Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Ngày này  năm xua  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 3 4 5 6 ... 9
Send Topic In ra
Ngày này  năm xua (Read 18258 times)
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4033
Re: Ngày này  năm xua
Reply #45 - 16. May 2011 , 14:52
 
Hôm nay  là ngày  15 tháng 4 Âm lịch - Ngày Đản Sanh  thứ 2555  của Đức Phật Thích Ca .



NAM MÔ  BỔN SƯ THÍCH CA MẦU NI PHẬT
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4033
Re: Ngày này  năm xua
Reply #46 - 10. Jun 2011 , 23:42
 
Không biết  các bạn còn nhớ  ngày 11 tháng 6  -năm 1963   là ngày gì ?

Ngày 11  tháng  6 năm 1963  tại Ngã Tư Phan đình Phùng - Lê văn Duyệt - Hòa thượng Thích Quảng Đức  đã Xả thân vì Đạo Pháp -

Cố thi sĩ  Vũ hoàng Chương đã có bài thơ" Lửa Từ Bi" và có bản nhạc "Trái Tim Bồ Tát "
Back to top
 
 
IP Logged
 
tícônương
Full Member
***
Offline



Posts: 110
Re: Ngày này  năm xua
Reply #47 - 17. Jun 2011 , 00:00
 


Tưởng niệm 81 năm Ngày Tang Yên Bái (17/06/1930 - 17/06/2011)



...



Đây là điều nhắc nhở ta rằng - Không thể bịt miệng một dân tộc
Mà người ta không thể khuất phục - Bằng lưỡi kiếm của đao phủ

Luis Aragon
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Ngày này  năm xua
Reply #48 - 17. Jun 2011 , 20:20
 
     
81 năm Ngày Tang Yên Bái : Khí phách hiên ngang của những người yêu nước      



Thái Sinh - Trước nguy cơ VNQDĐ bị tan vỡ vì bị giặc Pháp bắt bớ, giam giữ, tù đày trong cuộc họp với các lãnh tụ VNQDĐ ngày 26/1/1930 tại làng Mỹ Xá, Nam Sách, Hải Dương, Nguyễn Thái Học đã phát biểu với các đồng chí của mình: “Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng, thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi người của Đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dần, vô tình xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam. Âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thì cũng thành nhân…”


Lãnh tụ VNQDĐ Nguyễn Khắc Nhu bị bắt ngày 10/2/1930 khi ông bị giặc bắn bị thương. Bà Nguyễn Thị Thúc - con gái ông năm nay 92 tuổi hiện đang sống ở Yên Bái đã kể lại những giờ phút cuối cùng của cha mình: Cha tôi là nhà nho, ông từng đỗ đầu Xứ Kinh Bắc nên người ta gọi ông là Xứ Nhu. Khi chỉ huy đánh đồn Hưng Hoá, ông vẫn đội khăn xếp. Chúng phát hiện ra ông là chỉ huy nên đã nhằm bắn ông. Mới đầu ông bị thương vào chân, đồng đội cõng ông ra, ông bảo: Hãy để tôi cùng chiến đấu, nếu phải hy sinh thì hy sinh cùng anh em…
...

Câu thơ của Louis Aragon được khắc trên bia đá tại khu  tưởng niệm Nguyễn Thái Học. Trong ảnh là Cụ bà Nguyễn Thị Thúc - con gái nhà cách mạng VNQDĐ Nguyễn Khắc Nhu

Lần thứ hai ông bị thương vào bụng, ông từ chối để anh em khiêng đi, vì thế ông bị sa vào tay giặc. Chúng bắt ông đưa về đồn, dùng mọi điều ngon ngọt dụ dỗ. Chúng hỏi: Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính ở đâu, Cô Giang (Nguyễn Thị Giang) hiện đang làm gì? Ông đều lắc đầu: Những người đồng chí của tôi hiện đang làm gì ở đâu tôi không thể nói cho các ông được. Những người yêu nước chúng tôi không thể quì gối xin đặc ân của những kẻ cướp nước. Các ông hãy bắn hay xử chém tôi ngay, chứ đừng hy vọng tôi khai tên tuổi những đồng chí của tôi cho các ông bắt bớ, giam cầm…
...

Lãnh tụ VNQDĐ Nguyễn Khắc Nhu


Chúng dùng thuyền chở ông qua sông Hồng áp giải sang bên Phú Thọ, ông nhảy xuống sông tự tử. Chúng vớt được ông rồi giam vào đồn, tại đây ông đã đập đầu vào tường đá tự tử thể hiện khí phách lẫm liệt của một chí sĩ yêu nước. Để người thân và nhân dân không tìm được hài cốt của ông, ngay đêm 11/2/1930 giặc Pháp vội đem ông chôn trên một bãi đất rộng, sau đó chúng dùng bừa san phẳng để xoá nấm mộ. Cho đến nay con cháu ông vẫn không biết được mộ của ông ở nơi nào…
...

Trong danh sách 4 người bị giặc Pháp hành hình tại Yên Bái ngày 8/5/1930, người đứng đầu danh sách lên máy chém là Ngô Hải Hoàng. Ông là hạ sĩ quan tham gia chỉ huy khởi nghĩa Yên Bái, ông bị bắt khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tài liệu các cuộc hỏi cung còn ghi, ông đã chẳng ngần ngại trả lời:

“Hỏi: Tại sao anh đánh Yên Bái?
Đáp: Không phải tôi đánh mà là Trung ương Đảng bộ hạ lệnh tôi đánh…

Hỏi: Ông quan ba Jourdain là quan thầy tử tế với anh như vậy mà đêm ấy anh đã bắn chết ông ta trước nhất!
Đáp: Ông Jourdain tử tế với tôi thật, nhưng đó là tình riêng. Còn tôi giết ông ấy là bổn phận của tôi đối với Đảng với nước. Người Việt Nam chúng tôi bao giờ cũng đặt nghĩa công lên tình riêng.

Hỏi: Anh thật là hạng người tàn ác. Một mình anh đêm ấy giết chết 6 người Tây. Đáp: Tôi làm gì giết được nhiều như thế! Anh em tôi giết nữa chứ! Nhưng cả Đảng chúng tôi chỉ là một người, anh em tôi giết cũng chính là tôi giết. Tôi sẵn lòng chịu hoàn toàn trách nhiệm…

Cô Giang tự sát để lại nhiều bức thư tuyệt mệnh đầy chí khí cách mạng. Cô Bắc (Nguyễn Thị Bắc, chị ruột cô Giang) thét lớn trong phiên xử án của Pháp: “Chúng mày về nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne d’Are xuống đi thôi!” (Theo Nguyễn Huy Phúc, Viện sử học, “Về cuộc Khởi nghĩa chống Pháp ở Yên Bái”).


Sử Nhạc Việt Nam NGUYỄN THÁI HỌC


Lãnh tụ VNQDĐ Nguyễn Thái Học bị giặc Pháp hành hình lúc 5h30’ ngày 17/6/1930 tại TX. Yên Bái cùng với Phó Đức Chính và 11 người khác. Tất cả 13 người trước cái chết đều hiên ngang, bình thản, chấp nhận sự hy sinh của những nghĩa sĩ yêu nước. Bùi Văn Chuẩn khi bước lên đoạn đầu đài hô lớn “Việt Nam” thì bị một tên lính Pháp bịt miệng không hô được nữa. Phó Đức Chính-người thứ 12 bước lên máy chém, đòi đặt nằm ngửa để xem lưỡi máy chém như thế nào.

Nguyễn Thái Học người cuối cùng bước lên máy chém, ông mỉm cười nhìn công chúng và binh lính. Sắc mặt thản nhiên đọc thơ bằng tiếng Pháp:

“Chết vì Tổ quốc chết vinh quang

Lòng ta sung sướng, chí ta nhẹ nhàng…”


Sau khi đọc xong bài thơ bằng tiếng Pháp, ông hô lớn “ Việt Nam vạn tuế”, rồi thản nhiên hút mấy hơi thuốc lá rồi ung dung bước lên máy chém. Lưỡi dao máy chém chặt đầu ông đứt văng ra pháp trường, dòng máu vọt lên trời như suối đỏ, mắt ông vẫn mở trừng trừng, quắc sáng nhìn lũ giặc, miệng ông vẫn còn mấp máy điếu xì gà…(Theo Ngô Quang Nam, Bộ VHTT, “Nguyễn Thái Học - Kinh Kha đất Việt").

Khởi nghĩa Yên Bái thất bại và bị dìm trong biển máu, những lãnh tụ của VNQDĐ bị hành quyết. Sự hy sinh của họ thể hiện chí khí cách mạng, lòng yêu nước và tự tôn dân tộc, không cam chịu khom lưng trước giặc ngoại xâm. Như Nguyễn Thái Học đã nói: “Không thành công cũng thành nhân”.

Thái Sinh


http://www.baomoi.com/Home/XaHoi/nongnghiep.vn/Khi-phach-hien-ngang-cua-nhung-ng...
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4033
Re: Ngày này  năm xua
Reply #49 - 01. Jul 2011 , 18:00
 
Hôm nay  1 tháng 7  là Ngày Quốc Khánh  CANADA  -  Thân chúc  Dân chúng CANADA  Vui- Hạnh Phúc .
Back to top
« Last Edit: 01. Jul 2011 , 18:02 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Ngày này  năm xua
Reply #50 - 04. Jul 2011 , 08:58
 

HÔM NAY NGÀY 4 THÁNG 7 LÀ NGÀY ĐỘC LẬP CỦA HOA KỲ.MỜI CẢ NHÀ CÙNG ĐỌC

...




TÌM HIỂU NƯỚC MỸ NHÂN NGÀY DỘC LẬP HOA KỲ 4 THÁNG 7

_ MƯỜNG GIANG
     
Dù cho vật đổi sao dời hay thiên hạ có nói gì chăng nữa, thì tới nay Hoa Kỳ cũng vẫn là quốc gia vĩ đại nhất về đủ mọi phương diện kể cả mức thu nhập bình quân đầu người trên 40.000 USD bỏ xa Thụy Sĩ (33.800) , Úc (30.700), Anh (29.600), Nhật (29.400), Ðức và Pháp (28.700)..Căn cứ vào tác phẩm nổi tiếng ‘ Un Jour De La Vie De L’Amerique ‘ do nhà xuất bản Robert Laffont tại Pháp ấn hành, tổng hợp từ bài viết của hơn 200 ký giả ngoại quốc và trên 250.000 tấm ảnh độc đáo vô cùng giá trị. Nhờ vậy chúng ta mới có cơ hội hiểu được phần nào về ‘ Một đất nước trong một lục địa ‘ có lảnh thổ rộng lớn tới 9.629.091 km2 (chỉ thua Nga, Canada, Trung Cộng) với tổng sản lượng quốc gia gấp trăm ngàn lần nhiều nước khác trên thế giới. Hiện dân số Mỹ 295.734 triệụ người, đông nhất vẫn là da trắng (chiếm 77% ), da đen (12 %) , gốc La Tin như Y Pha Nho, Bồ Ðào Nha (8%) .. còn lại là thiểu số người gốc Châu Á, Polynésien và Da Ðỏ . Có hơn 73,5% người Mỹ sống tại các đô thị lớn nhỏ . Los Angeles nằm trong tiểu bang California, là một trong những siêu đô thị hiện nay của Hoa Kỳ, xuất phát từ cái tên do người Mễ đặt ‘ El Pueblo De Nuestra Senora Le Reina De Los Angeles De Porcianculal ‘ , hiện có trên 12 triệu dân nói lẫn lộn tiếng Tây Ban Nha và Anh Ngữ. Trong khi đó New York lại là thành phố lớn nhất của Mỹ, cũng là đô thị có nhiều người Do Thái sinh sống nhất trên thế giới, sử dụng tiếng Yiddish (Israel) , loại cổ ngữ chỉ còn xài ở Trung Ðông mà thôi.

Toàn quốc có 15.132 phi trường lớn nhỏ, trong đó Chicago và Dallas Fort Worth được coi là lớn nhất thế giới, cứ 14 giây là có một phi cơ hạ hay cất cánh nhưng có điều kỳ lạ là người Mỹ không thích xuất ngoại bằng máy bay, nên trung bình hằng năm có chừng 15 triệu người ra nước ngoài. Về phương tiện giao thông, Hoa Kỳ đứng đầu thế giới với 6 triệu cây số xa lộ , 150 triệu xe ô tô đủ loại và 30 triệu xe vận tải hạng nặng, xuôi ngược khắp nước hàng ngày, qua vận tốc ấn định từ 88-105 km/giờ.

