đỡ gỡ rối cho. Vào sáng sớm tinh sương, dân đi làm lục đục thức dậy. Vào thời còn Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, giờ đó cũng là giờ các sòng bạc đóng cửa để nghỉ ngơi; hàng nghìn con bạc, vừa mệt vừa đói, túa ra đường tìm cái ăn cho đỡ đói và hồi phục sức khoẻ hầu thử thời vận phen nữa trong canh bạc đêm tới. Sau khi Đại Thế Giới bị cấm hoạt động, trong số người ăn điểm tâm ngoài đường vào sáng sớm tuy không còn những con bạc ở Chợ Lớn nhưng trên toàn vùng Sài Gòn-Chợ Lớn thì lại có thêm số người Bắc di cư; họ phần lớn là những người lao động phải đến sở làm đúng giờ nên cần ăn vội ăn vàng, nhưng phải ăn cái gì thật bổ dưỡng cho có đủ sức để còn phải lo làm việc suốt một ngày dài. Phần đông hoặc ăn hủ tiếu hoặc phở, một số nhỏ chọn mì nước. Hủ tiếu (nguồn gốc danh từ này là "quả điều" phát âm theo tiếng Quảng Đông là "cổ thiều") nguyên là món ăn của người Hoa được "Miên hóa" thành hủ tiếu Nam Vang và "Việt hóa" thành hủ tiếu Mỹ Tho. Phở trước gọi là "Phở Bắc" vì du nhập từ miền Bắc vào, sau được gọi ngắn là phở; từ khi có hơn một triệu người Bắc di cư vào Nam, phở đã chiếm địa vị của hủ tiếu như là món ăn được nhiều người thích ăn hơn. Phở không những là món ăn sáng mà còn được chuộng như món ăn trưa hay ăn khuya sau giờ xem hát cải lương hay chiếu bóng. Phở được bán ở ngoài đường và tại các tiệm phở. Trong các tiệm phở nổi tiếng phải kể đến Phở Hòa, Phở Lý Thái Tổ, Phở Bảy Chín, Phở Tàu Bay Trương Minh Giảng, Phở Gà Hiền Vương….Phở bán ngoài đường cũng chỉ kém phở tiệm đôi chút; được như vậy là vì người bán có một cái xe đẩy trang bị đầy đủ dụng cụ, chén bát, bánh phở, thịt, rau, đồ gia vị v.v... và đặc biệt, một cái nồi súpde để hâm nóng nước dùng. Những người bán hủ tiếu, mì nước…cũng cần có cái xe như vậy. Khách cần ăn trưa hay ăn tối ở ngoài đường mà không muốn ăn phở, hủ tiếu, mì nước thì có thể dùng bò lụi, chạo tôm, nem nướng… bày bán khắp nơi; có những phố chỉ chuyên bày bán những thức đó, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt. Giữa những buổi ăn chính, khách đi đường có thể ghé lại các xe bán chè, bán cháo, nước giải khát để thưởng thức chè sâm-bồ-lường, chi-mã-phù, chè đậu, chè trôi nước…, cháo gà, cháo vịt, cháo lòng…; nước giải khát thì có nước ngọt, nước dừa tươi, nước mía, nước rau má, nước trái cây, v.v… Sài Gòn là một thành phố có nhiều bóng mát nhất vùng nhờ số cây trồng dọc đường và ở những nơi công cộng. Những người bán hàng thường chọn những cây to rợp bóng để làm "đất chiếm hưởng", vừa tiện cho mình vừa tiện cho khách hàng. Ngày trước, vào những thời kỳ kinh tế phồn thịnh, công ăn việc làm không khó tìm, đồng tiền dễ kiếm, người ta cũng thường thấy những người đạp xích-lô gác xe dưới bóng cây để nghỉ trưa, chờ đến lúc mát trời mới lại bắt đầu đạp xe đi kiếm khách. Việc mua bán đồ ăn bình dân dọc đường phố, ngõ hẻm... là những hoạt động kinh tế biên tế (marginal) nhưng rất quan trọng đối với dân Sài Gòn vốn ưa sinh hoạt tự do ngoài trời, giữa những đám đông trong đó không thiếu gì bạn bè hay người quen để cùng nhau trò chuyện hay đối ẩm.
Nhà khảo cứu nói trên, trong một bài viết bằng Pháp ngữ, cho rằng lối sinh hoạt của người dân Sài Gòn biểu hiệu "une culture de rue"

"rue" có nghĩa là đường phố; "rue" cũng biểu trưng cho giới bình dân (2). Vậy, thay vì lý giải "une culture de rue" thật sát nghĩa, ta có thể tạm hiểu rằng tác giả muốn nói đến một văn hóa đậm nét bình dân. Sắc thái bình dân cũng thể hiện trong sinh hoạt tâm linh, trong các thú tiêu khiển và cách chữa bệnh của người Sài Gòn. Việc cúng bái, cách giải trí của dân Sà Tại cửa Nam vườn Tao Đàn (xưa gọi là vườn Pờ Rô) có một miếu thờ mà đông đảo các bà, các cô thường đến cúng bái với tất cả lòng thành; trên bàn thờ đặt năm thứ trái cây (ngũ quả) là: "mãng cầu, sung, dừa, đu đủ và xoài"

gọi gon lại là: "cầu, sung, dừa, đủ, xoài"

đọc trại đôi chút thì thành ra: "cầu xin vừa đủ xài". Vốn tính bình dị và thực tiễn, người Sài Gòn tin có sự cảm thông giữa giới vô hình và người trần thế; họ hi vọng là nếu có lòng thành thần thánh sẽ vui lòng giúp cho miễn là ước mong hay nguyện vọng của họ không quá đáng (ví dụ: "cầu xin vừa đủ xài"). Cũng với cung cách này, họ đến trước bàn thờ tổ tiên thắp hương và thành khẩn khấn vái cầu xin ông bà độ trì cho con cháu mỗi khi họ gặp khó khăn không khắc phục được.
