Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Pháp Nạn tại Bát Nhã (Bảo Lộc, VN)  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra
Pháp Nạn tại Bát Nhã (Bảo Lộc, VN) (Read 4885 times)
CoiChay
Gold Member
*****
Offline


Cối Chày of the Year
2006-2009

Posts: 2263
Re: Pháp Nạn tại Bát Nhã (Bảo Lộc, VN)
Reply #15 - 15. Oct 2009 , 21:33
 
Đặng-Mỹ wrote on 15. Oct 2009 , 00:50:
Cám ơn anh Phan Nguyên và anh 4C mang tin tức về.
Những bài viết thế này nếu được phổ biến cho nhiều người trong nước đọc thì hay quá.


Hehe chị Mỹ,

Bắt chước anh PN thấy mấy lá thư hay, muốn giới thiệu cùng mọi người. Tôi nghĩ người trong nước họ cũng có đọc được những bài này.

Thân mến,

CC
Cheesy
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Pháp Nạn tại Bát Nhã (Bảo Lộc, VN)
Reply #16 - 17. Oct 2009 , 22:16
 
Lạy ngày tiếp nối


Đường xưa mây trắng tiễn con
Xa ngôi nhà lửa con đi tìm Người
Từ bi, trí tuệ rạng ngời
Như vầng trăng sáng chiếu soi sơn hà
Người cho con cả một rừng hoa
Lối về thắp sáng, từ xa con mừng
Người gieo ân nghĩa, yêu thương
Ơn Người chưa trả con vương trong lòng
Giờ đây Bát Nhã khóc, trông
Còn đâu một giấc mơ hồng năm xưa
Ngày Người tiếp nối cõi này
Tăng thân khắp chốn quay về dâng hương
Giờ đây Bát Nhã tang thương
Chúng con chẳng biết nẻo đâu nương về
Người bảo hãy là hải đảo
Tự thân mình thắp đuốc mà đi
Dựa tăng thân soi vào tâm mộng
Và giờ còn có mặt cho con?
Con dẫu biết hợp tan, tan hợp
Cuộc đời như thật, huyễn, vấn vương
Con dẫu biết tiếng đời không dứt
Mà sao đại địa lại rưng rưng!
Nay con quỳ lạy Ngày Tiếp nối
Cầu xin Người tiếp nối mãi ngàn sau!


         
Hương Giang

Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Pháp Nạn tại Bát Nhã (Bảo Lộc, VN)
Reply #17 - 17. Oct 2009 , 22:33
 
Thân Kim Cương -lá Thư Sư Ông viết cho Đệ Tử

Bích Nham ngày 07-10-2009

Thư gửi các con Bát Nhã của Thầy,

Sở dĩ Thầy viết “các con Bát Nhã của Thầy” mà không viết “các con của thầy ở Bát Nhã” như kỳ trước, tại vì tuy các con không còn cư trú ở Bát Nhã nữa, nhưng các con vẫn còn mang danh xưng tăng thân Bát Nhã.  Các con với Bát Nhã là một.  Đi đâu các con cũng mang Bát Nhã đi theo, và Bát Nhã đã trở thành một thân kim cương bất hoại.  Bài kệ mà chúng ta xướng tụng trước khi đọc kinh Kim cương có danh từ “thân kim cương” như sau:

Làm sao vượt sinh tử
Đạt được thân kim cương?
Tu tập theo lối nào
Quét được muôn huyễn tướng?
Xin Bụt đem lòng thương
Mở bày kho bí tạng
Vì tất cả chúng con
Đem pháp mầu diễn xướng!

Bát Nhã đã trở nên huyền thoại, đã trở thành thân kim cương, không ai có thể tiêu hủy được nữa.  Bát Nhã là một đóa sen ngát hương nở trên bùn lầy của vô minh, của sự sợ hãi, lo lắng, tham nhũng và lạm dụng quyền hành.  Bát Nhã đã đi vào lịch sử.  Và các con đã may mắn có cơ duyên góp phần làm phát hiện đóa sen Bát Nhã.  Bát Nhã đã trở thành một phần của gia sản văn hóa đất nước.

Các con Bát Nhã của thầy hiện giờ không phải chỉ đang tỵ nạn ở chùa Phước Huệ mà cũng đang có mặt ở nhiều nơi khác, trong nước và ngoài nước.  Ở đâu các con cũng có đóa sen Bát Nhã trong lòng.  Đó là chí nguyện tu tập và độ đời, đó là trái tim ban đầu, đó là tâm bồ đề.  Đó là nguồn năng lượng giúp cho chúng ta còn là chúng ta, giúp cho chúng ta không bị tha hóa, mua chuộc, và bỏ cuộc.

Thầy đang có hạnh phúc vì thầy đang viết thư tâm sự với các con.  Dưới bút hiệu Nguyễn Lang thầy đã viết cho Chủ Tịch Nước và cho các bậc nhân sĩ trí thức Việt Nam trong và ngoài nước để nhờ các vị ấy lên tiếng can thiệp về vụ Bát Nhã.  Và đây là thư thầy viết cho các con.

Trước hết, thầy muốn kể cho các con nghe là chùa Phước Huệ nơi mà một số các con đang tá túc là nơi thầy đã từng cư trú trong nhiều năm.   Đó là những năm trong thập niên 50.   Hồi ấy thầy còn trẻ lắm, và chùa Phước Huệ còn đơn sơ chứ không đồ sộ như ngày nay.  Phía sau chùa là một vườn chè có cả ngàn cây.  Thầy có một cái am nhỏ mái lá vách đất ngay giữa vườn chè.  Thầy ở đó một mình, trong am chỉ vẻn vẹn có một cái giường ngủ và một cái bàn viết.  Thượng Tọa Thái Thuận chắc có thể chỉ cho các con thấy địa điểm của chiếc am lá ngày xưa ấy.  Một đêm thầy nằm mơ thấy mẹ thầy, dung nhan không khác gì ngày xưa với mái tóc dài óng mượt.  Đang được ngồi nói chuyện với mẹ với rất nhiều hạnh phúc thì bỗng nhiên thầy thức dậy.  Và thầy nhớ ra rằng mẹ thầy đã mất trước đó mấy năm.  Thầy trỗi dậy, mở cửa đi ra ngoài.  Trong am không có nhà vệ sinh, và vì làng Công Hinh (tên ngôi Làng trong đó có chùa Phước Huệ) là một miền núi quê, chung quanh am này toàn là cây chè nên mình có thể ngồi đi tiểu giữa những cây chè.  Vừa bước ra khỏi am thì thầy tiếp xúc được với ánh trăng vằng vặc bao phủ cả đồi chè.  Trăng đêm ấy là trăng hạ tuần, sáng đẹp và hiền hòa vô cùng.  Đất trời rất thanh tịnh.  Và thầy có cảm tưởng là thầy đang được mẹ ôm vào lòng, tình mẹ dịu như ánh trăng khuya.  Bỗng nhiên thầy giác ngộ ra rằng mẹ của thầy chưa bao giờ mất, mẹ của thầy luôn luôn còn đó cho thầy, và bản chất của mẹ là vô sinh bất diệt.   Những đau buồn thương nhớ trong mấy năm mất mẹ vừa qua đột nhiên tan biến, và thầy đã mỉm cười trong ánh trăng khuya.  Thầy nhớ là thầy đã ghi câu chuyện này ở đâu đó, có thể là trong tác phẩm Nẻo Về Của ý.