Kỹ nghệ sản xuất xe hơi của Mỹ vẫn đứng đầu thế giới cho dù mọi người xài cả xe Nhật lẫn Châu Âu. Thủ đô ô tô của Mỹ là Detroit thuộc tiểu bang Michigan nằm kế Ngủ Ðại Hồ. Một người di dân Pháp tên Antoine De La Mothe Cadillac đã lập ra thành phố này. Vì vậy để tưởng nhớ tới ông, các công ty sản xuất xe hơi của Mỹ, mới đặt tên cho một loại xe đắt tiền nhất do Hoa Kỳ chế tạo là ‘ Cadillac ‘.Tới nay ba đại công ty Géneral Motors, Ford và Chryslev vẫn đứng đầu cả nước và thế giới về mức sản xuất xe, qua sự hổ trợ của nhiều công ty nhỏ . Ngoài ra Hoa Kỳ còn là cường quốc dẫn đầu thế giới về điện nguyên tử, máy bay, máy điện toán, thuốc lá, bắp, thịt bò, than đá..

Tuy người Mỹ sống rất thực tế nhưng hầu hết đều tham gia các công tác từ thiện với số tiền góp và tậng phẩm hằng năm gần 100 tỷ mỹ kim. Tóm lại không có ai dám nói rằng mình biết hết chuyện nước Mỹ vì đời sống ở đây gần như thay đổi từng giây từng phút, khó lòng dự đoán được. Với Người Việt Tị Nạn Cộng Sản qua 36 năm lưu vong, nay đã để lại một dấu ấn tốt đẹp và đậm nét trong những trang sử của Hoa Kỳ. Ðó là sự hình thành các cộng đồng Người Việt Quốc Gia mà biểu tượng là ‘ Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ ‘ đã được nhiều Tiểu Bang công nhận, tại các thành phố lớn như San José, Los Angeles, Houston, Wasington DC, New York.. và nhất là Little Sài Gòn, thủ đô của Người Việt Hải Ngoại..

Tóm lại, người Mỹ không cần biết tới đời tư của bất cứ cá nhân nào khi họ dấn thân vào con đường chính trị, miễn sao các cấp lãnh đạo, mang cho dân chúng có đủ cơm ăn áo mặc, đất nước thanh bình, uy tín của Hoa Kỳ được tôn trong khắp thế giới là đủ rồi.

Ngoài các vấn đề trên, đối với người Mỹ cho dù là người địa phương hay di dân, trong thâm tâm bất cứ ai cũng đều mang một sự hãnh diện với thế giới, qua các công trình kiến tạo của tiền nhân suốt 200 năm lập quốc : phố xá khang trang, nhà cửa đồ sộ, thư viện đầy ắp báo chí sách vở, chợ búa sạch ngon, bến tàu phi trường tấp nập rộn rịp về cảnh sắc lẩn tình người. Nói chung, dù dân tộc Hoa Kỳ chỉ mới lập quốc nhưng hầu hết đều có lễ nghĩa đạo đức, lương thiện và chan hòa tình thương không biên giới (trong đó sự cưu mang hơn 3 triệu người VN Tị Nạn Cộng Sản, từ tháng 5-1975 tới nay), nên đã nhanh chóng thu phục được nhân tâm và đứng đầu thế giới về mọi mặt.

Người Việt tị nạn CS chúng ta may mắn được sống hạnh phúc trên đất Mỹ, với đầy đủ các quyền lợi đã qui định từ Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập và Nhân Quyền, mà đâu mấy ai hiểu rõ là Tiền Nhân đã đổi lấy nó bằng máu và mạng sống trước bạo lực. Bởi vậy để đền đáp phần nào tấm lòng nhân đạo mà Hoa Kỳ đã rộng mở , chúng ta phải biết ‘ nhập gia tuỳ tục ‘, làm tốt bổn phận công dân và cố gắng phát huy truyền thống tinh hoa của Dân Tộc Việt, để không hổ danh là con Hồng Cháu Lạc dù đã có quốc tịch Mỹ hay đang sống tạm nơi xứ người.

1 - Ý NGHĨA NGÀY ÐỘC LẬP HOA KỲ 4 THÁNG 7 :

Sau thời gian dài chiến đấu đẳm máu với thực dân Anh. Cuối cùng 13 Tiểu Bang trong Liên Hiệp Anh ly khai, cũng đã dành được Ðộc Lập cho xứ sở, mà ngày nay chúng ta trang trọng đón mừng hằng năm. Ðó là ngày 4-7-1776 , lần đầu tiên ‘ BẢNG TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN ‘được công bố trước quốc dân đồng bào..

Cũng từ đó, ách nô lệ của Anh tại đây chấm dứt. Ðể tạo nên niềm tự hào của một dân tộc có độc lập và tự do thật sự, năm 1789 Webster Noah là người đầu tiên ấn hành quyển Tự Ðiển Tiếng Mỹ, nói lên ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Cùng lúc Benjamin Franklin cũng đã phát minh ra những mẫu tự đơn giản. Nhận thức được tương lai của đất nước, sẽ mở rộng bờ cỏi và đón nhận nhiều sắc dân tới lập nghiệp tại Hiệp Chũng Quốc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Bởi vậy Noah Webster càng chú trọng rất nhiều tới ngôn ngữ học bằng cách phát hành nhiều loại sách giáo khoa, giảng dạy về ngữ pháp, chính tả.. tới nay vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong dời sống người Mỹ.

Sau này có M.Guffey hợp tác với Noah, đã bộc lộ tinh thần ái quốc và đạo đức, qua các tác phẩm được phổ biến, làm cho mọi người cảm động và càng ý thức rõ hơn bổn phận trách nhiệm của một công dân đối với xã hội và quốc gia của mình. Tuy ngày nay theo bánh xe văn minh của nhân loại, những công trình của các bậc tiền nhân đã bị lỗi thời với thời gian nhưng tên tuổi của ông vẫn còn nguyên vẹn. Thật vậy, đối với lịch sử Hoa Kỳ, chính Noah Webster đã có công tạo nên Ngôn Ngữ riêng cho người Mỹ, dù nó có nguồn gốc từ tiếng Anh mà thật sự không phải là tiếng Anh nguyên thủy. Trường hợp này cũng tương tự như Ngôn ngữ Việt Nam, có nguồn gốc từ Hán Tự và La Tinh nhưng không phải là chữ Hán hay La Tinh gốc.

Cùng với chiều hướng Ðộc Lập trên, Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ là Washington đã phát biểu ‘ Hiệp Chũng Quốc bắt nguồn từ 13 thuộc địa của Anh nhưng Nay Là Quốc Gia Ðộc Lập. Vậy tai sao chúng ta cần gì phải quay về với Châu Âu hay Luân Ðôn để bắt chước họ ? qua đợi chờ xin xõ phê chuẩn. Trong đó sự học hỏi trên, xét cho cùng, cũng chỉ là sự quê mùa, lỗi thời ‘.Hởi ôi nếu các nhà lãnh đạo VN bao đời, có được một phần tư tưởng độc lập như TT Mỹ, thì chắc chắn đất nước chúng ta ngày nay đâu phải đắm chìm trong vũng bùn ô nhục tồi tệ và thua kém nhân loại.

Ðể đổi lấy nền Ðộc lập cho đất nước Hoa Kỳ ngày nay, nhiều đại biểu của 13 Tiểu Bang ly khai đã gục ngả trước súng đạn của thực dân Anh. Thomas Jefferson được đề cử soạn thảo Bảng Tuyên Ngôn Nhân Quyền cho Hiệp Chũng Quốc, trong lúc cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn giữa Anh-Mỹ. Thế rồi sau ba ngày tranh luận gay gắt, giữa các đại biểu trong phòng họp, cuối cùng hội nghị cũng đã bỏ phiếu, thông qua và chấp thuận Bảng Tuyên Ngôn Ðộc Lập trên, vào ngày 2-7-1776.

Ðiều bi thảm mà tới nay con cháu ít ai biết tới. Ðó là vào ngày 4-7-1776 công bố nền độc lập của Hoa Kỳ, được diễn ra trong thầm lặng, chết chóc, máu lệ khổ đau. Bởi thực dân Anh đâu có để yên cho những người chủ xướng, nên ra tay triệt hạ tất cả ai lúc đó dám nói tói Ðộc Lập cho Hoa Kỳ. Theo sử liệu, có 56 người đã ký vào Bảng Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Ðộc Lập Mỹ. Tất cả đều là sĩ phu trí thức đương thời, biết trước hậu quả về hành động của mình nhưng bất chấp mạng sống cá nhân và gia đình, chấp nhận hy sinh cho đại nghĩa dân tộc, đất nước.. Trong số này có Francis Hopkinson quê New Jersey là một tài hoa hiếm có. Ông chính là tác giả của Lá Quốc Kỳ Mỹ được lưu hành và tồn tại tới ngày nay. Tóm lại tất cả những người trong cuộc đều có gia đình, lớn tuổi nhất là Benjamin Franklin (70 tuổi) và ba người chỉ mới 20 tuổi.

Ngay khi phát giác được Bảng Tuyên Ngôn Ðộc Lập, Thực dân Anh lồng lộn điên cuồng, ra lệnh truy tìm và hạ sát những người có tên trong đó. Ngoài ra còn treo giá 500 Bảng Anh cho ai chỉ điểm, phát giác họ. Cuối cùng Anh tuyên bố Treo Cổ Tất Cả. Do sự khủng bố trên, nên hầu hết những người liên hệ tới Bảng Tuyên Ngôn, lớp chết, lớp ở tù. Nhiều người bị thương tật khốn khổ vì sự tra tấn đánh đập dã man của kẻ thù, khiến cho nhà tan cửa nát, gia đình ly tán. Trong số ít ỏi sống sót sau này,hai người đã trở thành Tổng Thống Mỹ là John Adams và Thomas Jefferson.

Cái giá độc lập của Hoa Kỳ là thế đó, mà những người khai sinh ra nó, phải đổi bằng mạng sống, máu lệ đem về. Cho nên các thế hệ sau ai nấy đều vô cùng cảm kích và trang trọng noi theo truyền thống yêu nước của tổ tiên mọi thời. Ðó là kết quả của quốc gia Hoa Kỳ ngày nay, một miền đất tạp chũng nhất trên thế giới,lại là đệ nhất siêu cường, một xứ sở tự do cá nhân nhưng ai cũng biết dừng lại trước giới hạn của mình, đối với quyền lợi chung của Tổ Quốc. Cho nên đừng phân biệt Dân Chủ hay Cộng Hoà, Tất cả tuy hai mà một vì ai cũng chỉ biết có quyền lợi của dân tộc và đất nước Hoa Kỳ mà thôi.

2 - MỘT VÒNG NƯỚC MỸ NHÂN NGÀY ÐỘC LẬP HOA KỲ 4 THÁNG 7 :

Là một quốc gia rộng lớn có diện tích bao trùm từ bờ Thái Bình Dương sang Ðại Tây Dương mênh mông vô tận. Sông Mississippi cùng với hai hợp lưu là sông Missouri và Red Rock dài 3741 ml hay 6019 km, đứng thứ 4 trên thế giới, sau sông Nile (Bắc Phi-6671 km), Amazon (Nam Mỹ-6300km) và Dương Tử (Trung Cộng-6276km) . Sông chảy từ bắc xuống nam phân chia nước Mỹ làm hai phần, phù sa bồi đắp tạo nên hai tiểu bang mang tên của nó ‘ Mississippi và Missouri ‘.Gọi Hoa Kỳ là một quốc gia trong một lục địa, thật không ngoa chút nào vì sự đa dạng của nó. Nhiều làng xóm khu phố được thiết kế gần như đất tổ của di dân, chẳng hạn như thành phố Quincy (50.000 dân) có nhiều biệt thự kiến trúc theo kiểu Ðức nằm giữa những vườn cây cổ kính. Trong lúc đó ở Alexandria là thành phố nằm cạnh sông Potomac, kế thủ đô Washington thì xây cất theo lối Anh Cát Lợi với tường gạch màu huyết dụ

Ðối với các tổng thống Mỹ khi còn tại chức thì sống trong tòa Bạch Ốc tại Hoa Thịnh Ðốn. Ðây là một tòa nhà đồ sộ có tới 132 phòng, 35 nhà vệ sinh, 3 thang máy và tất cả những tiện nghi vật chất dành cho các bậc đế vương. Nhưng khi mãn nhiệm thì mạnh ai lo nấy, chẳng hạn như cựu TT Jimmy Carter về sống tại căn nhà riêng của mình mua trả góp từ năm 1960. Nhà của ông nằm kế thị trấn Plaince tiểu bang Georgia. Ông sống đời giản dị, trong nhà không sắm đồ gì quý báu xa xỉ, còn những vật dụng thường nhật thì tự tay mình làm. Tuy tuổi tác đã cao nhưng TT Carter vẫn hoạt động xã hội không ngừng, để giúp cho những người nghèo, già và tàn tật bất hạnh.