Dân chúng Sài Gòn nói riêng và dân chúng miền Nam nói chung là một bộ phận của nhân dân Việt Nam thành hình trong cuộc Nam Tiến, trong thời gian khoảng bốn thế kỷ qua, và như thế được coi là tương đối mới so với nhân dân miền Bắc và miền Trung. Thành phần trước tiên gồm có số dân, phần đông sống ở lãnh địa các chúa Nguyễn, đã di cư từ miền Trung vào những vùng đất của Chiêm Thành và Chân Lạp bị ta chiếm đóng hoặc được nhượng lại; họ là những người có chí mạo hiểm, không sợ gian khổ và lam sơn chướng khí. Họ đã khai hoang, lập ấp và biến những vùng hoang vu, bùn lầy hay khô cằn thành vùng đất đai màu mỡ. Con cháu của những người khai phá này đã thừa huởng những đức tính của tổ tiên như tính quả cảm, cần cù và khả năng thích ứng với môi trường mới. Trong thời gian định cư ở đất mới, họ đã đồng hóa hoặc chung sống hòa bình với các sắc dân Sai Gòn – Phép trị bệnh cổ truyền địa phương gồm dân Chàm, Miên v.v... và với người Hoa, người Ấn… và nhờ đó đã tạo thành một tập hợp dân chúng đa dạng, năng động và đầy sinh lực trong đó dân Việt dĩ nhiên là thành phần tiền phong và tháo vát hơn hết. Trong sự tiếp xúc giữa nhiều sắc dân có văn hóa khác nhau, mỗi sắc dân có lối tế tự riêng của mình, kết quả là có rất nhiều am miếu, đền đài với lễ nghi cúng bái khác nhau. Dọc theo vài con đường phụ, hiện còn những cái am nhỏ thờ những vị thần vô danh hay đã bị quên lãng, giống như trường hợp những bình vôi đặt ở gốc những cây đa cổ thụ trong các làng miền Bắc; đó là vết tích của những nơi thờ phụng xưa mà những người tế tự nay không còn hoặc đã thiên cư tới nơi khác.
Hai tôn giáo lớn được thành lập vào tiền bán thế kỷ 20 ở Miền Nam là Cao Đài giáo và Phật giáo Hòa Hảo. Tín đồ phần đông là người Nam, phần nhiều là người bình dân ở các tỉnh mà người trí thức ở thành thị cũng không ít.
Cao Đài giáo - cũng gọi là Đại đạo Tam kỳ phổ độ - là một tôn giáo ra đời ở Việt Nam từ năm 1926 do một nhóm trí thức ở Sài Gòn nhân thường cầu cơ nên được tiếp xúc nhiều với các Tiên Thánh mà lập ra nên không có Giáo chủ. Đạo có tính chất Đại đồng, lấy Tam Giáo quy nguyên (3 tôn giáo lớn ở Á Đông là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo đồng quy về nguồn gốc là cái Lý duy nhất bổn sơ) và Ngũ chi phục nhất (Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo đều trở về cái Lý duy nhật bổn sơ) làm tiêu ngữ. Đạo thờ đấng Chí tôn là Huyền khung Cao Thượng đế Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn (tức Trời), lấy "CON MẮT" tiêu biểu sự sáng suốt của đấng Chí tôn và dùng Cơ bút để lãnh ý đấng Chí tôn cùng các Tiên Thánh trong việc hành đa.o. Đạo chia nhiều phái và có chi phái khắp Việt Nam; hai phái lớn nhất có thánh thất ở Tây Ninh và Bến Tre (theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức).
Vị giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo danh xưng là Huỳnh Phú Sổ; sinh tại làng Hòa Hảo, tổng An Lạc, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Theo sách của Đạo, từ nhỏ Ngài là một người bệnh hoạn, luôn luôn đau yếu nên không theo đuổi việc học quá ban tiểu học; nhưng một hôm có một đạo từ quang chiếu vào mình Ngài, làm cho Ngài bất tỉnh, khi tỉnh ra thì hoàn toàn biến đổi từ thể xác đến tinh thần. Đứng ra làm thầy trị bệnh với nước lã, giấy báo, dây chuối, dây bố v.v... mà bệnh nào cũng lành; thêm có óc thông minh khác thường, quán thông vạn vật. Được tôn xưng là Phật Sống, Ngài bắt đầu truyền đạo ngày 18 tháng 5 năm kỷ mão (1939) thu hút rất nhiều tín đồ ở Hậu Giang và mất vào cuối năm Ất Dậu (1945). Khác với đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo không chuộng lễ lạc huy hoàng và phức tạp; trái lại, chủ trương trở về với bản chất đơn thuần và tinh khiết của Phật giáo nguyên thủy bằng việc tụng niệm, tham thiền và chay ti.nh. Đạo không xây cất chùa chiền, tăng chúng không phân định đẳng cấp.
Các tín đồ Cao Đài, Hòa Hảo sống hiền hòa, chỉ lo cúng bái, cầu nguyện cho quốc thái dân an, cầu xin phước trạch cho gia đình, cho xóm giềng. Những bài kinh cầu nguyện của họ nghe như bài vè, bình dị và chất phác. Các địa phận Cao Đài, Hòa Hảo là những nơi yên ổn, người dân chăm lo làm ăn, cuộc sống thật an bình.
Trong số những người bình dân, cũng có những người theo đạo Phật hay Thiên Chúa giáo; những người này vẫn đến chùa và nhà thờ vào những ngày lễ của tôn giáo mình như những phật tử và con chiên thuộc các giới khác.
