu quý nhất..."

Chồng tôi viết về tất cả mọi chuyện, kể từ khi đứa bé còn ở vườn trẻ cho tới lúc nó học tiểu học, trung học, đại học, rồi ra công tác, cả đến chuyện yêu đương của con nữa. Chồng tôi cũng để lại một bức cho tôi:

"Em yêu quý. Ðược lấy em làm vợ là niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời anh. Em hãy tha thứ việc anh đã làm tổn thương em. Hãy tha lỗi việc anh giấu tình hình bệnh tật của mình, chẳng qua chỉ vì anh không muốn để em phải lo nghĩ trong thời gian chờ bé chào đời... Em yêu quý. Nếu khi đọc những dòng này mà em khóc thì nghĩa là em đã tha thứ cho anh rồi. Như thế anh sẽ có thể mỉm cười cảm ơn em luôn luôn yêu anh... Anh sợ rằng mình sẽ không có dịp tự tay tặng cho con những món quà anh đã mua sắm. Phiền em hằng năm thay anh tặng quà cho con, trên bao gói nhớ đề rõ ngày tặng, em nhé..."

Khi tôi trở lại bệnh viện thì anh vẫn đang hôn mê. Tôi bế con đến, đặt nó nằm bên cạnh anh và nói:

- Anh ơi, anh hãy mở mắt ra cười lên nào. Em muốn để con mãi mãi ghi nhớ hơi ấm của bố nó khi nó nằm trong lòng anh đấy, anh ạ...

Chồng tôi khó nhọc mở mắt ra, khẽ mỉm cười. Thằng bé rúc vào lòng bố, ngọ ngoạy nắm tay nhỏ xíu hồng hồng. Tôi ấn nút máy ảnh, nước mắt chảy ràn rụa trên mặt...


Nguyễn Hải Hoành dịch
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #93 - 24. Mar 2008 , 12:18
 
Học cách lắng nghe

(chuyện sưu tầm-nếu có bạn nào biết tác giả xin cho TL biết-thành thật cám ơn)


Nửa đêm. Chuông điện thoại reo vang làm người mẹ thức giấc. Như chúng ta biết, ai nghe điện thoại reo lúc nửa đêm cũng bực mình nhìn đồng hồ và lẩm bẩm… Nhưng buổi đêm đó thì khác, người mẹ ấy cũng khác.
Nửa đêm. Những ý nghĩ lo lắng bỗng tràn đầy trong đầu óc của người mẹ. Và người mẹ nhấc máy “Alô ?”. Bỗng bà nghĩ đến con gái mình. Bà nắm ống nghe chặt hơn và nhìn về phía người bố, lúc này đã tỉnh dậy xem ai đã gọi điện cho vợ mình.
- Mẹ đấy ạ? - Giọng nói trên điện thoại cất lên, như đang thì thầm, rất khó đoán là người gọi bao nhiêu tuổi, nhưng chắc chắn là cô gái đó đang khóc. Rất rõ. Giọng thì thầm tiếp tục:
- Mẹ, con biết là muộn rồi. Nhưng đừng nói … đừng nói gì, để con nói đã. Mẹ không cần tra hỏi đâu, đúng con vừa uống rượu. Con mới ra khỏi đường cao tốc và…
Có cái gì đó không ổn. Người mẹ cố im lặng…
- Con sợ lắm. Con chỉ vừa mới nghĩ là mẹ có thấy đau lòng không nếu một cảnh sát đến cửa nhà mình và bảo con đã chết vì tai nạn. Con muốn… về nhà. Con biết, một đứa con gái bỏ nhà đi quả thật là hư hỏng. Con biết có thể mẹ lo lắng. Lẽ ra con nên gọi cho mẹ từ mấy ngày trước, nhưng con sợ… con sợ…
Người mẹ nắm chặt ống nghe, nuốt tiếng nấc. Người mẹ nén những cái nhói lên đau đớn tận trong tim. Khuôn mặt con gái bà hiện rõ ràng ngay trước mặt bà. Bà cũng thì thầm: “Mẹ nghĩ…”.
- Không! Mẹ để con nói hết đã! Đi mẹ!
Giọng cô gái năn nỉ, lúc này giọng cô gái như một đứa trẻ không được che chở và đang tuyệt vọng. Người mẹ đành dừng lại, và bà cũng đang nghĩ xem nên nói gì với con. Giọng cô gái tiếp:
- Con là đứa hư hỏng, mẹ ạ! Con trốn nhà! Con biết con không nên uống rượu say thế này, nhưng con sợ lắm, mẹ ơi! Sợ lắm…
Giọng nói bên kia lại ngắt quãng bởi những tiếng nấc. Người mẹ che miệng, mắt đầy nước. Tay người mẹ chạm vào ống nghe điện thoại làm vang lên tiếng “cạch”, nghe như tiếng đặt máy, cô gái vội kêu lên:
- Mẹ còn nghe con không ? Con xin mẹ đừng đặt máy!
- Con cần mẹ, con thấy cô đơn lắm!
- Mẹ đây, mẹ sẽ không đặt máy đâu – Người mẹ nói.
- Mẹ ơi, con lẽ ra phải nói với mẹ. Con biết lẽ ra con phải nói với mẹ. Nhưng khi mẹ nói chuyện với con, mẹ chỉ luôn bảo con là phải làm gì. Mẹ nói mẹ đã đọc hết quyển sách tâm lý và biết cách dạy con, nhưng tất cả những gì mẹ làm là chỉ bắt con nghe thôi. Mẹ không nghe con. Mẹ không bao giờ để con nói với mẹ là con cảm thấy ra sao. Cứ như là cảm giác của con chẳng quan trọng gì vậy. Có phải vì mẹ nghĩ mẹ là mẹ của con và mẹ biết hết mọi lời giải đáp không ? Nhưng đôi khi con không cần những lời giải đáp. Con chỉ cần một người lắng nghe con…
Người mẹ lặng đi. Bà nhìn những quyển sách tâm lý bà để ở đầu giường.
- Mẹ đang nghe con – Người mẹ thì thầm.
- Mẹ ơi, khi ở trên đường cao tốc, con không điều khiển nổi xe nữa. Con nhìn thấy một cái cây to lắm chắn đường con. Con muốn đâm vào nó. Nhưng con cảm thấy như con đang nghe mẹ dạy rằng không thể lái xe khi vừa uống rượu. Cho nên con dừng lại đây. Mẹ ơi, vì con vẫn còn… muốn về nhà – Cô gái dừng lại một chút – con đi về nhà đây, mẹ, cho con về, mẹ nhé?
- Không – người mẹ vội ngắt lời, cảm thấy cơ thể như đông cứng lại – con ở yên đó! Mẹ sẽ gọi một chiếc taxi đến đón con. Đừng tắt máy, hãy nói chuyện với mẹ trong khi chờ taxi đến.
- Nhưng con muốn về ngay, mẹ ơi…
- Nhưng hãy làm điều này vì mẹ, hãy chờ taxi đi, mẹ xin con.
Người mẹ thấy cô gái im lặng. Thật đáng sợ. Không nghe cô trả lời. Người mẹ nhắm mắt, thầm cầu nguyện trong khi người bố đi gọi một chiếc taxi.
Cô gái im lặng rất lâu nhưng cô không tắt máy và người mẹ cũng vậy.
- Có taxi rồi mẹ ạ! - Tiếng cô gái bỗng vang lên và có tiếng xe ôtô dừng lại. Người mẹ bỗng thấy nhẹ nhõm hơn. - Con về nhà ngay đây, mẹ nhé!
Có tiếng “tích”, có lẽ là tiếng tắt máy điện thoại di động. Rồi im lặng.
Người mẹ đứng dậy, mắt nhòe nước. Bà đi vào phòng cô con gái 16 tuổi. Người bố đi theo, và hỏi:
- Em có nghĩ là cô bé đó sẽ biết là cô đã gọi nhầm số điện thoại ? Người mẹ nhìn đứa con gái đang ngủ ngon trên giường, và trả lời:
- Có lẽ cô bé đã không gọi nhầm…
- Bố mẹ làm gì thế ? - Giọng ngái ngủ của cô con gái cất lên khi cô mở mắt và thấy bố mẹ đứng cạnh giường mình.
- Bố mẹ đang tập… - Người mẹ trả lời.
- Tập gì ạ ? – Cô bé lẩm bẩm, gần như lại chìm vào giấc ngủ.
- Tập lắng nghe – Người mẹ nói thầm và vuốt tóc cô con gái…
Back to top
« Last Edit: 24. Mar 2008 , 12:21 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
Phuong_Tran
Gold Member
*****
Offline


Thành Viên Hoạt Động
Tích Cực *Năm 2011*

Posts: 10574
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #94 - 24. Mar 2008 , 13:41
 
Em đã đọc xong " TẬP LắNG NGHE " rồi và sẽ tập lắng nghe nhiều hơn là nói với con cái của mình , có lẽ là với cả những người khác nữa , cảm ơn Chị T Lan đã cho đọc một câu chuyện rất hay  Cry Undecided Smiley

PTr
Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3541
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #95 - 17. Apr 2008 , 02:44
 
Bài cũ đăng lại.


--------------------------


Truyện Cho Những Tình Nhân


-- Nhã Ca




  Vừa dừng xe trước cổng nhà bác, Diễm đã bấm chuông inh ỏi. Chị Bé Tý chạy ra, vừa cười vừa với cái giỏ mây: Vô đây đã Diễm, vô cúng. Diễm lắc đầu quầy quậy: Thôi để em về, sáng mồng một em sang mừng tuổi hai bác, các anh các chị. Em về, nhà em hôm ni cũng cúng ba mươi mà chị. Chị Bé Tý nhìn chăm chăm vào bàn tay của Diễm đang cầm chặt chiếc ghi đông xe đạp: A, con ni khá quá hí, đeo nhẫn rồi tạ Ra giêng cưới há ? Diễm cúi đầu e thẹn: Dạ -- Mời tao đi phụ dâu nghẹ -- Dạ, mời chị chớ. -- A, con này đeo nhẫn không sợ tụi bạn cười há ? -- Anh Phan biểu em đeọ Chị Bé Tý cười ngất: -- Khỉ, khi mô cưới xong mới đeo, đeo rứa tụi nó nói dị chết. Mi đi lấy chồng còn học không ? Diễm buồn buồn: Không biết nữa chị, ba anh Phan nói em cứ đi học. -- Học con khỉ, ở đó mà học. Diễm lật cái nón đội lên đầu: Thôi em về chị, má đợi. Hôm ni ở nhà cũng cúng.

Diễm xoay ghi đông, cua vòng ra sân rồi leo lên. Diễm sửa lại hai vạt áo dài, vạt sau giắt vào sợi dây thun nơi cái bót ba ga, vạt trước phủ trên hai đùi. Theo thói quen, Diễm ngẩng đầu lên hất cho hết tóc ra đằng sau, rồi đạp xe, đi thong thả. Diễm phải vất vả lắm mới lách xe qua khỏi được con đường Trần Hưng Đạo dọc theo vườn hoa Nguyễn Hoàng, phía gần cầu là chợ hoạ Diễm nhìn chỉ thấy những cánh hoa mai vàng giơ cao lên khỏi đầu người. Diễm đạp xe qua cầu Tràng Tiền, đi rẽ ngả bưu điện, rồi đạp qua vài con đường nhỏ, đến hàng Đoát. Diễm biết chắc thế nào đi trên con đường này, giờ này cũng gặp Phan. Con đường hàng Đoát này vắng nhất và cũng đẹp nhất. Diễm không thể nào quên được những buổi trời chạng vạng. Phan và nàng, hai người hai chiếc xe đạp, đạp song song vừa đi vừa nói chuyện. Diễm cũng không quên được vẻ hốt hoảng vụng về của cả hai đứa khi dang hai ghi đông xe ra cho xa nhau, một đứa đạp chậm một tí, một đứa đạp nhanh lên, khi có người từ đằng xa đi ngược chiều tới. Và lịch sử mối tình của hai đứa cũng đầy di tích trên con đường ngắn này. Hình như hôm đó Diễm đi xe đạp, cũng trên con đường này, chiếc sên xe bị sút rạ Diễm dựng xe lên loay hoay sửa mãi mà không được. May nhà Phan gần đó, và phút làm quen không mấy khó khăn. Nửa giờ sau, Diễm lên xe đi về, trời chiều, những ngọn điện đường đã bật. Phan đạp xe đi hộ tống đằng saụ Khi tới gần nhà Diễm chậm lại một chút, quay mặt lại giấu trong nón: Cám ơn anh, Diễm vô nhà. Và Diễm đạp xe rẽ vào ngõ chè tàu. Về sau, nghe Phan nói lại là Phan bắt đầu yêu Diễm ngay buổi tối hôm đó, khi hai vạt áo trắng cùng chiếc xe đạp ghi đông chữ U khuất sau hai dãy chè tàu xanh, cắt bằng phẳng.

Ngang qua nhà Phan, Diễm không dám nhìn vào nhưng nàng biết Phan sẽ trông thấy nàng. Một lát Diễm nghe tiếng xe đạp lách cách đằng sau, rồi tới sát bên. Diễm cúi mặt, chiếc nón che kín chỉ chừa hai mớ tóc buông xõa phía trước vaị Nhưng Diễm đợi chờ, hai má nàng nóng bừng.

-- Diễm.
-- Dạ.
-- Em đi mô về đó?
-- Em đi sang nhà bác đưa trái cây cúng. Má sai em đị
-- Chừ em đi mô ?
-- Em về nhà.


Câu chuyện thật nhạt nhẽo, nhưng Diễm thấy quá quen thuộc, nàng đoán trước những câu hỏi của Phan. Lần nào cũng chừng đó câu hỏi, rồi hai đứa đưa nhau trên đoạn đường từ hàng Đoát, nghẹo qua đường Nguyễn Huệ, đi ngang qua Ty Công Chánh rồi về đường Trần Thúc Nhẫn. Nhưng lần này thì không, Phan nói tiếp:

-- Anh đưa Diễm tới vườn bông Bến Ngự thôi nghe, lên cầu về túi lắm. Hôm ni anh cúng ba mươi.
-- Em cũng cúng ba mươi.
-- Sáng mồng hai anh sang hí. Mồng một anh về Truồi, ông nội dưới nớ.
-- Dạ.


Phan nhìn thấy ngón tay của Diễm đang bấu trên ghi đông:

-- Diễm.
-- Dạ.
-- Diễm đeo nhẫn à?


Diễm liếc nhìn Phan rồi háy một cái:

-- Đeo dị òm.


Phan cười, mặt hơi cúi xuống

-- Ừ, mai anh đeo luôn hí.
-- Dị òm, bắt chước người ta chi lạ rứa.
-- Dị chi mà dị.
-- Dị quá, anh đi xê ra, rủi gặp aị..


Phan vừa bẻ ghi đông quẹo ra và nói nhỏ:

-- Kệ họ, mình sắp cưới rồi mà...


Diễm đưa tay trật nón ra đằng sau, nàng nhìn con đường hàng Đoát sắp nhập vào con đường thẳng Nguyễn Huệ:

-- Má nói khi mô cưới hẳn haỵ
-- Chán mấy bà già.
-- Anh không thấy à, khi mô anh tới má cũng bắt em đi rót nước, sai gọi em lăng xăng. À, hay bữa ni anh lên nhà em ăn cúng ba mươi.
-- Không được, ông rốp chửi chết. Hôm ni lạy bàn thờ. Dưới chú anh cúng buổi trưa, nhà anh cúng túi.
-- Mệt hỉ.
-- Ừ.


Bàn tay Phan thả ghi đông, đưa sang chụp tay Diễm. Diễm để yên nhưng lắc đầu quầy quậy:

-- Anh làm rứa té chết. Dị chết.


Ngón tay Phan đã vuốt trên ngón tay đeo nhẫn của Diễm:

-- Em hỉ ?
-- Dạ chi anh.
-- Thương anh không ?
-- Thương anh hoài. Khi mô cái nhẫn này rời khỏi tay em thì em chết.
-- Chớ không phải em tháo ra, em vất dưới sông Hương hay liệng trên núi Ngự à ?
-- Mần chi có.
-- Em hỉ ?
-- Chi anh.
-- Nói thiệt nghe !
-- Anh dị òm. Còn có mấy ngày mà lo chi cho mệt.
-- Biết răng mà noái. Khi sáng anh tới má em noái cho cưới tháng Giêng để anh còn đi Thủ Đức. Còn chưa đầy mười ngày.
-- Em chưa nói chi cho tụi bạn em biết hết. Tụi bạn noái em bí mật quân sự.
-- Đầu năm em với anh đi thăm tụi nó, nói cho tụi nó biết.