Ðối với TT Ronald Reagan lúc còn sinh tiền, khi tại chức Thống đốc CA và Tổng thống, ông sống trong công thự. Năm 1989 mản nhiệm kỳ ông mua một căn nhà tại thành phố thượng lưu Bel Air thuộc tiểu bang California. Ngôi nhà là một dinh thự nhưng cất theo kiểu thôn quê với 3 phòng ngủ, 4 lò sưởi, 5 nhà vệ sinh và một hồ tắm. Còn TT Bush cha thì về lại cố hương ở Kennebunkport thuộc tiểu bang Maine nằm trên bờ Ðại Tây Dương. Ðây là căn nhà của tổ phụ đã xây dựng từ năm 1902 và được xây dựng thêm nhiều công trình như hồ tắm, sân golf, sân tennis, nhà dành riêng cho khách và một cây cầu nhỏ bắc trên bờ biển. Thú vui của TT Bush là câu cá, đánh golf, lái cano và cầu nguyện trong thánh đường.

Nhưng tệ nhất là cựu TT Bill Clinton. Khi còn tại chức thống đốc Arkansas và TT thì sống trong công thự. Năm 2001 về hưu sống tại ngôi nhà trị giá 1,7 triệu USD tại thành phố Chappaquq tiểu bang New York. Nhà này xây từ năm 1889 có 5 phòng ngủ, 4 phòng tắm, hồ bơi và chuồng ngựa.. Tháng 2-2001 vụ bê bối của Clinton bị bật mí và được báo chí khai thác tùm lum. Thế là bà vợ nổi tam bành, đã quăng hết đồ đạc và đuổi cựu tổng thống hào hoa ra khỏi nhà. Năm 2008 bà Clinton ra ứng cử tổng thống nên hai vợ chồng lại làm lành như trước.

Du hành nước Mỹ, trước hết phải nói tới chốn thần tiên cực lạc không đâu bằng. Ðó là đảo quốc Hạ Uy Di, tiểu bang thứ 50 của Hiệp Chủng Quốc từ năm 1959. Ða số người Mỹ hay du khách ngoại quốc đều ao ước tới Honolulu để nghĩ hè, tắm biển hay hưởng tuần trăng mật, cho dù đây là địa phương có giá sinh hoạt đắt đỏ nhất nước. Tới Honolulu để thăm lại di tích lịch sử về trận hải chiến giữa Mỹ-Nhật ngày 7-12-1941 tại Pearl Harbor mà xác của chiến hạm Arizona vẫn còn nằm yên trong vùng biển Thái Bình Dương, như là nhân chứng của thảm họa chiến tranh, qua cái chết của gần 4000 chiến sĩ đã hy sinh vì nước. Người Việt tị nạn Việt Cộng đã có mặt tại đảo quốc sau tháng 5-1975 khi VNCH bị sụp đổ. Ða số sống bằng nghề lái taxi, làm công nhân khách sạn và buôn bán đủ ngành. Ở đây dời sống thật giản dị hiền hòa, du khách lẫn ngưởi bản địa ai cũng thoải mái trong cách ăn mặc, theo truyền thống Hawaii.

Tháng bảy ở California hình như mặt trời không muốn lặn. Thủ đô điện ảnh Mỹ Hollywood cho tới đầu thế kỷ XXI vẫn nguyên vẹn với nét lập dị thời thượng. Ðó là sự hiện diện của khu rừng trồng toàn một loại cây có gai tên Holly và khắp via hè dọc theo đại lộ Hoàng Hôn, đâu đâu cũng khắc đầy những ngôi sao năm cánh mang tên tuổi của những tài danh nổi tiếng trên màn bạc, sân khấu hay các đạo diễn phim trường. Los Angeles nay là thành phố lớn thứ nhì của Mỹ sau New York. Thành phố nổi tiếng với các vùng phụ cận như Hollywood, Beverly Hill, Chinese Theatre.. và nhất là khu giải trí lừng danh Disneyland, vương quốc của vua phim hoạt hình Walt Disney với nhiều khu giải trí riêng biệt dành cho mọi lứa tuổi.

San Jose là một thành phố nhỏ có nhiều người Việt trú ngụ. Vùng này khí hậu gần giống như Ðà Lạt tạo nên nếp sống thanh bình êm ả nên ai cũng thích, tuy rằng sinh hoạt không náo nhiệt như thủ đô của người Việt ở Little Sài Gòn, miền nam Cali nắng ấm. Kế cạnh San Jose là thành phố San Francisco có hơn 8 triệu dân, nổi tiếng với biển sạch và xanh mát, nơi đã bảo thủ được những chiếc tàu điện của hơn trăm năm trước, chạy bằng dây cáp và đường ray, lại có tiếng chuông khua leng keng mỗi khi tới một nhà ga nào đó

California còn là vùng đất học, vì trong tổng số 12 viện đại học danh tiếng nhất hoàn cầu, thì Hoa Kỳ đã chiếm 8, trong số này có hai của Tiểu bang Cali. Ðiều này cũng dể hiểu vì miền đất này đông dân nhất Hợp Chũng Quốc, với hơn 30 triệu người sinh sống tại đây, lại có một nền kinh tế cao và sung túc, cho nên hệ thống giáo dục được phát triển mạnh nhất nước. Ðó là hai dại học công lập Universite of Calif-Berkeley, thường được viết tắt là UC Berkeley, cùng với đại học tư Stanford, cả hai đều lớn mạnh. Hiện nay UC Berkeley có tới 1500 giáo sư giảng dạy và 30.000 sinh viên + nghiên cứu sinh đang theo học. Tường thành lập từ năm 1868, qua thời gian đã tạo được một bề dầy thành tích, qua hai lãnh vực trí thức và chuyên nghiệp, nhát là sự nghiên cứu khoa học, đã mang về cho trường các giải Nobel danh tiếng về Nguyên tử và tin học.

UC Berkeley còn có lò phản ứng nguyên tử, do chính tiến sĩ J.R.Oppenheimer thực hiện, vì ông chính là cha dẻ cuả quả bom đầu tiên mà Mỹ chế tạo được vào năm 1945. Calif còn có 8 viện đại học khác, cùng có trình độ và tầm vóc ngang hàng với UC Berkeley, họp thành University of Calif (UC ) công lập, do một hội đồng quản trị và điều hành (Regent), đứng đầu là một chủ tịch và nhiều thành viên, trong đó có Thống đốc tiểu bang, cùng với các viện trưởng đại học liên hệ. UC đào tạo đủ trình độ như cử nhân ( Bachelor ố 4 năm), cao học (Master), tiến sĩ (Doctor).. có giá trị văn bằng, chẳng những tại Mỹ mà còn khắp thế giới. Ðiều này đối với các đại học khác tại Calif như UC San Diego, UC Los Angeles, UC Riverside, UC San Francisco, .. cũng không có gì khác biệt, tuy mỗi trường có riêng chuyên môn của mình.

Song song hệ thống đại học công lập của liên bang, còn có hệ thống đại học của tiểu bang Calif (CSU), rãi rác từ nam lên bắc có 23 viện như Humbold, Hayward, Stanislaus, Monrerey Bay, San Diego.. chỉ đào tạo hai ngãch cử nhân và cao học mà thôi, tuy rằng trình độ giảng dạy, giữa hai viên đại học liên bang (UC) và tiểu bang (USC) đều giống nhau. Còn phải kể tới các đại học chuyên môn (College) và cộng đồng (Community College), đều thuộc hệ thống công lập hạng ba.

Trong khi đó các đại học tư nhân được phát triển tự do, bao gồm 30 đại học hổn hợp (University) và Chuyên môn (College), trong số này có 10 trường của các giáo hội Thiên Chúa, Tin Lành và Thanh Giáo như đại học Sacramento, Los Angeles, đại học quốc tế.. nhưng nổi tiếng nhất của hệ thống này, vẫn là đại học Stanford. Viện thành lập năm 1891, hiện có 1400 giảng sư , 14000 sinh viên, 7 phân khoa, được xếp hạng trong 5 viện đại học danh tiếng nhất của nước Mỹ : Harvard, Berkeley, Cal Tech và Massachusetts Institute of Technology (MIT). Viện chuyên đào tạo giáo sư các ngành , giảng dạy tại các trường phổ thông của Mỹ. Tóm lại,trong hệ thống đại học tại tiểu bang Calif, 90% sinh viên là người địa phương, số còn lại từ các tiểu bang khác và ngoại quốc. Người gốc Châu Á theo học chưa tới 3% nhưng chiếm 8% là sinh viên giỏi, trong số này đứng đầu vẫn là người Việt tị nạn, Trung Hoa, Nhât Bản và Nam Hàn.

Về hướng đông Cali là thành phố Las Vagas mệnh danh khắp thế giới ‘ kinh đô của thần đổ bác’. Las Vagas chỉ mới chuyển mình chừng 30 năm trở lại, từ một thị trấn hoang vu nằm giữa sa mạc Nevada cằn khô gíó cháy, chỉ có đá sỏi và tơ trời. Thế mà mà qua bàn tay xây dựng của con người, ngày nay Las Vegas là kinh đô của cờ bạc, giải trí mọi vấn đề tuỳ theo túi tiền ném qua cửa sổ để thử thời vận, sau những ngày làm việc vất vả.

Kế Nevada là tiểu bang Wyoming nổi tiếng với khu bảo tồn đầu tiên của nước Mỹ được thành lập từ năm 1906. Tại đây có ngọn Black Hill với hai hang lớn là ‘ Hang Gió và Hang Ðá Quý’, nhiều mõ vàng nên đã thu hút rất nhiều người khắp nước Mỹ tới đây tìm cơ hội ‘ đổi đời ‘ mà cao điểm là năm 1880. Xa hơn một chút là ngọn núi Tháp Quỷ với huyền thoại về một kho tàng trong lòng núi.

Nằm trong trung tâm khu bảo tồn, núi Ðá Quỷ có hình dáng giống như một gốc cây mục khổng lồ đứng giữa vùng thung lũng sông Bella Fourche. Ðây là một ngọn núi lửa kỳ dị, đã xuất hiện cách đây hơn 100 triệu năm, do khoáng chất phonolite porphyry màu xám đỏ, hòa với đá lửa, pha lê và và đá felspar tạo thành. Vì trải qua thời gian dài bị mưa gió xâm thực nên núi càng ngày càng thấp dần.

Từ xưa địa phương đã xem ngọn núi Tháp Quỹ như một chốn thiêng liêng nên không ai dám léo hánh tới. Tình trạng này đến ngày 4-7-1893 mới có hai người chủ trang trại kế cận tên William Roger và Willard Ripley dùng thang leo lên đỉnh núi và trở thành người đầu tiên chinh phục ngọn núi này. Sau đó nhiều người tới leo núi bằng dây thừng càng lúc càng đông suốt năm, ngoại trừ tháng 6 có lễ hội cúng thần núi.

Theo huyền thoại từ ngàn năm trước, thì trong lòng núi có chứa một kho báu vô giá. Ðối với bộ tộc người da đỏ Kiowa sống gần núi, thường hay nhắc tới câu chuyện bảy cô gái vào rừng hái nấm thì gặp phải đàn gấu săn đuổi. Cuối cùng họ leo lên một hòn đá gần đấy và cầu nguyện thần núi giúp đở mới thoát được tai nạn và biến thành những ngôi sao. Bởi vậy núi mới có tên là ‘ Túp lều của gấu (Bear Lodge) ‘.Về chuyện kho báu cũng phát xuất từ câu chuyện ba người da đỏ từ xa đến đây săn bắn vì không để ý nên lạc đường vào tận chân núi Quỷ . Do đó họ đã vô tình phát hiện được một lối đi ngoằn nghèo dẩn sâu vào một hang động chứa đầy xác người. Cuối hang là một hồ nước mà xung quanh đầy đá và vàng. Ba người trên thu nhặt một phần số vàng và đem dấu kín cho đến khi qua đời mới thố lộ cho những người khác trong bộ tộc. Tuy nhiên vì lòng mê tín sợ thần núi nên cũng chẳng ai dám đá động đến kho vàng trong hang núi Quỷ.

Khi người da trắng đến đây biết được câu chuyện về kho vàng trong lòng núi, đã nhiều lần tổ chức tìm kiếm nhưng không thấy gì và bí ẩn về kho báu trên tới nay vẫn còn là nan đề kể cả khoa học cũng không giải thích được.

