Vi Ký: Anh có suy nghĩ gì về văn học “trong luồng’’ và văn học “ngoài luồng’’; văn học “chính thống” và văn học “vỉa hè-bên lề’’? Và, theo anh, văn học hải ngoại có phải là văn học miền Nam nối dài? Ấn tượng của anh về một nhà văn, nhà thơ miền Nam trước 1975? Và một nhà văn, nhà thơ trẻ của văn chương hải ngoại?
Nguyễn Quốc Chánh: Văn học trong luồng là những con tin đang biến tướng ở trong chuồng, luôn phải thích nghi với sự tráo trở khôn lường của Ðảng. Thời bao cấp, văn học trong luồng là những con tin thuần chủng. Ðến thời kinh tế thị trường định hướng XHCN, những con tin biến tướng thành những con đĩ văn chương. Ðảng đánh đĩ trong kinh tế và chính trị với tư bản, văn chương trong luồng đánh đĩ với Ðảng.
Báo Văn nghệ Nhà tù (Hội Nhà văn), Văn Nghệ Công an, Văn Nghệ Quân đội... và toàn bộ hệ thống xuất bản hiện thời vừa là trại giam vừa là nhà thổ. Nói đấy là thứ nhà thổ là vì các loại báo và nhà xuất bản phải tự hạch toán (kinh tế thị trường) theo kiểu “sống chết mặc thây tiền thầy bỏ túi’’ còn bảo đấy là tình trạng trại giam bởi vì chúng vẫn bị kiểm soát tư tưởng (định hướng XHCN) - tức là bị tước đoạt quyền con người.
Nhà văn trong luồng như vật nuôi trong chuồng, con nào ngoan, ranh thì được hót, thậm chí, còn được cho ra sân khấu làm xiếc. Khi cuộc độc diễn của Ðảng vãn tuồng, văn học trong luồng chắc biến thành nguyên liệu sản xuất bột giấy. Ðỉnh của văn học trong luồng là những giải thưởng, và “đỉnh cao” của các giải thưởng là giải Hồ Chí Minh. Nhưng bột giấy không có đỉnh.
Văn học ngoài luồng là hiện tượng đột biến ngoài tầm kiểm soát của Ðảng. Văn học ngoài luồng là sản phẩm của tự do, tự thân có tính khiêu khích ý chí quyền lực và khêu gợi bản năng dân chủ. Văn học ngoài luồng như muôn thú trong rừng, như cây cỏ trên mặt đất. Sống và chết theo luật tự nhiên, vui buồn, trào lộng cùng nhịp sinh thái.
Văn học ngoài luồng sẽ ngồi xuống hồi sức văn chương khi trò độc diễn của Ðảng vãn tuồng. Trong lúc Ðảng còn diễn, văn học ngoài luồng vẫn tiếp tục khí công để hàm dưỡng thân thể và cường dương tư tưởng. Nếu không, lỡ Ðảng xẹp xuống, văn học ngoài luồng cũng sẽ liệt luôn.
Nhưng, văn học của xã hội phân liệt dù sao cũng rất giống tình trạng nhá nhem của bệnh viện cúp điện. Văn học trong luồng hay giả điên để tiếp tục moi tiền bệnh viện. Văn học ngoài luồng vừa điên vừa rất sợ bệnh viện.
Văn học miền Nam trước 1975 là bệnh viện của thời nội chiến. Văn học hải ngoại là tình trạng trốn trại điên nghĩ về nội chiến. Nhưng làm sao có thể nói thơ của Ðinh Linh nối dài Thanh Tâm Tuyền; làm sao có thể nói phê bình của Nguyễn Hưng Quốc nối dài Ðỗ Long Vân; làm sao có thể nói truyện của Nguyễn Hương, Ðặng Thơ Thơ nối dài Túy Hồng, Nhã Ca, Trần Thị Ngh.; làm sao có thể nói khảo luận của Hoàng Ngọc-Tuấn nối dài Phạm Công Thiện; làm sao có thể nói truyện của Trần Vũ nối dài Dương Nghiễm Mậu; làm sao có thể nói thơ của Phan Nhiên Hạo nối dài Tô Thùy Yên...?
