Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Người Việt ở Ba Lan  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Page Index Toggle Pages: 1
Send Topic In ra
Người Việt ở Ba Lan (Read 495 times)
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Người Việt ở Ba Lan
13. Jul 2007 , 09:11
 
Ba Lan du ký
- Ba Lan thời Cộng Sản và Du Học Sinh Việt Nam

Monday, June 18, 2007 
Vũ Ðình Trọng/Người Việt

...
Anh Ngô Văn Tưởng tại nhà riêng, một “căn hộ tiêu chuẩn” rộng khoảng 35-40 m2 (khoảng hơn 300 sqft.) tại thủ đô Warsaw được xây từ thời Cộng Sản. (Hình: Vũ Ðình Trọng/Người Việt.)

...
Khu chung cư chật chội, đơn điệu với những tiện nghi tối thiểu, nhưng để làm chủ một “căn hộ” trong này không phải ai cũng làm được.
(Hình: Vũ Ðình Trọng/Người Việt.)

Trong dịp tham dự Họp Mặt Dân Chủ tại Ba Lan đầu Tháng Sáu, 2007 vừa qua, chúng tôi được quen một thành viên trẻ của Họp Mặt Dân Chủ, anh Ngô Văn Tưởng. Anh là một thành viên năng nổ, hoạt bát. Cùng với các bạn khác trong ban điều hợp giúp đỡ những người phương xa tới tham dự họp mặt thật nhiệt tình. Tôi là một trong những người được anh giúp để tìm hiểu phần nào cuộc sống người Việt tại một khu chợ trời nổi tiếng ở Warsaw. Hầu hết những người Việt buôn bán tại khu chợ trời này là dân nhập cư lậu. Chấp nhận cuộc sống tạm bợ nơi đất khách, họ bươn chải cho từng bữa ăn và kiếm tiền gởi về quê nhà. Chuyện họ trải dài từ những năm Ba Lan chuẩn bị chuyển đổi từ chế độ Cộng Sản sang Tư Bản trong thập niên 1980. Tháng Mười năm 2006, trong một dịp công tác tại Ba Lan, nhà báo Vũ Ánh cũng đã đề cập đến một phần trong muôn vàn nỗi cơ cực của họ. Năm nay, chúng tôi quay trở lại Ba Lan, đến thăm khu chợ trời cũ với một bối cảnh mới: chính phủ Ba Lan đã quyết định dẹp bỏ hẳn khu chợ trời này để chuẩn bị cho vòng chung kết bóng đá Euro Cup 2012. Tương lai của những người “buôn thúng bán bưng” này đi về đâu khi trong tay không có một mảnh giấy hợp pháp vẫn còn là một ẩn số.

Loạt bài “Ba Lan du ký” xin được mở đầu bằng cuộc phỏng vấn của phóng viên Người Việt với anh Ngô Văn Tưởng.


Phóng viên (PV): Anh qua Ba Lan năm nào và trong trường hợp nào?

Ngô Văn Tưởng (NVT): Tôi sang Ba Lan năm 1983 theo diện du học.

PV: Ở Việt Nam thời kỳ đó, đi du học tại các nước thuộc khối Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) hình như chỉ dành cho “con ông cháu cha” với những tiêu chuẩn mà những học sinh miền Nam “không mơ thấy nổi”. Anh có phải cũng là “con ông cháu cha” không?

NVT: Trước thế hệ của tôi thì có thế thật. Nhưng lớp trẻ chúng tôi hồi đó thì tiêu chuẩn đi du học cũng giảm đi nhiều. Chúng tôi chỉ cần đủ điểm là được đi, tức là thi 3 môn phải đạt tối thiểu 21 điểm, thế nhưng phải là đoàn viên Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh.

PV: Như thế thì các anh phải “phấn đấu” ghê lắm?

