The Kite Runner, cánh dìêu của tuổi thơ và hy vọng
Friday, October 05, 2007
HOUSTON (NN) – Một mùa hè đã qua, một mùa thu lại đến như nhà văn Nga Babel đã viết “Cặp kính trên sóng mũi và mùa thu ở trong tim”. Mùa thu của những suy ngẫm về cuốn phim Vượt Sóng với nữ tài tử Kiều Chinh, một trong những vai chánh của cuốn phim. Kiều Chinh đến Houston để dự buổi tổ chức kỷ niệm 50 năm điện ảnh của bà. Trong Vươt Sóng, Kiều Chinh đóng vai bà nội dịu dàng và linh độâng hơn những cuốn phim trước, một Kiều Chinh đi vào lòng khán giả Việt hơn hẳn Kiều Chinh trong phim Hội Mạt Chược (Joy Luck Club). Cuốn phim đã làm tôi xúc động nhớ lại những đêm trên biển Nam Hải, trời tối đen, biển lặng, trăng sáng của những ngày vượt biên trôi nổi nhưng không chìm. Một cuốn phim với đoạn kết hạnh phúc giống như đoạn kết của cuốn truyện The Kite Runner, truyện bán chạy nhất trong hai năm qua của nhà văn Khaled Hosseini đã được hãng Paramount làm thành phim ra mắt đầu tháng 11 năm nay.
Cùng một văn hóa
Mùa thu đọc lại The Kite Runner với những đoạn văn xúc động, một cuốn truyện đọc rất buồn. Nhà thơ Đỗ Qúi Toàn đã nói với tôi rằng từ ngày sang Mỹ đến giờ ông tránh đọc những cuốn truyện Việt Nam sau 1975 vì nhiều câu chuyện buồn quá! Nhưng ông và tôi cùng vấp phải một lỗi lầm, đã đọc The Kite Runner, cuốn sách đọc nửa chừng chỉ muốn ngừng vì Khaled Hosseine tàn nhẫn không cho người đọc ngừng cảm xúc. Cô con gái của tôi, không nhớ gì về Việt Nam, đã khóc sau khi đọc hồi ký của Bố về những ngày vượt biên, về những buổi chiều hai cha con chở nhau trên xe đạp đi trong xóm vào những ngày sau 1975, sau khi đọc xong The Kite Runner đã xúc động và hỏi: “câu chuỵên có thật không hả bố! Sao giống những chuyện bố kể về Saigon sau ngày Cộng sản vào Saigon”. Được xem cuốn phim sắp chiếu, lòng cô bé còn buồn hơn là đọc xong cuốn truyện hai năm trước.
Cuốn truyện của Hosseini với những đoạn đời đầy nước mắt nếu thay tên Kabul thành Saigon, nêu quên đi những danh từ Hồi giáo Shiite, Sunni, nêu chỉ nhìn thấy những con người cùng văn hóa Á Châu thì The Kite Runner là cuốn truyện của người tị nạn Việt Nam sau 1975. Cuốn truyện đầy những chuyện buồn, nhưng mà... “chuyện có buồn thì sách mới hay”.
The Kite Runner đã đưa tôi về sống lại với thời thơ ấu, thời vui thú với bạn bè, chơi đùa, kết bè kết bạn, thả diều, bắn ná, ngồi trên cây với cặp ná nhắm bắn vào những con chó chạy hoang trên đường, nhớ những ngày thả diều trong xóm hay có khi lên nóc nhà thả diều lên cao và mơ chiếc diều có thể bay lên cao đụng đến mặt trời nếu có đủ sợi dây nhợ dài! Những ngày mùa hè mưa trể, giấy bóng, dây nhợ, keo, ngồi hàng giờ chuốt tre làm sườn diều, cắt giấy dán những chiếc đuôi diều dài. Hai anh em làm những chiếc diều bằng tiền để dành trong những con heo đất.
Trò chơi Kite Runner ở A Phú Hãn khác hẳn với trò chơi thả diều ở Việt Nam. Những chiếc diều của bọn trẻ ở Kabul được dùng trong những trò chơi lớn như chiến tranh. Hội diều là hội lớn nhất vào mùa đông. Những con diều với những sợi dây được nhúng bằng dầu hắc cho cứng, trộn lẫn với keo và miểng chai treo lên cây phơi khô cho dây cứng. Trẻ em thả diều lên cao, cố dùng dây diều để cắt đứt dây diều của đối thủ, khi diều bị chém rơi, người đi săn diều (The Kite Runner) chạy theo chiều diều sa, cố bắt được chiếc diều của đối thủ.
