CSVN Và Vấn Đề Hoàng Sa - Trường Sa TRẦN ĐỨC TƯỜNG (VNN) . Việt Báo Thứ Bảy, 12/29/2007, 12:02:00 AM
Giờ đây đã đến cái lúc toàn bộ vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như lãnh hải của tổ quốc Việt Nam bị Trung Cộng xâm chiếm đập thẳng vào mặt chính quyền CSVN. Hà Nội không thể núp sau bất cứ một thứ bình phong nào để né tránh như từ trước tới nay. Bình phong gì và né tránh như thế nào thì hiện nay có thể trên 50% dân số Việt Nam sinh sau năm 1975 không mấy tường tận. Thiết tưởng trong lúc dân tộc Việt Nam trong cũng như ngoài nước, già trẻ, gái trai đang sục sôi lòng yêu nước và lửa căm hờn khi Trung Quốc quyết định thôn tính hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào quận huyện của họ, cũng nên tìm hiểu một chút lịch sử về hai quần đảo này của chúng ta.
CSVN Bán Nước Cho Ngoại Bang
Về lịch sử chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nếu trước 1975 chính quyền CSVN tại Miền Bắc không hề đả động đến, thì tại Miền Nam các quần đảo này đã được ghi trên sách địa dư của nhiều lớp trung và tiểu học. Nhiều thế hệ học sinh đã học tập và ghi nhớ. Địa danh hai quần đảo này trở nên thời sự vào năm 1974, lúc Trung Cộng đã xua quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa sau người Mỹ rút chân khỏi vùng Đông Nam Á. Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu mãnh liệt nhưng sức cô, lực kiệt, đã không bảo vệ được quần đảo. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã phản đối trên trường quốc tế và đã trưng ra những chứng tích lịch sử không thể chối cãi về chủ quyền của Việt Nam trên những hòn đảo đó.
Lúc này, CSVN hoàn toàn câm nín. Đến nay, khi Trung Cộng xâm lăng thêm quần đảo Trường Sa, Hà Nội mới đưa ra những chứng tích của VNCH trước đây. Thiết tưởng chỉ cần đọc những tư liệu hiện nay trên nhiều báo chí trong nước cũng biết được rằng hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc quyền sở hữu của Việt Nam từ nhiều trăm năm qua.
Nếu lịch sử chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đơn giản bao nhiêu thì nguyên nhân tại sao Trung Quốc ngang ngược xâm chiếm các quần đảo này có vẻ rắc rối bấy nhiêu. Rắc rối vì đảng và chế độ CSVN cố tình che giấu khiến nhân dân ta mù mờ không hiểu rõ. Thực chất vấn đề này khởi sự từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước.
Cuộc chiến tranh được gọi là "kháng chiến chống Pháp" đã được Hồ Chí Minh khởi động ngày 22/12/48 trong lúc đất nước và dân tộc ta vừa thoát ách nô lệ thực dân và bị quân đội Nhật chiếm đóng, bị bom đạn tàn phá... đang ở trong tình trạng kiệt quệ. Đối với Việt Minh, tình hình chiến sự chỉ sáng sủa sau khi quân cộng sản Trung Hoa dưới quyền lãnh đạo của Mao trạch Đông "giải phóng" nước Tàu và tuyên bố thành lập chính quyền cộng sản ngày 01/10/1949.
Với tinh thần bá quyền bành trướng, tuy thành công sau CSVN, nhưng Trung Cộng đã tỏ thái độ đàn anh, và CSVN, đứng đầu là Hồ Chí Minh đã tỏ ra thần phục Bắc Kinh để được chi viện về quân sự đối phó với đoàn quân viễn chinh của Pháp. Việt Minh đã nhận được không những vũ khí, quân dụng từ Trung Quốc, mà cả sĩ quan, cán bộ chính trị cố vấn người Trung Quốc. Dấu vết ghi đậm của bọn cố vấn Tàu này là cuộc "cải cách ruộng đất" đẫm máu mà Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo CSVN đã cúi đầu vâng lệnh thực hiện trên đất Bắc. Nhưng cũng nhờ có những vũ khí nặng như đại bác và cả cán bộ quân sự của Trung Quốc nên Việt Minh đã tạo được chiến thắng Điện Biên Phủ.