NVT: Thế hệ trước thì tôi không biết, nhưng với chúng tôi vào Ðoàn cũng bình thường thôi. Hình như họ có nhu cầu kết nạp thật nhiều để chúng tôi có tiêu chuẩn đi học nước ngoài. Thực ra chỉ cần học lực trung bình, không nghịch phá hay bị kỷ luật là được rồi. Chẳng cần lý lịch trong sạch, cũng chẳng cần phải thể hiện lý tưởng, hay trung thành với Ðảng gì cả. Thường thì cuối năm cấp 3 chúng tôi được kết nạp hết. Cũng thời điểm đó, các bạn ở miền Nam muốn vào Ðoàn để được một suất ưu tiên thì khó hơn, như bố mẹ phải có lý lịch trong sạch, gia đình có liên quan đến chế độ cũ thì khó mà đi du học được.

PV: Anh học ngành nào?

NVT: Tôi chỉ biết thi vào trường Bách Khoa, còn ngành học là do được phân công, chúng tôi không có quyền chọn lựa. Lúc đầu mọi người đều nghĩ qua Ba Lan để học ngành Mỏ, Ðịa Chất, nhưng sau này Ba Lan mở thêm một số ngành khách như ngành Luyện Kim, Ðóng Tàu... Tôi được phân công học ngành Ðóng Tàu Biển.

PV: Về du học sinh theo học tại các nước thuộc khối XHCN lúc đó, chúng tôi được biết sứ quán Việt Nam tại các nước đó kiểm soát sinh viên rất chặt. Anh có thể cho biết thêm về việc này không?

NVT: Ðúng như thế! Hệ thống quản lý du học sinh tại các nước thuộc khối XHCN lúc đó rất chặt chẽ. Họ theo dõi tình hình học tập của từng sinh viên một. Ai học vớ vẩn là bị sứ quán đuổi về nước ngay chứ không chờ kết quả của trường. Những năm thập niên 1960-1970, du học sinh ở Ðông Âu khi muốn ra ngoài phải đi 2 người trở lên, không được tiếp xúc với người dân bản xứ. Chỉ cần một vi phạm nhỏ, sinh viên sẽ bị đuổi về nước ngay lập tức.

Nhưng ở Ba Lan thì khác. Ba Lan là nước Cộng Sản duy nhất có yếu tố buôn bán tư nhân. Họ cởi mở hơn rất nhiều so với toàn khối XHCN. Ngay từ thời còn trong chế độ Cộng Sản, chúng tôi đã được xem phim của Pháp, thậm chí họ còn cho chiếu cả phim Mỹ, nhạc phương Tây tràn ngập. Những sản phẩm văn hóa của phương Tây được bày bán công khai, và chính nhờ phần lớn những sự giao tiếp thông thoáng đó, cảm nhận của chúng tôi về chế độ Cộng Sản mới thay đổi.

Những năm đầu qua Ba Lan, chúng tôi vẫn phải sinh hoạt Ðoàn, phải báo cáo tình hình học tập vân vân... nhưng sau đó thì thôi. Do đó, chúng tôi không bị sức ép nặng nề như các bạn khác học ở Liên Xô (cũ). Quy định của ban quản lý lưu học sinh tại trường đại học không quá khắt khe nếu không nói là quá nhẹ nhàng. Họ thường bênh vực chúng tôi khi có sự khó khăn của sứ quán Việt Nam.

PV: Anh nói nhờ sự giao tiếp qua những sản phẩm văn hóa của phương Tây mà cảm nhận của anh về chế độ Cộng Sản thay đổi. Ý thức chính trị của anh lúc đó ra sao?

NVT: Thực ra thì ý thức chính trị đã tác động chúng tôi rất sớm. Như tôi đã nói, không có nước XHCN nào có các sản phẩm văn hóa của Mỹ và Tây Âu nhiều như thế, nhất là sản phẩm văn hóa của Mỹ. Nền độc tài Ðảng trị của Ba Lan chưa bao giờ ghê gớm như các nước Cộng Sản khác, kể cả Việt Nam. Cho nên cái không khí tự do, những suy nghĩ chính trị độc lập chúng tôi đã có từ lâu. Ý thức về dân chủ mới có sau này thôi, nhưng ý thức về tự do, về cái ông Hồ vớ vẩn ở nhà thì sinh viên ở đây người ta đã phản ứng, chê trách lâu rồi. Nói về ông Hồ thì không chỉ riêng sinh viên ở Ba Lan mà các sinh viên Việt Nam ở Ðông Âu cũng biết chứ không riêng gì người dân Nam Việt Nam. Rất nhiều sinh viên Việt Nam ở Ðông Âu nhìn nhận về ông Hồ khác hẳn những điều đã được học, hình tượng về ông Hồ đã bị xóa bỏ từ lâu rồi.