Song song vời sự sinh hoạt tâm linh ấy, có rất nhiều trò vui, nhiều trò giải tri diễn ra thường xuyên ở những địa điểm khác nhau, khi thì bên vệ đường, khi tại một công viên. Các trò vui hay trò giải trí đem lại những trận cười, những giờ phút thoải mái sau những ngày làm việc mệt nhọc; các trò chơi khác phần nhiều có ăn thua bằng tiền; nhưng cái đó không hề chi; nếu có thua thì cũng có ăn; ngoài ra, thỉnh thoảng cũng cần có chút ít cảm xúc mạnh như hồi hộp khi chờ đợi, phấn chấn khi được, thất vọng khi thua, đó là những điều làm cho cuộc đời bớt tẻ nha.t. Vả lại, muốn ăn thua to thì phải vào các sòng bạc (casino) hoặc đến tư gia hay dinh thự của các ông lớn, bà lớn; còn bài bạc ngoài đường chỉ có ăn thua nhỏ mà thôi. Những trò chơi có đánh cuộc như trò chọi cá thia thia hay chọi (đá) gà chẳng hạn, được khá đông người tham dự người lớn có, trẻ con có; địa điểm được chọn thường là một con đường nhỏ trong một khu dân cư xá trung tâm thành phố hoặc một chỗ thoáng, dưới bóng cây, với sự chấp thuận mặc nhiên của cảnh sát. Một trò chơi khác, diễn ra ở lề đường, là trò bầu cua cá cọp; trẻ con rất thích; đặc biệt, các học sinh sau khi tan trường thường ghé lại đánh chơi. Cách chơi dụng xảo thì có bài ba con (ba lá); đây là lối cờ bạc do một người cái cầm ba lá bài cào, tráo qua tráo lại một vài lần rồi úp xuống cho người chơi đặt tiền; người chơi ít khi nào ăn mà phần lớn là thua sạch túi vì người cái dùng xảo thuật gạt người chơi với sự tiếp tay của người a tòng. Nói cho đúng, cũng có bài bạc thật sự ngoài các sòng bạc và môn cờ bạc được nhiều người biết đến là chơi đề. Cách chơi là dùng trí đoán con bài mà nhà cái sẽ xổ ra để đặt tiền. Có loại đề 12 con, đề 36 con và đề 40 con. Đây là môn cờ bạc do người Hoa bày ra và hầu như người Sài Gòn nào cũng thích chơi vì tiền chung lớn gấp bội tiền đặt; ví dụ như với đề 36 con, người trúng đề sẽ được chung một số tiền Ngoài những trò chơi trên, có một trò chơi khác kín đáo hơn, không dùng đến lá bài, và người chơi phần lớn là các bà. Đó là chơi hụi: mươi, mười hai người họp nhau đóng hằng kỳ (thường thường là mỗi tháng) một số tiền cho người chịu trách nhiệm (người cái) để người này trao lại cho người đã bắt thăm trúng hoặc đã bỏ thăm tình nguyện chịu lời cao hơn hết. Nhìn từ một góc độ khác, chơi hụi không phải là đánh bạc có ăn thua mà thường thường chỉ là một cách để có được một số tiền lớn hầu dùng vào việc cần như làm vốn buôn bán chẳng hạn. Tại các làng ngoài Bắc, nhóm người chơi họ để gây vốn được gọi là hội tư cấp.
Mỗi khi Tết đến lại có hội hè và nhiều trò giải trí khác, như múa lân, đốt pháo, v.v… Các tiệm ăn, quán nhậu không ngớt thực khách ra vào; các rạp chiếu bóng, rạp hát đông nghẹt người xem. Những ngày trước Tết là thời gian rất nhộn nhịp; chợ búa đầy ứ thịt thà, gà vịt, trái cây đủ loại, người mua tha hồ mà chọn lựa, phố xá náo nhiệt hẳn lên do sự hiện diện đông đảo của những người đi sắm Tết. Khu chợ hoa dọc đại lộ Nguyễn Huệ là cả một rừng hoa, nổi bật nhất là hoa mai (3), hay hoàng mai, cánh vàng rực rỡ; đó là chưa kể hàng trăm cây quất, cây cảnh, cây bonsai, những hòn non bộ. Người đến ngắm hoa chen chúc với người mua hoa. Mua gì thì mua nhưng cũng phải có một đôi cành mai trưng bày ở phòng khách nhà mới có không khí Tết và nếu có thêm một vài giò thủy tiên thì lại càng tốt. lớn bằng 30 lần tiền đặt
Ngoài những trò chơi trên, có một trò chơi khác kín đáo hơn, không dùng đến lá bài, và người chơi phần lớn là các bà. Đó là chơi hụi: mươi, mười hai người họp nhau đóng hằng kỳ (thường thường là mỗi tháng) một số tiền cho người chịu trách nhiệm (người cái) để người này trao lại cho người đã bắt thăm trúng hoặc đã bỏ thăm tình nguyện chịu lời cao hơn hết. Nhìn từ một góc độ khác, chơi hụi không phải là đánh bạc có ăn thua mà thường thường chỉ là một cách để có được một số tiền lớn hầu dùng vào việc cần như làm vốn buôn bán chẳng hạn. Tại các làng ngoài Bắc, nhóm người chơi họ để gây vốn được gọi là hội tư cấp.
Mỗi khi Tết đến lại có hội hè và nhiều trò giải trí khác, như múa lân, đốt pháo, v.v… Các tiệm ăn, quán nhậu không ngớt thực khách ra vào; các rạp chiếu bóng, rạp hát đông nghẹt người xem. Những ngày trước Tết là thời gian rất nhộn nhịp; chợ búa đầy ứ thịt thà, gà vịt, trái cây đủ loại, người mua tha hồ mà chọn lựa, phố xá náo nhiệt hẳn lên do sự hiện diện đông đảo của những người đi sắm Tết. Khu chợ hoa dọc đại lộ Nguyễn Huệ là cả một rừng hoa, nổi bật nhất là hoa mai (3), hay hoàng mai, cánh vàng rực rỡ; đó là chưa kể hàng trăm cây quất, cây cảnh, cây bonsai, những hòn non bộ. Người đến ngắm hoa chen chúc với người mua hoa. Mua gì thì mua nhưng cũng phải có một đôi cành mai trưng bày ở phòng khách nhà mới có không khí Tết và nếu có thêm một vài giò thủ Một địa điểm được nhiều người thường đến thăm viếng là Lăng Ông, nơi để mộ và cất điện thờ Tả Quân Lê Văn Duyê.t. Đây là nơi tập trung của các thầy lang chuyên trị liệu bằng phương pháp cổ truyền như bầu giác, chích lể, cạo gió, đấm bóp. Nơi đây còn có những bà thầy bói bài, xem chỉ tay, những ông thầy đoán số tử vi, xem tướng tay, chiết
tự, bói sách…lại cũng có những thầy mà tài năng cao siêu đến độ bảo với người xem bói, chắc nịch như đinh dong
Số cô không giàu thì nghèo,
Sinh con đầu lòng không gái thì trai"inh đóng cột, những câu đại khái như:y tiên thì lại càng tốt.
