Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Truyện ngắn  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 6 7 8 9 10 11
Send Topic In ra
Truyện ngắn (Read 28263 times)
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #105 - 18. Nov 2007 , 07:22
 
CHO MẸ HIỀN YÊU DẤU
( Tiếp theo )
Cũng mất hơn cả tiếng đồng hồ thì chúng tôi mới ra khỏi thành phố. Hai bên đường đã bắt đầu xuất hiện những đám vườn xanh lá. Nắng mỗi lúc một lên cao...
Sau những giờ phút kinh hoàng ban đầu , bây giờ có lẽ mẹ mới nhớ đến chúng tôi, lục vội túi đồ ăn mang theo, mẹ lôi bình sữa ra đưa cho Nguyên. Tội nghiệp em tôi, có lẽ nó lây nỗi sợ hải của mọi người mà quên đi cơn đói. Thủy thì hai tay vẫn còn ôm chặt con búp bê, mắt ráo hoảnh không dám làm nũng mẹ như ngày thường…
Đoàn xe vẫn như đám rùa bò nhích dần từng bước, có nhiều lúc tôi nghĩ thà là xuống xe đi bộ còn mau hơn. Có lẽ một số đông người cũng nghĩ như thế, nên thỉnh thoảng tôi thấy một vài chiếc xe bị bỏ lại bên đường. Ba tôi vẫn kiên nhẫn lái xe.
Đến khoảng ba giờ chiều thì con đường không còn là con đường nữa. Có lẽ trục lộ này đã bị bỏ hoang từ lâu, cỏ hai bên đường mọc tràn kín lối đi, những lớp nhựa đường đã bị bóc lên từng mảng, những ổ gà, ổ voi sâu hoắm, một số xe cơ giới hạng nặng như GMC còn có thể vượt qua, còn những xe nhỏ thì đành nằm lại. Ba mẹ tôi đang chần chờ chưa biết quyết định thế nào thì bất thình lình từ bốn phương tám hướng tiếng đại bác nổ chụp trên đầu… Ba tôi cuống cuồng một tay ôm lấy Nguyên, một tay ôm lấy Thuỷ nhào vào vệ đường, mẹ tôi trong phản xạ tự nhiên hai tay ôm lấy đầu cũng nhào theo ba tôi trong lúc miệng thét gọi tên tôi. Tôi phóng xuống xe lẫn vào bụi rậm bên cạnh. Chung quanh tôi tiếng chồng gọi vợ, cha mẹ gọi con và tiếng đạn rít lên trong không khí nghe rợn người. Trong tiếng đạn nổ, nghe tiếng ba gọi tên tôi, tôi lên tiếng trả lời. Chưa đầy mấy giây sau thì ba tôi đã bò tới bên cạnh, kéo tôi vào lòng, và sau đó hai cha con tôi bò trở lại gần mẹ và em. Mẹ tôi đang ôm Nguyên, Thủy thì răng đánh lập cập, mặt không còn chút máu. Cả gia đình tôi ôm lấy nhau, ba me tôi dang hai tay ôm hết đàn con như muốn che chỡ cho chúng tôi thoát khỏi những tai ương. Chúng tôi dán chặt mình xuống đất như cố tìm sự che chở nhiệm mầu ở nền đất ẩm.
Khoảng năm phút sau thì tiếng đạn chấm dứt, có lẽ đây chỉ mới là màn pháo kích dọa dẫm mở đầu. Chung quanh, mọi người đã lục tục đứng lên, cũng may chỉ có vài người bị thương nhẹ, không phải vì mảnh đạn mà vì lúc vội vàng nhảy xuống xe, bị té trặc tay, hoặc trặc chân. Loạt pháo kích mở đường này báo chúng tôi biết là Viêt cộng biết chúng tôi đang làm gì, ở đâu. Cửa lò sát sinh đang mở rộng và chúng tôi, vợ chồng, cha mẹ, con cái cũng đang tự nguyện bước vào lò sinh tử.
Ba tôi sợ mẹ đi bộ không nổi nên nhất định vẫn chưa chịu bỏ xe, cả gia đình tôi lại leo lên, lần này chúng tôi chở thêm một cụ già và một em bé của một gia đình không quen biết. Bẩy người ngồi chật cứng trên chiếc Jeep công chánh. Ba tôi nổ máy xe, hình như ông nhìn thấy một cái gì kinh hoàng phía trước. Tôi thấy hai tay ba tôi run run trên tay lái. Mẹ tôi hai môi tím ngắt ngồi ôm em Nguyên ở ghế trước. Trên xe im lặng không ai nói chuyện với ai. Có lẽ sự sợ hải đã giết hết cảm xúc của mọi người.
Khoảng nửa tiếng sau thì nhiều chiếc hết xăng bắt đầu tấp lại bên lề, những người ngồi trên lục tục leo xuống ôm theo vali túi xách nhập vào đám người đi bộ mỗi lúc một đông. Một vài cụ già được chuyển lên những xe khác tiếp tục cuộc hành trình. Đến phiên chiếc của chúng tôi, nó rên khặc khặc vài tiếng rồi tắt máy. Ba vội vàng ép xe vào vệ đường. Tất cả chúng tôi nhảy xuống. Tôi cố gắng kéo cái vali nặng lặc lè của mẹ. Ba tôi một tay bồng Nguyên, tay kia xách theo cái vali. Mẹ tôi một tay dắt Thủy, vai mang cái túi xách đồ ăn và sữa của con, tay khác cố mang theo cái vali nhỏ chứa những giấy tờ quan trọng của ba.
Tôi không nhớ mình đi như thế được bao lâu thì lửa địa ngục nổ chụp trên đầu, từng chùm, từng chùm không ngơi nghỉ. Những tiếng kêu thét kinh hoàng, những tiếng khóc lạc giọng, những ánh chớp xanh lè và sau đó là những tiếng nổ khủng khiếp. Chúng tôi nhào xuống ôm lòng đất, không biết chạy đi đâu, vì chung quanh chỗ nào cũng ánh chớp và tiếng nổ. Tôi không còn hồn vía, nằm dán mình chặt xuống đất, hình như giữa những tiếng nổ tôi nghe tiếng mẹ gọi tên tôi.
Đợt pháo đến thật bất ngờ và chấm dứt cũng thật nhanh. Tôi lồm cồm ngồi dậy đảo mắt tìm ba mẹ. Và ô kìa, tôi thấy máu, máu đang lan ra từ hông của mẹ tôi, máu đỏ loang ướt cả vạt áo, chảy xuống chân mẹ. Mắt mẹ mở to, mẹ nhìn tôi và môi mấp máy gì đó. Tôi chết sững, miệng cố mở lớn kêu ba mà kêu không ra tiếng. Ba tôi cũng đã thấy máu, ba lao người lại bên mẹ miệng la lên thảng thốt. Một vài người bu lại. Một người đàn ông vén áo mẹ tôi lên, một đường cắt thật dài bên hông và từ đó máu hồng chảy ra như suối. Một người đàn ông khác vội vàng bụm tay vào bịt chặt vết thương, tôi không nhớ ai sau đó đã băng bó cho mẹ tôi.
Chung quanh tôi có những tiếng khóc, có một số người chết và rất nhiều người bị thương, còn mẹ tôi sau khi được băng bó thì tỉnh lại, nhưng khuôn mặt mẹ tôi trắng bệch như xác chết.
Chúng tôi ngồi lại một hồi cho ba lấy lại bình tĩnh. Sau đó tôi cõng Nguyên, ba tôi tay dắt em Thủy và lưng cõng mẹ tôi. Tất cả các vali đều vứt lại hết trừ cái túi xách đựng một ít đồ ăn và những bình sữa mà Thủy mang trên vai. Chúng tôi tiếp tục lên đường. Tôi không biết chúng tôi đang đi đâu, chung quanh tôi là rừng, con đường độc đạo bây giờ đã trở thành con đường của thần chết.
Máu từ vết thương của mẹ vẫn chảy ướt đẫm. Mẹ nằm thiêm thiếp trên lưng ba. Cha con chúng tôi mệt nhọc lầm lũi tiến về phía trước trong ánh nắng nhợt nhạt của chiều tà.
Đi thêm một đoạn đường nữa, đến một chiếc cầu ngang qua một giòng sông nhỏ thì trời đã bắt đầu xẩm tối. Ba tôi dừng lại, đặt chúng tôi ngồi bên cạnh mẹ, ba lấy sữa cho Nguyên và đồ ăn cho Thủy và tôi. Lục một cái túi xách nhỏ của ai vứt lại bên đường, ba tìm thấy môt chiếc mền cũ. Ba đắp cho Thủy và Nguyên giờ này đang thiu thiu ngủ, rồi ba đưa cho mẹ một bình sữa của Nguyên và bắt mẹ uống nhưng mẹ không chịu. Ba nói gì thật nhỏ vào tai mẹ nhưng mẹ vẫn lắc đầu quầy quậy. Sau đó tôi cũng mệt qúa mà thiếp đi…
Lúc tôi thức giấc thì bốn bề là đêm đen, tôi gọi ba và ba vội vàng lên tiếng trả lời. Hai em tôi vẫn ngủ say, ba tôi vẫn ngồi thức ôm mẹ tôi đang thiêm thiếp. Tôi xích lại gần mẹ, sờ vào tấm băng chung quanh bụng mẹ, tấm băng ướt đẩm…
Sáng hôm sau vừa mở mắt dậy là tôi tìm kiếm mẹ, mẹ tôi vẫn còn đó, ngồi dựa vào lòng ba tôi. Vết thương của mẹ vẫn ra máu suốt đêm, mặt mẹ bây giờ không còn trắng bệch mà tái xanh, ba tôi sai tôi xuống sông nhúng ướt nước cái khăn rồi ba dịu dàng lau mặt mẹ, mẹ tỉnh ra đôi chút, mẹ cố mở mắt nhìn chúng tôi, mẹ cố đưa tay ra để sờ vào Thủy và Nguyên còn đang say ngủ, mẹ nhìn tôi, mẹ nhìn Thủy, mẹ nhìn Nguyên và mẹ nhìn ba, và sau đó mẹ nhắm mắt lại. Tôi thấy môi mẹ mấp máy và từ khóe mắt mẹ hai hàng lệ chảy dài…

Ở lại Saigon một ngày thì gia đình chúng tôi thuê xe lên đây. Chúng tôi đang trở về chốn cũ. Trời Pleiku vào tháng ba thật đẹp, màu nắng vàng thật tươi trên hàng cây xanh, bầu trời trong vắt với những cụm mây trắng như bông nổi trôi bồng bềnh. Sau một đêm nghĩ ngơi và sau buổi điểm tâm tại một khách sạn khá tiện nghi ở trung tâm thành phố, mười hai người chúng tôi chất lên chiếc xe mười lăm chỗ ngồi. Trước khi đi ba tôi đã xuống quầy tiếp tân của khách sạn để mượn thêm hai chiếc mền len lớn. Chúng tôi ghé chợ mua một ít đồ ăn và nước uống cho cả nhóm, không biết nghĩ sao, tôi mua thêm một bó nhang thơm
Ba ngồi ở ghế trước nói nhỏ với anh tài xế cho xe chạy một vòng phố cũ. Xe chạy ngang qua ty công chánh nơi bà làm việc, chạy qua trường tiểu học của tôi và Thủy, chạy qua những ngôi trường trung học mẹ dạy ngày xưa, rồi rẽ vào đường có ngôi nhà của chúng tôi ba mươi năm về trước. Ngôi nhà tôi và các em đã sinh ra. Ngôi nhà có mẹ và những món ăn ngon lành của mẹ. Ngôi nhà có vườn hồng trĩu nặng trái, có chiếc xe môtô đen BMW cưng của ba, có tiếng cười ròn tan của chúng tôi ngày nào…
Ba bảo người tài xế ngừng lại bên kia đường rồi bước xuống xe tần ngần đứng đó. Hình như ba muốn băng qua đường, muốn lại thật gần căn nhà củ ngày xưa. Hình như ba muốn tìm lại những hình bóng của mẹ tôi, của người vợ hiền yêu dấu. Có lẽ không đủ can đảm nên ba chỉ đứng chôn chân ở đó để nhìn qua phía bên kia đường. Tôi xuống xe, đi lại cạnh ba, mắt ba tôi đang nhòa lệ. Khoác vai ba, tôi thấy mình như cây cổ thụ đang che chở cho ba tôi nhỏ bé bên cạnh. Ba rùng mình, lắc đầu như đang cố xua đưổi một ý nghĩ nào đó rồi ba quay gót. Tôi bước theo, hai cha con chầm chậm trở lại bên xe.
Chiếc xe chạy trên con đường năm xưa dẫn ra khỏi Pleiku, đường đã được mở rộng tráng nhựa, gần thành phố hai bên đường nhà cửa đã mọc đầy. Chỉ mất hơn một tiếng thì chúng tôi đến đoạn đường ngày xưa. Cảnh vật đổi thay thật nhiều, hai bên đường không còn là rừng nửa mà thỉnh thoảng đã thấy thấp thoáng mấy mái nhà tranh.
Tôi nhận ra ngay cây cầu cũ và giòng sông nhỏ… Tài xế cho xe đỗ lại. Chúng tôi xuống xe. Bên ụ đất mẹ dựa ngày nào bây giờ là một gốc cây cao, chúng tôi chuyển đồ ăn ra khỏi xe. Ba cho tài xế lái xe đi và bảo khoảng trưa thì trở lại đón chúng tôi. Có lẽ ba không muốn sự có mặt của người lạ trong giờ phút này. Chúng tôi trải hai cái mền bên dưới gốc cây. Tôi rút bó nhang, châm lửa đốt và cắm khắp chung quanh, mùi nhang thơm lan ra trong gió.

Chúng tôi ngồi quây quần bên ba tôi. Ba kể lại cho chúng tôi nghe câu chuyện của đêm kinh hoàng đó. Đêm ba ngồi ôm mẹ bị thương trong tay, bên cạnh là những đứa con thơ đang say ngủ, và chung quanh là rừng đêm. Nhìn xuống dòng sông, ba nói với chúng tôi là đêm đó ba đã quyết định ngồi lại bên cầu, ôm mẹ vào lòng cho đến hơi thở cuối cùng của mẹ, sau đó ba sẽ đem cả đàn con tự trầm để cả nhà cùng chết với nhau. Nhưng mẹ nhất định không chịu. Trong chút hơi tàn mẹ bắt ba hứa với mẹ là sáng hôm sau phải lập tức theo đoàn người đem con xuôi Nam. Mẹ bắt ba hứa với mẹ là phải sống để nuôi con khôn lớn nên người. Suốt đêm ba không ngủ, ôm mẹ trong tay và nghe cái chết đang đến dần với người vợ mình yêu quý. Ba dịu dàng nhắc lại cho mẹ những kỷ niệm thuở hai người mới quen nhau. Ba nhắc cho mẹ những nỗi hân hoan của ba khi được tin mẹ có thai các con. Mẹ an lòng thiếp đi trong lời hứa của ba là ba sẽ sống và sẽ mang các con thoát ra cái địa ngục này. Ba hứa như ba đã hứa với mẹ trong ngày cưới, trước Chúa, là ba sẽ yêu thương, chung thủy với mẹ trọn đời.
Giọng ba vẫn đều đều kể chuyện bên tai, nhưng tôi nghe như tiếng gió ở xa xăm. Mở mắt thật lớn và tôi thấy… và tôi thấy buổi sáng tháng ba Pleiku có nắng hanh vàng.
Tôi thấy đoàn dân chạy loạn, Thủy ngồi cạnh tôi với con búp bê biết nhắm mắt mở mắt, Nguyên ôm bình sữa ngồi trong lòng mẹ, và mẹ tôi, và ba tôi, và cây cầu và giòng sông nhỏ… Tôi thấy ánh lửa chớp lên và sau đó là tiếng nổ xé tai của đạn pháo; Tôi thấy tôi đang dán mình xuống nền đất ẩm; Tôi thấy khuôn mặt mẹ với thân hình đầy máu; Rồi tôi thấy mẹ ngồi lại đó, bên ụ đất ở chân cầu, phía dưới một chút là gìong nước bình thản chảy lặng lờ. Tôi thấy mẹ tôi đôi mắt đã lạc thần, cố gắng nhướng lên nhìn chồng và bầy con mình lần cuối. Tôi thấy ba tôi mắt nhòa lệ cúi xuống dịu dàng hôn lên đôi môi khô của mẹ. Tôi thấy ba tôi vừa khóc vừa bảo tôi và Thủy quỳ xuống lạy mẹ lần cuối. Và tôi thấy… tôi thấy ánh mắt của mẹ nhìn theo mình, nhìn theo Thủy, nhìn theo Nguyên đang được ba ẵm trên tay… Rồi tôi thấy chúng tôi lại nhập vào đám đông hỗn loạn. Tôi thấy ba tôi quay đầu lại không biết bao nhiêu lần nhìn về hướng cũ, nơi có chiếc cầu bắt qua giòng sông nhỏ, nơi đang có mẹ tôi ngồi dựa vào ụ đất bên đường chờ chết… Tôi thấy tôi một tay nắm chặt tay em, một tay nắm chặt tay ba vừa khóc vừa theo giòng người… trôi đi... trôi đi….

Cho mẹ hiền yêu dấu: Kỷ niệm bốn năm ngày Mẹ qua đời ...
Nguyễn Hữu Viện

Trái tim Mẹ đập nhịp cuối cùng
Thời gian ngừng cánh đỉnh không trung
Linh hồn hình hài vào tro bụi
Trong con kỷ niệm vọng chập chùng
Hạc già run rẩy giương đôi cánh
Niết bàn Thiên đường cõi mông lung
Thái Bình nhớ xiết bao trông đợi
Lòng Mẹ mãi bao la ngàn trùng

Paris tháng 9 năm 2007

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: NHỮNG CHUYỆN NGẮN HAY NHẤT
Reply #106 - 08. Nov 2009 , 01:57
 
NGUYỄN TẤN ÍCH
CON LU NHÀ TÔI


Trong ba chú chó mới sinh, bà dì ở Đà Lạt cho tôi một con và được chọn ưu tiên. Cả ba đều là chó đực nên chỉ cần lựa con nào có bộ lông đẹp nhất là đủ. Khi tôi ngồi sà vào ổ của ba chú chó chưa mở mắt, chợt con có màu lông xám, hai đốm vàng trên lưng ngúc ngoắc đầu đánh hơi bò về phía tôi. Nó đưa cái mõm mũm mĩm, ươn ướt ủi vào bàn chân của tôi. Cái đuôi cũn cỡn ngoe nguẩy như loài chuột xạ...
Hai tuần lễ sau tôi ghé thăm dì. Bầy chó đã mở mắt đang ngậm vú mẹ. Khi nghe tiếng tôi trốc trốc, chú chó lông xám ấy bỏ vú mẹ bò vào lòng tôi. Dù màu lông không nổi bật như hai con kia nhưng tôi thích cái tính thân thiện của nó ngay từ giờ phút đầu.
Mang chó về nhà, con tôi chê màu lông nhớp nhem rồi tự động đặt tên là Lu. Dù mới một tháng tuổi, nhưng khi rời chó mẹ về nhà tôi, Lu ít khi kêu đêm như những chú chó con khác. Ban đầu cho Lu bú bằng bình sữa, rồi cho ăn sữa đặc đổ vào đĩa. Chỉ ba tháng sau là Lu lớn như thổi.
Lai lịch của dòng họ nhà Lu cũng ly kỳ lắm. Jolie là tên mẹ của Lu, giống chó xù Nhật Bản, nhỏ con, chân thấp, dáng đi lũn cũn. Nó hay qua nhà láng giềng đùa giỡn với anh chàng berger to con, tai vểnh, đôi chân sau vạm vỡ. Một hôm, lũ trẻ đến trước nhà Dì tôi kêu giậât giọng rằng là con Jolie bị con chó berger của ông Tư Đợi tha đi khắp khu vườn. Dượng tôi hốt hoảng chạy sang. Những tưởng con berger đã cắn chết con xù của nhà dượng. Nào ngờ cảnh tượng lạ lùng rất khó tin đã xảy ra: Con berger lẹo với Jolie nhỏ hơn nó gấp mấy lần. Vì là phần kết thúc sau “cuộc mây mưa” của loài chó, cho nên hắn na con cái còn mắc cứng phía sau đuôi. Hai chân sau của con Jolie bị treo hỏng trên cao chỉ còn cái mõm và đôi chân trước bị kéo lê trên đất. Nàng kêu toáng lên khiến chàng đâm hoảng na chạy khắp vườn như na cái đuôi của mình trở nên nặng chình chịch. Kết quả cuộc tình giữa hai “chủng tộc”, nàng Jolie đẻ ra ba chú chó lai. Nhờ vậy mà đời con của nàng không còn mang dáng dấp thấp lè tè của loài chó xù nữa.
Con Lu lớn lên bộ lông ngày càng đẹp. Màu xám của mẹ pha màu vàng của bố mướt mượt như nhung. Hai đốm vá màu vàng đậm nằm hai bên hông, thoạt trông như yên ngựa. Dù không to con lớn xác như bố nhưng con Lu cũng vượt trội hơn đám chó nhà. Chân cao, dáng đi oai vệ như loài hổ. Hai vai rộng, u thịt nổi vồng lên khi nó bước đi. Cặp mắt ánh lên màu lửa như có thần lực. Đàn chó hàng xóm gặp Lu là cụp đuôi chạy dài. Sau này, những lần đi săn giải trí loanh quanh ở những khu đồi còn an ninh, tôi mới nhận biết loài chồn, loài thỏ thấy Lu là hồn xiêu phách lạc, đứng chôn chân tại chỗ.
Mỗi lần con tôi đi học về là dành nhau ôm Lu vào lòng. Tình cảm giữa chó và người không hề phân biệt. Ngoài cái khứu giác bẩm sinh độc đáo của loài chó có thể đánh hơi hàng mấy dặm, thính giác con Lu còn phân biệt được tiếng xe quen thuộc của tôi từ xa. Nó nghểnh mõm, ve vẩy đuôi chạy ra trước sân. Nhìn cử chỉ đó là nhà tôi đoán biết tôi sắp về đến nhà. Lu cạ vào chân tôi từ lúc xuống xe đến khi tôi vỗ về âu yếm nó mới chịu đi nơi khác. Lu cũng cảm nhận khá nhạy bén lúc tôi buồn bực hay giận hờn. Những lúc ấy nó nằm khoanh tròn nhìn tôi với ánh mắt buồn xo. Đến khi tôi vui vẻ trở lại là Lu chạy đến cạ lưng vào người và liếm tay tôi như để hòa đồng niềm hân hoan với chủ.


Sau ngày “gẫy gánh 75”, tôi lên đường trình diện ban Quân quản thị xã. Tôi mang theo mười ngày gạo cùng ít đồ dùng, từ biệt vợ con với bao âu lo trong lòng. Khi bước ra khỏi cửa, con Lu cứ luấn quấn cản bước chân, tôi trực nhớ đến nó liền cúi xuống ôm Lu vào lòng. Ánh mắt ươn ướt buồn thiu của nó nhìn tôi chẳng khác gì đôi mắt của vợ tôi rươm rướm lệ. Lu liếm vào mặt tôi như quyến luyến từ biệt chủ phải đi xa lâu ngày. Trong tù, nhớ lại ánh mắt con Lu, tôi hiểu ra rằng loài chó còn có một giác quan đặc biệt, cảm tính rất nhạy bén về thái độ và tâm trạng của người gần gũi nó . Những tưởng mười ngày nửa tháng rồi quay về, nào ngờ cách biệt gia đình với thời gian dài hun hút. Tôi nhớ con Lu cũng tương tự như nhớ các con tôi. Nỗi lo ngại của tôi là lương thực ngày một khó khăn làm sao vợ tôi chạy đủ bữa cho đàn con bốn đứa lại thêm miệng ăn con chó.
Một ngày nọ, nhà tôi lên trại tù thăm, cho biết chú Dương Thái Lân, con của bà cô Út tôi từ Bắc về Nam có ghé thăm gia đình. Chú ấy bảo con Lu có cốt tướng nòi săn, muốn xin nó về đơn vị nuôi để săn mồi cải thiện thịt tươi. Lân là vai em nhưng lớn tuổi hơn tôi nhiều. Đi bộ đội từ trước 1954, sau tập kết ra Bắc được sang Tiệp Khắc học ngành cầu đường. Hiện là thủ trưởng đơn vị Công binh sửa đường ở Cao nguyên. Vợ tôi nhất quyết không cho con chó, lấy lý do phải qua ý kiến của chồng.
Một hôm, quản giáo trại gọi tôi lên văn phòng ban giám đốc. Một anh bộ đội mặc áo quần đại cán ngồi trong phòng tiếp khách tay cầm một tờ tạp chí cuốn tròn. Anh cán bộ thấy tôi vào, liền hỏi :
- Nguyễn Tấn đấy à? Tôi ngập ngừng :
-Thưa vâng,
-Tôi là Dương Thái Lân.
Tôi à lên một tiếng để tỏ rằng mình biết hắn là ai. Thực ra, qua 21 năm ở Bắc và mấy năm đi bộ đội Vệ Quốc Đoàn làm sao tôi nhớ nỗi cái khuôn mặt ngày xưa của thằng em con bà cô Út. Đưa tờ báo cuốn tròn cho tôi, Lân bảo :
- Ngày trước anh cũng viết sách, làm báo dữ dằn đấy nhỉ ?
Tôi mở cuộn báo thì ra là tờ Bán nguyệt san Quyết Tiến. Đó là tạp chí do tôi trách nhiệm biên tập trước 75 do cơ quan USAID của Hoa Kỳ yểm trợ ngân khoảng để in ấn phân phát cho các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân. Tôi nghi là Lân đã tìm thấy tập báo nầy trong tủ sách tại nhà tôi.
Lân bảo :
- Tôi có đọc trong đó truyện dài “Nhật Ký Bích Phương” của anh viết đăng nhiều kỳ về Tết Mậu Thân 68. Viết bạo đấy chứ.
Tôi giật mình và cảm thấy bất an. Lân đưa tay ra hiệu lấy lại cuốn tạp chí rồi lên tiếng:
- Tôi có ghé nhà thăm chị Tấn. Giai đoạn này mà trong nhà còn nuôi con chó kiểu tiểu tư sản. Anh không sợ cặp mắt của quần chúng hay sao ?
Tôi than thở :
-Thời gạo châu củi quế, nhà tôi phải chạy gạo cho bốn miệâng ăn, nhưng vì nuôi nó từ lúc mới sinh nên tình cảm gắn bó như thành viên trong gia đình.
Hắn ngắt lời :
- Tôi có đề nghị với chị cho tôi mang con chó đó về đơn vị để đỡ bớt khẩu phần ăn cho gia đình nhưng chị bảo phải qua ý kiến anh. Mới nhìn là tôi biết nó thuộc giống chó săn quý hiếm và có thể chống lạïi cả thú dữ.
- Nếu chú thích con chó thì về hỏi nhà tôi, quyền quyết định ở bà ấy. Tôi trả lời.
Lân đưa cho tôi một cây thuốc Điện Biên, tôi từ chối không nhận vì tôi đã bỏ hút thuốc từ lâu, rồi chào hắn quay về trại.


Đến kỳ thăm nuôi sau, bà xã tôi báo tin chú Lân đến nhà bắt con Lu đi rồi. Bỗng dưng mắt tôi như nhòa sương, lòng xót thương con Lu vô hạn. Từ ngày vào tù, tôi nghi ngờ tất cả những gì người ta nói. Giờ đây Lân bảo đem Lu về nuôi hay ăn thịt chỉ có trời biết. Thấy mắt tôi rưng rưng ngấn lệ, vợ tôi an ủi:
- Lũ con mình cơm không đủ ăn mà phải nhường cho chó một ít, lòng em cũng xót xa lắm. Nó thiếu ăn nên cả đêm chạy rông kiếm mồi đến sáng mới về nhà. Lông nó ướt nhớp nháp, đầy bùn. Biết đâu có cơm bộ đội dư thừa thân nó sẽ mập ra. Mình có giữ lại một thời gian sau cũng bị người ta đập chết làm thịt thôi. Xã hội bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?
Hết giờ thăm nuôi, tôi đứng vào hàng. Nhìn đôi mắt nhòa lệ của vợ khiến lòng tôi xót xa vô cùng. Cả đêm hôm đó hình bóng con Lu cứ chập chờn trong giấc ngủ. Tôi mơ thấy đôi mắt buồn rười rượi của Lu nhìn tôi trong ngày ra đi như báo hiệu rằng nó không còn dịp gặp chủ nữa. Cái cảm giác man mác êm êm của lưỡi nó liếm vào mặt, vào cổ, giờ đây tôi vẫn không quên. Niềm tin gắng gượng nhỏ nhoi vào lời hứa của chú em con bà cô là xin con Lu để canh chừng thú dữ và săn mồi. Vả lại, cái công khó của Lân đã lặn lội đường xa đến trại cải tạo để gặp tôi nên cũng an ủi phần nào.
Ba tháng sau, vợ tôi với khuôn mặt hớn hở báo với tôi con Lu không còn ở với chú Thái Lân nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi dồn. Nàng kể:
- Cách đây một tuần lễ, chú ấy bất thần vô nhà mình không giữ kẽ như những lần trước. Chú dáo dác nhìn trước nhà, nhìn sau nhà, cả cái phòng ngủ của vợ chồng mình chú cũng ghé mắt quan sát. Đột nhiên Lân hỏi:
- Con Lu có chạy về đây không chị ?
Em sững sờ hỏi:
- Nó ở với chú mà ?
- Tức lắm chị ơi, Lân ngồi vào cái ghế đặt ngoài hiên, nói tiếp :
- Trước khi đi công tác Hà Nội, tôi gởi Lu cho chị nuôi lo ăn hàng ngày. Không ngờ các đồng chí trong đơn vị lợi dụng lúc tôi vắng nhà, bắt con Lu làm thịt đánh chén. Các anh ấy bỏ con chó vào bao bố dìm xuống nước. Khi mởû bao ra con chó không còn thở nữa. Họ yên chí ngồi chờ nồi nước đang nấu cho thật sôi để cạo lông. Ca nước sôi đầu tiên tưới vào lưng con Lu, bất ngờ nó vùng dậy chạy đi mất dạng. Lập tức các đồng chí ấy cầm súng lùng sục các ven rừng nhưng chẳng thấy nó đâu nữa. Tôi yên chí con Lu sẽ trở lại nhà chị vì nó vừa khôn vừa có sức mạnh khác thường. Tôi đánh giá thành tích săn bắt mồi của con Lu rất cao. Nó thường xuyên bắt được chuột đồng, thỉnh thoảng chồn hoặc thỏ. Mình có chất tươi thêm vào bữa ăn nên tôi quý nó lắm. Kể xong, Lân đi ra xe xách vào một bao cát đựng đầy gạo, bảo :
- Đây là số gạo tiêu chuẩn tôi đi công tác còn thừa, chị nhận cho các cháu bồi dưỡng và thêm phần cho con Lu. Nếu nó có trở về đây xin chị báo tin cho tôi biết.
Lân ra đi được một ngày.
Hôm sau, lúc chạng vạng tối, cả nhà đang ăn cơm, con Lu không biết từ đâu chạy xồng xộc vào nhà, mình nó ướt đẫm mồ hôi. Trên lưng một vết phỏng to bằng bàn tay lột hết lớp lông và đã bắt đầu làm mủ. Lũ con mình ôm con Lu vào lòng mừng rơi nước mắt. Cả nhà phải nhịn một phần cơm cho nó. Loáng cái là nó vét sạch đĩa cơm độn sắn. Lu ve vẩy đuôi, đưa lưỡi liếm từng người trong gia đình như để điểm lại những người thân. Mấy đứa con mang Lu ra giếng chà xát xà phòng, tắm rửa, bắt sạch ve vắt bám vào da. Em khui bình thuốc Peniciline rắc lên vết phỏng.
Chờ đến tối, bọn em mang Lu về gởi cho ông bà ngoại vì biết thế nào chú Lân cũng trở lại tìm chó. Đêm đó, Lu cứ theo chân em đòi về, thằng Doãn phải ngủ nhà ngoại để giữ con Lu ở lại. Em vuốt ve vỗ về:
- Con phải ở lại đây với ngoại. Lu không được theo mẹ về nhà, người ta sẽ đến bắt con đi, biết hông ?”.
Lu vểnh tai nghe lời em dặn nên ngoan ngoãn nằm trong lòng của Doãn mà không còn hậm hực đòi về nữa.”
Từ đó, hễ thấy người lạ vào nhà là Lu chui dưới gầm giường chìa đầu ra, nhe răng gầm gừ. Chỉ cần một cú giậm chân là đủ để nó phóng ra vồ ngay. Sau lần thoát chết, con Lu nghi ngờ hầu hết mọi người, chỉ trừ gia đình tôi và ông bà ngoại. Tính thân thiện của con Lu giờ đây không còn nữa. Loài chó rất trung thành với chủ nhưng khi bị một lần đối xử tàn nhẫn vớùi nó là bỏ nhà đi luôn.
Gia đình ông bố vợ tôi tuy ở thị trấn nhưng vì là vùng đấùt đai đã tạo mãi từ trước khi trở thành thị tứ nên nhà cửa vườn tược rộng thênh thang. Tiếp giáp với vườn cây ăn trái là cánh đồng mía, nay thuộc hợp tác xã nông nghiệp. Lu không bao giờ ra trước đường phố mà chỉ lùng sục trong vườn cây, ruộng mía sau nhà tha hồ bắt chuột, chim chóc, rắn rít. Nó sống như một tử tù thoát ngục. Nó biết ngoài xã hội loài người đang nhìn nó một cách thèm thuồng. Họ chỉ chờ cơ hội là biến thân xác nó thành miếng nhừ, miếng mận.
Ngày ra tù, tôi vào thăm ông bà nhạc gia. Khi vợ chồng tôi vừa đến cổng nhà, con Lu đánh hơi được từ trong nhà phóng ra chồm lên người tôi. Với sức nặng của nó đã khiến tôi té ngồi xuống đất. Người nhà ngỡ con Lu tấn công kẻ lạ mặt nên vội la lên : “ Bố đấy Lu, tránh ra!” Nhưng không. Nó xoải hai chân trước đứng trên đùi tôi rồi đưa lưỡi liếm trên khắp mặt mày, tai cổ của tôi. Qua cơn hốt hoảng vì cú ngã bất ngờ, tôi hiểu ra con Lu đang mừng chủ. Tôi liền ôm chầm lấy nó rồi người và chó lăn lộn trên nền sân xi-măng. Cha mẹ vợ tôi vui mừng thấy con rể được ra tù. Hàng xóm đứng nhìn cảnh người vật ôm nhau, họ không tránh khỏi xúc động trong lòng.
Sáu tháng sau, nhà tôi sắp xếp cho tôi và thằng con trai lớn một chuyến vượt biển. Tôi phải xin hộ khẩu ở nhà bà dì tận làng An Vĩnh gần mũi Ba-Tâng-Gâng. Tôi có tên trong tổ hợp đánh bắt cá bằng lưới mành với ông dượng và mấy người em bà con. Tôi dắt con Lu theo để tránh cặp mắt của láng giềng và tránh luôn chú Lân bất thần đến nhà bắt gặp nó.
Trước một ngày tới điểm hẹn, vợ tôi dẫn thằng Doãn, con trai đầu lòng của tôi xuống nhà bà dì để chuẩn bị lên đường. Sáng hôm sau, nhà tôi mang con Lu lên xe lam trở về nhà.