Về thành phố Dallas của Tiểu bang Texas để chiêm ngưởng một công trình vĩ đại vô tiền khoáng hậu lớn nhất thế giới của Ðiêu khắc gia kiêm họa sĩ nổi tiếng Robert Summers, sinh năm 1940 tại thị trấn Glen Rose.. Ai cũng biết tiểu bang Texas giàu có hôm nay nhờ hai nguồn lợi ‘ Bò và Dầu Hoả ‘.Bởi vậy không ai ngạc nhiên khi đến thăm Khu Công Viên Quốc Gia Pioneer Plaza rộng chừng 4,2 mẫu Anh, tại trung tâm thành phố, đối diện với Tòa thị chính. Nơi này về trước là vùng đất mang tên Shawnee Cattle Trail là một con đường qua lại của các chàng Cao Bồi Texas và đàn bò của họ từ khi người da trắng đến khai thác miền viễn tây vào năm 1854. Trong công viên có tất cả 39 con bò đúc bằng đồng đen sẩm to lớn như thật. Ngoài ra còn có tượng các chàng chăn bò đang phi ngựa với đầy đủ nón rộng vành, súng đạn, dây nhợ .. mà ta thường thấy trên màn ảnh.

Dallas cũng là nơi mà TT John F Kennedy đã bị ám sát vào tháng 11-1963 tại Dealey Plaza, nơi chốn đã đi vào những trang sử cận đại của Hoa Kỳ. Tháng 6-2008 vừa qua, tiểu bang Texas càng nổi tiếng hơn khi hàng ngàn người Việt Tị Nạn Việt Cộng đã biểu tình phản đối tẩy chay và tố cáo tội ác của tên Việt gian Nguyễn tấn Dũng và đồng bọn khi mon men tới nơi này để tiếp tục lường bịp người và dư luận, hầu tiếp tục duy trì dảng cướp Mafia đỏ đang đô hộ đất nước và dân tộc Việt.

Trước năm 1974, New York có Tòa nhà cao nhất thế giới. Ðó là Empire State Building với 102 tầng, cao 443m, nằm trên Ðại lộ thứ 5 , giữa khu thương mai Manhattan. Ðược hoàn thành bởi các kiến trúc sư Shreve, Lamb và Harnon, thiết kế theo kiểu cách Art-Déco năm 1930. Những bộ phim ghê rợn loại King Kong được thực hiện tại đây.

Từ sau khi Hai Tháp của Tòa Nhà World Trade Center bị 19 tên khủng bố Hồi giáo cực đoan dánh bom tự sát bằng máy bay, vào ngày 11-9-2001, làm chết gần 7000 người và sụp đổ toàn diện, thì Empire State Building lại trở thành tòa nhà cao nhất nước Mỹ. Ðây là nơi thu hút du khách trong và ngoài nước, khi tới thăm viếng thủ đô tài chánh vủa Hoa Kỳ, với những cảm giác mạnh , khi đứng trên hai đài quan sát tại tầng số 86 và 102., với hệ thống thang máy chuyển động rất nhanh. Ðài quan sát có song sắt bảo vệ ở phía ngoài,để tránh những tai nạn đáng tiếc. Nơi này cũng cấm hôn hít với lý do là nụ hôn sẽ tạo nên hiện tượng điện giật làm chết người. Từ đây du khach có thể chiêm ngưởng được toàn cảnh thành phố, trong phạm vi 120 km khi trời tốt, bằng không từ trên nhìn xuống chỉ thấy mây trắng mịt mùng, khói sương lãng đảng, khiến cho ta có cải cảm giác như đang sống trong ở cõi trên, quên đời quên tất cả.

Theo thống kê, tính từ ngày được khánh thành vào năm 1931 tới nay, đã có hơn 80 triệu du khách tới thăm viếng tòa nhà nổi tiếng này, được xếp vào kỳ quan thứ 8 của thế giới,tốn hết 60.000 tấn thép, 1860 bậc thang dẫn từ dưới đất lên tới đỉnh ở tầng 102, hơn 5000 km đường dây điện thoại, 96 km đường ống dẫn nước và 6500 cửa kính, được lau chùi thường xuyên.

New York có Rockerfeller Center , gồm 19 tòa cao ốc của tỷ phú Rockerfeler chuyên về thương mại, giải trí và buôn bán bất động sản. Ở đây còn có Viện Bảo Tàng Guggenheim là công trình xây dựng của Kiến trúc sư nổi tiếng nhất nước Mỹ và thế giới là Frank Lloyd Wright. Còn có Trung tâm tài chánh chứng khoán thế giới Wall Street, nằm trong một dãy phố hẹp, cổ kính New York Stock Exchange (Thị trường chứng khoán NY), được hình thành từ năm 1792, từ 24 Hội viên lên tới 1300 ngày nay. Trên Ðại lộ Broadway náo nhiêt, còn có Trung tâm kịch nghệ nỗi tiếng, thường trình diễn những tác phẩm nổi tiếng của thế giới. Trụ sở Liên Hiệp Quốc một trong những điểm thăm viếng của du khach, nay cũng được hạn chế tối đa để đề phòng khủng bố , sau ngày 9-11-2001

Nhưng niềm tự hào của người dân New York nói riêng và nước Mỹ, vẫn là Tượng Nữ Thần Tự Do, tay cầm ngọn đuốc sáng, để soi đường dẫn lối , cho các đoàn tàu vượt Ðại Tây Dương vào Hải Cảng New York.

Ðây là một trong những biểu tượng vĩ đại nhất của nước Mỹ, được đặt trên Ðảo Bedloe còn gọi là Liberty Island, bên bờ biển New York. Tượng tượng trưng cho sự tự do, liêm chính và lòng nhân ái của người Mỹ khi lập quốc. Với chiều cao từ nền tới bó đuốc là 92,97m và trọng lượng 325 tấn, do Ðiêu khắc gia lừng danh người Pháp trong thế kỷ XIX là Augusste Bartholdiv thực hiện. Ðây là món quà quý giá của nước Pháp , tặng cho người dân Mỹ, , để kỷ niệm Ngày Ðộc Lập Hoa Kỳ 4-7. Nhưng vì lúc đó Pháp đang có chiến tranh với Phổ, nên phải giao việc thực hiện tượng cho các hội từ thiện đãm trách.

Vì công trình quá vĩ đại mà ngân khoản của chính phủ trợ cấp có giới hạn, nên công tác phải gián đoạn nhiều lần cũng như mất nhiều thời ginn để tiết kiệm tiền.Vì vậy tới ngày 12-8-1876 chỉ mới hoàn thành xong cánh tay cầm ngọn đuốc của Nữ thần. Ðể tranh thủ thời gian cho kịp, nhà điêu khắc phải đóng thùng gửi trước sang Mỹ, trong lúc tiếp tục những phần còn lại, mãi cho tới tháng 5-1884 mới xong.

Tại Mỹ, dân chúng đã quyên góp được 250.000 USD để xây chiệc bệ đặt Tượng Nữ thần trên đảo Bedloe. Một buổi lễ trọng thể được tổ chức ngày 28-10-1886, để khánh thành pho tượng với sự tham sự đông đảo của đồng bào và các quan chức Chính phủ. Dịp này Ủy Ban Quốc Hội đã để một chiếc hộp màu đỏ, tượng trưng cho niềm tin, được niêm kín, trong đó có Bản Hến Pháp và Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ, dưới chân Nữ Thần Tự Do, như một nhân chứng lịch sử. Tên tuổi của Nhà Ðiêu khắc Pháp ‘ Auguste Bartholdiv được vinh danh. Từ năm 1931, Tượng lại được bảo trì cẩn mật và tô bồi thêm cho xứng đáng với ý nghĩa thiêng liêng. Riêng Bó đuốc trong tay Nử thần, luôn luôn cháy sáng, nhờ một hệ thống ống dẫn dầu cung cấp liên tục.

Hằng năm Tượng Nữ thần đã thu hút du khách muôn phương tới đây chiêm ngưởng. Ði tàu từ đất liền ra đảo và sắp hàng để được thang máy đưa lên tận Vương Miện của Tượng, tha hồ chụp hình, ngắm cảnh. Nếu không muốn chờ đợi, thì tự leo 22 bậc thang để tới chân tượng Nữ thần, để mua những kỷ vật hay vào thăm khu bảo tàng trưng bày những hình ảnh liên hệ tới lịch sử của nước Mỹ.

Mừng ngày Ðộc Lập Hoa Kỳ 4 tháng 7 năm nay, cũng như nghiêng mình biết ơn Các đấng Tiền Nhân đã xả thân vì nước, xin có bài thơ gởi tới bạn bè :

Xuân như đã cùng ta đang trẩy hội
Ngày vui chung trên xứ đẹp quê xa
Cõi thần tiên mật ngọt chảy muôn nhà
Làm ai cũng tưởng đầu thai trở lại
Ta tới đây trong hình hài điên dại
Ðêm hải kinh hốt hoảng những âm thừa
Người săn người đang ngả ngựa chào thua
Người gục trước lưởi lê và mũi súng
Ta tới đây hồn xanh xao chết sửng
Tai vẫn vang tiếng chém giết kêu gào
Mắt vẫn đầy khẩu hiệu máu đỏ au
Ðèn phố thị ngỡ hỏa châu rợp sáng
Ta tới đây phận hèn đời tị nạn
Giải khăn sô theo lệ hận chan hòa
Khóc đồng bào gục chết giữa rừng xa
Thương đồng đội phơi thây nơi tù ngục
Ta đến đây cổi già thân gổ mục
Làm lá xanh vàng trước tuổi niên thì
Ngực căng đầy những vết tích âm ty
Da vẫn mặn miền đất quê biển gió
Ta đến đây trong hành trang nổi nhớ
Mang theo em, xóm nhỏ với sân trường
Con sông buồn, lầu nước, cõi quê hương
Và bãi vắng bờ hoang dăm mái rạ
Ta đến đây hồn Việt Nam tơi tả
Bởi hoan hô đã đảo hận miên trường
Bao chục năm non nước ngập máu xương
Nay vẫn đó, nổi nhục hờn huyết hận
Ta đến đây với hai bàn tay trắng
Nhưng không quên những lối bước chân đời
Tết Mậu Thân thây co quắp muôn nơi
Trời Ðại lộ kinh hoàng mùi tử khí
Ta đến đây làm tên hèn mọi Mỹ
Nên bâng quơ say tỉnh khắp hiên người
Bỏ nhà đi vừa tuối chớm bốn mươi
Nay bạc tóc vẫn đầu đường xó chợ
Ngày Ðộc Lập làm ta thêm bở ngỡ
Nhớ quê xa thương nấm mộ mẹ hiền
Xót nồi người trong đói lạnh triền miên
Chuyện buồn kể chắc không ai còn nhớ ..
Xóm Cồn Ha Uy Di
Tháng 7-2011

Mường Giang
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4033
Re: Ngày này  năm xua
Reply #51 - 19. Jul 2011 , 16:29
 
Hôm nay 20 tháng 7  - ngày Đau khổ của đất nước Việt nam -  Đất nước bị chia  làm đôi -  Từ  Vĩ tuyến 17 trở ra theo chế độ Cộng sản - từ  Vĩ Tuyến  17  trở vào đến Mũi Cà Mau thuộc  thể chế Cộng Hòa . Một Triệu Người Miền Bắc đã phải Di cư vào Nam  lánh nạn Cộng Sản .
Từ xúc động đó nhạc sĩ Lam Phương người Rạch Giá   đã sáng tác bản  "Chuyến đò Vĩ Tuyến " - với bản nhạc này tên tuổi của nữ ca sĩ  Hoàng Oanh  sáng chói trong làng Tân  Nhạc Việt nam   từ thập niên 60 đến nay .
Ngoài bản nhạc "Chuyến đò Vĩ tuyến "  cố nhạc sĩ Vũ Thành có bản nhạc " Giấc mơ Hồi Hương ".
Bản nhạc  " Hướng về  Hà nội  " của nhạc sĩ Hoàng Dương  cũng là một bản nhạc   HAY  NHẤT  sau thời gian  Đồng bào Miền Bắc di cư Vào Nam .
Back to top
« Last Edit: 19. Jul 2011 , 16:34 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4033
Re: Ngày này  năm xua
Reply #52 - 17. Sep 2011 , 16:33
 
Hôm nay  ngày  20 tháng 8 ta  Âm lịch -
Ngày tưởng niệm Đức  Hưng  Đạo Vương Trần quốc Toản,người có công đánh phá giặc Nguyên  ở thế kỷ  13 .

ngày  21 tháng 8  ta Âm lịch   Đức Trung Liệt Hầu  Lê Lai
và ngày 22 tháng 8 - Đức Bình Vương Lê Lợi .
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Ngày này  năm xua
Reply #53 - 17. Sep 2011 , 20:41
 



HÔM NAY, GIỖ ĐỨC THÁNH TRẦN, ĐỌC LẠI HỊCH TƯỚNG SĨ


...

Chân dung Đức Thánh Trần. Ảnh: Internet

ĐỌC LẠI HỊCH TƯỚNG SĨ CỦA ĐỨC THÁNH TRẦN

Dương Danh Dy

Hưng Đạo đại vương Trần Hưng Đạo, người mà sau ngày Ngài mất (20 tháng tám âm lịch năm 1300) nhân dân ta từ già tới trẻ đều tôn xưng là đức thánh Trần vì những công lao bất diệt của Ngài trong việc lãnh đạo quân dân ta hai lần đánh bại giặc Nguyên Mông, trong đó có chiến công Bạch Đằng giang vĩ đại và bản Hịch tướng sĩ bất hủ.