Diễm lắc mạnh cánh tay:

-- Anh, gần tới cầu, anh về đị
-- Em sợ túi không ?
-- Không, khoảng đường ni sáng rồi, qua khỏi cầu, đi lên dốc một tí, có ông cảnh sát gác nơi cầu anh tề.
-- Anh về hỉ.
-- Dạ, anh về.


Diễm trả lời xong cúi đầu đi thẳng. Hàng chè tàu đã lấp ló đằng xa, nơi cột điện. Khi Diễm re vào nhà, ngọn điện đường cũng vừa bật lên. Má nàng đang gội đầu trước hiên. Diễm dựng xe dưới gốc cây khế. Má nàng ngẩng lên:

-- Đưa đồ cúng cho bác chưa, Diễm.
-- Dạ rồi.
-- Con thay áo, đi gội đầu bồ kết nì. Má có để sẵn phần cho con. Ra vườn hái trái chanh mà gội cho trơn tóc. À con ơi, con lau lại cho má cá sập gụ nghẹ Tối ni rảnh đánh tứ sắc chơi.


Diễm vừa đi vào nhà đã nghe tiếng mẹ vọng theo:

-- Chút xíu nữa con dặn bác Bảy mang xích lô tới bác Thị đón ông nội về. Ra sau hè mà gọi qua cũng được, đừng đi ra ngõ chi cho xa con hí.


Diễm đi vào phòng, thay quần áo rồi nằm duỗi ra giường. Chút nữa hãy đi hái chanh, đi gội đầu. Diễm nhìn bình bông nhỏ cắm mấy bông tường vi của Phan mang sang cho hồi sáng. Mấy đóa tường vi màu hồng sáng lạng, nhưng lòng Diễm chợt vui chợt buồn. Nàng nghĩ tới những mùa xuân cũ, những mùa xuân cũ khác hẳn xuân này. Năm nay Diễm không thấy nô nức đón xuân như mọi hôm, mà Diễm thấy mình bắt đầu lớn, bắt đầu thay đổi. Thay đổi cả một đoạn đời cũ. Đi lấy chồng, lấy chồng đối với Diễm như bước vào một đoạn đời dài lắm và đầy xa lạ, bỡ ngỡ. Ở với một người cho tới già, tới chết, dù đó là người yêu, Diễm cũng thấy trong lòng sôi động bao lo sợ, nghi ngờ. Dĩ vãng của Diễm yên lặng quá, hiện tại, Diễm không một điểm nhỏ phàn nàn, còn tương lai nữa. Diễm như một đứa bé con đang đứng trước một ngôi nhà quá lớn và hiểu được rằng không bao giờ mình khám phá hết nổi nó. Diễm nhìn ngón tay đeo nhẫn của mình, nàng đưa lên môi, chà chà cạnh nhẫn lên làn da môi mềm mát. Thôi thế cũng xong, một ước mộng bình thường, cứ thế, ta sẽ sung sướng. Diễm cắn chặt ngón tay đeo nhẫn: Anh Phan, răng em có sắc mấy cũng không cắt nổi ngón tay đeo nhẫn.

Diễm mở cái rương nhỏ, ngắm nghía chiếc áo phin trắng nõn. Chiếc áo này Diễm sẽ mặc để tiếp Phan vào ngày mồng haị Phan sẽ hỏi: Ai may áo đó. Diễm sẽ sung sướng mà cho Phan biết là chính nàng đã cắt và may lấy. Em sẽ là một bà nội trợ giỏi.

Chắc chắn mà, không tin thì thôi. Diễm mỉm cười một mình.

Sau đó, Diễm nhớ là mình phải ra vườn hái chanh gội đầu, nhân tiện đó Diễm sẽ gọi luôn bác Bảy. Diễm vừa đi vừa nhảy ra vườn. Chiếc áo trắng vải phin nõn còn lung linh trong trí tưởng tượng của nàng. Hình ảnh Diễm đang ở trong đó cùng áo cánh trắng thêu hoa hồng đỏ trên ngực và mái tóc chảy dài. Nhưng ơ kìa, làm gì có cánh hoa hồng đỏ tựa như trái tim thêu trên ngực? Diễm bật cười: Thêu như vậy cũng đẹp, nhưng chiếc áo đó đã không thêu. Màu đỏ không hợp với sở thích của nàng. Nàng coi màu đỏ như sự bất trắc, sự hung bạo. Bởi thế, Diễm thích đi lấy chồng hơn là đi học nghề cô mụ. Tụi bạn Diễm đã nạp đơn xin học nghành này gần hết.

Cây chanh đã hiện ra trước mặt Diễm. Diễm chỉ cần nhìn lên, chỉ cần với một cành ví xuống, tha hồ mà nàng lựa chọn. Hạnh phúc của nàng cũng giản dị quá, mọi lúc đều như vừa vặn trong tầm tay của nàng. Diễm nghĩ đêm nay, sau khi ngồi chầu rìa coi cả nhà đánh tứ sắc, Diễm sẽ nằm lăn nơi cái sập gụ, trước khi ngủ, nàng sẽ ăn hết những cánh hoa tường vi cuối năm của Phan gửi tặng.



--------------------------------------------------------------------------------


Anh Phan,

Rứa là anh kẹt dưới Truồi không lên được rồi. Anh ơi, em cũng đã kiệt lực. Em ngồi viết thư cho anh lúc đang sống trong một căn hầm hết sức chật. Một cái hầm nổi, làm sát góc nhà với mười bốn mạng người. Ngày nào cũng chừng đó tiếng động, chừng đó nỗi kinh hoàng. Từ đêm mồng một rạng ngày mồng hai, cả nhà bị mắc kẹt không còn tản cư vào đâu được nữa. Em viết thư này cho anh là ngày mười bốn, và gia đình em đã chịu sống mười ba ngày trong chiếc hầm nhỏ hẹp này. Xung quanh, Thạch bạn em đã trúng đạn chết, xác lấp vội vã ngoài vườn. Ngay trong nhà mình, phòng bên cạnh cũng có một gia đình hàng xóm xin làm hầm, mang sang hai người bị thương, đêm nào họ cũng la hét khóc lóc ghê quá. Mấy ngày đầu, mấy anh ngoài nớ còn cho thuốc băng bó, mấy ngày nay họ bỏ liều rồi. Chắc mấy người đó chết quá anh ơi, mà họ chết là thành ma trong nhà mình rồi.

Em có bị bắt đi khiêng đạn và chở người bị thương bằng xe ba bánh lên phía Tây Thiên mấy lần, lần nào đi cũng sợ muốn chết giấc vì những quả bom dưới Phú Bài câu lên. Những người đi với em chết nhiều lắm. Em đi khiêng đạn được năm hôm, khiêng người bị thương được hai hôm thì khiếp quá ngất xỉu mấy lần. Em theo mấy người trốn về lại bị nạn kiểm soát. Họ tới tận nhà. Má phải xoa nghệ lên mặt em, vả vào mắt em cho sưng húp để xưng bệnh cho họ khỏi bắt đị Mà em muốn bệnh thật, em bệnh vì lo sợ, vì buồn phiền, vì thương cảm. Má đã rơi nước mắt ròng khi đưa bàn tay tát vào mắt em cho sưng vù. Em cũng không cầm được giọt lệ khi nhìn thấy anh Văn trốn trên trần nhà mười mấy hôm, khi ăn khi nhịn, sợ tới chết điếng người vì những trái mọt-chê rơi đều đều dội tứ tung trên miệt bến Ngự, Từ Đàm.

Mấy hôm nay thì đạn đại bác bắn quá lắm. Em nằm ép mình sát đất, cứ bị dội người lên vì đất đai nhà cửa rung chuyển, ngực em cơ hồ như đã vỡ vụn bên trong nhưng lạ em không thấy đau đớn và tắt thở. Em vẫn thở được nhưng hơi thở nặng nề, em vẫn nhai được bát cơm nấu vội vã, đôi khi chưa kịp ăn đã vất bát cơm, nằm sát xuống mặt hầm, hoặc ôm cứng lấy nhau, và khi dứt tiếng nổ, thấy mắt mình hết nổ đom đóm, ngắt vào da thịt thấy đau, em mới biết rằng mình còn sống. Anh Phan, chắc em chết không gặp anh. Chắc chết quá anh ơi, súng vẫn bắn như mưa trên đầu những người chờ đợi. Nhưng anh ơi, trong những phút kinh hoàng như thế này, trong những phút nằm chờ một quả bom canh đúng rơi trúng miệng hầm đôi lúc em vẫn còn đầy tư tưởng lãng mạn. Em nhớ anh hơn, nao nức hơn, và thấy mối tình mình trở nên quan trọng hơn. Em nhớ buổi chiều cuối năm đi với anh trên con đường hàng Đoát. Thơ mộng quá, đẹp quá phải không anh? Và em đã thề thốt gì với anh, anh còn nhớ không? Anh ơi nếu em chết, anh tìm cho được xác em, nhìn ngón tay em đeo nhẫn nhé. Nhưng em sợ chết quá, em chết đi rồi anh sẽ còn ai để thương, còn ai để cưới làm vợ... mà anh lấy người khác em ghen, em chết không nhắm mắt. Con gái Huế ghen dễ sợ lắm, ghen cay như ớt. Anh ơi, ớt đầy một vườn mà bữa ăn nào em cũng thèm tới rớt nước miếng. Em muốn được ăn trái ớt trước khi chết để thành một con ma ghen kinh khủng, em nói bậy quá rồi. Lại bắt đầu bắn đó anh. Làm sao đưa cơm lên cho anh Văn, làm sao cho anh ấy trốn đi được. Ngọn đèn cầy đặt trong hầm lại sắp hết. Phải tiết kiệm, thôi em tắt. Nằm xuống khoảng tối em sẽ nhớ anh, nhớ anh như điên để rủi có chết đêm nay còn tưởng tượng ra anh, anh nghẹ Ngọn đèn lụi quá rồi, chữ em viết không biết đang lên dốc Nam Giao hay xuống dốc bến Ngự ...

Anh Phan,

Tai nạn đã xảy ra rồi. Sáng hôm nay chị Tư ra khỏi miệng hầm thật sớm để đưa vắt cơm lên trần nhà cho anh Văn, sợ lát nữa mấy ổng vào kiểm soát, chị vừa ra khỏi miệng hầm thì bị mảnh bom chơm. Máu ra nhiều quá. Em phải xé chiếc áo dài mới để băng bó cho chị. Bây giờ chị đang nằm lịm nơi chân em đây này. Còn anh Văn, anh ấy đã chết. Anh Phan, anh Văn không bị bom không bị đạn, anh đói lả và rơi từ trên trần nhà xuống, chết liền tại chỗ. Xác anh Văn đang nằm nơi chiếc sập gụ của ông nội, nằm chung với ông nội em còn sống. Má đã khóc lóc xin mấy anh ngoài nớ ra vườn chôn tạm anh Văn nhưng họ nói ra ngoài đó máy bay thấy đào đất rồi bắn xuống. Trưa nay mấy ổng họ lại rút lên phía trên nữa rồi. Má nói có thể trốn được. Nhưng trước khi trốn đi tản cư, Phải tìm cách chôn anh Văn đã. Cách tốt nhất là đặt anh Văn trong hầm này, khi về hãy haỵ Nhưng lại gặp chuyện phiền phức khác là chị Tư và ông nội. Chị Tư bị thương, khó khiêng đi, ông nội thì nhất định ở nhà. Cả nhà khóc mãi, ông vẫn không đổi ý. Chị nói thà chết ở nhà, và năn nỉ cả nhà nên tìm cách trốn đị

Anh ơi, gia đình em sao thê thảm thế này. Không, đâu phải chỉ gia đình em. Nhà chú Bảy xích lô đã chết hết, cả một cái hầm sụp xuống. Đứa cháu bên đó chạy sang cho hay vậy. Ngoài đường còn những xác người chưa chôn. Chị Thọ cho biết là bây giờ chỉ có hai lối đi, một là xuống cầu bến Ngự, rồi băng về bên kia sông, nghe nói có Mỹ, một là đi ngược lên Tây Thiên. Nhưng lên Tây Thiên thì gặp họ cũng không sống được. Bà Minh, anh Vỹ, anh Cao, bác Hịch đã bị họ bắt theo lên Tây Thiên hết rồi. Nhà mình có anh Văn đã chết. Còn bà già, con nít. Có em thì họ chưa bắt đi, vì vậy má nói phải trốn. Đêm qua họ đem mấy cậu sinh viên vào xử tại sau vườn nhà. Em nghe thấy tiếng súng bắn, tiếng người hét, họ vào nhà xin chiếu, chiếu hết rồi. Em nghe họ đào sau vườn. Họ lấp đất, rồi họ kéo nhau đị Đại bác vẫn câu lên đều đều. Má nói đến chiều tối, khi bớt tiếng đại bác, sẽ tìm cách trốn ra khỏi nhà. Ở đây thì thế nào cũng chết. Nhưng ông nội thì sợ chết đường. Em không chịu ý kiến ông nội. Thà mình cứ đi tìm lối thoát còn hơn ở nhà chịu chết. Phía dưới dốc cầu người ta đi cũng nhiều, chết cũng nhiều, buổi sáng khi khóc anh Văn, em nhìn ra cửa ngõ thấy một bà mẹ đang nhét một đứa nhỏ vào bụi chè tàu trước cổng rồi vừa khóc vừa chạy. Em chưa kịp la thì phải vào hầm vì những tiếng nổ gần quá, con Mẹo có ra coi, hắn nói thằng nhỏ chết rồi, đang bị kiến đỏ bu đầy người, có con chó Mực đang rình rập vào ăn thịt. Lũ chó đói quá, chúng cứ xông vào nhà. Trên sập của ông nội có một đống gạch thật lớn. Ông lấy ném để canh xác anh Văn. Từ sáng đến giờ, ông nội vừa khóc vừa đọc kinh, đôi khi ông chửi bới lung tung. Có một trái đạn rớt giữa sân, mảnh bay đầy sân nhà mà chỗ ông nằm vẫn yên lành, ông nói đạn sợ ông rồi, ông chỉ sợ bầy chó đói.

Anh ơi! chắc em chết, gia đình em chết hết. Em khóc ròng đây, em khóc muốn ngất khi nghĩ rằng, khi yên, anh sẽ tới tìm em nơi này, anh sẽ không thấy xác em đâu nữa. Tay em nằm trong bụng con chó này, mặt em ở trong bụng con chó khác. Anh ơi, em tội tình chi mà không được một nấm mồ. Anh Văn em, ông nội em... Em thèm cúng giỗ, thèm được người ta cúng giỗ quá. Bây giờ em mới hiểu tại sao mọi nhà đều cúng chiều ba mươi, tại sao có trầm hương, có cô hồn, có ác quỷ.

Anh Phan, em vừa nghe cả nhà bàn sáu giờ chiều nay sẽ trốn đi vùng khác, ông nội ở lại, chị Tư ở lại, xác anh Văn đặt trong hầm, má em với Út, với Tây, với Bằng sẽ trốn đị Mẹo đi theọ Bác Chắc ở lại canh chừng ông nội và rửa vết thương cho chị Tự Ông nội, chị Tư sẽ vào hầm nằm chung với anh Văn để khỏi đuổi chó. Em sẽ đặt lá thư này dưới chiếc sập gụ, chiếc sập gụ lát nữa đây sẽ được đem tới kê trước miệng hầm. Nếu em chết, má sẽ chỉ cho anh thấy lá thư này. Em nghĩ là má sẽ sống, cả em cũng phải sống. Chiếc nhẫn mấy ngày nay đã lỏng lẻo, nhưng em vẫn đeo, coi như một thẻ bùa may mắn. Anh ơi, anh đang ở Truồi hay ở đâu. Em lo sợ quá... Chiều tối em sẽ đi, chưa biết là tìm thấy sự sống hay sự chết.

Đến hôm nay đèn cầy hết, thực phẩm chỉ đủ cho hai người ăn trong mười lăm hôm. Cầu mong sẽ yên sớm hơn. Nghe nói Mỹ đã chiếm được Công-chánh, phía hữa ngạn. Anh có về đến đó chưa?

Em đã ăn hết những bông hoa tường vi của anh đêm ba mươi Tết, thuốc trường sinh, thuốc tình yêu. Anh ơi, em phải sửa soạn để đi, lá thư này xin gửi lại dưới sập gụ..