Chúng tôi đã nhận định Việt Nam là một nước độc tài Ðảng trị, nhưng không có ý tưởng thay đổi thôi. Ba Lan thời gian đó dù cũng là một chế độ độc Ðảng nhưng vẫn tự do, thoải mái hơn Việt Nam rất nhiều. Khái niệm về đa nguyên, đa đảng cũng chưa có ngay cả ở người Ba Lan, dù người ta chiến đấu như thế. Chúng tôi chỉ biết phương Tây là thiên đường. Tại sao là thiên đường thì chúng tôi không biết, nhưng nói chung sinh viên Việt Nam ở đây đều có suy nghĩ như vậy. Còn có chiến đấu hay không thì không biết, phê phán xã hội đến mức độ nào thì không biết nhưng những thông tin chúng tôi nhận được cho thấy mức sống người dân ở phương Tây cao hơn, tự do hơn...

PV: Anh sang Ba Lan năm 1983. Ðó là những năm của các cuộc biểu tình, đình công nổ ra liên tiếp tại đây. Trước tình hình chính trị đó, việc học của các anh có bị ảnh hưởng không?

NVT: Không khí xã hội Ba Lan thập niên 1980 như trong một lò lửa. Lúc đầu bọn tôi không quan tâm nhiều vì quan tâm quá rất dễ bị đuổi học. Mà bị đuổi học là cả một tại họa.

Chương trình học cũng không khó khăn gì nhiều, nhưng với chúng tôi, càng học lâu càng tốt. Chương trình học chính thức là 5 năm, nhưng tuyệt đại đa số sinh viên ở đây cố gắng kéo dài thành 6 hoặc 7 năm. Chắc anh ngạc nhiên vì tại sao chúng tôi lại cố gắng như thế phải không? Anh cũng biết là ở Việt Nam lúc đó đang là thời kỳ đói khổ. Cả nước đói chứ không chỉ riêng miền Nam, củ chuối không có mà ăn. Thế thì chúng tôi về nước sớm làm gì? Ở Ba Lan vẫn đói khổ, vẫn tem phiếu nhưng đỡ hơn rất nhiều. Sinh viên chúng tôi ai cũng tranh thủ ở lại lớp 1 hoặc 2 năm để đi buôn. Không chỉ riêng sinh viên chúng tôi mới có suy nghĩ như thế, các nghiên cứu sinh (học chương trình sau đại học) cũng tranh thủ buôn bán.

PV: Như thế, có thể nói chính du học sinh đã hình thành một lực lượng buôn bán “ngoài luồng XHCN”.

NVT: Ðiều này đã tồn tại rất lâu rồi, nhưng phải nói thêm điều này để anh rõ. Không giống như những nước thuộc khối XHCN, ở Ba Lan chỉ có sinh viên và nghiên cứu sinh, hầu như không có công nhân lao động hợp tác. Yếu tố này rất quan trọng, vì những người Việt Nam đầu tiên đi và định cư chính thức tại Ba Lan hầu hết là giới trí thức miền Bắc. Do đó nhận thức về xã hội của chúng tôi cũng có khác so với những người đi Liên Xô, Ðông Ðức...

PV: Họ định cư có nghĩa là ở lại Ba Lan, không về nước?