Đêm 30 tháng hai âm lịch, trời không trăng nhưng rừng sao trên trời đủ soi rõ đường đi trên bãi cát trắng lờ mờ. Hơi nước biển mát lạnh cùng với ngọn gió tây thổi lồng lộng làm cho đám người trốn trong các bờ bụi rét run cầm cập. Họ cố dõi mắt về hướng biển. Mười giờ... mười một giờ... đến mười hai giờ ba mươi khuya, ánh đèn pin từ gành đá chợt nháy sáng báo hiệu ghe con đã đến. Tốp đầu tiên gồm bốn người lần lượt tiến ra gành đá. Tiếp theo là hai cha con tôi cùng hai người ở cánh bắc cũng xuất hiện. Cuộc “ra quân” âm thầm nhưng đúng theo thứ tự ấn định. Còn mười phút nữa mới đến tốp cuối cùng. Bỗng, phía sau làng có tiếng chân người chạy rầm rập rồi tiếng súng nổ loạn xạ. Toán đầu quay trở lại chạy tản mác vào xóm. Hai người cánh bắc cũng thế. Riêng tôi chạy băng qua gành rồi luồn vào lùm cây đước . Thằng Doãn, trước khi đi tôi đã dặn dò kỹ lưỡng. Nếu họ bắt được là cứ khai đi một mình đừng để liên lụy đến Ba. Toán du kích chia nhau chạy lùng trong xóm. Một du kích đuổi theo Doãn, đến gần bìa làng anh ta chộp được cổ con tôi. Thằng bé la toáng lên : “Thả tôi ra, thả tôi ra”. Anh du kích xách thằng bé lên cao. Tay chân nó không ngừng giẫy giụa. Chợt, một bóng đen từ trong hàng dừa phóng ra nhảy chồm lên bám vào cổ anh du kích. Con chó ! Tôi thầm kêu lên. Nó tấn công khá bất ngờ khiến anh ta đánh rơi cây súng và buông thằng nhỏ để đánh vật với con chó. Anh ôm đầu con chó nhưng răng chó càng lúc càng lún sâu vào cổ như con quỷ Dracula đang hút máu người. Hắn kêu cứu. Một lúc sau mới có đồng đội đến tiếp sức. Con chó cũng vừa nhả ra chạy vào trong xóm. Một loạt súng của người mới đến bắn đuổi theo. Tôi nghe tiếng ăng ẳng của chó từ trong xóm vọng ra. Một nghi ngờ thoáng qua, chẳng lẽ con Lu ? Nhưng tôi yên tâm ngay bởi con Lu đã được vợ tôi dẫn về nhà trong ngày hôm trước.
Núp trong đám cây đước tôi quan sát đầy đủ cảnh chó và người vật nhau. Con chó xuất hiện trong bóng đêm chớp nhoáng như loài sói vồ mồi. Hình ảnh con chó ngoạm cổ anh du kích, tôi liên tưởng đến ma cà rồng đội lốt chó để hút máu người. Nhưng dù ma hay chó tôi cũng thầm cảm ơn nó đã giải cứu cho con tôi và giải thoát được bao nhiêu người.
Tôi về đến nhà lúc tờ mờ sáng nhờ chiếc xe Honda thồ đi kiếm khách sớm. Tắm rửa thay áo quần xong, chợt nhớ đến con chó . Tôi hỏi vợ :
- Con Lu đâu?
Bà ấy bảo:
- Khi xe lam vừa đến ngả ba quốc lộ, con Lu vọt xuống xe chạy ngược theo con đường về hướng biển. Em nghĩ nó trở lại với anh và con. Nếu có điều gì không may xảy ra cho nó thì em biết làm sao bây giờ. Tôi nhìn vợ buông tiếng thở dài :
- Thôi rồi !
Tôi nghĩ ngay đến tiếng kêu đau đớn của chó vang lên sau tiếng súng. Con Lu có thể chết vì loạt đạn bắn theo. Tôi cảm thấy đau xót vô cùng.
Chờ trời tối hẳn, dì tôi mướn xe Honda thồ đưa Doãn về với chúng tôi. Vợ tôi ôm con vào lòng, khóc thút thít:
- Giờ con đã thoát được về đây với mẹ cùng các em. Từ nay trở đi, đói no, chết sống mẹ nhất quyết không để gia đình ta chịu cảnh phân ly.
Doãn nhìn tôi hỏi:
- Ba có thấy con Lu không?
Chẳng đợi tôi trả lời, Doãn quả quyết:
- Lúc ông du kích buông con ra, trước khi chạy trốn, con có quay lại nhìn thấy con Lu đang ngoạm cổ ông ấy.
- Như vậy là con Lu đã chết vì loạt đạn, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi kết luận . Các con tôi đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Tôi an ủi:
- Dù sao thì mình đã dành tình thương và chăm sóc Lu như con trong gia đình. Nó có chết cũng là cái chết có ý nghĩa, một nghĩa cử vô cùng cao quý của loài chó không khác gì con người.


Cả nhà đang say ngủ. Đột nhiên, tôi nghe tiếng cào sột soạt vào cánh cửa trước. Im ắng một hồi lâu, tiếng cào lại nổi lên lần nữa. Ghé mắt nhìn ra ngoài, tôi chẳng thấy gì cả. Chỉ có bóng đêm bao trùm và sương mù dày đặc phủ đầy trời. Tôi thiếp đi một chốc. Tiếng sột soạt nổi lên lần thứ ba. Lần nầy lâu hơn và ở ngay cánh cửa hông. Tôi vội bật đèn lên, hé cửa nhìn ra. Hốt hoảng, tôi kêu lên :
- Em ơi, con Lu trở về.
Cửa mở toang, Lu đi khập khiễng vào nhà. Tôi ôm Lu vào lòng và nước mắt tôi tuôn trào. Tôi khóc vì vui mừng và khóc vì thương nó quá đỗi. Bầy con tôi xúm vào quấn quýt bên Lu. Máu khô bê bết trên mông và đùi trái của nó. Một viên đạn ghim vào đùi sau, rất may là không đụng xương. Tôi rửa sạch vết thương bằng rượu cồn, xoa thuốc đỏ rồi băng kín vết thương lại.
Từ năm 1986 chính sách đổi mới, thị trấn quê tôi bắt đầu có sinh khí trở lại. Chẳng bao lâu sau, nơi đây buôn bán sầm uất. Cửa hàng tư nhân được mở ra tranh đua cùng với cửa hàng quốc doanh. Đời sống có phần dễ thở hơn.
Sau trận chiến biên giới Việt Trung năm 1979, Dương Thái Lân và cả đơn vị công binh được điều động đến vùng thượng du Bắc Việt. Vì thế con Lu sống thoải mái với chúng tôi không còn lo lắng gì nữa.
Đến tháng 7 năm 1991, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện tỵ nạn HO8. Con Lu cũng vừa tròn 18 tuổi. Nó đã quá già chỉ lẩn quẩn trong nhà. Nhưng khi có khách đến là nó vẫn không quên chạy vào gầm giường.
Ngày gia đình tôi vào Sài Gòn để lên máy bay, tôi cho Lu theo đến ga xe lửa cùng với bà con đưa tiễn. Khi còi tàu hụ từ xa, Lu đứng dậy sủa vang cả khu vực nhà ga. Trước khi lên tàu, mỗi người trong gia đình chúng tôi đều thay nhau ôm Lu vào lòng, rưng rưng, lưu luyến. Khi tiếng còi báo hiệu tàu chuyển bánh, con Lu nhìn đòan tàu rồi tru lên một tràng dài. Đây là tiếng tru lần đầu tiên trong cuộc đời 18 năm của nó. Tôi rùng mình. Tiếng tru thật áo não tưởng chừng như lời trối trăng vĩnh biệt của Lu nhắn gởi.
Khi qua Mỹ rồi, chúng tôi được thư nhà cho biết, con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Đông rét buốt, Lu nằm chết bên đường ray xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu.
Hay tin Lu chết, con tôi ôm nhau khóc. Nước mắt chảy ròng ròng như khóc thương một người thân đã ra đi vĩnh viễn. Riêng tôi thầm nghĩ : “Cũng may là nó đã quá già yếu, thân chỉ còn da bọc xương nên được chết toàn thây. Dù muốn dù không nhân viên nhà ga cũng phải chôn xác Lu ở một nơi nào đó trong lòng đất. Đất mãi mãi ấp ủ thân xác nó và ngàn vạn năm sau biết đâu bộ xương của Lu sẽ hóa thạch tồn tại mãi trên mảnh đất Việt Nam.”
Tôi khóc âm thầm trong đêm như khóc cho đứa con của tôi còn để lại quê nhà nay không còn nữa. Suốt mấy đêm liền tôi nghĩ về Lu như nghĩ về một con người quả cảm và thủy chung.



Back to top
 
 
IP Logged
 
LAM_SON
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 302
Gender: male
Re: Truyện ngắn NHỮNG NGƯỜI LÍNH
Reply #107 - 11. Nov 2009 , 01:55
 
Một câu chuyện cảm động

Để câu truyện thêm rõ ràng, tưởng cũng cần nói thêm là mấy lúc sau nầy, trong mục đích cạnh tranh giảm tiền vé tối đa, các hảng hàng không không còn serve thức ăn trên tàu cho hành khách economy class ( trừ business class hay first class và những chuyến oversea long haul) mà thay vào đó chỉ bán sandwich, snack dưới hình thức BOB (buy on board) những bao đồ ăn trưa.
NHỮNG NGƯỜI LÍNH
Tôi đặt hành lý vào hộc ở trên đầu  rồi ngồi xuống ghế. Đây là chuyến bay dài làm tôi ước gì mình có một quyển sách hay để đọc trên phi trình. Có lẽ tôi cũng cần chợp mắt một chút.
Vừa lúc trước khi máy bay cất cánh, một nhóm 10 người lính trẻ men theo lối đi và ngồi hết vào các chỗ trống rải rác còn lại. Chẳng có gì để làm, tôi bắt đầu gợi chuyện người lính ngồi gần  nhất:
- Các cậu đi tới đâu vậy?
- Petawawa. Chúng tôi sẽ ở đó hai tuần để thụ huấn một chương trình huấn luyện đặc biệt rồi sau đó sẽ bổ sung tới A Phú Hản.
Sau khi máy bay cất cánh độ một tiếng thì tiếng loa thông báo là trên máy bay có bán thức ăn nhẹ đựng trong bao giá 5 mỹ kim.
Cũng còn lâu lắm chuyến bay mới tới phía Đông nên tôi quyết định mua một bao đồ ăn để vừa ăn vừa giết thì giờ.. Khi tôi móc bóp lấy tiền thì chợt nghe một người lính hỏi bạn mình là có muốn mua thức ăn không.
- Không! Có vẻ như mắc quá đó.. Bao lunch gì mà tới 5$.
Thôi tao ráng đợi tới căn cứ hẳn hay.      
Và anh lính trẻ gật gù đồng ý với bạn.
Tôi đảo mắt nhìn chung quanh thì thấy mấy người lính khác cũng không có ý định mua gì cả mặc dù lúc đó cũng đã tới giờ ăn trưa rồi. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, tôi gọi người nữ tiếp viên tới đưa cho bà ta 50$ và nói:
- Xin  bà vui lòng lấy thức ăn cho những người lính nầy.      
Người tiếp viên ngạc nhiên nắm chặt lấy tay tôi, qua đôi mắt long lanh ngấn lệ vì xúc động, bà ngõ lới cám ơn tôi và nghẹn ngào:
- Con trai tôi cũng là một quân nhân đang chiến đấu tại Iraq . Nghĩa cử nầy của ông như đang dành cho nó vậy.  Rồi bà xăng xái đi lấy 10 bịch đồ ăn trao cho tất cả các người lính trên tàu. Sau đó bà dừng lại chỗ tôi hỏi:
- Thưa ông dùng gì ạ?  Bò, gà rất hảo hạng.
-  Xin cho tôi gà
Tôi trả lời bà ta trong một thoáng ngạc nhiên vì theo tôi biết hạng economy bây giờ chỉ có BOB  thôi mà.
Người nữ tiếp viên đi về phía trước của máy bay độ một phút sau trở lại với nguyên khay thức ăn nóng hổi dành cho hành khách vé hạng nhất, bà trịnh trọng nói với tôi:
- Đây là tấm lòng tri ân nho nhỏ của những người trên chuyến bay nầy đối với  ông
Sau khi ăn xong với tâm trạng sảng khoái nhẹ nhàng, tôi bước tới phòng vệ sinh ở phía sau cùng. Trên đường đi, một người đàn ông thình lình đứng lên chận tôi lại nói:
- Tôi rất cảm phục việc ông làm, xin ông cho tôi được chia phần mà vui lòng nhận cho.
Nói xong, ông ta dúi vào tay tôi 25 mỹ kim.
Sau đó không lâu, viên phi công trưởng rời buồng lái vừa đi vừa nhìn số ghế ghi trên hộc hành lý, linh cảm khiến tôi thầm mong ông ta đừng kiếm tôi nhưng Chúa ơi! Ông ta dừng lại ngay hàng ghế của tôi rồi cười thật tươi và chìa tay ra nói:
- Tôi muốn được bắt tay ông
Cực chẳng đã, tôi mở dây an toàn đứng dậy bắt tay viên phi công trưởng.
Với giọng hân hoan, ông ta nói lớn như để mọi người cùng nghe:
- Tôi cũng đã từng là một quân nhân và cũng là phi công chiến đấu. Có một lần có người cũng mua cho tôi thức ăn. Điều đó thực sự thể hiện cả một tấm lòng tốt đẹp mà tôi không bao giờ quên.
Cả một tràng pháo tay tán thưởng vang dội làm tôi đỏ bừng mặt vì mắc cở.
Chỉ với một hành động nhỏ nhặt tầm thường của tôi mà đánh động lương tâm con người đến thế sao?
Vì chuyến bay quá dài nên có một lúc, tôi phải đi bộ về phía trước để rản gân cốt thì bỗng nhiên có một nam hành khách ngồi trên tôi độ sáu dãy đưa tay ra bắt và để lại trong tay tôi cũng 25 mỹ kim.
Bầu không khí trên chuyến bay thật nhẹ nhàng và chan hoà tình người cho tới khi máy bay hạ cánh. Tôi lấy hành lý và bắt đầu bước ra khi vừa tới cửa máy bay thì một người đàn ông chận tôi lại và nhét nhanh vào túi áo tôi một thứ gì đó xong ông ta vội vả bước đi mà không nói một lời. Lại thêm 25$ nữa.
Nếu tính ra, tôi chỉ chi có 50$ mà bây giờ thu lại tới 75$. Kiếm được 25$ dễ dàng đến thế sao! À ! Quên! Còn bữa ăn thiệt ngon miệng nữa chứ.
Đúng là khi ta làm phải thì không bao giờ lỗ lã cả.
Tôi vui vẻ bước nhanh vào cửa phi trường thì thấy mấy người lính trẻ kiểm điểm nhân số để chuẩn bị về căn cứ. Tôi  tiến tới trao cho họ 75 mỹ kim và nói:
-  Từ phi trường về tới trại phải khá xa. Mà bây giờ cũng đã tới giờ để dằn bụng một cái sandwich chứ. Chúa sẽ ban ơn cho các cậu.
Mười người lính trẻ trong ngày hôm đó chắc đã rời chuyến bay trong tâm trạng yêu thương và kính mến những hành khách đồng hành. Tôi hăng hái bước tới xe với lời thì thầm nguyện cầu cho tất cả sẽ được trở về trong an bình.
Những chàng trai nầy đã hy sinh tất cả cho quê hương mà tôi chỉ biếu họ có một vài phần ăn. Thật là quá ít ỏi nếu không muốn nói là chỉ trong muôn một. 
Nghĩ xa hơn nữa, người cựu chiến binh đã từng đánh đổi cả cuộc đời khi viết lên chi phiếu trắng đề tên người nhận là “Hiệp Chủng Quốc” mà số tiền có thể lên đến chính sinh mạng của họ.
Đó là một vinh dự tối cao lẽ ra cả đất nước phải dành cho họ nhưng than ôi! Có nhiều người đã không cần biết tới và bỏ quên họ.
Xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho bạn chuyển tiếp câu chuyện nầy tới bạn bè quen biết.
Riêng tôi thì đã làm xong.

Toronto Sept 4,2009
Nguyên Trần

Back to top
« Last Edit: 11. Nov 2009 , 01:57 by LAM_SON »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #108 - 07. Jan 2010 , 14:07
 


 
Ông già ngồi bươi đống rác
>
>          Thành phố Hồ Chí Minh quang vinh vẫn còn rất nhiều rác. Hồi thời trước, Sàigòn đã có nhiều rác, nhưng so với bây giờ thì…thua xa. Rác bây giờ chẳng những nhiều hơn mà còn…rải rác hơn. Điều này chẳng có gì khó hiểu hết. Bởi vì, trong chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa, cái gì của ta cũng đều hơn của lũ chúng nó cả: rác của chúng nó là rác tư bản, rác ngụy, còn rác của ta là rác…nhân dân, do nhân dân, từ nhân dân mà ra. Có chính nghĩa, hơn là lẽ tất nhiên!
>          Vậy, ở một đống rác khá lớn nằm trên vỉa hè một con đừơng khá rộng trong thành phố, có một ông già ngồi ung dung như đang ngồi ở một nơi sạch sẽ! Ông già đó tuổi cỡ ngoài tám mươi, có chòm râu bạc giống râu bác Hồ. Ổng đội mũ tai bèo, mặc bộ đồ bà ba đen, mang dép cao su đúc. Ổng ngồi trên một ghế bằng nhựa nhỏ, thấp, loại ghế ngồi cho trẻ con. Ổng cầm cây gậy trúc dài bươi bươi rác, mắt nhìn châm chú chỗ đang bươi, mặc cho đàn ruồi bay lên đáp xuống như giành rác với ổng! Lâu lâu, ổng nói một mình: «  Nó nằm lẩn đâu đây hè! Mẹ bà nó!. »
>           Đường này lúc nào cũng đông ken. Xe đạp, xe gắn máy, xe hơi…hai luồng chen nhau chạy, giành mặt đường mà chạy, lòn lách lấn ép, bóp kèn inh ỏi. Chạy đầy đường như vậy mà chẳng ai nhìn thấy ở trên đỉnh đống rác cao nhòng đó có một ông già…Cho đến người đi bộ trên vỉa hè cũng chẳng thấy ai để ý đến ổng hết! Hơn hai chục năm sống quen với quá nhiều nghịch lý, con người ta không còn nhạy cảm trước những sự bất bình thường. Bởi vì cứ nhìn riết rồi quen con mắt, nên không thấy chướng, cứ nghe riết rồi quen lỗ tai nên không thấy ồn, cứ hửi riết rồi quen lỗ mũi nên không thấy hôi. Đó là một quy luật. Tiếp theo đó là một quá trình đi xuống dốc của con người, vừa nhanh vừa gọn, bởi vì nó dễ ợt hà!
>           Ông già lâu lâu ngừng bươi rác, móc túi lấy bọc ni-long thuốc rồi chậm rãi vấn hút. Điếu thuốc của ổng to bằng ngón tay cái, nên mỗi lần ổng nhả khói là thấy mù mịt, làm như đống rác đang ngún cháy vậy!
>           Trong khi ổng hút thuốc, ổng không bươi rác. Làm như hút thuốc là qua giai đoạn ổng nghỉ xả hơi! Ổng xoay người ra nhìn thiên hạ chạy loạn dưới đường giống như ổng đang ngồi xem kịch. Một lúc sau ổng nói một mình: « Thiệt…không giống ai hết!. » Mà thiệt! Người ta chạy đi đâu mà lúc nào cũng thấy chạy đầy đường. Người nào cũng hối hả. Người nào cũng bóp kèn. Kẹt không kẹt gì cũng thấy bóp kèn! Làm như nếu không bóp kèn thì xe sẽ…không chạy vậy! Còn luật lệ giao thông thì hầu như không có. Mạnh ai nấy chạy. Tay mặt tay trái gì cũng…như nhau. Đàn ông đàn bà gì cũng chen lấn lòn ép…như nhau. Chẳng ai nhường ai hết. Đàn ông con trai có người ở trần bận quần xà-lỏn, có người lại mặc quần áo gin, bên trong có sơ-mi và áo gi-lê giống như đang ở xứ lạnh! Còn đàn bà con gái thì phần đông ăn mặc không để…hở một chỗ nào hết. Áo pô-lô ngắn tay, quần dài, găng tay cao tới…nách, đội kết loại đấu thủ dã cầu, mang kiến đen, bịt mặt bằng chéo vải thêu bông hoa hay có ren giống đàn bà á-rập! Nếu có mặc áo dài thì cũng mang găng tay ngắn, rồi đội kết, rồi kiến đen, rồi bịt mặt! Thành ra không nhìn ra được ai là ai hết!
>            Hút tàn điếu thuốc, ông già lại quay về đống rác, châm chỉ bươi. Một lúc lại nói: « Mẹ bà nó! Tao bươi riết rồi cũng ra. Làm gì rồi cũng thấy!. »
>            Một cô gái nhỏ xách tới xô rác đổ xuống làm lũ ruồi lúc nhúc bay lên, thấy ông già ngồi đó, cô hỏi:
>            - Bộ ông không sợ hôi sao mà ngồi đó vậy?
>            Ông già cười mũi:
>            - Thời bây giờ, ở đâu mà không hôi không thúi, hả? Nó tràn đồng thì ngồi ở đâu cũng vậy thôi.
>            Cô gái lại hỏi:
>            - Thấy ông bươi bươi. Bộ ông mất cái gì hả?
>            Ông già ngừng tay, hỏi lại:
>            - Mất hả? Mất cái gì? Còn khỉ gì đâu mà mất!
>            - Vậy chớ ông bươi rác làm gì? Rác bây giờ đâu còn có gì đâu mà lượm.
>            Ông già cầm gậy trúc gõ gõ vào đống rác làm lũ ruồi hốt hoảng bay lên vù vù. Ổng hạ giọng:
>            - Tao bươi rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng mà hồi đó tao nuôi tao giấu trong nhà.
>            Có vẻ thấy ông già…khùng quá nên cô gái bỏ đi, vừa đi vừa nói:
>            - Họ là con người chớ bộ chuột bọ gì đâu mà ông tìm trong đống rác!
>            Ông già nhìn theo, nói lớn:
>            - Mà tao có nói tụi nó là con người đâu?
>            Tiếng của ông bị chìm lấp trong tiếng ồn hỗn tạp của đường phố, nên chẳng gợi được sự chú ý của ai hết. Ổng nhìn quanh, thở dài, rồi tiếp tục bươi…
>            Một thanh niên đang đi trên vỉa hè bỗng tấp vô đống rác vạch quần định đứng tiểu, một tay chống nạnh, trên môi phì phà điếu thuốc. Ông già nói lớn:
>            - Coi chừng! Nó phóng lên nó cắn sứt à!
>            Gã giật mình, vội vã buông quần bước đi như chạy. Vừa đi vừa nhìn lại, nét mặt còn đầy sợ hãi! Ông già không nhìn theo, cũng không cười... Làm như điều ông nói là điều có thật chớ không phải đùa. Cho nên nghe ổng nói tiếp:
>            - Cái lũ khốn nạn này có thứ gì mà tụi nó không đớp!
>            Ổng nói mà đầu gậy vẫn không ngừng bươi. Bầy ruồi nhặng vẫn bay lên đáp xuống, đáp xuống bay lên, lúc nha lúc nhúc…
>            Gần trưa, một người đàn bà đứng tuổi từ trong hẻm gần đó bước ra đi lại đống rác, thưa:
>            - Mời ông Hai về ăn cơm.
>            Ông già  nói ‘ờ’ rồi chống gậy đứng lên đi. Người đàn bà cúi lấy cái ghế nhỏ, xách đi theo phía sau ông, im lặng. Cả hai đi lần vào hẻm.
>              Con hẻm mới vào thấy rộng thấy thẳng, hai bên có phố lầu hai ba từng kiến trúc hiện đại, từng nào cũng thấy có máy lạnh lòi ra coi rất…văn minh! Hai dải phố lầu này kéo dài vào hẻm độ ba bốn mươi thước.Sau đó là một khúc quanh thẳng góc, rồi con hẻm chỉ còn lại không tới hai thước bề ngang, chạy quanh co rồng rắn vào tuốt bên trong tiếp nối với những con hẻm nhỏ khác không biết từ đâu tới mà cũng thấy…rồng rắn quanh co! Ở đây, nhà cửa lụp xụp hẹp té, khác hẳn với mặt tiền đồ sộ lộng lẫy. Đó là một thế giới khác, một thế giới nghèo khó núp sau cái thế giới phồn vinh bên ngoài. Người ta không thể nghĩ rằng nó  nằm ngay trong lòng thành phố, cái thành phố mang tên Người từ hơn hai mươi năm…
>            Ông già và người đàn bà bước vào một căn nhà nhỏ hẹp của khu hẻm rồng rắn. Ông già nói:
>            - Tao bươi hoài mà chưa gặp thằng nào hết.
>            Một người đàn ông trong nhà nói cho lấy có:
>            - Vậy hả ông Hai?
>            - Tụi nó chui rúc lì lắm. Mẹ bà nó! Hồi đó mà tao biết như vầy, tụi nó có chung vô quần trốn, tao cũng cởi quần tao giũ cho chết cha tụi nó hết!

>            …Người đàn ông trong nhà là cháu của ông già bươi rác, kêu ổng bằng ông chú, còn người đàn bà là vợ hắn. Hai vợ chồng đã trộng tuổi nhưng chưa có con. Họ lảnh may gia công quần áo cho một công ty may mặc, nên trong nhà lúc nào cũng nghe tiếng máy may chạy xành xạch suốt ngày. Họ ngủ trên cái gác lửng nhỏ bằng hai chiếc chiếu, còn ông già thì có cái ghế bố kê trong góc nhà. Nhà nhỏ xíu nên chỉ có một bóng đèn điện treo ở giữa.
>            Hai vợ chồng người cháu đem người ông về nuôi trong nhà từ ngày ổng ra tù cách đây hơn bảy năm…
>            Theo lời kể lại của người cháu thì “ông chú” ngày xưa là một nhà doanh thương - đại doanh thương - Ổng độc quyền nhập cảng vỏ ruột xe gắn máy, xe hơi, xe máy cày. Ổng có mấy kho hàng lớn ở Khánh Hội, một văn phòng ba từng lầu ở Chợ Cũ, một vi-la to ở đường Phan Thanh Giản và một vi-la vừa vừa nằm khuất trên một đồi thông ở Đà Lạt. Vợ và hai con ổng đều ở bên Pháp để làm một “đầu cầu” bên đó. Còn bên này ổng có một bà nhỏ lo về giao tế, xã hội và nhân viên. Lâu lâu, ổng bay qua Âu Châu thăm vợ con và làm việc với các hãng chánh ở bên đó.
>            Ổng nhiều thế lực lắm. Người cháu nói:”Hồi đó, tôi đang làm thợ may cho nhà may X thì bị động viên. Vậy mà ổng kéo tôi ra cái rẹt! Có điều làm tôi không hiểu là ổng như vậy mà trong nhà ổng nuôi Việt Cộng không. Ngay như cái nhà trên Đà Lạt mà ổng dùng cho mấy ông lớn mượn, từ anh quản gia đến chị bếp đến mấy người làm vườn đều là cán bộ Việt cộng ráo. Ổng nuôi họ như vậy cho đến năm 1973 họ mới lần lượt rút đi …”.
>            Hồi tháng tư 1975, ổng không di tản. Còn nói: ”Cách mạng chớ bộ ăn cướp giết người đâu mà sợ!”. Sau đó mấy người ổng nuôi có về thăm, ổng cũng đãi đằng hậu hỉ. Vậy mà khi cách mạng “đánh tư sản mại bản”, ổng cũng bị “đánh” tơi bời, tài sản bị tịch thâu hết còn bị đi tù cải tạo nữa. Vợ lớn của ổng chết ở bên Pháp, bà vợ nhỏ đi chui rồi mất tích ở biển Đông. Còn hai đứa con, sau này có người quen từ Paris về cho biết, đã phung phí hết tiền của mà ổng đã để cho họ bên đó rồi dọn nhà đi mất. Thành ra đi thăm nuôi ổng chỉ còn có vợ chồng người cháu thợ may…
>            Khi ông chú được thả ra khỏi tù - nghĩa là Nhà Nước xét thấy ổng đã hoàn toàn được cải tạo - ổng đã trở thành một người khác: một người mất trí! Người cháu nói: “Hồi đem ổng về ở với tụi tôi, tôi cũng ngại. Sợ ổng chê. Nhưng rồi ổng vẩn ở tự nhiên, không phàn nàn gì hết, tụi tôi cũng mừng. Rồi lo không biết chịu đựng ổng nổi không. Nhưng rồi thấy ổng không có điên loạn như những người điên khác nên tụi tôi cũng yên tâm. Ổng không nói gì hết, tối ngày bắc ghế ngồi dưới mái hiên hút thuốc đọc sách hoặc ngồi cả giờ nhìn đường hẻm như người ta châm chú coi ti-vi! Vậy mà lâu lâu ổng cũng nói nhiều câu làm mình ngạc nhiên tưởng như ổng là người bình thường. Khi mình thử hỏi tiếp, khơi lại thời cũ thì ổng lại ngẩn ngơ. Thấy tội nghiệp! Thiệt ra, người ta chỉ thấy ổng điên là khi nào ổng đi bươi đống rác, cứ hai ba hôm là ổng đi bươi…”

>            Và như vậy, “ông Đại Doanh Thương” đó bây giờ ngồi bươi đống rác giống như ổng bươi lại dĩ vãng của ổng, một dĩ vãng mà rác rến vun đầy... Ổng đâu biết rằng, đối với Nhà Nước cách mạng, ổng cũng chỉ là một thứ rác rến mà Nhà Nước đã vứt bỏ trên lề xã hội, không hơn không kém …
          
>  TIỂU TỬ





Back to top
« Last Edit: 07. Jan 2010 , 14:09 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #109 - 16. Jan 2010 , 00:48
 


RỪNG KHÓC GIỮA MÙA XUÂN


PHẠM TÍN AN NINH

Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư ở Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá, nhưng lại rất đẹp vào những ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm cho tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.

Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo tôi sau những buổi tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp từ thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính biệt động quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa mới trải qua khói lửa Mậu Thân.

Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ những khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.

Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên, Lê Cao Nguyên. Anh về phép thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, và đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một “lỗ tai nhỏ” như ba nó.

Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần VC pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau, khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau .

Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là “ may còn có anh đời còn dễ thương”. Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ !


Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, chồng tôi hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang theo những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.

Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng giã từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chũng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là một số đơn vị Biệt Động Quân được chỉ định đi sau, ngăn chận địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái. Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch quá đông, và bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đền gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và rất nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn. Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con sông nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt quá, tôi ngủ vùi một giấc, thức dậy thì trời vừa sáng. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp. Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch. Vừa rời đoàn người vài phút thì đạn pháo thi nhau rót xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng đã có một số người chết.. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính biệt động một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn : “Đạp lên mà đi!” Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa!

Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi. Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trân mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp. Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người. Tôi hình dung đến cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tội nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh đang tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến. Và không ngờ đó lại là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi. Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối cùng tôi chứng kiến những người lính biệt động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét “ Biệt Động Quân Sát” vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác.Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.

Tiếp tục di chuyển chừng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo tât cả chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi bàng hoàng nhìn thấy mấy người lính biệt động quân nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc. Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nữa thì chúng tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẳn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo với cái giọng rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).

Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn. Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.


Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà săn sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.

Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người con vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản, mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ một sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi được gặp anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người Thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số ngôi mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi , mà cho cả nhà chồng.

Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.

Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây.Và lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành một thứ âm thanh não nùng, xé ruột.

Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương và một đứa em trai của tôi được đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước ( chị đã về quê trên vùng Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.

Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây đúng vào giữa mùa Xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.

Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương, còn có cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn được mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban quân nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.

Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:

Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thoi

Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hơp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với giá rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M’dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới hơn 20 cây số.

Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.

Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc của người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là một anh đàn ông Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi.. Khi anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi , bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sóng mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc màu nâu sậm như màu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước.. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi kịp nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người Thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra rồi nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi bảo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa, nói vào tai chị:

- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không ?

Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình :

- Thằng Nguyên ? Chẳng lẽ là thằng cu Nguyên ?

Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi :

- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?

Anh người Thượng lắc đầu :

- Tao là thằng Ksor Tlang,

Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nữa, rồi buột miệng :

- Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá !

Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người tai mắt ở đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút, hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.

Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi với anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.

- Em có cha mẹ không ? Tên ông bà là gì ?

- Tôi có cha mẹ . Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu.

- Có anh em không ?

- Không.

- Anh có nhớ ngày sinh không ?

- Không

( Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ tìm khai sinh sau)

- Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không ?

- Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.

- Cái sẹo trên cánh tay trái , anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?

(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)

- Không ! Chắc là bị cành cây đâm trúng.

Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi :

- Cha mẹ anh đang ở đâu ?

- Buôn Ban Ma Dek .

(Gã công an nhìn tôi, bảo Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)

- Anh ở chung với cha mẹ anh ?

- Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.

- Đã có vợ con rồi à ! Tôi buột miệng.

Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo là chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi hộ chúng tôi bảy cái xe ôm.

Cha mẹ của anh bán gà đã khá già, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn .

Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực:

- Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lếch vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.

- Rồi xác người lính ấy ở đâu ? Tôi hỏi .

Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:

- Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.

Chúng tôi theo hai người công an dìu ông già đi về phía khu rừng.

Tôi khóc ngất khi nhìn thấy nấm mồ thấp lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng quỳ xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.

Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp tiền bạc cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông già một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể sống xa rừng cũng như loài cá không thể sống mà không có nước.

Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi dự định xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng trong nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao nhiêu đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất ở quanh đây.Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi cùng hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.

Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi đã trả công cho hai gã công an!

Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều , tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình.Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày chỉ vừa lên bốn tuổi.


--------------------------------------------------------------------------------





--------------------------------------------------------------------------------


Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theoTỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?