--------------------------------------------------------------------------------


Từ trường Kiểu-mẫu, Phan đã mấy lần kiếm cách đi lên mạn bến Ngự, nhưng mấy ngày nay, súng nhỏ súng lớn nổ ran về miệt đó. Phan đi lần được tới bờ sông, người Mỹ đuổi Phan trở lui lại, Phan đứng dọc đường đón mọi người tản cư đi qua, hỏi thăm tin tức, nhưng chàng cũng không nhận được một tin tức nào. Cho tới khi gặp được một người từ bến Ngự chạy về lánh nạn ở Tân-lăng, Phan đến hỏi tin tức, được biết gia đình Diễm một nửa còn mắc kẹt ở lại, một nửa đã trốn theo đường rầy về An Cựu, nhưng tới nửa đường thì Diễm bị một trái bom rơi trúng, cả thân thể Diễm bay kẹt vào một bụi cây. Chỉ nghe chừng đó Phan đã bụm mặt khóc òa, chàng không còn đủ sức hỏi thăm thêm gia đình Diễm nữa. Mười mấy ngày sau, khi Bến Ngự đã dẹp xong, Phan là người trước nhất đi dọc theo đường rầy xe hỏa về Bến Ngự. Dọc đường, Phan đã nhận ra xác Diễm. Diễm chỉ còn lại đầu tóc, chiếc mặt đã bầm dập, cả người đã sình thối, nàng kẹt vào giữa bụi cây, và những dòng nước vàng đã chảy xuống. Cánh áo phin trắng của Diễm đã rách nát, nhưng nơi ngực áo, hai chữ P D lồng nhau thêu bằng chỉ trắng vẫn chưa bị mục, và nhờ đó Phan nhìn ra xác Diễm. Diễm mất một cánh tay, và nơi bàn tay còn lại, Phan không nhìn thấy ngón đeo nhẫn đâu hết. Ngón tay đeo nhẫn của Diễm đã bị cắt lìa. Phan tìm cùng khắp không thấy vết tích đốt tay và chiếc nhẫn đó nữa.

Khi đem xác Diễm về tẩm liệm, mọi người phát giác ngón tay đeo nhẫn của nàng đã nằm gọn trong đám ruột bầy nhầy, không ai hiểu tại sao, và chiếc nhẫn cũng không tìm thấy.

Chôn cất Diễm xong, Phan đi tìm mẹ Diễm, bà đang nằm tại một bệnh viện của Mỹ. Phan tìm tới ngôi nhà cũ của Diễm, ông nội nàng đã chết, chị Tư cũng đã chết, xác của Văn, của ông nội, của chị Tư bị chó chui vào gặm nát, người mất tay, người mất chân. Khi dở cái gập sụ ra để lôi những xác chết, Phan đã tìm thấy bức thư của Diễm.

Chiếc xe của Diễm vẫn còn nguyên, dựng ở một góc tường chưa bị sập. Phan dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà, chàng dắt đi bộ chớ không ngồi lên đạp.

Căn nhà của Phan chỉ bị thủng mấy lỗ đạn. Những ngày sau đó, bạn bè của Diễm còn sống sót, chiều đi ngang qua con đường hàng Đoát thấy Phan ngồi trên chiếc xe đạp, dắt theo một chiếc xe đạp, và bên ghi đông chiếc xe không người, lủng lẳng cột một chiếc nhẫn vàng. Bạn bè không ai dám hỏi thăm, dám an ủi, vì Phan không bao giờ trả lời, không bao giờ đứng lại nghe ai nhắc tới tên Diễm.

Con đường hàng Đoát đến bây giờ vẫn còn đẹp, và chiều chiều vẫn còn những đôi tình nhân song song đạp xe đi trên đó. Bóng dáng của Diễm cũng như những đống gạch vụn, những dấu bom đạn đã lùi dần trong trí nhớ bạn bè. Người ta bắt đầu quen dần với cảnh Phan vừa đi vừa dắt thêm một chiếc xe đạp bên cạnh. Không ai còn thì giờ nhắc tới mối tình của họ .









--------------------------------------------------------------------------------


Tài liệu tham khảo

Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Chúng Ta, nhiều tác giả, NXB Sóng, Sài Gòn, 1974.
Courtesy LIF




Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3541
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #96 - 11. May 2008 , 03:41
 
Mồ côi mẹ liếm lá đầu đường

T.Vấn


...



▪ Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

(Trần Trung Đạo)



Một người bạn tôi vừa mới mất mẹ. Mẹ anh đã thọ được 75 tuổi và có lẽ sẽ sống thêm vài năm nữa nếu bà không mắc phải căn bệnh tiểu đường dai dẳng. Trong những bức điện thư gửi cho tôi, anh biểu lộ một tâm trạng rất chán nản, buồn rầu. Thậm chí anh quyết định ngưng một số công việc thường ngày liên quan đến sách vở viết lách mà anh xem đó như là những khoảnh khắc hoàn toàn  thoát tục, giúp anh tạm quên mọi phiền toái của cuộc sống. Tôi chẳng may mất mẹ từ năm 10 tuổi. Tất cả hồi ức của tôi về mẹ là hình ảnh người đàn bà vừa hơn 30 tuổi đời, tấm thân gầy đét khô quắt vì sự tàn phá của vi trùng ung thư, nằm thoi thóp đợi chết trong căn nhà tồi tàn thuộc khu xóm nghèo Vườn Chuối, Sài Gòn. Khi bà qua đời, tôi đã khóc những giọt nước mắt cuối cùng của tuổi thơ ngắn ngủi. Và sau đó, tôi sống cuộc đời mình như  cỏ hoang mọc dại – mồ côi mẹ liếm lá đầu đường – Cho nên, đến bây giờ, đã sống gần hết một đời người, tôi vẫn như còn cảm được  nỗi đau mất mẹ ở một người lớn tuổi như anh bạn tôi nó sâu sắc cỡ nào, chứ không  đơn giản chỉ là cảm thức mất mát một người thân yêu, đã từng sống với mình bao nhiêu năm trời, đã từng gần gũi chia sẻ với mình bao đắng cay ngọt bùi

Nỗi đau mất mẹ lớn hơn và khác hơn nhiều cái cảm thức thông thường ấy.

Hình tượng về người Mẹ quả thật lớn lao. Mẹ là chỗ khởi đầu của một con người. Từ đó anh ta ra đời, trưởng thành, làm những điều vĩ đại cho cuộc sống. Mẹ cũng là chỗ quay về của một đời người. Nhất là khi một người gặp nhiều điều không như ý trong cuộc sống. Mà trong cuộc đời này, mấy ai không có đôi lúc cảm thấy mình chỉ là chiếc bóng vật vờ đi bên lề cuộc đời, bị cuộc đời khinh bỏ, ganh ghét, những lúc ấy, chỉ có một nơi chốn để trở về, đó là căn nhà của mẹ. Căn nhà có thể nghèo nàn, đơn sơ, nhỏ bé nhưng đó vẫn là căn nhà của mẹ, từ đó, một đời người được sinh ra, nuôi dưỡng. Cũng như hình dáng người Mẹ – nhất là người mẹ Việt Nam – nhỏ bé, lam lũ, quê mùa, ít học nhưng tấm lòng thì  bao la như biển Thái Bình và sự khôn ngoan của người mẹ thì hàng vạn pho sách thế gian này tích lũy được  cũng chỉ là sự ghi chép những lời dạy của người mẹ truyền lại cho con.

Người mẹ của anh bạn tôi, là bóng cả che cho anh trong suốt  hơn 50 năm làm người, nay bà bỏ cõi trần  mà đi, cũng có nghĩa là anh đã mất đi một chỗ dựa vững chắc nhất trong đời mình.

Cái cảm thức chông chênh ấy chỉ xảy ra khi người ta mất mẹ .

Tôi đã từng chứng kiến cảnh một người mẹ lặn lội đường xa từ  một làng quê  miền Tây đến thăm con mình ở trại cải tạo Long Giao, trên tay bà chỉ có mỗi lon  Guigoz mắm  ruốc. Bà nghèo quá không thể lo hơn được nữa cho con. Nhìn hai tấm thân gầy gò ôm nhau khóc bên hàng rào kẽm gai – một của người mẹ, một của người con cải tạo – tôi hiểu hơn được một chút nỗi bất hạnh lớn lao của mình. Lúc ấy, tôi ước gì ít nhất mình cũng có một người mẹ nghèo như thế để được ôm, để được khóc. Tôi – kẻ mồ côi liếm lá đầu đường – được một cô gái trẻ và đẹp đến thăm . Cô mang cho tôi rất nhiều thứ : tình yêu, nước mắt, tấm lòng chung thủy (cánh hoa mỏng manh trước gió của một thời oan nghiệt), những túi quà nặng trĩu. Nhưng với tôi, cô gái ấy vẫn chỉ là một người con gái yêu tôi và tôi yêu. Mà tình yêu trong thời thổ tả ấy, với thân phận Từ Hải chết đứng, nhắm mắt đưa chân vào chốn lao tù không biết đến ngày về , thì làm sao trông cậy được vào nghị lực nhỏ nhoi của một người con gái. Sau lần gặp gỡ đó, tôi lầm lũi bước chân xuống tàu ra Bắc. Và tất nhiên, đường xa diệu vợi, thời gian cũng dài thăm thẳm, làm sao tôi dám nghĩ có một ngày được nhìn lại người con gái ấy. Nhưng tôi biết chắc chắn một điều, người mẹ nghèo khổ gầy gò tội nghiệp của anh bạn cùng tù, nếu sức khỏe bà cho phép, sẽ một ngày có mặt ở chốn đèo heo hút gió này  thăm anh, có thể cũng chỉ với lon Guigoz mắm ruốc nhiều muối hơn và tấm thân gầy gò xơ xác hơn. Nhưng có hề gì, tấm lòng thương con to lớn của bà – cũng như bao bà mẹ khác - vượt lên trên hết những nhỏ bé phù phiếm ấy, vượt lên trên hết con đường thăm nuôi Bắc Nam vạn dặm, vượt lên trên hết những năm tháng dài dằng dặc có nằm  mơ cũng không dám nghĩ đến một ngày về. Với bà, bất kể mọi đổi thay của thời thế, của đất trời, con của bà vẫn cứ mãi mãi là con của bà. Mà dẫu cho bà không thể một lần ra thăm con nơi đất Bắc, thì căn nhà của bà – túp lều tranh dột nát bên bờ ruộng cằn – vẫn sẽ là chỗ cho con bà trở về, nếu quả thật có một ngày về và nếu anh còn sống sót để trở về.

Còn tôi, tôi đã sống sót sau nhiều năm khổ ải và đã có một ngày về. Nhưng người con gái tôi yêu không còn đó để đón tôi ngày tôi thoát kiếp tù đày. Tôi không hề trách móc nàng, vì thử thách ấy lớn quá đối với  rất nhiều người con gái của thế hệ tôi năm xưa. Ngay cả những người vợ còn đành chịu thua số phận, huống gì là những người tình.

Bước những bước chân buồn tênh trên đường ra khỏi cổng trại giam, tôi nghĩ đến bà mẹ già nghèo khổ và anh bạn cùng tù tôi đã gặp nhiều năm về trước. Anh về trước tôi vài tháng. Hẳn bước chân anh rất hân hoan cũng trên con đường đất đỏ tôi đang đi. Vì anh có một chỗ để trở về. Và biết  mình sẽ được chào đón bằng cả một tấm lòng của người mẹ. Còn tôi, không còn mẹ để trở về. Và cũng không còn ai khác đón tôi ngày ra khỏi trại tù sau gần 9 năm biệt xứ.  Thêm một lần nữa, tôi hiểu thêm được một chút nỗi bất hạnh lớn lao của mình.

Cái cảm thức hụt hẫng ấy – vì mất đi  lòng tin tưởng rằng có một người luôn toàn  tâm toàn ý nghĩ về mình – chỉ xảy ra khi người ta mất mẹ.

Từ bấy đến nay, đã bao nhiêu nước chảy qua cầu. Tôi đã gặp một người con gái sẵn lòng đi bên tôi trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Khi mới gặp nhau, tôi thường dắt nàng ra ngồi bên mộ mẹ tôi để trò chuyện. Vì nghèo quá, ít khi nào chúng tôi có tiền để đi ngồi quán. Nhờ vậy, mộ mẹ tôi bớt đi vẻ hoang vu cỏ mọc ngập đầu từ những ngày tôi còn ở tù. Rồi tôi cũng dành dụm đủ tiền để mướn người hốt cốt cho mẹ tôi, cho bố tôi , bỏ vào hũ, và đem gởi ở một nhà thờ , trước ngày  tôi cùng người con gái ấy rời nước ra đi. Tôi không có một tấm hình nào của mẹ mình. Hình như trong đời mẹ tôi, cũng chưa một lần bà ngồi xuống để cho người ta chụp một bức hình. Cho nên, trong đầu tôi, ngoài tấm thân gầy đét nằm chờ chết trên giường bệnh của bà, khuôn mặt của người mẹ là khuôn mặt người đàn bà  nghèo xơ  xác năm xưa tôi tình cờ nhìn thấy trong một buổi thăm nuôi ở trại Long Giao trước khi chúng tôi bị chuyển trại ra Bắc. Người mẹ nghèo này, năm nay nếu còn sống chắc cũng vào khoảng tuổi của người mẹ mới mất của anh bạn tôi. Và anh bạn tù năm nào, chắc cũng đã cho mẹ mình được những đứa cháu nội và nhắc lại cho  chúng biết rằng, đã có những năm tháng tận cùng nhất cuộc đời của anh và anh đứng dậy được là nhờ ở tấm lòng người mẹ già đi thăm anh với chỉ một lon Guigoz mắm ruốc. Ôi hạnh phúc biết bao cho anh bạn tù năm xưa của tôi. Anh có được rất nhiều điều hãnh diện để kể cho con cháu anh nghe.


Hôm qua, trong một buổi họp mặt cuối tuần với mấy người bạn thân, nhân câu chuyện về tuổi già và cái chết đang chờ sẵn cuối đường, một người bạn của tôi đột nhiên ôm mặt thổn thức ngay trước mặt vợ con mình. Người mẹ già của anh hiện đang nằm thoi thóp trong một bệnh viện ở Việt Nam. Biết mẹ mình tuổi già như ngọn đèn leo lét, chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng qua cũng đủ kết thúc một cuộc đời chỉ biết đến chồng và con, nhưng nỗi đau của anh còn là sự cách trở cùng với muôn vàn những bề bộn hàng ngày khiến anh không thể bay về ngay được bên mẹ, nhìn mặt mẹ lần cuối, và hát cho mẹ nghe bài hát anh mới viết tặng mẹ mình :


...

Mẹ bỏ ta đi
Mẹ về cõi Phật vô ưu
Những đứa con tuổi năm mươi
Khóc như ngày mới lớn

(Thơ Ngọc Phi- Nhạc TLV)



Nhìn những giọt nước mắt già nua trên khuôn mặt kinh qua nhiều sóng gió cuộc đời của anh bạn, tôi lại hiểu thêm được một chút nữa nỗi bất hạnh lớn lao của mình. Tôi không có được tiếng khóc như ngày mới lớn ở tuổi năm mươi  như những người bạn của tôi, vì tôi không còn mẹ già, dù là người mẹ già đang sẵn sàng để bỏ con đi bất cứ lúc nào. Có nỗi đau ấy còn hơn không có gì khiến mình có thể rơi nước mắt.

Những giọt nước mắt ở tuổi năm mươi như anh bạn tôi chỉ rơi xuống không e dè, không dấu diếm khi người ta nghĩ đến mẹ già đang chờ con về để nhìn con một lần cuối.

■ Trong những ngày đầu của tháng 5 hàng năm, các con tôi luôn xôn xao bàn tán với nhau nên mua món quà nào cho mẹ chúng nhân ngày Hiền Mẫu (Mother’s Day). Có năm, thằng anh lớn của chúng ra chợ Wal-mart vác ngay cái vòng hoa giả (vốn là để cho người ta đem ra cắm ở mộ người chết vì tháng 5 hàng năm cũng có ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong – Memorial Day) về, rồi mấy anh em hí hửng đem ra tặng cho mẹ , chúc mẹ sống đời với chúng con. Từ lần đó, năm nào chúng cũng xin tôi cho ý kiến về việc mua món gì tặng mẹ, rồi kín đáo xin phép mẹ rủ bố đi thư viện, nhưng thực ra là đi lùng mua một món gì đó cho ngày Hiền Mẫu.

Các con tôi còn quá nhỏ để tôi có thể giải thích những điều vượt khỏi tầm nhận thức của chúng về ý nghĩa to lớn của hình tượng người mẹ, mà hiện nay, chúng mặc nhiên thụ hưởng. Cho nên, tôi để chúng biểu lộ tình cảm biết ơn một cách vật chất nhiều hơn là tinh thần. Để đến một ngày nào đó (mà tôi hằng nghĩ sẽ còn lâu lắm và ao ước rằng tôi không còn sống để chứng kiến), chúng sẽ tự mình đau đớn  hiểu được những mất mát mà bố của chúng đã chịu từ năm mới lên 10 tuổi .