Thầy biết là đồi chè bây giờ không còn nữa, chiếc am lá cũng không còn, nhưng nếu các con có dịp đi thiền hành bên ngoài trong khung viên chùa Phước Huệ vào một ban đêm có trăng, thì các con có thể hình dung lại cái đêm mầu nhiệm ấy, và nhìn lên mặt trăng các con sẽ thấy thầy và mẹ thầy đang mỉm cười với các con.

Trong chuyến đi hoàng pháp mùa Thu 2009 này ở Hoa Kỳ đã xảy ra một sự kiện mầu nhiệm, đó là khóa tu tổ chức tại công viên Estes ở tiểu bang Colorado.  Khóa tu này có 980 thiền sinh từ các tiểu bang đến tham dự, bắt đầu từ ngày 21 đến ngày 26 tháng 8 năm 2009.  Trong số các thiền sinh ấy có khoảng 50 phần trăm những người chưa bao giờ gặp thầy, nghe thầy giảng hoặc tới tham dự một khóa tu với thầy.  Họ chỉ biết thầy qua những cuốn sách do thầy viết, xuất bản tại Hoa Kỳ.  Họ đến khóa tu mục đích là để trực tiếp nghe thầy giảng dạy và hướng dẫn tu tập.  Có rất nhiều vị đã phải đi máy bay nhiều tiếng đồng hồ mới tới được thành phố Denver rồi thuê xe lên núi dự khóa tu.  Đúng rồi, công viên Estes là nơi có cơ sở của tổ chức YMCA (Young Men Christian Association), có khả năng cung cấp chỗ cư trú, thức ăn và tiện nghi vệ sinh cho khoảng 1000 người; cao hơn mặt biển tới gần 1000 thước, nên rất mát và lạnh, cảnh vật núi rừng vĩ đại xanh tươi và mầu nhiệm.  Cứ mỗi hai năm một lần là thầy đến để hướng dẫn khóa tu, mà khóa nào cũng đông người tham dự.

Nhưng kỳ này vì bệnh cho nên thầy không thể tới tham dự và hướng dẫn khóa tu được.  Các bác sĩ tại bệnh viện Massachusetts General Hospital (MGH) sau khi chẩn bệnh cho thầy đã đề nghị thầy nên bỏ khóa tu tại trường Đại Học Stonehill ở tiểu bang Massachusetts thầy đang hướng dẫn nửa chừng, và bỏ luôn khóa tu ở YMCA nơi công viên Estes tại tiểu bang Colorado để điều trị bệnh nhiễm trùng phổi của thầy.  Các bác sĩ nói ít nhất thầy phải ở lại 14 ngày trong bệnh viện thì mới điều trị được.  Bác sĩ Sicilian, vị y sĩ trưởng nổi tiếng về cách điều trị bệnh nhiễm trùng phổi do vi khuẩn pseudomonas aeruginosa cũng là người chịu trách nhiệm về khu điều trị đặc biệt trên tầng lầu thứ 12 của bệnh viện đã khuyên thầy nên ở lại ngay bệnh viện đêm hôm ấy để bắt đầu điều trị.  Nhưng sau đó thầy đã quyết định về lại trường đại học Stonehill để hoàn tất khóa tu ở đấy trước khi trở lại nhập viện.  Khóa tu tại Stonehill có chủ đề là Be Peace, Be Joy, Be Hope (Bình An, Hạnh Phúc và Hy Vọng), khởi đầu từ ngày 11-08-09, và vào năm giờ chiều ngày 13-08-2009 thầy đã có được chút thì giờ để đi kiểm điểm lại sức khỏe.  Mấy tuần lễ trước đó, chứng bệnh nhiễm trùng đã trở nặng và thầy thấy thỉnh thoảng trong đàm khạc ra có chất máu đỏ tươi hoặc tím đen.  Sau bảy giờ đồng hồ chờ đợi và thử nghiệm, các bác sĩ đã khuyên thầy nên bắt đầu điều trị ngay, không được trì hoãn.

Thầy về tới trường Đại Học lúc 12 giờ khuya, và sáng hôm sau thầy cũng đã đi ngồi thiền với đại chúng, vẫn nói pháp thoại và đi thiền hành như không có chuyện gì xảy ra.  Không ai biết là thầy đang có bệnh.  Những bài pháp thoại trong ba ngày chót của khóa tu, ai cũng nói là rất hào hùng.  Thầy Pháp Đệ đã nói: trong khi nói các bài pháp thoại ấy, thầy rạng rỡ như có hào quang (you were luminous during these dharma talks).  Chỉ có các sư anh sư chị lớn của các con mới biết là thầy đang bệnh, và sẽ đi vào bệnh viện ngay sau khi chấm dứt khóa tu.  Chiều ngày 14-08-09 có một buổi họp đặc biệt của hội đồng giáo thọ, trong đó có các anh chị lớn được báo tin là thầy sẽ vào bệnh viện vào ngày thứ hai 17-08-09 và thầy sẽ không bay với tăng thân về Denver để cùng hướng dẫn khóa tu.  Trong buổi họp, hội đồng giáo thọ đã phân công và nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn khóa tu thay thầy, ai cũng có tinh thần tự nguyện rất cao, không cần có sự mời thỉnh.  Khóa tu ở Stonehill cũng rất đông, có khoảng gần một ngàn thiền sinh.  Ngoài các vị giáo thọ xuất gia, chưa ai biết là thầy sẽ không đi dự khóa tu ở YMCA, Estes Park, kể cả các thầy các sư cô.  Và khi gần đến giờ lên xe buýt đi ra phi trường, các thầy và các sư cô trong tăng thân mới biết là thầy sẽ không cùng bay với các vị ấy.   Đây là lần đầu tiên một sự kiện như thế đã xảy ra: thầy bỏ một khóa tu và tăng thân phải thay thầy hướng dẫn khóa tu.  Ban tổ chức biết thì giờ đã cận kề, không đủ thời gian để hoãn lại khóa tu, bởi vì tất cả đều đã được chuẩn bị: đặt phòng ốc, mua thực phẩm, xin nghỉ chép, mua giấy máy bay, hoặc đã lên đường về khóa tu bằng xe hơi hay xe buýt từ những tiểu bang khác rồi.