Back to top
« Last Edit: 16. Jan 2010 , 00:53 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #110 - 03. Feb 2010 , 15:08
 
[b]
Tiểu Thơ



Phạm tín an Ninh

Rầm!
Tôi và hai thằng bạn vừa rà thắng xe đạp trước rạp Tân Tân để vào xem phim "Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ" thì bị một chiếc Vélo Solex húc từ đằng sau tới. Cả ba thằng ngã xuống đất. Riêng tôi còn bị cái xe của thằng bạn đè lên bụng đau muốn nín thở. Mới loi ngoi bò dậy, chưa kịp phủi bụi trên áo quần thì nghe tiếng quát tháo:
- Ê! Bộ ba "chàng ngự lâm pháo thủ" mù cả hà. Dừng ngựa mà chẳng coi chừng phía đàng sau! Đáng đời!
Vừa ngượng vừa tức giận bởi tự dưng bị húc té nhào giữa thanh thiên bạch nhật và trước bao nhiêu nguời đẹp, chưa kịp nắm cổ áo cho một trận, thì bị thủ phạm tiếp tục tấn công phủ đầu. Đúng là cà chớn. Nhưng nhìn lên thì.. à.. cả ba thằng khựng lại: đối phương là một cô gái, tuồi ô mai, tóc còn thắt bím, ngồi trên Vélo, vòng tay trước ngực, trề môi, rồi trợn đôi mắt to như hai cái đèn "ô tô":
- Số còn hên đó. Cái vélo không bị hư gì. Tiểu thơ tha cho đó. Lần sau liệu hồn!
Nói xong cô bé nguýt một cái rồi rồ ga chạy mất tiêu.
Dù chưa bao giờ bị thầy Bửu Cân phán cho cái tội "con nhà không có lư hương", bọn tôi cũng phải chửi thề một tiếng cho hả giận. Thằng Cường, đứa hiền lành ít nói nhất trong bọn tôi, xăn tay áo, xổ nho trước:
- Đ.M., con gái nhà ai trông đẹp thế mà đanh đá như bà chằn. Phải mà con trai thì biết tay tao.
Đúng là cô bé khá xinh, nhất là đôi mắt thật to và đôi môi mộng đỏ, dù có trề lên ngạo nghễ, cũng vẫn đáng yêu ghê lắm. Tôi nghĩ vẩn vơ như thế khi theo người soát vé dẫn tới chỗ ngồi. Trong rạp tối mò. Ba thằng chúng tôi vào trễ. Trên màn ảnh đang chiếu phim thời sự: Tổng thồng Ngô Đình Diệm đang kinh lý Ban Mê Thuột (nhưng không thấy cảnh ông bị ám sát hụt).
Suốt buổi hôm ấy, mắt nhìn lên màn ảnh, mà tâm trí tôi thì chỉ thấy có đôi mắt cô bé, trừ khi nào có tiếng súng nổ của ba chàng ngự lâm, tôi mới giật mình trở lại với truyện phim đôi ba phút.
Cha tôi nói đúng. Hồi mới ba tuổi, tôi đã khóc đến cả tháng trời khi mẹ tôi mất, ông bảo rồi sau này tôi sẽ là một thằng đa sầu đa cảm. Và hôm nay, dường như tôi bắt đầu biết tương tư đây.
Nha Trang cũng chẳng lớn hơn cái thành phố núi Pleiku là bao nhiêu, để ông nhà thơ nào đó "đi dăm phút trở về chốn cũ", vậy mà cả mấy tháng rồi, tôi chưa gặp lại cô bé, mặc dù thời ấy Nha Trang đã có khá nhiều vélo solex, đủ làm tôi nhìn theo muốn ngoẹo cổ. Tôi nghĩ, chắc là cô bé từ đâu đến chơi. Trông nước da trắng hồng, có thể là từ Đà Lạt xuống thăm ai đó rồi lại biến mất như một nàng tiên trong cổ tích.
Quê tôi ở ngoài Vạn Giã. Vào Nha Trang học, ở nhà ông chú, trước ở gần rạp ciné Moderne của ông Bác Ái, sau này dọn lên gần Ty Thông Tin. Chú tôi, ngoài làm chủ tiệm bán mọi vật dụng về điện, còn thầu các công trình diện. Ông bà chỉ có một cô con gái rượu, cưng như trứng mỏng, nên mọi thứ ngược xuôi giao dịch ông cần tới tôi. Để tôi lên tinh thần, bỏ bớt cái tật ham chơi và lười biếng có lẽ từ khi còn trong bụng mẹ, ông thường bảo: "Cháu còn nhỏ mà coi bộ có khả năng thương mại. Cố gắng theo chú học hỏi, sau này dám qua mặt tao nữa đó ". (Cái này thì ông nói trật lất. Vì sau này tôi trở thành lính đánh giặc, nên cả đời có buôn bán được cái gì đâu).
Cả năm cứ mong tới mùa hè là tôi dọt về quê thăm cha tôi và chơi với mấy thằng bạn nối khố, rủ nhau ra con sông quê, ngày bơi lội, tối cắm câu, ngủ ngoài trời mà đua nhau đếm thử có bao nhiêu vì sao, tìm đâu là dải Ngân Hà có cái Cầu Ô Thước của Ngưu Lang Chức Nữ. Coi bộ vui và lãng mạn hơn ở trong cái thành phố Nha Trang này nhiều. Vậy mà mùa hè này tôi bị ông chú tôi giữ lại, sau khi thuyết phục được ông già tôi, bảo là để cho tôi tập làm quen với thương trường(!). Tôi nghe mà phát sợ, cứ như là sắp sửa bị ông đẩy tôi ra giữa chốn sa trường!
Bài học đầu tay là tôi xách cặp theo ông, đi dự một cuộc họp với mấy ông thầu khoán khác, trong một công trình "hợp tác mỗi bên cùng có lợi". Nơi họp là một ngôi biệt thự khá đẹp nằm trên con đường Duy Tân có gió reo sóng vỗ.
Tôi rụt rè theo sau ông chú, bước vào phòng khách. Nhiều người đã có mặt. Ông nào trông cũng bệ vệ, đặc biệt có một ông mặc quân phục, oai phong cao lớn, mà coi bộ mọi người ai cũng nễ trọng. Nghe nói chuyện một hồi tôi mới biết đó là ông đại tá Đỗ Cao Trí, chỉ huy quân trường Đồng Đế. Lúc ấy tôi còn nhỏ, đâu có biết gì nhiều về lính tráng, nhưng tôi có nghe nhiều người kể chuyện tình ông đại tá này với một bà dược sĩ nào đó có tiệm thuốc tây trên đường Độc Lập. Bà này mới vừa ly thân ông chồng dược sĩ, có ông bồ là đại úy phi công trẻ tuổi đẹp trai thường đèo bà trên chiếc vespa chạy vòng vòng ngoài bờ biển, mặc dù bà có chiếc xe hơi thể thao trọc mui duy nhất ở thành phố này. Tội nghiệp ông phi công, vừa mới bị ông đại tá này nói nhỏ bạn bè làm lớn bên Không Quân cho bay ra tận ngoài vùng 1 xa tít mịt mù. (Sau này ông phi công hào hoa lấy một cô ca sĩ có giọng hát buồn... vào hồn không tên nào đó). Nghe mấy ông bàn bạc, tôi mới biết buổi họp này là để bàn việc xây cất và chỉnh trang lại toàn bộ doanh trại của quân trường Đồng Đế, mà chú tôi và mấy ông bạn thầu khoán vừa mới trúng thầu.
Tôi ngồi sau lưng ông chú, ghi ghi chép chép cứ như là... phóng viên tập sự. Nửa buổi thì ngưng họp ăn cơm. Một bữa ăn thịnh sọan từ nhà hàng mang tới. Vì thuộc hàng con nít, nên tôi được ưu tiên ra sân sau ngồi chung với mấy anh tài xế và con cháu ông chủ nhà. Vừa bước ra, chưa kịp tìm chỗ ngồi, thì tôi giật mình, sững sờ đến mấy phút. Cô bé, cô tiểu thơ... vélo solex, tông bọn tôi trước rạp Tân Tân gần ba tháng trước, đang ngồi chễm chệ tự lúc nào trong cái ghế bành duy nhất bên bàn ăn.
Lấy lại bình tĩnh, tôi đến kéo chiếc ghế bên cạnh cô bé:
- Chào tiểu thơ, chàng ngự lâm pháo thủ bị xe tông... ngã ngựa có được phép ngồi đây không ạ?
Cô bé nhìn tôi tròn xoe đôi mắt. Đôi mắt mà tôi đã tìm kiếm hơn ba tháng nay, cứ tưởng đã biến mất khỏi Nha Trang, bỗng dưng bây giờ đang mở lớn hết cỡ trước mắt tôi. Tôi ngồi yên như bị thôi miên. Dường như vừa mới nhớ ra tôi, cô bé nhoẻn miệng cười:
- À, hữu duyên thiên lý năng tương ngộ! Vous cứ tự nhiên.
Tôi ngạc nhiên, cô bé coi bộ tây này còn xổ cả tiếng nôm tiếng hán. Tôi nhủ lòng: Không phải vừa đâu nghe.
Vậy mà cái cuộc trùng phùng khá bất ngờ này lại đưa đẩy tôi đến một nấc thang danh vọng: làm gia sư cho cô bé. Nói gia sư cho oai phong, chứ hồi đó chì có mỗi chữ "dạy kèm" thôi chứ sư với siếc gì.
Số là sau này, khi thực hiện công trình, tôi thường theo chú tôi đến đây, cũng có nhiều lúc tôi đến một mình để trao giấy tờ và tham khảo ý kiến của ông chủ thầu, papa của nàng. Dần dà tôi quen thân với cả nhà. Gia đình trước sống ở Đà Lạt, làm chủ mấy cái hotel. Bà vợ bị chết bởi một tai nạn giao thông ngay trên đèo Ngọan Mục, ông già buồn quá không muốn mỗi ngày nhìn thấy bóng dáng bà vợ trong thành phố sương mù, nên dọn xuống Nha Trang, trở lại nghề thầu khoán gia truyền từ mấy đời trước. Ông bà chỉ có mỗi một cô con gái, nhưng trong nhà ông nuôi nhiều cháu và gia nhân. Gặp tôi nhiều lần, và qua chú tôi, ông già cô bé nghe nói tôi cũng gốc nhà quê, hiền lành chăm chỉ, nên nhờ tôi, cứ ba tối mỗi tuần ghé lại nhà kèm cô con gái cưng của ông về môn toán và Việt văn. Cô bé vừa từ trường Domaine de Marie ở Đà Lạt chuyển xuống lớp đệ ngũ trường Nữ Trung Học Nha Trang, đọc thơ Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc mà không hiểu bà Đoàn thị Điểm và ông Ôn Như Hầu nói cái gì trong đó...  Môn toán thì tôi không biết vẽ rồng vẽ rắn, chứ cái môn Việt văn này coi bộ bao la trời biển quá, vẽ cái gì chẳng được.
Hôm đầu tiên, tiểu thơ vẫn còn cao điệu, gọi tôi là Thầy. Không biết là do lệnh của ông già, vì đề phòng tôi "tán bậy" con gái, nên phong cho tôi cái chức "bán tự vi sư nhất tự vi sư" để tôi biết phận mà giữ mình, hay là cô bé choc quê tôi không biết.
Thấy "diễn nôm điển tích" mấy câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc coi bộ không ăn khách, chẳng hấp dẫn nổi cô bé, tôi quay sang đọc thơ cho cô bé nghe. Hồi đó ở Võ Tánh có hai nhà thơ rất sớm nổi tiếng, mà dù là tên thật hay bút hiệu gì nghe cũng đẹp làm sao: Thanh Nhung và Cao Hoành Nhân, Tôn Nữ Nha Trang và Bùi Cao Hoành gì đó. Không biết có đúng hay không, nhưng tôi nghe bạn bè thêu dệt về cuộc tình lãng mạn của hai nhà thơ học trò vang bóng một thời này. Tôi chọn mấy bài thơ ướt át nhất của hai người đọc cho cô bé nghe. Và cũng lạ, không cần diễn nôm diễn nghĩa gì cả, cô bé không những hiểu rất nhanh mà còn cảm nhận đến độ lim dim đôi mắt... nhìn xa xăm.
Có một điều tôi quên nói: cô bé cũng thuộc dòng Tôn Nữ, cũng có một cái tên hay lắm: Tôn Nữ Giáng Vân. Nhưng tôi vẫn thích gọi cô bé là Tiểu Thơ, cái tên mà nàng đã tự xưng khi đụng tôi trước rạp Tân Tân. Hơn nữa tôi thấy cái tên này cũng hợp với cô bé lắm. Tôi nghĩ thầm, có lẽ nàng Tôn Nữ xứ Huế nào cũng đẹp và.. lãng mạn đa tình.
Các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, cô bé mê nhất là Hồn Bướm Mơ Tiên, nên thường bắt tôi kể lại cho nàng nghe. Mẹ nàng vốn là một phật tử ngoan đạo. Sau ngày bà chết, ba nàng cúng dường khá nhiều tiền để chỉnh trang hai ngôi chùa Tỉnh Hội, Hải Đức và cung thỉnh thêm nhiều tượng Phật. Cô bé thường theo cha lên chùa Hải Đức. Nàng bảo mỗi lần lễ Phật, nàng cứ tưởng tượng mình là "chú tiểu" Lan, nhưng lại rất sợ và bịt kín tai khi nghe có tiếng đại hồng chung, nên chắc không thể nào giả trai lên chùa tu được.
Một hôm cô bé nhất quyết bắt ông thầy phải làm cho cô bé một bài thơ. Nếu không thì không chịu học. Cái này thì đúng là tiểu thơ muốn hại "đời tư" của tôi đây. Mang tiếng là học ban C nhưng hồi giờ tôi có thơ với thẩn gì đâu, chỉ lâu lâu cùng với mấy thằng bạn trong lớp nghịch ngợm bày ra trò chơi nối vần một bài lục bát con cóc để ghẹo cô bạn nào đanh đá trong lớp. Vậy mà hôm ấy, không biết con tim nó ướt át đến cỡ nào, tôi phóng bút làm xong một bài thơ chưa đầy mười phút. Đọc qua nghe có mùi cải lương không chịu nổi, nhưng tôi cũng tự phục mình. Tôi đưa bài thơ cho nàng đọc:
Ngày tháng trôi dần theo nhớ thương
I như duyên nợ đã vấn vương
Nên tình mây nước cùng trăng gíó
Hẹn ở ngày mai một nẻo đường
YÊU vầng trăng sáng in cành lá
Và khúc nhạc lòng dâng đến hương
Ân ái giờ đây là mơ ước
Ngỡ một tâm tình một vấn vương
Cô bé đọc xong không biết có hiểu gì không, (mà thực ra bài thơ cũng có nghĩa gì đâu mà hiểu với không), gật gù khen và hỏi:
- Sao bài thơ không có tên?
- Có tên rồi đó mà tiểu thơ không thấy à?
Cô bé lật qua lật lại mảnh giấy:
- Tên với tựa gì đâu, không thấy. Trả lại thầy, không thèm.
Tôi cười, vuốt ve cô học trò:
- Thì Vân cứ ghép tất cả các mẫu tự đầu ở mỗi câu lại, sẽ thấy cái tựa liền.
Khổ thật, tôi còn phải giải nghĩa thêm mẫu tự là cái gì, thì cô ta mới tìm được cái tựa bài thơ. Cô bé đỏ mặt, vất mảnh giấy có bài thơ xuống đất :
- Không thèm chơi với Thầy nữa.
Nói là không thèm chơi, nhưng cũng kể từ hôm ấy cô bé thân thiết và gần gũi với tôi hơn. Ba nàng cũng thấy tin và quí ông gia sư nhóc tì này, vì thấy con gái cưng của mình chăm học, vui vẻ yêu đời hơn.
Mùa hè năm đó, cô bé theo tôi về nhà quê chơi, nhân tiện có cô con gái của ông chú tôi cùng về thăm quê nội. Dường như đó là lần đầu tiên cô bé ra một vùng quê. Không biết là gió nội hương đồng hấp dẫn cô bé, hay là suốt ngày dung dăng dung dẻ làm nũng làm nịu với "ông Thầy", cô bé ca hát líu lo và bảo là yêu... đồng quê ghê lắm. Và đó cũng là một mùa hè đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong đời học trò của tôi, dù ở quê tôi chẳng có cây phượng vĩ và cũng chẳng nghe có tiếng con ve sầu nào rên rỉ.
Hai năm sau, tôi rời Nha Trang vào Sài gòn học tiếp. Tôi buồn và tiếc nuối vì phải chia tay cái nghề gia sư với cô hoc trò nhỏ nhưng có đôi mắt thật to... của mình. Cô bé được ông già chở lên ga Nhatrang tiễn tôi đi. Tôi cũng cố làm ra vẻ "đi là chết ở trong lòng một ít", làm cô bé mủi lòng muốn khóc. Ông già cứ tưởng là nhờ ơn tôi mà cô bé vừa đậu cái bằng trung học kỳ rồi, nên cũng nắm chặt tay tôi, lì xì một mớ tiền và cám ơn rối rít...
Vậy mà cái tình yêu ấy (không biết có đúng là tình yêu hay không, nhưng cứ nói như thế cho nó lãng mạn và người lớn một chút) cũng làm cho lòng tôi xốn xang một dạo.
Sau đó chỉ có vài lần tôi nhận được thư cô bé, kể chuyện những bạn bè thân quen của cô bên trường Nữ, và chuyện chiếc máy bay phản lực rơi xuống bên cạnh rạp Tân Tân, nơi mà lần đầu tiên tôi biết cô bé nhờ chiếc vélo của cô tông tôi ngã xuống bên lề đường. Nhưng lần nào cũng kèm theo một bài thơ tình... con cóc.
Năm năm sau, khi cô bé đã trở thành người lớn và quên "ông Thầy" thích đọc thơ tình cho cô học trò... lim dim đôi mắt, thì cũng là lúc tôi hát khúc Biệt Kinh Kỳ, xếp bút nghiên theo việc kiếm cung.
Ra trường, tôi được bổ sung về một đơn vị lưu động trên vùng Cao nguyên gió lạnh mưa mùa. Năm 1972, tôi bị thương trong trận Mủa Hè Đỏ Lửa ở Kontum, được đưa về QYV Pleiku điều trị. Khi vết thương vừa lành, tôi nhận Sự Vụ Lệnh của đơn vì đề cử về Sài gòn trong đoàn "chiến sĩ xuất sắc" được Tổng Thống tiếp đón tại khu vườn Dinh Độc Lập. Thực ra là tôi có xuất với sắc cái gì đâu. Khi còn độc thân thì hăng máu lắm, chứ đã có vợ rồi thì cũng hơi lạnh cẳng, ngại cái cảnh "anh trở về dang dở đời em". Nhưng chiến tranh đang hồi ác liệt, nếu cử chiến sĩ xuất sắc thứ thiệt đi thì thiếu người đánh giặc giỏi, mà lại hao hụt quân số tác chiến, tôi đang trong tình trạng bất khiển dụng, nên cho tôi đi là nhất cử lưỡng tiện. "Chiến sĩ xuất sắc" được ưu ái đi bằng máy bay dân sự. Tại phi trường Pleiku bụi đỏ, tôi bất ngờ gặp lại Tiểu Thơ khi tôi vừa ngơ ngác bước lên máy bay Air Vietnam và khựng lại trước đôi mắt thật to của cô hôtesse de l’air đang mỉm cười chào khách. Trong chiếc áo dài màu thiên thanh, có thêu hai con rồng trên cổ áo, nàng đẹp như một nàng tiên. Khi chiếc máy bay DC 4 đã lấy lại thăng bằng trên cao độ, nàng đến ngồi chiếc ghế trống trước mặt tôi, quay ra sau trò chuyện. Trong chớp nhoáng, tôi biết là nàng đã có chồng. Anh ta là một phi công phản lực F5, thuộc dơn vị Biên Hòa. Hai người làm đám cưới hơn một năm. Tôi nghĩ, con gái đẹp thường chọn mấy ông không quân, vừa được tiếng có ông xã hào hoa, đi mây về gió, vừa khó trở thành góa phụ. Anh phi công nào phải vừa bô trai vừa tốt số lắm mới lọt được vào đôi mắt của Tiểu Thơ này. Tôi nghĩ như thế mà lòng thì cũng thấy một chút bâng khuâng.
Chỉ nói chuyện được vài câu, nàng ghi địa chỉ của tôi ở Sài gòn, rồi hẹn sẽ cùng đức lang quân ghé đón đi Maxim nghe Lệ Thu hát bài Kỷ Vật Cho Em. Tôi cười, bảo là rất sợ bài hát này, cái bài hát mà thằng lính nào nhát gan nghe xong là không còn muốn "đáo nhậm" đơn vị nữa.
Cuối cùng nàng đến có một mình, "ông xã" vừa mới biệt phái ra Vùng 1. Tối đó thay vì đến nhà hàng Maxim, nàng đưa tôi ra Quán Cái Chùa cho có vẻ nghệ sĩ một chút, mời "ông Thầy" uống cà phê có hương vị Tùng Đà Lạt - mà chủ nhân thường pha chế đặc biệt cho riêng nàng - để nhớ những ngày cô còn ở đó... Dường như khi đã lớn rồi, người ta lại muốn tìm về cái thời đi học. Hai đứa chỉ ngồi nhắc lại chuyện Nha Trang, chuyện mấy bài thơ con cóc, rồi chia tay không hẹn ngày tái ngộ. Thời chiến tranh mà, "cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" biết đâu mà hẹn.
Tháng 3/1975, Nha Trang rồi cả Vùng 2 mất. Bao nhiêu năm sống chết với núi rừng Hoàng Triều Cương Thổ, tôi theo đơn vị chỉ còn một phần tư quân số "di tản" vào Vũng Tàu để tái bổ sung, rồi kéo xuống tham dự những trân đánh cuối cùng cô đơn và buồn tẻ ở những địa danh xa lạ: Bến Lức, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An, nhằm ngăn chận địch quân đang tràn về vây hãm và pháo kích Sài Gòn.
Cũng như nhiều đơn vị khác, vào giờ thứ 25, chúng tôi đánh giặc không có "đại bàng". Lần cuối cùng tập họp anh em lại hô "tan hàng" mà không còn nghe "cố gắng" nữa, thì tôi mới biết là ông tướng tư lệnh đã có mặt trên đệ thất hạm đội Mỹ trước đó hai ngày rồi! Thôi thì, xưa nay người ta đã nói "nhất tướng công thành vạn cốt khô" mà. Cuối cùng thì miền Nam cũng thất thủ. Đám tụi tôi được người "anh em" chiến thắng mời vô trại cải tạo để được hưởng "chính sách khoan hồng của kách mệnh"!
Tám năm lưu đày từ nam ra bắc, cuộc đời thôi đành cứ như gởi theo những đám mây bay. Cái hạnh phúc bây giờ chỉ còn là những phút giây hồi tưởng. Mà hồi tưởng cũng phải "cảnh giác", chứ không khéo cũng bị cùm vì cái tội "luyến tiếc quá khứ". Bạn bè cùng cảnh luyến tiếc điều gì thì tôi không biết, nhưng riêng tôi lại tiếc nhớ cái tuổi học trò, và cái thời con tim mới biết yêu. Tôi lại nhớ đến Tiểu Thơ, đến đôi mắt tròn xoe của cô bé, và nhớ tới cái hạnh phúc làm "gia sư" của tôi còn hơn là nhớ tới mười mấy năm làm bạn với ông Nguyễn Bắc Sơn "ta vốn hiền khô - ta là lính cậu, đi hành quân rượu đế vẫn mang theo, mang trong đầu những ý nghĩ trong veo, xem chiến cuộc như tai trời ách nước". Tôi hình dung bây giờ chắc nàng đang hạnh phúc ở một chốn thiên đường nào bên nước Mỹ. Ông xã là không quân mà, lại đóng ở Biên Hòa nữa. Chỉ cần một lần cất cánh nhẹ nhàng là thay đổi cả cuộc đời.
Ra tù, trở lại thành phố xưa, tôi có cảm gíác Nha Trang sao bây giờ xa lạ quá, không còn là "hang động tuổi thơ" của bọn tôi ngày trước nữa. Nhưng rồi tôi cũng đâu có được phép ở lại cái thành phố này, mà phải về tạm trú ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Ở đó tôi chỉ còn một bà cô già sống quạnh hiu trong ngồi nhà từ đường có mái ngói âm dương của ông bà nội. Cha tôi thì cũng đã chết cách đây sáu năm trong trại cải tạo Đá Bàn. Mồ mả còn chưa biết ở đâu. Nhưng rồi tôi còn có cái may, là gần như mỗi ngày tôi đều ghé lại Nha Trang một lần, bởi tôi được ông anh bà con cho tôi làm tài xế phụ kiêm lơ xe cho chiếc xe đò nhỏ của ông chạy đường Nha Trang – Tuy Hòa. Xe chạy bằng than và khách hầu hết là mấy bà đi buôn chuyến.
Một hôm tôi đang lui cui đứng trên mui, thì một bà khách kêu tôi nhấc hộ đội thúng của bà lên. Bà lấy hết sức đưa từng chiếc thúng lên, nhưng rồi lại bị sà xuống. Trong đôi thúng là những thỏi đường màu đen khá nặng. Tôi phải dùng một cây móc sắt đưa xuống, bảo bà móc vào để tôi kéo lên. Khi lấy sức kéo đôi thúng lên tôi bất ngờ gặp đôi mắt thật to và tròn xoe. Đôi mắt nhìn tôi tựa hồ như xoáy vào lòng tôi nhát dao đau buốt. Tôi nhảy xuống xe, nắm chặt đôi vai gầy còm của bà khách:
- Là em, là Tiểu Thơ đây à?
Nàng nhìn tôi, rồi nước mắt đầm đìa.
- Tiểu Thơ, à quên... Vân, làm sao mà em lại ra đến nỗi này.
Nàng cúi xuống im lặng, không nói một lời nào.
Ra đến Tuy Hòa, tôi gánh hộ nàng gánh đường giao cho một cái quán trong chợ, rồi mời nàng đi ăn cơm trưa. Tôi đang nóng lòng được biết về hoàn cảnh của nàng:
- Ông xã em bị kẹt ngoài Vùng 1 rồi mất tích luôn từ đó tới bây giờ. Em có đi hỏi một vài người bạn cùng phi đoàn, thì họ cho biết là anh ấy bị bắn rơi khi yểm trợ cho anh em Thủy Quân Lục Chiến rút về Đà Nẵng. Em chờ đợi xem anh có bị bắt cầm tù ở đâu không, nhưng đến bây giờ thì chắc chắn là anh đã chết thật rồi.
- Còn ba em đâu?
- Nhà cửa ba em bị tịch thu hết. Ông bị bắt đi cải tạo với lý do từng thầu xây cất doanh trại cho Mỹ trong phi trường. Chỉ một năm là ông chết.
- Vậy bây giờ Vân ở với ai?
- Em ở với con gái em. Nó gần mười tuồi rồi. Khi gặp anh ở Sài gòn là em vừa mang thai nó mà chưa biết. Mẹ con em được đền bù một căn nhà tôn nhỏ của thương phế binh hồi trước, nằm sau ga xe lửa.
Tôi nhét vào tay Vân tất cả số tiền mà tôi kiếm được hôm ấy, bảo nàng mua hộ tôi quà cho cháu gái.
Sau đó, tôi gặp lại nàng chỉ thêm hai lần nữa, vì ông anh họ tôi đã phải bán rẻ cái xe hơi cho người khác, bởi không dủ tiền sửa chữa mà còn cứ bị chính quyền trưng dụng đi chở lúa cho hợp tác xã, không trả một đồng nào. Cũng đúng vào lúc này, tôi tính chuyện vượt biên.
Tôi kể chuyện Tiểu Thơ cho vợ tôi nghe. Bây giờ tôi thương cô như một người em gái. Vợ tôi tốt bụng, thương mẹ con cô cũng như hoàn cảnh của chính mình, sẵn sàng cùng tôi giúp mẹ con nàng đi cùng chuyến vượt biên, do chính tôi tổ chức.
Một tuần trước khi ra đi, tôi vào Nha Trang tìm đến nhà nàng. Căn nhà khóa kín cửa. Tôi chờ đến tối mà chẳng thấy mẹ con cô trở về. Tôi gõ cửa căn nhà bên cạnh. Chủ nhà lại là một anh thương phế binh, nhờ mất cả hai chân nên không bị đuổi khỏi nhà… Anh cho biết là mẹ con nàng đã dọn đi đâu cả mấy tuần rồi, không thấy về nhà.
Trời thương, chuyến vượt biên cũng đến được bến bờ, nhờ một chiếc tàu chở dầu của Vương Quốc Na Uy vớt trên biển, trước khi cơn bão ập đến. Với ân tình này, vợ chồng tôi chọn Na Uy là nơi để gởi gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.
Mùa hè năm 1989, vợ chồng tôi đưa hai cô con gái sang Mỹ học, nhân tiện ghé thăm và chia buồn gia đình ông anh họ, đi từ năm 78, định cư ở thành phố Sacramento, bắc Cali. Anh chị vừa có thằng con trai bị chết đuối khi theo cha đi câu ngoài biển.
Bao nhiêu năm gặp lại nhau, anh chị tiếp đón chúng tôi thật ân cần, nhưng không vui vì cái bàn thờ đứa con trai còn nghi ngút khói hương. Sáng hôm sau, anh chị đưa tôi đến nghĩa trang thăm mộ cháu rồi chở chúng tôi đến một ngôi chùa Sư Nữ ở gần đó, để bàn việc làm lễ cầu siêu cho cháu. Anh cho biết anh chị rất thân quen với Sư Bà trù trì, Bà rất quí anh chị không chỉ vì biết nhau từ lúc còn ở Nha Trang mà vì anh làm nghề thầu sửa chữa nhà cửa, nên cả ngôi chùa này phần lớn là do công sức của anh cúng dường.
Ngôi chùa không lớn lắm, khu chánh điện còn đang dang dở, nhưng vườn khá rộng và trồng nhiều loại hoa. Trong chùa tiếng tụng kinh, gõ mõ càng đượm không khí trang nghiêm. Chúng tôi được một cô phật tử mời ngồi uống trà và xin chờ chừng nửa tiếng, vì Sư Bà đang cúng ngọ.
Khi ông anh bà chị đứng bật dậy, chúng tôi chợt nhìn thấy Sư Bà vừa bước ra. Tôi ngạc nhiên vì Sư Bà còn trẻ và trông rất phương phi, nhất là hai tai thật to và dài xuống như tai các tượng Phật tôi thường nhìn thấy trong các ngôi chùa. Điều làm chúng tôi thú vị là bà rất vui vẻ cởi mở. Bà bảo bà cũng là dân Nha Trang nên rất mừng khi tiếp được người đồng hương từ tận bắc Âu đến viếng.
Sau một lúc hàn huyên, tôi biết được Sư Bà là người có trình độ học vấn cao. Bà có cử nhân Văn Khoa và đang học năm cuối cao học văn chương tại đại học Vạn Hạnh thì miền Nam thất thủ. Điều ngạc nhiên hơn là Sư Bà cho biết có khá nhiều ni cô gốc Nha trang đang tu ở chùa này, trong đó có con gái của ông chủ tiệm ảnh nổi tiếng một thời ở đường Phan Bội Châu mà ngày xưa tôi cùng đám bạn bè thường đến để chụp ảnh, con gái một bà chủ tiệm vàng trước Grande Pharmacie, và một vài ni cô nữa.
Bà còn bảo thật là tội nghiệp, có vài cô đã gặp bao nhiêu nghịch cảnh thương tâm trên biển Đông, chồng chết con chết, chỉ còn lại một mình. Ban đầu, Bà đưa về chùa cưu mang, rồi sau đó các cô xin được xuống tóc qui y luôn. Sư Bà mời chúng tôi ở lại dùng cơm chay cùng với Bà, nhân tiện bà giới thiệu với mấy ni cô gốc Nha Trang cho biết, bởi tôi cũng là một phật tử thuần thành.
Tôi theo ông anh bà chị xuống bếp phụ dọn cơm. Nhưng ông anh ngăn lại:
- Chú là người lạ, không nên vào bếp. Hôm nay chú thím là khách của Sư Bà mà.
Ngồi dọc theo chiếc bàn dài, gồm các ni cô và một vài phật tử, chỉ có chúng tôi là "dân sự". Sư Bà giới thiệu chúng tôi là đồng hương, những phật tử đến từ tận Bắc Âu. Tôi vừa đứng lên chấp hai tay trước ngực, bỗng bất ngờ bắt gặp đôi mắt thật to, tròn xoe của một ni cô ngồi ở phía cuối bàn. Ni cô cũng vừa nhìn tôi rồi cúi xuống. Đôi mắt đó với tôi có một cái gì thần giao cách cảm. Đúng. Trên thế gian này chỉ có Tiểu Thơ mới có đôi mắt ấy mà thôi
Dùng cơm xong, là đến giờ nghỉ trưa của Sư Bà. Chúng tôi cám ơn Sư Bà và xin được cúng dường một số hiện kim để trùng tu chánh điện.
Tôi từ giã Sư Bà, trong lúc mắt nhìn quanh như muốn tìm kiếm một điều gì. Nhưng tất cả chỉ có im lặng, ngoài tiếng chuông chùa ngân nga như chẳng bao giờ muốn tan đi trong không gian bao la vô tận.
Tôi bước ra khỏi cổng chùa. Chùa nằm trên một khu đất bằng phằng, nhưng sao tôi có cảm giác như mình đang lững thững bước xuống chân đồi. Tôi hình dung đến Ngọc vừa chia tay "chú tiểu" Lan lần cuối cùng ở chùa Long Giáng trong Hồn Bươm Mơ Tiên của nhà văn Khái Hưng, mà ngày xưa Tiểu Thơ đã bắt tôi phải kể đi kể lại bao nhiêu lần.

Phạm Tín An Ninh


Back to top
« Last Edit: 03. Feb 2010 , 15:10 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #111 - 08. Feb 2010 , 16:07
 
Còn 5 ngày nữa là Tết  Canh Dần , mời cả nhà  đọc một Truyện Ngắn  rất cảm động của nhà văn PHẠM TÍN AN NINH  -  GÓI QUÀ ĐẦU  NĂM  , để nhớ lại  truyện Em gái Hậu phương và  Anh Trai Tiền Tuyến.- Nhớ  để  bên cạnh hộp  Tissue.
   

GÓI QUÀ ĐẦU NĂM

phạmtínanninh



Tôi phải ngồi lại trên các bậc đá nghỉ chân đến ba lần trước khi bước vào cổng chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm trên một triền núi, được phủ mát bởi những tàng cây. Ngôi nhà khách bằng gỗ, khá xinh xắn, nằm trong một khu vườn toàn hoa vạn thọ. Phía trước là một tượng Phật ngồi dưới gốc cây bồ đề, cành lá được cắt tỉa công phu. Chung quanh là cả một vùng núi trời tĩnh mịch.Tôi không phải là phật tử, nhưng ngồi nghe tiếng mõ và lời cầu kinh trong chùa vọng ra, cũng thấy lòng nhẹ hẳn đi trước bao nhiêu điều phiền não.

Hôm nay là mồng một tết, nhưng cảnh chùa khá im vắng, bởi chùa nằm khá xa khu dân chúng. Ngày hôm qua tôi có đến đây, nhưng thầy trụ trì đi vắng. Tôi đã để lại tấm danh thiếp của chồng tôi, viết vài dòng phía sau xin hẹn thầy hôm nay trở lại.

Chú tiểu còn rất trẻ, mang trà ra mời và xin tôi chờ thêm mươi phút nữa vì thầy trụ trì đang khai kinh cho buổi lễ tân niên. Tôi nôn nao muốn sớm được nhìn mặt vị ân nhân của mình, nhưng cũng dặn lòng phải kiên nhẫn và cẩn trọng ý tứ trước một nhà sư.

* * *

Hơn ba mươi năm trước. Lúc ấy tôi còn là cô bé học trò trường trung học An Túc, nằm giữa thị trấn An Khê, bên quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn với Pleiku. Chiến tranh đang thời kỳ ác liệt. Tuổi còn nhỏ, nhưng ngày nào tôi cũng nghe cha mẹ và các thầy cô bàn chuyện chiến trường: đánh lớn ở Pleime, Dakto, Tân Cảnh. Mấy năm nay, An Khê tương đối bình yên, nhờ Sư đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ có căn cứ ở đây, và dọc theo đèo An Khê có đồn bót của các đơn vị thuộc Sư đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Giữa lúc chiến tranh ngày khốc liệt, bất ngờ lực lượng đồng minh rút quân về nước, làm dân chúng ở đây hoang mang, lo lắng. Xứ họ đạo của tôi cũng được cha chánh xứ tổ chức những toán tự vệ, phối hợp với quận, lo canh gác khu vực của mình.

Chiều ba mươi Tết, được thông báo của tỉnh, các cơ quan trên quận phối hợp với các thầy cô giáo và cả Hội Đồng giáo xứ đi mọi nhà kêu gọi đóng góp những gói quà tượng trưng dành tặng cho anh em chiến sĩ của một đơn vị từ xa tới đồn trú ở đây để thay thế lực lượng đồng minh.

- Tội nghiệp, nghe nói anh em đã phải rời căn cứ từ sáng sớm 30 để chiều mồng một Tết có mặt ở đây. Họ có biết tết nhất gì đâu! Ông cha xứ nói với chúng tôi như thế.

Cả quận vui mừng, nô nức trước tin vui. Riêng tôi còn vui hơn khi tưởng tượng sẽ có nhiều anh lính đến cái thị trấn nhỏ xíu buồn tênh này, nên rất sốt sắng trong việc gói quà. Tôi tự tay thực hiện được hai gói quà, gồm một số bánh mức, chiếc khăn tay do tôi thêu lấy, kèm theo lá thơ chúc mừng năm mới tới hai anh chiến sĩ vô danh nào đó. Tôi nắn nót viết thật đẹp rồi đề tên, lớp và trường học phía dưới. Vì “sao y bản chánh” từ một bài luận văn tháng trước, nên hai lá thư giống nhau như đúc. Nhìn hai gói quà tôi mỉm cười, khi nghĩ sẽ có hai “người tình không chân dung” nào đó nhận được lá thư nồng nàn của một cô “em gái hậu phương”. Ban đầu, các thầy cô cho biết, đám học trò chúng tôi sẽ được hướng dẫn vào căn cứ để tận tay tặng quà cho các anh chiến sĩ. Bọn tôi đứa nào cũng hớn hở, lăng xăng giặt ủi lại chiếc áo dài trắng ưng ý nhất. Nhưng sau đó dưới tỉnh cho biết là trước khi vào An Khê, các đơn vị này còn phải hành quân mở đường, giải tỏa một số đồn bót của lực lượng Đại Hàn nằm dọc theo đèo An Khê bị địch quân bao vây đã ba hôm nay. Cuối cùng tất cả quà đều được nộp cho trường, và thầy hiệu trưởng cùng các thầy cô giáo sẽ mang vào cho đơn vị để trao lại cho anh em chiến sĩ khi tình hình an ninh cho phép. Bọn học trò chúng tôi tiếc hùi hụi vì mất một dịp được vào xem căn cứ và ủy lạo các anh chiến sĩ.

* * *

- Nam mô A Di Đà Phật. Xin chào bà. Xin lỗi, chắc là bà đã chờ tôi lâu lắm phải không?

Câu hỏi của thầy trụ trì cắt đứt dòng hồi tưởng của tôi. Tôi đứng lên, vụng về chấp hai tay trước ngực chào lại thầy. Tôi muốn nhìn thật kỹ khuôn mặt của thầy, nhưng thấy ái ngại, nên chỉ cúi đầu im lặng.

- Cái cổng tam quan, ngôi nhà khách này, và những bậc đá trên con đường mà bà vừa đi lên là do tiền cúng dường của ông bà. Chúng tôi xin tán thán công đức và cầu xin chư Phật gia hộ cho ông bà cùng gia đình. Bà có muốn đi một vòng xem cảnh chùa không? Xin mời bà.

Thầy vừa nói vừa chỉ tay về phía cổng tam quan.

- Dạ, công ơn của thầy đối với gia đình tôi lớn lao quá. Biết làm sao đền đáp. Xin thầy đừng nhắc tới công đức, làm tôi thêm xấu hổ. Tôi vừa bước theo phía sau thầy, vừa nói.

- Mô Phật! Giúp người, đó là nhiệm vụ của kẻ tu hành, dù là tôn giáo nào. Sao bà lại gọi là công ơn. Thầy nở một nụ cười độ lượng.

Đi phía sau, nhìn dáng đi khoan thai của thầy, tôi băn khoăn suy nghĩ: Khuôn mặt thì có nhiều nét giống, nhưng với cái dáng đi thì lại khác hẳn. Có thể ngày xưa là lính nên cần phải nhanh nhẹn. Tôi nghĩ thầm như thế.

Khi đến cửa tam quan, thầy dừng lại và chỉ tay về hướng bờ biển, nơi có mấy tảng đá ở triền núi, phía dưới là một khu rừng rậm:

- Chính ở nơi đó, tôi đã tìm gặp chồng của bà.



Năm ấy, khi chồng tôi vừa mới trốn về từ trại tù cải tạo Gia Trung (anh chỉ là thầy giáo, dạy một trường trong khu người Thượng, bị bắt năm 1979 vì bị kết tội hợp tác với lực lượng Fulro chống lại nhà cầm quyền Cộng sản), được một người bạn thân cho đi theo một chuyến vượt biển do gia đình anh ta tổ chức. Lúc ấy ai cũng nghĩ ra đi là không bao giờ gặp lại vợ con, mà có ở lại cũng sống không yên, chỉ làm khổ cho gia đình. Hơn nữa lúc ấy tôi vừa mới sanh đứa con đầu lòng, nên không thể đi cùng. Chúng tôi đành gạt lệ chia tay mà không dám nghĩ sẽ có ngày tái ngộ.

Tàu vừa ra khơi hơn một ngày thì bị hỏng máy, trong lúc gió mưa tầm tã. Tất cả mọi người phải đem sinh mạng chống chọi với phong ba. Cuối cùng, sau gần ba ngày bềnh bồng trên biển, nhờ những cơn gió nhiệm màu đã đẩy chiếc tàu với hơn một nửa số người sống sót, giạt vào một ghềnh đá lúc trời nhá nhem tối. Tưởng đã thoát chết, nào ngờ khi vừa leo lên bờ thì bị một toán công an biên phòng vây bắt. Một số người yếu sức thì đành đưa tay cho họ trói. Chồng tôi cùng một vài thanh niên khác dùng hết tàn lực chạy trốn trong các hốc đá bên triền núi. Mấy lần thoát chết dưới những tràng đạn. Nhờ trời tối anh chạy thoát vào khu rừng trước khi kiệt sức. Khi tỉnh lại, anh thấy mình nằm trong ngôi chùa nhỏ nằm bên triền núi. Anh được vị trụ trì săn sóc và che dấu chu đáo, mặc dù biết anh là người công giáo, bởi trên cổ có đeo thánh giá. Sau hơn một tuần, nhờ thầy giúp cạo đầu, cho áo quần để cải dạng một thầy tu, và gởi theo một chiếc xe đò của một phật tử thân quen, chồng tôi mới trốn được vào nhà bà cô ruột ở Cam Ranh. Sau đó nhờ chính bà cô này tìm đường để vượt biển tiếp. Và lần này anh đã được tàu Pháp vớt, nên được sang định cư bên Pháp. Ba năm sau, tôi và đứa con được anh bảo lãnh với diện đoàn tụ gia đình.