Coi chừng mắc cái mưu vì lỡ giải phóng miền Nam nên đồng hoá cái này với cái kia rồi đẩy ra rìa một thể cho tiện. Coi chừng đã ăn phải bả của kẻ cướp và thói phi tang. Ðó là nghề của hắn: cộng sản.
Một nhà văn trước 1975 gây ấn tượng cho tôi là Phạm Cộng Thiện, còn bây giờ là một nhà thơ hải ngoại: Ðinh Linh.
Vi Ký: Anh có thể cho biết những cảm tưởng chung hoặc riêng của anh về giới trẻ cầm bút (sau chiến tranh) cả trong nước lẫn hải ngoại?
Nguyễn Quốc Chánh: Sau chiến tranh không có nghĩa là hòa bình. Sau chiến tranh là để bắt đầu một cuộc chiến thâm độc hơn, cuộc chiến áp đặt ý thức hệ cộng sản lên miền Nam, khi xe tăng Liên Xô biến Sài Gòn thành thành phố Hồ Chí Minh. Trong cuộc chiến hơn 30 năm áp đặt ý thức hệ cộng sản, tới hôm nay vẫn chưa có hoà bình. Làm sao có hoà bình khi những công cụ tư tưởng (giáo dục, truyền thông, xuất bản) vẫn trong tay cộng sản? Chỉ có hòa bình khi những công cụ tư tưởng (giáo dục, truyền thông, xuất bản) thuộc về mỗi người. Trong cuộc chiến áp đặt ý thức hệ cộng sản, hai thái độ căn bản của giới cầm bút là cơ hội với quyền lực và phản chiến chống lại độc quyền.
Những Ly thân, Thiên đường mù mở màn cho cuộc phản chiến sau hoà bình. Những Phạm Thị Hoài, Bùi Chí Vinh, Bùi Hoằng Vị, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Viện lần lượt đẩy cuộc phản chiến ra ngoại biên. Những Phan Bá Thọ, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lý Ðợi tiếp tục phản chiến bằng những cuộc tự thương - kẻ bắn vào chân, thằng chặt ngón trỏ.
Cái đáng nể ở họ không phải là trò nghệ nhân của những phu chữ, mà thái độ phục hoạt chữ trong tay bọn độc quyền. Không thể có tự do tư tưởng khi chữ bị cấm đoán. Những nhà văn phản chiến sau hoà bình, nói theo cách bây giờ, họ là đội đặc nhiệm giải cứu chữ khỏi tay bọn khủng bố tư tưởng.
Ở hải ngoại, Nguyễn Hưng Quốc câu trọng pháo vào trụ sở BAN TƯ TƯỞNG VĂN HOÁ TRUNG ƯƠNG; Ðỗ Kh. du lịch và rải truyền đơn vào các địa điểm có bảng ghi: KHU PHỐ VĂN HOÁ MỚI; Ðinh Linh biệt kích vào nơi của những bảng đề: KHÔNG PHẬN SỰ CẤM VÀO; Trần Vũ bắn hoả châu vào ký ức quân viễn chinh; Nguyễn Hương bốc mộ lịch sử bằng nhãn quan không biên giới...
Ðối với cộng sản, văn nghệ là một mặt trận. Bởi quán tính nhìn mọi sự bằng con mắt chiến tranh giai cấp, những người cầm bút buộc phải thuộc phe này hoặc phe kia. Phe này là cộng sản, phe kia là phản động. Những người cầm bút trong và ngoài nước không ý thức tình trạng chính trị hoá văn nghệ của Ðảng, coi chừng tác phẩm giỏi lắm cũng chỉ là trò chọc ngoáy của tuổi Áo Trắng, Hoa Học Trò, Mực Tím và Sinh Viên Việt Nam.
Thông qua hệ thống báo chí và xuất bản, Ðảng kiểm soát văn nghệ. Mọi cơ hội đều trong tay chính trị và vì chính trị. Không có một giám đốc nhà xuất bản hay tổng biên tập nào là không đảng viên. Họ là những con rối vừa trục lợi vừa được phép đạo diễn những trò văn nghệ. Tùy thời tiết chính trị mà tô son hiện tượng này hay bôi xoá hiện tượng kia. Các hiện tượng lần lượt bị chính trị hoá mà cứ tưởng mình phơi phới, hoặc đôi bên bấu víu nhau và ngầm hiểu: mày chơi tao, tao sướng, tao dại gì không để mày chơi.