NVT: Ðợt sinh viên đầu tiên qua Ba Lan du học vào cuối năm 1950 đã có người ở lại rồi. Nam tìm cách lấy vợ, nữ tìm cách lấy chồng người bản xứ để hợp thức hóa. Thời gian sau, một số tìm cách qua các nước Bắc Âu như Na Uy, Thụy Ðiển. Có một thời kỳ trong nước không gởi nữ sinh viên qua đây nữa vì họ lấy chồng Ba Lan nhiều quá. Trước khóa tôi học cũng có những trường hợp như thế.

Một số sinh viên do mải buôn bán kiếm tiền không lo học nên bị đuổi. Ðuổi thì đuổi nhưng họ không về. Về làm gì khi bên nhà còn đói meo đói mốc cả ra. Thế là họ ra ngoài mướn phòng sống rồi tiếp tục buôn bán. Cũng chẳng có ai truy lùng bắt về nước cả vì tình hình xã hội Ba Lan lúc bấy giờ cũng đủ rối tung cả lên rồi. Chính quyền lo đối phó với các cuộc biểu tình của công nhân, nông dân còn chưa xong, thời gian đâu mà để ý đến tụi tôi.

PV: Các anh cứ lo buôn bán thế thì thời gian đâu mà lo việc học, rồi kiến thức ở đâu ra, làm sao tốt nghiệp?

NVT: Những sinh viên bị đuổi cũng ít thôi. Như tôi đã nói, bị đuổi học là cả một thảm họa. Bị đuổi về nước là một chuyện, ở lại thì phải ở lậu vì đâu có giấy tờ gì đâu. Sinh viên chúng tôi thực ra cũng phải học và cũng còn ham chơi. Buôn bán với chúng tôi chỉ để “cải thiện” thêm đời sống và phụ giúp gia đình ở Việt Nam thôi. Chúng tôi không chịu sức ép về cuộc sống gia đình như phải nuôi vợ con như những người nghiên cứu sinh.

Không chỉ riêng các nghiên cứu sinh tại Ba Lan mà hầu như ở các nước XHCN,một số đông mải buôn bán nên trễ nải thật sự về đề tài nghiên cứu khoa học. Họ có vợ, có con, họ đã sống trong thời kỳ đói khổ ở Việt Nam nên khi ra được nước ngoài họ quyết chí làm giàu. Ở Liên Xô, người ta mua chuộc giáo sư, mua giờ giảng, mua bằng cấp để có thời gian đi buôn. Hồi đó, các giáo sư đại học ở các nước Ðông Âu rất ngây thơ, họ thường bị các nghiên cứu sinh mua chuộc dễ dàng. Chính họ tạo ra một tầng lớp “trí thức rởm”, so với kiến thức học thu được thì cái bằng cấp họ nhận được chỉ là tờ giấy vô giá trị. “Tiến sĩ giấy” là danh từ chính xác nhất để đặt tên cho họ. Sinh viên chúng tôi không chỉ ở Ba Lan mà nói chung ở các nước XHCN rất xem thường những nghiên cứu sinh như thế.

(Còn tiếp)
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
dacung
Gold Member
*****
Offline


Thất bại lớn nhất
là sợ thất bại!

Posts: 1378
Re: Người Việt ở Ba Lan
Reply #1 - 13. Jul 2007 , 09:18
 
Các “Tướng - Soái” Việt Nam thống lĩnh thị trường bán lẻ


Tuesday, June 19, 2007 
Vũ Đình Trọng/Người Việt

...
Hình 1

...
Hình 2

Hình 1: Một góc nhìn khu chợ Sân Vận Động Mười Năm từ đỉnh khán đài. Khắp chu vi bao bọc là những quày hàng tạm bợ, được che chắn sơ sài. Từ đây, khu chợ còn lan tỏa ra 4 phía với ước tính trong thời kỳ hưng thịnh nhất có khoảng 20,000 gian hàng. Hình: Vũ Đình Trọng/Người Việt.

Hình 2: Chợ chỉ giao dịch từ sáng cho tới 2 giờ chiều, sau đó là công việc của phu khuân vác và người quét dọn. Với gian hàng chưa tới 10 m2 (khoảng 90 sqft.) giá sang tay vào năm 2000 khoảng $7,000 - $20,000 tùy vị trí. Cũng với gian hàng này vào thời cực thịnh (1996 – 1997), người muốn vào buôn bán có thể phải trảđến $40,000. Hình: Vũ Đình Trọng/Người Việt.