- Mô Phật! Tội nghiệp, ông ấy đã về tìm thăm tôi hai lần, và giúp cho tôi khá nhiều tiền để lập lại ngôi chùa này và một nhà từ thiện nuôi các em bé tật nguyền dưới xóm. Công đức của ông bà thật lớn lắm.

Tôi nhớ lại tấm ảnh mà chồng tôi chụp chung với thầy trong lần thứ nhì về thăm thầy. Bao nhiêu lần tôi đã nhìn kỷ tấm ảnh, lại nghe chồng tôi bảo, ngày xưa thầy cũng là lính, nên tôi đã ngồi hằng giờ hình dung, nhớ lại một người quen lúc trước.

- Thực ra anh ấy ngại không muốn về, nhưng vì nhớ ơn thầy mà anh ấy mới về gặp thầy. Lần này chính tôi đề nghị được thay anh về thăm thầy, nhân dịp thăm mẹ của tôi đang ốm nặng.

- Mô Phật! Tôi hiểu nỗi khổ tâm của ông ấy.

Tôi nghe tiếng thở dài của vị trụ trì, và thấy thầy đưa mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Từ lúc mới gặp nhau trong ngôi nhà khách, tôi nghĩ là thầy đã nhận ra tôi. Tôi chờ thầy hỏi, nhưng có thể thầy đã quên hay bây giờ là kẻ tu hành, nên thầy không muốn nhắc lại chuyện thế tục ngày xưa. Không để lỡ mất cơ hội, tôi lên tiếng:

- Tôi về đây, gặp thầy cũng để muốn xin được hỏi thầy một điều, mà bấy lâu nay cứ băn khoăn mãi trong lòng, nhưng ngại thầy là bậc tu hành, nên tôi không dám.

Thầy nhìn tôi, im lặng giây lát rồi lên tiếng:

- Mô Phật! Kẻ tu hành lúc nào cũng muốn đem ánh sáng cho chúng sinh hầu giải tỏa những lo âu phiền não. Xin bà cứ tự nhiên

- Xin thầy tha lỗi, nếu có điều gì không phải. Có phải thế danh của thầy là Quế, Lê Phương Quế?

Thầy ngạc nhiên nhìn tôi, rồi nhìn lên khoảng không, nhíu mày.

- Mô Phật! Làm sao mà bà biết được tên của tôi?

- Thầy còn nhớ anh Lân, trung sĩ Đỗ Lân, ở Sư đoàn 23 Bộ binh, có đóng quân ở An Khê vào những ngày tết năm 1972?

- Bà còn biết cả bạn tôi? Anh Lân đã tử trận ở Kontum từ mùa hè 72. Bà có biết không?

Tôi có một thoáng giận thầy, vì nghĩ là đến bây giờ ông vẫn chưa nhận ra mình. Chẳng lẽ thầy vô tình đến thế. Nhưng ngay sau đó tôi hối hận về ý nghĩ của mình. Sao lại đem chuyện đời để mà trách một vị chân tu, một người đã xa lánh chuyện hồng trần, thế sự. Thầy đã cho mình hỏi và sẵn sàng tâm sự đã là một điều hỉ xả rồi.

- Dạ, tôi có biết, và tôi cũng có đến Kontum thăm mộ anh mấy lần. Sau này tôi về tìm để xây lại ngôi mộ cho anh, thì nghĩa trang không còn nữa, và không ai biết mộ anh đã chuyển đi đâu.

Đôi mắt của vị trụ trì sáng hẳn lên. Thầy mở đôi mắt thật to nhìn tôi, đưa tay lên định nắm vai tôi, nhưng rồi kịp khựng lại.

- Vậy là Xuân? Bà là cô Xuân ngày xưa? Mô Phật! Sao lại có chuyện kỳ ngộ lạ lùng này!



Vâng, tôi chính là Xuân, cô bé học trò trường trung học An Túc ngày xưa. Người đã gói hai gói quà Xuân ủy lạo cho những chiến sĩ đến giữ an ninh cho quê tôi vào đúng chiều ngày mồng một tết. Hai gói quà được nộp cho trường để chuyển tới cho các anh, vì lúc ấy đơn vị đang hành quân mở đường để đến nơi trú đóng.

Sau một cái tết an bình, cả thị trấn nhỏ của tôi nhộn nhịp hẳn lên bởi sự có mặt của một trung đoàn lính chiến, ngày mồng tám tết, đám học trò chúng tôi trở lại trường, nhưng các thầy cô biết là trong lòng đám học trò ai cũng còn dư âm ngày tết, nên cho chúng tôi tập họp lại hát hò và kể chuyện vui. Trong lúc thầy hướng dẫn đệm đàn cho cả đám học trò ca hát, thầy giám thị đến tìm tôi, bảo tôi lên văn phòng có người nhà muốn gặp. Bước theo thầy giám thị mà lòng tôi lo lắng không biết ở nhà có chuyện gì, thì ông đưa tay chỉ hai anh lính đang ngồi chờ trên chiếc ghế đá trong sân trường.

Hai anh lính thật trẻ đứng lên chào tôi, nhoẻn miệng cười:

- Hai đứa tôi đến để cám ơn Xuân và chúc mừng Xuân năm mới.

Tôi thoáng một chút ngạc nhiên và bẽn lẽn:

- Em có làm gì đâu mà hai anh cám ơn? Mà sao hai anh biết được tên em?

Hai anh cùng mở túi áo lấy ra bức thư. Vừa kịp nhận ra đó là hai bức thư mà tôi đã “sao y bản chánh” bỏ trong hai gói quà ủy lạo, thì một anh lên tiếng:

- Tôi là Đỗ Lân, và người bạn thân của tôi đây là Lê Phương Quế. Trông anh hiền như con gái, nhưng Xuân đừng nhầm với nữ ca sĩ Phương Hồng Quế nghe, mặc dù anh Quế bạn tôi cũng có giọng hát rất hay, không thua gì Phương Hồng Quế. Hai đứa tôi nhận hai gói quà của Xuân. Quà cáp như nhau và lời lẽ trong cả hai bức thơ cũng giống nhau như đúc. Cô Xuân thật công bình. Cám ơn nghe!

Tôi hơi quê, nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên:

- Hai anh tới trường tìm Xuân, không sợ thầy giám thị la Xuân hà?

Anh lính thứ nhì, tên Quế, lên tiếng:

- Bọn tôi bảo là anh em bà con với Xuân, đi lính xa nhà bây giờ mới gặp. Thầy giám thị coi bộ cũng thương lính lắm, nên chắc không nở la rầy người yêu, à xin lỗi, người em của lính đâu!

Mặc dù thấy hai anh chàng có vẻ thư sinh, vui tính, nhưng nhớ lời bà chị thường bảo mấy ông lính bạo dạn và tán gái hay lắm. Phải coi chừng. Tôi nhủ thầm như thế. Và để xem hai anh chàng này có thực sự bạo dạn hay không tôi khoanh tay:

- Nghe nói anh Quế hát hay không thua gì Phương Hồng Quế, em xin mời hai anh vào lớp em chơi. Bọn em cũng đang ca hát trong đó, chứ không có học hành gì đâu. Đám bạn em sẽ mừng lắm đó.

Hai anh nhìn nhau cười, rồi gật đầu, theo tôi vào lớp.

Cả đám bạn học trò im bặt, tò mò nhìn ra khi thấy tôi dắt theo hai anh lính trẻ. Tôi nói với vị giáo sư hướng dẫn:

- Thưa thầy, có hai anh lính nhận được quà tết của lớp mình, đến cám ơn và xin hát cho cả lớp mình nghe.

Thầy hướng dẫn lớp gật đầu, đến bắt tay hai anh, tươi cười:

- Hồi nãy tới giờ mấy cô chỉ hát những bài tình yêu lính chiến, bây giờ đích thân lính chiến hát tặng mấy cô thì còn gì hay bằng, phải không?

Cả lớp vỗ tay.

Anh lính tên Lân bước lên bục giảng, hai tay mân mê chiếc nón bê-rê:

- Kính thưa thầy, thưa các bạn. Tôi không biết hát, nên xin dành phần nói trước. Chúng tôi xin cám ơn những gói quà Tết của nhà trường, của các bạn. Trong không khí Tết, vì nhiệm vụ phải xa nhà, được những món quà của các bạn chúng tôi thấy ấm áp nhiều lắm. Đặc biệt hai đứa tôi đây đã nhận được quà của cô Xuân. Chỉ cần cái tên của cô là hai đứa chúng tôi cũng đã có cả một mùa xuân rồi. Xin cám ơn và kính chúc thầy, chúc các bạn một năm mới vạn điều như ý.

Cả lớp lại rộn lên tiếng cười và những tràng vỗ tay không dứt. Một con bạn có tiếng nghịch nhất lớp quay về hướng tôi ngồi:

- Xuân ơi, mày chỉ được chọn một trong hai thôi. Còn để dành cho đứa khác nữa chứ!

Đúng là nhất quỉ nhì ba, còn thứ ba là bọn này. Tôi đoán hai anh chàng lính sữa đang nghĩ như thế. Anh lính tên Lân bẽn lẽn, ngừng lại đôi phút rồi đưa tay về hướng người bạn, tiếp tục:

- Bây giờ, xin giới thiệu anh bạn thân nhất của tôi, Lê Phương Quế, mà chúng tôi thường gọi là Phương Hồng Quế, tiếng hát hàng đầu của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sẽ lên hát một vài bài tặng thầy và các bạn.

Tôi cũng phục tài ăn nói khá “tâm lý chiến” của anh chàng Lân này. Cái giọng Huế nghe cũng êm ái, cứ như rót mật vào tai người ta. Bây giờ nhìn kỹ thấy anh ta cũng đẹp trai, nụ cười cũng có duyên ghê lắm. Lính cỡ này chắc sẽ làm khổ vài cô em gái hậu phương đây. Tôi mỉm cười với ý nghĩ vừa thoáng trong đầu.

Anh Quế bước lại chỗ thầy hướng dẫn để xin nhờ thầy đệm đàn. Anh hát bài Xuân Này Con Không Về của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Trông anh có dáng dấp thư sinh và khuôn mặt hiền lành như một thầy tu.

Tiếng hát cất lên làm cả lớp im bặt. Đúng là giọng hát của anh rất hay, điêu luyện, lúc réo rắt lúc trầm buồn không thua một ca sĩ chuyên nghiệp. Dường như có cùng tâm trạng với nội dung bài hát, nên anh đã hát với tất cả cảm xúc, làm giao động trái tim mọi người. Bài hát chấm dứt, mà cả lớp dường như còn thẫn thờ, yên lặng. Sau đó bùng vỡ bởi những tràng vỗ tay và nhiều tiếng la: bis, bis...

Anh cúi xuống một lúc, hình như để dấu sự cảm xúc, rồi ngước lên nói nhỏ hai tiếng cám ơn và xin hát tiếp bài Chiều Trên Phá Tam Giang, thơ của Tô Thùy Yên phổ nhạc.

Lần này, chính tôi không cầm được nước mắt. Không chỉ vì anh hát hay, nhưng tôi thấy xúc động, thấm thía hơn cuộc đời của những người lính chiến.



- Thưa thầy. Bây giờ đã đi tu rồi, thầy có còn hát những bản nhạc tình lính ngày xưa? Tôi vẫn còn nhớ cái cảm xúc khi thầy hát cho cả lớp tôi nghe, sau cái tết năm nào ở trường An Túc. Thầy hát thật hay và truyền cảm. Hôm ấy là lần đầu tiên tôi được gặp thầy và anh Lân.

- Mô Phật! Bây giờ tôi chỉ còn biết tụng kinh gõ mõ, cầu cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc. Nhưng những gì bà vừa nhắc lại, cũng là con người, làm sao tôi có thể quên.

- Xin thầy thứ lỗi, nếu tôi đã nhắc thầy nhớ lại chuyện đời để làm bận lòng một bậc chân tu.

- Mô Phật! Đạo ở trong Đời, cũng như hai kẻ đồng hành. Hành đạo là để giúp đời. Kẻ tu hành như chúng tôi cũng chỉ là “cư trần lạc đạo” mà thôi, thưa bà.

- Cư trần lạc đạo là sao, thưa thầy?

- Có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo, vui đạo. Chứ không phải xa lánh trần thế đầy khổ nhục để tìm sự thanh thản riêng cho bản thân mình.

- Cám ơn thầy. Thầy giảng hay quá. Ngày đầu tiên gặp thầy, và nhất là lúc nhìn thầy đứng hát trên bục lớp, tôi đã thấy thầy giống một nhà tu. Có lẽ thầy đã có căn duyên từ trước, phải không thầy?

- Mô Phật! Ai cũng có thể tu hành, và bất cứ ai cũng có thể thành Phật được, thưa bà.



Không ngờ lần gặp gỡ đầu tiên năm ấy lại mang đến cho tôi mối tình đầu. Sau vài lần gặp nhau, tôi biết Lân và Quế là hai người bạn thân thiết từ lúc còn học trong trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Ra trường về cùng đơn vị, nên sống với nhau như anh em, mặc dù tôn giáo khác nhau. Quế đạo Phật còn Lân là tín đồ Công giáo. Những ngày chủ nhật không bận hành quân, Lân đều đi lễ nhà thờ, nên chúng tôi thường gặp nhau hơn. Và lần nào tôi cũng mời Lân về nhà. Cha mẹ tôi cũng rất thương quí Lân, nhất là sau khi biết cha mẹ Lân đã chết trong biến cố tết Mậu Thân. Tính tình Lân lại hiền lành chân chất và hiếu học. Dù bận hành quân liên miên, nhưng anh vẫn cố gắng tự học để thi tú tài vào mùa hè năm đó. Cũng có đôi lần Quế theo Lân đến nhà tôi chơi. Càng lúc chúng tôi càng thân nhau hơn.

Tôi biết là Lân cũng thích tôi. Trong túi áo của anh lúc nào cũng có chiếc khăn tay tôi đã tặng anh trong gói quà Xuân. Mỗi lần chia tay, anh bịn rịn lưu luyến không muốn rời tôi. Còn tôi, cũng thấy nhớ anh da diết và mong chờ anh từng ngày trong các lần anh đi hành quân. Tối nào tôi cũng đọc kinh cầu nguyện cho anh được bình yên trở về.

Bây giờ tôi mới biết tình yêu là gì. Tôi bắt đầu biết tương tư, mơ mộng, nhớ nhung và man mác buồn khi thiếu vắng anh. Những bản nhạc tình lính, người yêu của lính, dường như càng lúc tôi càng thấy hay hơn, và tôi hát nhiều hơn. Sau mỗi lần hành quân, Lân đều mang về tặng tôi những cánh hoa lan rừng. Tôi nghe nói vùng núi rừng An Khê này có nhiều hoa lan. Có những loại hoa lạ, thật đẹp mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy hoặc biết tên. Chỉ sau hai tháng, trong phòng tôi treo đầy hoa lan rừng. Tôi thích nhất là những cánh hoa màu tím. Có lẽ tôi nhớ tới màu tím hoa sim trong một bản nhạc mà tôi thường hay hát…

Chiến tranh lại ngày càng ác liệt. Ngồi trong lớp học, bọn tôi vẫn thường nghe tiếng súng, tiếng máy bay vần vũ trên bầu trời. Ban đêm, nhìn qua cửa sổ, những trái hỏa châu lơ lững giữa trời, soi sáng cả một vùng núi non nào đó. Rồi tôi nghe tin Dakto mất, Tân Cãnh thất thủ, thành phố Kontum bị pháo kích… Một số người đã phải bỏ nhà chạy xuống Pleiku, sống trong các trường học được chính quyền dùng làm trại tiếp cư.

Hơn một tuần, tôi chưa gặp Lân bởi đơn vị anh có lệnh cắm trại, ứng chiến. Bất ngờ gặp lại anh trong lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ. Khi tôi đang quỳ gối cầu kinh, Lân đến sau, quỳ xuống bên cạnh. Tan lễ, vừa bước ra khỏi nhà thờ thì chúng tôi gặp anh Quế đứng đợi từ lúc nào. Tôi mời hai anh về nhà. Trên đường đi, cả hai anh im lặng, không nói một lời gì. Nhìn nét mặt thật buồn, tôi nghĩ là họ đang ưu tư điều gì. Tôi hỏi, nhưng hai anh chỉ nhìn nhau rồi lắc đầu, không nói.

Suốt ngày hôm ấy hai anh ở lại nhà tôi. Mẹ tôi đãi hai anh một con gà tơ. Trong lúc Lân và Quế trong vườn, tôi tìm hái mấy trái cà, trái mướp và rau thơm. Cả ba chúng tôi cùng làm bếp, đùa giỡn, ca hát líu lo, không còn chút ưu tư nào trên khuôn mặt của mọi người. Ăn cơm xong, chúng tôi rủ nhau ra ngồi dưới những cây dừa rợp bóng, nghe Quế hát, rồi chúng tôi cùng hát theo những bài tình ca quen thuộc. Buổi chiều, Quế cáo từ tôi, chào ba mẹ tôi xin về trước. Trong phòng tôi chỉ còn có tôi và Lân. Lần đầu tiên tôi nghe Lân rụt rè tỏ tình. Anh bảo, đời chiến binh rày đây mai đó, rồi có một ngày, anh sẽ phải đi xa, nhưng lúc nào cũng mang theo bóng hình của tôi vào những nơi gió cát. Những lời anh nói làm tôi nhớ tới những câu thơ Chinh Phụ Ngâm thật hay của bà Đoàn thị Điểm mà tôi đã học. Những câu thơ thật buồn bây giờ lại càng buồn hơn. Tôi khóc. Lần đầu tiên tôi khóc, không biết là vì hạnh phúc đến bất chợt của mối tình đầu hay là vì nghĩ tới nỗi cô đơn của người Chinh Phụ. Tôi giật mình, khi Lân ôm tôi vào lòng. Tôi đứng im, bất động, đón nhận nụ hôn tình yêu đầu đời trong hai hàng nước mắt. Tôi tiễn Lân ra đầu làng, hai đứa ôm lấy nhau khi bóng chiều vừa tắt.

Sáng hôm sau, ngồi trong lớp học, khi thấy từng đoàn xe nhà binh chở đầy lính chạy về hướng Pleiku, lòng tôi thẫn thờ khi nghĩ là Lân đã đi xa... Tôi vội lên xin phép cô giáo ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa chạy đến hàng thông phía trước, thì đoàn xe cuối cùng đã chạy qua bên kia cầu.



Xuân ơi,

Anh đang ở phi trường Pleiku để chuẩn bị được không vận lên Kontum. Chiến trường đang ác liệt. Căn cứ Tân Cảnh vừa thất thủ. Địch quân đang tràn xuống uy hiếp thành phố Kontum. Thành phố đang bị cô lập nởi những cái chốt của địch quân trên đỉnh núi ChuPao, cắt đứt quốc lộ 14 nối liền với Pleiku. Sợ lên Kontum rồi, anh không liên lạc được với em, nên viết vội ít dòng tin em và cũng xin lỗi em vì hôm qua, khi chia tay ở nhà em, anh không nói chuyện anh đi. Mong em thông cảm bởi đó là bí mật quân sự, anh không được phép tiết lộ, mặc dù anh rất yêu em và tin em…

Không biết đến bao giờ mình mới gặp lại, nhưng dù bất cứ hoàn cảnh nào, anh vẫn luôn mang theo trong tim mình hình bóng của em. Em nhớ cầu nguyện cho anh nghe.

Xin cho anh kính lời hỏi thăm hai bác cùng gia đình. Cầu xin Chúa và Đức Mẹ Maria luôn che chở em cùng tất cả mọi người.

Hôn em.

Đỗ Lân.



Không ngờ lá thư này là lá thư cuối cùng tôi nhận được của Lân. Chỉ ba tuần sau, Lân hy sinh. Người báo tin buồn này chính là Lê Phương Quế, người bạn chí thân của Lân và sau này cũng là bạn của tôi. Lá thư có kèm theo vài di vật, Quế đã nhờ một anh phi công gởi cho tôi từ Pleiku, sau một chuyến đổ quân cho đơn vị của Quế ở Kontum. Lân đã bị thương rất nặng khi cùng với vị tiểu đoàn trưởng chui qua hàng rào phòng thủ, mở đường vào giải cứu Bệnh Viện 2 Dã Chiến, đang bị địch quân xua xe tăng đánh chiếm, với ý đồ lợi dụng những thương binh nằm trong bệnh viện, làm bàn đạp tấn công vào khu phi trường nằm sát thị xã Kontum. Lân chết lúc chờ máy bay tản thương. Chính Quế là người đã vuốt mắt cho Lân và nghe những lời trăn trối cuối cùng. Anh nhờ Quế giữ để trao lại cho tôi cái dây chuyền có mang thánh giá cùng mấy tấm ảnh có hình của cha mẹ anh và của anh mặc lễ phục trắng đội bê rê đỏ khi còn là thiếu sinh quân. Những tấm ảnh ấy bây giờ vẫn còn trong nhà thờ An Túc, và sợi dây chuyền tôi vẫn còn cất giữ đến hôm nay. Anh Quế còn cho biết thêm, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Lân còn thì thào gọi tên tôi, và khi lục trong túi áo, anh Quế còn thấy cái khăn tay và lá thư của tôi tặng Lân trong gói quà tết hôm nào.



- Thưa thầy, cuối năm 1973 tôi có nhận được thư của thầy. Lúc ấy thầy bị thương nặng, nằm ở quân y viện Pleiku. Tôi có tìm đến thăm, nhưng người ta bảo là thầy đã được chuyển về quân y viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang, để được gần nhà. Lúc ấy đoạn đèo An Khê lại bị địch chiếm, nên xe đò không chạy được. Mấy tháng sau, khi đi được xuống Nha Trang tìm thăm thầy, thì thầy đã xuất viện. Tôi có hỏi nhưng bệnh viện không biết thầy ở đâu.

- Mô Phật! Đúng như bà nói. Tôi được Hội Đồng Giám Định Y Khoa cho xuất ngũ, vì thương tích. Tôi về sống với mẹ già. Lúc ấy bà cũng đang tu tại gia, ăn chay trường. Suốt một đời bà đã lo lắng cầu nguyện cho cha tôi, rồi đến tôi. Cha tôi cũng đã tử trận năm 1965, trong trận Đồng Xoài, khi ấy tôi chỉ vừa 11 tuổi.

- Nhờ vậy mà thầy đã đi tu.

- Lý do đó chỉ một phần. Cái chính là do tôi đã sống trong chiến tranh, chứng kiến bao nhiêu cái chết quá đau lòng, như cái chết của những người còn quá trẻ như Lân. Họ đâu có tội tình gì. Tôi nghĩ tới cuộc chiến phi nghĩa, khi mà anh em cùng một nhà lại chém giết thù hận lẫn nhau. Nhất là những người lính miền bắc, chỉ vì một số người cầm quyền nhân danh các thứ chủ nghĩa này nọ, để xua họ vào miền nam chém giết chính đồng bào mình. Trước khi nhắm mắt, có lẽ họ chẳng biết họ chết trong núi rừng, trong đói khổ, để cho ai và được điều gì? Gia đình, cha mẹ hay vợ con họ ra sao? Tôi nghĩ tới cái Vô Thường, Vô Minh mà Đức Phật đã dạy, nên tôi đã tìm tới cửa Thiền để mong trút bỏ mọi ám ảnh, oan khiên.

Như vừa nhớ ra một điều gì, thầy chỉ tay về hướng sau chùa:

- Mời bà đi theo tôi. Mong bà sẽ tìm thấy một điều kỳ diệu.

Tôi theo thầy đi dọc theo triền đồi, đến một nơi tương đối bằng phẳng. Lại một khu vườn nhỏ toàn hoa sim. Tuyệt diệu hơn, bên trên các khung cây được treo đầy những cánh lan rừng. Tôi nhớ tới những cành lan mà Lân thường mang về tặng tôi sau các cuộc hành quân. Ngày xuân, tất cả đang nở rộ một mùa hoa. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn là giữa khu vườn là một ngôi mộ, trên tấm bia lại có cây thánh giá. Tôi thắc mắc hỏi thầy.

Thầy im lặng, không trả lời, ra dấu bảo tôi cùng thầy đến gần ngôi mộ. Tôi bàng hoàng khi đọc mấy dòng chữ trên mộ bia:

Giuse Đỗ Lân

Sinh ngày 10.7.1953 tại Huế

Tử ngày 11.5.1972 tại Kontum



Tôi quỳ trước ngôi mộ, đưa tay lên ngực làm dấu thánh giá rồi khóc sụt sùi. Một cơn gió xào xạc làm chao động cả rừng cây. Dường như tôi đã ngồi ở đây lâu lắm. Khi lau nước mắt đứng lên tôi không còn thấy thầy trụ trì. Có lẽ thầy muốn để tôi ngồi khóc một mình mà thổn thức với người xưa, hay là muốn tránh xa chuyện vui buồn của thế tục.

Khi trở lại chùa, tôi có cảm giác như chân mình đang bước vào khoảng không, hụt hẫng. Chú tiểu chờ tôi trong căn nhà khách, chuyển lại lời xin lỗi của thầy trụ trì và trao lại cho tôi một tờ giấy học trò được xếp làm đôi. Thầy trụ trì đang cúng ngọ. Tôi mở tờ giấy ra đọc, trong lúc tiếng chuông chùa ngân nga như muốn làm dịu đi phần nào những cơn sóng đang bềnh bồng trong lòng tôi. Trên tờ giấy chỉ có mấy dòng chữ: Xin chào bà và cám ơn bà. Chính tôi đã mang hài cốt của anh Lân về cải táng trong vườn chùa, khi được tin nghĩa trang trong thành phố Kontum bị giải tỏa. Anh Lân mồ côi, không còn ai thân thích. Từ nay, xin bà hãy cầu nguyện cho anh Lân, theo nghi thức tôn giáo của bà. Nam mô A Di Đà Phật.

phạmtínanninh 
 



Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Truyện ngắn
Reply #112 - 08. Feb 2010 , 21:36
 
Thân chào anh Toàn - Nhụng mẫu chuyện của anh hay mà buồn quá - Đọc xong thấy bàng hoàng và thấm thía 1 nỗi buồn không sao diễn tả nỗi anh Toàn ah. Chúc anh và gia đình 1 nam mới luôn hạnh phúc .
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #113 - 09. Feb 2010 , 17:03
 
   Ngày Tình  Yêu  14 tháng 2






BÓ  HOA  NGÀY  VALENTINE.

                                  Nguyễn Thị Thanh Dương


Giờ ăn trưa tại hãng, anh Bông đọc ké tờ báo của ai đó coi xong để lại trên bàn. Hôm nay là ngày Valentine nên có riêng một bài về chuyện này, số lượng thiệp gởi chúc nhau, chỉ đứng sau ngày lễ Christmas, quà tặng Valentine thì đủ loại từ hột soàn cho đến những hộp kẹo chocolate, nhưng hoa vẫn là món quà tặng nhiều nhất , thông dụng nhất.
Những cửa hàng bán hoa đang bận rộn vì những order của khách hàng, các nhân viên đang lo cắm hoa, gói hoa, và các xe giao phát hoa đang chạy tất tả trên các nẻo phố phường để giao hoa cho đúng hẹn.
Bó hoa trong ngày lễ tình yêu thật là trân trọng, thật là thắm tình.Thì ra có những người yêu nhau đến thế! mà sao tỉ lệ li dị vẫn cao, lấy nhau và bỏ nhau dễ dàng?
Người Mỹ đã quen thuộc với truyền thống này, như một định luật không thể nào cãi lại được. Còn người Việt Nam mình, không kể giới trẻ, những thế hệ tuổi trung niên, ngay cả khi đã sống lâu năm ở Mỹ không phải ai cũng biết mua hoa để tặng vợ trong ngày Lễ Tình Yêu, người Việt Nam mình vốn hay đơn giản, xuề xoà. Bản thân anh Bông là bằng chứng cụ thể nhất, lấy vợ đã 10 năm nay, anh chưa tốn một đồng nào mua hoa tặng vợ , mà anh Bông yêu chị Bông lắm chứ có ít đâu, gia đình lại hạnh phúc đề huề.
Đọc những bài báo ca tụng ngày lễ Valentine anh Bông thấy sốt ruột và cao hứng, anh bỗng có ý nghĩ chiều nay khi tan làm về sẽ ghé vào một tiệm hoa mua về tặng vợ cho có nghĩa tình và một chút lãng mạn như thiên hạ.
Chắc chị sẽ bất ngờ lắm? Càng bất ngờ càng vui. Anh sung sướng nghĩ thầm, chị rất xứng đáng được nhận bó hoa trong ngày Lễ Tình Yêu, chị vén khéo, lo toan cho gia đình, chăm sóc cho con, cho chồng, không chê vào đâu được.
Bốn giờ chiều anh rời khỏi hãng, đi thẳng tới chợ Kroger gần nhà, trong này có bán sẵn nhiều loại hoa, tha hồ mà lựa chọn. Anh đứng lẩn quẩn bên một rừng hoa, hoa chưng bên ngoài và bên trong tủ kính làm anh… hoa cả mắt, không biết nên chọn loại nào? Màu nào?
Hoa Hồng đỏ, Hồng vàng, Hồng trắng…tất cả đều tươi xinh.
Anh chợt nhớ ra cách đây 10 năm, anh và vợ anh cũng đã vào tiệm hoa này trong một ngày Lễ Tình Yêu. Hồi đó anh chị mới cưới nhau, hai người đều nghèo xơ xác vì cả hai mới đến Mỹ, dù mua một bó hoa cũng chẳng nghèo thêm bao nhiêu, nhưng chị đã khăng khăng từ chối. Chị rất bình dân và thực tế, không màu mè hoa lá cành.
Hồi chị còn ở Việt Nam , con nhà nghèo, đối diện với cuộc sống vất vả hàng ngày, thì cái chuyện mua hoa tặng nhau chỉ có trong tiểu thuyết và phim ảnh. Thế là đôi chim non thuở đó tung tăng dắt nhau vào chợ hoa để…ngắm suông, cũng lãng mạn và thắm tình biết bao! Họ cùng dí mũi vào tủ kính nhìn những bó hoa xinh đẹp, cùng chỉ trỏ, phê bình từng màu sắc, từng nụ hoa. Anh đã hỏi chị:
-         Em thích hoa nào? cứ chọn đi.
-         Nhưng không mua đâu nhé, chỉ tưởng tượng thôi. Chị ra điều kiện.
Cuối cùng chị chỉ chọn một cánh hoa Hồng bọc trong giấy kiếng, đơn giản nhất và rẻ nhất. Anh phải kêu lên:
-         Tại sao em không chọn những bó hoa to và lộng lẫy kia? Ngay cả “mua hoa trong ý nghĩ” mà em cũng tiếc tiền nữa.
-         Em quen rồi anh ạ, chẳng việc gì phải tốn tiền  để mua cái thứ chóng tàn phai ấy.
Kể từ ngày đó, chuyện mua hoa tặng nhau trong ngày lễ Valentine cũng xa vời theo ngày tháng, cuộc sống thực tế bận rộn, rồi chị liên tiếp sinh ba đứa con, một mình anh đi làm nuôi cả nhà vì chị ở nhà trông con, nên cuộc sống vật chất càng khít khao, eo hẹp, và tâm hồn càng không có chỗ trống để nghĩ chuyện “vu vơ”.
Thế mà hôm nay, tình cờ bài báo đã khơi dậy trong lòng anh một tình cảm đã lắng chìm theo dòng thời gian, người vợ hiền ngoan ấy chỉ biết làm lụng, chỉ biết tiết kiệm, thì có lúc chị cũng khao khát được nghe từ anh những tình cảm lãng mạn, ấm nồng yêu thương trong ngày lễ Tình Yêu chứ.
Anh băn khoăn ngắm đủ các bó hoa, sau cùng quyết định mua một bình hoa to, có 24 nụ Hồng đỏ đang e ấp. Anh hí hửng ra khỏi chợ, mặt anh ngẩng lên nhìn xung quanh như muốn khoe với mọi người rằng:“Ngày Lễ Tình Yêu này của tất cả mọi người yêu nhau, trong đó có cả tôi ”.
Đẩy cửa bước vào nhà, người đầu tiên anh gặp là thằng Cu Tí, con trai lớn 8 tuổi, nó hỏi ngay:
-         Ai cho bố hoa  đẹp thế?
Tabi, con em nó 5 tuổi, cũng xúm vào hỏi:
-         Bố lượm được  hoa này ở đâu?
Và cô con gái út Betsy 3 tuổi thì cứ kéo tay anh xuống để được nghịch ngợm vào món quà xinh đẹp đó. Anh phải gạt lũ con ra, lườm chúng nó một cái đầy vẻ doạ nạt, rồi hiên ngang hỏi:
-         Mẹ đâu?
-         Em đây. Tiếng chị âu yếm và thánh thót vọng ra.
Anh hồi hộp chờ đợi chị từ trong phòng ngủ đang bước đến gần, thấy chị khựng lại và mở to mắt nhìn bó hoa, anh phải phì cười:
- Sao em nhìn bó hoa sững sờ và kinh ngạc như người ta vừa nhìn thấy đĩa bay xuất hiện vậy?. Em không biết à? Hôm nay là ngày Valentine, Lễ Tình Yêu đấy.
-         Chẳng liên quan gì đến em. Nhưng anh lấy bó hoa này ở đâu ?
-         Mẹ con em toàn hỏi những câu vô duyên, bó hoa chứ có phải rác đâu mà lấy về, nhặt về?
-         Ở với anh 10 năm, lần đầu tiên trông thấy một bó hoa xuất hiện, ai mà không ngạc nhiên?
-         Anh mua bó hoa này để tặng em .
Thằng con lớn reo lên:
-         Con biết rồi, bố mua hoa tặng mẹ ngày Valentine.
Anh sung sướng nhìn thằng con trai:
    -  Con nói đúng đấy, cô giáo ở trường dậy con phải không?
Chị sững sờ, không thể tin được:
-         Xưa nay mình có bao giờ tặng hoa tặng hoét cho nhau đâu, mà bây giờ anh bày đặt?
Anh dịu dàng nói một câu đầy văn vẻ đã đọc được trong cuốn sách nào đó:
-         Thì hôm nay anh sẽ bắt đầu, vợ yêu quý của anh, anh mua bó Hồng này, nhân danh tình yêu, anh trân trọng tặng cho em.
Tức thì chị thảng thốt kêu lên thật to làm 3 đứa con còn đang luẩn quẩn bên cạnh cũng phải giật mình không hiểu vì sao bố nó mang về nhà một bình hoa đẹp mà mẹ chẳng hài lòng:
-         Trời ơi! Anh đã mua bình hoa to tổ bố này để tặng cho em hả?
Anh lại mang mớ văn chương trong sách vở ra:
-         Đúng thế, Em ơi, mỗi một nụ Hồng sẽ là ngàn lời tình ái của anh. Xin em hãy mở cửa trái tim mà đón nhận.
Chị gạt đi và rên xiết:
-         Thôi anh đừng nói những lời vay mượn ấy nữa, em biết anh đọc nó ở đâu rồi. Tại sao anh lại lãng phí thế? Trời ơi, phải nói là hoang tàn mới đúng. Anh có biết là anh đã tiêu xài một cách hoang tàn lắm không?
Rồi chị nhìn chăm chăm vào bó hoa, xót xa:
-         Bao nhiêu tiền bình hoa này?
-         Hơn 30 đồng tính cả thuế em ạ. Anh e dè đáp và chờ phản ứng của chị.
Chị lẩm bẩm tính toán:
-         Bằng giá hai con vịt quay. Thà rằng anh mua hai con vịt quay về, cả nhà còn được ăn vào bụng. Bó hoa này vài bữa là héo tàn, là vứt vào thùng rác.
-         Nhưng nó có ý nghĩa, nó nói lên tình yêu của anh dành cho em.
-         Thế thì tại sao anh không nói toẹt vào mặt em đây, rằng anh vẫn yêu em, việc gì phải tốn 30 đồng mua bó hoa này để nhờ nó nói giùm cơ chứ?
-         Ai cũng đơn giản, thực tế như em thì người ta khỏi cần trồng hoa nữa. Hãy tưởng tượng thế giới không có hoa , chỉ toàn là đồ ăn, cụ thể là vịt quay như em vừa so sánh thì cuộc đời sẽ không còn chỗ nào cho trái tim mình trú ẩn cả.
Chị vẫn lải nhải trách móc:
-         Ngày nào cũng gặp mặt, ăn chung bàn, ngủ chung giường 10 năm nay, anh khỏi nói em cũng biết anh yêu em thế nào rồi, không ngờ hôm nay anh nông nỗi dại khờ thế đấy.
-         Anh muốn được nông nỗi dại khờ vì em suốt đời.
Câu nói của anh làm chị dịu lại, thương cảm nhìn chồng:
-         Thôi lỡ rồi. Năm sau anh mà mua hoa nữa thì đừng có trách em đấy.
Chị nhận bình hoa và không quên than thở:
-         Vừa tốn tiền lại tốn cả công. Anh coi chừng con bé Betsy đấy, nó thấy hoa đẹp là nghịch ngợm cho mà xem, lại chảy máu tay vì gai, lại xả rác ra nhà. Tự nhiên muốn rước hoạ vào thân.
Anh cam kết:
-         Được rồi, anh sẽ trông chừng nó.
Cuối cùng bó hoa trong ngày Lễ Tình Yêu của anh cũng đến tay người vợ yêu dù thật là gay go, vất vả.
Bó hoa đã được sửa sang lại cho ngay ngắn trong bình, để giữa bàn trong phòng khách, trông lộng lẫy và ấm cúng hẳn lên. Người đàn bà chưa bao giờ biết nhận hoa như chị, hôm nay được làm chủ một bình hoa Hồng đẹp, do ân tình của người chồng  mua tặng, cũng thấy vui vui trong lòng, chị  mỉm cười và ngọt ngào :
-         Cho em xin lỗi nhé, vì đã đón nhận món quà ý nghĩa của anh một cách phũ phàng.
Anh sung sướng:
-         Em ạ ,vợ chồng dù hạnh phúc đến đâu chẳng có lúc gây buồn phiền cho nhau, thì chỉ có một ngày này để nói lên sự quan tâm, thương yêu nhau thôi mà.
Chị bỗng thắc mắc:
-         Nhưng xưa kia ông bà tổ tiên mình có tốn xu nào để mua hoa tặng cho nhau đâu, mà tình nghĩa vẫn bền chặt từ đời nọ đến đời kia? Còn ngày nay yêu nhau lắm mà li dị nhau càng nhiều.
-         Ừ nhỉ! Hãy tưởng tượng cụ đồ nho ngày xưa, mặc khăn đống áo dài đen, một tay cắp ô,  một tay ôm  bó hoa Hồng lộng lẫy về tặng vợ, bà đồ nho quần sắn ống thấp ống cao đang vất vả, đổ mồ hôi, nấu cám lợn trong bếp, khói lên mịt mù. Không biết bà  sẽ phản ứng ra sao ?
Chị Bông đáp ngay:
-         Nếu dây thần kinh yếu thì bà đồ nho sẽ ngã lăn đùng ra vì kinh ngạc khi biết cụ ông mua hoa về tặng mình. Ngược lại, vẫn tỉnh táo thì bà sẽ mắng ông là đồ điên, đồ dở hơi, tiền mua hoa ấy, để mà mua rau, mua cám cho lợn ăn còn ích lợi hơn.
  Anh âu yếm trách khéo:
-         Kể chi tới bà đồ nho của thế kỷ trước, ngay bây giờ cũng có bà vợ trẻ đang sống ở xứ Mỹ văn minh đã dẫy nẩy lên khi chồng mang về một bó hoa trong ngày Lễ Tình Yêu đấy thôi.
Chị nũng nịu:
-         Anh ơi, đừng trách em nữa, bây giờ thì em đã nhận món quà của anh bằng cả tấm lòng rồi.
Anh Bông cao hứng:
-         Tại mình chưa khá giả, anh còn muốn mua hột soàn tặng em nữa kìa, món quà này thì không bao giờ héo tàn, cho em xài cả đời.
Chị lườm yêu anh:
-         Thôi mà, đừng có vẽ vời, bó hoa này là vĩ đại với em lắm rồi. Kìa, cu Tí, Tabi, và Betsy, các con đừng có nghịch vào hoa của bố mua tặng mẹ nhé.
Ba đứa trẻ  không hiểu hết ý nghĩa của bó hoa trong ngày Valentine mà bố chúng vừa mang về, nhưng bây giờ thì chúng hiểu là mẹ đang vui vì bó hoa này, nên ngoan ngoãn gật đầu và chúng nhìn bó hoa trìu mến như bố mẹ đang trìu mến nhìn nhau.