Sau sự sụp đổ của khối cộng sản thế giới, người ta đã khám phá ra rằng giữa các chế độ cộng sản với nhau, không có chuyện "viện trợ không hoàn trả", kể cả viện trợ quân sự để bành trướng chủ nghĩa. Tất cả mọi hình thức "chi viện" đều là một sự vay trả, trả vay. CSVN đã phải bồi hoàn trong nhiều năm món nợ chiến tranh cho Liên Xô bằng cách xuất cảng lao nô dưới danh nghĩa "lao động hợp tác". Trung Cộng là một nước dư thừa nhân công nên họ không cần "lao nô" của CSVN. Họ cần thứ khác. Đó là đất đai, lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo vv...
Ý đồ bành trướng của Trung Cộng trong vùng Đông Hải nước ta giải quyết nhu cầu đất đai thì ít nhưng nhu cầu chiến lược kinh tế cũng như quân sự thì nhiều. Hơn ai hết, Bắc Kinh và Hà Nội biết rõ, nếu không có Trung Cộng thì Việt Minh sẽ thua quân đội Pháp và sẽ không có chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, sẽ không có Hiệp Định Genève và CSVN sẽ không chiếm được phân nửa đất nước phía Bắc vĩ tuyến 17. Cuộc "Tổng Tuyển Cử" vào năm 1956 theo dự trù của Hiệp Định Genève đã không xẩy ra và CSVN theo lệnh của quốc tế cộng sản đã chuẩn bị xâm lăng võ trang Miền Nam Việt Nam. Đương nhiên là để tiến hành cuộc chiến tranh mới này, CSVN sẽ phải đương đầu với Mỹ với nhiều phương tiện hiện đại hơn Pháp nhiều lần. CSVN chắc chắn phải dựa vào nguồn viện trợ quân sự của Trung Quốc ở sát biên giới. Tuy hiện nay chưa có những bằng chứng cụ thể như văn bản tài liệu về những thỏa nhượng giữa Hà Nội và Bắc Kinh, nhưng chắc chắn là CSVN phải được sự bảo đảm viện trợ của Trung Cộng mới dám phát động cuộc chiến. Và chắc chắn Trung Cộng cũng phải nắm được những cam kết, trao đổi của CSVN mới chấp thuận viện trợ. Vì thế, không thể nói là CSVN không hề biết âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã có thỏa thuận với nhau.
Vì thế mà 4 năm sau Hiệp Định Genève, và 2 năm trước khi cộng sản Bắc Việt tiến hành xâm lăng Miền Nam, Trung Cộng đã ra bản tuyên bố về lãnh hải của họ ngày 04/09/1958, trong đó họ sát nhập 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào lãnh thổ của họ. Bản tuyên bố đã được ông Trần Đồng Đức dịch từ Hán văn ra Việt ngữ như sau:
"Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958
Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa)
Đại biểu uỷ viên thường vụ đại hội nhân dân toàn quốc liên quan việc phê chuẩn quyết nghị công bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa
(Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội uỷ viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua)
Quyết nghị
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội uỷ viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Đính kèm: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải
Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc
* Hai: Lãnh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở, thuỷ vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lý là lãnh hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mã Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.
* Ba: Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập vào lãnh hải vào không gian trên lãnh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lãnh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
* Bốn: Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại quốc can thiệp".
Nguồn dịch:
http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm Mười ngày sau khi Quốc Hội Trung Quốc phê duyệt quyết nghị trên đây, tức là ngày 14/09/1958, phía Việt Nam, Phạm Văn Đồng với tư cách Thủ Tướng chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã gửi một công hàm thẳng cho Chu Ân Lai, Thủ Tướng của Trung Quốc.