Chắc chắn là sẽ có rất nhiều vị thiền sinh buồn chán bất mãn và thất vọng vào ngày khóa tu khai mạc, khi biết rằng thầy không đến được.  Có những vị đã từng đọc sách thầy trong bao nhiêu năm, và đây là cơ hội đầu để có thể gặp thầy và tu tập với thầy.  Có những vị đã hứa với bạn bè và người thân sau khóa tu sẽ trở về thuật lại những kinh nghiệm gặp gỡ và tu tập với thầy.  Hy vọng và chờ đợi càng nhiều thì sự thất vọng buồn chán sẽ càng lớn.  Các thầy các sư cô lên đường bay về Denver với ý thức ấy, nhưng ai cũng có đủ can đảm để nhận chịu trách nhiệm: đây là cơ hội để chứng tỏ mình xứng đáng với sự trong cậy của Bụt, của chư Tổ và của Thầy.  Cơ hội là lúc này chứ không bao giờ nữa.  Cho nên ai nấy đều quyết tâm và hợp lực hướng dẫn khóa tu với tất cả tâm chí của mình.  Năng lượng cũng như tình huynh đệ trong tăng thân chưa bao giờ vững mạnh như trong những ngày ấy.

Trong khi đó thì thầy đã bắt đầu được trị liệu tại bênh viện MGH, một bệnh viện lớn nhất và có uy tín nhất trong vùng Đông Bắc Hoa Kỳ.  Nhập viện ngày 17-08-2009 thì đến sáng ngày 21-08-2009 thầy viết cho thiền sinh của khóa tu tại YMCA, Estes Park, Colorado một lá thư.  Tại bệnh viện, thầy nghe tin là tối hôm đó, khi nghe đọc lá thư của thầy, nhiều người đã khóc, xuất gia cũng như tại gia.  Tối hôm ấy sau khi đọc lá thư, các thầy và các sư cô đã trì tụng danh hiệu Quan Thế Âm và sau đó đã đưa ra những chỉ dẫn tổng quát về sự thực tập (orientation) cho trọn khóa tu.  Và tiếp theo thì toàn thể khóa tu thực tập im lặng hùng tráng cho đến giờ pháp đàm chiều hôm sau.  Sự thực tập im lặng hùng tráng này đã giúp cho khóa tu rất nhiều.  Rất nhiều người trong khi thực tập im lặng đã có cơ hội nhận diện và ôm ấp những bất mãn và thất vọng của mình, những tâm hành đã phát khởi khi nghe tin thầy không có mặt trong khóa tu.  Buổi thiền hành sáng ngày hôm sau, giờ ăn sáng im lặng và buổi pháp thoại đầu đã giúp cho nhiều vị thiền sinh ôm ấp và chuyển hóa được những tâm hành thất vọng, lo lắng và bất mãn của họ.

Tại bệnh viện MGH thầy được nghe tin tức về khóa tu mỗi ngày hai lần.  Thầy được biết là các sư anh sư chị giáo thọ đã nói những bài pháp thoại rất hay và rất thực tế.  Thầy được biết là các thầy và các sư cô, không ai bảo ai, không ai cần sách tấn ai, tất cả đã có mặt rất đúng giờ trong các buổi sinh hoạt tu tập, và làm gương mẫu cho đại chúng một cách hết lòng và tất cả các thiền sinh đều cảm được điều ấy, do đó ai cũng nỗ lực tu tập.  Đến ngày thứ ba thì tất cả đều được chuyển hóa.  Trong buổi be-in (có mặt cho nhau) vào ngày thứ năm, có nhiều vị đã phát biểu rằng khóa tu “One Buddha Is Not Enough” này là khóa tu trong ấy họ được chuyển hóa nhiều nhất, và tuy thầy không có mặt với hình hài thầy, tất cả đều cảm thấy sự có mặt của thầy trong khóa tu, trong các thầy các sư cô và trong chính họ.  Sáng hôm ngày 25-08-09 thầy viết cho đại chúng khóa tu một lá thư thứ hai, và lá thư này đã được đọc trong đầu buổi sinh hoạt be-in này.  Trong lá thư thầy đề nghị rằng khóa tu tại YMCA ở công viên Estes nên được tổ chức hàng năm, dù thầy có mặt hay không có mặt, và mọi thiền sinh kể cả những vị mới tới lần đầu trong khóa tu này nên ghi danh đến tu tập và góp phần tổ chức khóa tu cho những người khác cũng có cơ hội đến tu tập.  Sau khi sư chị Đẳng Nghiêm đọc lá thư ấy và đặt câu hỏi là ai đồng ý với thầy để đến tu tập cùng nhau mỗi năm một lần ở đây, thì tất cả đều đưa tay lên tự nguyện.

Khóa tu đông tới 980 người mà chỉ có 15 người bỏ về vì lý do thầy không có mặt, còn tất cả đều ở lại để quyết tâm thực tập.  Vì thầy không có mặt nên tất cả đều nổ lực tu trì cho nên khóa tu đem lại rất nhiều chuyển hóa và an lạc.  Có nhiều người nói: khóa tu này tuy không có thầy, nhưng tôi thấy nó là khóa tu hay nhất từ trước đến giờ (it was the best retreat I have attended.)  Nghe kể lại như thế thầy rất hạnh phúc.  Thầy thấy là thầy đã được tiếp nối đầy đủ bởi tăng thân của thầy, thầy thấy thầy đã được các con của thầy tiếp nối thầy một cách đẹp đẽ.  Nếu thầy không bị bệnh và không vắng mặt trong khóa tu thì mọi người đã không có cơ hội chế tác được sức tự lực tự cường dũng mãnh như thế.  Cho nên trong cái rủi lại có cái may.

Cả thầy và cả tăng thân đều đã thấy rằng thầy đã được tiếp nối, và dù sắc thân này của thầy đang còn hay đã tàn hoại thì tăng thân vẫn tiếp tục lớn mạnh và sự thực tập sẽ mãi mãi được duy trì về sau.  Một vị thiền sinh sau khóa tu đã viết cho thầy, “Chúng con đã nhận được thông điệp của thầy:  One Buddha Is Not Enough.  Con hiểu: one Thầy is not enough.  Mỗi người trong chúng con phải thay thế được cho thầy.  Và khóa tu YMCA 2009 đã chứng thực được điều đó.”