The Kite Rurner dẫn tôi về thời mê xi nê, đi xem bà Kiều Chinh và đi xem phim cao bồi, cố xin tiền bố mẹ năm đồng xem hai phim ở rạp Đại Đồng. Sáng chủ nhật mua ổ bánh mì thịt đi vào rạp Khải Hoàn xem phim mãi đến giờ giới nghiêm. Thuở phim ảnh ở Việt Nam được chuyển âm qua tiếng Pháp bởi hãng Mỹ Vân, đi xem John Wayne, Victor Mature và Elizabeth Taylor mà cứ tưởng các tài tử người Pháp giống như Amir nhân vật chánh trong truyện The Kite Runner cố xin bố đi qua Iran để xem tài tử John Wayne vì trong phim Rio Bravo, John Wayne nói tiếng Iran!
Đọc đến đoạn Amir đi tị nạn qua Mỹ, vào tiệm mướn phim Magnificient seven đã xem hơn 13 lần, được một người bản xứ hỏi “cậu đã xem phim này chưa” thì cậu Amir kể vanh vách đoạn kết nào Charles Bronson chết, James Coburn chết, mà cả người hùng Robert Vaugh cũng chết khiến ông Mỹ bản xứ đã phải cảm ơn ông nhô: “Thank you, man” và hậm hực bỏ đi, tôi phải bật cười vì văn hóa ở Việt Nam và A Phú Hãn quả thật giống nhau, người Mỹ không muốn biết đoạn kết, còn người Á Châu bao giờ cũng hỏi nhau đoạn kết cho dù đó là cuốn truyện hay cuốn phim trinh thăm chăng nữa!
Bật cười to hơn nữa khi đọc đến đoạn người A Phú Hãn hay có khuynh hướng nói quá, họ dùng chữ Laaf, nghe như bá láp của người Việt Nam, gần như một căn bệnh quốc gia: “nếu người A Phú Hãn khoe con mình là bác sĩ y khoa thì có thể cậu bé chỉ mới thi đậu kỳ thi sinh hóa trong trường trung học!”
Có một tình người
Câu chuyện The Kite Runner bắt đầu với nhân vật chánh trong truyện, Amir, người A Phú Hãn định cư ở San Francisco sau ngày Nga chiếm Kabul, nhận được cú điện thoại trong mùa hè năm 2000 từ người bạn già Rahim Khan từ Pakistan. Cú điện thoại đã đánh thức Amir, một nhà văn trẻ vừa tạm ổn định cuộc đời tị nạn ở Hoa Kỳ, qua California cùng với ông bố Baba. Quá khứ lại hiện về với những kỷ niệm cũ trong thành phố Kabul trước thời Taliban, một thành phố bình yên với những tiếng cười những niềm vui và tự do. Ở Kabul, Amir là con một thương gia giầu có thành công có người bạn thân là Hussan con của Ali người làm của Baba. Hai cậu chơi với nhau thân thiếât từ khi mới lọt lòng. Hai cậu cùng một cảnh ngộ mất mẹ sớm. Mẹ Amir mất vì xuất huyết sau khi sanh còn mẹ của Hussan bỏ đi ngay sau khi sanh cậu theo đám ca hát rong. Cả hai lớn lên thả điều, đá bóng. Amir thả diều còn Hassan chạy săn diều. Nhưng một ngày Amir đã hèn nhát không dám can thiệp khi bọn vô lại cầm đầu bởi Assef hiếp dâm Hassan. Amir say mê văn chương còn Hassan không được đi học, hai người khác nhau nhưng thân thiết cho đến ngày phải bỏ Kabul. Hassan về chăm sóc nhà của cha Amir sau khi cha con Amir sang Mỹ.
Đời sống ở Mỹ còn khó khăn nhưng Amir nghe lời Rahim trở về Kabut tìm con của bạn là Sohrab sau khi biết Hassan và vợ bị Taliban xử tử hình cướp nhà của cha Amir.
Với ngòi viết linh động và cảm xúc, Khohed Hossini đưa người dọc về Kabul qua nhiều giai đoạn lịch sử sau ngày chế độ quân chủ xụp đổ cho đến khi Nga chiếm A Phú Hãn và ngày Taliban làm cuộc cách mạng Hồi giáo quá khích.