                                   Nguyễn thị Thanh Dương
Back to top
« Last Edit: 09. Feb 2010 , 17:03 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #114 - 24. Feb 2010 , 23:37
 



Vượt Biển một Mình


Nguyễn Trần Diệu Hương

Tác giả, hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose, kể chuyện một mình vượt biển giữa thập niên 80’ và trở thành cô giáo cho những thiếu niên không thân nhân tại trại tị nạn.

Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một  thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu.  Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao "Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò." Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc.  Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.

Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời đó,  người dân  miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại "Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá." Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển.  Khả năng vượt thoát  chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của  UNHCR  United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là "Boat People") đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.

Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn,  tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một,  khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.

Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu.  Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng.  Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi,  vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường.  Ngồi trên xe đò từ  Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt,  để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.

Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi  nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là "mửa mật". Vậy mà chỉ hai ngày sau,  quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu" mặc dù đã hai ngày không ăn uống.  Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do.

May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng  vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm  lênh đênh trên biến.

Lên tới đất liền, cùng với  chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.

Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị "say đất". Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba.  Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là "Blue Dart", khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng.

Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên "đồi tôn giáo", có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là "Sick Bay". Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng  mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.

Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi.

Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh "thân gái dặm trường", không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong,  đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy  em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.

Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị "học tập cải tạo" - như Ba tôi - được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi  nhưng có sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người ngoài hai mươi  học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.

Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.

Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi,  nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì "tội nhà giàu", Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp "tư sản mại bản".


Còn biết bao các em khác nữa.  Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với  vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.

Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những ngưồi đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong  chỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn  các thuyền vượt biển bị hài tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó,  nỗi đau vượt quá sức chịu đựng, người ta mất cảm giác.  Nhiều người nữ thuyền nhân,  mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May,  Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần  dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt.  Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?

Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với  công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em , chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán.  Sách học là những quyển sách đơn giản tương đương trình độ của bộ "English for Today" quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam , nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng long thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện  ở trường Trung hoc, vẫn đùa với nhau là mình đã theo một "trường phái sư phạm mới", lối dạy "mèo nhỏ tha chuột lớn".

Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, "dignity" - có nghĩa là phẩm giá - tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ "We lost everything, but never lose our dignity".  Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo.  Những giọt nước mắt đó  vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim  Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ "dignity" hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình.

Mỗi tuần hai lần, tàu "Blue Dart" của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm, vào cho thuyền nhân.  Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần "second hand", tương tự như áo quần cũ bán trong  Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng  chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và  chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị,  Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người  tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm "Teacher Aid" cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines), những chuyến du lịch đặc biệt  bằng xe bus dành riêng cho các "Teacher Aid", chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.

"Nỗi buồn nhược tiểu" đó càng tăng cao khi  trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày  ở Tokyo - Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai.  Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng,  Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.

Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra  những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM  (International Organization for Migration), chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân .

Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về "American Culture Orientation" ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm  thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy  Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh "mán về thành", nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa  với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.

Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong  thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.

Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi  đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển,  và  mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội. Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ  năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến , bác viết cho tôi một reference letter và từ đó " I'm on my own way".  Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi.  Trời thương, "thánh nhân đãi kẻ khù khờ", tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi.  Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá , từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm.   Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà. Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là "trâu chậm", chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà  Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm.  Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ "No pain, no gain", và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình:  "Ai trở về xứ Việt, nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù .....",  nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.

Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với "scholarship foundation" sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút: - Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân  đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người  tỵ nan, lưu vong.  Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn còn đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do,  xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.

Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu.  Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người. Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ "mửa mật" của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi.  Cho nên, có lần được chọn là "Employee of the year" được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho "the runner up" trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ.  Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió  hàng giờ giương cao  những tấm biểu ngữ "Human Right for VietNam", "Freedom for VietNam" ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ. 

Sau  khi đã ổn định,  - đã có một "career" đàng hoàng thay cho cái "job" để kiếm sống - có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là  các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi.   Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm "Mùa hè đỏ lửa" của nhà văn Phan Nhật Nam,  từ bài thơ bất khuất "Nếu ai hỏi" của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay.

Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị "mửa mật", mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.

Và có một lần "chuyện hôm qua" càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần.  Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ:  - Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?

Tôi trả lời bằng tiếng Việt:

- Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?

Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:

- Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong.  Chị nhớ em không?

Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt  mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa, Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm ngườI Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.

Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan  Boston - là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh.  Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh về nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học.  Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần.  Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi.  Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu.  Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn  học lực, lại chăm chỉ học hành nền em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.

Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với  thành tích học tập xuất sắc trong bốn năm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bỗng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện  của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam.  Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO.  Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau. Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT.  Mổi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại "cải tạo". Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ.  Căn  phòng dù không còn được dùng thường xuyên, nhưng  trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới  đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho.  Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam.  Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng  thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.

Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ, mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo  để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn.  Điều "bí mật" đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo "để dành" thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc  trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kêt quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện.  Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã  rất lớn.

Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo.  Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào. Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước , sau tháng 4/75, nhà cầm quyền không cho phép mình làm.

Tất  cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoản tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.

Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:

- Điều em vui nhất là đã đền  đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui  Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là "gánh sơn hà" mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình.

Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu  mà  đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:

- Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị?

Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác  Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách.

(Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân  "đi biển" một mình).


Back to top
« Last Edit: 24. Feb 2010 , 23:38 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #115 - 07. Mar 2010 , 13:17
 




Mời đọc một câu chuyện cảm đông.

Cô giáo và học trò lớp 5



Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tai trường tiểu học của một thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ.
  Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp 5, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu thương tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. "Teddy trông thật khó ưa".
Chẳng những thế, cô Thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thập rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém).
Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích học tập của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những điều đọc được. Cô giáo phụ trách lớp 1 đã nhận xét Teddy như sau: "Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan... Em là nguồn vui cho người chung quanh". Cô giáo lớp 2 nhận xét: "Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu". Giáo viên lớp 3 ghi: "Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được giúp đỡ". Giáo viên chủ nhiệm lớp 5 nhận xét: "Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp".

Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn.
Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những món quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xạm màu mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hóa. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt một ít nước hoa trong chai lên cổ tay. Hôm đó Teddy đã nán lại cho đến cuối giờ để nói với cô: "Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa".
Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học trò cưng nhất của cô.
Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa. Teddy viết: "Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em".

Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng ba trong lớp và "Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em".

Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng "Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời".

Rồi bốn năm sau nữa cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sĩ và quyết định học thêm lên. "Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em", nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn. Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard - giáo sư tiến sĩ.
Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây. Một bức thư nữa được gửi đến nhà cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ cưới và ngồi ở vị trí vốn thường được dành cho mẹ chú rể.
Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra? Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất.
Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson: "Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ tiến bộ".
Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu:

"Teddy, em nói sai rồi. Chính em mới là người đã dạy cô rằng cô có thể sống khác đi. Cô chỉ biết thế nào là dạy học kể từ khi cô được gặp em".
Back to top
« Last Edit: 07. Mar 2010 , 13:18 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #116 - 15. Apr 2010 , 20:04
 
    
BAYBY  SIT


                   Nguyễn Thị Thanh Dương.

“Cần người baby sit ở tại nhà ,trông 3 đứa trẻ 7, 6, và 5 tuổi, làm vài công việc vặt. Có phòng riêng, lương hậu hỉ . Xin mời ”
Đọc hàng loạt mục cần người đến nhà giữ trẻ, tôi dừng lại ở đây, sao mà thích hợp với tôi đến thế, tôi đang tìm một nhà có đông trẻ con để đến giúp việc, vì tôi cô đơn quá đổi. Cái nghề baby sit này tôi đã nghĩ tới với rất nhiều hứng thú sau những tháng năm dài mấy lần vấp ngã trong cuộc đời.
Tôi gọi phone ngay:
- Hello, chào chị, tôi có đủ điều kiện để xin làm baby sit cho nhà chị đây.
Giọng hớn hở bên kia đầu dây :
- Chị trẻ không? khoẻ không? Em có 3 thằng con trai quậy dữ lắm, đến nỗi bác Ba hiện thời đang baby sit tụi nó chịu không thấu, bác quá mệt đòi thôi việc nên em mới đăng báo kiếm người thế vô, bác Ba làm nốt 2 tuần nữa cho tròn tháng rồi mới ra….
Chị ta nói dài quá tôi phải ngắt lời :
- Tôi hiểu rồi, năm nay tôi 40 tuổi, sức khoẻ tốt. Được không?
- Vậy thì tốt quá, coi như em nhận lời mướn chị, bữa nào mời chị đến nhà, coi những công việc bác Ba làm sao chị làm vậy.
Tôi đồng ý, Hai tuần nữa tôi lại có một cuộc sống khác.
Một cuốn tiểu thuyết có bao nhiêu trang buồn vui thì cuộc đời tôi cũng có bấy nhiêu trang. Tôi là một đứa trẻ không có cha ngay từ trong bụng mẹ, nghèo khổ và lam lũ tôi sống với mẹ bữa đói bữa no trong một xóm lao động ở Việt Nam, năm tôi 12 tuổi mẹ tôi bị bệnh chết, không thân bằng quyến thuộc. Tôi bơ vơ.
Tôi được một bà hàng xóm tốt bụng mang tôi đến một gia đình họ hàng của bà. Đó là  chủ hãng nước mắm ở bến Chương Dương, Sài Gòn, để tôi làm việc vặt gì thì làm, mục đích chính là họ nuôi tôi làm phước.
Ông bà chủ có hai người con gái tuổi mười tám đôi mươi, đa số tôi làm việc vặt cho hai cô. Biết thân phận mình tôi làm việc rất chăm và ngoan ngoãn nên cả ông bà và hai cô đều thương. Được sống ở thành phố, bên cạnh hai cô chủ, tôi phổng phao khoẻ mạnh và đầu óc khôn ra, những sinh hoạt của họ cũng cho tôi nhiều kiến thức. Lúc nào rảnh hai cô thay phiên nhau dạy tôi học chữ.
Tôi quý mến ông bà chủ hãng nước mắm lắm, tôi hay nói với ông bà con mong mau lớn con sẽ khuân nước mắm từ kho ra xe, ông bà đỡ phải mướn người ta. Nhưng chưa đến cái ngày tôi được làm công việc đó để đền ơn đáp nghĩa chủ, thì năm 1980 cả nhà ông bà tổ chức vượt biên, và tôi  nghiễm nhiên  đã là một thành viên của gia đình họ nên cũng được đi theo. Năm đó tôi 18 tuổi.
Sang đến Mỹ tôi vẫn tiếp tục làm người giúp việc cho họ. Vài năm sau hai cô học hành xong và lập gia đình, cuộc sống của tôi vẫn êm đềm theo gia đình chủ, nhưng hai cô nói tôi không thể suốt đời làm thuê làm mướn cho nhà cô mãi được, tôi đã trưởng thành cấn có một cuộc sống riêng, có vợ có chồng như người ta. Hai cô thương tôi mà nói thế, chia tay hai cô tôi buồn lắm và không tự tin chút nào, vừa xấu vừa  không trình độ thì ai dám lấy tôi?
Thế mà có người thương tôi, lấy tôi, làm tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, anh quê ở Long Đất, Vũng Tàu, làm tài công chở người vượt biên từ ghe nhỏ ra ghe lớn, một hôm anh liều mình lên ghe lớn đi luôn, qua đây tứ cố vô thân. Anh cũng bơ vơ.
Gia đình ông chủ hãng nước mắm ở California, còn tôi và chồng rủ nhau về tiểu bang Texas, nghe nói cũng đông người Việt Nam và nhà cửa thì rất rẻ so với Calif.
Sau này tôi hỏi chồng tôi với vẻ cảm động và vô vàn biết ơn rằng em xấu, em quê mùa thế tại sao anh lấy em, anh yêu em ở điểm nào ?? Anh đáp thản nhiên thời điểm đó ít người Việt Nam, đàn ông thì thừa , đàn bà thì thiếu, thà lấy em còn hơn ở giá, chứ có yêu thương gì đâu.
Sự thật mất lòng, nhưng chứng tỏ là anh thành thật, thôi thì “ bèo dạt mây trôi” gặp nhau, cho đời bớt buồn, bớt khổ. Chúng tôi an phận sống bên nhau và mong muốn có một đứa con, nhưng chờ hoài hết năm nọ, năm kia, hai vợ chồng tôi mới đi bác sĩ để biết một sự thật đau lòng tôi không có khả năng sinh con. Chồng tôi thất vọng, chán nản sinh ra nhậu nhẹt say sưa, một hôm tôi biết được anh đã ăn ở với một cô gái, và cô đang mang bầu, tôi hiểu phận mình thua thiệt, tự nguyện rút lui, trả anh cho cuộc đời mới đang mở ra cho anh.
Vài năm sau tôi lập gia đình với một ông lớn tuổi, bị vợ bỏ, ông chấp nhận hoàn cảnh tôi, không cần con cái, hình như ông dị ứng với vấn đề này, ông nói con cái ở Mỹ chỉ là một lũ mất dạy. Tôi an lòng sống với ông, tưởng sẽ được hạnh phúc cho đến tuổi già. Nhưng ông bị chết đột ngột vì bệnh tim, không kịp một lời trăn trối, nhưng cũng kịp để lại cho tôi một món tiền khá lớn….phải trả nợ cho credit card, không biết ông đã vay mượn từ lúc nào, mang tên hai vợ chồng , chỉ để đánh cá football (sau này tôi mới biết đó chính là nguyên nhân ông bị vợ bỏ, con khinh, và vất va vất vưởng như lục bình trôi sông rồi tấp vào đời tôi, để tôi phải trả một giá rất đắt cho cái hạnh phúc mà tôi chưa hề được hưởng).Tôi đã cần cù đi làm lương vài đồng một giờ trong vài năm để trả món nợ đó, tôi suy luận theo thuyết nhà Phật, có lẽ kiếp trước mình mắc nợ ông ta ? Bây giờ nợ trả hết rồi, tôi không oán hận gì ông đâu, ông hãy thanh thản giấc ngàn thu, chỉ mong rằng kiếp sau nếu có tái sinh , dù lấy ai cũng xin ông chừa thói cờ bạc, chừa đánh cá football cho vợ con ông nhờ.
Vừa xấu người, vừa xấu số, qua hai đời chồng mà chẳng được gì ngoài thất vọng khổ đau.Tôi quyết tâm an hưởng cuộc sống độc thân, tưởng rằng sẽ thanh thản mà sao buồn thế! đơn độc thế! Đôi lúc tôi muốn quay về tìm hai cô chủ cũ đang sống ở California, nhưng lại tự ái, và phụ lòng tin tưởng của người ta nên đành thôi. Tôi cũng là một người đàn bà như bao nhiêu người đàn bà khác, cũng thèm khát một mái gia đình, những đứa trẻ thơ, để được săn sóc chúng, thương yêu chúng. Thế là tôi nghĩ đến nghề baby sit, tôi muốn được ở tại nhà chủ, sống hàng ngày với họ, để hưởng lây không khí gia đình, để gần gũi những đứa trẻ mà đáng lẽ tôi cũng có.
                                           ******
Tôi đã đến nhà cô chủ mới để quan sát tình hình, vợ chồng chú An giới thiệu tôi với bà Ba và 3 đứa trẻ rồi họ vội vã rời khỏi nhà, họ đang kinh doanh một nhà hàng lớn rất đông khách nên bận túi bụi, việc nhà cửa, con cái giao phó hết cho người baby sit.
Lần đầu nhìn 3 thằng ranh tôi đã thích, còn chúng nhìn tôi với vẻ tò mò .Hôm nay ngày nghỉ nên chúng ở nhà đủ, bà Ba vừa làm việc vừa nói chuyện với tôi, bà hơn 65 tuổi, nhưng chưa có quốc tịch nên chưa được hưởng tiền già. Ôi, ở cái tuổi này mà phải quản lý 3 thằng vừa ăn khoẻ vừa nghịch ngợm như thế kia thì mệt thật ! Tôi bỗng thấy mình còn trẻ quá, sẽ đủ sức làm nữ tướng điều khiển 3 thằng lính quèn đó.
Tôi tiếp tục công việc của bà Ba không khó khăn gì, sáng dạy lo cho 3 đứa đi học, trưa lần lượt đón về, chiều nấu cơm, tắm rửa cho chúng, rồi dọn dẹp nhà cửa…Tôi vừa nghiêm vừa thân thiện để chúng không ăn hiếp và không quá sợ tôi. Ai như bà Ba muốn làm cái gì cũng phải năn nỉ nào ăn cơm đi, nào tắm đi, nào thay đồ đi.v..v..rồi bà thương, chúng nó đâu cần cái tình thương hứa hẹn của bà để phải đánh đổi những trò chơi hứng thú của chúng. Mỗi lần cho lũ trẻ tắm là một cuộc chơi “trốn tìm” và “đuổi bắt” đầy ngoạn mục, quần áo dơ thay ra, chúng không để vào rổ trong phòng tắm mà cố tình quẳng vào kẹt tủ, gầm giường, hay góc bếp cho bà Ba tìm mệt nghỉ, bà Ba đi khắp nhà tìm quần áo dơ của chúng như tìm chiến lợi phẩm sau một cuộc giao tranh. Xong, thì 3 thằng lại xổng mất, bà phải chạy từ phòng nọ đến phòng kia, từ tầng lầu xuống tầng dưới, và ngược từ tầng dưới lên tầng lầu để tóm chúng lôi vào phòng tắm...Bà mệt và căng thẳng đến nỗi có đêm bà thấy ác mộng, 3 đứa chạy nhảy bừa bộn trong phòng tắm, nước văng tung toé, nước tràn lan lênh láng, trôi bà đi khắp nhà…Giật mình tỉnh dậy người bà còn đẫm mồ hôi, bà không tin là mình vừa ngủ mê, lò dò bật đèn ra phòng tắm, thấy mọi sự yên tịnh bình thường bà mới yên tâm vào ngủ tiếp.
Khi bố mẹ chúng ra khỏi nhà, căn nhà rộng 4,000 sqft, đẹp đẽ sang trọng, trên khu đất rộng, vườn tược xinh tươi, hàng tháng có người đến làm vườn cắt cỏ này là của tôi, tôi tha hồ ra mà đi trên cỏ non xanh mướt, ngắm hoa lá, nhìn chim bay…Những giây phút thú vị đó, tôi tin chắc rằng vợ chồng cô chủ chưa bao giờ biết đến.
Vào nhà tủ lạnh đầy ngập đồ ăn, tôi muốn ăn, muốn bày món gì có mà trời biết.Tôi đã làm những món ăn, bánh trái khiến lũ trẻ thích mê, tôi kể cho chúng nghe những đứa trẻ bằng tuổi chúng đang ở Việt Nam, đang thiếu ăn, thiếu mặc, hay không được học hành gì cả…tôi kể về tuổi thơ nghèo khổ của tôi, chúng cảm động nghe tôi kể như nghe chuyện cổ tích, tôi dạy chúng phải biết quan tâm và giúp đỡ người khác, biết nhường nhịn thương yêu nhau. Dần dần 3 đứa đều quý mến tôi, ngoan ngoãn nghe lời tôi, chúng không nghịch phá nữa, tự mình làm những gì có thể được, tôi không phải hầu hạ chúng như bà Ba, trái lại tôi còn sai chúng làm được khối việc vặt, khi quần áo đã xấy khô, chúng gấp lại, của đứa nào đứa nấy mang về phòng, chúng vui thích vì được tự tay xếp quần áo vào tủ theo ý mình, tôi sai chúng nó lấy báo cho tôi đọc hay rót nước cho tôi uống là chuyện thường tình ở nhà, không biết bố mẹ chúng nhìn thấy có xót ruột không? chứ chúng làm với tất cả lòng hăng hái, mà tôi cũng thương yêu chúng biết bao nhiêu, không phải là nhiệm vụ của một baby sit đâu, mà bằng tấm lòng của một người mẹ.
Tôi và 3 đứa trẻ đã có những ngày êm đềm hạnh phúc, những bữa cơm chiều đầm ấm, những buổi trưa 3 đứa thì ngủ, còn tôi nằm khểnh  nghe nhạc, thảnh thơi như một kẻ vô công rỗi nghề, tôi mở máy nghe Chế Linh và Tuấn Vũ, hai giọng ca mùi mẫn là thần tượng của tôi, họ hát bài gì tôi cũng thuộc dù tôi không nhớ tên tác giả, nhưng chắc chắn là không có nhạc Trịnh công Sơn, dù ai cũng khen nhạc ông ta, có nhiều câu nhạc của Trịnh công Sơn nghe “mơ hồ” quá tôi không hiểu nổi: “tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống thành hồ nước lênh đênh.” Hay “ Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…” thà cứ cụ thể, huỵch toẹt như “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn…” hay “Đêm đêm một mùi hưong, mùi hoa sứ nhà nàng…” nghe mà thấm tới tim tới phổi, nghe mà rơi lệ.
Nằm nghe nhạc đã, tôi ngủ thiếp đi, tỉnh dậy 3 đứa trẻ vẫn nằm ngủ bên tôi trong căn nhà sạch sẽ thơm tho, chẳng có chuyện gì phải làm, tôi vẩn vơ nghĩ tới vợ chồng cô An, không biết ngay giây phút này họ đang làm gì nhỉ ? Tội nghiệp ! chắc chú An đang bù đầu trong khói bếp mịt mù, trước kia chú có thuê đầu bếp, nhưng đứa thì làm mình làm mẩy, đi trễ về sớm, đứa thì chuyên môn ăn cắp mang về nhà toàn những món đồ biển đắt tiền .Thế là chú vừa là ông chủ vừa kiêm luôn chức đầu bếp cho chắc ăn, khỏi phải trả tiền công đầu bếp mà lại quản lý được cả đám nhân viên dưới bếp, không thất thoát hao phí đồ ăn, thực phẩm. Còn cô An cũng bù đầu không kém, như tất cả những người Châu Á làm kinh doanh, khâu tiền nong thì chỉ có ngưòi nhà hay chính chủ nhân quản lý, cô An ngồi trong quầy thu tiền, mỗi ngày phải mỉm cuời không biết bao nhiêu lần, phải Hello, Thankyou với không biết bao nhiêu người, kể cả những người có bộ mặt đáng ghét nhất.
Chín mười giớ tối cô chú An mới về tới nhà, tắm rửa và hỏi thăm con cái qua loa xong là lăn vào phòng ngủ, nếu có động đất hay trời xập chắc họ cũng không biết.

                                                
Làm gì cô chú An dám mơ tới một giấc ngủ trưa thanh bình nhàn hạ như tôi? nằm nghe nhạc lâm ly sướt mướt như tôi?
Làm chủ nhà hàng, khách tới ăn tấp nập, nhưng cô chú An thường không ăn nổi những món ăn của mình, ngày nào cũng ngửi, cũng nhìn thấy, họ ngán quá rồi, cô An thường mang đồ ăn do tôi nấu ở nhà , tôi làm món dưa cải muối chua với củ hành đỏ thật thơm ngon, cô An rất thích.
Từ ngày làm baby sit, ăn, ở, chủ bao nên đồng lương tôi hầu như không dùng tới, dư được bộn tiền, tôi không có họ hàng gần xa ở Việt Nam để mà giúp họ. Tôi nghĩ đến những đứa trẻ nghèo-như tôi ngày xưa- và muốn đồng tiền của tôi được hữu ích tôi liên lạc với một ngôi chùa ở Việt Nam, thông qua đó, hàng tháng tôi gởi tiền về để chùa mang đến những cô nhi viện, những nhà nuôi trẻ em khuyết tật, cho các em được thêm manh áo mới, thêm miếng ăn ngon. Nếu quả thật kiếp này làm điều lành kiếp sau được hưởng thì tôi mong sẽ có một mái gia đình và những đứa con như 3 thằng mà tôi đang baby sit là đủ rồi, chẳng mong giàu có sang trọng gì.
Một hôm cô An mang về một tờ báo xuất bản ở Việt Nam, do người bạn cô mới đi chơi Việt Nam và mang về. Cô An chỉ cho tôi  bài viết về một bà người Việt sống ở Mỹ có lòng từ tâm, hàng tháng gởi cả ngàn đô về Việt Nam để giúp các trẻ em nghèo.
Cô An chặc lưỡi:
- Làm điều thiện mà dấu tên, ngu thật. Người ta đâu biết mình là ai, thì hãnh diện với ai đây?
Rồi cô so sánh, nửa đùa nửa thật:
- Chắc bà này giàu lắm mới chi ra như thế. Mà có giàu hơn tôi được không?
Mỗi ngày nhìn vợ chồng cô An ra đi, lao vào cuộc sống, tôi biết họ kiếm ra rất nhiều tiền, bằng sức lực mồ hôi và bằng cả sự khôn ngoan sống ở đời như cô An đã từng hãnh diện khoe với tôi, chị biết không, buôn bán kiếm lời là chuyện dĩ nhiên, ngoài ra phải biết kiếm thêm, mỗi bill tính tiền ăn của khách đều cộng thuế, nhưng tôi đâu có ngu mà khai thật lợi tức của mình với sở thuế, nên hầu hết tiền lời, tiền thuế của người ta trả đều vô túi mình.
Còn tôi, lương tháng 1,200 đồng, không kiếm thêm được đồng nào như vợ chồng cô chủ. Nhưng nếu so sánh giữa tôi và họ ai giàu hơn ? Thì …tôi chứ ai! Vì tôi còn có tiền phân phát cho người khác.Và ai sướng hơn?  Thì….cũng tôi chứ ai ! vì tôi có niềm vui khi đã mang lại niềm vui cho người khác.,.
                                            Nguyễn thị Thanh Dương

Back to top
« Last Edit: 15. Apr 2010 , 20:07 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #117 - 16. May 2010 , 23:39
 
                            


                                                    GẢ  BẤT CẦN

                                                

          Trước khi làm bản tự khai, tên quản giáo ngồi một chân để thổng, một chân chỏi trên mặt ghế. Hắn ngồi bật ngửa hút thưốc.Vài đám du kích mặt non choẹt mang vủ khí đủ loại đứng vòng ngoài phòng họp của trường trung học. Hắn từ từ đứng lên nói: Tất cả hồ sơ các anh chúng tôi đã nắm. Tội các anh theo Mỹ Ngụy đánh phá cách mạng là tội chết, nhưng nhờ lượng khoan hồng của nhà nước cách mạng các anh được tha và cho tập trung về đây để học tập chánh sách của nhà nước một thời gian ngắn rồi cho về với gia đình, làm công dân tốt của một nước Việt Nam dưới sự lảnh đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa và đảng Việt Nam quang vinh…..Hắn nói tràng giang đại hải như con vẹt, cuối cùng hắn gằn giọng: Các anh phải thật thà khai báo, các không qua mặt được chúng tôi, nhớ đó… Mọi người được cấp hai mảnh giấy trắng làm tờ khai lý lịch.

         Trong bản tự khai gã ghi sơ sài tên họ cấp bực, công vụ và địa chỉ tận miền Trung. Tư Cần trong ban quản giáo trại tù đọc tờ khai của gã và bắt gã làm lại có hơn ba lần, lần nào gã cũng khai y như củ. Tư Cần gọi gã lên la lối:

             - Anh chưa thành khẩn khai báo. Các anh khác khai đầy đủ còn riêng anh cứ còn dấu diếm. Tội không khai báo thành khẩn là tôi nặng anh biết không? gã thản nhiên trả lời:

              - Thưa anh, tôi đã khai đủ.

              - Anh không có thân nhân họ hàng?

              - Dạ đúng.

              - Ai sinh anh ra anh, anh không biết nửa hả!

              - Tôi không biết, hồi nhỏ tôi sống trong cô nhi viện nên không biết cha mẹ là ai. Tư Cần ngó anh luờm lườm và hỏi gằn:

              - Còn hoạt động đánh phá cách mạng anh ghi có bao nhiêu, đâu đủ!

      Gã nhỏ nhẹ:

              - Dạ đủ lắm rồi cán bộ. Cán bộ không tin cứ coi lại hồ sơ mà cán bộ có….

            Tư Cần bực tức, nhưng không biết phải làm gì với gã. Tư Cần đưa gã miếng giấy trắng khác và nói: Anh về khai lại cho đủ hơn, chưa thành khẩn…anh hiểu chưa???.Gã mang giấy về và vẩn khai y như củ. Tư Cần ra lệnh nhốt gã vào phòng tối hai tuần. Hôm tên du kích mở cửa phòng giam đặc biệt, tống anh về lại phòng, người anh xanh xao và hôi thúi. Mọi người dìu anh về chổ nằm. Anh em trong phòng bịt mũi vì chịu không nổi mùi hôi thúi bốc ra từ cơ thể của anh. Suốt hai tuần ở trong phòng tối gã ăn, ỉa tại chổ. Với mỗi ngày một lon nước trong phòng tối om làm gì để có cái sạch sẽ. Hồi ở ngoài phòng anh cũng là chúa nhát tắm gội rồi. Thế là vài ba anh đề nghị góp nước và lót miếng nylon ra giữa phòng, mời kéo gã ngồi vào để lau chùi, kỳ cọ cho gã hết mùi hôi. Gần ba tháng trong phòng giam ai ai cũng có người thân gởi đồ ăn vào bằng cách nầy hay cách khác, riêng gã thì không thấy ai gởi. Anh em hỏi gã thì gã cười mĩm nói: Tôi con bà phước làm gì có ai gởi. Gã ít khi quan đến sinh hoạt trong phòng, ai kêu làm gì thì làm không thì nằm phì phà hút thuốc một mình, không tâm sự với ai, ai hỏi gã điều gì thì gã nói cái kiểu trớt quớt không đâu vào đâu. Ngày tháng bị giam tù không biết rồi sẽ ra sao? Mọi người buồn bã ra mặt, riêng gã thì không ai đoán được gã có buồn hay không. Gã sống lè phè với cơm phát, nước đong. Anh em thấy vậy nên chia sẽ với gã khi có đồ ăn gởi vào. Gã không bao giờ từ chối món gì cả. Ai cho cái gì thì ăn cái đó, ăn không hết thì dồn hết vào lon Guigoz để dành ăn từ từ. Anh em thương gã vì biết gã chẵng có ai thăm nuôi, nhưng tin vào lời khai của gã thì chắc không ai tin, hoặc có tin cũng ở một giới hạn nào đó. Riêng về ban quản giáo thì thôi hạch hỏi gã từ khi gã từ hầm tối ra.Chắc họ có điều tra, nhưng không moi được gì thêm. Hồ sơ quân bạ ở tỉnh Chương Thiện bị đốt hết. Họ cứ dằn mặt: Các anh phải khai thật thà, hồ sơ của các anh chúng tôi nắm hết cả, đừng hòng khai gian! Thế nhưng cho đến khi chuyển trại lên Cần Thơ, mặc dù cũng qua nhiều lần làm lại tờ tự khai, gã cũng chỉ viết có bấy nhiêu mà chẵng thấy họ hạch hỏi gì  thêm.

                       Cũng như còn ở trại giam tỉnh, ở đây gã cũng lè phè, lếch thết. Mọi người được vợ con tiếp tế thăm nuôi, còn gã thì vẩn mồ côi như củ. Gã tự đi “Cải hoạt” với cái bẩy chuột tự sáng chế. Đó là chiếc cần bằng tre với sợi dây nhợ. Gã đánh bắt chuột cống trong trại, vì là chuột chui nhủi trong các hang dơ dái nên lông lá bị rụng, da trầy trụi lỡ lói. Khi bắt được con nào gã cắt đầu, lột da, bỏ bộ ruột, đem nướng hoặc kho mặn. Anh em thấy gã ăn mà thương hại và thường có ý ngăn cản vì sợ gã bị bệnh. Mọi người chia phần ăn cho gã và khuyên gã nên ngưng ăn chuột, nhưng gã vẫn tiếp tục bẩy chuột. Nhiều đêm cái bẩy sập đưa cần không? Gã tức lắm và cho là có người nào đó ăn chận, bắt lén. Để phát giác khi bẩy sập. Gã cột thêm mấy miếng nhôm để khi bẩy được chuột, chuột giẩy dụa sẽ kêu leng keng. Có hôm vừa mỗ bụng chuột xong, gã cười khà khà: Ê bắt được chuột có chửa, ăn chuột hà nàm bổ lắm. Gã lôi ra từng con chuột con trong bọc bỏ vào miệng ăn ngon lành, mấy anh bạn trong phòng bụm miệng, nôn ói. Chẵng ai cản được gã nên cứ để gã tùy tiện. Anh em đồn đại: Tay nầy đúng là một tên khật khùng…! Cán bộ trại gọi gã lên hỏi:

-      Chúng tôi lo cho các anh thức ăn đầy đủ, sao anh lại ăn chuột dơ bẩn như thế?

Gã cười cười trả lời:

-          Thưa cán bộ thêm thịt…

-          Thế chúng tôi cung cấp không có thịt cho anh à?

-          Dạ không có.

-          Cá nục…rau cãi, nước mấm đấy.

-          Dạ thịt cá đâu phải thịt heo.

-          Anh còn muốn ăn thịt heo… tư sản nhỉ?

-          Dạ ăn để sống mà cán bộ.

-          Thế chúng tôi có để cho các anh chết à….?

    Gã cúi đầu ngưng nói. Tên cán bộ tức khí:

-          Thôi anh về đi…cấm không cho anh bắt chuột. Gã làm thinh quay đầu đi

ra khỏi phòng.