Tây phương có câu ngạn ngữ: từ đống tro tàn, con chim Phượng Hoàng đã bay lên.  Từ cái Rủi, cái May đã được thoát hình.  Khóa tu YMCA 2009 là một con chim Phượng Hoàng tuyệt đẹp, nó đem lại cho chúng ta rất nhiều niềm tin và hạnh phúc.  Đóa sen Bát Nhã cũng là một con chim Phượng Hoàng khác thoát hình từ đống tro tàn của tham nhũng, lạm dụng quyền hành, u mê, sợ hãi và dối gạt.  Nhờ những bùn đất ấy mà đóa sen đã nở.  Các con của thầy, nhờ được trui luyện trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, đã học hỏi được rất mau chóng, đã chuyển hóa được rất mau chóng, đã tiếp nhận được sự trao truyền một cách mau chóng, đã đứng vững được như một tăng thân có hùng lực và từ bi, đã chứng tỏ được rằng vô úy, từ bi, hùng lực và hành xử bất bạo động là những gì có thực chứ không phải là những điều chỉ có trên đầu môi chót lưỡi.  Các con đã cứu chuộc (redempt) cho cả một cộng đồng Phật giáo trong nước cũng như ngoài nước.  Các con đã tỏ ra không thù oán gì thầy Đức Nghi và các thầy Đồng.   Các con đã tỏ ra không thù oán ngay những người đã tới đập phá Bát Nhã và trục xuất các con, trong đó có những chú công an.  Các con đã thấy được kẻ thù ta không phải là con người mà là vô minh, hận thù, bạo động, tham nhũng, hèn nhát, và dối gạt đang cần được chuyển hóa trong ta và chung quanh ta.  Một vị công an tại Dam’bri đã xin lỗi thầy Pháp Tụ khi thầy ấy điện thoại tới thăm hỏi và nói rằng sở dĩ ông ta đã hành xử như thế cũng là tại vì cấp trên ra lệnh.  Các con cũng đã thấy được cái khổ của người công an.

Trong giờ vấn đáp hôm qua tại khóa tu Enlightenment Is Now Or Never (Giác Ngộ là bây giờ hoặc không bao giờ hết) tại tu viện Bích Nham, một thiền sinh Tây Phương đã hỏi thầy, “Bạch thầy con rất muốn có từ bi đối với những người đã gây ra khổ đau cho nhiều người khác, nhưng sao con thấy khó thương được họ quá.”  Thầy đã trả lời: Quý vị đừng tưởng từ bi là một cái gì tiêu cực.  Từ bi là một năng lượng rất hùng tráng. Từ bi không có nghĩa là ngồi đó để người kia muốn làm gì thì làm. Có từ bi thì mình phải tìm cách chuyển hóa người đó.  Nếu cần tranh đấu thì phải tranh đấu, tạo áp lực quần chúng buộc người ấy phải chấm dứt hành động đàn áp hại nước hại dân của người ấy.  Làm như thế mà không có tâm niệm hận thù và ghét bỏ người ấy, cái đó mới đích thực là từ bi.  Từ bi phải đi chung với hùng lực.   Bài tựa Chú Lăng Nghiêm có câu: đại hùng, đại lực, đại từ bi. Các con của thầy nhờ đang có được một ít năng lượng của hùng lực và từ bi ấy cho nên đã đánh động được lương tâm thế giới, trong nước cũng như ngoài nước và gây niềm tin nơi pháp môn thực tập mà đức Thế Tôn chỉ dạy.  Chúng ta không lặp lại những giáo lý của Bụt như những con vẹt.  Chúng ta thực tình muốn ứng dụng giáo lý ấy vào cuộc đời.  Nếu tất cả các điều kiện đều thuận lợi hết, nếu không có khó khăn đến từ bên trong và bên ngoài thì các con đã không làm được những gì mà các con làm. Thầy cũng vậy, nhờ đã trải qua những khó khăn và tủi nhục nên thầy đã chế tác được năng lượng hiểu và thương và làm được như lời Bụt dạy trong Kinh Pháp Hoa: lấy mắt thương nhìn cuộc đời (từ nhãn thị chúng sanh).

Thư còn dài thầy sẽ gửi tiếp cho các con sau.

http://www.langmai.org/thu-vien/tinh-thay-tro/1223-than-kim-cuong-la-thu-su-ong-...

openflow.gif openflow.gif openflow.gif openflow.gif- Con kính dâng lên những tăng thân Bát Nhã
Back to top
 
 
IP Logged
 
Phan_Nguyen
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 33
Re: Pháp Nạn tại Bát Nhã (Bảo Lộc, VN)
Reply #18 - 18. Oct 2009 , 18:03
 
Xuất xứ  : http://phusaonline.free.fr/PhatHoc/TinTuc/PNBN_3/41_ngonngu.htm


Ngôn ngữ thiền


PSN - 18.10.2009 | Huỳnh Thiện Thắng


Khi một vị thiền sư gửi thư cho một vị quốc trưởng, một vị tổng thống hay một vị chủ tịch nước thì thế nào vị thiền sư ấy cũng sử dụng ngôn ngữ thiền. Tôi đã đọc lá thư thiền sư Nhất Hạnh gửi cho chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ngày 30.09.09 và tôi có cảm tưởng là tôi hiểu được ý thầy trong lá thư.

Vào đầu lá thư, thiền sư viết: "Tôi không biết hiện giờ Chủ Tịch đang ở đâu nên nhờ mạng Phù Sa gửi một bản thư này đến Chủ Tịch." Câu này ý nghĩa thật khôn lường. Ai không biết rằng Chủ Tịch Nước thì luôn luôn có mặt ở phủ Chủ Tịch, chỉ cần lên Google là có thể tìm được địa chỉ ấy để gửi thư. Theo tôi, câu nói ấy của thiền sư có nghĩa: Thưa ngài Chủ Tịch, ngài có đang thực sự có mặt ở đó không, nếu ngài đang có mặt thực sự thì làm sao một chuyện động trời như chuyện đánh bật một cọng đồng tu sinh ra khỏi một tu viện lại có thể xảy ra được hôm 27.09.09? Hoặc giả người ta đã sắp đặt để ngài Chủ Tịch đi vắng, để ở nhà người ta ra tay? Hoặc giả ngài Chủ Tịch đang có mặt nhưng cảm thấy mình bất lực, không ngăn nổi cái chuyện động trời đang xảy ra trên đất nước của chính Ngài?

Câu nói của thiền sư như vậy thì ý nghĩa quả thật là khôn lường. Nhưng chưa chắc tôi đã thấy được hết cái ý nghĩa đó, bởi vì tôi chỉ là người mới thực tập thiền chưa được sáu năm.

Tại sao thiền sư không nhờ mạng Làng Mai đăng tải lá thư mà lại nhờ mạng Phù Sa? Trang nhà Làng Mai là trang nhà chính thức của đạo tràng Mai Thôn, có đăng tải lá thư này, nhưng tại sao thiền sư lại nhờ mạng Phù Sa? Có thể vì trang nhà Làng Mai chú trọng nhiều tới việc tu học, không chuyên đưa tin thời sự, nên có thể không đủ khả năng chuyển đạt lá thư tới ngài Chủ Tịch.

Theo tôi biết thì Phù Sa là một tờ báo điện tử độc lập, ban đầu thì chống Cọng dữ dội, nhưng sau khi tiếp xúc được với Làng Mai thì tìm thấy được một con đường "Giữ Thơm Quê Mẹ" hữu hiệu hơn, nên đã bắt đầu ủng hộ pháp môn Làng Mai và đăng tải nhiều tin tức về Làng Mai.