Trong câu chuyện đầy tình người, tình bạn, tình cha con và những phản bội sau những cuộâc đổi đời Khaled Husseini đã làm tôi sững sờ về những mảnh đời của những người cùng khổ ở Kabul? Hay ở Saigon sau 75 của người Việt? Hay của người A Phú Hãn?
Những ngày mới đến California, gia đình Amir đã ở dưới Basement cả tuần lễ. “Babe yêu lý tưởng Mỹ quốc nhưng đời sống ở Mỹ đã làm ông loét bao tử?” Nước Mỹ là nơi Baba chôn dấu những kỷ niệm, nhớ nhà, nhớ những người cùng phố ở Kabul, nhớ những ngày đi dạo trong những khu buôn bán sầm uất, nhớ những người hàng xóm chào hỏi nhau mỗi ngay. Ở đây không ai chào hỏi, ông bố vẫn phải cố gắng thích hợp với xã hội Mỹ mỗi ngày trong khi ông con Amir yêu xứ Mỹ tự do không bị ràng buộc. Một năm rưỡi sau khi đến Mỹ, ông con học trường cao đẳng còn ông bố vẫn phải chật vật chỉ vì danh dự và tự hào.
Một tháng sau khi đến Mỹ, Baba tìm công việc trên đường Washington đứng bán xăng ở trạm xăng do người A Phú Hãn làm chủ. Mỗi ngày ông làm việc 12 giờ, sáu ngày một tuần. Công việc bao thầu vừa thay nhớt xăng, lau kính xe vừa đứng sau két tiền.
Ngày được mướn làm việc, Baba vào văn phòng Xã Hội ở San Jose, gặp bà công chức người da đen, mập, khó chịu để trả lại xấp Food Stamp trên bàn làm việc của bà ta: “Cám ơn bà nhiều nhưng tôi không cần. Ở A Phú Hãn tôi luôn luôn làm việc, ở Mỹ tôi cũng làm việc. Cám ơn bà Dobbins”. Trong suốt những năm đầu ti nạn, Baba giúp đỡ cộng đồng, xây nhà cho người mới đến, giúp đồng hương tìm việc làm, xem những người A Phú Hãn khác giống như anh em trong nhà, cố để lại vết tích trong cộng đồng người A Phú Hãn.
Baba cố hội nhập nhưng bất đồng văn hóa, một lần hiểu lầm với ông bà Nguyễn chủ tiệm tạp hóa “Fast and Easy”, hai vợ chồng già đầu bạc, vợ bệnh Parkinson, chồng phải đi khập khễnh vì bị gẫy cổ xương đùi. Baba viết ngân phiếu để trả tiền chợ bị bà Nguyễn hỏi căn cước nên phát cáu: “sau hai năm đến tiệm mỗi ngày trả tiền không thiếu một đồng, hôm nay lại đòi bằng lái xe! Cái xứ gì kỳ cục không ai tin ai!”.
Trong khi Baba cố gắng hòa nhập trong xã hội mới ở Mỹ thì ông tướng Sahib, bố vợ của Amir, sống như còn đang ở Kabul. Từ ngày sang Mỹ ông không đi làm, cả nhà ăn Welfare, lãnh trợ cấp chính phủ vì không muốn làm những công việc không thích hợp với địa vị một ông tướng. Ông mong đợi ngày A Phú Hãn được giải phóng. Ông mong chế độ quân chủ ở A Phú Hãn được tái thành lập, chức vụ được phục hồi. Mỗi ngày ông mặc đồ vét, nghiêm chỉnh ngồi chờ thời, đi ra chợ trời giúp vợ con mua bán để giải trí. Năm 1988 chiến tranh lạnh chấm dứt. Năm 1991, thế giới chú tâm vào Thiên An Môn quên bẵng đi A Phú Hãn nhưng ông tướng Sahib mang hy vọng mới, nhất là khi quân Sô Viết rút khỏi A Phú Hãn. Ông ăn mặc quân phục chờ đợi. Sau ngày Hoa Kỳ bỏ bom A Phú Hãn năm 2002, ông tướng được gọi về nước tham dự vào bộ Quốc Phòng. Ông may mắn hơn nhiều ông tướùng tị nạn Việt Nam khác ở Hoa Kỳ.