Và kinh nghiệm cả cái cảm giác chông chênh, hụt hẫng mà anh bạn thân của tôi đang đóng cửa gậm nhấm trong những ngày anh vừa tròn 55 tuổi đời.



T. Vấn
(Nhân ngày Hiền Mẫu)

Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #97 - 11. May 2008 , 13:03
 
TL xin gơỉ đến cả nhà, một đoản văn thât hay sau đây do bạn hiền sưu tấm.

Câu Chuyện Bát Mì


Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.


o O o


Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.

Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào. Đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.

- Xin mời ngồi!

Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.

- Đương nhiên... đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.

Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:

- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. "Ngon quá" - thằng anh nói.

- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.

Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: "Thật là ngon! Cám ơn!" rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.

Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

- Đương nhiên... đương nhiên, mời ngồi!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:

- Cho một bát mì.

Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:

- Vâng, một bát mì!

Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:

- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?

- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: "Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!"

Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.

- Thơm quá!

- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!

- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!

Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là "200đ/bát mì" và thay vào đó giá của năm ngoái "150đ/bát mì". Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy "Đã đặt chỗ". Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.

- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.

Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:

- Làm ơn nấu cho chúng tôi... hai bát mì được không?

- Được chứ, mời ngồi bên này!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy "Đã đặt chỗ" đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì".

- Vâng, hai bát mì. Có ngay.

Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.

Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.

- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!

- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?

- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.

- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.

Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.

- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!

- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?

- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.

- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.

- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!

- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!

- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.

- Có thật thế không? Sau đó ra sao?

- Thầy giáo ra đề bài: "Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?" Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: "Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc". Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: "Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn". Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: "Cố gắng lên! Chúc hạnh phúc! Cám ơn!"

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.

- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.

- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?

- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: "Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phấm giấy "Đã đặt chỗ" nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.

Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

"Việc này có ý nghĩa như thế nào?" Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai "cũ" trở thành "cái bàn hạnh phúc", mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.

Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.

Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên.

Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:

- Làm ơn... làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?

Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:

- Các vị... các vị là...

Một trong hai thanh niên tiếp lời:

- Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lực để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:

- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!

Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:

- Ồ phải... Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.

Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:

- Có ngay. Ba bát mì.


o O o


Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng: chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.

Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng: "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt". Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.
Back to top
« Last Edit: 11. May 2008 , 13:08 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3541
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #98 - 06. Aug 2008 , 17:25
 
Ông già bươi rác





Tiểu Tử - Truyện ngắn


Thành phố Hồ Chí Minh quang vinh vẫn còn rất nhiều rác. Hồi thời trước, Sài Gòn đã có nhiều rác, nhưng so với bây giờ thì… thua xa. Rác bây giờ chẳng những nhiều hơn mà còn… rải rác hơn. Điều này chẳng có gì khó hiểu hết. Bởi vì, trong chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa, cái gì của ta cũng đều hơn của lũ chúng nó cả: rác của chúng nó là rác tư bản, rác ngụy,còn rác của ta là rác… nhân dân, do nhân dân, từ nhân dân mà ra. Có chính nghĩa, hơn là lẽ tất nhiên!

Vậy, ở một đống rác khá lớn nằm trên vỉa hè một con đừơng khá rộng trong thành phố, có một ông già ngồi ung dung như đang ngồi ở một nơi sạch sẽ! Ông già đó tuổi cỡ ngoài tám mươi, có chòm râu bạc giống râu bác Hồ. Ổng đội mũ tai bèo, mặc bộ đồ bà ba đen, mang dép cao su đúc. Ổng ngồi trên một ghế bằng nhựa nhỏ, thấp, loại ghế ngồi cho trẻ con. Ổng cầm cây gậy trúc dài bươi bươi rác, mắt nhìn châm chú chỗ đang bươi, mặc cho đàn ruồi bay lên đáp xuống như giành rác với ổng! Lâu lâu, ổng nói một mình: "Nó nằm lẫn đâu đây hè! Mẹ bà nó!".









...




Đường này lúc nào cũng đông ken. Xe đạp, xe gắn máy, xe hơi… hai luồng chen nhau chạy, giành mặt đường mà chạy, lòn lách lấn ép, bóp kèn inh ỏi. Chạy đầy đường như vậy mà chẳng ai nhìn thấy ở trên đỉnh đống rác cao nhòng đó có một ông già… Cho đến người đi bộ trên vỉa hè cũng chẳng thấy ai để ý đến ổng hết! Hơn hai chục năm sống quen với quá nhiều nghịch lý, con người ta không còn nhạy cảm trước những sự bất bình thường. Bởi vì cứ nhìn riết rồi quen con mắt, nên không thấy chướng, cứ nghe riết rồi quen lỗ tai nên không thấy ồn, cứ ngửi riết rồi quen lỗ mũi nên không thấy hôi. Đó là một quy luật. Tiếp theo đó là một quá trình đi xuống dốc của con người, vừa nhanh vừa gọn, bởi vì nó dễ ợt hà!

Ông già lâu lâu ngừng bươi rác, móc túi lấy bọc ni-long thuốc rồi chậm rãi vấn hút. Điếu thuốc của ổng to bằng ngón tay cái, nên mỗi lần ổng nhả khói là thấy mù mịt, làm như đống rác đang ngún cháy vậy!

Trong khi ổng hút thuốc, ổng không bươi rác. Làm như hút thuốc là qua giai đoạn ổng nghỉ xả hơi! Ổng xoay người ra nhìn thiên hạ chạy loạn dưới đường giống như ổng đang ngồi xem kịch. Một lúc sau ổng nói một mình: « Thiệt… không giống ai hết!» Mà thiệt! Người ta chạy đi đâu mà lúc nào cũng thấy chạy đầy đường. Người nào cũng hối hả. Người nào cũng bóp kèn. Kẹt không kẹt gì cũng thấy bóp kèn! Làm như nếu không bóp kèn thì xe sẽ… không chạy vậy! Còn luật lệ giao thông thì hầu như không có. Mạnh ai nấy chạy. Tay mặt tay trái gì cũng… như nhau. Đàn ông đàn bà gì cũng chen lấn lòn ép… như nhau. Chẳng ai nhường ai hết. Đàn ông con trai có người ở trần bận quần xà-lỏn, có người lại mặc quần áo gin, bên trong có sơ-mi và áo gi-lê giống như đang ở xứ lạnh! Còn đàn bà con gái thì phần đông ăn mặc không để… hở một chỗ nào hết. Áo pô-lô ngắn tay, quần dài, găng tay cao tới… nách, đội kết loại đấu thủ dã cầu, mang kiến đen, bịt mặt bằng chéo vải thêu bông hoa hay có ren giống đàn bà á-rập! Nếu có mặc áo dài thì cũng mang găng tay ngắn, rồi đội kết, rồi kiến đen, rồi bịt mặt! Thành ra không nhìn ra được ai là ai hết!

Hút tàn điếu thuốc, ông già lại quay về đống rác, châm chỉ bươi. Một lúc lại nói: "Mẹ bà nó! Tao bươi riết rồi cũng ra. Làm gì rồi cũng thấy!".

Một cô gái nhỏ xách tới xô rác đổ xuống làm lũ ruồi lúc nhúc bay lên, thấy ông già ngồi đó, cô hỏi:

- Bộ ông không sợ hôi sao mà ngồi đó vậy?

Ông già cười mũi:

- Thời bây giờ, ở đâu mà không hôi không thúi, hả? Nó tràn đồng thì ngồi ở đâu cũng vậy thôi.

Cô gái lại hỏi:

- Thấy ông bươi bươi. Bộ ông mất cái gì hả ?

Ông già ngừng tay, hỏi lại:

- Mất hả? Mất cái gì? Còn khỉ gì đâu mà mất !

- Vậy chớ ông bươi rác làm gì? Rác bây giờ đâu còn có gì đâu mà lượm.

Ông già cầm gậy trúc gõ gõ vào đống rác làm lũ ruồi hốt hoảng bay lên vù vù.

Ổng hạ giọng:

- Tao bươi rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng mà hồi đó tao nuôi tao giấu trong nhà.

Có vẻ thấy ông già… khùng quá nên cô gái bỏ đi, vừa đi vừa nói :

- Họ là con người chớ bộ chuột bọ gì đâu mà ông tìm trong đống rác!

Ông già nhìn theo, nói lớn :

- Mà tao có nói tụi nó là con người đâu?

Tiếng của ông bị chìm lấp trong tiếng ồn hỗn tạp của đường phố, nên chẳng gợi được sự chú ý của ai hết. Ổng nhìn quanh, thở dài, rồi tiếp tục bươi…

Một thanh niên đang đi trên vỉa hè bỗng tấp vô đống rác vạch quần định đứng tiểu, một tay chống nạnh, trên môi phì phà điếu thuốc. Ông già nói lớn:

- Coi chừng! Nó phóng lên nó cắn sứt à!

Gã giật mình, vội vã buông quần bước đi như chạy. Vừa đi vừa nhìn lại, nét mặt còn đầy sợ hãi ! Ông già không nhìn theo, cũng không cười. Làm như điều ông nói là điều có thật chớ không phải đùa. Cho nên nghe ổng nói tiếp:

- Cái lũ khốn nạn này có thứ gì mà tụi nó không đớp!

Ổng nói mà đầu gậy vẫn không ngừng bươi. Bầy ruồi nhặng vẫn bay lên đáp xuống, đáp xuống bay lên, lúc nha lúc nhúc…

Gần trưa, một người đàn bà đứng tuổi từ trong hẻm gần đó bước ra đi lại đống rác, thưa:

- Mời ông Hai về ăn cơm.

Ông già nói “ờ” rồi chống gậy đứng lên đi. Người đàn bà cúi lấy cái ghế nhỏ, xách đi theo phía sau ông, im lặng. Cả hai đi lần vào hẻm.

Con hẻm mới vào thấy rộng thấy thẳng, hai bên có phố lầu hai ba từng kiến trúc hiện đại, từng nào cũng thấy có máy lạnh lòi ra coi rất… văn minh! Hai dải phố lầu này kéo dài vào hẻm độ ba bốn mươi thước .Sau đó là một khúc quanh thẳng góc, rồi con hẻm chỉ còn lại không tới hai thước bề ngang, chạy quanh co rồng rắn vào tuốt bên trong tiếp nối với những con hẻm nhỏ khác không biết từ đâu tới mà cũng thấy… rồng rắn quanh co! Ở đây, nhà cửa lụp xụp hẹp té, khác hẳn với mặt tiền đồ sộ lộng lẫy. Đó là một thế giới khác, một thế giới nghèo khó núp sau cái thế giới phồn vinh bên ngoài. Người ta không thể nghĩ rằng nó nằm ngay trong lòng thành phố, cái thành phố mang tên Người từ hơn hai mươi năm…

Ông già và người đàn bà bước vào một căn nhà nhỏ hẹp của khu hẻm rồng rắn. Ông già nói:

- Tao bươi hoài mà chưa gặp thằng nào hết.

Một người đàn ông trong nhà nói cho lấy có:

- Vậy hả ông Hai ?

- Tụi nó chui rúc lì lắm. Mẹ bà nó! Hồi đó mà tao biết như vầy, tụi nó có chung vô quần trốn, tao cũng cởi quần tao giũ cho chết cha tụi nó hết!

…Người đàn ông trong nhà là cháu của ông già bươi rác, kêu ổng bằng ông chú, còn người đàn bà là vợ hắn. Hai vợ chồng đã trộng tuổi nhưng chưa có con. Họ lãnh may gia công quần áo cho một công ty may mặc, nên trong nhà lúc nào cũng nghe tiếng máy may chạy xành xạch suốt ngày. Họ ngủ trên cái gác lửng nhỏ bằng hai chiếc chiếu, còn ông già thì có cái ghế bố kê trong góc nhà. Nhà nhỏ xíu nên chỉ có một bóng đèn điện treo ở giữa .

Hai vợ chồng người cháu đem người ông về nuôi trong nhà từ ngày ổng ra tù cách đây hơn bảy năm…

Theo lời kể lại của người cháu thì “ông chú” ngày xưa là một nhà doanh thương - đại doanh thương - Ổng độc quyền nhập cảng vỏ ruột xe gắn máy, xe hơi, xe máy cày. Ổng có mấy kho hàng lớn ở Khánh Hội, một văn phòng ba từng lầu ở Chợ Cũ, một vi-la to ở đường Phan Thanh Giản và một vi-la vừa vừa nằm khuất trên một đồi thông ở Đà Lạt. Vợ và hai con ổng đều ở bên Pháp để làm một “đầu cầu” bên đó. Còn bên này ổng có một bà nhỏ lo về giao tế, xã hội và nhân viên. Lâu lâu, ổng bay qua Âu Châu thăm vợ con và làm việc với các hãng chánh ở bên đó.

Ổng nhiều thế lực lắm. Người cháu nói: “Hồi đó, tôi đang làm thợ may cho nhà may X thì bị động viên.Vậy mà ổng kéo tôi ra cái rẹt! Có điều làm tôi không hiểu là ổng như vậy mà trong nhà ổng nuôi Việt Cộng. Ngay như cái nhà trên Đà Lạt mà ổng dùng cho mấy ông lớn mượn, từ anh quản gia đến chị bếp đến mấy người làm vườn đều là cán bộ Việt cộng ráo. Ổng nuôi họ như vậy cho đến năm 1973 họ mới lần lượt rút đi …”.

Hồi tháng tư 1975, ổng không di tản. Còn nói: “Cách mạng chớ bộ ăn cướp giết người đâu mà sợ!”. Sau đó mấy người ổng nuôi có về thăm, ổng cũng đãi đằng hậu hĩ. Vậy mà khi cách mạng “đánh tư sản mại bản”, ổng cũng bị “ đánh” tơi bời , tài sản bị tịch thâu hết còn bị đi tù cải tạo nữa. Vợ lớn của ổng chết ở bên Pháp, bà vợ nhỏ đi chui rồi mất tích ở biển Đông. Còn hai đứa con, sau này có người quen từ Paris về cho biết, đã phung phí hết tiền của mà ổng đã để cho họ bên đó rồi dọn nhà đi mất. Thành ra đi thăm nuôi ổng chỉ còn có vợ chồng người cháu thợ may…

Khi ông chú được thả ra khỏi tù - nghĩa là nhà nước xét thấy ổng đã hoàn toàn được cải tạo - ổng đã trở thành một người khác: một người mất trí! Người cháu nói: “Hồi đem ổng về ở với tụi tôi, tôi cũng ngại. Sợ ổng chê. Nhưng rồi ổng vẫn ở tự nhiên, không phàn nàn gì hết, tụi tôi cũng mừng. Rồi lo không biết chịu đựng ổng nổi không. Nhưng rồi thấy ổng không có điên loạn như những người điên khác nên tụi tôi cũng yên tâm. Ổng không nói gì hết, tối ngày bắc ghế ngồi dưới mái hiên hút thuốc đọc sách hoặc ngồi cả giờ nhìn đường hẻm như người ta châm chú coi ti-vi! Vậy mà lâu lâu ổng cũng nói nhiều câu làm mình ngạc nhiên tưởng như ổng là người bình thường. Khi mình thử hỏi tiếp, khơi lại thời cũ thì ổng lại ngẩn ngơ. Thấy tội nghiệp! Thiệt ra, người ta chỉ thấy ổng điên là khi nào ổng đi bươi đống rác, cứ hai ba hôm là ổng đi bươi…”

Và như vậy, “ông Đại Doanh Thương” đó bây giờ ngồi bươi đống rác giống như ổng bươi lại dĩ vãng của ổng, một dĩ vãng mà rác rến vun đầy. Ổng đâu biết rằng , đối với nhà nước cách mạng, ổng cũng chỉ là một thứ rác rến mà nhà nước đã vứt bỏ trên lề xã hội, không hơn không kém…


© DCVOnline

Back to top
 
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #99 - 28. Aug 2008 , 06:10
 
Hồi Ký:
Nội
 

Tiểu Tử 


LGT: Tiểu Tử, tên thật Võ Hoài Nam, tốt nghiệp kỹ sư tại Pháp, về Việt Nam làm việc và năm 1975, bị kẹt lại một thời gian, sau đó vượt biên và hiện định cư tại Pháp. Ông là tác giả những hồi ký đặc sắc mô tả những góc cạnh đặc biệt trong cuộc sống của người Việt sau cuộc 'đổi đời' tháng 4, 1975. Ngôn ngữ của ông giản dị, đối thoại tự nhiên, đậm đà hương vị miệt vườn Nam bộ, nên người đọc thấy bồi hồi xúc động như chính mình được sống lại những năm tháng của ngày xưa, khi còn ở quê nhà. Hồi ký 'Nội' sau đây cũng là những ghi nhận vô cùng cảm động những tình cảm chân thành của tác giả dành cho Nội, cho vợ, cho các con, trong hoàn cảnh tác giả phải chuẩn bị vượt biên, để lại người Mẹ già, vợ trẻ và các con thơ...