Trong khi đó trong điện thờ, các bà các cô đến trước bàn thờ đức Tả Quân thắp hương khấn vái rất thành khẩn trước khi xin xăm gia đạo, số mệnh hay thời vận.
Đến đây, sau nhiều cố gắng nhằm gợi lại hình ảnh của Sài Gòn ngày trước, tôi vẫn do dự, không muốn nói dứt khoát "Sài Gòn của chúng ta là thế đó". Bởi vì tôi thấy vẫn chưa nói được lý do tại sao Sài Gòn lại chiếm một vị trí đặc biệt trong tâm hồn của chúng ta. Phải chăng vì ở đó chúng ta đã có một cuộc sống thoải mái, dư dật? Chắc là không phải vì, ngoại trừ một thiểu số, chúng ta phần đông đều "lương ba cọc ba đồng", phải "thắt lưng buộc bụng" mới khỏi nợ nần; đó là chưa kể một số quân nhân trong chúng ta phải chiến đấu ở mặt trận, trải qua bao nhiêu gian khổ nhưng không bao giờ phàn nàn vì ý thức được chúng ta có bổn phận bảo vệ mảnh đất tự do còn lại của đất nước. Hay, phải chăng chúng ta được tự do ăn nói, đi lại, tự do cư trú, v.v…? Thì tại nơi nào ở Miền Nam, chúng ta đều có những quyền đó chứ không riêng gì ở Sài Gòn. Hay là vì khí hậu ở Sài Gòn ôn hòa hơn các nơi khác, ban ngày dù nóng nực đến bao nhiêu ban đêm vẫn mát mẻ, dễ chịu? Hoặc là vì Sài Gòn có thể cung cấp đầy đủ những gì đáp ứng được nhu cầu vật chất và tinh thần của chúng ta? Hay là vì ở Sài Gòn chúng ta có nhiều bạn bè, người thân luôn luôn gần gũi chúng ta để chia sẻ vui buồn cùng chúng ta, an ủi chúng ta khi sa cơ lỡ vận, khuyên can khi chúng ta ngã lòng và có ý định buông xuôi? Quả có thế thật. Thế thì hãy thêm vào đó thái độ hiếu khách, thân thiện, dễ dãi của người dân Sài Gòn đối với những người từ miền Bắc hay miền Trung. đến định cư tại Sài Gòn. Ngoại trừ chuyện người Sài Gòn gọi đùa người Bắc là "dân rau muống" và người Bắc "trả đũa" bằng cách gọi dân Sài Gòn là "dân giá sống", nhưng vì cả hai bên đều không có ác ý, không kỳ thị nên tuyệt nhiên không có sự chia rẽ Nam Bắc và hàng trăm nghìn người Bắc, người Trung đã thích ứng dễ dàng với cuộc sống ở nơi mà họ coi là quê hương thứ hai của họ. Có thể là tất cả các yếu tố đó hợp lại đã làm cho chúng ta coi Sài Gòn như một người thân, khi gặp mặt thì tay bắt mặt mừng khi xa cách thì mong ngóng nhớ nhung. Ngoài ra, nếu có yếu tố vô hình sắc hay tế nhị nào khác nữa thì đó là một điều ngoài cảm nhận của tôi.
Sài Gòn sau "Giải Phóng" và "Đổi Mới"
Sài Gòn sau ngày "giải phóng"
Hầu hết chúng ta, ngoại trừ những bạn có may mắn ra đi vào ngày 30.4.75 hoặc trước hay ngay sau ngày đó, đã lưu lại Việt Nam một thời gian và chứng kiến
những gì xảy ra cho dân chúng và thành phố Sài Gòn, thế nên chúng ta không cần phải nói dài dòng về những chuyện đau lòng đó. Điểm thứ nhất cần nhớ lại là ngay sau ngày 30.4.75 chế độ quân quản đã được áp dụng cho toàn miền Nam; ai cũng biết là chế độ quân quản là chế độ áp dụng cho một nước thù địch bị chiến bại; nói khác đi, Hà Nội coi miền Nam như kẻ thù, nhưng đã trắng trợn tuyên bố là miền Nam đã được giải phóng. Thật là khôi hài! Để giữ tính cách khách quan, hãy nghe một người cộng sản đã phản tỉnh là Bùi Tín viết về trò hề này: "30 năm trước, miền Nam được giải phóng ư? Đó chỉ là hiện tượng hời hợt bên ngoài; thật ra, sau khi đảng CS áp dụng các chính sách cải tạo sĩ quan, viên chức, các đảng phái chính trị miền Nam, thật ra là bỏ tù họ không xét xử, rồi cải tạo thương nghiệp, bắt đi kinh tế mới, phân biệt đối xử đối với gia đình 'ngụy quân, ngụy quyền', tạo nên hàng triệu `thuyền nhân', đày đọa đồng bào nửa nước trong cảnh lầm than cơ cực, thì phải nói thật ra đó là sự chiếm đóng tàn ác nhất! Danh từ giải phóng trở nên mỉa mai, trâng tráo, vô liêm sỉ. Những người Việt Nam lương thiện, biết tự trọng, trung thực với chính mình - kể cả những người CS có lương tâm trong sáng - không thể không nhận ra sự thực ấỵ"
Chắc hẳn chúng ta hãy còn nhớ nỗi kinh hoàng của dân chúng Sài Gòn, không khí ảm đạm bao trùm cả thành phố trong những ngày tàn của miền Nam tự do. Những tin dồn dập về các thắng lợi "bất chiến tự nhiên thành" của quân đội miền Bắc, về cuộc tiến quân nhanh chóng của họ mỗi ngày mỗi gần thủ đô làm cho dân Sài Gòn hốt hoảng, kẻ thì đưa vợ con về quê lánh nạn, người thì cùng gia đình tìm cách rời khỏi nước mà không biết sẽ đi về đâu, tương lai ra sao, "rủi may âu cũng sự Trời"! Không bao lâu sau là những đợt hàng trăm nghìn người bị buộc tội "mang nợ máu với nhân dân" phải đi "học tập cải tạo"

tưởng là đi một vài ba tháng, ai ngờ đi "mút mùa"