Có người nghĩ rằng Phù Sa là do Làng Mai chủ trương, điều này theo tôi hoàn toàn sai với sự thực. Tôi được ban biên tập trang nhà Làng Mai cho biết là có những bài gửi tới mạng Làng Mai không đăng mà Phù Sa lại đăng. Phù Sa là một tờ báo ngoài đời, có lập trường văn hóa và chính trị, trong khi trang nhà Làng Mai chỉ phục vụ cho một tăng thân tu học, cho nên thiền sư nhờ Phù Sa chuyển lá thư là đúng.

"Đây là một tiếng chuông chánh niệm." Câu này ý nghĩa cũng thâm sâu không kém câu đầu. Tiếng chuông chánh niệm là tiếng chuông giúp cho mình tỉnh dậy. Chánh niệm là năng lượng giúp cho mình biết cái gì đang thực sự xảy ra trong thân, trong tâm và trong hoàn cảnh mình.

Cái gì đang xảy ra là chính quyền do ngài Chủ Tịnh Nước cầm đầu đang đàn áp một tu viện Phật Giáo ở Bảo Lộc y hệt như chính quyền ông Ngô Đình Diệm đã đàn áp chùa Xá Lợi ở Sài Gòn năm 1963. Lá thư thiền sư không phải là một lá thư thỉnh nguyện, một lá thư xin xỏ. Nó là một lời cảnh báo. Nó là một thiền ngữ, một bài cảnh sách thiền sư muốn nhắc để ngài Chủ Tịnh Nước ý thức được về những gì đang xảy ra trên đất nước và lịch sử sẽ ghi chép về cách ứng xử của Chủ Tịch Nước. Rằng nếu Chủ Tịch không đề cao cảnh giác thì Ngài sẽ lặp lại lỗi lầm của ông Diệm và lịch sử sẽ ghi lại điều ấy.

Và điều này cũng giải thích tại sao thiền sư ký bút hiệu Nguyễn Lang. Nguyễn Lang là một sử gia, tác giả bộ sách Việt Nam Phật Giáo Sử Luận mà tất cả các nhà trí thức trong nước đều biết đến. Các nhà trí thức biết tới Nguyễn Lang nhiều hơn là biết tới thiền sư Nhất Hạnh cho nên viết với bút hiệu Nguyễn Lang thì lá thơ sẽ được giới trí thức và khoa học gia chú ý tới hơn. Viết với tư cách một thiền sư thì họ có thể nghĩ đây chỉ là một vấn đề tôn giáo. Mà đây không phải chỉ là một vấn đề tôn giáo, đây là một vấn đề lịch sử. Ký bằng bút hiệu Nguyễn Lang lá thư nặng ký hơn nhiều.

"Cửa Phật là cửa rộng, những lúc hiểm nguy ai cũng có quyền tới nương nhờ." Chắc hẳn ngày xưa khi còn là chiến sĩ cách mạng, Chủ Tịch Nước đã từng ẩn náu tại một ngôi chùa nào đó, có thể là trên Cao Nguyên. Nhắc lại để Chủ Tịch nước nhớ tới việc ngày xưa các vị xuất gia đã từng hết lòng bảo hộ cách mạng. Nhắc như vậy để tưới tẩm hạt giống ân nghĩa nơi ngài Chủ Tịch cũng như nơi tất cả những nhà cách mạng chân thực khác.

"Bây giờ đây cảnh sát và công an của Chủ Tịch đã đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa." "Các vị ấy đã tìm tới tị nạn nơi một chùa khác" và "hiện thời cảnh sát công an của Chủ Tịch lại đang vây quanh chùa Phước Huệ buộc các vị xuất gia ấy phải ra khỏi chùa trong đêm nay." Câu "cảnh sát công an của Chủ Tịch" là một công án đưa ra để ngài Chủ Tịch quán chiếu. Những gì cảnh sát công an làm là Chủ Tịch làm, ngài không thể nói ngài không biết. "Các vị cảnh sát công an này chắc hẳn không phải là con cháu của cách mạng." Câu này là trọng tâm của lá thư, câu này là tiếng gầm của sư tử lớn (đại sư tử hống âm). Giả sử chế độ có sụp đổ thì sự sụp đổ này có thể không phải do Phủ Chủ Tịch hoặc Phủ Thủ Tướng gây ra mà là do công an cảnh sát gây ra, và cả chế độ phải sụp theo: cho nên câu "cảnh sát công an của Chủ Tịch" là một sự nhắc nhở rất khéo. Nếu những người thừa hành có lầm lỗi thì phải lập tức sửa chữa, đừng vì sợ "mất mặt" mà phải bao che cho những người ấy. Như vậy mới không đánh mất niềm tin của Quốc Dân. Đánh mất niềm tin của Quốc Dân là đánh mất tất cả, là không còn chỗ đứng.

"Tôi xin Chủ Tịch kịp thời ngăn chận hành động trái với luân thường đạo lý này." Đó là lời khuyên của thiền sư. Chống tham nhũng và lạm quyền, ta không thể chống bằng tiền bạc. Có những cường quốc đã viện trợ tiền bạc để giúp nhà nước chống tham nhũng. Nhưng tiền bạc làm sao chống được tham nhũng? Chỉ có hành động đúng với luân thường đạo lý mới có thể chống tham nhũng được. Mà cái này thì trong gia sản tinh thần đất nước đã có sẵn, không cần ai phải viện trợ. Một tu viện trong đó người trẻ đang thực tập để giúp vực dậy gia sản tinh thần liêm khiết và chính trực mà mình lại làm đủ mọi cách đê hèn để tiêu diệt, có phải đó là mình đang tự tàn phá chính bản thân mình hay không? Có tiếng chuông chánh niệm nào hào hùng hơn thế nữa?

Những ai đã từng trách thiền sư Nhất Hạnh sao không lên tiếng, nên đọc lại lá thơ mà thiền sư viết ngày 30.09.09 gửi cho ngài Chủ Tịch Nước. Lá thư rất ngắn, nhưng qua lá thư đó thiền sư đã nói được tất cả những gì đáng nói. Theo tôi, thiền sư không cần nói thêm gì nữa cả. Như vậy là quá đủ rồi. Không lẽ thiền sư phải lên tiếng chửi mắng, lên án và buộc tội với những lời lẽ mà ta thấy nghe hằng ngày, những lời lẽ chỉ nhắm tới làm hả bớt cơn giận của người nói mà không có mảy may hiệu lực gì trên hướng thay đổi tình trạng?

Có thể ngôn ngữ của lá thư chứa đựng nhiều hơn những điều tôi thấy, nhưng sức tôi chỉ thấy được chừng đó. Ngôn ngữ thiền rất là cô đọng súc tích, ta không thể hời hợt phẩm bình.