     Gã cùng đoàn quân xuôi Nam vào tuốt tận vùng sâu rừng U Minh, nơi mật khu củ của mặt trận trá hình “Mặt trận giãi phóng miền Nam” dựng trại, phát hoang làm ruộng. Gã lè phè như bè trôi sông. Hồi mới tới U Minh mỗi tốp 10 người ngủ trong lều nilon, có đêm gió tốc mạnh mọi người thức dậy lo tu sửa căng lều lại. Gã vẩn nằm yên ngủ ngáy kho kho. Anh em cằn nhằn quá. Gã phân trần:

           -    Ngủ quên mà, sao không kêu tui.

      Ít lâu sau gã xin được một miếng nilon nhỏ che đủ một bên gần kế lều chung, để khi mưa gió, khỏi lo anh em cầu nhầu. Có hôm mọi người thấy gã ngủ với nửa người ướt nhem vì miếng vải che bị tróc một phần. Mặc kệ! Gã ngủ với cơn ngáy đều đều!!!

        Trong lao động hằng ngày hể gã đi chung với nhóm nào là các bạn trong nhóm nhăn mặt cười. Thế nào cũng phải gánh thêm để cho xong việc. Gã làm từ từ, đôi lúc nửa chừng than mệt, lên bờ ngồi vấn thuốc rê hút thở phì phèo. Anh em biết gã như vậy nên riết rồi cũng để mặc gã làm gì thì làm. Ai phàn nàn, nặng nhẹ, gã cười trừ: Làm gì mà dử vậy ông? Gã luôn từ tốn, hề hà không giận ai cho dù có bị nặng nhẹ, nên chẵng ai ghét gã được…?

        Công việc đi vào rừng sâu chặt cây và bè về để dựng trại thì được phân theo đầu người. Mỗi người mang về ba cây đước hoặc cây vẹt. Mỗi nhóm 10 người của ai nấy lo. Cây đốn xong dùng giây chạy cột lại và thả xuống lạch nước kéo về. Anh em đốn cây theo tiêu chuẩn, cây to, dài suông thỏng, còn gã thì chả cần miển có ba cây là được. Gã thả rề rề dưới nước và luôn luôn là người về rất trể. Có hôm anh em trong nhóm phải quay lại kéo phụ với gã về chổ tập trung. Có một lần vì không bó chặt, lúc kéo về bó cây bị sút ra, gã rị mọ cột lại, nhưng vì nước lớn cây trôi theo dòng chảy. Gã giử cây nầy thì cây khác bị trôi đi, phần vì không biết lội nên cứ loay quay mãi mà không gom được cây để cột lại. Một chị bơi chiếc ghe tam bản ghé lại và giúp gã thu gom. Chi kêu gã lên xuồng ngồi, be bó cây vào xuồng, chèo về hướng trại. Bàn tay gã bị xướt, máu chảy ướt đẫm, gã xé một bên áo cột rịt vết thương. Khi xuồng vào đến khúc kinh nhỏ gần khu vực trại. Chị bơi tấp xuồng vào bờ ra hiệu cho gã xuống xuồng. Chị nói: Em giúp anh tới đây thôi, em không được phép vào khu vực trại. Chị bảo: chờ em một chú, em đem đồ ra băng bó vết thương cho anh. Chị chống sào giử xuồng, lên bờ đi vào cái chòi lá mang ra một nhúm gòn, chai thuốc sát trùng và miếng băng vãi. Chị kêu gã đưa bàn tay bị thương ra. Chị dùng bông gòn thấm thuốc sát trùng chổ bị trầy, bôi vào một chút thuốc đỏ và băng bó vết thương cho gã. Chị làm công việc rất thuần thạo. Gã đoán chắc bà nầy làm y tá. Gã muốn hỏi nhưng thôi. Gã lại lí nhí nói cám ơn và lội xuống nước kéo bè gổ về điễm tập trung. Hôm nay gã là người về sớm hơn mấy người bạn, ai cũng hỏi: Sao hôm nay tài quá vậy? Gã cười mĩm không trả lời.

       Thời gian cứ trôi qua với những ngày những tháng tù đày nơi rừng U Minh. Lao động cực nhọc với mưa nắng, muổi, vắt, tuy nhiên ăn uống ở đây được tạm đủ nhờ rau hoang và bầy cá bạc ngàn đổ ra từ phía rừng sâu khi mùa mưa tràn đồng lênh láng. Hồi mới xuống đây vào đầu tháng tư, cơn mưa mới rỉ rả. Bây giờ cơn mưa đã tạnh, các láng trại được thành hình, mùa lúa gặt đã xong. Nông trường 30 tháng tư được thành lập.Tin tức chuyển trai đi nơi khác được anh em rỉ tay nhau…đi đâu…về đâu…??? Lại có tin đồn lần nầy trại sẽ thả một số người…Ai đây…???.Mọi đồn đại rồi cũng đi qua. Một hôm gã được gọi lên C với vài anh bạn khác. C trưởng cho hay toán nầy được cho về đoàn tụ với gia đình. Anh em trong nhóm ai cũng vui mừng, còn gã thì tỉnh bơ và nói với C trưởng:

-          Cho tôi ở lại được không cán bộ…?

-          Không được, có lệnh là phải rời trại.

       Gã làm thinh với mặt buồn buồn lầm lủi về láng. Anh em trong nhóm ngạc nhiên hỏi:

-          Ai cũng muốn về…còn mầy…điên hả!!! Gã cười méo mó và im lặng vấn

thuốc hút…Đó là cuối năm 1980.

         Ngày được thả về, tất cả nhóm hơn 12 người lên phòng họp của trại để làm lể và lảnh giấy lệnh rời trại. Tất cả mọi người ai cũng được thông báo cho thân nhân vợ con vào ký vào giấy bảo lảnh nhận chồng về. Chỉ trừ anh chẵng có ai. Ban chỉ huy trại hỏi anh, anh nói: Xin cho tôi ở lại nông trường, tôi không còn ai là thân nhân. Cuối cùng ban chỉ huy trại cấp cho gã một công rừng ngoài nông trường gần phía trạm xá. Khi được cán bộ trại chỉ cho gã miếng đất được cấp, gã nhìn cái chòi lá mà trước đây chị y tá băng vết thương ở tay, chỉ cách độ một vuông đất. Chuyện gã xin ở lại lan truyền khắp nông trường. Mọi người cho gã là thằng khật khùng mới chọn ở lại cái nơi cùn khốn nầy. Nhưng người vui nhất khi nghe tin gã ở lại là Lượm.

          Buổi sáng Lượm đứng trước cửa trạm xá nhìn mấy chiếc võ lãi chở mấy gia đình được cho về chạy ngang trước con rạch. Nàng nghĩ nếu gã mà có trong chuyến về nầy thì chắc nàng buồn lắm. Một cãm giác nôn nao truyền khắp cơ thể khiến Lượm mơ màng một đều gì đó không rỏ…. Lượm nghĩ trong những ngày sắp tới nàng sẽ còn được gặp gã. 

        Cuộc đời nàng rất hẫm hiu đau buồn, từ nhỏ tới giờ có khi nào nàng được cái cãm giác như bây giờ đâu. Mới 10 tuổi nàng đã mồ côi mồ cút vì ba má chết trong trận chiến Mậu Thân. Mười lăm tuổi đã vào đội giao liên. Nàng được nhào nặng hận thù Mỹ, Ngụy, học tập chiến đấu hy sinh theo các gương anh hùng mà nàng chỉ nghe thôi chớ chưa thấy tận mặt. Từ ngày vào đội giao liên tới giờ cứ luồn lách, chốn trui chốn nhủi khi lính đi càn. Nàng chỉ nghe báo cáo thành tích diệt địch, nhưng chưa bao giờ tham gia trận đánh nào.Trình độ thì chỉ nhá nhem đủ để có thể đọc được các chỉ thị công tác. Một hôm trên đường đi công tác với một anh bạn. Lính càn nhiều quá, hai đứa chém vè ở một cái hầm chìm dưới đám dứa gai. Cái hầm chật nứt hai đứa phải áp sát nhau suốt buổi. Hơi nóng hai cơ thể cứ như rang rang truyền vào nhau. Có lúc hình như thằng bạn để tay vào ngực áo đang bật khuy gần hết. Lượm vờ như không biết nhưng thấy rộn rả một thứ gì đó rất mơ hồ, cổ họng nàng như khô, nước miếng chực chờ chảy ra. Nàng nuốt một cái ực vào. Thằng bạn thấy nàng để yên nên làm tới. Nó đưa tay luồng xuống thấp và thấp hơn. Không biết tại sao nàng vẩn để yên cho nó làm gì thì làm. Buổi tối hôm đó khi vừa ra khỏi miệng hầm thì nó đè bật Lượm ra trên miệng hầm…Nàng nằm im, một lúc Lượm nghe gió thỗi lạnh khắp người, nàng ôm riết nó sát hơn…nàng tê dại và cãm thấy đau nhói như có một cây gai nhọn vừa đâm vào phía dưới…Tối hôm đó du kích xã phải đốt rọi đi tìm. Hai đứa rón rén về chòi canh. Mỗi đứa nằm một gốc ngủ say.

      Vài tháng sau, cũng trong chuyến công tác giao liên. Khi lính bố ráp. Lượm nhanh chân trốn được dưới hầm trú, nhưng thằng bạn bị bắn phơi thân ngoài đám dứa gai. Thấy cái xác bị bắn lòi ruột Lượm trừng trừng nhìn nó rồi bật khóc. Những ngày tháng sau đó Lượm ăn nằm hết với chủ tịch xả, tới xả đội trưởng. Hình như họ biết Lượm ăn nằm với thằng bạn du kích hôm đó. Họ tạo điều kiện đề gần nàng. Hình như nàng cũng hực nóng khi nghĩ tới chuyện làm tình. Nàng sẳn sàng nằm ra khi có cơ hội. Thật ra mấy anh ở trên cứ tạo cơ hội để được ngủ với Lượm. Các anh nói: Ủng hộ sinh lý cho các anh cũng là một công tác. Lượm tin như vậy, cho nên chuyện ăn nằm với mọi người là chuyện giống như thi hành nhiệm vụ. Sự ăn nằm quen dần cho đến nổi Lượm không biết cái thai chình ình càng nở to ra của nàng tác giả là ai. Lượm có bầu thì bị lôi ra xử lý. Chính anh Tư Hồng chủ tịch xã đã ngủ với Lượm không biết bao lần. Anh gay gắt phê phán trước buổi họp kiễm điễm nàng: Đồng chí đã làm mất tư cách một cán bộ cách mạng. Anh nhấn mạnh: Phụ nữ cách mạng luôn trong sạch để làm gương cho chị em trong đoàn ngũ, chưa có gia đình mà để có bầu là vi phạm điều lệ… Vợ của Tư Hồng là chủ tịch hội phủ nữ cách mạng, sau khi kiễm điễm gay gắt chuyện nàng có bầu và cuối cùng chị đề nghị thuyên chuyển Lượm sang cơ quan y tế khi sinh nở xong. Sau nầy Lượm biết được là bà vợ của Tư Hồng nghe phong phanh chuyện anh có ăn nằm với Lượm nên nhân cơ hội nầy đẩy Lượm đi xa. Còn Tư Hồng thì thở ra nhẹ nhõm.

          Lượm bị sẩy thai trong một chuyến đi công tác.  Nàng được nằm tại bệnh xá huyện và chuyển đi học y tá vài tháng thì ngày ba mươi tháng tư đến.

          Chuyện gần đàn ông của Lượm như một đòi hỏi của cơ thể chứ không có một chút tình cãm gì ở trong đó. Ăn nằm xong thì nàng lồm cồm ngồi dậy mặc quần áo và mạnh ai nấy đi. Cho tới khi gặp được gã. Một người tù cãi tạo làm lì, hiền hậu, ăn nói từ tốn. Khi gặp nàng gã dững dưng chẵng nhìn nàng như mấy lão ở trong nầy, khiến nàng cứ muốn lấn tới với gã trong nỗi xuyến xao kỳ lạ. Lượm thường đứng nhìn gã kéo gổ dưới lạch nước trước trạm xá với cái vẻ cô độc kham khổ thấy mà thương. Nàng tìm hiểu và biết gã chẵng có ai thăm nuôi. Nàng đoán chắc gã chưa vợ con nên đâm lòng yêu thầm.

          Khi cái chòi lá của gã khởi công thì mọi người trong trại phụ dựng nhà cho gã, chỉ trong hai ngày là xong. Miếng đất được nông trường cấp cho gã một công gần khu trạm xá cho nên Lượm có nhiều cơ hội đến giúp gã nhiều việc. Ngày tháng trôi qua, khi thì nàng mang cho gã một vài món ăn, vá cho gã manh áo rách…nhưng chưa bao giờ nàng nói được cái đều nàng nghĩ trong đầu. Lượm nói thầm: Đàn ông gì mà kỳ lạ…mình muốn ảnh mà ảnh ...cứ lơ lơ chẵng để ý gì hết ráo…

          Một buổi tối, Lượm nhìn qua kẻ hở của chòi tắm, thấy phía nhà gã chưa thắp đèn. Nàng quơ bộ quần áo mặc vào và thắc mắc: Cái anh nầy đi đâu, tối mò mà chưa zdìa để nhà tối om. Trạm xá cách nhà gã một vuông ruộng nhỏ cho nên nàng hay châm chú theo dõi sinh hoạt đi đứng của gã hằng ngày. Có hôm thấy gã ở trần trùn trụt phơi cái lưng vạm vở với màu da trắng muốt. Nàng thấy nôn nao một ham muốn dâng tràn, toàn thân nàng nóng rang. Luợm ước gì được nằm sát với gã. Khi ấy nàng nhấm mắt mơ màng nghĩ đến một một dòng ái ân tràn ngập trong đầu… Lượm quyết định sang nhà gã xem gã có ở nhà không? Trời mới nhá nhem tối nhưng Lượm cũng cầm theo cây đèn pin. Bước ra khỏi trạm xá, cơn gió chiều hôm thổi lùa, nàng nghe lành lạnh ở vùng ngực. Lượm chợt nhớ ra mình quên mặc áo lót. Nàng đưa đôi tay bắt chéo trước ngực khi đứng trước cửa nhà gã. Nhà tróng trơn không có cửa trước. Nàng nhìn suốt vào nhưng chẵng thấy ai bên trong. Lượm đi vòng ra phía sau, thì bất chợt nhìn thấy gả vừa mới ở dưới mương nước bước lên.Toàn thân trần truồng. Một bóng trắng chập chờn trước mắt. Nàng vội trở ra phía trước gọi: Anh ơi có nhà không, sao nhà tối om zdậy? Gã nghe nàng gọi thì vội đi ngay vào nhà lấy bộ đồ bà ba đen mặc vào và nói vói ra: Có tôi…chờ chút nha ?  vừa nói gã vừa mò tìm cái ống quẹt mồi cây đèn. Căn nhà sáng lên. Lượm đứng ngay khung cửa. Ánh sáng làm lộ thân hình người con gái với bộ đồ bông hường nhô cao đôi vòng ngực. Gã tằn hắn:

                 -   Có gì hong cô Lượm.

                 -   Thấy nhà tối em tưởng anh không có nhà nên đi qua coi thử anh zdìa chưa?

                 -   Tôi tắm ở dưới mương nước phía sau nhà.

          Nàng vờ như không biết gì và nói: zdậy mà em tưởng anh đi đâu? Nàng bước hẳn vào bên trong. Nhà tróng trơn chưa có bàn ghế gì ráo. Gã nói: Cô ngồi lên gường đở. Lượm ngồi lên mép gường nhìn quanh quất căn nhà rồi nói: Mai em đi chợ mua đồ cho trạm, chắc em mua cho anh một ít đồ xài, anh cần món gì cho em biết. Gã đứng xớ rớ một gốc nhà nói: Chưa biết cần gì nửa cô ơi?. Lượm dượm người đứng lên bước vài bước, rồi nhìn trước, ngó sau xem có gì mua được cho gã đây? Nàng chột dạ nói trong lòng: Nhà thiếu đàn bà có khác và cãm thương cho gả một cách chân thành. Lượm hỏi:

                 -    Anh ở như vầy…hỏng ai lo cho anh hết.

                 -    Tui quen rồi cô.

                 -    Em muốn lo cho anh...lo hoài hoài được hôn? 

         Gã xua tay:

                 -    Không được đâu. Cô là cán bộ, tôi là tên tù mới được thả ra...nếu người ta biết cô lui tới như thế nầy có hại cho tui. Tui cám ơn sự lo lắng và sự giúp đở của của cô.

         Lượm trân trân nhìn gã và nói:

                  -   Anh...! em thương anh mà. Không ai có quyền cản ngăn em hết á! Em là một người con gái...không là cán bộ gì ráo, em chán cái luận điệu của mấy ông trong bưng nầy lắm rồi. Thời gian qua nhìn các anh sinh hoạt mọi người ở vùng nầy đều biết các anh là ai...là những người tử tế chứ không như những điều bôi xấu mà em và các người ở đây nghe về các anh... Dường như có một cơn sục sôi bùng cháy trong lòng. Lượm bước tới ôm chầm lấy gã và nói: Em thương anh!. Mùi thơm bồ kết từ mái tóc mới gội của nàng cộng lại với sự cọ sát vòng ngực nóng ran làm gã boàng hoàng lo sợ hơn là cãm xúc... gã vội tỉnh trí đưa hai tay lên hai vai nàng đẩy nhẹ ra và nói: Không được đâu...cô về đi...! Không được đâu....! Bỏ Lượm đứng khóc trong nhà, gã chạy ra phía sau ... Cánh đồng mênh mông loáng nước trước mặt gã đã tối sầm. Gã khom lưng vóc một bụm nước úp vào mặt.



           Vào một buổi trưa ngày..  tháng ...năm  1984 một chiếc võ lãi chở một thiếu phụ sang trọng và hai người con tấp vô trạm xá. Người tài công bước lên hỏi Lượm nhà của anh T.... ở đâu? Lượm nhìn xuống chiếc võ lãi, lòng tự hỏi: Ai zdậy kìa???

            Khi chiếc võ lãi tấp vô nhà của gã. Lượm ra đứng ngoài sân bệnh xá nhìn sang đấy, thấy gả chạy ra ôm chầm lấy người thiếu phụ, còn hai đứa nhỏ thì kêu ba ơi ba...! Gã quay sang ôm hai đứa nhỏ hôn lấy hôn để... Tất cả gia đình gã di tản sang sống ở Mỷ. Sau khi liên lạc được với những người bạn còn ở Sài Gòn có chồng bị tù ở vùng U Minh. Vợ gã biết gã còn ở Năm Căn. Chị xuống Cà Mau dò la tin tức và biết gã đang ở nông trường Thống Nhất. Hôm nay chị mướn chiếc võ lãi vào rước gã về.  Lượm đứng như trời trồng và ôm mặt khóc: Trời ơi! vợ con của ảnh!!!!!

            Chiều đó chiếc võ lãi quay mủi chạy ra khỏi nông trường, đi ngang trạm xá. Gã nhìn vào một lúc rồi vội quay mặt về phía vợ nói: Anh có nhiều kỷ niệm với cái trạm xá nầy. Người thiếu phụ nói: Vậy hả...? Chiếc võ lãi chạy khuất ra vàm kinh lớn. Tiếng bành bạch của chiếc  máy đuôi tôm dội trong Lượm nỗi đau xót tận cùng buồn bã.  Anh đi thật rồi! Em mất anh thật rồi...!Nàng đứng khóc một mình trong buổi chiều U Minh lặng lẻ.



            Bẵng đi một thời gian rất lâu. Lúc nầy Lượm làm y tá cho một bệnh xá ở huyện...Một hôm nàng nhận được một món quà từ bưu điện. Đó là một sợi dây chuyền bằng vàng với hai trái tim kề nhau, kèm thêm có bức thư của gã bất cần năm nào gởi từ Mỹ về.



                                                    Cali..ngày... tháng....năm......



               Lượm thương mến,

        Tôi hiểu rỏ tấm lòng của em dành cho tôi và luôn ghi nhớ những sự giúp đở của em trong những ngày tháng ở rừng. Chiếc võ lãi chở vợ con của tôi vào ngày hôm đó cũng là một bất ngờ cho tôi. Trong cơn biến động trước ngày 30 tháng tư năm 1975. Gia đình tôi  lo di tản trước đó vài ngày.Vợ tôi từ Sài Gòn xuống Chương Thiện ngày 28 tháng tư để đón tôi về cùng di tản ra hạm đội Mỹ, nhưng không gặp được tôi. Mọi người trong gia đình tôi đã ra đi trong lúc chúng tôi được lệnh tử thủ của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Chúng tôi đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng...và rồi những gì em biết sau đó. Chúng tôi đành thua trận. Người anh đầu đàn của chúng tôi hiên ngang gục chết trước pháp trường. Tôi mất liên lạc với gia đình và không biết họ về đâu trong cơn biến động đau đớn đó. Tôi đành chịu số phận chung cuộc của những người bại trận. Chúng tôi hèn nhát hơn vị Đại tá của chúng tôi! Chúng tôi buông súng, nạp mình cho kẻ chiến thắng là phía của em. Tôi phó đời trong bất cần số phận...và cuối cùng tôi gặp lại vợ con trong bất ngờ như chiêm bao. Tôi cám ơn ơn trên đã cho tôi hồi sinh được cuộc sống và xin cám ơn em đã tân tụy giúp tôi trong cơn khốn cùng đã qua. Tôi nhận biết rằng: Từ trong trái tim yêu thương chân thành thì không có lòng thù hận. Xin gởi em món quà từ đất Mỹ. Mong em vui lòng nhận cho, trong đó có tấm lòng của tôi.

                                                               

                                                                          Thương mến,

                                                                            Lê văn T...

         Riêng Lượm từ hôm nhận được quà và thư của gã nàng khóc thật nhiều. Sau đó nàng rời bỏ bệnh xá. Người ta không biết nàng đi đâu...?


(Hội Ái hữu Biên Hòa )
Back to top
« Last Edit: 16. May 2010 , 23:41 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #118 - 18. May 2010 , 15:55
 
Về thăm Quê  Hương






Ai đã từng về thăm quê hương? Về Quê Hương để vui chơi hưởng thụ hay để tìm hiểu sự phát triển và cuộc sống thực của bà con mình? Kính mời (nhín chút thời giờ) đọc "Về Thăm Quê Hương" để cùng cảm nhận và chia xẻ. 
Về Thăm Quê Hương