Tôi đã được nghe mẹ tôi đọc cho nghe Hịch tướng sĩ từ khi chưa biết chữ và sau này được thầy Trần Bá Tuyền, một thày giáo dạy Văn hiếm có, giảng giải bài này. Nói hiếm có bởi vì mỗi bài giảng văn của thầy Tuyền như truyền cho lớp học sinh kháng chiến chúng tôi thời đó, không chỉ lòng yêu nước, yêu dân tộc mà còn cả lòng yêu cái đẹp, yêu những tinh hoa của nhân loại… Bài Hịch tướng sĩ mà thầy giảng dạy đã ghi trong tôi một dấu ấn không phai mờ, đến nỗi hơn sáu mươi năm rồi và đã ở độ tuổi U80 mà tôi vẫn thuộc nhiều câu trong bài hịch. Có lẽ vì lẽ đó mà tôi ít đọc lại bài này.

Thế nhưng không biết vì sao trong mấy ngày bồn chồn mong ngóng 9 ngư dân Lý Sơn bị phía Trung Quốc bắt giữ, đã phản đối, đã thả nhưng chưa về nước được với ngàn lý do càng nghe càng thấy chối tai, tôi đã giở Hịch Tướng sĩ của đức thánh Trần ra đọc lại. Và chẳng hiểu tại sao, tôi bỗng nghe ra: đó chính là tiếng nói của Ngài đối với mọi người Việt Nam ngày nay và trên hết là với những cán bộ lãnh đạo các cấp.

Ta hãy nghe Ngài phân tích tình hình thời đại và nói về thái độ quân giặc: “Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở thời nhiễu nhương, gặp phải buổi gian nan này… thấy sứ giặc đi lại rầm rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ…” Xin hỏi chuyện xảy ra hơn 700 trăm năm trước mà có khác gì bây giờ không?

Xin lắng nghe những điều ngài nói với tướng sĩ dưới quyền: “Nay các ngươi thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết nhục, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức; tai nghe nhạc để hiến sứ ngụy mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển hoặc vui thú về ruộng vườn hoặc quyến luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham mê về săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát.” Và ngài cảnh báo: “Nếu có giặc đến thì cựa gà trống sao đâm thủng áo giáp giặc, mẹo cờ bạc sao sao dùng nổi cho việc quân mưu… chén rượu ngon không làm giặc say chết, tiếng hát hay không làm giặc điếc tai…” Xin hỏi tình hình đội ngũ cán bộ ta hiện nay có khác hạ thuộc của Ngài hơn 700 năm trước không?Xin hỏi nguy cơ đặt trước tổ quốc chúng ta bây giờ có khác nguy cơ hơn 700 năm trước của Ngài không?


Ngày 19 tháng 10 năm 2010
D. D. D.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Nguồn: BauxiteVietnam.
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4033
Re: Ngày này  năm xua
Reply #54 - 26. Oct 2011 , 22:07
 
Hôm nay là ngày 26 tháng 10  /2011  -ngày này cách đây 56 năm  - bản Hiếp Pháp  đầu tiên của nền Đệ nhất Cộng Hòa được ban hành - để trở thành nước Việt nam Cộng Hòa  do cố tổng thống Ngô đình Diệm -lãnh đạo  mang lại đời sống Ấm No Thanh Bình  cho người dân từ Vĩ Tuyến 17  đến Mũi Cà Mau .
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4033
Re: Ngày này  năm xua
Reply #55 - 31. Oct 2011 , 16:09
 
Hôm nay  - ngày   mùng  1 tháng 11  năm 2011-  ngày  này cách đây  đúng  48 năm -  Hội đổng các Tướng lãnh  - đã đứng lên lật đổ  nền Đệ nhất Cộng Hòa do cố Tổng thống Ngô đình Diệm lãnh đạo

Các đơn vị Quân đội đã chiếm lĩnh  một số  Cơ Sở quan trọng như Đài Phát Thanh -và  bao vây Dinh Gia Long .

Cố Tổng thống Ngô đình Diệm  và cố   bào đệ  Ngô đình Nhu nhất định không đầu hàng  Hội đồng Cách mạng - và đêm tối  1 -11-63 đã  âm thầm  di chuyển vào Nhà Thơ Cha Tam  lánh nạn -
Mãi đến sáng  2 tháng 11-  Cố tổng thống Ngô đình Diệm  mới thông báo cho Hội đồng Cách mạng biết nơi lánh nạn -

và sau  khi bị bắt -  Xe Tăng chở  Tổng thống Ngô đình Diệm và bào đệ Ngô đình Nhu  từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng tham Mưu  -trên đường di chuyển    cả  hai  đã bị Ám sát Chết .

Xin cúi đầu Tưởng nhớ Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm người đã có công đưa  1 Triệu đồng bào Miền bắc Di cư vào Nam  năm 1954   để lánh nạn Cộng sản  - và đã tạo dựng  Nền Đệ nhất Cộng Hòa Ấm No  - An lành
Back to top
« Last Edit: 31. Oct 2011 , 16:14 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Ngày này  năm xua
Reply #56 - 31. Oct 2011 , 23:55
 

Nhớ ngày 1 tháng 1 -1963: 2/- Diễn Tiến Cuộc Đảo Chánh  Lật Đổ Ông Ngô Đình Diệm

    _ Phan Đức Minh



Nhớ ngày 1 tháng 1 -1963: 2/- Diễn Tiến Cuộc Đảo Chánh  Lật Đổ Ông Ngô Đình Diệm 

...
   
Đi vào con đường đảo chánh : Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, Ông Nolting , hết phương gỡ rối. Báo cáo được tới tấp gửi về Hoa Thịnh Đốn, và Bộ ngoại giao Mỹ liên tục phúc trình tình hình nguy ngập tại Sài Gòn với yêu cầu phải thay thế ngay Ông Diệm bằng một người khác. Tổng Thống Mỹ John F. Kennedy , vốn không thích thú lắm với chính sách can thiệp sâu đậm của Mỹ vào cái "Vũng lầy Việt Nam" ngay từ khi vào Toà Bạch - Ốc, để phải đối đầu trực tiếp với Liên Sô và Trung Cộng, đành phải chọn Ông Henry Cabot Lodge thuộc Đảng Cộng Hòa - một tay cáo già chính trị, từng nhiều phen giải quyết gọn lẹ những vấn đề của Mỹ tại nhiều quốc gia trên thế giới - sang Sài Gòn thay thế Ông Nolting trong việc gỡ rối tình hình. Khi cần thay thế một chính quyền tại quốc gia nào đi ngược lại quyền lợi cuả Mỹ là Cabot Lodge làm xong ngay. Thực tâm Ông Kennedy là muốn Cabot Lodge sang Sài Gòn giàn xếp sao cho ổn thoả, có lợi cho đường lối, chính sách và quyền lợi cuả Mỹ tại đây; nhưng Cabot Lodge thì ngay từ lúc nhận lệnh để lên phi cơ sang Sài Gòn, là đã tính ngay chuyện loại Ông Diệm ra khỏi chính quyền, thay thế bằng một người hay một nhóm nhân vật lãnh đạo mới, biết vâng phục đường lối cuả Mỹ trong lúc này (bị bọn tài phiệt thao túng theo đường hướng buôn bán chiến tranh, đổ quân tác chiến của Mỹ vào chiến trường Việt Nam).
     Khi Cabot Lodge nhận nhiệm vụ bước lên phi cơ sang Sài Gòn thì giới truyền thông cuả Mỹ đã nói chắc như đinh đóng cột là " In Washington, the Kennedy administration begins seriously speculating on a coup against Diem ), nghiã là nói thẳng ra rằng Cabot Lodge sang Sài Gòn với sứ mạng lật đổ Tổng Thống Diệm. Cabot Lodge biết rõ rằng thuyết phục một số Tướng Lãnh có quyền, có quân trong tay đứng ra làm cuộc đảo chánh chẳng mấy khó khăn vì chuyên viên đảo chánh này đã có sẵn trong tay những "Bảo bối quan trọng, thiết yếu nhất;" chỉ việc đem ra sử dụng mà thôi. Đó là:
    A.- Trong tình trạng rối loạn trước mắt, Cabot Lodge đánh trúng tim những "Người hùng Quân Đội" là phải ra tay gấp để cứu dân, cứu nước. Tướng Lãnh không thể ngồi yên để trông thấy nhà tan, nước mất...
   B.- Các Tướng Lãnh, những người anh hùng của đất nước phải nắm lấy chính quyền. Chỉ có các Tướng Lãnh mới đủ khả năng và uy thế để lãnh đạo đất nước này đi đến chiến thắng, vinh quang, tự do, hạnh phúc vv...
   C.- Cabot Lodge lại còn có một thứ vũ khí vô cùng mạnh mẽ, được liệt vào hàng "Siêu hoả lực - Superfirepower", còn hơn cả bom A, bom H, hơn cả phi đạn tầm xa, tầm cụt, đánh đâu thắng đó. Đấy là "vũ khí Đô La". Dùng cả đống đô la ( giá trị năm 1963 ) để lôi kéo 1 số Tướng Lãnh

US Ambassador Henry Cabot Lodge Jr. (fore R) talking with Mr. Ngo Dinh Nhu (fore L) at  a diplomatic reception. Sept 1963

có quyền lực, có quân trong tay vào hàng ngũ đảo chánh trong tình thế Sài Gòn sôi sục đấu tranh như thế thiết tưởng chẳng phải chuyện khó khăn đối với Cabot Lodge, chuyên viên nhà nghề trong những áp-phe đảo chánh.  Tướng nào còn do dự, lưng chừng, không quyết tâm đảo chánh thì "Bộ chỉ huy đảo chánh" phải thuyết phục, hù dọa và... chi tiền. Tiền đã có người lo rồi. Sĩ Quan cao cấp nào tỏ ra ương ngạnh, trung thành tuyệt đối với Ông Diệm thì bắt buộc phải dùng biện pháp mạnh cuối cùng là "xoá sổ luôn". Mục này dễ thôi! Chỉ cần triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại Bộ Tổng Tham Mưu với sự có mặt bắt buộc của các Tướng Lãnh, các Tư Lệnh Quân Đoàn, Sư Đoàn, các Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng, các cơ quan trọng yếu cuả Quân Đội. Ai không quyết tâm, dứt khoát lật đổ Ông Diệm, hay bỏ ra ngoài phòng họp để phản đối thì lực lượng an ninh (đã chọn lựa kỹ càng) phải bắn hạ ngay tức khắc khi kẻ đó vừa bước chân ra khỏi cửa phòng họp, bất kể kẻ đó là ai. Có thế thiên hạ mới sợ mà phải đi theo . Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng đặc biệt - người quân nhân thật sự anh hùng, với tinh thần "Uy vũ bất năng khuất" - là một trường hợp điển hình. Ông đã bị bắn gục ngay khi ra khỏi cửa phòng họp vì Ông không chấp nhận cúi đầu khuất phục trước áp lực cuả đám người bội phản, bị xúi giục bởi đồng Đô La của ngoại qưốc.
...

  Lieutenant General Tran Van Don                                     

* Ngày 4-7-1963 : Tướng Trần Văn Đôn , người đang giữ chức vụ chỉ huy cao nhất trong Quân Đội, thông báo cho Lucien Conein , nhân vật cao cấp cuả cơ quan Tình Báo Trung Ương Mỹ (CIA: Central Intelligence Agency) tại Sài Gòn biết là một vài Tướng Lãnh cuả Quân Đội Việt Nam... đã ô kê theo kế hoạch và đang ráo riết chuẩn bị cuộc đảo chánh lật đổ Ông Diệm. Tướng Trần Thiện Khiêm, người được Tổng Thống Diệm tin cậy vì đã đem quân từ vùng 4 Chiến Thuật về giải cứu Tổng Thống đầu tiên trong vụ đảo chánh hụt cuả Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông ( 1960 ), và được CIA cuả Mỹ nhắm mua chuộc, lôi kéo để sử dụng khi cần, mới là người lãnh đạo kế hoạch này, nhưng Tướng Khiêm khôn ngoan lắm, cứ đóng vai chỉ huy ở hậu trường, đề phòng những trường hợp “ Mưu sư tại nhân, thành sự tại Thiên -           L’ homme propose, Dieu dispose “ khó ai biết trước được.