Huỳnh Thiện Thắng



Lá thư của giáo sư Nguyễn Lang gửi Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết


New York ngày 30 tháng 9, 2009
Kính thưa Chủ Tịch,

Tôi không biết hiện giờ Chủ Tịch đang ở đâu, nên nhờ mạng Phù Sa gửi một bản thư này đến Chủ Tịch. Đây là một tiếng chuông chánh niệm. Cửa Phật là cửa rộng, những lúc hiểm nguy ai cũng có quyền tới nương nhờ. Ngày xưa trong Cách Mạng chống Pháp, hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã từng tới ẩn náu tại chùa và các thầy các sư cô luôn luôn tìm mọi cách để đùm bọc và che chở. Bây giờ đây cảnh sát và công an của Chủ Tịch đã đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa (Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc) và các vị ấy đã tìm tới tỵ nạn nơi một chùa khác (chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc). Hiện thời cảnh sát và công an của Chủ Tịch lại đang vây quanh chùa Phước Huệ buộc các vị xuất gia ấy phải ra khỏi chùa trong đêm nay. Các vị cảnh sát và công an này chắc hẳn không phải là con cháu của Cách Mạng. Tôi xin Chủ Tịch kịp thời ngăn chận hành động trái chống luân thường đạo lý này.


Trân trọng cảm ơn Chủ Tịch.
Nguyễn Lang
Tác giả Việt Nam Phật Giáo Sử Luận

Back to top
« Last Edit: 18. Oct 2009 , 18:05 by Phan_Nguyen »  
 
IP Logged
 
Phan_Nguyen
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 33
Re: Pháp Nạn tại Bát Nhã (Bảo Lộc, VN)
Reply #19 - 08. Nov 2009 , 20:08
 
Những người hiểu và thương


Xuất xứ : http://phusaonline.free.fr/PhatHoc/TinTuc/PNBN_3/86_Nhung-nguoi.htm


PSN - 7.11.2009 | TT Diệu Trí


Thư không niêm gửi Tiểu thư TMT,

Xin cháu cho phép tôi tạm gọi cháu bằng cháu và xưng tôi, cho gần gũi, để trả lời cháu hôm nay thôi, bởi vì cháu tiếp tục "vững như núi" ngày mai này khi cháu xong phần tập sự, bước ra đời dạy chúng sanh biết sống đời an lạc, dạy chúng tôi biết hiểu và thương, tôi vui mừng yêu kính gọi cháu bằng (sư) cô và xưng con.

Bức thư của cháu, hoàn cảnh của cháu và các bạn đồng tu đã làm xúc động và đem cơ hội đến cho nhiều người trong đó có tôi, bày tỏ tâm tình ủng hộ cháu và các sư huynh đệ tỉ muội cùng cảnh ngộ, đồng thời đặt câu hỏi về mình, về đất nước và những người lèo lái đất nước.


Bó đuốc 100 000 nến và lân tinh nghĩa địa


Trước hết tôi muốn nói ngay, MT ơi, cô công chúa nhỏ ơi, cháu không cần ngọn nến nào đâu vì cháu đã sẵn có ngọn đuốc sáng ngời trong tay và con đường trước mặt cháu không hề tối tăm. Và đó là ánh sáng tốt đẹp của lòng từ bi, bởi cháu đi tu nghĩa là cháu muốn chia sẻ với người khác những trả lời của đấng Thế Tôn cho các thắc mắc của cháu trước đây. Đuốc ấy soi đường cho kẻ khác.


Đối với tôi, cháu đang giương bó đuốc 100 000 nến (watts). Thử tưởng tượng với 100 000 x 194 hay 100 000 x 397 thì con đường cháu và các huynh đệ tỉ muội đang đi đó thật rực rỡ vì thắp lên bằng những khối óc và trái tim vô cùng độ lượng khác hẳn cái ánh hào quang thời thơ ấu của cháu. Tại sao ?


Vì cái hào quang đã khiến cháu là tiểu thư, là công chúa nhỏ, không thật sự là hào quang, nó chỉ là thứ ánh sáng giả tạo, bất hảo. Bởi nó cũng đã không giúp cho cháu tránh bị trầm cảm, ưu tư, vật vã, khắc khoải hàng mấy năm trời !

Cháu tự trả lời : trầm cảm vì thấy mình sống không thật, cháu khắc khoải, âu sầu vì bị bao vây bởi những câu hỏi về cuộc hiện sinh. Sống không thật ư? Cháu đã biết vì sao, khi nhìn ra so sánh với chung quanh.

Ta là ai ? Sống để làm gì ? Và ta sẽ về đâu ? Nhân loại đa số xưa nay sớm muộn trong đời mình đều có lúc nêu lên những câu hỏi căn bản và cần thiết như thế.

Lựa chọn câu trả lời để hành xử thì tùy … duyên tùy nghiệp và tùy thời nữa.

Trong suốt nhiều thập niên 40, 50, 60, 70 của thế kỷ vừa qua, đa số cha anh của cô (và có lẽ cả ông bà cô bác của cháu nữa ?) chỉ có quyền chấp nhận một câu trả lời áp đặt là phải dành cho chiến tranh : Thân này, sinh mạng này, đời sống này. Cho cuộc chiến tranh giành độc lập, và chiến tranh ý thức hệ. (Hai) cuộc chiến ấy dài 30 năm. Có ít nhất là năm triệu người chết. Và để lại một đất nước, một dân tộc mang nhiều thương tích sâu thẳm.

Bây giờ lớn khôn, cháu mới phản kháng, chứ khi còn bé, chắc chắn cháu hãnh diện được sống trong trái cầu bé nhỏ bằng thuỷ tinh chan chứa hoà bình và sung túc, với tình thương yêu quý trọng biết ơn mẹ cha. Chưa có những lúc trầm tư tự vấn vì chưa bước ra khỏi tháp ngà.

Những câu hỏi chỉ hiện ra rõ ràng khi trái tim biết rung động, cảm thông, khi con đường ta đi quá chông gai hay hết sức phẳng lì nhàm chán và nhất là khi nghe thấy những kêu gọi thất thanh hai bên đường.

Cô nhớ đến những khoảng thời gian thanh bình ngắn ngủi cô đã sống ở thời thơ ấu và thiếu niên tại miền Nam như những ánh chớp hào quang thần tiên cực lạc. Và chen vào những ánh chớp ấy là những bóng tối cực kỳ hung bạo của bom đạn, chết chóc bất công, đổ vỡ tàn phá.