Theo dõi và tìm hiểu về tin tức quê nhà từ mấy năm qua, nhiều tin đem đến cho tôi cảm thấy vui, và cũng quá nhiều tin nghe qua cảm thấy đau lòng, thất vọng. Việt Nam, một đất nước đã trên ba mươi năm được gọi là “giải phóng”, đã yên bình, vậy mà người dân nghèo nàn cơ cực. Đó là tin ghi nhận từ nước ngoài. Còn tin từ trong nước thì: Việt Nam đã phát triển nhiều, người dân đã có ấm no, bây giờ thi nhau để hưởng thụ, để làm giàu.
Mấy người bạn về VN (mỗi năm) ung đúc:
-Anh thử về Việt Nam một lần cho biết. Tha hồ mà ăn chơi, hưởng thụ. VN bây giờ thay đổi nhiều, cởi mở hơn, khấm khá hơn, đẹp đẽ hơn, không như những ngày lầm than cơ cực như thời 10 năm trước đổi mới nữa đâu.Về Việt Nam mà vui chơi…
Qua 13 giờ 40 phút, trên một thân tàu với chổ ngồi vừa đủ chật để xoay trở thân mình và ngã lưng ngủ chập chờn khi mỏi mệt, chuyến phi cơ China Airline đến Đài Bắc. Trên 300 hành khách, đa số là dân Châu Á, và đông nhất là Việt Nam.
Phi trường Taipei trong buổi bình minh lành lạnh. Cái lạnh tương đương với Cali của Hoa Kỳ. Không khí thoáng mát. Hít thở và cảm thấy khá thoải mái trong người. Thời gian cũng không có nhiều để thư thả ngắm nhìn. Cũng tất bật và vội vàng theo dòng người, cùng những thủ tục kiểm soát để chuyển đi một chuyến bay khác.
Viet Nam Airline, với những người cùng quê hương xứ sở.
Tiếp viên hàng không Việt Nam, đã từ lâu - từ sau 1975 - được tiếng là “thiếu nụ cười”. Lần về thăm quê hương tôi cũng có ý mua vé đi VN Airline cho biết. Dẫu sau thì cùng chung là Việt Nam thì đi HKVN cũng là nghĩa cử đóng góp cho đất nước của mình.
Qua những phút ban đầu gặp gở, tôi để ý và có nhận xét rằng: quả các anh chị của VN Airline hơi khó. Khó có nghĩa là cẫn thận và theo nguyên tắc, qui củ hẵn hòi thì cũng là đáng được hoan nghênh. Tuy nhiên, không hẵn vậy. Khó ở đây là tạo ra nhiêu khê, nhiều rắc rối để “người ta” (hành khách) phải e dè ngán ngại các nhân viên.
Kiểm soát giấy tờ, các anh, chị khá là cẫn thận, đến độ chậm chạp. Kiểm soát hành lý, theo qui định không sai chạy một ly. Các hảng hàng không khác thì không thấy, riêng HKVN thì qui định hành lý xách tay là kích cở của một cái khung (hộp) khối chữ nhật. Lớn hơn là bị chận lại không cho qua – đi qua theo một lối khác, và rồi cũng “lọt”, vẫn cho đi.
Một người cùng đi chung khá lanh lợi, lão luyện. Anh đã đi máy bay hà rằm, đi khắp các hảng Airline quốc tế, với cái va ly kéo, gọn, vừa, là hành lý xách tay anh đi khắp các nơi không bị chận. Khi qua ngõ VN là anh bị chận lại không cho qua. -Hành lý này quá cở qui định, phải được ký gởi. Một anh nhân viên VN Airline phán rất là rõ. Mọi người lần lượt qua đi, anh ở lại, được mời qua một quầy khác chờ lệnh.
Anh cự nự, anh phản đối, anh nói đã đi nhiều hảng hàng không, không bao giờ bị rắc rối như vậy, cũng với cái va ly xách tay này. HKVN lại qui định khó khăn thế?
Mặc cho anh phân trần phản đối (thái độ không xin xỏ, năn nỉ), người nhân viên vẫn lạnh lùng: Yêu cầu anh cho kiện hành lý qua phòng bên chờ giải quyết. Một vài anh khác đồng cảnh cũng theo anh.
Sau đó, trước giờ phi cơ cất cánh, các anh cũng có mặt để cùng đi. Hỏi ra, mỗi người mất 10 đô la – không phải đóng phạt sai qui định, mà là tiền phải quấy và thông cảm. Các anh thông cảm hay HKVN thông cảm thì không rõ.
Đoàn người lần lượt lên cửa phi cơ. Tại mỗi cửa bên lối đi, các cô tiếp viên mặc áo dài đỏ thẩm đứng để soát vé và hướng dẫn. Vẫn gương mặt điềm tĩnh, uy nghiêm – không có nụ cười. Các tiếp viên làm việc như robo người máy. Đúng ra, các “người máy” thỉnh thoảng cũng cười, nhưng cười với mấy người khác như: Mỹ, Đại hàn, Mã lai, Nhật…
Một anh bạn Việt kiều Mỹ, lịch lãm, tỏ ta đây là kẻ “ga lăng” cầm chiếc vé vừa đưa vừa nhoẻn miệng cười - cười cầu duyên? – Anh thất vọng, ngẩn tò te vì bộ mặt (khả ái) khá nghiêm nghị, không cười, chỉ hất hàm: ông đi theo lối này. Anh tức, thốt một câu (có lẻ) chỉ có mình tôi đi sau nghe: Địt mẹ.. chãnh.
Khá chật vật giữa hai hàng ghế, tôi tìm số ghế cho mình. Và cũng vất vả để đưa, nhét túi hành lý vào một khoang hộc trên một bệ cao.
-Bác bỏ hành lý nhanh lên, bao người đang chờ. Một cô tiếp viên vừa nói và cũng giúp tôi giữ cái hộc cho khỏi bật lên.
-Cám ơn cô. Cô yên lặng bỏ đi.
Ngồi vào ghế, yên vị, tôi cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng. Khỏe cái thân khi vừa trải qua những giây phút chật vật. Những người khác còn đang tiếp tục chen chúc, bận rộn. Tôi có cơ hội ngắm nhìn, quan sát mấy “cô nàng”.
Tiếp viên VN Airline cũng trẻ đẹp – đây là điều hẵn nhiên, đâu cũng thế. Chiếc áo dài màu đỏ thẩm cũng làm nỗi bật giữa mọi người. Huy hiệu là hình đóa hoa sen (chỉ với đường nét đơn điệu). Hoa sen tượng trưng cho tinh khiết, thanh nhả. Một hình ảnh mà từ xưa nay ở Việt Nam ta là tượng trưng cho Phật giáo. Bây giờ, có thêm HKVN dùng hình ảnh hoa sen, có lẻ cũng là nói lên trong sạch thanh cao. “Trong đồng gì đẹp bằng sen…” Bài học thuộc lòng cho bất cứ ai… mãi đến bây giờ, tôi vẫn không quên. Nhìn đóa hoa sen, tôi y như rằng (phải) nhớ đến quê hương, vì quê tôi là… Đồng Tháp.
Ngày trước - trước 1975. Hồi thời VNCH, VN Airline của Nam Việt Nam là áo dài xanh (xanh lá cây) và con rồng vàng trên ve cổ áo. Cũng tha thướt, cũng duyên dáng, và nhìn cũng nỗi chẳng thua gì hình ảnh của bây giờ. Màu xanh của dịu dàng tươi thắm, màu xanh của thanh bình, yên vui, dầu rằng quê hương đất nước đang thời loạn lạc chiến tranh. Và con rồng vàng nho nhỏ hai bên ve cổ áo dài đã là nỗi bật. Đẹp…đẹp làm sao! Vậy mà yểu mệnh. Bây giờ, nhớ lại, chỉ còn là hình ảnh và nét đẹp của một thời.
Hôm nay, chiếc áo dài màu đỏ thẩm với đóa hoa sen. Hai hình ảnh với hai màu sắc khá là tương phản, nó đang hiện diện đi khắp nơi khắp chốn giữa thời bình. Ôi! Dẫu gì cũng là vẻ đẹp. Tôi hân hoan mong tìm nét đẹp, nét duyên dáng của các Airline Stewardess của đất nước quê hương mình.
Sắp tới giờ phi cơ cất cánh, các tiếp viên đều chĩnh tề từng vị trí trong việc phục vụ, lưu ý, nhắc nhở các hành khách trên tàu. Cô tiếp viên ngồi trước mặt chúng tôi trông khả ái lắm. Nàng đẹp, nàng trẻ, nàng cũng duyên qua chiếc áo dài truyền thống Việt Nam. Có điều ra vẻ khá nghiêm trang, nghiêm nghị. Vẻ mặt trang trọng, không có nét cười, nàng ngồi vào ghế ở một mé cửa (qua lại) cài thắt dây an toàn, đăm chiêu nhìn thẳng về phía mọi người. Ước gì nàng tươi vui lên thì đẹp và tạo cảm tình biết mấy.
Tự dưng tôi liên nghĩ đến vẻ nghiêm trang của người Cộng Sản – đúng ra là nghiêm nghị -  Mấy anh CS lúc nào cũng tỏ ra nghiêm trọng trước mọi vấn đề. Và vì thế mà tư cách lúc nào cũng cố tỏ ra là nghiêm nghị. Nghiêm nghị để cho người ta nể vì? Thường là như vậy, và đã trở thành cái thói, cái tật trước mọi vấn đề, trước bất kỳ ai. Nghiêm nghị cũng để chứng tỏ là “ta đây” hay lắm, giỏi lắm, quan trọng lắm, trước những cái mà cảm thấy là mình còn dở, còn dốt. (Việc này, nếu có dịp sẽ phân tích, nói đến, khá dài dòng).
Âm thanh cũng được phát ra dặn dò (theo qui tắc) những gì cần giữ, cần làm, cần tuân theo khi trên phi cơ. Sau đó thì… ai nấy bình thường.
Máy bay boing 737, loại trung bình, có thể chở trên 300 hành khách, nhưng hôm nay, chuyến từ Taipei về SGN hành khách độ khoảng phân nữa. Đa số chổ ngồi còn trống.
Hàng không VN, đường bay quốc tế, bình thường nghe nói cũng ít người đi vì sức cạnh tranh còn thua kém. Ngoại trừ đường bay quốc nội thì tha hồ độc quyền. Thời gian này, kinh tế khó khăn, hành khách lại càng ít. Vì thế, hôm nay rộng, càng thoải mái. Có một số ngã ghế thay vì ngồi lại nằm. Các tiếp viên cũng không nói gì.
Đa số hành khách là Việt kiều – VK Đài Loan và VK Mỹ - Những người Việt Nam xa quê hương đất nước, gặp nhau cũng cảm thấy vui. Ngồi bên nhau làm quen và bắt chuyện thăm hỏi thân mật.
Riêng các tiếp viên thì hầu như đa số (đối với hành khách đồng hương) vẫn có khoảng cách. Nếu có gì thì hỏi, được trả lời, và rồi… hết chuyện.
Bao nhiêu năm xa cách quê hương, bao nhiêu năm xa vắng người cùng một nước, những tưởng gặp nhau là tình cảm dạt dào, là cởi mở, là săn đón, là thiết thân, là trao nhau những thân thiện chân tình… Nhưng mà không khí (thân quen) cảm thông nhau đang như có gì giữ ý, giữ kẻ và gượng gạo.
Máy bay cất cánh, an toàn, hướng về phía Nam, bay về mảnh đất hình cong chữ S quê nhà. Lòng tôi cảm thấy nôn nao rạo rực.
Thời gian chờ đợi, cũng là cơ hội để làm quen và nói chuyện cùng nhau. Anh chị, cô cậu xa nhà bao lâu? Có thường về Việt Nam không? Quê hương mình bây giờ ra sao so với trước? Không khí trong khung cảnh chật của con tàu cũng cởi mở vui vui. Các tiếp viên vẫn qua lại, lui tới, gương mặt vẫn bình thản ít nói, ít cười. Đa số là dân Bắc.
Một anh (cũng là Việt kiều Mỹ) muốn làm quen, gợi chuyện:
-Cô ơi, miền Bắc bây giờ so với miền Nam phát triển lắm không cô? Nơi đâu là vui đẹp nhất?
-Ông về đi thì biết. Bây giờ, ở đâu cũng đẹp, cũng phát triển nhiều so với trước.
-Cô vào làm việc đã lâu chưa cô? Và xin lỗi, tôi hơi tò mò, xin vào làm tiếp viên hàng không có khó lắm không cô? Một bà ngồi kế bên hỏi.
-Cũng không khó lắm đâu bác ạ, nhưng cần có sự quen biết giới thiệu. Cũng cần khá ngoại hình và ngoại ngữ. Cháu mới vào làm việc cho hàng không được 2 năm.
Cũng có cởi mở chuyện trò đấy! Người con gái quê hương! Tôi nghe mà thấy mừng thầm.
Một cô già hơn (có lẻ là “sếp”) vừa đi tới:
-Loan, đi lo công việc, không phải tiếp xúc lắm thế. Giọng chua như giấm.
Cô tiếp viên Loan lịch sự chào và đi. Tôi nhìn theo có phần tiếc nuối. Câu hỏi lởn vởn trong đầu. Đồng hương gặp nhau mà sao không cần thì giờ để cùng nhau chia xẻ - một ít phút cùng thăm hỏi chuyện trò?
Tôi đi lavatory, đứng vào hàng get line chờ đợi. Thời gian chờ khoảng 10 phút, tôi chứng kiến chính cô nàng vừa ra lệnh: “đi lo công việc, không phải tiếp xúc nhiều” lại đang búa xua nói chuyện với với một ông hành khách Đại Hàn và một thanh niên Mỹ. Nói cởi mở, nói không thấy dứt.
Có chăng là mặc cảm hay kỳ thị? Lại một câu hỏi. Hỏi thầm.
Một anh bạn, qua kinh nghiệm đã nói: Các tiếp viên hàng không VN hách cũng có mà mặc cảm cũng có. Hách vì nghĩ ta đây hơn người. Tiếp viên ở trên mây, trên trời mà! Mấy ai được vậy? Và cũng mặc cảm (tự ti) đối với Việt kiều – đa số là thành phần (cả con cháu) trước đây là thua cuộc, chẳng ra gì, bây giờ là làm nên danh phận. Những thành đạt này, so với dân Bắc (XHCN) họ kém thua xa – xa mọi mặt - Tiếp xúc với VK, dẫu sao cũng thấy ngỡ ngàng. Khó mà vênh váo. Khó mà kênh kiệu.
Tôi nhớ trước đây - thời gian sau 1975 – cũng có gặp, có tiếp xúc dân Bắc vào Nam. Đi đâu cũng nghe lời khoe khoang, khoác lác, kênh kiệu là hay, là giỏi, là hơn hẳn mọi người. Giọng điệu tự hào, cao ngạo một cách mù quáng, trơ trẻn không biết ngượng. Chả lẻ bây giờ, sau hơn 30 năm, đám con cháu của hạng “đỉnh cao trí tuệ” này, trong tư duy lại chưa có gì thay đổi?
Tránh. Không nên tiếp xúc chuyện trò thân mật với Việt kiếu về nước với mục đích, lý do gì? Sợ biết sự thật? Sợ tuyên truyền? Sợ diễn biến hòa bình? Hay sợ có được học hỏi để mở mang tầm nhìn và kiến thức?
Loài đà điểu có cái tính trời cho gặp bất trắc là chui đầu vào cát, không còn biết và thấy chi hết để chứng tỏ là mình khôn khéo, an toàn?
Sàigon khói, Sàigòn bụi, và Sàigòn lái xe loạn xà ngầu.
Quê hương ta đây rồi! Chiếc máy bay nghiêng cánh, lướt một khoảng rộng qua vùng Cát Lái, Thủ Thiêm, Hóc Môn, Gò Vấp… và hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất. Những phút giây ngắn ngủi, những hình ảnh lướt nhanh san sát qua ô cửa phi cơ. Nhìn mà nôn nao, nhìn mà rơi nước mắt.
Hình ảnh của quê hương mến yêu. Dù rằng bây giờ đã thay đổi, dù rằng hôm nay đã lạ lùng. Nếu không có một vài hình ảnh của thiên nhiên: con sông uốn lượn, ngọn núi, thế đồi,… tôi có thể lầm tưởng đến một vùng nào xa lạ. Rõ là Sàigòn đã thay đổi, thay đổi quá nhiều.
Ba mươi lăm năm, một đất nước thay chủ đổi ngôi. 35 năm, một quảng đời mất mát, và 35 năm Sàigòn biến dạng không ngừng…
Sau hơn một giờ làm thủ tục nhập cảnh, một hình thức kiểm tra và kiểm soát cũng khá là bề bộn nhiêu khê của hải quan. Người người thì đông, như dòng nước lũ tuông đổ vì cùng một lúc có 3 chuyến bay hạ cánh. Hơn 10 hàng get line chờ đợi - chờ đợi mỗi dãy một hàng dài. Vậy mà những “con rùa” hải quan vẫn dậm chân đều bước. Thủ tục giấy tờ cũng khá kỹ không thua gì Hoa Kỳ xét tra khủng bố.
Từ vài năm gần đây, người ta nói hải quan tại Tân Sơn Nhất của CHXHCNVN đã thay đổi và tiến bộ, không có vòi vĩnh tiền bạc, không hạch sách tra vấn khó khăn. Có lẻ cũng là tiến bộ thật, vì tôi không thấy ai đúc lót tiền. Nhưng chắc chỉ một phần. Dù sao đã có tiến bộ là mừng.
Hai vợ chồng Việt kiều Mỹ trình giấy trước tôi (cách 5 người), tự nãy giờ (hơn 20 phút) vẫn chưa xong. Nhân viên CA hải quan hết lật cái này, xem cái khác, hỏi han mọi lẻ kể cả điện thoại liên lạc đâu đó. Mọi người chờ mà sốt ruột. Sau cùng, bà vợ được cho qua và ông chồng đi theo một CA về hướng khác.
Thật ái ngại vô cùng. Kiểm soát kiểu này tôi cũng cảm thấy lo. Bao nhiêu năm viết lách tầm phào, không biết mình có phải lọt vào “tầm ngắm”?
Tiếp tục người kế tiếp 1, 2,3,4,5. Cũng may là tốc độ nhanh hơn. Tới tôi. Cảm thấy hơi lo, hồi hộp.
Lật, xem giấy tờ, ghi chép, đánh vào computer, nhìn mặt mũi và hỏi han đôi lời. Mọi thứ đều suông sẻ. Vẫn nét mặt nghiêm trang. Ước gì có nét tươi vui cho người đối diện đở khổ.
-OK, về quê hương vui vẻ. Hú hồn, mô phật! Tôi cám ơn và lẹ làng xếp giấy tờ cho vào túi, quảy túi xách đi ra.
Sàigòn khá là nóng. Vả lại, từ vùng xứ lạnh đi về, cái nóng của SG lại cảm thấy nóng thêm. Chiếc taxi rời khỏi phi trường chở tôi đi một vòng (theo yêu cầu) để tôi nhìn ngắm Sàigòn ngày trở lại.
Qủa là đông, so với trước thì có thể nói là gấp đôi, gấp ba nhân số. Sài gòn phát triển? Có phát triển thật sự với những dãy nhà cao tầng san sát, rải rác từng khu, từng vùng, bung rộng  ngoại thành theo lối kiến trúc nhiều kiểu đẹp đẽ, lộng lẫy. Tuy nhiên, bên cạnh và ngay bên dưới những cái nguy nga, lộng lẫy, đồ sộ, vẫn còn không ít những căn nhà sập xệ, những “ổ chuột” bên kênh rạch dòng nước đen ngòm.
Còn đâu là “hòn ngọc viễn đông” của thời xưa cũ! Còn đâu dáng dấp những tà áo phất phơ bay dưới những hàng sao, hàng me tàng cao râm mát khi gió về từng đám lá rụng rơi lả tả. Sàigòn bao đời thật sự không có mùa thu lá  vàng (vì ở vùng nhiệt đới), nhưng vẫn lá rơi ngập đường, vươn vải, lất phất - một hình ảnh đẹp như thơ. Sàigòn thoáng, mát, không nồng nặc, oi bức như bây giờ. Qua các đường phố, đường nào cũng vậy, có nhiều đường trở thành đại lộ khang trang và đẹp - như một đoạn của Nguyễn thị Minh Khai (cái tên của chế độ tô vẽ tự hào) thay thế Hồng Thập Tự - vẫn còn rất nhiều đường nhỏ và quá là chật. Và đâu đâu đều tấp nập xe đủ loại, nhiều nhất gắn máy hai bánh. Không thấy bóng dáng chiếc xích lô - một hình ảnh đặc trưng, thanh lịch giờ đã không còn – Sàigòn lái xe, mạnh ai nấy chạy, nấy lao, lách, rất đúng nghĩa là “loạn xà ngầu”, thấy mà thót tim, chóng mặt. Vậy mà cũng ít gây tai nạn. Hai xe chạy vun vút, cảm tưởng như có thể đâm vào nhau, khi tới gần thì rất nhanh cả hai đều “lách”, lách sang hướng nào lách được là cứ lách, cứ đi.
Xe cộ hầu như chạy không theo luật lệ thông thường mà theo lối phản ứng tự nhiên, theo phản xạ. Phải chăng nhờ vậy mà tránh được tai nạn? Người ta nói, lỡ khi có tai nạn thì cự, cãi, mạnh được yếu thua?
Lâu lâu mới thấy vài chú cảnh sát giao thông. Lượng xe chạy đông và “loạn” như vầy, nếu ở Mỹ, chắc phải hằng trăm CSGT cho mỗi khoảng đường. Sàigòn, còn thiếu kém, thì làm sao có đủ? Người ta (cũng nói) CSGT đứng là đứng cho có vẻ, phạt thì cũng phạt, nhưng phạt để “làm tiền”?
Sàigòn bụi? Bụi thì khỏi phải nói. Các công trình gọi là thi công làm đường đầy dẫy khắp nơi và không bao giờ dứt. Đa số dân đi xe đều bịt khẩu trang đủ thứ, đủ kiểu. Người giàu thì khẩu trang đẹp, người khá, khẩu trang bình thường. Người không khá thì khăn trùm cả mặt, cột túm phía sau, chỉ chừa hai con mắt đeo kính râm giống như điệp viên.
Hòa chung với bụi là khói, khói từ hàng ngàn ống “pô” tự do mà phun, mà xả. Xin đừng cho là nói xấu, xuyên tạc, có ác ý. Những hình ảnh trên internet nói về Sàigòn đã được thấy nhiều. Bây giờ có dịp về, chứng kiến thấy đúng là như vậy.
Thật ra, vài tiếng đồng hồ dạo quanh SG của ngày đầu trở về, tôi chưa dám nói và chưa có cảm nhận đúng về khói và bụi. Nhưng qua tuần thứ hai, có hai ngày dạo chơi SG, tôi cùng mấy đứa cháu, cũng như anh bạn chở đi nhiều nơi, càng thấy rõ, và chứng kiến khá đủ về SG. Một thành phố bây giờ đã đổi khác. Cũng đúng thôi, vì Sài gòn bây giờ là thành phố Hồ chí Minh, phải được “thay đổi” theo đúng cung cách danh xưng của nó.
Muốn tránh, muốn thoát (ngột ngạt), họa chăng nên vào một quán cà phê đâu đó. Cà phê giải khát và ăn uống khắp nơi. Vào quán cà phê thì… mát hơn và đở bụi.
Vườn sinh thái miền Tây, và cà phê võng.
Đồng bằng sông Cữu Long, ngoài ruộng lúa phì nhiêu còn có những vùng với vườn cây ăn trái. Dọc theo bờ sông Tiền và sông Hậu đa số là vườn. Hầu hết các loại cây ăn trái và hoa kiểng là ở vùng này. Tỉnh nào cũng có, quận huyện nào cũng có nhiều loại cây trái nổi tiếng, đặc trưng khắp bốn mùa, mùa nào loại đó. Bây giờ, bà con mình lợi dụng “du lịch” để phát triển đời sống có khá hơn.
Đi đâu cũng là vườn. Vườn với 5, 10,15, 20 mẩu. Cũng có vườn với một vài công, và cũng thấy vườn với một khoảnh đất nhỏ cạnh bên nhà. Người ta trồng nhãn, xoài, quít, cam, bưởi, sầu riêng, mận, thanh long, chôm chôm, măng cụt… Trồng cây truyền thống và cả cây nhập từ ngoài.
Một mãnh đất nhỏ, đầu thừa đuôi thẹo, trước chẳng để làm gì, thì bây giờ là đầy hoa kiểng. Có thể đúng với câu “tấc đất tấc vàng”.
-Kế hoạch do nhờ chế độ mà nên chăng? Một đất nước giàu đẹp nhờ ơn… Tôi đặt câu hỏi và bỏ lỡ một phần với hai anh bạn khá thân, sau 50 năm gặp lại trong một bàn tiệc dưới một gốc xoài trái oằn sai.
-Anh bạn thứ nhất: Cũng có thể là đúng. Nhờ chế độ (khốn khổ) nên gia đình tao gom góp có được bao nhiêu đất để ráng làm ruộng làm vườn, và bây giờ có ăn, có xài, có cả dư lo cho con đi học. Cũng giống như nhờ cải tạo lâu năm, mà mầy mới được đi Mỹ, khá ra.
-Thằng bạn thứ hai (bỏ dở thi tú tài, theo cách mạng vào bưng, là cán bộ có chút lương tâm, về hưu vui thú cùng hoa kiểng): Không phải là nhờ, mà rút kinh nghiệm từ bao nỗi cùng cực, người ta đã cố vươn lên.
Hai câu trả lời, chẳng đâu vào đâu, càng thêm khó hiểu. Thôi bỏ qua những chuyện “tào lao”, mình uống cho vui, mừng ngày gặp lại.
Năm mươi năm xa cách, mỗi đứa một con đường. Hồi đó là rất thân, bây giờ còn sống, còn gặp lại, mừng uống  với nhau hớp rượu dưới tàng cây quê nhà, qủa là điều diễm phúc. Hơn hai giờ nơi vườn cây khá là mát, một cuộc hội ngộ tuyệt vời.
Vườn cây sinh thái! Khung cảnh đại để như vậy được gọi là khu vườn sinh thái. Nhà nhà có được  một miếng vườn thoáng mát, có cây ăn trái sum xuê, là tạo nên một miếng “vườn sinh thái” để mời gọi khách đến viếng, đến chơi. Mà thường là khách từ xa – dân du lịch.
Trong cái nóng của mùa khô, trong cái mịt mùng bụi, khói và quá ồn ào nơi đô thị, nhiều người, nếu có thời gian rãnh, muốn đi chơi, muốn giải trí, muốn thoải mái thanh thản là rủ nhau đi về vùng sinh thái - đầy dẫy khắp miền Tây. Nơi đây, muốn nhậu, muốn thưởng thức thức ăn vườn hoặc chợ đều có. Rượu mạnh, rượu yếu, nước mắt quê hương hay nước cất xứ ngoài cũng không thiếu. Vườn sinh thái, tùy nơi, có thể cung cấp và phục vụ mọi thứ ăn chơi.
Vườn sinh thái được cọng thêm “cà phe võng”. Chiếc võng đong đưa, chiếc võng ngồi đâu đít đưa con, đưa em, đưa cháu của thời thuở xa xưa đã đi vào tình tự bao đời, vào câu hò, câu thơ, vào lời ca tiếng nhạc.
Nếu đã như vây, vẫn là văn hóa tốt. Bây giờ chiếc võng được dùng trong quán cà phê, nơi vườn sinh thái. Chiếc võng để nằm ngồi đong đưa qua làn gió mát, để chuyện trò, để thưởng thức cái êm ả của miền quê. Và cũng có thể, chiếc võng để đôi tình nhân nằm kề nhau tâm sự. Vừa nói, vừa ăn, vừa trao nhau yêu thương nồng ấm trong những chòi lá không có vách che, mái lá (hoặc đưng, tranh, lác) buông phủ vừa đủ để che chắn gió tạt, mưa sa, tầm nhìn soi mói.
Vườn sinh thái có hết, vừa phục vụ, cung phụng (theo nhu cầu), và cũng là cách kiếm tiền để nâng cao mực sống. Đồng bằng sông Cữu Long, vùng kênh rạch miền Tây từ lâu nỗi tiếng là khoang hòa, hiếu khách, là mời gọi, thì bây giờ tư thế vẫn hơn. Người ta từ khắp các nơi - cả các nước - vẫn đến vui chơi tấp nập.
Cám ơn những giọt phù sa mầu mỡ, cám ơn từng cơn lũ tràn bờ, đem đến cho miền Tây đất đai trù phú. Và hôm nay, bao vườn sinh thái xinh tươi đang góp phần nuôi sống người dân quê hương tôi.
Những căn nhà nghỉ
Người người đến, cũng cần nơi ở và nghỉ. Những dãy nhà gọi là “khu nhà trọ” được xây dựng khắp nơi. Đây là những “khách sạn” miệt vườn, cũng đầy đủ tiện nghi – tùy theo nơi chổ và cách trưng bày. Bốn mươi, năm mươi, sáu, bẩy mươi ngàn cho một ngày đêm. Thậm chí phòng nghỉ vẫn phục vụ cho khách chỉ cần một vài giờ nghỉ ngơi, thư giản.
Ai là khách trọ? Đủ hạng, đủ thành phần: già trẻ, bé lớn, trai gái. Lữ khách đường xa về miền Tây hôm nay tha hồ đi, tha hồ chơi, tha hồ thưởng thức hương vị ruộng đồng. Khách say, khách sỉn, khách quá chén, khách lỡ đường sẽ không còn sợ bơ vơ lạc lõng. Miển là khách còn trong mình giữ được một ít đồ giá trị hoặc tiền.. Quê hương mìền Tây, những con người hiếu khách sẽ phục vụ quí vị tới bến.
Không có ngôi nhà tranh nho nhỏ, không còn những chòi lá ven đường – có chăng là chòi tranh, chòi lá làm cảnh ở nhà hàng - Một vùng quê hương, đi qua không thể ai cho rằng có người còn nghèo, còn khổ.
Tôi cầm cái máy ảnh (loại bỏ túi) đi tìm chụp mấy cây cầu tre, cầu khỉ, những căn nhà lá ven sông để ghi lại hình ảnh ngày xưa. Đứa cháu (chạy xe ôm đi cùng) nói: -Bây giờ cậu đi tìm mấy thứ đó là khó lắm đấy. Đâu đâu cũng là nhà ngói, nhà gạch, tệ lắm cũng nhà tole. Cầu khỉ, cầu tre làm gì còn nữa. Mọi vật đã đổi thay rồi. Không hẳn là người ta hết nghèo khổ, vả lại còn nhìều, nhưng mấy cái nhà lá, nhà tranh không được phép tồn tại, dù vẫn có người nghèo đến mức ăn hôm nay, ngày mai chưa biết lấy gì ăn. Đau bệnh không có tiền mua thuốc. Có nhiều người như vậy, nhưng họ vẫn ở nơi nhà ngói, nhà tole. Nhà do chế độ ban phát trong từng khu dân sinh.  Nhà do đồng tiền nhận lãnh từ qui hoạch, từ giải tỏa được bồi thường. Từ chính sách và đường lối “đô thị hóa nông thôn”. Từ những sáng kiến “đem đất đổi vàng”, làm giàu ba năm, năm năm, rồi sau đó làm kẻ ở nhà cao cửa rộng mà không có gạo nấu.
Một đất nước tự hào là dân giàu, dân ấm no, hạnh phúc? Một quê làng không còn nhà tranh, nhà lá, nhà lụp xụp, thì ai dám bảo người dân vẫn còn nghèo? Ruộng đồng thẳng tắp lúa vàng, vườn cây sai quả tốt tươi. Bảo sao quê hương không vươn lên phát triển?
Thằng cháu chở tôi đi thăm một gia đình nghèo. Nó bảo: nếu muốn tìm hiểu, muốn biết người nghèo thì tôi giới thiệu với cậu.
Trong một căn nhà gạch, mái tole, nền gạch bóng loáng, một bà cụ ngồi vo gạo, lựa từng hạt đất, hạt sạn…
-Chào cụ, cụ chuẩn bị nấu cơm chiều?
Bà nhướng cặp mắt đổ ghèn, tèm lem, nhỏ xíu: -Mấy cậu là ai?
Thằng cháu vội vàng: -Khỏe không bà Bảy? Cháu là thằng Cam, bạn của anh Thân ghé thăm cụ. Và đây là câu Út từ xa về, có ý định đến thăm cụ.
-Ồ, thằng Cam, lâu quá con mới tới. Chào cậu! Đâu có cơm chiều, sáng giờ không có gạo, con Tư mới tìm đâu được ít lon đem về. Gạo ở đâu mà lộn đất nhiều quá, lựợm không xuể, lại tôi cũng không thấy đường mà lựa.
Khoảng hai lon gạo trong cái nồi gan ướt nhẹp lẫn đất và thóc (lúa), có cả cứt chuột, cứt gián, bà cụ bỏ ra ngoài một số, trong nồi cũng còn nhiều. Bà cụ tiếp:
-Nó nói gạo người ta cho, gạo vét kho, đem về ăn đở.
Xoay quanh câu chuyện, được biết: Bà cụ có bốn người con: hai trai, hai gái. Ông nhà chết sau giải phóng - chết vì bệnh - một đứa gái lớn chết vì chiến tranh. Đứa kế lấy Đại Hàn theo chồng, biệt tích. Hai đứa con trai: một theo Việt cọng, một đi lính VNCH. Hoàn cảnh trớ trêu, tên theo VC là anh lớn, theo VC vì lý tưởng cách mạng do lời khuyên dụ. Gia đình nghèo làm thuê ở mướn, đi CM để giải phóng đất nước, giải phóng con người. Có thành tích, nhiều chiến công, lên làm đến chức xã đội trưởng. Nhưng số phận không may, hy sinh trước ngày giải phóng.
Đứa em kế có học, hoảng sợ trước cái chết của người anh. Anh không đi CM để giải phóng, để báo thù mà lại đi sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ra trường hai năm, vừa lên thiếu úy thì cũng lại hy sinh, để lại một vợ, một con.
Sau giải phóng, bà được giúp đở chu cấp theo chính sách gia đình liệt sĩ, nhưng rồi lại bị thu hồi, tước mất mọi quyền lợi vì có đứa con là sĩ quan ngụy. Đặc ân cho bà còn được giữ lại ngôi nhà “tình nghĩa”. Đứa con dâu, lòng dạ sắc son chung thủy, ở vậy thờ chồng, nuôi mẹ chồng và con. Hoàn cảnh đơn chiếc khó khăn, từ hơn mười năm nay, cuộc sống chạy ăn từng bữa.
Một chuyện thương tâm, cảm động. Một hoàn cảnh quá éo le, và cũng là đặc biệt. Tôi cảm thấy thương bà, thương cho hoàn cảnh. Tôi cho bà 500 ngàn đồng. Bà thật bất ngờ, không tin là sự thật. Bà rơi lệ, cám ơn mà nói chẳng thành lời. Bà chắp tay xá lạy, lạy phật trời giúp gặp người nhân ái.
Quê hương làng mạc không có ngôi nhà lá, không có túp lều tranh, không có hình ảnh thôn xóm nghèo nàn. Lộ làng đều trải đá, tráng nhựa bằng phẵng. Sông sâu, kênh rạch tấp nập ghe tàu. Nhà nhà đều khang trang với điện đường giăng mắc. Vậy mà không thiếu những gia đình không có gạo ăn, phải ăn gạo mót, gạo đất cát, gạo cứt chuột. Quê hương tôi, vùng đồng bằng song Cữu, lúa làm ra đem bán khắp năm châu. Vậy mà bà mẹ “liệt sĩ” nuôi con đi lính cụ Hồ, hy sinh vì cách mạng giải phóng quê hương, ngày ngày chờ từng hạt gạo đổ, chờ từng cuộc lạc quyên bố thí để được sống qua ngày.
Ai có thể nhìn thấy được thảm cảnh? Nếu không chịu khó đi sâu vào đời sống người dân nơi từng ngỏ ngách?
Thăm “đảo Đài Loan, Hàn Quốc”.
Hai làng Tân Lộc (Tân Lộc đông và Tân Lộc tây) là một dãy cù lao nằm trên sông Hậu, giữa hai huyện Thốt Nốt (Hậu giang) và Lai Vung (Đồng Tháp), từ lâu nổi tiếng là “đất lành chim đậu”, vì là vùng trù phú nước bạc phù sa. Người ta đến đây khai khẩn lập nghiệp tự bao đời (hàng trăm năm) khá là phát triển. Nguồn lợi chủ yếu là làm rẫy, làm ruộng, làm vườn và giăng bắt tôm cá.
Thời chiến tranh chống Pháp, nơi đây cũng là nơi đùm bọc che chở những người con yêu nước. Cho đến những năm tháng về sau (thập niêm 1940-50) quôc cộng chiến tranh, vẫn thường là nơi cho người dân từ Lai Vung hoặc Thốt Nốt, Ô Môn qua đấy mà tạm thời lánh nạn tản cư.
Thuở nhỏ (1950), cũng đã đôi ba lần, tôi cùng gia đình đến cù lao Tân Lộc để tản cư – vài tuần lễ, một tháng thì về. Thuở là học sinh, tôi vẫn thích qua cù lao Tân Lộc. Thật thú vị vô cùng được qua đấy vui chơi, ăn trái cây (mận là chủ yếu), và xem lễ cúng đình (Tân Đông), đông và vui thì phải nói. Thời gian lớn lên, tôi ít có dịp về Tân Lộc. Và nhất là từ khi định cư xứ người, tôi chưa một lần về.
Bây giờ, cù lao Tân Lộc là một địa danh nổi tiếng - tiếng vang ra cả nước ngoài - người ta đặt cho là: hòn “đảo Đài Loan” của Việt Nam.
Nghe qua cũng thấy hãnh diện, mà suy nghĩ lại thấy đau lòng. Còn nếu đến thăm thì sao? Về quê hương lần này, tôi quyết đến thăm để tìm hiểu.
Bây giờ thì một số người (và gia đình) tôi có quen biết trước đây đã không còn, nếu có còn thì cũng tứ tán thất lạc. Tuy nhiên, có được cái may mắn là tôi tình cờ quen được một anh (bà con ruột với chị sui của người chị). Anh là con cháu sau này của làng Tân Lộc đông, làm ăn nên nổi, quen biết nhiều nên anh khá rành mọi sự. Chủ yếu của tôi là tìm thăm, và cũng để tìm hiểu một số gia đình có con gã chồng Đài Loan, Hàn Quốc.
Tôi được anh giới thiệu, có hai gia đình được đến thăm và tiếp xúc.
Gia đình thứ nhất: nhà khang trang, đẹp, rộng. Quanh vườn, cây ăn trái sum xuê nhiều thứ. Gia chủ khoảng trên dưới bảy mươi, tiếp khách lịch thiệp và niềm nỡ.
Chỉ là những cốc nước trà đạm bạc, nhưng câu chuyện khá thân tình. Người miền Tây thì tôi đã rõ, không cầu kỳ, không khách sáo, và nhất là thật lòng, thật dạ một khi được giới thiệu quen thân.
Anh cho biết, trước năm 1975 gia đình anh khá lắm. Vườn ruộng không nhiều nhưng nhờ buôn bán kinh doanh, năm đứa con (3 trai 2 gái) ăn học không phải lo lắng gì.
Thế nhưng, từ sau 1975 thì suy sụp. Qua một lần đổi tiền, một lần đánh tư sản, và qua thêm một lần vào hợp tác xã đưa tư liệu (máy móc) hợp tác làm ăn trong tập đoàn, gia đình anh trở nên trắng tay. Con cái lang bạt khắp nơi đi làm thuê ở mướn.
Sau, lại sanh thêm hai đứa gái. “Nhất con nhì của”, tại cái số nó vậy mình cũng chẳng đặng đừng. Nếu quan niệm cho rằng “trời sanh voi sanh cỏ”, nói là để an ủi, chứ thật tình nhiều khi hết cách. Voi cứ sanh mà cỏ ngày càng kiệt quệ.
Ngày hay tin đứa con gái áp út đi làm mướn ở Sàigòn sắp lấy chồng Đài Loan, tôi như người sa xuống vực. Đất trời sụp đổ, quay cuồng. Tôi không giận, mà đau – đau đớn vô cùng – Làm cha mẹ sinh ra con, để bây giờ con phải liều thân đi gánh vác. (Gả chồng Đài Loan chẳng khác nào đưa con đi cống sứ?) Nó nói nhận lấy chồng Đài Loan là để mong chút hy vọng có tiền lo trả nợ, lo cho gia đình. Dù muốn dù không, trước một sự việc như đã rồi. Tôi thì đang ốm đau, bất lực. Tôi muốn chết, nhưng làm sao mà chết, và chết có ý nghĩa gì? Vợ tôi, mấy đứa con, bà con khuyên giãi. Thôi thì đành.
Vận rủi lại là vận may, đứa con gặp phải một thằng chồng và gia đình không ác đức. Gia đình chồng nó (mẹ chồng chết) chỉ có 2 đứa con trai. Thằng này lớn tuổi, chết vợ, một đám con thiếu người chăm sóc, muốn thay đổi cuộc đời, tìm con gái Việt Nam để cưới. Về gia đình chồng cũng không khác gì đi ở đợ (ở đợ, luôn cả bán thân) đêm ngày cơ cực, nhưng được cái là chồng cho tiền gởi về giúp gia đình. Những đồng tiền của con: những giọt mồ hôi, nước mắt, những tiếng nấc tủi hờn, biết đâu có cả máu? Nó gởi về cho gia đình tôi giúp cơn túng quẩn nghèo ngặt.
Năm năm, mười năm, và bây giờ vợ chồng tôi như có hơi tiếp sức để gầy dựng lại cơ ngơi. Thoát đói, thoát chết và trở nên khấm khá…
Bao nhiêu đây cũng đủ cho tôi thấu hiểu được một hoàn cảnh. Tôi cám ơn nhiều và từ giả ông anh - một con người cần cảm thông, trân quí.
Gia đình thứ hai: Gặp mặt cả hai anh chị chủ nhà, còn trẻ, khoảng trên dưới sáu mươi. Anh chồng ra dáng khỏe mạnh - mạnh người, mạnh rượu.
Hai anh chị cũng mừng vui tiếp đãi. Không đãi trà mà rượu - rượu mạnh nước ngoài:
-Anh, Việt kiều về, uống rượu mạnh đúng hơn, phải hôn? Đừng từ chối, chẳng mấy khi mới gặp VK, mà nhất là VK Mỹ. Anh đon đả, anh tâng bốc, nhưng anh cũng thật lòng.
-Cám ơn anh chị nhiều, được anh chị đón tiếp đã là mừng lắm rồi. Nếu anh muốn rượu cũng được, nhưng về quê hương, rượu đế hoặc rượu thuốc (có lẻ) thích hơn. Nhưng xin phép, tôi chỉ uống cho có tình với gia đình anh chị, chứ thật lòng tôi uống không được nhiều.
-Vậy thì cũng được. Thôi thì mình dùng rượu thuốc, có sẵn trong nhà.
Hũ rượu thuốc được bà nhà bưng ra - rượu tắc ke ngâm thuốc bắc…
Nhất quá tam, sau ba cốc (uống ngọt sớt), rượu vào lời ra, anh chủ nhà tâm sự:
-Thú thật với anh, như anh Thanh (anh đi theo tôi) cũng biết, con gái tôi gả cho Đại Hàn là chính do tôi kiếm người môi giới. Gia đình sau bao năm làm ăn thất bại: anh nghĩ coi, ruộng thì không có đất, vườn thì chỉ vài công, trồng thứ gì cũng thất, cũng lỗ, buôn bán cũng không được, gia đình chỉ còn cách là phân tán đi làm mướn. Tôi thấy người ta, nhất là ở đây, cái xứ cù lao này, lấy chồng Đài Loan có tiền, cha mẹ ở nhà khá giả. Tôi có đứa con gái cũng mặn mà, lại học giỏi. Vừa tốt nghiệp lớp 12 là tôi lo kiếm chổ để gả nước ngoài. Thử thời vận phải đánh liều. Mà đem con đánh liều, liều thân là cả một sự đau lòng. Có mối rồi (nhờ người quen lo giúp) tôi trăn trở, tôi nghĩ suy. Ba đêm liền tôi không ngủ được. Ai đi lại bắt con mình phải hy sinh. Mình là một thằng súc sanh vô đạo? Mối là một người Hàn quốc. Hàn quốc ác cũng ác, độc cũng độc không thua gì đám Đài Loan. Con mình lỡ số không may thì chắc tôi chỉ có chết.
Đêm thứ tư cũng không ngủ được. Tôi tiều tụy héo gầy, cặp mắt hốc hác chỏm lơ. Bà xã và đứa con gái tưởng tôi bệnh, lo lắng hỏi han.
-Ba không sao, vì lo lắng mà bị khó ngủ.
Con tôi là một đứa chí hiếu - hiếu để với cha mẹ và rất mực thương em. Ngoài việc học là lo đi làm thêm (mọi thứ công việc ai thuê mướn) để mà phụ giúp gia đình, lo cho các em.
Ăn cơm vừa xong, tôi chỉ ăn được một chén. Ngồi uống tách trà do đứa con mang tới, tôi nắm lấy tay con:
-Con ngồi xuống đây, ba muốn nói với con. Đứa con gái hơi tỏ vẻ ngạc nhiên, vâng lời ngồi xuống ghế. Tôi quỳ xuống, chắp tay hướng về con.
Tôi chưa xá, thì đứa con đâm hoảng, quỳ xuống mà đở lấy hai tay tôi. Mẹ nó cũng hoảng hốt không kém, chạy tới ôm tôi, đở dậy:
-Trời ơi! Ông làm gì vậy hở ông? Mặt bà tái nhợt, run rẩy.
-Ba muốn lạy con trước khi ba yêu cầu con một việc.
-Trời ơi! Việc gì? Ba làm con lo sợ quá. Cả mẹ và con đều tỏ ra run sợ. Ba đứa nhỏ đằng kia cũng đang lơ láo chẳng biết chuyện gì.
-Việc là… ba muốn con đi lấy chồng. (Lại càng chẳng ai hiểu gì cả, cả mẹ lẫn con.)
-Ba muốn con đi lấy chồng nước ngoài… người Hàn quốc…
Gia đình như đang cơn địa chấn. Đất trời sụp đổ, căn nhà chao đảo. Không một ai nói được thành lời. Tôi gục đầu đau đớn, thổn thức… Từng tiếng nấc, nghèn nghẹn trong lòng.
-Trời ơi! Bộ ông muốn giết con mình? Tại sao ông có ý nghĩ như thế? Bà xã vừa nói, vừa khóc – ôm mặt khóc.
Đứa con gái im lặng. Bầu không khí tiếp tục vẫn là lặng yên, mỗi người một vị thế: buồn bã, khổ đau…
Đứa con gái, sau khi dọn dẹp xong, hai đứa em đi coi TV ở bên xóm, một đứa học bài. Con gái đến bên tôi, cầm tay tôi mà nhỏ nhẹ:
-Ba nói phải đó ba. Con đồng ý, nếu có chổ con sẽ xin đi lấy chồng người nước ngoài - lấy ai cũng được.
Bà nhà tôi thì cũng im lặng …miển cưỡng. Tôi cảm thấy thương con đứt ruột. Một nỗi hối hận, xót xa.
-Người ta nói đời người có mạng số (ông tiếp). Số mạng gia đình tôi, số mạng con tôi… tôi là kẻ sắp bày – con người bất lực, con người đánh liều, và con người cũng phải nhận lãnh mọi trả giá.
Con tôi lấy chồng rồi, tôi như kẻ hóa điên. Và từ đó, tôi bắt đầu uống rượu - uống ngày, uống đêm, uống say, uống sỉn. Và tôi trở nên là kẻ bất trí, bất trị, bất kham. Chẳng ai thích, chẳng ai thương, và chẳng ai chịu nỗi. Ngoại trừ vợ và các con tôi. Nhìều lúc tôi cũng thấy tôi là thằng khốn nạn.
Con tôi có tiền gởi về. Tôi cũng không tìm biết là con sướng hay khổ, hạnh phúc hay bị đọa đày, miển là con còn được sống. Đến nay, vừa đúng 5 năm, con tôi vẫn còn sống, có chồng có con và có 2 lần về thăm vợ chồng tôi. Con nói: ba má yên tâm, lo giữ gìn sức khỏe, lo nuôi dạy các em. Hy vọng gia đình mình sẽ hết cơ khổ…
Câu chuyện kể, cảm động, độc đáo và thú vị. Một người đàn ông còn khỏe mạnh, uống rượu không thấy say, cũng không tỏ vẻ gì là con người mất lý trí. Anh rất bình thường, khôn khéo, lịch thiệp. Tôi cũng uống theo anh - những giọt rượu nồng cay, lâng lâng nóng bừng chạy khắp cùng cơ thể. Cùng hòa chung chảy tràn trong cuộc sống, như uống từng giọt lệ cuộc đời.
Tôi hỏi: -Trước khi anh có ý định cho con đi lấy chồng nước ngoài, anh có tin tức, có biết gì về một số sự việc không may – mà được gọi là thảm cảnh - người con gái VN lấy chồng Đài Loan không?
-Có, tôi có biết, có nghe. Có nghe về chuyện cha Hùng (Công giáo) ở Đài Loan cứu giúp một số người con gái bất hạnh bị bạc đãi, bị đánh đập, hành hạ, và cả bị chết. Tôi có biết và nhiều bà con xã Tân Lộc này có biết – qua các đài nước ngoài. Tuy nhiên, có khổ mà cũng có sướng, có bất hạnh mà cũng có khá nhiều người sinh sống được, có tiền gởi về. May vẫn là nhiều hơn rũi. Bằng chứng hiện nay anh thấy đó, đa số nhà cửa khá giả, cuộc sống đở cơ cực, đở nghèo, là hầu hết các gia đình có con lấy chồng Đài Loan. Hàn quốc.
Một liều, ba bẩy cũng liều. Liều thân để may ra được thoát, được sống, còn hơn cứ phải đói, phải nghèo, rồi cũng chết. Biết chết mà cũng liều, và bây giờ trở nên khấm khá.
Uống cạn thêm một ly rượu nữa – ly rượu thuốc thứ mấy rồi tôi cũng không nhớ - bình rượu thuốc gần 2 lít cũng sắp cạn. Tôi cũng cảm thấy thấm và say. Say tình, say nghĩa, say sưa nghe câu chuyện kể, và cảm phục cho thứ lý luận không thể cho là sai: “Liều, liều mà may ra còn đở khổ, cuộc đời có khá hơn, còn cứ sợ, sợ chết, sợ khổ, mà cuộc đời vẫn không hề hết khổ”.
Cù lao Tân Lộc, được biết có khoảng trên 2.500 cô gái đi lấy chồng Đài Loan, Hàn quốc. Một vùng đất chỉ có hai làng mà số con gái đi lấy chồng ngoại là như thế. Nổi tiếng là phải.
Tôi không có thời giờ đi thăm nhiều hơn nữa, chỉ có thể đi qua và quan sát một số nhà hai bên đường, len lỏi theo từng con hẻm lớn nhỏ ngoằn ngoèo luồn lách. Nhà cửa có chổ chen chúc, có chổ thưa, rộng, nhưng hầu hết ít có ai nghèo. Cũng tiếc là không được đến gia đinh có con lấy chồng nước ngoài mà chẳng gặp may. Không biết có không?
Thật sự không phải ai cũng đều là may mắn. Những hoàn cảnh thương tâm vẫn có. Bao nhiêu nước mắt cũng đã tuông đổ vì cảnh mất con, vùi tăm, biệt tích. Dù vậy, vẫn cứ ước, cứ mơ. Vẫn cứ đi.
Người ta (theo thống kê) cho biết tỷ lệ bất hạnh là 15%. Những hoàn cảnh con gặp phải cảnh đọa đày, khổ ải đưa đến thương tâm chết chóc khoảng 3%. Dù tỷ lệ là bao nhiêu, nhưng mà là cả một nỗi đau thương, thảm cảnh cho quê hương đất nước mình. Từ xưa nay không bao giờ có. Cả thế giới cũng không.
Nơi hãi ngoại, người ta cũng đã biết nhiều: Việt Nam là thảm cảnh - cảnh lấy chồng ngoại, cảnh xuất khẩu lao động. Chỉ vì đồng tiền, chỉ vì cuộc sống, mà bao con người VN bị hành hạ bạc đãi. Thân đi lao động, đi làm dâu, đâu là vinh sang? Đâu là hãnh diện? Những con người bị đối xữ chẳng khác con vật. Thảm cảnh này, ai gây? Ai tạo? Không phải người cha nát rượu. Không phải những đứa con ham muốn, đua đòi?
Giã từ làng Tân Lộc, giã từ những gia đình có con gả nước ngoài, chia tay những kẻ làm cha mẹ yên hưởng nhờ con, tôi với tâm trạng bềnh bồng như lạc vào cõi mộng. Một vùng quê hương như không là thực - ốc đảo Đài Loan?
Vùng quê hương sau trên năm mươi năm, giờ trở dậy -  một “Phù Đổng” vươn vai? Không có mái lá nghèo nàn, mái tranh lụp xụp. Không còn cảnh trên bờ, dưới lạch, từng bếp lửa nấu ăn, từng nhóm người tản cư lánh nạn của thời giặc giã chiến tranh xưa cũ.
Tân Lộc bây giờ, được mệnh danh là đảo ngọc, cù lao đô la, là niềm kiêu hãnh, là tự hào. Nhờ được “giải phóng” mà nên? Cũng đúng?