* Ngày 20-8-1963 : Tổng Thống Diệm chấp nhận đề nghị cuả Tướng Trần Văn Đôn ( xưa nay được Ông Diệm tin cậy vì là một trong số những Tướng Lãnh được coi là có thực tài, xứng đáng với cấp chức được giao phó) ban hành Lệnh Thiết Quân Luật - Declaring Martial Law) để giữ vững tình hình và đối phó hiệu quả với cuộc chiến tranh phá hoại của cộng sản trên mọi lãnh vực và trong tình thế hiện tại. Mục đích thực sự của số Tướng Lãnh cầm đầu âm mưu đảo chánh là dựa vào tình trạng thiết quân luật để xiết chặt an ninh, bố trí quân đội cần thiết cho cuộc đảo chánh.
    Tổng Thống Diệm thì lại nghĩ khác . Ông Diệm nhận thấy tình hình đã đến lúc cần phải tập trung và bố trí lực lượng quân đội để cho bào đệ cuả Ông, Ông Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu - Người được dư luận đánh giá là viên cố vấn an ninh, chính trị xuất sắc, có mưu lược, khôn ngoan, ra tay dập tắt dứt khoát cuộc âm mưu lật đổ chính quyền. Mang đầy tính chất phức tạp:

* Có khá đông dân chúng bị lôi cuốn vào cuộc đấu tranh một cách nghiêm trọng thật sự.
* Mang mầu sắc Chiến tranh tôn giáo.
* Được một phần quan trọng quân đội chính phủ ủng hộ.
* Được người bạn Đồng Minh khổng lồ hậu thuẫn cho mình xưa nay; nay xoay chiều, khuynh đảo chính mình để thay thế bằng một lá bài khác.
* Đươc cộng sản quốc nội cũng như quốc tế chú tâm khai thác triệt để hầu làm tan rã một chính quyền chống cộng quyết liệt, và chống cộng có Đường Lối, Sách Lược mang lại hiệu quả rõ ràng.

* Ngày 21-8-1963 : Tình trạng càng trở nên phức tạp, nguy hiểm khi quân đội trung thành với chính phủ, đồng loạt mở cuộc tấn công vào các Chuà chiền tại Sài Gòn, Huế và vài thành phố lớn khác; nhằm truy lùng, bắt bớ các nhân vật chính trị đối lập, tu sĩ, tăng ni, sinh viên, bị coi là những thành phần cốt cán của lực lượng đấu tranh chống chính phủ.

* Ngày 22-8-1963 : Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu, Giáo Sư Thạc Sĩ ( * ) Luật Khoa, một Phật tử từ chức và cạo đầu (như các tăng ni) để phản đối sự đàn áp của chính phủ. Đại Sứ Hoa Kỳ, Henry Cabot Lodge, báo cáo về Hoa Thịnh Đốn: Ông Ngô Đình Nhu là nguời chủ động trong công cuộc đàn áp triệt để này và xác nhận: Các Tướng Lãnh chính thức yêu cầu Hoa Kỳ ủng hộ tích cực cho cuộc đảo chánh đang được xúc tiến tổ chức.

* Ngày 24- 8- 1963 : Hoa Thịnh Đốn ra lệnh cho Cabot Lodge, liên lạc với Tổng Thống Diệm và yêu cầu Tổng Thống loại bỏ ngay Ông Nhu ra khỏi bộ máy chính quyền Sài Gòn. Nếu không thì chính Tổng Thống Diệm cũng là người phải ra đi.       

Thich Tri Quang, the politically ambitious buddhist monk who helped overthrow Diem's government

       * Ngày 26-8-1963 : Đại Sứ Mỹ, Cabot Lodge trực tiếp gặp Tổng Thống Diệm để bàn về việc loại bỏ Ông Nhu và thay đổi chính sách. Tổng Thống Diệm nghiêm khắc, nhìn thẳng vào mặt Cabot Lodge, và nói Ông dứt khoát không loại bỏ Ông Nhu và không bàn chuyện thay đổi chính sách với Cabot Lodge. Cabot Lodge sau đó, thúc bách chính quyền Kennedy (cho đến lúc này vẫn còn chưa mạnh mẽ, thống nhất ý chí trong việc lật đổ Tổng Thống Diệm - Lodge presses the Kennedy administration, still badly divided over the issue of encouraging a coup, to support the dissident Generals...) ủng hộ các Tướng Lãnh để lật đổ ngay Ông Diệm. Giám Đốc cơ quan CIA của Mỹ tại Sài Gòn, John Richardson , đồng quan điểm với Cabot Lodge, và tường trình lên Tổng Thống Kennedy là tình hình không còn cách nào cứu vãn được nữa, chỉ còn cách loại bỏ Tổng Thống Diệm và Ông Nhu mà thôi.

* Ngày 31-8-1963 : Tại Hội Nghị An Ninh Quốc Gia, Paul Kattenburg, vừa từ Sài Gòn trở về, khuyến cáo chính phủ Hoa Kỳ nên nhân lúc này, tìm cách rút chân ra khỏi "Vũng lầy Việt Nam" một cách danh dự. Ngoại trưởng Dean Rusk phản đối và xác định là Hoa Kỳ sẽ ở lại Việt Nam cho tới khi chiến thắng. Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara khẳng định rằng Hoa Kỳ đang đi tới chiến thắng và phải chiến thắng. Thế mà 2 chục năm sau, McNamara lại viết sách, viết Hồi Ký nhận tội, hối lỗi về sự tham chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam là một sự sai lầm to lớn. Ông McNamara này lại còn sang tận Hà Nội gặp Cựu Tướng cộng sản Võ Nguyên Giáp để thú nhận tội lỗi đàng hoàng. Ông McNamara gián tiếp nói lên rằng: Cả nước Mỹ, từ lớn đến nhỏ, tất cả đều bị... mát dây điện, lẩm cẩm như Ông McNamara hết trơn. Chỉ có một mình Ông Bill Clinton là khôn ngoan, sáng suốt để chơi màn "trốn quân dịch, đóng vai Draft Dodger" để sau này còn sống mà làm Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh Hải Lục Không Quân cuả Siêu Cường Quốc Hoa Kỳ. Gần đây,, năm 2010, lại thêm nhân vật bất nhân, bất nghiã, gian ngoan, thủ đoạn Kissinger, cuả thời Đệ Nhị Cộng Hoà Nam Việt nam, khi biết cuộc đời cuả mình sắp đến ngày tàn, cũng lại viết thêm sách, thú nhận : Sự Xụp đổ đau đớn cuả Nam Việt Nam là do lỗi lầm quan trọng cuả Hoa Kỳ…
      Điều này chứng tỏ trong chính phủ Hoa Kỳ lúc đó không có sự thống nhất trong đường lối chiến tranh tại Việt Nam. Việc này làm cho chính Tổng Thống Kennedy cũng không dứt khoát trong vấn đề : Ra đi hay ở lại trong ván bài Việt Nam. Mà nếu ở lại thì ai là người có khả năng thay thế Ông Diệm để làm cho chính sách chống cộng ở đây tốt đẹp hơn. Trong cuộc họp Hội Đồng An Ninh quốc gia, Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson đề nghị: bằng mọi cách, phải đẩy mạnh (leo thang, đổ quân tác chiến vào Việt Nam ) cuộc chiến đang thuận lợi. Cuối cùng, Tổng Thống Kennedy phải lớn tiếng: Vậy thì ở Sài Gòn, liệu có thứ chính phủ nào khác có thể chống cộng sản thành công được không? Ông Kennedy lâm cảnh tiến thoái lưỡng nan ( being in a dilemma), ở lại Việt Nam thì càng lún sau vào vũng lầy, phải đối đầu trực tiếp với Mạc-Tư-Khoa và Bắc Kinh, rất nguy hiểm. Không ở lại thì chẳng lẽ thả nổi cái " Chính sách ngăn chặn cộng sản - Containment Policy against Communism " của Hoa Kỳ tại Á Châu thì cái khối dân chúng khổng lồ tại lục địa này sẽ đi tới đâu? Giao hết cho cộng sản hay sao? Vả lại, từ lúc Ông Diệm nắm chính quyền cho đến lúc trước khi xẩy ra tình trạng hỗn loạn này, hai Ông Diệm và Nhu đã tạo được những thành công rất quan trọng về các phương diện: Chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội, kỷ cương, trật tự, làm cho chính giới Hoa Kỳ tin tưởng rằng Hoa Kỳ cần phải trấn giữ cái "Tiền đồn chống Cộng " này. Bỏ đi sẽ vô cùng nguy hiểm. Ở ba cái xứ lạc hậu, chậm tiến thuộc các lục địa Á Phi (Backward, underdeveloped Asian and African countries), mà lại đang có chiến tranh chống bọn cộng sản ma quái, xảo quyệt thì các Ông Diệm và Nhu quả là những khuôn mặt lãnh tụ rất cần thiết, kiếm cho ra người khá hơn không phải dễ dàng.
      Trưởng phái đoàn Ba-Lan (cộng sản) trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (International Commission for Supervision and Control of the Cease-fire), Mieczyslaw Maneli, tìm gặp Ông Ngô Đình Nhu để bàn định kế hoạch " Thống nhất và trung lập hoá Việt Nam.- Unification and Neutralization of Vietnam" hầu loại bỏ Hoa Kỳ ra khỏi vùng lãnh thổ này, dựa theo kế hoạch của Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle ( Pháp còn cay cú với Mỹ lắm, Mỹ không chịu yểm trợ bằng không quân nên Pháp đã phải ra đi sau cuộc thất trận ở Điện Biên Phủ, để cho Mỹ nhẩy vào thay thế ). Đại Sứ Pháp tại Sài Gòn, Roger Lalouette, thúc giục Maneli (Ba Lan) liên lạc ngay với Hà Nội để giàn xếp, thực hiện kế hoạch của Tổng Thống Pháp. Còn phiá Ông Diệm và Ông Nhu thì chỉ là lối thoát cuối cùng để khỏi bị lật đổ với nhiều kết quả tệ hại, nguy hiểm trong cuộc đảo chánh do phiá Hoa Kỳ đang đạo diễn.
       Thủ Tướng cộng sản Hà Nội, Phạm Văn Đồng, đón nhận nồng nhiệt kế hoạch của Pháp và Ba-Lan. Maneli trở lại Sài Gòn, gặp Ông Nhu và cho Ông Nhu biết rằng chính quyền Hà Nội sẵn sàng hợp tác với hai Ông Diệm và Nhu để 2 ông thoát khỏi 1 âm mưu thâm độc, đồng thời tìm ra một giải pháp hợp lý, hợp tình cho vấn đề chấm dứt tình trạng chiến tranh Việt Nam...
      Giám Đốc cơ quan CIA cuả Mỹ bắt được tin này, liền thúc giục Ngoại Trưởng Mỹ, Dean Rusk: Hoa Kỳ phải ra tay trước bằng cách yểm trợ tích cực cho các Tướng Lãnh thực hiện ngay cuộc đảo chánh, và đề nghị tức khắc tấn công Bắc Việt nếu Hà Nội xiá vô vụ này... (... advises Rusk that the Generals be encouraged to move promtly with their coup, and suggests attacking North Vietnam if Hanoi interferes...).
* Ngày 5-10-1963 : Cabot Lodge phúc trình với Tổng Thống Kennedy là Tướng Dương Văn Minh được đề cử vào vai trò Thủ Lãnh cầm đầu cuộc đảo chánh. Tướng Minh đã gặp Conein (CIA), yêu cầu phía Hoa Kỳ đảm bảo chắc chắn là: Kể từ lúc này trở đi Hoa Kỳ không nên làm ngăn trở cuộc đảo chánh bằng bất cứ hình thức nào vì tình thế đã đi vào cái thế không thể lùi được nữa, đã quay lưng ra biển mất rồi ( lộn xộn là chết hết vì Tướng Minh rất nghi ngờ sự quyết tâm của 2 Tướng Tôn Thất Đính và Nguyễn Khánh , 2 Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn (Army Corps Commanders) có quân trong tay và không nhiệt thành với cuộc đảo chánh này. Tổng Thống Kennedy chấp nhận yêu cầu này và khuyến cáo Cabot Lodge và CIA nên để cho các Tướng Lãnh tùy theo tình hình mà quyết định hành động, cốt sao đạt được mục tiêu của Hoa Kỳ là Chống cộng sản hữu hiệu để ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản tại khu vực Á Châu.
* Ngày 22-10-1963 : Tướng Mỹ Harkins gặp Tướng Trần Văn Đôn trong buổi tiếp tân tại Toà Đại Sứ Anh ở Sài Gòn. Tướng Harkins nói với Tướng Đôn là Ông ta có nghe biết về cuộc chuẩn bị đảo chánh, và cho rằng đó là 1 điều sai lầm... ( he knows of the coup and considers it a mistake...). Tướng Đôn hoảng hồn nên vội gặp ngay Conein cuả CIA và cho biết cuộc đảo chánh dự trù phải cho cho nổ ra vào ngày 26-10-1963, nhân lúc huy động quân lực cho ngày Lễ Quốc Khánh hàng năm, kẻo không Tướng Harkins nói theo kiểu đó thì... chết hết! Tướng Đôn cũng run lắm chớ! Lỡ Sư Phụ lông lá chơi ngón "phản thùng "thì chết cả lũ! Mà nó hay chơi ngón này lắm. Conein bèn trấn an cho Tướng Đôn bớt ngán "-! Cái Ông Tướng Harkins, ông ấy nói theo ý nghĩ cá nhân cuả Ông ấy. Ăn nhằm chi? Mình cứ... Go ahead!"  Tướng Mỹ 4 sao Maxwell Taylor, Chủ Tịch Uỷ Ban Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ ( U.S. Chief of Joint Staff) đã từng tâm tình với Tướng Harkins cũng như với Tổng Thống Kennedy là đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm thì rồi hậu quả sẽ phiền toái lắm, nếu không nói là nát bấy (Completely crushed); chúng ta hết còn khả năng chống cộng sản tại mảnh đất này nữa. Cộng sản Hà Nội lợi dụng tình hình rối loạn ở Sài Gòn cũng như nhiều thành phố khác, tung quân đánh phá hệ thống Áp Chiến Lược (System of Strategic Hamlets) do Ông Nhu chỉ đạo tổ chức các làng chiến đấu để chống lại và tiêu diệt các cơ sở chiến đấu hạ tầng (Basic fighting organizations) của cộng sản ngay tại nông thôn vì Ông Diệm và Ông Nhu biết rằng bên nào kiểm soát và nắm vững được nông thôn với 80% dân số thì bên đó sẽ thắng trong cuộc chiến tranh này.
    Các năm về trước, cộng sản đã từng bỏ hết các thành phố, nhưng nắm vững được nông thôn cho nên