Cháu may mắn sinh ra khi cuộc chiến ấy đã tàn. Hơn ba mươi năm thanh bình đã qua, bây giờ khoảng hai phần ba dân số dưới 30 tuổi ; nơi thành phố có lẽ dấu vết chiến tranh chỉ còn qua những hình ảnh, sách vở, viện bảo tàng "tội ác Mỹ Ngụy" những vụ án đòi bồi thường chiến tranh và các chuyện liên quan đến những khúc ruột ngoài ngàn dậm gọi là Việt kiều…

Ba mươi năm sau cuộc chiến, trên cõi đời này dường như chỉ còn những người chiến thắng, kẻ bại trận lùi vào bóng tối quá khứ, lui về bên kia biển. Có những ai trong họ vươn ra được ánh sáng thì tiểu sử lớn nhỏ đều bị thui chột, cụt mất đi một quãng.

Và ở một phương diện nào đó cuộc chiến vẫn còn vì hào quang chiến thắng vẫn tiếp tục được sôi nổi đánh bóng để tạo một thứ chính nghĩa thừa kế đậm màu phong kiến : nắm trong tay vận mạng đất nước, quyền tự tưởng thưởng công lao "đánh và thắng giặc". Người chiến thắng giơ hào quang ra như một thứ gậy thần, như một thứ môn bài thần thánh cho phép hành (mọi thứ) nghề danh giá. Họ quên rằng chiến tranh là lửa máu chứ không phải là hào quang.

Chỉ có những trái tim yêu quái và trí óc ma vương mới sống bằng lửa máu. Cuộc chiến tranh nào cũng gây ra đau thương tày trời, đem lại oán thù, uất hận, và nói theo tiếng nhà Phật, sinh ra và sống trong thời chiến là hoặc tạo nên một thứ nghiệp thiện/ác ghê gớm hoặc trả một thứ quả dữ/lành không sao tưởng tượng được. Hết chiến tranh mà vẫn tiếp tục duy trì không khí thù địch để kích động lòng thù hận là tiếp tục vòng địa ngục. Vòng bất tận của oán báo nợ đền hung bạo.

Thứ ánh sáng lân tinh lập loè của hằng hà nghĩa trang, đóm tàn thoi thóp của các vòng nguyệt quế trên đầu cổ mấy ông tướng sống sót không có cách chi để gọi là hào quang được. Về lâu về dài, các thứ gọi là hào quang ấy nếu trở thành sám hối, quay về, phục thiện và cứu chuộc thì may ra chúng mới sáng thành hào quang.

Còn hào quang thật sự của lòng từ bi mãi mãi rạng ngời, không cần được nhắc nhở hay đánh bóng bằng bạo lực vô minh.

Cho nên từ ngày xưa tôi ngưỡng mộ và đồng cảm với những người không phân biệt nhưng đau thương mất mát của hai phe, bốn phía, họ đau đớn khi nhìn thấy hàng hàng lớp lớp người chết. Nên họ kêu gọi hoà bình, đòi hỏi chấm dứt chiến tranh. Những kẻ lợi dụng lòng yêu hoà bình để mưu đồ chiến tranh thì khác, một ngày nào họ sẽ nhận được trả lời, họ sẽ hiểu quả báo là một thứ quà đến từ nữ thần công lý không nghe và không thấy

Còn người yêu hoà bình, họ thấy rõ ràng chiến tranh không bao giờ là một điều tốt đẹp có thể đem đến hào quang. Trịnh Công Sơn và thiền sư Thích Nhất Hạnh là những người đó. Những người dũng cảm hiếm có, bất chấp việc đi giữa các làn đạn, lội ngược trào lưu. Một người gắn bó với thân phận đồng bào, với đau thương con người bằng những lời ca thống thiết về thảm trạng chiến tranh. Một người một mặt lo hàn gắn những vết thương, mặt khác lo xây dựng nền tảng đạo đức giáo dục tương lai trên những đổ vỡ đó và không ngừng tìm cách dập lửa chiến tranh. Không ít tâm hồn đẹp đẽ yêu mến và ủng hộ họ trong miền Nam xưa Nhưng khi đó họ nhỏ bé và cái xe hủ lô nghiệp chướng khổng lồ thì đang ầm ầm lao xuống con dốc đứng !

Trong khoảng cuối thập niên 60, thầy Thích Nhất Hạnh rời Sài Gòn với vài người học trò đếm được trên đầu ngón tay, ra thế giới kêu gọi mọi người can thiệp cho hoà bình trở lại. Và khi cuộc chiến tàn, từ ngày 30 tháng tư năm 1975, thầy cũng như Trịnh Công Sơn đã bị bao lời nguyền rủa bất công, rằng nhạc sĩ và tu sĩ đã tiếp tay nối giáo cho giặc. Mà thật sự "giặc" cũng chẳng màng ca ngợi công ơn hai vị, nếu không nói là trái lại.

Nhưng đến năm 2005, và sau đó 2007 thầy được chính quyền cho phép về Việt Nam. Để tổ chức các cuộc thuyết giảng, các khoá tu học, và nhất là cuộc Đại trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan nhằm cầu siêu cho mấy triệu người đã nằm xuống, cầu nguyện giải trừ oán hận giữa những người còn sống, những nạn nhân của cuộc nội chiến không phân biệt tôn giáo, chủng tộc và chính trị.

Dù sau đó các cuộc cầu siêu tương tự khác được chùa chiền trong nước tổ chức và Thầy Nhất Hạnh cùng tăng đoàn Làng Mai được nhiều người dân và phật tử tán thành, tiếng bấc tiếng chì lại nổi lên vì những oán hận chưa nguôi, vì những vết thương cũ chưa lành, vì những tham vọng và ý đồ của những kẻ lợi dụng lòng từ bi của một vị hoà thượng luôn luôn muốn đem tình thương và an lạc về cho quê hương mình.

Vườn quê hương tuy hoà bình nhưng đang lan tràn thứ cỏ dại bản năng. Bởi vì bất công, bạo lực, thù hận, dối trá, lường gạt, cướp đoạt… là cái nền đất mầu mỡ cho mọi thứ bản năng nẩy nở phì nhiêu. Bản năng dục tình, bản năng sinh tồn, bản năng tham lam, bản năng ích kỷ.

Ai đọc thư Làng Mai số 31 sẽ hiểu vì sao chính quyền này không thể tha thứ Thầy Nhất Hạnh về tội "vững như núi" trước chính quyền cộng sản.

Họ không muốn thầy để hai chữ "giải oan" vì nhân dân chiến sĩ miền Bắc chết như …anh hùng liệt sĩ còn dân và lính miền Nam chết …như ngụy, kể cả thuyền nhân vượt biển, (chết đáng đời ?) chả có ai chết oan cả !

Mới thấy rõ ràng họ cho phép làm đàn tràng mà không hiểu ý nghĩa tâm linh (và tâm lý nữa) của việc này. Mới thấy sâu sắc kinh hồn cái lòng thù ghét của họ đối với dân miền Nam. Thù ghét như thế thì cướp của, giết người (thuộc phe ngụy hay là ngụy) sẽ được xem là đúng đắn ; chúng ta thấm thía hiểu vì sao ngày xưa người nhân dân vô minh không ngần ngại đi tố cáo xử tử kẻ bị gán danh hiệu địa chủ, bỏ đói đến chết con cháu địa chủ và trong Nam họ hăng hái đi chặt đầu, mổ bụng Việt gian, những kẻ được dán nhãn kẻ thù của nhân dân.