- Nội xuống kìa!   - Nội xuống! Ê! Nội xuống!- Nội xuống!

Bầy con tôi reo mừng, chạy ùa ra ngõ. Ngoài đó, tiếng xích lô máy cũng vừa tắt.Trong buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tôi, im lặng. Tôi hiểu: bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và hai đứa lớn sẽ vượt biên? Sáng sớm mai là đi rồi…Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ:- Không sao đâu. Để anh lựa lúc nói chuyện đó với má.Khi vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa xách giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói,hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà nội chúng nó từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh trái thịt thà …Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được thay thế bằng những món ăn do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm nếm. Nhờ vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất vào tay Việt Cộng…

Mấy con tôi thường gọi đùa bà Nội bằng 'trưởng ban hậu cần' hoặc chị 'nuôi' và lâu lâu hay trông có bà Nội xuống. Và lúc nào câu chào mừng của chúng nó cũng đều giống như nhau: 'Nội mạnh hả Nội? Nội có đem gì xuống ăn không Nội?' Mới đầu, tôi nghe chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu thốn triền miên của chế độ xã hội chủ nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi cũng chỉ nghĩ  đến miếng ăn thôi!Con gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay cặp kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lúc nào xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở điều đó và thường nói: 'Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể chuyện thôi!' Thật ra, nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại, bà nó cho đó là một thi vị của tuổi thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe, để lâu lâu bà cười chảy nước mắt.

Tôi hỏi má tôi:- Sao bữa nay xuống trưa vậy nội?Vợ chồng tôi hay gọi má tôi  bằng 'nội ' như các con. Nói theo tụi nó, riết rồi quen miệng. Lâu lâu, chúng tôi cũng có gọi bằng 'má' nhưng sao vẫn không nghe đầm ấm nồng nàn bằng tiếng 'nội' của các con. Hồi cha tôi còn sống, tụi nhỏ còn gọi rõ ra 'ông nội' hay 'bà nội'. Cha tôi mất đi, ít lâu sau, chúng nó chỉ còn dùng có tiếng 'nội' ngắn gọn để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn nhưng âm thanh lại đầy trìu mến.

Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời: -Thôi đi mày ơi!… Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch! Tao lên xe hồi sáng chớ bộ. Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon ghi-gô mỡ nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không nghe. Cứ đề quyết là tao đi buôn lậu!Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà đang phân trần ở Trảng Bàng:- Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mỡ nước? Ai đó nghĩ coi! Nội tiền xe đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu dại vậy hổng biết!

- Ủa? Rồi làm sao nội đi được? Bộ tụi nó giữ lại lon mỡ hả  nội? Con gái lớn tôi chen vào.- Dễ hôn! Nội đâu có đễ cho tụi nó 'ăn' lon mỡ, con! Mỡ heo nội thắng đem xuống cho tụi con chớ bộ.

Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong lúc các con tôi quây quần lại nghe: - Cái rồi …cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội  đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi nó muốn giải đi đâu thì giải.

Nghe đến đây, bày con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội tụi nó kể những chuyện 'gan cùng mình' của bà nội hồi xưa. Con út nóng nảy giục: - Rồi sao nữa nội?

- Cái rồi… lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ… cở đứng bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang. Nó đi qua khỏi rồi chớ, nhưng chắc nó nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi: 'Ủa? Bà Tám đi đâu mà ngồi đó vậy?' Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giào Chén ở Tha-La, tụi bây không biết đâu. Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe thì đã trưa trờ rồi…Ti! Kiếm cây quạt cho nội, con!Ti là tên con út.

Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình rồi đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nớ bớt cong. Má tôi đem từ Gò Dầu xuống bốn năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói: 'Nội thấy ba má tụi con gỡ bán hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con xài. Kệ nó, xấu xấu chớ nó lâu rách'.Con ùt cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói: tối nay nó có 'bạn' ngủ chung để kể chuyện!

Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi vào buồng mấy đứa con gái, tôi trong đó hỏi vọng ra:- Nội ăn gì chưa nội?

- Khỏi lo! Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ ra coi có hư bể gì không cái đã.  Rồi mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau.

Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng dào dạt. Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng còn gì thay đổi. Vẫn loại quần vải đen lưng rùa, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi thật đặc biệt do má tôi cắt may: miệng túi cao lên tới ngực chớ không nằm dưới eo hông như những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa: 'Cha… bộ sợ chúng nó móc túi hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội?' Má tôi cười: 'Ậy! Vậy chớ túi này chứa nhiều thứ quí lắm à bây'. Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn thận ghim miệng túi lại bằng cây kim tây!Tôi là con một của má tôi. Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò Dầu, quê tôi, má tôi ở luôn trên đó. Nói là để châm sóc mồ mả và vườn tược cây trái. Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất thương mấy đứa cháu. Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích - dạo đó, Việt cộng hay bắn hỏa tiễn vào Gò Dầu về đêm - má tôi thường chắc lưỡi nói: 'Thiệt… không biết cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô, hổng làm gì ráo'. Cái 'xứ' Sài gòn, đối với má tôi, nó 'tù chân tù tay' lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất đai rộng rãi, cây trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách cuốc xách dao ra làm vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất của các anh bà con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần.Các anh chị bà con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ. Cho nên, dù ở một mình trên đó, má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bầy con tôi thì xuống chơi với  chúng nó năm bảy bữa rồi về. Má tôi hay nói đùa là 'đi đổi gió'

Mấy năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn chật. Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để ăn. Má tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang 'cái gì để ăn' cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ rằng lẽ ra tôi phải nuôi má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi lăm còn má tôi thì tuổi đã về chiều. Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân viên nhà nước xã hội chủ nghĩa với lương kỹ sư 'bậc hai trên sáu', tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại chính má tôi phải cắt ca cắt củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi, giống như má tôi mớm cơm đút cháo cho tôi thuở tôi còn thơ ấu!

Thật là một 'cuộc đổi đời' đúng như Việt Cộng thường rêu rao: 'Cách mạng là một cuộc đổi đời!' Nhưng cuộc đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước!Lắm khi tôi tự hỏi: 'Rồi sẽ đi đến đâu?' Bấy giờ tôi đã trở thành 'trưởng ban văn nghệ' của cơ quan, một lối đi 'ngang' mà nhờ  đó tôi còn được ở lại với sở cũ. Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp chánh của tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không 'đạt yêu cầu'. Thành ra, tối ngày tôi chỉ lo cho đoàn 'nghiệp dư' của cơ quan tập dượt hát múa. Thật là hề. Còn về phần các con tôi, tương lai gần nhứt là đi đánh giặc Kampuchia, tương lai xa hơn thì thật là mù mịt!Trong lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người. Vậy là chúng tôi lấy quyết định cho hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và mấy đứa nhỏ, kể cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má tôi lo.

Ai chẳng biết vượt biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi không thoát là bị tù đày chẳng biết ở đâu, may mà đi thoát cũng chưa chắc là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số những người đi thoát, hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, 'vượt biên' là đi vào miền vô định…

Theo chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó.Tôi thắc mắc hỏi: 'Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội?' Bạn tôi cười: 'Ai cũng nghĩ như anh hết. Tụi Việt Cộng cũng vậy. Cho nên hể có trăng sáng là tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết. Hiểu chưa?'Bữa nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như vậy là chúng nó sẽ hiểu. Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi sau đó vợ tôi sẽ  liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay. Chừng đó thì 'sự đã rồi'…Bây giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không  được. Đành phải nói cho má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây? Và nói làm sao đây? Liệu má tôi có biết cho rằng tôi không còn con đường nào khác? Liệu má tôi có chấp nhận cho tôi không giữ trọn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con? Liệu má tôi … liệu má tôi …

Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng thấy ở đâu câu trả lời… Tôi ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày xưa đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì, một ít khoai lan, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có. Cho nó giống với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải 'tăng gia' cho đúng 'đường lối của nhà nước'. Thật ra, trồng trọt bao nhiêu đó, nếu có… trúng mùa đi nữa, thì cũng không đủ cho bầy con tôi 'nhét kẻ răng'! Vậy mà tên công an phường, trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen: 'Anh chị công tác tốt đấy chứ. Tăng gia khá nhất khu phố đấy! Các cháu tha hồ mà ăn'. Anh ta không biết rằng mấy nhà hàng xóm của tôi, muốn 'tăng gia', họ đã phải đào cả sân xi-măng hoặc sân lót gạch, thì lấy gì để 'làm tốt'?

Khi tôi trở vào nhà thì con út đang gãi lưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách. Tôi tự hỏi: 'Lạ quá! Chỉ có mình mình bú hồi đó mà sao làm teo vú nội đến như vậy được?' Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai cái núm đen đó đã nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ nghe má tôi kể lể công lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len lén từ phía sau lòn tay măn vú má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ lại:- Đừng! Nhột! Thằng  chơi dại mậy! Rồi má tôi cười văng cốt trầu.

Con Ti la lên:- Má ôi! Coi ba măn vú nội nè!Tôi cười hả hê thích thú. Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới lên ba lên năm… Và cũng trong khoảnh khắc đó, tôi đã quên mất rằng má tôi đã gần tám mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc! Và cũng quên mất rằng từ ngày mai trở đi, có thể  tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi nữa, để măn vú khi bất chợt thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm nay…

Chiều hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật tươm tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nấu canh chua lá giang, một loại giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới có. Món này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói: 'Canh chua phải nêm cho cứng cứng nó mới ngon'. Mà thật vậy. Tô canh nóng hổi, bốc lên mùi thơm đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá giang, mùi mặn đằm thấm của nước mắm và mùi tiêu mùi hành… Húp vào một miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh tô canh chua là tô cá kèo kho tiêu mà khi mang đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn vừa nồng cay lại vừa béo, bỏi vì trong cá kho có tép mỡ và trước khi bắt xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước gọi là 'để cho nó dằn'! Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành ra khi cắn vào nó, mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng cá lên gấp bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món phụ nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà …

Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt.

Nội hỏi:- Bộ cay hả?

Vợ tôi 'dạ', tiếng 'dạ ' nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra nhà sau.

Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia đình còn xum họp bên nhau. Rồi sẽ không còn bữa cơm nào như vậy nữa. Gia đình sẽ chia hai. Những người đi, rồi sẽ sống hay chết? Còn những người ở lại, ai biết sẽ còn tan tác đến đâu? Tôi làm thinh, cắm đầu ăn lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra, tôi đang cần nuốt thật nhanh thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng… để đè xuống, nén xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn đồ ăn, nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con, ngần đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại nữa. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh người đang hấp hối, trong giây phút cuối cùng lưỡi đã cứng đơ, mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối  những người thương để rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi cũng giống như người đang hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở tâm hồn, cũng một lần vĩnh biệt, và cũng sẽ bước vào một cõi u-minh nào đó, một cõi thật mơ hồ mà mình không hình dung được, không chủ động được!   

Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái:- Nè! Ngon lắm! Ăn đi! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn!Ý má tôi muốn nói rằng ở với Việt Cộng riết rồi đến loại cá kèo cũng sẽ khan hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của tôi, lời má tôi nói lại có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như: 'Má cho con ăn lần này lần cuối. Ăn đi con! Ăn cho ngon đi con!'.

Tôi ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm lại được. Nếu không có mặt bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi mà khóc, khóc thật tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật tôi từ bao nhiêu lâu nay… Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi trạo trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc!

Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên:- Ủa? Mày cũng bị cay nữa sao?Rồi bà chồm tới nhìn vào tô cá.

Các con tôi nhao nhao lên:- Đâu có cay, nội.- Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai?- Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.- Con ăn được mà nội. Có cay đâu? Các con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt!

Tôi đặt chuyện, nói tránh đi:- Hổm rày nóng trong mình, lưỡi của ba bị  lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm trong miệng nghe như là sạn sỏi, nuốt không trôi…

Sau bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các con, có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang nhai kềm lại trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu. Những thanh âm đó toát ra một sự vô tư, nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói chuyện vượt biên với má tôi hay không? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp nội…Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi lui suy nghĩ đắn đo. Vợ tôi còn lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng không giúp gì tôi được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong. Tôi bèn vào buồng ngủ, trải chiếu dưới gạch -từ lâu rồi, vợ chồng tôi không có giường tủ gì hết - rồi tắt đèn nằm trong bóng tối, gác tay lên trán mà thở dài…

Thời gian đi qua… Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ  được vẽ những lằn ngang song song trắng đục. Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe tiếng cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai đứa lớn ngoài phòng khách, để trằn trọc suốt đêm chờ sáng.

Bỗng cửa phòng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng vào trong hỏi nhỏ: - Ba con Ti ngủ chưa vậy?

Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe:- Dạ chưa, má.

Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói:- Coi bộ nực hả mậy?

- Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.Tôi nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc.Tay má tôi vẫn quạt đều.

Rồi má tôi hỏi: - Tụi bây còn gì đề bán nữa hông?

- Dạ…Tôi không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái sườn, không ai chịu chở đi. Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ thờ nhỏ và bộ sa-long mây 'sứt căm gãy gọng'. Ngoài ra, trên tường có chân dung 'Bác Hồ' dệt bằng lụa và nhiều 'bằng khen', 'bằng lao động tiên tiến'… những thứ mà nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm lấy! Bỗng tôi nhớ có một hôm tôi nói với bầy con tôi: 'Ba tự hào đã giữ tròn liêm sĩ từ mấy chục năm nay. Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng không được, đem ra chợ trời bán cũng chằng có ai mua. Sao ba thấy thương các con và tội cho ba quá!' Lúc đó, tôi tưởng tượng thấy tôi đứng ở chợ trời, dưới chân có tấm bảng đề 'Bán cái liêm sỉ, loại chánh cống. Bảo đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ'. Thật là khùng nhưng cũng thật là chua chát!

Nghe tôi 'dạ' rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói: 'Rồi mầy phải tính sao chớ chằng lẽ cứ vậy hoài à? Tao thấy tụi bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết sức.'Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định:- Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai mốt cũng theo ông theo bà. Mầy đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa. Chớ đừng vì tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó. Mầy liệu mà đi, đi! Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi! Ở đây riết rồi chết cả chùm. Không chết trận trên Miên thì cũng chết khùng chết đói. Thà tụi bây đi để tao còn thấy chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm vài năm nữa. Mầy hiểu hôn?

Nghe má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn. Và tôi thật xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên để vui mà sống với ít nhiều hy vọng! Thật là ngược đời: có người mẹ nào lại muốn xa con? Chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa khốn nạn này mới xảy ra những chuyện 'đổi đời' như vậy!

Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ:- Má à! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này, con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơ để vượt  biên.Tôi  nghe  tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi  yên  lặng.

Một lúc lâu sau, má tôi mới nói:- Vậy hà…

Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang  trong  cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng nói:- Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì xin má thương tụi nó…Nói tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống như hồi nhỏ má tôi vỗ về tôi để tôi nín khóc.

Một lúc sau, má tôi nói :- Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.Rồi bước ra đóng nhẹ cửa lại.

Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn cầy trên bàn thờ. Tiếp theo là mùi khói nhang, chắc bà lôi mấy đứa nhỏ đang cầu nguyện ngoài đó.Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang nằm trong một cơn mộng…

Năm giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi đứa một túi nhỏ quần áo. Chúng nó không có vẻ gì ngạc nhiên hay xúc động hết. Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và chuẩn bị tinh thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh. Nước mắt đêm qua đã giúp tôi lấy lại quân bình. Thật là mầu nhiệm!Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi. Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.Tôi chỉ nói có mấy tiếng:- Con đi nghe má!Rồi bước ra khỏi cổng.

Lần đó, tôi đi thoát.Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.Mấy ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện 'bên nhà' cho tôi nghe, hết chuyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những chuyện về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.

Tụi nó kể: 'Ba đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây Ninh rước ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi bời, tới nay sao không thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay chết nữa. Nói rồi, nội khóc thật mùi mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan tin thiệt, họ an ủi nội mấy câu rồi từ đó không thấy trở lại nữa'.Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục: 'Nội hay thiệt!'