cuối cùng nguời Pháp đành chịu thua mặc dầu quân đội Pháp ngay từ lúc ban đầu, luôn luôn làm chủ tình hình trên các chiến trường với những phương tiện chiến tranh hùng hậu tưởng chừng như chỉ tối đa là 3 năm sẽ hoàn toàn tiêu diệt hết khả năng chống cự của cộng sản để đạt chiến thắng. Điều này cũng giống y

chang như ý nghĩ của Ông McNamara và nhiều Tướng Lãnh Mỹ khác khi ào ạt đổ quân tác chiến của Mỹ vào Việt Nam; trong đó có cả Tướng 4 sao Westmoreland, một thời từng là Tổng Chỉ Huy quân đội Mỹ tại Việt Nam hơn 10 năm sau vẫn cứ tưởng như vậy. Những nhân vật này chưa bao giờ hiểu được "Sức mạnh cuả thế chiến tranh nhân dân - Power of People's War Strategy" mà Karl Marx và Lenin, Sư Tổ và Sư Phụ của Hồ Chí Minh, đã dậy cho người cộng sản biết một bí quyết "Làm thế nào để dùng sức yếu, nhưng tinh thần mạnh và quyết thắng cuả mình để đánh bại một kẻ thù có sức mạnh, nhưng thiếu một tinh thần quyết thắng dẻo dai và bền bỉ." Trong khi cộng sản tưởng rằng rối loạn ở Thủ Đô và các thành phố thì Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà sẽ chán nản, không còn tinh thần nào mà chiến đấu nữa - lại càng làm cho Tổng Thống Kennedy đâm ra phân vân, nghĩ ngợi là lật đổ Tổng Thống Diệm thì rồi tình hình nam Việt Nam, cái "Tiền đồn chống Cộng ở Á Châu" rồi sẽ ra làm sao đây? Chẳng lẽ bỗng dưng giao hết cho cộng sản! Lại thêm Tướng Maxwell Taylor, Chủ Tịch Uỷ Ban Tham Mưu Liên Quân, qua thông tin từ Tướng Harkins ở Sài Gòn, đã tỏ ra ủng hộ đường lối, chính sách cuả Tổng Thống Diệm. Theo 2 Tướng Taylor và Harkins thì lật đổ Tổng Thống Diệm, loại bỏ Ông Nhu thì kể như dọn đường, mời cộng sản vào chiếm luôn Miền Nam. Đầu óc Tổng Thống Kennedy thật là chao đảo, lộn xộn về vụ này. Cuối cùng, Tổng Thống Kennedy cấp tốc gửi điện văn cho Cabot Lodge, ra lệnh liên lạc ngay với các Tướng đảo chánh yêu cầu "Hãy khoan thực hiện cuộc đảo chánh! " Cabot Lodge và một số nhân vật cao cấp cuả Bộ ngoại giao Mỹ có liên hệ, ảnh hưởng với giới "tài phiệt và phe phái Diều hâu" chủ trương leo thang chiến tranh, đổ quân tác chiến Mỹ vào Việt Nam, đã nhiều lần qua mặt, che mắt Ông Kennedy; lần này lại thêm lần nữa dìm chết bức điện văn hoãn đảo chánh của Ông Kennedy, coi như... không nhận được.
      Ông Kennedy vốn thông minh cho nên đã nhận biết ra điều này cho nên Ông đã từng ra lệnh và nhắc nhở Bộ ngoại giao Mỹ, các nhân vật cao cấp cuả Mỹ tại sài Gòn, kể luôn cả Cabot Lodge là "Phải phúc
...

U.S. presient J.F. Kennedy

trình ngay cho T ổng Thống biết mọi biến chuyển quan trọng tại Việt Nam thuộc phạm vi trách nhiệm của mình, và mọi quyết định quan trọng đối với tình hình tại đây đều phải có ý kiến trước cuả Tổng Thống." Lệnh cuả TổngThống là như vậy nhưng các nhân vật cao cấp thuộc Bộ ngoại giao, Cabot Lodge và cấp lãnh đạo CIA ở Sài Gòn có thi hành đúng đắn hay không lại là chuyện khác. Vì tình trạng trên cho nên mặc dầu Cabot Lodge nhận được điện văn khẩn (Urgent Message) của Tổng Thống Kennedy yêu cầu liên lạc với các Tướng Lãnh Sài Gòn khoan hãy khởi sự cuộc đảo chánh, nhưng Cabot Lodge chẳng bao giờ thông báo, yêu cầu các Tướng Lãnh thi hành lệnh đó. Cuối cùng (có lẽ vì đau đầu và mệt mỏi về chuyện này quá), Tổng Thống Kennedy đành phó mặc cho con cáo già, chuyên viên đảo chánh, Cabot Lodge, muốn làm chi thì làm (...President Kennedy cables Lodge urgently to ask the Generals to postpone the coup, but Lodge never delivers the message. In the end, Kennedy leaves the final judgement U.S. presient J.F. Kennedy

                                              of the matter to Lodge...). Thế là, mặc dầu Tổng Thống Kennedy ra lệnh hoãn kế hoạch đảo chánh lại, nhưng cuộc đảo chánh vẫn xẩy ra vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 khi quân đảo chánh bao vây dinh Tổng Thống tại Sài Gòn, tức là dinh Gia Long vì lúc này dinh Độc Lập đang sửa chữa...

        Trong cuốn hồi ký mang tên “The memoirs of Richard Nixon”, Tổng Tống Nixon có kể lại rằng khi đến Pakistan, ông gặp lại người bạn cũ là Tổng Tống Ayub Khan. Tổng Thống Khan đã nói một cách đau buồn về việc hạ sát Tổng Tống Ngô Đình Diệm như sau:

“Tôi không thể nói – lẽ ra các ông đừng bao giờ ủng hộ ông Diệm ngay từ đầu. Nhưng các ông đã ủng hộ ông ta trong một thời gian dài và mọi người ở Á Châu đều biết điều đó. Dù họ có tán thành hay không tán thành điều đó, họ biết điều đó. Rồi đột nhiên các ông ngừng ủng hộ ông ta – và ông Diệm đã bị giết.” Ông ta lắc đầu và kết luận: “Việc hạ sát ông Diệm có ba ý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo Á Châu: làm một người bạn với Hoa Kỳ là nguy hiểm; trung lập phải trả cái giá của nó; và đôi khi làm kẻ thù ( của Hoa Kỳ ) lại tốt hơn! Lòng tin cậy như một sợi chỉ mong manh và một khi nó đã đứt, rất khó mà nối lại.” (Richard Nixon, The memoirs of Richard Nixon, Touchstone, New York 1990, tr. 256 – 257)

   Ông cựu Đại Sứ Hoa Kỳ  Frederick Nolting trong cuốn "From Trust To Tragedy" của ông ta, đã viết về Tổng Thống Ngô Đình Diệm như sau:

     "Tôi đã có đọc lịch sử Việt Nam, và đã biết các cu ộc chiến tranh giành độc lập của xứ sở này, và cũng đã biết là ông Diệm hiểu biết tường tận, thấu đáo vấn đề.  May mắn là tôi cũng đã có một căn bản hiểu biết đáng kể về  triết học và khoa tôn giáo đối chiếu.  Nhưng tôi hoàn toàn không được chuẩn bị để nghe những điều như thế nàỵ  Càng nghe tôi càng thích thu’.  Tôi đặt những câu hỏi.  Mỗi câu hỏi lại mở ra một chương mới, và sau một thời gian tôi nhận ra sự dấn thân tận hiến và lòng say mê của con người này, là người đã hiến trọn đời mình để giữ cho bằng được căn cước lịch sử của dân tôc của ông  ta và ông ta hiểu nó, yêu thích nó.

     ....Cho đến lúc này cáo buộc quan trọng nhất của ông ta là người Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam.  Ông ta (TT Diệm) không muốn người Mỹ đoạt lấy trách nhiệm của VN.  Ông ta không muốn quân lực Mỹ chiến  đấu cho nền đc lập và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN.

     Ông bảo tôi: "Nếu chúng tôi không tự mình thắng cuộc chiến này với sự viện trợ vô gía của qúy quốc thì như vậy chúng tôi sẽ thua và thua là đáng đời". Ông ta vô cùng cương quyết trong vấn đề này và ông ta cảm thấy rằng nếu chính phủ Nam VN trở nên lệ thuộc vào Hoa Kỳ thì như vậy chứng tỏ luận cứ của Việt cộng là đúng.  Việt cộng thường nói rằng: "Nếu các anh cúi đầu thần phục Hoa Kỳ thì các anh sẽ thấy các anh đúng chỉ là thuộc địa của Mỹ cũng như 75 năm về trước VN đã từng là thuộc địa của Pháp". Về điểm tế nhị này tôi đã có thể trấn an ông ta, vì toàn bộ ý niệm của những khuyến cáo cho toán đặc nhiệm cũng như những huấn thị cho tôi do TT Kennedy ban hành, là phải giúp Nam VN tự bảo vệ nền độc lập tự Do của họ cho chính họ" (Đại Sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting trong cuốn "From Trust To Tragedy").

                                                                                 *

   Chúng tôi sẽ viết nốt về một vấn đề thật quan trọng, mà cho tới lúc này nhiều người vẫn còn đặt ra câu hỏi: "Ai là người đã ra lệnh giết Ông Ngô Đình Diệm, Tổng Thống đầu tiên của nền Cộng Hoà Việt Nam, ngưới đã chết một cách thảm khốc chỉ vì:
* Không chấp nhận cho Mỹ đưa quân tác chiến vào Việt Nam và nắm quyền lãnh đạo cuộc chiến đấu chống cộng sản tại đây, đẩy chính nghiã của cuộc chiến (Just cause of the war) vào tay cộng sản.
*Bị bạn đồng Minh phản bội.
* Bị một phần dân chúng hiểu lầm vì âm mưu thâm độc của thù trong và giặc ngoài.
* Bị đám tay chân, bộ hạ, ham tiền bạc, quyền hành, hạ độc thủ vì đám người này đã bị sức mạnh Đô La của ngoại nhân khuất phục.
                                                                            ***

             Chỉ có 1 điều duy nhất an ủi được linh hồn Ông Diệm ở thế giới bên kia là: càng ngày càng có nhiều người Việt Nam ( không những ở Miền Nam mà ngay cả ở Miền Bắc), cũng như có nhiều người Mỹ hiểu được sự thật về con người, lòng yêu thương đất nước và dân tộc Việt Nam cuả Ông.   

                                                                               *

                                                                                                       California – U.S.A.
                                                                                                         Phan Đức Minh
Tài liệu tham khảo:
* The Death of A Nation. - John A. Stormer.- Liberty Bell Press.- Missouri, 1978.
* The World Almanac of The Vietnam War .- John S. Bowman (General Editor).- Bison Books Corp.- New York, 1985.
* Vietnam: The History & Tactics .- Ashley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited.- London, 1982.
* Kennedy. - Theodore Sorensen.- Harper & Row.- New York, 1965.
* A Book of U.S. Presidents. - George Sullivan.- Scholastic Incorporation.- New York,1984.

* Một số tài liệu quan trọng trên Internet.