kẻ thì 2,3 năm, kẻ 5,7, 10, 12 năm, có kẻ không bao giờ trở về. Vợ và đàn con nheo nhóc không biết trông cậy vào ai, sinh sống như thế nào vì trước nay vẫn nhờ vào đồng lương ít ỏi của chồng; các bà vợ phải rút dần rút mòn chút tiền để dành (nếu có) hoặc bán dần đồ đạc, áo quần trong nhà để ăn và vẫn can đảm chịu đựng, vẫn thu vén được chút ít thực phẩm, thuốc men để thỉnh thoảng lặn lội đi thăm nuôi chồng. Con cái có nhiều em phải thôi học để giúp mẹ kiếm thêm chút ít tiền gia dụng hoặc vì bị chúng bạn châm chọc, kỳ thị là con "ngụy". Rồi đến những đợt đánh tư sản, đẩy hàng nghìn người lên vùng kinh tế mới, những đợt đổi tiền - đổi 500 đồng miền Nam lấy 1 đồng tiền Hồ Chí Minh -với mục tiêu giảm khả năng kinh tế trong dân chúng. Trong lúc đó người dân Sài Gòn vẫn tiếp tục "vượt biên" tìm tự do, mãi cho đến đầu thập niên 80 thì các nước tây phương bị nhiễm hội chứng "compassion fatigue" bèn lấy cớ những người đi sau là tỵ nạn kinh tế để từ chối không tiếp nhận thêm người tỵ nạn nữa. Vài năm sau ngày "giải phóng" một số người "học tập cải tạo" được ra tù; vì không tìm được việc làm để nuôi thân và gia đình, họ đành phải làm những công việc lao động chân tay, như đạp xe xích-lô chẳng hạn, mặc dù sức khỏe đã giảm sút đi nhiều. Con cái nhiều đứa đã đến tuổi phải làm nghĩa vụ quân sự: chúng là mục tiêu được chọn, gọi là đi chiến đấu ở biên giới Viê.t-Miên nhưng thật ra là để làm bia đỡ đạn (cannon-fođer); chẳng bao lâu gia đình nhận được tin là con em họ đã "anh dũng hi sinh" tại chiến trường. Cũng trong thời gian đó, những gia đình đi vùng kinh tế mới, để khỏi chết đói, đã trở về thành phố sống lúc nhúc ở vỉa hè hay tại các bãi tha ma mà chính quyền "cách mạng" đành phải thúc thủ không biết xử trí làm thế nào để giải quyết giải quyết cho xong
cho xong.,Dân miền Nam nói chung và dân Sài gòn nói riêng, nhưng cũng là hậu quả của chính sách kinh tế của đảng CS trong thời gian này. Trong giai đoạn đầu (1975-79) những biện pháp như cải tạo công thương nghiệp, trước ở Sài Gòn sau tại cả miền Nam, nhằm đánh tư sản, việc đổi tiền (làm song song với việc đánh tư sản), việc hợp tác hóa nông nghiệp và đưa nông dân tham gia các hợp tác xã nông nghiệp là những biện pháp thất nhân tâm; riêng các biện pháp về nông nhiệp đã bị nông dân chống đối kịch liệt. Kết quả là chính sách kinh tế được thực hiện trong giai đoạn này đã đưa đến một sự suy thoái trầm trọng trong nền kinh tế tại miền Nam. Về nông nghiệp, sản lượng cũng như năng xuất lúa tụt hẳn xuống, nhất là vào những năm 1978-1979, những năm trọng điểm của chính sách tập thể hóa. Về công nghiệp, các sản phẩm tiêu dùng hầu hết tại miền Nam cũng theo nông nghiệp mà đi xuống. Trước tình trạng suy thoái trông thấy của nền kinh tế, và nhất là sau vụ mất mùa năm 1979 khiến cả miền Nam lẫn miền Bắc lâm vào nạn đói, đảng và nhà nước CS bắt buộc phải thực hiện một buớc lùi chiến thuật. Kinh tế suy thoái, thêm với những biến động chính trị bên ngoài (chiến tranh với Cao Miên, xung đột biên giới phía Bắc với Trung Quốc trong những năm 1978 -1979), đã buộc lãnh đạo CSVN phải ngưng các chính sách trói buộc trong nước. Tháng 9 năm 1979, hội nghị trung ương đảng CS đưa ra Nghị Quyết sửa sai gồm có việc công nhận 5 thành phần kinh tế và cho khoán sản phẩm. Đối với nông nghiệp, sự thay đổi quan trọng nhất là việc tạm ngưng tập thể hóa nông nghiệp và cho áp dụng chế độ "khoán hộ".xí nghiệp hợp doanh giữa Hoa Kiều tại Sài Gòn và nhà nước CS, nhờ sự liên hệ giữa Hoa Kiều ở VN với người Hoa ở Hong Kong và Singapore, đã góp phần giải quyết phần nào sự thiếu hụt ngoại tệ. Việc sửa sai đã đem lại kết quả là sản xuất các mặt gia tăng tương đối trong các năm 1979 và 1980; mặt khác, một số xí nghiệp hợp doanh giữa Hoa Kiều tại Sài Gòn và nhà nước CS, nhờ sự liên hệ giữa Hoa Kiều ở VN với người hoaHoa ở Hong Kong và Singapore, đã góp phần giải quyết phần nào sự thiếu hụt ngoại tệ.Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách cởi mở kinh tế trong các năm 1979-1982 chỉ có tính cách giai đoa.n. Mục tiêu chính vẫn là tiếp tục tiến lên xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hóa. Tháng 1 năm 1982, đảng CS ra nghị quyết về việc cải tạo công thương nghiệp tại thành phố Sài Gòn. Chính sách này được thực hiện bằng cách tịch thu hàng loạt các cơ sở nhập cảng của người Hoa kiều; các cơ sở tiểu thủ công nghiệp được "khuyến khích" trở thành hợp tác xã hoặc tổ hợp sản xuất. Hậu quả của chính sách này là một cuộc khủng hoảng kinh tế khác. Đồng thời, CSVN bắt đầu gặp một số khó khăn trong việc xin viện trợ của Liên Xô. Năm 1985, ông Gorbachev lên nắm chức tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô, đưa ra chính sách Glasnost (cởi mở) và Perestroika (tái phối trí). Trong các vấn đề được ông Gorbachev xét lại có cả vấn đề viện trợ cho Việt Nam. Bước vào năm 1986, tình hình kinh tế chính trị tại Việt Nam trở nên nguy ngập: Việt Nam bị dồn vào thế cùng (4).. Sài Gòn sau "Đổi Mới"