Nghe kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp dù sự việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y hệt. 'Ba con Ti đi không biết sống hay chết' vẫn là câu hỏi lớn đè nặng tâm tư của má tôi. Bề ngoài má tôi làm ra vẻ bình  tĩnh để an lòng con dâu và cháu nội, nhưng là một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện cho các cán bộ, nó đã có  dịp bể tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt…

'Rồi sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày nào cũng đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu lâu, nội về Gò Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xuống tiếp tế cho tụi con. Thấy nội già mà lên lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có can ngăn nhưng nội nói nội còn mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti lấy chồng nội mới chịu theo ông theo bà!'

Tôi biết: má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu… Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương.

Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút hy vọng sống thêm vài ba năm nữa! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết! Má ơi! Con biết: cây cau già bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non…

Theo lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh về báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng như hội. Tụi nó nói: 'Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ Phật gõ chuông liên hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông giống như báo tin vui cho hàng xóm!'' Mấy hôm sau, bỗng có công an phường lại nhà. Công an đến nhà là lúc nào cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài ngõ, trong này nội niệm phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện ba về Tây Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc…'Mấy con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh viễn không bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.' Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì má buồn rầu đã bỏ nhà đi mất. Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủi: Bà cụ đừng có lo! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ yên chí!'

Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó cho tụi con nghe, rồi nói: 'Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi mà nội muốn xỉu luôn! Không phải vì cảm động mà vì sợ! Ở với tụi nó, thà chết sướng hơn!'

Vợ con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt - hay đúng ra để vĩnh biệt - tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi khóc với bầy cháu nội. Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cần tìm hiểu tại sao mình khóc, chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc thân thể gầy còm càng nhẹ đi, làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho con người để nói lên tiếng nói đầy câm lặng.Bầy bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ. Tôi hình dung thấy những cặp mắt thơ ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê dại, không biết thương cho bạn mình đi hay thương cho thân phận mình, người ở lại vơi đầy chua xót…

Mấy con tôi nói: 'Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu nguyện'.

Tôi làm việc ở Côte  d'Ivoire  (Phi Châu), cách xa vợ con bằng một lục địa, và cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi hay ra một bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve chân cát, tiếng sóng nhẹ nghe như thì thào… những thứ đó làm như chỉ dành cho riêng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như được vỗ về an ủi. Những lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô cùng. Trên đời này má tôi là người duy nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ cho đến khi trên đầu tôi đã hai thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương, cũng chính trong vòng tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi con…

Lúc nào tôi cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương thật rộng rãi bao la, thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi đang nhìn trước mặt.Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả… 

TIỂU TỬ

Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #100 - 06. Sep 2008 , 06:10
 
...
Anh Nguyễn Phong, chị Phương Thuý và 3 con



Những Hạt Mưa Ngâu

Phương Thúy


Tiết trời đã vào Thu, nhưng những cơn gió lào vẫn còn đưa về. Trời đã nắng lâu lâu lại có vài giọt mưa, không ướt áo, hơi nóng khó tả. Thân thể bừng bừng loay hoay việc gì chẳng ra việc gì. Đầu óc tôi rỗng tuếch, không buồn chải tóc, nhìn vào tấm gương góc tủ, tôi giật mình, lòng buồn ủ dột, mới đó mà đã hai mùa mưa ngâu. Sự mong chờ chợt đến, chợt đi, có nhiều đêm mơ màng, nghe tiếng gõ cửa lòng cứ bồn chồn…

Nhớ ngày nào bên nhau, hạnh phúc chan hòa. Cứ mỗi lần đi làm về, chồng tôi thường hay đùa cợt với các con, miệng bao giờ cũng thơ phú.

Có một hôm anh lõm bõm mấy câu:

Làm trai cho
đáng thân trai
Xuống đông, đông tĩnh
Lên đoài, đoài tan.


Bằng tấm lòng nhân hậu và sự khiêm tốn của chồng tôi, đôi khi tôi cũng khó chịu. Anh thường động não về mặt xã hội, bực mình về những bất công mọi hoạt cảnh đã dồn nén, vận mệnh đã an bài và anh đã quyết tâm xây dựng một hệ thống đảng lấy tên là Đảng Thăng Tiến Việt Nam và đặt trụ sở tại nhà ở của mình. Cũng từ độ ấy anh trực diện cùng đấu tranh với nhân dân.

Dù biết vậy có thể mang đến cho gia đình tôi nhiều bất hạnh. Nhưng phận làm vợ biết nói sao? Có lần tôi nói mang tính lạm bàn cùng anh.

- "Ngày trước 75, Miền Nam có cả triệu quân, xe pháo rầm rộ, tàu trận, máy bay mà còn phải đầu hàng huống hồ tay không muốn dựng cơ đồ."

- Em nghĩ sự kiện của lịch sử quá đơn giản, ở đây, anh chỉ tóm gọn cho em nghe nhé: Chiến tranh của thời đại này nó ẩn dấu quyền lợi của các cường Quốc, cái gì họ dựng được thì họ có quyền xóa. Các cường quốc họ thầm nói với nhau theo lộ trình, theo quy ước rồi phân chia quyền lợi ở từng nước từng châu. Như trường hợp ở Đông Đức và Tây Đức, nếu không có Liên Xô đồng ý, thì làm sao có thể độc lập. Việt Nam cũng thế, đều nằm trong hệ thống chính trị, kinh tế quốc tế. Bây giờ họ không gọi là thực dân cũ, thực dân mới mà là chủ nhân lãnh đạo chính trị toàn cầu. Em có thấy, không những Việt Nam mà là Việt – Miên – Lào đều bị bỏ rơi. Trong một lúc 75 quyền lợi quốc gia của họ là tối quan trọng. Đồng minh chiến hữu có tính thời gian chứ không bền lâu. Việt Nam và Trung Quốc như răng với môi – Thế mà răng lại cắn vào môi năm 1978, 6 tỉnh miền Bắc "Tình hữu nghị anh em là thế." Với anh, cũng như những người dân Việt Nam lương tri không bao giờ chịu ngồi im. "Trí thức ươn hèn – nông dân cục bộ" thì đất nước này còn gì hở em?

- Em chỉ sợ "công không thành danh không toại" anh dám đứng mũi chịu sào thì mọi thứ sẽ đổ lên đầu anh.

- Ồ! Cây ngay không sợ chết đứng – bản thân mình và định mệnh. Nhưng ước mơ hạnh phúc cho mọi người. Đó không phải là điều "tốt lành" hay sao?

- Ước mơ rồi hành động , đi vào thực tế anh mới thấy phũ phàng. Vì em không dám lạm bàn nhưng em cứ nghe léo nhéo phân trần tranh cãi ở phòng cha Lý là em thấy mệt rồi. Em rất đồng ý với anh "cuộc sống phải có thăng trầm bồng bềnh mới có hồn sống". Nhưng em sợ một điều, là một mai kia em phải làm tô thị hoặc về với núi vọng phu thì quá tội cho em.

- Em cứ lo; cái gì cũng có giá phải trả. Một khi anh quyết định thì cứ thế mà nhận hạnh phúc thì ít, khổ đau thì nhiều.

Khi cầm bút ghi lại những ký ức này làm tôi rợn cả mình.

Cũng chính căn phòng này, vợ chồng và 3 con vui đùa đầm ấm. bây giờ trước mắt tôi hoang lạnh thế mà nào được bình yên. Bà con bạn bè hoảng sợ không ai lui tới thăm hỏi. Đêm ngày thui thủi thỉnh thoảng chỉ biết ngồi thừ người và thở dài.

Tháng 7 vu lan, tháng 7 mưa ngâu - ngày cho mẹ ngày xá tội cõi âm.

Đâu đâu trong kinh thành Huế cũng cúng lễ phóng sinh.

Cõi âm còn được ân huệ, thế mà cõi dương thì loài người còn điêu ngoa hung tợn, bỉ ổi, không cho nhau điều lành mà chỉ cho nhau khổ ải gian truân. Trí không của con người chỉ để chèn ép tù tội lẫn nhau, tranh dành quyền vị, chia rẽ cấu xé. Thật là đau đớn, ý nghĩ về quê hương đất nước con người lòng tôi càng thấy khô héo.
Đi thăm chồng nhân dịp lễ vu lan! Trong lúc chờ tới lượt để được gặp lại anh..Lòng bồn chồn khắc khoải..mà cứ ngỡ mình là Chức Nữ đang đứng bên này Ô Thước...trong làn mưa bụi thê lương... để ngóng chờ chồng xuất hiện bên kia cổng trại giam... mà lòng tái tê sầu luỵ...Nhưng rồi cái giây phút thần thoại tưởng tượng hãi hùng đó qua đi...để đưa tôi trở về cái thực tại của ngày lễ Vu lan buồn thảm....Bên trong bức tường xám xịt chằng dây thép kia là bóng hình thân thương của anh..

ÔI! biết đến bao giờ anh lại trở về với em và các con...

Sự sống cứ khoắc khoải trôi qua một phút... một ngày! Một ngày... dài ghê, nhưng còn đủ để cảm nhận:

"Nhất nhật tại tù
Thiên thu tại ngoại"

..............................................................................

Những hạt mưa ngâu vẫn rơi rơi hoài trên thành Nội..cho lòng tôi tê tái ...
Huế 27 tháng 09 năm 2008
Phương Thuý
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Truyện ngắn
Reply #101 - 11. Sep 2008 , 12:05
 
Tiếng Nổ Sau Chiến Tranh


Trẩn Ngọc Tuấn


Sau chiến tranh tất nhiên vẫn có tiếng nổ ví dụ như: Mìn phá đá, bắn tội phạm mang án tử hình, công an bắn kẻ cướp, kẻ cướp bắn công an...nhưng cũng có những tiếng nổ không nằm trong sự liệt kê của các nhà xã hội học...

Tốt nghiệp đại học, tôi về một thị xã nhỏ ở vùng than lớn nhất tổ quốc để có nơi thực thi kiến thức của mình phục vụ nhân dân đất nước ̣̣(điều này thấm vào từ sự giáo dục của nhà trường từ khi còn bé) tôi phải chạy qua biết bao cửa ải, lắt léo khôn lường (sự việc này hoàn toàn không có trong sách vở), trong nghệ thuật ngoại giao, trong đạo đức học, thẩm mỹ học...tôi không muốn kể chi tiết làm gì, bởi nó nhục nhã, cay đắng, bỉ ổi và đê tiện, những điều mà tôi hoàn toàn không muốn, và tôi chắc cũng chẳng công dân nào muốn ....

Nhà anh Bảo nằm gần cơ quan. Cuối tuần tôi hay tới nhà anh nói chuyện lăng nhăng. Anh Bảo làm nghề nổ mìn phá đá, trước là lính đặc công, anh nói: Tôi được mệnh danh vua chất nổ từng phá sập bao nhiêu chiếc cầu, kho tàng thời chiến tranh. Vợ anh tên Thản, làm việc tại khách sạn chuyên gia, anh Bảo lấy vợ muộn, chưa có con, anh nói: Phải chiến thuật lắm tôi mới cưa đổ em nó lúc xuất ngũ chỉ có mấy bộ quần áo, mũ cối thì bán đứt chiêu đãi bạn bè bữa rượu còm, được cái nhiều huân chương, huy chương, bằng khen. Chị Thản rất quý tôi, chị nói: Chị thương em. Tôi hỏi: Tại sao? Chị tủm tỉm: Vì em đần mà đần và trong sáng từa tựa giống nhau. Anh Bảo gãi tai: Yêu mến ơi! Em toàn đánh tráo khái niệm. Chị Thản nói: Anh chẳng hiểu gì, em lấy anh làm chồng vì yêu sự ngây ngô của anh...Chị tiếp: Đẹp nhất là mắt trẻ con khi đói được mẹ cho bú tí, dịu dàng, mãn nguyện. Anh Bảo nói: Sung sướng nữa, khi anh được thưởng huân chương chắc cũng có đôi mắt như thế. Chị Thản mắng yêu: Thôi, ông nỡm, mắt ông lúc ấy chắc hừng hực khí thế tấn công, đừng so sánh với mắt trẻ sơ sinh, mang tội.(không nói ra song tôi biết hai vợ chồng anh đều mong có con cho bớt phần cô quạnh).

Gần nhà anh Bảo có ông Cúc, người Miền Nam tập kết, lấy vợ địa phương. Ông không về quê, khi tôi hỏi thì thở dài: Trong đó chẳng còn ai... Biết chuyện chị Thản bảo: Ông ấy có vợ trước khi ra Bắc, ngại không muốn về.

Tôi hay đi săn nhím ban đêm với ông Cúc khi những cơn mưa đầu hạ trút nước. Vườn sắn mênh mông nằm kề núi, đây là nơi tung hoành của loài gậm nhấm hôi mùi chuột chù , nhưng thịt trắng thơm như gà mái tơ chưa chung đụng xác thịt với lũ gà trống phóng đãng. Đeo đèn thợ lò trên đầu, hai chúng tôi dò dẫm trên trảng cỏ đẫm nước. Ông Cúc thích dùng CKC, tôi ưa AK điểm xạ ba phát một. Ông Cúc bảo: Chắc cậu chinh chiến nhiều, bắn AK kiểu ấy phải là lính cựu. Tôi trả lời: Cháu học trường dân sự ra, chỉ bắn bia, giờ thì bắn nhím. (Tôi thấy buồn, mới 23 tuổi đầu, có người tưởng là lính cựu chắc mình già lắm). Ông Cúc lại nói: Chưa trận mạc mà bắn như vậy, chứng tỏ cậu có năng khiếu sát thủ. Tôi chữa: Xạ thủ mới đúng. Ông Cúc bảo: Cậu nên chuyển ngành đi học luật vì cậu biết cách cãi.

...Tôi và ông Cúc nép mình sau bụi cây, khi mưa nhẹ hạt lũ nhím bắt đầu chui ra khỏi hang chuẩn bị tấn công vào ruộng sắn. Mắt nhím khi bắt đèn đỏ hệt than bếp lò rèn, cứ nhằm vào điểm giữa kéo nhẹ cò súng, quá nửa đêm cũng hơn một tiểu đội nhím nằm gọn trong ba lô.

Hồng – con gái ông Cúc vừa tốt nghiệp phổ thông, hình như ông Cúc đang xin việc cho Hồng ở mỏ than Đèo Vàng. Hồng không xinh, nhưng cũng chẳng xấu, ưa việc bếp núc, dịu dàng. Tôi khoái khẩu món thịt nhím om sả do Hồng chế biến. Nhìn tôi ăn, Hồng nói: Anh nhai rau ráu như yêu tinh ăn thịt trẻ con trong chuyện cổ tích, khiếp thật, ai mà dám yêu. Tôi hỏi: Tại sao? Hồng trả lời: Phàm tục! Ông Cúc quệt đũa ngang miệng: Đàn ông phải ăn như hổ. Hồng bảo: Con nhím hiền lành, bắn nó tội nghiệp gây mất cân bằng sinh thái. Ông Cúc ngẩn mặt hỏi lại: Thế nào là mất cân bằng sinh thái? Hồng trả lời: Ba nên đọc thêm sách. Ông Cúc cười: Tao chỉ đọc Duy Vật Biện Chứng, Duy Vật Lịch Sử và Luật Công Đoàn, từng ấy đủ rồi. Tôi bảo: Không có cái nhét vào miệng thì loài người không tồn tại, chúng ta ăn rau, thịt, ngũ cốc, ăn thịt lẫn nhau mới đáng lên án. Hồng hỏi: Thế nào là ăn thịt lẫn nhau? Tôi trả lời: Giống như nhà nước chơi đểu các công ty tư nhân. Hồng thở dài: Nhục nhã và cay đắng quá khác hoàn toàn với sách vở và trên ti vi. Tôi bảo: Chỉ có đi xin việc mới nhục nhã và cay đắng thôi, còn mọi sự đều là quy luật và đậm đà bản sắc dân tộc. Ông Cúc hỏi: Dân tộc nào? Tôi trả lời: Dạ thưa bác, dân tộc Kinh.

Tôi yêu Hồng lúc nào chẳng biết, không tỏ tình, không tặng hoa mà đè Hồng ra nghiến ngấu trong bếp khi Hồng đang nấu cám lợn. Lúc ấy, đã nửa đêm, Hồng ôm tôi thút thít: Em sợ có chửa. Tôi nói: Yên tâm, anh xuất tinh ra ngoài. Hồng hỏi: Anh có cưới em không? Tôi trả lời: Đợi lúc nào anh được tăng lương. Hồng ngập ngừng: Có lâu không anh? Tôi bảo: Điều này phụ thuộc vào sự thỏa hiệp của anh đối với cấp trên, phải biết im lặng, biết hèn và cộng thêm tố chất lưu manh, càng vô học càng tốt. Hồng nói: Em nổi hết gai ốc.