( Bản của Tác giả gửi HNPD)
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
tícônương
Full Member
***
Offline



Posts: 110
Re: Ngày này  năm xua
Reply #57 - 08. Jan 2012 , 20:59
 

Ngày 8 tháng 1


Hôm nay ngày 8 tháng 1 tưởng niệm lần thứ 27 các vị anh hùng kháng chiến Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch đã hy sinh tính mạng để tranh đấu cho nước Việt Nam Độc Lập, Tự Do , Dân Chủ. Các anh đã đi vào lịch sử những vị anh hùng của nước Việt Nam


- Trần Văn Bá sinh năm 1945 là cựu chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris.

- Lê Quốc Quân sinh năm 1941 là cựu sĩ quan QLVNCH. Chiến hữu Quân đã quy tụ một số cựu quân nhân VNCH thành lập tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Các Lực Lượng yêu Nước Giải Phóng Việt Nam.

- Hồ Thái Bạch bí danh Anh Cả sinh năm 1926 tại Long An trú quán Tây Ninh 


8 giờ sáng ngày thứ ba 8/1/1985 CSVN đã đem các anh hùng Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch ra pháp trường xữ bắn. Cả 3 vị anh hùng không chịu bịt mắt và đã hô lớn trước khi chết : Ðả Ðảo Cộng Sản -Việt Nam Muôn Năm.


http://tranvanba.org



Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Ngày này  năm xua
Reply #58 - 19. Jan 2012 , 00:50
 


Câu chuyện của người lính VNCH trấn giữ Trường Sa đến ngày cuối cùng



...

Mặc Lâm (RFA) - Ngày 19 tháng 1 năm nay đánh dấu 38 năm quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm giữ. RFA phỏng vấn ông Nguyễn Văn Mười, người lính VNCH đã giữ Trường Sa tới ngày cuối cùng. Mặc dù yếu thế và trong tình hình dầu sôi lửa bỏng của cuộc chiến với Miền Bắc, Việt Nam Cộng Hòa đã làm hết sức mình để bảo vệ phần còn lại của đất nước là quần đảo Trường Sa đang có nguy cơ bị kẻ thù dòm ngó tiếp.
...

Bản đồ Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. - Source UNCLOS


Trước tiên ông Nguyễn Văn Mười cho biết về quãng thời gian ông phục vụ trong quân đội VNCH như sau:
...

ông Nguyễn Văn Mười Ô. Nguyễn Văn Mười:  Tôi là Nguyễn Văn Mười, tự Nguyễn Hùng, sinh năm 1950. Đầu năm 1968 tôi tham gia vào Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến và sau khi học ra trường tôi được chuyển về Tiểu Đoàn 5 TQLC. Cho đến năm 1970 tôi thuyên chuyển về Tiểu Khu Phước Tuy vì lý do gia cảnh.

Tôi đã tham gia nhiều cuộc hành quân với Úc Đại Lợi. Cho đến năm 1971, cuối năm 1971 thì lực lượng Hoàng Gia Úc đã rút khỏi Việt Nam, trở về nước. Lúc đó Quân Lực VNCH, Tiều Khu Phước Tuy chúng tôi đương đầu với cộng sản cho đến ngày 1 tháng Giêng năm 1973 thì ký Hiệp Định Paris.


Quân số của đảo thì bộ chỉ huy nhẹ của của chúng tôi là 39 người, còn tất cả 3 đảo Sơn Ca, Sinh Tồn và Trường Sa thì mỗi đảo chỉ có 20 quân thôi, tức một trung đội.


Cho đến đầu năm 1975 thì tôi được lệnh thuyên chuyển ra hải đảo Sinh Tồn thuộc Quần đảo Trường Sa. Khi tôi ra ngoài đảo Sinh Tồn, nó có tất cả là 3 đảo là Sinh Tồn, Nam Yết và Sơn Ca. Nam Yết là bộ chỉ huy chính, Song Tử Tây là bộ chỉ huy nhẹ. Cuộc sống ở đó thì chúng tôi được chính phủ cấp lương thực hoàn toàn, chỉ có khó khăn về vấn đề nước, nhưng mà tàu hải quân VNCH đã cung cấp nước đầy đủ.


Quân số của đảo thì bộ chỉ huy nhẹ của của chúng tôi là 39 người, còn tất cả 3 đảo Sơn Ca, Sinh Tồn và Trường Sa thì mỗi đảo chỉ có 20 quân thôi, tức một trung đội.

Bối cảnh trận chiến

Mặc Lâm:  Ông có thể cho biết hoàn cảnh lúc đó ra sao khi mà đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 và đơn vị của ông được điều động ra Trường Sa theo lệnh của ai vì theo chúng tôi biết thì trước đó quân đội không trú đóng trên đảo này mà chỉ có mặt tại Hoàng Sa mà thôi?

Ô. Nguyễn Văn Mười: 
Dạ thưa, khi mà Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 thì lúc bấy giờ Việt Nam Cộng Hòa đã cử một phái đoàn của Bộ Nội Vụ ra để khảo sát Quần đảo Trường Sa, thì lúc đó một cán bộ của Bộ Nội Vụ là ông Tôn Thất Tùng của Trường Quốc Gia Hành Chánh ra với nhiệm vụ là khảo sát Quần đảo Trường Sa.

Khi khảo sát Quần đảo Trường Sa rồi thì về báo cáo với Tổng Thống, thì Tổng Thống giao cho Bộ Tổng Tham Mưu điều động Tiểu Đoàn 2 TQLC đi ra để củng cố phòng thủ chiến đấu bảo vệ Quần đảo Trường Sa. Khi bố trí phòng thủ xong trong vòng đó thì giao lại cho Tiểu Khu Phước Tuy quản lý.

Mặc Lâm:  Thưa, ông có thể cho biết là cơ hội nào ông gặp và biết câu chuyện của ông Tôn Thất Tùng và ông có thể kể lại cho thính giả RFA nghe được hay không ạ?

Ô. Nguyễn Văn Mười:
  Dạ thưa anh, năm 1986 tôi ra trại tù của A20 ở Xuân Phước (Tuy Hòa) thì tôi gặp ông Tôn Thất Tùng là Phó Tỉnh Trưởng của VNCH. Khi đó thì hai anh em tôi mới trao đổi với nhau vấn đề Quần đảo Trường Sa vào năm 1988 vào khi Trung Quốc đánh Quần đảo Trường Sa bắn giết bộ đội Việt Nam.

Tôi với anh Tôn Thất Tùng có bức xúc và hai anh em có ngồi tâm sự, thì anh Tùng có nói rằng năm 1974 khi Trung Quốc chiếm Quần đảo Hoàng Sa thì chính anh là người ra khảo sát Quần đảo Trường Sa. Khi khảo sát xong thì Tổng Thống Thiệu quyết định trấn giữ Quần đảo Trường Sa.

Quần đảo Trường Sa có 5 đảo : Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa, Song Tử Tây. Nam Yết là bộ chỉ huy chính mà Song Tử Tây là bộ chỉ huy phụ. Bộ Tổng Tham Mưu giao lại cho Quân Đoàn III, rồi Quân Đoàn III giao lại cho Tiều Khu Phước Tuy để quản lý phạm vi của Quần đảo Trường Sa. Tiểu khu Phước Tuy giao cho Tiểu Đoàn 371 là tiểu đoàn cơ động của tỉnh để quản lý Quần đảo Trường Sa, cứ 3 tháng thì có một đại đội ra thay để mà trấn giữ Quần đảo Trường Sa.

Nhưng đầu năm 1975, đến ngày 27 tháng 4 thì khi cộng sản chiếm Đà Nẵng, rồi Nha Trang thì họ đã chiếm mất hai đảo Sơn ca và Song Tử Tây, còn lại 3 đảo thì chúng tôi cương quyết tử thủ.

Mặc Lâm: Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến thì đơn vị của ông có xảy ra cuộc đụng độ nào với quân đội Miền Bắc hay không và họ tiếp quản các đảo như thế nào?
Ô. Nguyễn Văn Mười:
  Đến tháng 3 thì cộng sản đã chiếm đảo Song Tử Tây, và tháng 4 thì cộng sản đã chiếm đảo Sơn Ca, còn lại 3 đảo thì cộng sản đã đưa tàu chuẩn bị chiếm tiếp 3 hòn đảo nữa. Trong lúc đó thì có chiếc WEF-17 và chiếc BSON-14 yểm trợ cho 3 đảo này vì Nam Yết và Sinh Tồn thì liền nhau, còn Trường Sa thì nằm ở mé trên đó anh, nên do đó mà cộng sản không thể chiếm được.

Khi mà Song Tử Tây bị mất thì chúng tôi đã rút kinh nghiệm rồi, sẵn sàng để mà tử thủ: tử thủ hải đảo Sinh Tồn, quần đảo Trường Sa. Nhưng mà đến ngày 17 tây thì được lệnh của Bộ Tư Lệnh Hành Quân Biển, thì lúc đó chiếc WEF-17 vô hốt quân, chiếc BSON-14 yểm trợ để cho hốt quân.

Đến ngày 19 thì đã hoàn tất. Khi chạy về tới bờ biển Vũng Tàu là đúng ngày 30 tây, sáng 8 giờ ngày 30 tây thì 10 giờ Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng đó anh.

Mặc Lâm
:  Trong suốt thời gian đồn trú trên đảo Trường Sa có bao giờ ông thấy sự xuất hiện của tàu Trung Quốc hay của các nước khác tới gần đảo hay không, thưa ông?

Ô. Nguyễn Văn Mười:
  Thời điểm đó không có một chiếc tàu nào gọi là quân sự mà đi trong vùng biển của Quần đảo Trường Sa, chỉ có tàu buôn, bởi vì khu vực Quần đảo Trường Sa có dạng như một “ngã tư quốc tế”, coi như là giao lộ thông thương của Châu Á – Thái Bình Dương, nên đó là một giao điểm quan trọng nhứt.

Mặc Lâm:
  Còn Đài Loan thì sao? Họ đóng quân ở đảo Ba Bình trước đó rất lâu khi Việt Nam có mặt tại những hòn đảo kế bên thì thái độ của họ ra sao, thưa ông?

Ô. Nguyễn Văn Mười
:  Đài Loan có một đảo là đảo bây giờ họ đang giữ mà ngày xưa ta gọi là Thái Bình nhưng họ gọi là đảo Ba Bình. Nó là đảo lớn nhứt của Quần đảo Trường Sa. Khi chúng tôi đóng quân ở đó, Philippines thì ở đảo Song Tử Đông gần Song Tử Tây, thì hai bên thường xuyên chạy qua trao đổi với nhau rất là tình cảm.

Còn đảo Thái Bình do Đài Loan chiếm giữ, khi mà tàu hải quân của VNCH chạy ngang gần bờ của đảo Thái Bình thì đảo Thái Bình báo động và cho trực thăng và tàu chiến ra, nhưng khi ra thấy cờ của VNCH thì họ kéo trở vô đảo chớ không đưa tàu chiến ra nữa. Đài Loan chưa bao giờ có một tư thế để lấn chiếm Quần đảo Trường Sa.

Mặc Lâm
:  Xin ông cho biết từ Vũng Tàu ra Trường Sa thì hải trình gần như gấp đôi từ Nha Trang ra, tại sao Bộ Tổng Tham Mưu lúc đó không giao sự quản lý Trường Sa cho Quân Đoàn II mà lại giao cho Quân Đoàn III?

Ô. Nguyễn Văn Mười:
  Bộ Tổng Tham Mưu giao cho Quân Đoàn III bởi vì Quân Đoàn III quản lý thực tế còn thực chất là do Hải Quân quản lý ở biển, bởi vì Hải Quân VNCH ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân rất đông, họ di chuyển dễ dàng hơn ở Nha Trang, còn tàu chiến lớn đậu ở Sài Gòn.

Nha Trang thuộc Vùng 2 Duyên Hải không có tàu lớn mà chỉ có loại tuần duyên không à, do đó giao lại cho Quân Đoàn III để mà chuyên chở quân đội đi cho dễ dàng dó anh.

Mặc Lâm:
Một lần nữa xin cảm ơn ông!

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/svn-protect-the-spratly-ml-01182012135527...
| 19.1.12
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Ngày này  năm xua
Reply #59 - 19. Jan 2012 , 01:00
 
...




Hôm nay là ngày 19 tháng 1 , ngày này 38 năm  về trước -Hải Quân Quân lực Việt nam  -Hải Chiến  với  hải quân Trung Cộng ở Hoàng Sa . Một  trận Hải Chiến  rất  quả cảm của Hải quân VNCH .
Cũng  là ngày tưởng nhớ  62 Chiến sĩ Hải quân Hy sinh  trong trận Hải Chiến .Đặc biệt nhất là  sự Hy sinh  của Hải quân Thiếu tá Nguỵ văn Thà

( cựu học sinh Hồ ngọc Cẩn)
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 3 4 5 6 ... 9
Send Topic In ra