Nguyên văn bản công hàm này như sau:
Có người cho rằng vì CSVN phản ứng nhậm lẹ nên đã không lường được hết những hậu quả của việc "ghi nhận và tán thành" những tuyên bố ngày 4/9/58 của Trung Cộng. Điều này không thể xẩy ra được vì theo quy luật vận hành của đảng cộng sản thì không phải chỉ một mình Phạm Văn Đồng có toàn quyền quyết định. Đây là quyết định của Trung Ương Đảng lúc đó chỉ có 17 Ủy viên chính thức và 10 Ủy Viên dự khuyết, hay ít ra là Bộ Chính Trị, trong đó có cả Hồ Chí Minh. Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng chỉ là người thừa hành ký công hàm mà thôi. Tập đoàn đầu sỏ của CSVN tất nhiên phải biết rằng để cho Trung Cộng sát nhập đất đai là điều trái với truyền thống dân tộc Việt Nam. Nhưng, lúc đó hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở phía nam vĩ tuyến 17 và như thế thuộc quyền kiểm soát của nước Việt Nam Cộng Hòa mà cộng sản Hà Nội coi là thù nghịch.
Có ba lý do khiến CSVN có hành động ủng hộ việc Trung Cộng thôn tính đất đai của Việt Nam. Thứ nhất, Với chủ trương vô gia đình, vô tổ quốc, CSVN ôm ấp lý tưởng thế giới đại đồng, trái đất không còn biên giới. Ăn thua gì mấy hòn đảo nhỏ ngoài khơi. Thứ nhì, Với tư tưởng hận thù chuẩn bị chiến tranh, CSVN ủng hộ ngoại bang cùng phe cộng sản thôn tính đất đai dưới quyền kiểm soát của kẻ địch. Thứ ba, CSVN hiến dâng các quần đảo xa xôi cho Trung Cộng để đền ơn chi viện đánh thắng thực dân Pháp và đổi lấy súng đạn âm mưu xâm chiếm Miền Nam.
Hai năm trước khi ký bản công hàm, theo tài liệu "Cuộc tranh chấp đất đai Việt-Trung" (The Sino-Vietnamese Territorial Dispute) của tác giả Pao-min thuộc Trung tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế" (The Center for Strategic and International Studies) của trường Đại Học Georgetown, Hoa Thịnh Đốn, ấn hành và tờ Tạp Chí Bắc Kinh số ra ngày 30/03/1979 (trang 20) đăng tải, thì ngay vào thời điểm năm 1956, Phạm Văn Đồng đã nói với Trung Quốc rằng: "Trên quan điểm lịch sử, các đảo này (tức Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ của Trung Quốc". Vì thế, trong buổi tiếp tân ngày 15/06/1956 dành cho viên xử lý thường vụ Tham Tá đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, Li Shimin, Ung Văn Khiêm - thứ trưởng Ngoại Giao cộng sản Bắc Việt thời bấy giờ - đã chính thức xác nhận rằng: "Dựa vào những tài liệu mà phía Việt Nam có trong tay, các đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa), xét về mặt lịch sử, là thuộc về Trung Quốc".
Cùng có mặt trong buổi tiếp tân này, Lê Lộc, xử lý thường vụ giám đốc Phòng Á Châu Sự Vụ, đã nói thêm: "Trên mặt lịch sử, các đảo Tây Sa và Nam Sa đã là đất đai của Trung Quốc từ dưới đời Nhà Tống (960-1279)". Sau đó, báo chí cộng sản Hà Nội cũng như sách giáo khoa của chế độ đã nhiều lần xác nhận chủ quyền Trung Cộng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 1977, khi bị chất vấn về những lời tuyên bố và bản công hàm, Phạm Văn Đồng đã thú nhận rằng: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh nên tôi phải nói như thế". Và trong cuộc họp báo ngày 03/12/1992, Nguyễn Mạnh Cầm tuyên bố: "Trung Quốc đã cung cấp cho Việt Nam sự giúp đỡ to lớn và quý giá... Những lời tuyên bố của các đồng chí lãnh đạo của chúng tôi lúc đó là cần thiết!".
Dù gì đi chăng nữa thì bức công hàm của Phạm Văn Đồng là một bằng chứng bán nước cho ngoại bang và hành động của CSVN là hành động bán nước không thể tha thứ được. Lý Thường Kiệt khi xưa đã có câu thơ "Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư"... Vua Trần Nhân Tôn (1279-1293) đã để lại lời di huấn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Lịch sử Việt Nam đã chứng minh là bất cứ ở triều đại nào, tinh thần bảo toàn bờ cõi là tối thượng của dân tộc ta. Tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã không còn đếm xỉa gì đến truyền thống dân tộc.
(xin xem tiếp trang tới ...)