Ông Cúc hình như biết chuyện, cũng chẳng ủng hộ hay phản đối, chỉ xa xôi: Chồng kỹ sư, vợ công nhân đó là sự liên minh giữa trí thức và người lao động. Giai cấp công nhân luôn làm đầu tầu trong gia đình hay ngoài xã hội cũng vậy.

Phó Giám Đốc phụ trách kỹ thuật gọi điện cho tôi: Tối nay chiêu đãi chuyên gia Hàn Quốc tại nhà hàng “Biển Đông” vào lúc mười chín giờ ba mươi. Tôi sẽ cho xe tới đón cậu.
Nhà Hàng “Biển Đông” sang nhất thị xã, chiêu đãi viên cô nào cô nấy đẹp như tiên giáng trần, nói tiếng Anh trơn tru phát âm đúng giọng London, mấy anh bảo vệ giỏi võ Karate và KungFu. Xe vừa tới nơi, ông chủ quán xăng xái: Mời quý khách vào đây. Gian trong cùng kín đáo, ấm cúng, đèn mầu hồng, máy điều hòa nhiệt độ chạy rất êm, văng vẳng khúc tam tấu soạn cho Piano của Mozart, khăn bàn trắng tinh, thìa nĩa nạm bạc, ly cốc pha lê Pháp. Ông chuyên gia Hàn Quốc nom giống vị Chủ Tịch đã quá cố ở Bắc Triều Tiên. Ông tự giới thiệu: Tên tôi là Kim Young Sam, trước từng tham chiến tại Bình Định Miền Nam Việt Nam.

Khai vị bằng rượu rắn, con Hổ Mang trong tay người hầu bàn ngoe nguẩy đuôi, đường dao cứa nhẹ ngang cổ máu phụt ra có vòi xói vào từng ly rượu nếp. Ông chuyên gia Hàn Quốc nói: Món này tuyệt vời, người cắt cổ rắn như một nghệ sĩ không giọt máu nào rơi ra ngoài. Phó Giám Đốc lên tiếng: Sẽ còn nhiều bất ngờ cho ngài. Giám Đốc tiếp lời: Đất nước tôi có rất nhiều điều kỳ diệu ̣(Tôi dịch nhanh các mẩu đối thoại và không quên uống cạn ly rượu pha máu rắn)...Món chim sẻ nướng tẩm ngũ vị hương được bưng ra cùng lúc với đĩa thịt nai xào lăn, kèm theo mâm tôm hùm, hào sống và lỉnh kỉnh một đống gia vị. Tôi cắm đầu vào ăn, kệ cho mọi người uống rượu khui bia. Phó Giám Đốc vuốt má bẹo cằm cô phục vụ, giọng líu ríu: Thơm! Cho tụi anh bao tử lợn rừng tiềm thuốc bắc. Ông chuyên gia Hàn Quốc gọi thêm két bia, một chai nếp cẩm: Tôi chỉ thích rượu gạo, ông giải thích.

Giám Đốc nói như quát: Mở băng nhạc nào “bốc bốc” vào. Thơm nḥẹ nhàng: Thưa anh, đây là những bản nhạc cổ điển nổi tiếng của các nhạc sĩ lừng danh như Chopin, Mozart, J.S. Bach...Giám Đốc nói: Cả ba ông này là người Nga tôi không thích nghe, chỉ có nhạc Mỹ mới hấp dẫn, em gọi thêm mấy cô vào đây uống với bọn anh cho vụi, anh sẽ bao trọn gói.

Bầy tiên nữ mặc váy ngắn ùa vào bá vai bá cổ các vị khách, họ gắp thức ăn đút vào miệng nhau nom thật tình tứ. Ngồi trên đùi tôi là cô gái trạc mười tám, đôi mươi. Cô áp sát đôi vú mềm nhẽo õng ẹo: Em mớm cho anh ăn nhé. Tôi trả lời: Cám ơn, răng tôi còn chắc.

Vẫn đủ tỉnh táo quan sát bàn tiệc, tôi thấy tay của Giám Đốc luồn vào váy Thơm. Phó Giám Đốc đang “Bóp đất nặn tượng” trên ngực cô gái ngồi cạnh. Ông chuyên gia Hàn Quốc quỳ xuống vùi đầu vào háng một cô khác. Tôi cứ ăn, mặc kệ sự đời, ăn ráo riết, món nào ngon là gắp, tôi mong mình có được dạ dầy của cá voi và sự dũng mãnh của hổ báo vào giây phút này, mấy khi...

Hai két bia hết sạch, rượu cũng thế, Phó Giám Đốc gọi: Cho thêm hai két nữa, và rượu nếp cho đối tác Hàn Quốc. Giám Đốc phấn khích: Cứ uống cho đã, khỏi sợ say, ai nôn cứ việc nôn, đã có cháo yến và súp vi cá giã rượu.

Đến lúc cả ba ông “ Cho chó ăn chè” , họ nôn thốc lên bàn, tôi phải cố kìm nếu không cũng cho ra sản phẩm vì cái mùi hết sức khó chịu...

Ba anh say rồi, để em lấy khăn ướp lạnh lau mặt cho – Thơm nói.

Khỏi! Giám Đốc bảo, rồi tiếp: Nếu các em ăn hết chỗ bọn anh nôn ra, anh sẽ cho mỗi em ba trăm Dolars.

Tôi ngỡ ngàng vì cái sự thách đố, cả triệu Dolars thì cũng chẳng dám. Đã thế, tôi phải dịch lại cho ông chuyên gia Hàn Quốc biết được nội dung sự thách đố này theo lệnh của Giám Đốc.
Cô gái ngồi gần tôi nhấp nhổm mắt lòe lên ánh đỏ (y hệt mắt nhím khi bắt đèn). Chỉ một thoáng lưỡng lự, các cô tiếp viên cúi xuống, húp, nuốt, liếm hối hả và tốc độ còn nhanh hơn khi tôi ăn món thịt nhím om sả mà Hồng thường chế biến.

Ông Kim Young Sam vừa cười, vờa nói: Quả như Giám Đốc của ông nói lúc đầu, đất nước này thật lắm điều kỳ diệu. Tôi lảng sang chuyện khác để kìm lại sự nhục nhã, uất ức: Tôi muốn rủ ngài đi săn nhím, Thịt loài gậm nhấm này tuyệt vời khi nấu với sả. Mắt ông ta sáng lên: Tôi rất thích săn bắn, tuần sau được không? Tôi trả lời: Vâng! Tuần sau.

Bụng chị Thản đã to, anh Bảo vui lắm, anh nói: Bốn nhăm tuổi tớ mới chuẩn bị được làm bố. Tôi hỏi: Anh thích con trai hay con gái? Anh cười khì khì: Đầu gái, thứ là trai để nối dõi tông đường. Chị Thản lườm anh: Đẻ một đứa thôi, nhà mình nghèo lấy gì mà nuôi. Anh Bảo nói: Vùng than được mệnh danh là:”Vàng đen của tổ quốc”, thời đổi mới công nghiệp sẽ phát triển lo gì công ăn việc làm. Chị Thản gắt: Chờ đấy, vàng đâu chẳng thấy, chỉ hít bụi than lỗ mũi thọc tay vào đen sì...

Đúng hẹn, tôi và ông Kim Young Sam đi săn nhím. Trời mưa mỏng, cuối hè hiếm có những cơn mưu dữ dội, lũ nhím có vẻ lười biếng trong việc kiếm ăn, chúng ít ra khỏi hang, quá nửa đêm mới hạ được một con, bù lại đó là con nhím quái dị lông đỏ au. Ông Kim nói: Điềm gở, theo quan niệm dân tộc tôi, đây là nhím chúa, cái chết của nó báo hiệu sự bất hạnh...Chợt vang trong đêm tiếng nổ dữ dội không bình thường như tiếng mìn phá đá, âm thanh lay động những hạt mưa bám trên lá rơi lọt vào cổ khiến tôi rùng mình...

...Tôi về nhà lúc ba giờ sáng, mệt mỏi rã rời tưởng ngủ được ngay nhưng trằn trọc mãi, cảm giác bất an từ khi nghe tiấng nổ...con nhím lông đỏ au...lời ông Kim về điềm gở cứ ám ảnh. Sáu giờ sáng ông Cúc tới phòng tôi, mặt tái xanh, miệng lắp bắp: Vợ chồng anh Bảo chết rồi. Ông kể: ..Chị Thản trở dạ, anh Bảo và ông đưa chị vào bệnh viện huyện. Chị Thản tuổi cao nên đẻ khó phải mổ mới bảo đảm tính mạng cho chị và đứa con. Bác sĩ phụ trách khoa sản yêu cầu phải có số tiền hai triệu vì phải tiếp máu. Tôi và anh Bảo cuống lên chạy về nhà, tôi lục vét được một triệu, anh Bảo “tổng động viên” túi trên, túi dưới gộp lại vẫn không đủ. Năn nỉ mãi gã bác sĩ vẫn lắc đầu quầy quậy...Thế là...

Khi người hộ lý báo tin chị Thản đã tắt thở, cứ ngỡ anh Bảo phải lồng lên, nhưng không, mắt anh khô khốc, anh nói với bác sĩ: Cho tôi vào nhìn mặt vợ lần cuối. Trên đường về anh nói: Sẽ có trận đánh cuối cùng sau chiến tranh... Tôi ngắt lời ông Cúc: Bác chẳng nhạy cảm chút nào. Ông Cúc kể tiếp: Theo sự phán đoán của mọi người, anh Bảo buộc thuốc nổ vào người lao vào phòng gã bác sĩ và điểm hỏa, anh ấy từng được mệnh danh là vua chất nổ mà...
Thảo nào! Vào thời điểm ấy ̣(khi cùng ông Kim Young Sam đi săn nhím) tôi đã nghe thấy tiếng nổ dữ dội…Anh Bảo và chị Thản ơi! Hai triệu, không bằng số tiền ông Giám Đốc trả cho cô phục vụ ăn hết mọi thứ ̣nôn ra trong nhà hàng Biển Đông ( Tôi muốn hét lên nhưng cổ họng tắt nghẹn).

Ông Cúc mếu máo: Cái Hồng theo bạn bè buôn mắt mèo sang Trung Quốc, con ơi! (lần đầu tiên ông gọi tôi bằng con) . Hai tuần rồi không thấy nó về, ba nhờ con tìm cái Hồng dùm.
Tôi đi, rừng bạt ngàn, thị xã vùng than lùi sau lưng, biển không còn nữa, tiếng con nai gọi cái nghe thiết tha, buồn bã. Hồng em ở đâu? Tôi thì thầm, nước suối trong lạnh ngắt khi lội qua. Tôi tin sẽ gặp em, sẽ không có điều gì tồi tệ xẩy ra. Bởi lẽ niềm tin, hy vọng của con người vô cùng lớn, ch̉ỉ cần căn cứ vào số lượng phát hành tiêu thụ xổ số, đánh số đề trên khắp các hang cùng ngõ hẻm ở xứ sở tôi thì hiểu ngay, khỏi cần phải bàn cãi.
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #102 - 09. Oct 2009 , 21:08
 


...



Cứ đều đặn ngày nào cũng giống nhau, trời chưa sáng để nhìn rõ mặt người, người ta đã thấy bà cụ đã dọn hàng quà sáng ra bán.  Bà bày hàng trên một khoảng đất trống được tráng xi-măng, nằm lệch một bên hai cạnh cửa sắt lớn của một ngôi nhà khang trang.  Hai cánh cửa này rất ít khi được mở ra, những người trong ngôi nhà này thường ra vào bằng cánh cửa nhỏ bên cạnh, và họ đã tốt bụng cho bà ngồi đó.

Hàng quà sáng của bà bình dân, bản thân của bà bình dân, nên khách hàng cúa bà cũng rất bình dân, giản dị.  Họ là những anh chị công nhân, những em học sinh, những người làm thuê, những anh đạp xe ba-gác, xích lô v.v.. đủ mọi lứa tuổi.
 
 
Trong xóm tôi không ai biết bà từ đâu tới, ban đầu người ta thấy bà gánh hàng đến bán, một hồi lâu bà lại gánh đi, cứ đều đặn như thế cho đến một thời gian người ta không thấy bà đi đi, về về nữa.  Sáng ra đã thấy bà có mặt và khi bán xong thì bà thu dọn vào một chổ cư trú nào gần đó.  Vào xế chiều khi tiếng kẻng của ngôi Nhà Thờ nhỏ trong xóm tôi vang lên thì người ta thấy bà chậm rãi, bước lom khom với chiếc lưng hơi còng trong chiếc áo dài đã cũ nhưng rất tươm tất đi đến Nhà thờ xem lễ.  Người ta không biết bà tên gì, thứ mấy để gọi, nên họ chỉ gọi đơn giản là "bà cụ Cháo Lòng".  Họ gọi thế có lẽ vì bà nấu cháo rất ngon mà lại rẻ.  Khách đến ăn thường xuýt xoa vì mùi thơm của nồi cháo nóng bốc lên mỗi khi bà mở nắp vung ra để múc cháo vào tộ .  Những miếng thịt lòng đủ loại được xắt mõng bởi bàn tay khéo léo của bà được bày trên mặt cháo và phủ lên trên là một ít hành xanh, tiêu, ớt ...  Từng ngụm cháo nóng, thơm lừng được thổi phù phù trôi qua cổ họng.  Những miếng thịt ngọt ngào, béo ngậy cộng với hương vị tiêu, ớt cay nóng của cháo đã làm cho người ta vẫn còn thòm thèm muốn được ăn thêm nữa.  Khách hàng của bà ngày càng nhiều bởi tài nấu cháo của bà.

Về trưa vắng khách, người ta thường thấy bà ngồi im lặng, tay chống cằm, mắt bà nhìn tận đâu đâu...  Nếu để ý sẽ thấy hình như bà thầm thì nói chuyện một mình.  Bà cụ rất vui vẻ với mọi người nhưng cũng không che dấu được nét trầm ngâm toát ra trên đôi mắt, trên vẻ mặt của bà.  Nhìn những nếp nhăn trên gương mặt, những đường gân xanh nổi rõ trên hai bàn tay của bà, tôi nghĩ bà phải có đến cháu gọi bàng bà Cố, chứ chẳng chơi!

Cách nơi bà ngồi bán một đoạn ngắn là trường Mẫu Giáọ.  Bà thường cười nói với những đứa bé di ngang qua để đến trường.  Lâu dần những đứa bé này đều quen thuộc với bà và ngược lạị.  Cha mẹ chúng dạy chúng chào trả lại mỗi khi gặp bà.  Nghe tiếng nói xuất phát từ miệng của trẻ nhỏ, lòng bà ấm áp biết chừng nào.   Bà cười tươi khi thấy bóng dáng của chúng...  Tất cả những điều này tôi đều nhận thấy đã làm cho tôi tò mò muốn biết nhiều ít về bà.

Trong công việc mưu sinh hàng ngày, một mình bà làm tất cả: bà sửa soạn, nấu nướng, bày biện, dọn dẹp...  Bà làm bằng hai bàn tay, bằng đôi vai để tự nuôi sống mình sau khi bà đã bán đi gần hết những gì bà đã tậu được hầu tìm mọi cách cho người em trai của bà được ra nước ngoài.   Giờ đây chỉ còn lại bà lẻ loi trong cuộc đời, cô độc trong cuộc sống, cô đơn trong tâm hồn vì đã lâu, rất lâu rồi bà không còn biết tin tức gì về người em của bà nữa.  Bà nói với tôi nhưng đôi mắt của bà nhìn ra xa lắm, dường như bà thấy lại rất rõ hình ảnh của bà lúc mười chín tuổi, tay dắt đứa em trai mười ba tuổi, tay kia là một chiếc va-li nhỏ.  Hai chị em chạy vội vàng, vấp ngã, chen lấn, xô đẩy với đám đông để kịp bước xuống chiếc tàu thủy lớn đi vào miền Nam vào những năm xưa ấy.   Ông bà cụ thân sinh đã mất khi bà mười sáu tuổi.  Bà đã phải làm thuê, làm mướn, chịu cực khổ để nuôi hai chi em.  Bà thương em vì sớm mồ côi cha mẹ chỉ còn biết nương nhờ vào bà là người chị duy nhất mà thôi.

Vào đến miền Nam, bà làm tất cả những công việc gì có thể làm: làm thuê, làm mướn, phụ hồ, buôn bán ngược xuôi, bà không quản ngại nhọc nhằn, miễn sao có thể nuôi sống được hai chị em, và nhất là bà cố gắng cho em bà được đến trường học ...!