Nói theo giọng tệ nạn, giới cầm bút trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng XHCN, chuyển từ tình trạng con tin sang tình trạng con đĩ. Do mơ hồ về chính trị và bệnh háo danh, giới cầm bút (trẻ/già) là những con thiêu thân quanh ánh tà đạo của Ðảng và những nạn nhân đắc chí vì sự nổi danh của chính mình.
Vi Ký: Ðông Âu và Liên bang Xô-viết (cũ) sụp đổ đã khá lâu. Nếu như chế độ cộng sản ở Việt Nam không còn tồn tại nữa thì theo anh cái gọi là văn học “hiện thực XHCN” và văn học “phản kháng” có còn giá trị gì không hay cuối cùng chỉ còn như những “vật chứng” của lịch sử?
Nguyễn Quốc Chánh: Văn học hiện thực XHCN đã chết ngay khi Ðảng thập thò đổi mới. Ðổi mới là một ngụy từ che đậy sự thất bại của phương thức sản xuất XHCN. Văn học hiện thực XHCN là thượng tầng kiến trúc của phương thức sản xuất XHCN, và khi hạ tầng sụm bà chè, thượng tầng cũng đành để gió cuốn đi...
Văn học hiện thực XHCN là bằng chứng về sự ngu muội của một thời lịch sử bị chôn vùi. Văn học phản kháng là văn bản của một thời ngu muội, nhưng không phải tất cả đều tối thui. Chế độ cộng sản không còn nữa, dĩ nhiên, nhưng di căn của nó sẽ còn trong nhiều thế hệ người Việt. Nên nhớ, chúng ta đã ăn cám hơn nửa thế kỷ, mỗi người đều có thừa một cái đuôi. Hãy tin tôi đi, hãy cúi xuống nhìn vào xương khu của mình, ở đó, tôi cam đoan có một cái đuôi vô hình đang ngọ ngoạy. Văn học phản kháng là để dòm ngó cái ngọ ngoạy đó. Tất cả chỉ mới bắt đầu.
Lịch sử luôn cần nhiều vật chứng. Giá trị nào không bắt đầu từ những vật chứng. Vật chứng càng đa phương, giá trị càng sống động. Lịch sử sẽ khác nếu bên cạnh Nhật ký Ðặng Thùy Trâm còn có Ðêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên; bên cạnh Hồi ký Lý Quý Chung còn có tiểu luận của Dương Thu Hương...
Văn học phản kháng là hệ quả của mọi chế độ nhưng dưới chế độ cộng sản, phản kháng là một thách đố chết người. Phản kháng là biểu hiện của trí khôn biết giận dữ trong những hoàn cảnh tàn bạo của lịch sử. Cuốn sách phản kháng chế độ cộng sản bằng ngụ ngôn thông minh và kinh điển nhất là Trại súc vật. Những nhà văn dưới chế độ cộng sản sau khi đọc Trại súc vật mà vẫn nhởn nhơ tưởng mình là sĩ này sĩ nọ thì đúng là những con lợn. Sự lên ngôi của lợn trong lịch sử loài người là vật chứng tuyệt vời của một thời con người bất lực trước sự man rợ của lịch sử.
Vi Ký: Là một thi sĩ rất “thời sự” và “chính trị”, anh có suy nghĩ gì về những cây bút “phản động” ở Việt Nam. Cụ thể là trường hợp đòi làm “giặc” của nhà văn nữ Dương Thu Hương?
Nguyễn Quốc Chánh: Ðảng Cộng sản thắng Tây và Mỹ bằng máu của dân tộc, bằng vũ khí của Nga và Tàu, rồi nộp “độc lập dân tộc” cho cộng sản Tàu và Nga. Ai chỉ ra tình trạng thế chấp và bán đứng đó đều bị cho là phản động. Kẻ phản động có thể gây tai họa cho Ðảng nhưng lại là phúc của dân. Những ai vì Ðảng sẽ kết án kẻ phản động, còn những ai vì con người thì sẽ hoan hô kẻ phản động. Hãy nhớ câu nói lịch sử của ông Nguyễn Văn Thiệu: “Ðừng tin những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”.