"Cùng tắc biến" (5) như trong Kinh Dịch, đó là lối thoát; nhưng "biến tắc thông" thì đến nay vẫn chưa thành hiện thực; giả đò là cách "biến". Tại đại hội 6 của đảng CS vào tháng 12 năm 1986, Nguyễn văn Linh đưa ra chủ trương "đổi mới" và "cải tổ cơ cấu" làm chủ đề cho chính sách kinh tế chính trị; nhưng "đổi mới" không có nghĩa là từ bỏ xã hội chủ nghĩa, từ bỏ chế độ toàn trị. Do đó, khẩu hiệu "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" được dùng làm kim chỉ nam cho chính sách kinh tế mới. Nhóm chữ "định hướng xã hội chủ nghĩa" khiến dư luận hoang mang, có nhiều người tưởng là chính quyền sẽ có chính sách thích ứng về sự phân bố lợi tức hoặc những sản phẩm xã hội không thể điều chỉnh bằng giá, nhưng thật ra chính quyền chỉ có mục đích duy trì khâu xí nghiệp quốc doanh bất chấp nó có hiệu năng kinh tế hay không (6). Vì vậy, cho tới nay những cải cách kinh tế chỉ có tính cách nửa vời và trên thực tế, đã phát sinh ra một nền kinh tế thị trường "hoang dại" trong đó người ta thấy xuất hiện ngày càng đông những kẻ mới phất (nouveaux riches) làm giàu bằng những thủ đoạn phi pháp như tham nhũng, ăn cắp tài sản công, hối lộ, trốn thuế, buôn lậu, v.v… Một cán bộ cộng sản cao cấp đã phải thừa nhân rằng "những thủ đoạn phi kinh tế…làm cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại môi sinh, làm rối loạn xã hội và xâm phạm đạo đức, nhân phẩm con người" (7). Đại đa số những kẻ mới phất nói trên là đảng viên có chức, có quyền; một giai cấp mới, giai cấp tài phiệt đỏ, đã được hình thành. Trong cái nền kinh tế ấy, những vấn đề liên hệ như bảo vệ môi trường, giáo dục, xã hội, v.v…đều bị coi nhẹ; hậu quả là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng, những tệ nạn xã hội như ăn cắp, đĩ điếm, xì ke ma túy… không thể giải trừ được, bệnh AID, HIV lan tràn mà thuốc men, bệnh viện, y sĩ và y tá không đủ để chữa trị. Vì "biến" không "thông" nên hiện nay nước Việt Nam của chúng ta là một trong những nước có thu nhập bình quân thấp nhất châu Á, nạn tham nhũng được thế giới nhận dạng là loại "siêu", được tổ chức Transparency International (Minh bạch Quốc tế) cho là một nước tù mù, dối trá, bất khả tín.
Sài Gòn hiện nay cũng bị nhiễm những thứ "bệnh" như trên, có khi còn nặng hơn các nơi khác. Vì ở đó có nhiều xí nghiệp quốc doanh hơn nên có nhiều nhà tư bản đỏ hơn. Vì Sài Gòn và vùng phụ cận có nhiều nhà máy nên ô nhiễm nặng hơn. Dân đông hơn, mật độ cao hơn nên tệ nạn xã hội trầm trọng hơn. Mà thôi, kể nữa làm gì cho thêm buồn lòng. Có người sẽ bảo: "Tôi vừa đi Sài Gòn về. Đời sống bây giờ thoải mái hơn trước nhiều. Nhà lầu, cao ốc, khách sạn bốn năm sao mọc lên như nấm. Đường sá, phố xá đông nghịt người. Tiệm ăn, quán nhậu chật ních khách ăn. Hội hè quanh năm chẳng phải là dịp để cho dân vui chơi đó sao? Báo chí bên này cứ chỉ trích, chê bai hoài; phải chăng là chúng ta thiếu tinh thần khách quan?" Xin trả lời: "Cuộc sống thoải mái ư? Thoải mái là đối với người có tiền, kể cả những người đem đô la, euro về tiêu xài, còn những người kiếm sống chật vật vẫn là đa số. Tiệm ăn đông khách ư? Ăn nhậu bây giờ là một thú vui hiếm hoi dành cho những người dân may mắn có chút ít tiền dư mà không biết tiêu vào việc gì khác; vả lại chúng ta nên nhớ rằng các nhà độc tài, bắt đầu từ những vị hoàng đế La Mã, đều biết cách ru ngủ quần chúng bằng cách khuyến khích cho họ ăn chơi thỏa thích đặng quên đi những đòi hỏi khác như quyền tự do ăn nói, tự do tín ngưỡng, v.v… Còn nhà lầu, khách sạn sang trọng? Đó là dinh thự của những nhà tư bản đỏ, dân chúng mấy ai có nhiều tiền để xây nhà lầu, biệt thự! Khách sạn năm bảy tầng toàn là dành cho du khách. Hội hè linh đình tất cả đều nhằm mục đích câu khách, người thường dân, nếu được nghĩ đến, cũng chỉ là mục tiêu thứ yếu"
Muốn tìm một lời phê bình khách quan, xin đọc đoạn viết về chợ hoa xuân (chợ triển lãm hoa mùa xuân – xuân Ât Dậu) dưới đây của một người dân Sài Gòn:
"… bây giờ thì dù đi chợ hoa xuân nào cũng chỉ gặpnhững người lạ hoắc, không còn cho được cái cảm giác nào của thời thơ ấu và những phiên chợ Tết ngày xưa được nữa. Nhất là con đường Nguyễn Huệ hôm nay thì xa lạ hẳn đi. Những hàng đèn chạy dài, những dây dợ tua tủa, những bồn hoa được xếp đặt cầu kỳ và có phần máy móc. Phải công nhận là nó đẹp thật, và đẹp nhất là về đêm, nhưng tôi vẫn cứ thấy nó không có hồn. Nó chỉ là một cái áo choàng của thời đại điện tử và người ta cần màu xanh màu đỏ nhấp nháy, quảng bá cho du lịch, quảng bá cho thành phố `rực rỡ hoa đèn' đúng nghĩa chứ nó không có cái hồn của mùa xuân Việt Nam. Những chiếc xích lô chở đầy hoa, những chiếc thuyền nằm im lìm dưới một hàng cây chưa đủ thổi vào đó một tâm hồn đất Việt mà nó chỉ giống như một bức tranh thêu bắt mắt. Dù sao nó cũng được du khách `chiếu cố' như một cái gì lạ mắt và hình như người nào cũng muốn chụp hình với nó để có một chút kỷ niê.m. Làm được như thế cũng là một điểm đáng ghi nhận cho du lịch Việt Nam rồi. Tôi chỉ tiếc là chợ hoa xuân Nguyễn Huệ không còn nữa, cái hồn Tết của Sài Gòn xa xưa cứ ngày một mất đi dần. Có lẽ cái tinh thần `tồn cổ' còn đọng lại quá nhiều trong những con người như tôi chăng?" (8)
Ừ phải! Cái hồn Tết của Sài Gòn mất đi dần. Linh hồn của Sài Gòn mất đi dần. Chỉ còn thể xác, một thể xác điểm trang không hợp khuôn mặt, y phục không xứng khổ người. Muốn cho Sài Gòn sống lại, cần phải phục hồi nếp sống cũ của Sài Gòn, phải trả lại Sài Gòn lại cho dân Sài Gòn, phải trả lại tên Sài Gòn cho Sài Gòn. "Phải trả lại tên Sài Gòn cho Sài Gòn" đó là mục tiêu của cuộc vận động do Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, Quản nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo phận Auckland, Tân Tây Lan khởi xướng (9); cuộc vận động này được rất nhiều đồng bào trong cũng như ngoài nước hưởng ứng và càng lúc càng lan rộng.
Có điều là mọi người đều biết rằng lãnh đạo CSVN vốn rất ngoan cố, đã có những vụ tai tiếng (scandal) rất lớn có thể làm đổ một chính phủ hay cả một chế độ, nhưng họ vẫn ù lì, làm như không hay không biết, chờ cho đến khi gió im sóng lă.ng. Họ không chịu sửa đổi, trừ phi bị dồn vào thế bí. Tuy nhiên, nếu cuộc vận động của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ có hiệu quả của một áp lực đối với CSVN, đó không phải là cái áp lực duy nhất mà họ đang gặp phải; hiện họ còn phải đương đầu với nhiều áp lực, nhiều khó khăn khác và giống như trong thành ngữ "góp gió thành bão", toàn bộ các áp lực đối với đảng CSVN và những khó khăn hiện hữu của họ có thể hợp thành một cơn sóng gió đe dọa chế độ CS với khả năng đẩy chế độ tới hồi kết thúc. Sau đây là những áp lực và khó khăn chính yếu:
Trước nhất, áp lực quốc tế ngày càng mạnh đòi hỏi cải tổ sâu rộng từ căn bản: để được gia nhập WTO, hệ thống luật lệ phải hoàn thiện; các công ty quốc doanh phải giải thể, độc quyền của nhà nước CS trong một số lĩnh vực kinh tế phải được bãi bỏ; đòi hỏi của quốc tề về các vấn đề tự do, dân chủ phải được tôn trọng. Thứ đến, tình trạng chia rẽ nội bộ đã tới mức trầm trọng: các vụ TC2, T4 là thí dụ. Sự chia rẽ, đấu đá nhau trở thành công khai; những tố cáo trong các bài viết, hồi ký… của một số đảng viên cao cấp đã và đang làm cho đầu não đảng CS lung laỵ
Thứ ba, xã hội dân sự (10) đã trưởng thành và đang gây áp lư.c. Rất nhiều nhóm và cá nhân nêu ra những đòi hỏi về dân sinh, dân quyền đòi đảng phải giải quyết. Các vấn đề chiếm đoạt đất đai, hối mại quyền thế, tham nhũng, dâng hiến đất cho ngoại bang…được nêu công khai và đang dồn đảng vào thế bị động. Cả nghìn việc khác, từ việc phải có ngưồn nước sạch để uống, vấn đề môi sinh, buôn bán gái vị thành niên cho tới việc công ty ngoại quốc đánh đập công nhân Việt làm cho đảng lúng túng, tìm cách bào chữa. Tất cả các đòi hỏi từ mọi phía làm cho đảng CS không còn các nào khac, Sau hết nhưng không kém quan trọng, giai cấp trung lưu đã xuất hiện với tiếng nói có trọng lực. Các thành viên của giai cấp đó thoát thai từ đảng CS; họ dựa vào gốc đảng để bảo vể quyền lợi và tài sản của họ. Chính họ lại quay ra chống lại đảng.Với thời gian, giai cấp trung lưu sẽ có bề thế hơn, có học thức và ý thức về khả năng đóng góp của họ, có đầu óc cởi mở để tiếp thu những tư tưởng tự do dân chủ để tự động khai triển và biến những tư tưởng ấy thành hành động, hoặc sẵn sàng hậu thuẫn cho các cuộc vận động dân chủ do các giới khác trong và ngoài nước chủ xướng. Giai cấp trung lưu đã từng giữ vai trò then chốt trong các biến cố lịch sử; chẳng hạn, chính giai cấp trung lưu đã khởi xướng và chỉ đạo cuộc "cách mạng nhung" tại Tiệp Khắc vào cuối năm 1989 và cách mạng ôn hòa tại Đức vào đầu năm 1990. ác là phải tìm c Những áp lực, khó khăn và sự việc bất lợi cho CSVN mói ở trên đây đều là sự thật, không thêm bớt, không thổi phồng. Diễn biến nói trên cũng chẳng phải là không tưởng, nó sẽ xảy ra không sớm thì muộn. Ý thức được lẽ tất nhiên ấy, các tổ chức người Mỹ, Pháp, Úc…gốc Việt đã và đang cố gắng cung cấp đầy đủ tài liệu để các chính