Tôi nhìn vào gương mặt bà để thử hình dung nét mặt của bà khi còn trẻ ra sao. Tôi có cảm tưởng bà là một người mẹ đúng hơn là một người chi..   Giọng nói chậm rãi, lời nói mộc mạc hiền từ của bà khiến người nghe cảm nhận được niềm hạnh phúc, vui sướng của bà khi thấy đứa em trai nhỏ ngày nào mỗi ngày học càng tiến tới.  Em bà học càng cao thì đôi vai của bà càng nặng.  Nhưng bà không ngại gì cả vì tình thương của bà chan hòa lên hết mọi sự.   Bà sẵn sàng hy sinh những gì có được để cho tương lai người em không phải chịu gian nan, khổ cực như bà.

Hàng quà của bà lúc nào cũng hết sớm.  Bà thu dọn mọi thứ rồi để vào một góc nhà.  Gọi là nhà chứ thực sự đó chỉ là một chái nhỏ được xây thêm bên hông của một căn nhà lớn.  Căn chái này có diện tích vừa đủ để kê một cái giường nhỏ, một tủ đựng quần áo, một cái bàn con, thấp. Trên vách tường người ta thấy có bức hình Đức Chúa Jesus, và bên cạnh đó có treo một xâu chuỗi hạt.  Đó là nhà của bà.  Bà đã có một nơi ở cố định và yên ổn sau một thời gian dài ở tạm rày đây, mai đó.  Sự tử tế, tốt bụng vẫn có trong cuộc đời này, nên bà đã được người ta để cho bà cư ngụ trong căn chái nhỏ này mà không đòi hỏi một điều kiện nào.  Từ lúc ấy bà không còn phải gánh gồng đi về xa xôi nữa.

... Xa xôi, phải! xa lắm rồi bà không còn nhớ rằng tuổi xuân thì của mình đã đi qua hồi nào không hay biết.  Bà không hề biết có người đàn ông nào yêu thương bà không, cũng như bà không có thì giờ để trái tim rung động trước ánh mắt của ai đó khi mà hoàn cảnh bơ vơ, nghèo khó của chị em bà nơi miền đất mới xa lạ này vẫn còn là gánh nặng trên vai.  Bà vừa hỏi chuyện tôi những câu thăm hỏi thông thường, vừa đưa hai bàn tay lên sửa lại cái khăn quấn trên đầu.  Tóc bà bạc gần hết nhưng còn rất dày.   Mái tóc này - tôi nghĩ - cho đến nay chưa có một bàn tay trìu mến nào vuốt ve lên nó.  Mái tóc này, vẫn còn nguyên vẹn sự trinh trắng, trong sáng của một người "con gái" đã già.  Từng sợi tóc già nua ấy đã được nuôi nấng bởi một tình thương bao la, một trái tim hiền hậu của bà.

Rồi người chị mười chín tuổi ngày xưa đó bây giờ đã đến lúc thay thế mẹ cha để cưới vợ cho người em trai ngày nào.  Bà rất sung sướng khi em của bà thành gia thất.  Bà xem đó là sự đền đáp công lao của mẹ cha.  Bà đã dành dụm chắt chiu để cho em bà có được ngày nay: học thành tài và lập gia đình.  Bà cũng chẳng bận tâm để nghĩ rằng hai chi em bà đã bắt đầu xa cách một chút rồi.  Bà chẳng cần nghĩ suy xa xôi.  Bà bằng lòng với tất cả những gì đã làm được cho đến lúc này.

"Bà Cụ Cháo Lòng" đã cư ngụ ở xóm tôi khá lâu, nhưng hình như chưa ai thấy có người nào đến thăm bà.  Buổi sáng bà dọn hàng ra bán, buổi chiều thì bà đi xem lễ ở nhà thờ.  Cứ như thế đều đặn ngày qua ngày.  Bà đọc kinh trong nhà thờ, và cầu nguyện với các đấng thiêng liêng mỗi ngày cho người em của bà được bình an, mạnh khoẻ ở nơi chốn xa xôi ấy, mặc dù bà không biết người em của bà bây giờ ra sao, và có còn nhớ gì về người chị này không.  Bà kể lại sự vui mừng xiết bao khi biết tin người em đã đi đến nơi yên ổn.  Bà tạ ơn đến các Thánh, Thần đã phù hộ cho hai chi em bà.  Bà vui sướng nhiều đến nỗi không nghĩ đến rằng hai chi em từ nay đã cách xa muôn trùng diệu vợi...

Tôi cố tìm trong giọng nói, trong ánh mắt của bà sự trách móc, than oán về người em... nhưng không!  Bà kể chuyện của mình giống như đang thuật lại một câu chuyện nào đó của ai kia - giọng nói của bà chậm rãi, đều đều, không có niềm vui cũng không pha lẫn sự buồn phiền.  Bà đã hiểu và mặc nhiên chấp nhận số phận của cuộc đời bà là như thế khi người em trai chỉ gửi về cho bà trước sau chỉ có ba lần thư thăm hỏi... rồi biệt tăm, biêt tích!!  Tình thương của bà đã thôi thúc bà tìm đủ mọi cách để thăm hỏi tin tức của em mình: bệnh tật, còn sống hay đã chết!  Dường như có nước mắt vừa ứa ra trong đôi mắt của bà khi kể cho tôi về lời nhắn gửi qua người quen của em trai bà rằng : Bà hãy tự lo cho bản thân bà đi ... đừng chờ trông gì nơi ông ấy.  Ông ấy bận rộn lắm, không có thì giờ để biên thư cho bà nữa đâu...

Tôi sợ mình sẽ khóc nên vội nhìn sang hướng khác. Tôi bồi hồi, có cảm giác như có vật gì chấn ngang cổ họng mình... , nhưng bà thì không, không có giọt lệ nào rơi xuống đôi má già nua ấy...!   Bà quen rồi, bà không trông chờ tin thơ của em bà nữa sau vài lần gửi thư đi mà không bao giờ được hồi đáp.  Bà chấp nhận sự chối bỏ tình thương ruột thịt của người em, một sự thực bất hạnh không thể biện hộ được sau một thời gian rất dài đã cho bà sự khẳng định này.

"Bà Cụ Cháo Lòng" vẫn bày hàng, dọn hàng thui thủi một mình, vẫn có lúc ngồi yên lặng nhìn về đâu đó trên ngọn lá, trên khoảng không, thì thầm một mình.  Vẫn như thế... chỉ có một mình.

Những tô cháo lòng nóng hổi, thơm ngon của bà đã làm những khách hàng nhớ tiếc vì từ nay đã vắng bóng hàng quà sáng của bà trên khoảng đất trống tráng xi-măng quen thuộc ấy vì một sớm mai kia bà đã yên bình đi về miền vĩnh cữu.  Bà ngủ giấc ngàn thu rất thư thái, trên tay bà vẫn còn cầm xâu chuỗi hạt. Tôi có cảm tưởng như bà đã biết trước sự ra đi của mình vậy!

Đưa tiễn bà có rất nhiều tấm lòng tử tế trong xóm.  Bà được đưa vào Nhà thờ lần cuối cùng.  Không có một vành khăn tang nào đi sau bà!!  Thân xác bà đã yên nghỉ. Tâm hồn bà cũng đã yên nghỉ.  Nơi bà tất cả đều là sự bình an vì trái tim của bà chứa chan tình thương yêu, lòng tha thứ, không hề oán trách, buồn phiền.

"Nước mắt bao giờ cũng chảy xuống !!"

Tôi cầu nguyện cho linh hồn bà - một "người mẹ" trong một người chị - mãi mãi bình yên.

H.D


Back to top
« Last Edit: 10. Oct 2009 , 19:46 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #103 - 18. Nov 2007 , 07:19
 
Lời Cuối
             Phạm Vỉnh Đông
Chiều chiều ra đứng ngỏ sau
Nhớ về quê mẹ. ruột đau chín chiều
          Ca dao
Chuông điện thoại reo vang, giật mình, như cái máy, tay bật đèn đầu giường , mắt nhìn đồng hồ : 12 giờ 30 đêm. Chờ đến tiếng thứ ba mới nhấc điện thọai.                                             
Giọng thằng em từ quê nhà lạc lỏng buông xuôi :
    - Má xấu quá rồi, không còn biết gì nữa ! Anh nói với Má vài tiếng đi.
Tôi tuyệt vọng :
    - Má đâu còn nghe được!?
Thằng em nài nỉ :
    - Anh nói với Má vài tiếng đi , Má còn chờ anh đó!
Tôi nghẹn ngào trong điện thoại như một lời tạ tội:
    - Má ơi, con không về kịp, thôi Má hãy đi đi, đừng chờ con nữa!
Mười lăm phút sau, chuông điện thọai lại reo vang, giọng thằng em nảo ruột : "Má đã ra đi

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #104 - 18. Nov 2007 , 07:21
 
From: Truc Cao
Sent: Sunday, November 18, 2007 6:37 AM
Cho mẹ hiền yêu dấu
Lang Le

Chiếc Boeing 767 cất cánh từ Hong Kong, với đa số hành khách là người Việt Nam, đảo một vòng tròn nhỏ trên không phận Sài Gòn rồi nhẹ nhàng đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất trong ánh nắng chói chan cuối ngày. Sau tín hiệu cho phép hành khách tháo gỡ thắt lưng an toàn, mọi người trên máy bay ùn ùn đứng dậy. Hình như ai cũng nôn nóng, có những tiếng hối thúc và có cả tiếng trẻ con khóc ở cuối phi cơ.
Tôi vươn vai, làm một vài động tác bẻ lưng cho đỡ mỏi sau chuyến hành trình dài, chung quanh là đại gia đình của tôi, gồm đủ mười hai người: ba tôi, vợ chồng chúng tôi và ba con, vợ chồng Thủy và hai cháu, và cuối cùng là vợ chồng Nguyên, đứa em út của tôi.
Chuyến đi này đại gia đình tôi đã dự định và sửa soạn trước cả gần hai năm, kể từ lúc Nguyên báo tin cho cho chúng tôi là muốn làm lễ hỏi với người yêu của nó. Ba tôi muốn Nguyên làm đám cưới vào cuối tháng Hai, và sau đó cả gia đình sẽ làm một chuyến về thăm quê hương. Ba bảo với chúng tôi là ba muốn đem toàn thể con cháu, dâu rể về trình diện mẹ.

Ba tôi là kỹ sư, trưởng ty công chánh Pleiku, còn mẹ tôi là cô giáo. Ba mẹ tôi quen và yêu nhau ngày ba còn là cậu sinh viên Phú thọ, và mẹ là dân Văn Khoa. Ba ra trường lên nhận việc ở Pleiku làm ông kỹ sư Công chánh trẻ tuổi. Mẹ ra trường sau đó hai năm. Hai người làm đám cưới, rồi mẹ theo chồng lên miền… phố núi mù sương. Có lẽ tiếc cho mảnh bằng cử nhân Văn khoa của mình nên mẹ xin vào dạy ở một trường trung hoc tư tỉnh lỵ. Mẹ làm cô giáo từ đó. Lúc ấy chưa có cả tôi.
 
Cuộc sống của gia đình tôi có thể gọi là một gia đình lý tưởng. Sau giờ làm ở sở, ba tôi thích nghe nhạc, làm vườn và sửa xe. Nhà tôi có một khu vườn rất rộng, ba để dành một khoảnh nhỏ để trồng rau cải cho cả gia đình ăn quanh năm, đất còn lại ba trồng toàn hồng. Tôi còn nhớ những trái hồng đỏ ửng, trĩu nặng làm cành oằn xuống. Những cọng lá hồng to xanh, ướt sương phản chiếu rực rỡ trong nắng mai...
Làm việc ở ty công chánh một tỉnh lỵ miền cao có lẽ cũng nhàn hạ, nên ba dành nhiều thì giờ cho các thú vui đặc biệt của mình. Không biết ba mua được ở đâu một chiếc mô tô hai bánh BMW đen rất cũ – Có lẽ nó đã được sản xuất từ thời Pháp thuộc, và đã nằm phơi sương nắng vài chục năm trời. Mang về chiếc xe không chạy được, hai bánh cao su xẹp lép và khung sắt thì đã hoen rỉ gần hết, ba mầy mò sửa chữa. Có những hôm ba mời mấy chú ở sở về, mấy người vừa săm soi chiếc xe vừa bàn tán gì đó. Có những món phụ tùng ở Pleiku không kiếm hay chế tạo ra được, ba phải về Sài Gòn lùng tìm. Ba tôi quý chiếc mô tô này lắm, tôi đã từng thấy ba bỏ nguyên ngày thứ bảy đánh vật với chiếc xe cưng …
Mẹ tôi trừ ra mấy tiếng đồng hồ đến trường mỗi ngày, thì giờ còn lại mẹ dành cho gia đình. Mẹ thích nấu ăn và nấu ăn rất khéo còn cha con tôi thì lại thích thưởng thức, nên ngôi nhà tôi mỗi ngày đều thơm lừng mùi thức ăn. Sau này được lên chức Phó ty rồi Trưởng ty, rồi lại có thêm hai em Thủy và Nguyên, ba mẹ tôi vui lắm. Cả nhà suốt ngày rộn rã tiếng cười…
Trí óc non nớt của tôi lúc đó chưa biết tại sao nước mình có chiến tranh và người ta đánh nhau để làm gì. Trường của tôi cũng không xa nhà nên tôi sáng sáng xách cặp tung tăng theo đám bạn, hồn nhiên vừa học vừa chơi. Thành phố Pleiku có đầy lính tráng, nhưng chiến tranh chỉ xẩy ra ở đâu đâu chứ chưa bao giờ về đến thành phố. Thỉnh thoảng vào buổi tối có tiếng đại bác từ xa vọng về nhưng tiếng nổ không đủ vang xa để đánh thức thằng bé đang trong tuổi lớn. Cũng có thể ba mẹ chúng tôi bảo vệ chúng tôi kỹ qúa, anh em chúng tôi như những con sâu nằm bình an trong cái kén rất ấm áp của ba mẹ mình, hồn nhiên vui đùa, ăn ngủ.
Cuộc sống hạnh phúc của gia đình tôi chấm dứt đột ngột vào một buổi sáng đầu tháng ba năm 1975. Tôi năm đó vừa vào lớp sáu trung học đệ nhất cấp, Thủy, em gái tôi đang học lớp ba tiểu học, còn Nguyên thì lững chững biết đi.

Đã hơn 30 năm qua, tôi vẫn không bao giờ quên được những giờ phút kinh hoàng của buổi mai lịch sử đó. Chín giờ sáng thứ bảy ba tôi hớt hải chạy vào ty và lái chiếc Jeep của sở về nhà. Chất vội lên xe mấy cái vali áo quần và giấy tờ, ba hối thúc mọi người lên xe và lái đi. Thủy còn nhất định phải ôm theo con búp bê biết nhắm mắt mở mắt của em. Mẹ ráng xách theo một giỏ lớn đồ ăn và nước uống cho cả nhà và mấy bình sữa cho Nguyên.
Lúc chiếc Jeep của gia đình tôi rẽ ra con đường chính của thành phố Pleiku thì đã thấy đặc kín những người. Người và xe. Xe GMC, Jeep của quân đội, xe đò, xe nhà của tư nhân, xe ba bánh, xe gắn máy, xe đạp… Có những chiếc Honda chở cả gia đình, vợ chồng, con cái và còn thêm hai ba cái vali cồng kềnh. Có những chiếc Lambretta chất không biết cơ man nào là người, người ngồi trong xe, người ngồi trên mui xe, người đu theo càng xe… Anh em chúng tôi trố mắt nhìn cảnh tượng lạ lùng đó. Chung quanh tiếng người gọi nhau, tiếng khóc, tiếng la hét, chửi thề, hòa với tiếng máy xe nổ và mùi khói xăng bốc nồng nặc trong buổi sáng mai tạo nên một hình ảnh vừa rộn ràng vừa kinh dị.
Chúng tôi nhập vào đám đông cuồng loạn trên con đường dẫn ra khỏi thành phố, nhích dần, nhích dần, tiến lên phía trước. Lâu lâu lại có vài tiếng súng nổ, đoàn xe khựng lại, mọi người nhìn nhau, những cái nhìn thất thần. Ba mẹ tôi trong cơn hốt hoảng cũng không ai nói với ai lời nào. Mặt trời từ từ lên cao, ánh nắng mỗi lúc mỗi thêm gay gắt, đoàn xe vẫn như những con rùa trôi đi trong cái nắng chói chan. Những chiếc Honda, Vespa hai bánh chen chúc lạng bên này, lách bên kia, nôn nóng tiến lên... Tôi nhìn về phía trước, phía sau, bên trái, bên phải, xe cộ chập chùng như một cơn đại hồng thủy đang cuốn trôi cả thành phố núi.
( còn tiếp )
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 5 6 7 8 9 ... 11
Send Topic In ra