Thú thật, nói là “Ba Lan Du Ký” chứ tôi chẳng có thời gian để ngoạn cảnh, chỉ đôi ba lần được anh bạn chở dạo quanh thành phố Warsaw và một lần được theo chân một giáo sư gốc Do Thái đi dạo quanh khu vực trước kia là khu Ghetto Do Thái để nghe ông nói về lịch sử phát triển và suy tàn của cộng đồng của ông tại đây. Thời gian chính tôi dùng để tìm hiểu hoàn cảnh sống của cộng đồng người Việt trong khu chợ trời nổi tiếng, chợ trời Jarmark Europa nằm trong khu vực Sân Vận Động Mười Năm.

Tưởng cũng nên nói qua vài nét về sự hình thành khu chợ trời nổi tiếng này.

Sân Vận Động Mười Năm được khánh thành vào năm 1955 nhằm kỷ niệm 10 năm thành lập Nhà Nước Cộng Sản Ba Lan. Thời đó, đây là một sân vận động lớn, đầy đủ tiêä nghi để tổ chức những giải túc cầu trong nước và trong khối các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN). Ngoài ra, nó còn được dùng để tổ chức các cuộc đua xe đạp, những buổi lễ lớn có tính tuyên truyền. Đến năm 1986 trở đi, bộ máy tuyên truyền của chế độ cũng giảm bớt hoạt động do phải đối phó với sự phẫn nộ của dân chúng, nên họ cũng không tổ chức được gì nhiều trên sân này. Sân hư hại do không có tiền tu bổ thường xuyên, bị bỏ hoang nên sân càng bị tàn phá nặng nề theo thời gian.

Đến những năm của thập niên 1980 – 1990, kinh tế Ba Lan bị khủng hoảng nghiêm trọng vì những cuộc đình công, biểu tình thì lực lượng buôn bán tư nhân lại càng được dịp phát triển. Trong lực lượng này, sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam ở đây chiếm một tỷ lệ khá lớn. Sinh viên thì chỉ tham gia buôn bán lẻ, chính những nghiên cứu sinh Việt Nam mới là những nhà buôn sỉ thực thụ. Anh Ngô Văn Tưởng, một nhà hoạt động dân chủ tại Warsaw cho biết:

“Có nhiều nghiên cứu sinh bỏ học, lao vào buôn bán như một phương tiện để cải thiện cuộc sống bản thân, cuộc sống gia đình họ ở Việt Nam. Mặt khác cũng có những nghiên cứu sinh đã học xong, về nước làm việc nhưng rồi không chịu nổi không khí làm việc hà khắc, trói buộc với đồng lương rẻ mạt đã tìm cách quay trở lại đây buôn bán. Rồi họ trở thành “Tướng”, “Soái” trong lãnh vực kinh doanh với vốn liếng từ 1 triệu dollars trở lên. Sinh viên chúng tôi lúc đó chỉ là một trong những mạng lưới phân phối hàng hóa đến các chợ nhỏ.”

Chắc chắn là họ không thể trở thành “Tướng” hay “Soái” nếu không có sự “giúp đỡ nhiệt tình” của các nhân viên ngoại giao Cộng Sản Việt Nam tại Varsaw trong thời kỳ đó. Ai đã giúp họ chuyên chở cả một toa tàu hàng hóa vượt biên giới Ba Lan sang Liên Xô một cách dễ dàng? Ai đã mang về cho họ những valy đầy ắp dollars mà không bị làm khó dễ? Không nói thì ai cũng biết, nhưng rồi tất cả đều như không biết.

Năm 1989 đánh dấu sự cáo chung chế độ Cộng Sản tại Ba Lan. Đây là nước đầu tiên đi ngược lại với sự phát triển xã hội theo Chủ Nghĩa Max, từ chế độ XHCN “tiến lên” chế độ Tư Bản, Sự kiện này kéo theo sự cáo chung của hàng loạt các nước Cộng Sản khác tại Đông Âu, dẫn tới hàng ngàn người Việt đi “Hợp Tác Lao Động” phải về nước.