5/10. Nguyên Dân
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Truyện ngắn
Reply #119 - 07. Jun 2010 , 23:58
 




Cái Duyên Bắc Nam


Tác Giả : Nguyễn Hữu Huấn   

Thứ Sáu, 04 Tháng 6 Năm 2010 07:47




Khi ngồi viết những giòng chữ này thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên giường. Nhìn đôi chân dài thườn thượt của bà thò ra khỏi chăn, tự nhiên cháu bật cười.
Thì ra vợ cháu cũng thuộc loại…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét chứ chẳng phải chơi. Năm ngoái gặp lại đám bạn cũ cùng binh chủng, trong lúc chụp ảnh chung bỗng có thằng la lớn : “Chúng mày ơi ! đứng bên cạnh bà này chắc ông phải kiễng chân lên mời xứng!“, làm vợ cháu ngượng chín người.

Nghe nói bên Việt Nam bây giờ người ta tung hô tán tụng “những cô gái chân dài“ dữ lắm, làm phim, lên ảnh, quảng cáo rùm beng, làm các cô cứ tưởng mình là cái rốn của vũ trụ không bằng.
Có điều lạ là hầu như các mợ toàn là gốc miền Bắc, nói năng giọng Bắc, nhìn đời với con mắt người Bắc và cư xử thì cứ “tự nhiên như người Hà Nội“.(Bật mí cho các cụ nhé: bây giờ thì đa số các mợ Hà Nội chính gốc đã thi nhau làm “con chim đa đa“ bay qua xứ khác lấy chồng xa hay đi kiếm cơm hết ráo, còn lại toàn là gốc Hà-Nam-Ninh hay Thanh-Nghệ-Tĩnh lên Hà Nội lập nghiệp).
Hay là ông Trời sinh ra người càng ở vùng phương Bắc thì da càng trắng, mũi càng cao và chân càng dài, cứ nhìn mấy ông Tây bà Đầm là biết ngay.
Thế nhưng ”bà già chân dài” vợ cháu lại là dân Nam kỳ tuốt luôn tận phương Nam, là thứ Nam kỳ chính hiệu con nai vàng, quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn. Hoá ra “mũi cao, chân dài“ đâu phải độc quyền của các mợ Bắc Kỳ 75, các mợ nhờ “tàn dư đế quốc“ nên chỉ mới xuất hiện sau này thôi, chứ ngay trong „thời kỳ chiến tranh“ cách đây mấy mươi năm thì “mũi cao, chân dài“ như Nam kỳ vợ cháu đã nhởn nhơ đầy đường. Đúng là một cọng giá “thời kỳ chiến tranh“ vẫn hơn một gánh rau muống “thời kỳ hoà bình đổi mới “!
Bố mẹ cháu sinh cháu ra tại miền Bắc, học hành và lớn lên cùng với gia đình trong miền Nam, để rồi trưởng thành tận ngoài miền Trung. Từ những tính chất của ba miền đã hợp lại tạo nên cháu thành một thứ “hẩu lốn“: “như canh chua nấu với...rau muống, giá sống ăn với...bún riêu, nhậu bia với ché mà lại chấm với ...xì dầu". Thế nhưng cái bản chất Bắc kỳ vẫn là cái cốt lõi trong con người cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc kỳ rau muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền thống, Bắc kỳ muôn thuở...Nhưng ông Trời oái oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe duyên cháu làm thằng tù khổ sai chung thân cho một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật ! Duyên hay nợ đây Trời!
Hồi còn bé, thú thật cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn ghét, còn hận nữa là khác. Chuyện cũng dễ hiểu thôi : lần đầu cắp sách đến trường tiểu học Bàn Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ có cháu với một thằng nhô nữa là Bắc kỳ. Thằng này có hàm răng đưa hơi xa ra phía trước, mà văn chương Bắc kỳ gọi là “vẩu“, còn Nam kỳ gọi đơn giản và rất tượng hình là cái “bàn nạo dừa“. Bố nó (không vẩu tí nào) rất thân với bố cháu (cũng chẳng có bàn nạo dừa) vì cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu “há mồm“ vào Nam năm 54.
Hai thằng Bắc kỳ con nhất định ngồi cạnh nhau tạo thế liên hoàn “dựa nhau mà sống“ trong cái lớp học 27 trự Nam kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu chọc, ăn hiếp hai đứa chúng cháu. Mỗi lần ra chơi hai thằng Bắc kỳ con luôn tìm chỗ ít người mà đứng để khỏi nghe bọn Nam kỳ đọc thơ chọc quê chửi bới. Thằng Vọng, đứa đầu xỏ và to con nhất đám (bây giờ đang ở Canada) leo lên cây vú sữa giữa sân, đọc thơ rang rảng:
„ Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm lựu đạn...chết cha Bắc kỳ “
Một thằng khác sẵn giọng phụ họa:
„ Có cái thằng nhỏ nó „đao“ làm sao
Lỗ đ. nó dính cái cọng „rao“,
Người ta ai mà kỳ như „dzậy“ ?
Thế là cả bọn đồng loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi rống lên: ”Thôi rồi ! Bắc kỳ, Bắc kỳ !”
Cháu tủi thân lắm ! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô biên, buồn phát nghiền !
Về nhà hỏi mẹ tại sao gia đình mình lại vào đây làm quái gì để chúng nó trêu con suốt ngày. Mẹ cháu rướm nước mắt, xoa đầu cháu giải thích đơn giản:
- Tại vì người ta đánh nhau quá nên gia đình mình phải “ri cư “ vào đây con ạ ! Thôi chịu khó đi con, mẹ biết làm sao bây giờ !
Nào đâu đã hết, chúng nó còn hè nhau tụ tập trước cửa nhà cháu. Mẹ cháu cầm chổi lông gà ra đuổi. Chẳng đứa nào sợ, trái lại còn tru tréo to hơn. Chợt thấy hàm răng của mẹ cháu nhuộm đen ngòm và bóng loáng, thế là chúng nó cứ thế mà gào:
"Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm cục c. , hàm răng đen thùi ”
Trong gia đình, chỉ có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ con nào dám giỡn mặt. Có lẽ nhờ khuôn mặt có oai hay nhờ đôi mắt nghiêm khắc của ông, mà chúng sợ một vành không dám trêu chọc một lời ?
Ngày tháng qua mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ ”ri cư”, trong đó có gia đình cháu, vẫn sống phây phây trên mảnh đất Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú này. Những cảnh chọc quê dần dần biến mất, bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa Sài Gòn chính tông, đứa Sa Đéc, đứa Vĩnh Long, đứa Mỹ Tho, Cần Giuộc...Nhưng đứa nào cũng chửi cháu là ”thằng Bắc kỳ lắm mồm”. Không ”lắm mồm” chứ để chúng mày ăn hiếp ông hả ?
Nghĩ cho cùng, không ”lắm mồm” thì đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ ”lắm mồm” được việc, ”lắm mồm” nghe vẫn bùi tai, ”lắm mồm” dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng thì mong, ”tay chơi” nhưng vẫn ”chân tu”, gái Nam kỳ cứ thế mà...”lắc lư con tàu đi”. Càng lớn lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái Sài Gòn, nơi dễ có nhiều bạn, mà bạn lại không tồi. Nơi đó có dừa xiêm dzú sữa, có chè đậu xanh bột báng nước dừa, có bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có nước mắm đường ngọt lịm, có cá bống trứng kho tiêu, có trái cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm muối ớt, có quán cơm bà Cả Đọi, có cả những con đường hẻm ngoằng nghoèo dẫn đến nhà ...chị Tình.
Miền Nam và Sài Gòn thật trong veo khoáng đạt, không tự tôn như cái Bắc kỳ đã có sẵn từ bẩm sinh trong bụng cháu, không rườm rà ”màu mè ba lá hẹ”, chân thành thật thà, thẳng ruột ngựa, không làm vẫn có ăn, chơi xả láng sáng về sớm, để rồi vẫn cứ yêu người, yêu đời.
Có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế nên đám Bắc kỳ ”ri cư” chúng cháu mới vào Nam chỉ có cái quần xà loỏng trên ”tàu há mồm” đã lợi dụng thời cơ hè nhau tung ra dành dân chiếm đất khắp cõi Nam bộ, mà lại ăn nên làm ra trên mọi lãnh vực, trong đủ tầng lớp xã hội, nhất là vùng Sài Gòn Gia Định và các vùng phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon lành thuận lợi là mấy mợ Bắc kỳ rau muống sang tay hàng loạt, ngoại trừ phía bên trong chợ Bến Thành và vùng Chợ Lớn, vì chẳng thèm ”kèn cựa” với các chú Ba. Đã bảo rồi mà...: ” Bà đã nàm thì nàm thật chứ không thèm nàm nấy ne, nàm nấy nệ !”
Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy ”dzô tuyến chuyền hình” hay cái ”ra dzô” ra thì thấy liền, các ”xướng ngôn dziêng” hầu như ”chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng ”E Việt Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe ”em người Hà Lội” hết ráo ! Chẳng biết tại ”dziêng dzáng” hay ”phe đảng” ?
Bố cháu trái lại, cái chất Bắc kỳ đã ăn vào máu, thấm vào cốt lõi xương tủy của ông từ bao đời, nhất quyết bắt anh em cháu phải thi vào trường Chu Văn An (CVA), con em gái phải thi bằng được vào trường Trưng Vương, toàn là những trường nổi tiếng từ miền Bắc, kéo theo các thày cô ”ri cư” vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học sinh trường Bưởi, phần vì ông cũng có chút thiên kiến và ít tin tưởng vào các trường miền Nam như Petrus Ký hay Gia Long. ”Mình dân Bắc thì phải học trường của người Bắc, chúng mày đừng có bàn với bạc lôi thôi !”, bố cháu phán cứ như đinh đóng cột.
Mà lạ thật ! Vào học Chu Văn An mới thấy toàn đám học sinh Bắc kỳ, le que vài trự Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa đủ mười đầu ngón tay đã hết đứa Trung kỳ. Cho đến các thày đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ thày hiệu trưởng Dương Minh Kính đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Còn bên Petrus Ký thì ngược lại, hầu hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn cứ đi tìm nồi nấy, hay hoặc giả có chính sách của chính quyền thời đó hay không ? Chẳng thành vấn đề, chỉ biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm đổi tên Chu Văn An thành ...Chết Vì Ăn ! Cháu tức máu trả đũa, rằng chúng mày ghen ông vì chúng mày chiêm ngưỡng các em Bắc kỳ Trưng Vương mà thèm nhỏ dãi, nhưng sờ vào thì chúng mày sẽ thành con dế mèn để các em Bắc kỳ thọc cọng nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức quá, mấy trự Petrus Ký chỉ biết ”ngậm ngùi” đồng ca bản ”Khúc nhạc đồng quê” rằng thì là:
”Quê hương tui Bắc kỳ nhào dzô quá trời
Bên bờ sông bên bờ ao...trồng rau muống !”
Hay cũng là: ”Quê hương tui cái mùng mà kêu cái màn !....”
Thôi thì cũng đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ chỉ cần nghe một mợ Bắc kỳ uốn éo ra chiêu vài đường lưỡi thì đã nhũn như chi chi, mắt trợn ngược, mồm há hốc, quên luôn cả tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới trị nổi các mợ Bắc kỳ thôi ! Này nhé, các cụ cứ chịu khó nhìn chung quanh đi, cứ một trăm trự Nam kỳ chưa chắc có được một trự vớ được một mợ Bắc kỳ.
Tìm mỏi con mắt mới có một trự ”diễm phúc” bế được một mợ mang về nhà thì bảo đảm suốt cuộc đời còn lại chỉ biết bốn chữ ”gọi dạ bảo vâng”, răm rắp tuân lệnh bà, chẳng bao giờ còn nhìn thấy mặt trời, mặc dù suốt ngày ngửa mặt than Trời ! Đấy mới chỉ là các mợ Bắc kỳ 54 thôi nhé ! Gặp cỡ các mợ 75 hay các mợ quê quán Hà Đông hay Bắc Ninh ”...cầm roi dạy chồng” thì ôi thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả tông ti họ hàng, suốt đời hưởng ”cái thú đau thương”, nghe chửi cứ tưởng nghe...hát. Hỡi các chú Nam kỳ hậu sanh: chớ chơi dại!
Đừng nghe ông Phạm Duy hát bài ”Cô Bắc kỳ nho nhỏ” mà ham, lừa đấy ! Gặp Nam kỳ thì cái ”nho nhỏ” kia sẽ phình to hơn cái vại, mà cái vại có nanh ! Ngược lại, một cậu Bắc kỳ rau muống quơ được một cọng giá Nam kỳ ”đem về dinh” –vụ này nhiều lắm- thì cứ như ”rồng thêm cánh”, như ”diều gặp bão”, như lái ô tô không cần Navigation.. . cả đời có người ”nâng khăn sửa túi” không công. Hóa ra hôn nhân cũng có quy luật đấy chứ:
Chồng Bắc kỳ + vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu biết cách
Chồng Bắc kỳ + vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè cánh nhạn.
Chồng Nam kỳ + vợ Bắc kỳ = Chồng te tua, lưng còng.
Nhưng đã là ”luật” thì bao giờ cũng có ”luật trừ”, nghĩa là cháu không dám vơ đũa cả nắm đâu, với lại cháu chỉ lợi dụng cái ”tự do ngôn luận” trên xứ người, xin bàn bậy vài chữ ngu ngơ để các cụ trong lúc ”trà dư tửu hậu” đem ra trước là mua vui, sau là cho bớt chút căng thẳng trong cái cuộc đời ... đen như mõm chó này. Xin lỗi các cụ, nẫy giờ nói loanh quanh mãi, bây giờ cháu xin trở lại chuyện của cháu.
Bố cháu nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo dục con cái theo truyền thống Bắc kỳ. Đã có gốc có ngạnh, có cả sự nghiệp bề thế trong Nam nhưng vẫn...thờ cơm Bắc kỳ, vẫn lễ phép Bắc kỳ, vẫn giữ giọng nói Bắc kỳ và thậm chí còn ra lệnh, dâu rể cũng phải...Bắc kỳ ! Mỗi lần cháu dẫn bạn gái về nhà, bố cháu liếc mắt một cái là biết ngay cô nàng Bắc hay Nam.
Có một ông bố tinh đời như thế đôi khi lại...phiền. Với một mợ Bắc kỳ, bố cháu thân mật tươi cười ”Cháu vào nhà chơi ! bố mẹ cháu khỏe mạnh không ?”, cứ làm như quen biết từ lâu vậy. Gặp cô ả Nam kỳ thì lạnh nhạt khinh khỉnh ”Không dám, chào cô !” Cô bạn gái Nam kỳ mặt nghệt ra thưởng thức văn chương Bắc kỳ, còn cháu nghe qua mà thốn từ dạ dầy đến ruột non.
Nghe Bắc kỳ chê, nghe Bắc kỳ chửi, mà cứ tưởng mình đang nghe thơ phú hay nghe nhạc êm dịu mới chết chứ ! Nếu quen cô nào Trời sinh có mấy cái vòng hơi...sexy một tí, Bắc cũng như Nam, cháu phải dấu biệt vì sợ lựu đạn nổ tung trong nhà. Điệu này coi bộ hơi khó sống. Thôi thì Bắc Trung Nam cũng một nhà, hạnh phúc lứa đôi đâu phải do thằng hàng xóm, mà là do chính mình. Thế rồi cháu đã từng hạ quyết tâm với bố: lấy vợ Bắc kỳ, cho phải đạo làm con. Em nào Bắc kỳ, rước về nhà cho bố xem mặt mà bắt hình dong (cứ như đi mua gà chọi). Em nào Nam kỳ, điểm hẹn sẽ là mấy ống cống dưới gầm cầu xa lộ Đại Hàn.
Thiên bất dung gian! cháu lại phải lòng một ả Nam kỳ, Nam kỳ không lai giống, cái thứ Nam kỳ Gia Long kên kên xí xọn. Hồi đó cháu đi lính Không Quân của miền Nam, thấy đám phi công trời đánh đa số cũng đều là Bắc kỳ, chẳng hiểu tại sao? Dân Nam kỳ cũng có, Trung kỳ lại càng ít hơn, nhưng đứa nào cũng có ...”cái mồm Bắc kỳ”.
Cháu còn nhớ khi thi gia nhập Không Quân, phải đủ ký lô, đủ kích thước, lục phủ ngũ tạng bị khám tuốt luốt, phải trần trùng trục như con nhộng rồi nhẩy lên nhẩy xuống cho mấy ông bác sĩ ...”vạch lá tìm sâu”, chứ đâu có thi tuyển đứa nào ”lắm mồm”! Thế mà thằng nào thằng nấy đều có cái ”chứng chỉ lắm mồm” cao hạng dấu kỹ trong túi áo bay.
Một hôm đang trực phòng hành quân thì ông xếp (ông này Nam kỳ quốc) hỏi có thằng nào rảnh ra phi đạo chở con cháu gái vợ của xếp theo tàu từ Sài Gòn ra Nha Trang đem về nhà bà vợ đang có bầu sắp đẻ. Tưởng đi biệt phái hành quân chứ cái màn này cháu khoái lắm: ”Chuyện nhỏ mà xếp, có tui ngay” Ông xếp của cháu cũng chẳng vừa, nhìn thấu tim gan thằng đàn em : ”Lẹ lẹ lên coi, tàu sắp đáp rồi đó, sách tao mày học hết còn dư có cái bìa, nhưng mà từ từ thôi nghe cha nội, lạng quạng con mẻ chửi tao thấy bà !” Lúc đó cháu đâu có ngờ rằng, cái chuyện nhỏ như mắt muỗi này lại thành chuyện lớn, lớn khủng khiếp, ảnh hưởng đến hết cả cuộc đời cháu !
Cô cháu gái ông xếp không có cái dạng ”ngực tấn công, mông phòng thủ” như trong ”xi la ma”, thế mà ngay từ phút ban đầu cháu đã bị dáng ngay tim một cái búa tạ chình ình chứ chẳng phải tiếng sét tầm thường.
- ”Cô đi máy bay có mệt lắm không ?”
– ”Dạ !”.
- ”Ra thăm cô dượng hả ?”
– ”Dạ !”.
-”Cô lên xe đi, tôi đèo cô về”
– ”Dạ !”...
Chèng đéch ơi ! sao mà cụt ngủn cộc lốc thế bà nội ? Cái gì cũng ”dạ” hết ráo thì cháu biết đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ ! Chợt nghĩ, không biết bà dzợ xếp tới giờ này có còn ”ngây thơ”, ”dạ dạ” với xếp như dzậy nữa hay không ? Xếp cháu đang ở San José, nếu xếp có đọc những giòng chữ này thì xếp cũng bỏ qua dùm vì thằng em đã thuộc lòng trọn bộ sách của xếp từ khuya rùi !
Từ đó cháu với nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau đánh vần mấy chữ ”hình như là tình yêu”. Cuộc tình của cháu với nàng êm ả như quả lắc đồng hồ treo trên tường phòng khách nhà cháu, nhưng mỗi khi nghĩ đến bố cháu thì quả lắc đồng hồ bỗng ngất ngư như bị đứt dây thiều. Thương quá, cháu đánh liều, ”mấy sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng qua”, chuyến này nhất quyết không chui ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt nàng về nhà trình diện bố. Bố vẫn khinh khỉnh: ”Không dám ! chào cô”. Nàng vui tính: ”Ba anh coi ngầu quá hén!”, cháu tỉnh bơ: ”Không ngầu sao làm bố anh được !”.
Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ phàn nàn rằng dân Nam kỳ được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ phong phú, không làm vẫn có ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang phí, không chăm chỉ hạt bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ. Ông chỉ vì thương con, lo cháu lấy nhằm cô vợ Nam kỳ cả ngày chỉ biết...phè cánh nhạn, ăn no lại nằm, thì con cưng của ông sẽ thành thân trâu ngựa suốt đời. Còn mẹ cháu, vốn dĩ nhà quê răng đen mã tấu bảo rằng, nghe Nam kỳ nói chuyện cứ tưởng nghe tiếng nước ngoài, chỉ hiểu một nửa ! Cháu cãi lại, Bắc kỳ cũng có khối đứa lười, lười như..cháu đây là hết mức rồi !
Một hôm cháu đưa nàng về nhà, gặp lúc bố mẹ cháu sửa soạn mở tiệc đãi ông bác từ Hố Nai lên thăm. Ông bác vui tính bảo tiện bữa ngồi ăn luôn, cháu đang chần chừ thì nàng vén áo hạ ngay cái bàn tọa tròn lẳng xuống ghế, cháu kéo lên không kịp. Cháu thủ thỉ giải thích cho nàng rằng, đi đâu gặp khách Bắc kỳ mời ăn thì chớ có ăn liền, cứ để người ta mời dăm lần bẩy lượt, ăn liền người ta chửi mình...chết đói !
Nam kỳ thì thẳng ruột ngựa, mời là cháp lẹ, không cháp dọn xuống bếp, đói ráng chịu, không mời lần thứ hai, ai biểu mời không ăn ! Bỗng mấy đứa em cháu thay phiên nhau : ”Mời bác xơi cơm, mời bố xơi cơm, mời mẹ xơi cơm, mời anh xơi cơm, mời chị xơi cơm”, mời... mời... mời tùm lum!. Thằng em út cháu mời dài nhất, mời lâu nhất, mời từ trên xuống dưới , trong nhà chỉ có con Tô Tô đang nằm chực dưới gầm bàn là nó không mời. Nó lại chẳng được ai mời để xơi, út mà ! nhưng rồi vẫn xực ào ào !
Cô bạn Nam kỳ của cháu trố mắt nhìn cháu chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Cháu vội ghé tai thì thầm:
- Em mời gia đình ăn cơm đi !
- Ủa ! gia đình anh mời em ”ăng” mà ? Bộ ”ăng” cũng phải mời...mời...xơi ...xơi sao?
Nàng ấp a ấp úng cũng ráng mời:
- Dạ mời bác, mời bác, dạ mời... à... à... mời anh, mời em...
Chợt bố cháu lên tiếng:
- Thôi đủ rồi, cháu mời người trên thôi, còn mấy em cháu không phải mời...Mà hay thật ! Con bé này vui vẻ, ngoan ngoãn lắm ! Sao con cứ ăn hiếp nó mãi !
Nghe bố cháu nói mà bụng cháu cứ như mở cờ, ông còn cao hứng bảo khi nào nàng nấu cơm Nam kỳ cho gia đình cùng ăn. Cô nàng hí ha hí hửng nói liền:
- Dạ ! (lại dạ!), để bữa nào cháu nấu bún(g) mắm dzới thịt heo ba rọi cho bác ăn(g), bún(g) mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền Nam nghe bác !
- Sao ? cô muốn búng hả ? Lỗ tai tôi đây này, muốn búng bao nhiêu thì cứ búng đi !
Thế là cả nhà cháu được một trận cười nắc nẻ. Nào đã hết đâu, mẹ cháu chợt bảo:
- Cháu xuống bếp lấy cho bác mấy cái ”cùi dìa” với cái ”muôi” để trong ngăn kéo đấy !
Nàng ngớ ra cứ như được nghe tiếng...Tây, nhìn cháu cầu cứu. Cháu cười hì hì khoái tỉ, ra cái điều thông thái giải thích ngay:
- Cái ”cùi dìa” Nam kỳ kêu là cái ”muỗng”, tại Bắc kỳ sống lâu với bọn Tây, chúng nó gọi là ”la cuiller” thì Bắc kỳ gọi luôn là cái ”cùi dìa” cho tiện. Còn cái ”muôi” Nam kỳ kêu là cái ”vá”, chữ ”vê” thì đọc là ”dê” cho nên gọi là cái ”dzá”, phải không ?
Nàng đỏ mặt, bĩu môi ”Cái đồ dzô dziêng, tui đi dzìa à nghen !”
Sau bữa cơm hôm ấy, hình như bố cháu bắt đầu ”chuyển hệ”, có vẻ gần gũi thân mật với nàng hơn vì thấy nàng thật thà, có sao nói dzậy, không bãi bôi, không vòng vo tam quốc, nhất là...không lười như ông nghĩ. Thừa thắng xông lên, cháu thủ thỉ với mẹ cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ. Mẹ bàn với bố, bố vẫn ngần ngừ.
Tại bố cháu không biết đấy chứ, cháu đọc lóm từ một quển sách nào đó người ta viết rằng, trong lịch sử nước ta hầu hết các vua chúa miền Trung đều có nhiều bà vợ bé, mà hầu như bà nào là Chánh Cung Hoàng Hậu cũng đều là Nam kỳ: vua Minh Mạng có rất nhiều vợ, đa số là các bà Nam kỳ, Chánh Cung là bà Hồ Thị Hoa, người Biên Hòa; Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà Từ Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng Hậu), là người Gò Công. Mấy ông vua cũng tinh đời đáo để ! Nhưng cháu ”không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường ”, chỉ xin ”...quỳ lậy Chúa trên Trời, sao cho lấy được ...con nhỏ Cái Bè con thương !”
Thật là oái oăm: cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn chưa cho giựt cần! Tuy thế, thỉnh thoảng bố cháu cũng dò hỏi về gia đình nàng. Thì cháu đã nói rồi mà, ”quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn”, ruộng đất mênh mông, sông nước dập dình, ăn nói ”ngắn gọn và dễ hiểu” chứ không ”dài dòng nhưng khó hiểu”... kiểu Bắc kỳ ! Chấm hết!
Ngày vui nhất đời cháu là ngày bố cháu ra lệnh sửa soạn ”lên đồ dzía” đến thăm gia đình nàng. Sao bố cháu không nói thẳng thừng ra là đi ”hỏi vợ”, đi ”chạm ngõ” cho xong. Nhưng mà cần gì phải ”chạm ngõ” với lại ”chạm cổng” cho rườm rà rắc rối, nhà của nàng cháu biết từng phòng, quen từng góc, rõ từng cột.
Mỗi lần cháu từ đơn vị ”dù” về đều có chút quà biếu ba má nàng, cho mấy đứa em nàng và cho cả cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách dụ khị của xếp cháu đấy !). Lần nào gặp ba nàng là lần đó có...nhậu. Đồ nhắm lúc nào cũng có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra sau hè ngắt mấy trái xoài tượng chấm mắm nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia cặm mấy con trùng liệng xuống sông, cũng câu được mấy con cá lên nướng làm mồi. Nam kỳ trù phú mà ! Ổng không nhậu bia nhậu rượu, mà nhậu đế; không nhậu bằng cốc hay ly mà nhậu bằng tô, tô nào tô nấy bằng cái bát ăn cơm nhà cháu. Thế mà ổng lúc nào gặp cháu thì cứ nói rằng: ”Dô dzới tao dăm ba sợi nghe mày !” Chưa tới nửa sợi cháu đã guắch cần cẩu ! ”Lính tráng như mày chi mà yếu xìu sao oánh giặc nổi ? Dzô cái coi !” Ổng thương, ổng coi như con như cháu, ổng mới kêu cháu bằng ”mày”. Tiếng ”mày” của Nam kỳ biểu lộ cái chân tình, sự gần gũi thân thương, không như Bắc kỳ khi đã xổ ra tiếng ”mày” rồi thì ... ô hô ! ô hô ! thiện tai ! thiện tai ! chạy cho lẹ !
Một hôm đang nướng con mực khô nhậu lai rai với ổng, bỗng có khách gõ cửa bước vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa cười vừa nói:
- Chèng đéc ơi anh Sáu Lèo ! hôm qua tui chờ qua qua mút chỉ cà tha, hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua mà qua lại qua, nay qua rồi có thằng rể tương lai tới thăm, nhào dzô chơi vài xị, hôm nay có ớt nè qua !
Nói chi mà cứ qua đi qua lại, qua tới qua lui, nói cũng như thơ phú đấy chứ, thế mà mẹ cháu cứ nói tiếng Nam kỳ nghe sao như tiếng...nước ngoài !
Bắc kỳ vẫn có câu ”dâu là con, rể là khách”, nhưng Nam kỳ thì ”dâu là con, rể cũng là...con luôn”. Bố dzợ chịu chơi lại gặp thằng rể cũng chịu chơi luôn, dzô ba xị rồi thì coi như...bạn, chơi xả láng sáng dzề sớm, còn má dzợ bỗng nhiên thành... chơi chịu ! Nàng kể cho cháu nghe, nhiều lần ổng đi nhậu quá giờ giới nghiêm chưa chịu về, cả nhà trông đứng trông ngồi. Chợt nghe tiếng xe Vespa quen thuộc chạy ngang nhà, cứ thế nghe cái ”dzù” rồi lại chạy mất tiêu, lại nghe cái ”dzù” rồi đi tuốt luốt ! Sinh nghi, nàng chạy ra cổng đón đường chặn xe : ”Ba ui ! Ba ui ! Tới nhà rồi nè !”. Ổng chợt tỉnh, quẹo dzô thắng cái ”két”, xe đổ cái rầm, ổng té cái đụi, miệng lèng nhèng ” Ủa, nhà mình đây rồi sao? Dzậy mà tao chạy dzòng dzòng kiếm hoài hổng ra !”
Ngày cưới, cháu chọn nhà hàng Đại La Thiên của chú Ba tuốt bên Chợ Lớn cho có vẻ trung dung, không Nam cũng không Bắc mà là cơm Tàu. Không xài Karaoke nhưng chơi nhạc sống. Có ông chú dzợ tên là Ba Phoóng làm nhạc trưởng cho mấy bà xồn xồn Nam kỳ lên sân khấu ca cải lương hà rầm. Hình như 7 thứ nghệ thuật của nhân loại đối với Nam kỳ đều tóm gọn trong mấy câu dzọng cổ thiệt mùi.
Đám cưới cháu người ta chụp nhiều hình lắm. Ông bố vợ coi hình gục gặc cái đầu: ”Chèng đéch ơi ! thằng rể tao chụp hình coi phông độ dzữ hén ! Ráng nghe mày !” Cháu chẳng hiểu ổng nói cháu phải ráng cái gì ? Nhưng có một cái cháu phải ráng là cái chắc, ai biểu ham dzợ Nam kỳ...mũi cao chân dài !
Còn bố cháu xem ảnh thì lại phán một câu xanh rờn: ”Con dâu bố chụp với bố ảnh này đẹp quá, giá mà đứng cạnh bố con khoanh tay lại thì còn đẹp hơn biết bao !”. Ông xếp cháu, khơi khơi tự nhiên thành ông dượng, sẵn có dăm ba ly nhưng mắt vẫn láo liên ngó bà cô, rồi len lén kể lể làm oai: ”Thấy chưa mày! Hồi đó tao xách máy bay xuống Vĩnh Long rồi lạng qua Cái Bè, mới lạng chơi dzài ba dzòng là dzớt luôn bà cô mày, ngon chưa !” Cám ơn ”ông xếp dượng” đã có công ”nối giáo cho giặc” rồi rước luôn giặc vào nhà. Còn mấy thằng bạn Không Quân quỷ sứ thì xúm nhau ca bản ”Mùa thu chết ”... đã chết rồi, cho mày...chết luôn!
Ngày qua ngày, cháu không chết mà vẫn sống nhăn răng với bà vợ ”quý phái bình dân”, bây giờ đã có 4 con với 3 đứa cháu ngoại để nựng. Nam kỳ cũng chăm chỉ đấy chứ ! Thế là xong một đời phiêu bạt giang hồ, bay bướm, quậy phá ! Được cái vợ cháu cưng cháu lắm (Nam kỳ mà!), bao nhiêu công việc trong nhà từ lau nhà, rửa chén, hút bụi, trồng cây, giặt đồ...vợ cháu dành làm hết ráo.
Bả nói ”tay chân ông như thằng cùi, làm đâu hư đó, để tui làm luôn cho lẹ !”. Cháu đi làm mang tiền về, bả cũng không thèm động tới, bảo rằng ”tui hỏng cần anh nuôi tui !” Thế nhưng vợ cháu ghen khỏi nói, trong vườn trồng nhiều ớt hơn trồng hoa, ghen có đẳng có cấp, ghen có kế hoạch, có phương án đàng hoàng. Ghen thì ghen, lâu lâu cháu cũng theo bạn bè...nhảy dù vài sô, về nhà im thin thít, thế mà bả cũng ”nghe” được mùi, lườm lườm, nguýt nguýt, rồi cũng huề tiền.
Sau này cháu mới khám phá ra vợ cháu rất sòng phẳng, đâu ra đó, nếu ”ăn bánh trả tiền” là...cho qua cầu gió bay, không thèm chấp. Một hôm vô tình đọc báo thấy tin cô Quờn, người Sóc Trăng, ghen chồng lăng nhăng, lẳng lặng lựa lúc chồng đang say túy lúy, xách con dao bếp cắt luôn...của quý của chồng đem quăng sau vườn. Cô Quờn ra tòa ngồi chơi 4 năm tù. Trời đất Thiên địa ơi! Nam kỳ mà ghen kiểu này chắc cháu chết sớm, cháu dấu luôn tờ báo, ai dè vợ cháu chu môi oỏng ẻng : ”Cái đó còn đỡ à nghen ! gặp tui là tui cho luôn dzô cái máy xay thịt rồi quăng cho bầy gà ăn, chớ giờ người ta dzăng minh lắm, khâu nối lại mấy hồi !” Má ơi là má ! Cháu nghe mà ớn lạnh xương sống! Chơi kiểu này thì hơn xa các mợ Bắc kỳ rồi ! Nhưng cháu lại được phép kéo bạn bè về nhậu...xả láng, nhậu ”vô tư”. Xỉn quá thì : “Anh mệt rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè, rồi dzô đây em cạo gió hết liền !”. Bạn bè ói mửa tùm lum thì : ”Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp mấy ảnh đi, em dọn cho !” Mấy thằng bạn có vợ Bắc kỳ ngó phát thèm !
Chắc khí thiêng sông núi Bắc kỳ linh thiêng hùng vĩ , hay nói theo khoa học hiện đại là cái ”dzen” Bắc kỳ quá mạnh, nên vợ cháu nửa dưới vẫn còn là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã hóa thành Bắc kỳ: không nói ”bự bành ky” mà nói ”to vật vã”; không gọi ”trái bom” mà gọi ”quả táo”; thích ăn canh rau muống hơn nấu canh chua; nhưng đặc biệt nhất là ăn nói không còn ”ngắn gọn và dễ hiểu” như xưa, mà bây giờ thì.. ôi thôi ! ”dài dòng, ào ào như thác đổ”, nghe riết muốn khùng !
Bố cháu ăn ”bún(g) mắm thịt ba rọi” của vợ cháu nấu, đến phát nghiền, nghiền luôn cả chén nước mắn pha đường. Nhà cháu có bốn anh em trai thì bố cháu có tới ba ả dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp lại vẫn thua xa một mợ dâu Bắc kỳ, ăn nói ngọt như đường phèn, dịu dàng khoai thai như thiên nga, thêm cái tài...chửi như hát di truyền. Thế là cái mộng ”dâu rể phải là Bắc kỳ” của bố cháu bị nước sông Cửu Long vùng Nam bộ cuốn trôi tiêu tùng. Bố cháu bây giờ cũng rành ”sáu câu” về Nam kỳ lắm, ông bảo người ta nói rằng:
- ”Tính tình gái Nam kỳ giống như mưa Sài Gòn: đỏng đảnh nhưng mau quên; tính tình gái Bắc kỳ giống như mưa Hà Nội: âm ỉ và dai dẳng”.
Lợi dụng lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ họa :
- Bố biết không, người ta cũng bảo : ”Ở Sài Gòn nhiều em sinh viên giống như ca ve; Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh viên”, đúng không bố ?
Bố cháu quắc mắt : ”Sao dám ăn nói lăng nhăng thế hả ?”.
Cháu chuồn nhanh kẻo ông nổi giận. Thôi thì đến nước này rồi, cúi xin các cụ cũng rộng lòng bỏ qua cho cháu nếu có gì gọi là thiên vị, bởi vì con gái Nam kỳ bây giờ đã là ”cây nhà lá vườn” của cháu, nên cháu đành phải ”ta về ta tắm ao ta”, ôm lấy cái ao Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu riêng Nam bộ cho phải đạo ”tình Bắc duyên Nam”, nếu không cháu phải ôm thùng mì gói suốt đời. Mong sao các cụ đọc xong rồi bỏ qua, cứ coi như một chuyện tầm phào, bởi vì cháu đã liều mình như mấy mợ Hà Nội làm con chim đa đa, không lấy vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận cái xứ Nam kỳ với giòng sông 9 cửa

Back to top
« Last Edit: 08. Jun 2010 , 00:00 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 6 7 8 9 10 11
Send Topic In ra