Trong khi cha con Amir bắt đầu làm lại cuộc đời mới ở Fremont thì ở Kabul xã hội thay đổi. Sau ngày Soviet chiếm đóng Kabul, không ai còn tin lẫn nhau, mọi người sống trong không khí đe dọa, hàng xóm nghị kỵ tố cáo lẫn nhau, con tố cha mẹ, anh tố em, người làm công tố cáo chủ, bạn bè nghi kỵ tố cáo nhau. Quân Cộng sản đóng mọi nơi chia Kabul thành hai nhóm: một nhóm dò xét người khác, một nhóm còn danh dự không làm chuyện bẩn thỉu. Mọi người sống nghi ngờ nhau trước họng súng Kalashnikov của Nga. Ngày đó Amir còn ở lại Kabul, giấc mơ của cậu cũng như giấc mơ của những người trong thành phố Kabul là một sáng thức dậy nhìn ra đường sẽ không còn thấy bóng dáng của quân Nga đi tuần trên đường, không còn thấy những chiếc xe tăng lăn trên từng góc phố, không có giờ giới nghiêm, mọi người được sống tự do được nhìn bóng trăng và không còn thấy máy bay Mig trên nền trời.
Hy vọng của Baba cũng như hy vọng của những người A Phú Hãn khác là cơn ác mộng của A Phú Hãn chỉ tạm thời, những ngày tiệc tùng khách đầy nhà của ông ở khu phố Wazir Akbar Khan sẽ trở lại. Sau bốn năm Liên Minh Bắc Quân (Northern Alliance) chiếm A Phú Hãn (1992-1996) quân Taliban đến giải phóng Kabul, mọi người nhẩy múa vui mừng trên đường phố. “Hòa bình cuối cùng đã đến”. Hi vọng là điều lạ lùng kỳ dị đối với dân A Phú Hãn nhưng hòa bình đã đến với một giá đắt.
Với Taliban, nước A Phú Hãn thời tuổi trẻ của Amir đã chết. Sự tử tế cùng những con người tử tế đã biến ra khỏi đất nước. Con người không tránh được chết chóc và chết chóc ở mọi nơi. Ở Kabul, con người sống với sợ hãi và sợ hãi ở cùng khắp, trên đường phố trong sân vận động, ở chợ. Nỗi lo sợ trở thành một phần của đời sống. Hầu hết mọi người hoặc chết ở Kabul hoặc sống ở những trại tị nạn ở Pakistan và đôi khi chết may mắn hơn sống. Ăn mày ngồi khắp cùng đường phố, những người ăn mày có trình độ đại học, những người từng là giáo sư trung học. Trong khi quân CS Parchami đến từng nhà bắt nhà giầu bỏ tù, tịch thu nhà cửa giết chủ nhà thì thời Taliban nhân danh Hồi Giáo “ném đá đàn bà ngoại tình ở sân vận động. Hiếp dâm trẻ em, đánh đòn đàn bà mang giầy cao gót.”
Amir trở về Kabul tìm được cậu bé Sohrab con của Hassan (trước giờ hấp hối Rahim Khan cho Amir biết Hassan là em cùng cha khác mẹ). Sohrab bắn ná giỏi như cha cậu hồi bé, cứu Amir ra khỏi cuộc đấu võ tay đôi với tên vô lại Assef (kẻ đã hiếp dâm Hassan) bằng viên đá bắn mù mắt Assef”. Đoạn Amir cùng Sohab chạy trên đường phố Kabul cũng giống như những đoạn trong cuốn truyện thứ hai “A Thousand splendid suns” có vẻ như Khohed cố tình viết cho phim hơn là truyện.
Giấc mơ của Hassan, mơ thấy những đóa hoa Lawla sẽ nở lại trên những đường phố, nhạc Rahab sẽ trỗi lên nhộn nhịp trong mỗi căn nhà và những cánh diều sẽ bay trên nền trời Kabul trong khi chờ đợi người bạn thơ ấu trở về không bao giờ đạt được nhưng đời sốâng vẫn tiếp diễn. Amir, Sohrab và vợ là Soraya tìm lại được hạnh phúc trong một buổi chiều trên cánh đồng ở Fremont. Amir chạy theo con diều trên quê hương mới,tưởng như sống lại thời trẻ với nụ cười nở rộng trên môi nhưng anh không sống lại được một thời thơ ấu đã qua, như chúng ta.
Chiến tranh A Phú Hãn vẫn tiếp diễn và người A Phú Hãn may mắn hơn những người Việt tị nạn với nhà văn Khahed Hosseini viết cuốn truyện đúng vào thời điểm cần thiết.
Việt Nguyên
(21-9-2007)