Nhưng không phải ai cũng về khi biết rằng về nước còn khổ hơn là làm chui bên này. Và cái thị trường mở ở Ba Lan đã lôi kéo không chỉ hàng ngàn mà cả hàng vạn người Việt vượt biên từ Liên Xô và các nước Đông Âu sang làm ăn. Chưa có thông kê chính thức nào định được số người Việt sống chui ở đây, có thể là 30,000, nhưng cũng có thể nhiều gấp đôi.

Cũng trong năm đó, dân Ba Lan bung ra buôn bán mạnh hơn, kết hợp với người Việt khắp nơi đổ về. Họ thành lập khu chợ bán sỉ tại một sân vận động nhỏ trong thành phố Warsaw. Do lượng người buôn bán ngày càng đông nên năm 1990 người ta đề nghị Bộ Thể Thao và Du Lịch cho thuê sân vận đôäng Mười Năm để hoạt động, chợ Jarmark Europa hình thành từ đó. Khu chợ mới dần dần lấn áp chợ cũ cả về số lượng gian hàng lẫn khách hàng nên chợ cũ phải đóng cửa.

Chợ Jarmark Europa ngày càng phình ra. Đầu tiên chợ chỉ được tổ chức tại khu đất hình vành khuyên đỉnh khán đài. Sau cứ lan rộng ra những khu vực chung quanh, thời điểm cực thịnh của chợ là vào những năm 1996-1997 mà mỗi mét vuông gian hàng được tính cả chục ngàn dollars. Người Việt nhập cư lậu ngày càng đông vì đây chính là mảnh đất màu mỡ để làm ăn, sinh sống; công việc thuận lợi, họ tiếp tục tìm cách tổ chức người nhà vượt biên qua Ba Lan.

Hầu hết người Việt ở đây là người miền Bắc. Mặt hàng buôn bán chính là quần áo, giầy dép hoặc mỹ phẩm và nguồn hàng đa số được lấy bởi những ông “Tướng” hay “Soái” có công ty xuất nhập khẩu. Một số người có giấy tờ định cư hợp pháp thì tìm cách nhập hàng từ Việt Nam hay các nước Châu Á như Trung Quốc, Thái Lan nhưng cũng chỉ là số ít, đa phần là dân nhập cư lậu, họ phải sống nhờ vào nguồn hàng của các ông “Tướng”. Một ông “Tướng” người Việt cho tôi biết, lượng trao đổi hàng hóa tại thành phố này một ngày chừng một triệu dollars!

Buổi sáng đầu tiên tại thành phố Varsaw, tôi cùng nhà báo Ngô Nhân Dụng uống cà phê tại quảng trường gần nhà thờ Đấng Cứu Thế. Tại đây tôi được gặp một cô gái tên Hà, cô cho biết: “Em vượt biên từ Liên Xô qua được gần 1 năm. Chồng em đã đi trước mở đường nên em đi theo. Hiện vợ chồng em đang phụ bán hàng với người anh tại Sân Vận Động.” Cô không cho biết là đã tốn bao nhiêu tiền cho một chuyến vượt biên như thế, nhưng theo tôi tìm hiểu thì có rất nhiều đường dây đưa người Việt từ Liên Xô qua đây. Giá mỗi đầu người dao động từ $1,700 đến $2,000 tùy đường dây. Trước khi vượt biên, họ bị người dẫn đường tịch thu hộ chiếu nên nếu có chuyện gì xảy ra đối với họ, người nhà không bao giờ biết được.

Họ chấp nhận một chuyến đi đầy bất trắc và cuộc sống tạm bợ trên xứ người cũng chỉ vì môt lý do duy nhất: Ở quê nhà thì lấy gì mà sống!

(Còn tiếp)
Back to top
 

dacung
WWW  
IP Logged
 
Page Index Toggle Pages: 1
Send Topic In ra