khách và chính phủ bản quốc có đủ dữ kiện về những vụ vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, giam giữ người trái phép v.v... hầu làm áp lực mạnh mẽ hơn đối với đảng và nhà nước CSVN buộc họ phải có những cải tổ nhằm dân chủ hóa đất nước. Các tổ chức này còn tích cực giúp đỡ các cá nhân, các nhóm ở quốc nội đang vận động đòi tự do dân chủ cho VN để họ có thể tranh đấu hữu hiệu hơn. Thêm vào đó, với sự phát triển của mạng internet, sự liên lạc và thông tin hai chiều giữa hải ngoại và quốc nội ngày càng nhanh chóng và hữu hiệu hơn, mặc dù nhà nước CSVN đã tìm mọi cách để ngăn cản, đặc biệt là những thông tin nhằm vạch trần mặt thật của CSVN; theo nhà báo Pháp kỳ cựu là Jean Lacouture, CSVN đã thực hiện một chế độ thực dân đối với dân mình và ông đã đặt ra chữ "autocolonisation" để nói về cái chế độ kỳ quặc này. Với những áp lực quốc tế và quốc nội, với những khó khăn ngày càng nhiều, với tình hình người dân ngày càng mạnh dạn hơn trong việc đòi hỏi những cải cách cần thiết, chế độ CSVN tất bị dồn vào thế thụ động đến mức sẽ phải tự giải thể hoặc sẽ bị bắt buộc phải giải thể. Để chứng tỏ rằng sự suy luận này không phải là "lấy mộng làm thực" (wishful thinking), xin trích dẫn lời phát biểu sau đây của anh Phương Nam Đỗ Nam Hải - một thanh niên tranh đấu cho tự do dân chủ tại VN - trong cuộc phỏng vấn của Mạng Lưới Lên Đường (Úc Châu) vào ngày 17/11/2005: "…chúng ta hoàn toàn tin tưởng rẳng trong xã hội Việt Nam hôm nay đang có một sự thay đổi lớn về nhận thức. Sự thay đổi này là rất sâu sắc à một khi xã hội đã có sự thay đổi trong nhận thức thì ắt sẽ có sự thay đổi trong hành động. Đó là quy luật tất yếu. Tiến trình "Diễn Biến Hòa Bình" mà những người bảo thủ trong đảng cộng sản Việt nam đã và đang lo ngày lo đêm, đã diễn ra thành công ở các nước Đông Ấu, Liên Xô, Indonesia… thì nhất định nó cũng diễn ra thành công ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba, Bắc Hàn trong thời gian tới. Sở dĩ hôm nay chưa có nhiều người dám công khai lên tiếng đòi tự do, dân chủ ở các nước này là bởi vì họ đang sống dưới bộ máy tuyên truyền và đàn áp quá đồ sộ khi thì lộ liễu, lúc lại rất tinh vi. Nhưng theo tôi, ở cả 4 nước trên, nỗi sợ hãi với bộ máy ấy đã dần mất đi. Và khi mà đa số nhân dân không còn sợ nữa, thì đó chính là dấu hiệu của một cuộc cách mạng dân chủ sắp diễn ra. Tình hình của các nước Đông Âu, Liên Xô, Indonesia…cũng đều là như vậỵ" Với sự sụp đổ của CSVN, cũng giống như trường hợp thành phố St Petersburg đã được trả lại tên khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ, tên Sài Gòn sẽ phải trả lại cho Sài Gòn. Chừng đó, chúng ta sẽ được gặp lại thành phố Sài Gòn thân yêu trong niềm hân hoan của dân tộc. Sài gòn sẽ mau chóng phục hồi phong độ để trở lại với nhiệm vụ lịch sử của mình đặng mãi mãi tồn tại cùng với non sông đất nước và mãi mãi vẫn là Sài Gòn của chúng ta - một Sài Gòn Muôn Thuở.
Nguyễn Phúc
2) Thái Văn Kiểm, Saigon De Toujours: Une Culture De Rue, tài liệu đánh máy
(3) Về hoa mai: Bên Trung Hoa, có một loại hoa gọi là "mei" theo phát âm tiếng quan thoại; phát âm theo chữ Hán-Việt là "mai"

thật ra, đó là hoa mơ (plum). Cây có hoa bày bán ở các chợ Tết mới là cây mai, cây bản địa. Các nhà khoa học gọi hoa mai hay hoàng mai là Ochna Harmandii, theo tên của nhà bác học Harmand (1845-1921), người đầu tiên đã nhận dạng hoa mai tại cao nguyên Bolovens ở Ai Laọ
4) Lê Mạnh Hùng, Chính sách kinh tế của Cộng Sản Việt Nam từ 1975 dến1992, Đặc San Kinh Tế, Hội Chuyên Gia Việt Nam, San Jose, tháng 1/1933, tr 11-33.
(5) "Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" (Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu), Kinh Dịch.
(6) Nam Dao, `Việt Nam, con người từ những bóng má, Văn Học số 225 tháng 5&6 – 2005
(7) Đỗ Nguyên Phương, Tạp Chí Cộng Sản, Hà Nội, số 5, 1944, tr 33.
(8) Văn Quang, Trẩy Hội Hoa Xuân Sài Gòn, VNN, tháng 1/2005.
(9) Lm Nguyễn Hữu Lễ, Hãy Trả Lại Tên Sài Gòn Cho Sài Gòn, P.O. Box
17516,GreenLane,Auckland,NewZealand,website
www.saigonforsaigon.org.
(10) xã hội công dân (civil society) là một tập hợp gồm nhiều định chế phi-chính-phủ (non-governmental institutions) khác nhau, đủ mạnh để làm đối lực (counterbalance) đối với nhà nước và, trong khi không cản trở nhà nước thi hành nhiệm vụ của họ trong việc gìn giữ hòa bình và phân xử những vụ tranh chấp lợi quyền quan trọng, vẫn có thể ngăn cản không cho nhà nước chi phối và phân hóa cùng cực phần còn lại của xã hội (xem Ernest Gellner, Conditions of Liberty – Civil Society and it
s Rivals, Penguin Books, London).