Tôi không nghĩ nhà văn Dương Thu Hương làm giặc. Làm giặc phải dùng binh khí và binh sĩ tấn công bọn cầm quyền hoặc thành phần chủ mưu đảo chánh. Lịch sử Việt Nam có hai nhà làm giặc là Cao Bá Quát và Nhất Linh. Cao Bá Quát dùng binh khí và binh sĩ, Nhất Linh chủ mưu đảo chánh. Nước Nhật cũng có một nhà văn làm giặc lừng danh bằng binh khí là Yukio Mishima và cả 3 đều thất bại hiển hách. Nhà văn làm giặc là cách tự sát tích cực. Chị Dương Thu Hương nói chị sẵn sàng chết, tôi tin, nhưng chị không có lực lượng, một mình thì không thể làm giặc, trừ Kinh Kha.
Chị Dương Thu Hương là một nhà văn ly khai và phản kháng. Hành trình của một người ly khai và phản kháng cực hơn một người làm giặc vì đó là hành trình đơn độc của ý thức tự phủ định. Chị ly khai trong tiểu thuyết và phản kháng qua những bài luận trực tiếp công kích Ðảng. Phản kháng của nhà văn là để thoả mãn ý thức làm người chứ không phải để cướp chính quyền. Do đó, khi nhà cầm quyền nhốt một nhà văn phản kháng thì nhà cầm quyền đã phạm vào tội ác chống loài người.
Vi Ký: Nếu Thượng Ðế có tồn tại trong suy nghĩ của anh và ban cho anh ba điều ước: một cho thơ, một cho đất nước Việt Nam và một cho anh, anh sẽ ước những điều gì?
Nguyễn Quốc Chánh: Nếu Thượng Ðế ban cho tôi ba điều ước,
tôi chỉ ước một điều: làm ơn bứng Ðảng cộng sản khỏi Việt Nam và hốt giùm 3 triệu đảng viên bỏ lên sao Hoả !
(Bài phỏng vấn được thực hiện qua email)
Sài Gòn mùa World Cup 2006 © talawas
************
Ý KIẾN ĐỘC GIẢ:
- Hoàng Hạc, Saigon (Tuesday, November 21, 2006 at 06:34:45)
Tuyệt vời !!! Tôi chưa bao giờ đợơc đọc một bài phỏng vấn mà thấy "đã" như thế này. Và tôi ước mong sao giới văn nghệ sĩ trí thức ở VN ngày càng xuất hiện thêm nhiều những con người chân chính dám nói lên sự thật như chàng thi sĩ này. Tôi xin nói với anh Nguyễn Quốc Chánh 01 lời thôi: "CẢM ƠN ANH !!!"
- Hoàng Hà (Thursday, July 6, 2006 at 18:27:3
Kinh thưa quí vị,
Tôi vô cùng đồng ý với nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh về những nhận định trung thực về văn hóa và văn nghệ trong chế độ độc tài csvn. Tôi càng cảm phục hơn khi thi sĩ đang ở trong nước. Tôi tin rằng với sự quả cảm như vậy của những vị trí thức VN, chắc chắn chế độ phi nhân cs sẽ không thể tồn tại trong thời gian không xa. Cãm ơn cuộc phỏng vấn rất giá trị này. Kính.
- Tran Dinh Ngoc (Thursday, July 6, 2006 at 23:50:53)
Y kien cua anh Nguyen Quoc Chanh cung la y kien cua toi ap u tu lau. Xin Thuong De cho anh toai nguyen, va cho toan dan VN toai nguyen: Bung dang Cong San di khoi VN va nhot 3 trieu dang vien ke ca lanh dao vao hoa nguc vi da pham trieu trieu toi ac voi Dan toc, dung dau la ong Ho chi Minh
http://tdngonluan.com/vannghe/vng_chimotdieuuoc.htm