Tiến hoá bộ lạc của đỉnh cao


Nhưng MT ơi, tôi đi xa quá rồi phải không ? Người ta sẽ có cớ nói tôi/cháu làm chính trị hoăc nói giáo hội/pháp môn nguy hiểm vì giáo hội/pháp môn ấy khiến cho tín đồ dẫm chân lên mảnh đất độc quyền của nhà nước ? Và cháu sẽ thấy dưới đây, hành động bất bạo động của cháu không phải là "dẫm chân" mà trầm trọng hơn nhiều !

Khi bắt đầu thư này, tôi đã chỉ muốn trân trọng nguyên nhân quyết định xuất gia của cháu mà thôi, ngoài ra không muốn nhắc đến cái nhà nước đáng chán này, nghĩa là không muốn làm như tất cả các nạn nhân xưa nay là tự thân nạn nhân tìm lý do hình phạt mà đảng/chánh quyền dành cho mình.

Nhưng một vài ngày qua sau khi đọc thư cháu, lại đọc thư của Thầy Thu Nguyen tu sĩ, cựu đoàn viên Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh kể lại hành trình cuộc đời đi tu của mình, cô chẳng đặng đừng nổi "gai" sầu riêng (gai sầu riêng vì tôi thiếu tâm bồ đề của những người như cháu, tôi phải chờ được cháu chỉ dạy mai kia). Trong Nam nếu có ngài Quảng Đức tự thiêu năm 1963 vì Phật giáo bị xử ép nhưng cho đến năm 1974 các vị tu sĩ hãy còn xuống đường biểu tình chống chính phủ thì ngoài Bắc, mọi hoạt động Phật giáo đã ngưng đọng từ 1954 khi nhà nước cộng sản nắm chính quyền ở miền Bắc và thầy Thiều Chửu, tác giả quyển tự điển Hán Việt cùng tên, là một vị hoà thượng cách mạng hàng đầu trong đạo cũng như đời đã phản kháng bằng cách tự trầm trong mùa cải cách ruộng đất!      

Từ sau 1975 trên đất nước thống nhất và hoà bình, nhiều chùa chiền nhiều pháp môn được nở rộ thì cũng có hàng loạt các tu sĩ Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Cao Đài bị bắt giam. Có vị vừa được thả sau 26 năm tù đày, có vị qua đời trong ngục, có vị bị giam lỏng, có vị bị bắt phải hoàn tục. Sự nở rộ này xảy ra vì nhiều lý do, trong đó có sự yên tâm của nhà nước (với ban Tôn giáo, sư sãi chùa chiền quốc doanh) vì có những tâm hồn sen vươn lên khỏi bùn.

Nhà nước yên tâm cho phép mở cửa chùa cửa nhà thờ, cho phép lập tu viện, thiền viện. Nhưng "coi vậy mà không phải vậy" !

Ai đời có nhà nước nào tuyên bố tự do tín ngưỡng mà cấm người ta đi tu thiệt như thế kia ? Tu thiệt tình theo chính phái kìa chứ tu để đi tuyên truyền cho nhà nước thì vẫn tự do. Kể cả tự do đem vào chùa vợ con, cờ bạc, hút xách.

Ai đời có chính quyền nào lại đi thuê du côn đánh đập vấy phân bôi xấu tu sĩ ? Ai đời có nhà nước nào gạt dân mình chưa đủ còn dư gan đi gạt cả quốc tế ?

Ai đời có nhà nước nào lại dám gọi nhân dân là "con cháu", đưa lý do, viện cớ "chuyện nội bộ gia đình", "không vạch áo cho người xem lưng", đóng kỹ cửa nẻo rồi ngăn cấm, răn đe, kể cả giết hại ?

Trong khi trên thế giới (trừ nước Bắc Hàn?) các xã hội đều được kết hợp bằng những thành phần công dân thuộc nhiều vòng tiến hoá đủ màu sắc sống chung trong không khí tương đối quân bình như các ông Clarence Graves, Don Beck đã cho thấy. Riêng ở nước Việt Nam chúng ta hầu như chỉ vỏn vẹn hai thành phần : một tầng khổng lồ hơn 80 triệu người ở mức độ bộ lạc có 2 lựa chọn để được yên thân : hoặc sống theo bản năng, được tự do phát triển bản năng bản ngã sinh tồn, sinh lý dưới sự khống chế của một số nhỏ tự xưng "đỉnh cao trí tuệ" và thế thiên, thế vua, thế cha hành xử. Hoặc tìm đủ mọi cách leo lên đỉnh cao ấy, sát nhập vào nhóm người nắm lấy vận mạng mình và vận mạng đất nước bằng cách nắm tuốt hết các quyền tư pháp, lập pháp và hành pháp.

Pháp môn Làng Mai


Nhưng MT ơi, rồi dần dà từ Bát Nhã, tôi đi qua Thái Hà, Loan Lý, tôi về Phước Huệ, qua Tam Toà, tôi đi ngược thời gian, đi khắp không gian địa lý, cuối cùng đành phải tạo ra cái khẩu nghiệp khi khẳng định điều này : rõ ràng chính quyền này quá …gian ác. Cháu MT ơi, cháu sẽ mỉm cười khi đọc cái điều quá giản dị này, bao nhiêu người đã nói trước tôi rồi. Nhưng nói luôn cho hạ hoả sầu riêng.

Hoặc chính quyền không hiểu tôn giáo là gì, hoặc ngược lại vì quá hiểu rõ tôn giáo và khả năng trở nên "nguy hiểm" của tôn giáo, có thể làm lung lay chế độ.

Trước đây không lâu, các vị linh mục và tín đồ công giáo cũng bị chánh quyền đánh đuổi, cướp đất. Y hệt như vụ Bát Nhã vì côn đồ thuê mướn cũng cướp phá đánh đập giáo dân nhưng số thủ hạ này lên đến cả ngàn người !

…nhiều giáo dân đã bị bắt, bị truy đuổi và đánh đập. (...) các cha (…) "tội đồ”, nhà thờ Thái Hà (…)nnơi "nguy hiểm" cho Chính quyền. (...) Môt lực lượng "đa thành phần" đã được huy động để bao vây nhà Thờ và các Cha. Đặc biệt trong đoàn quân "Liên hợp" đó có cả đám "xì ke, hút chích" và đám “thanh niên, sinh viên tình nguyện". Họ hô to: giết, giết, (...) phỉ báng các cha bằng những lời thô tục, bất chấp các Cha là những bậc tu hành. Đám xì ke hút chích (…) rất nhiều thanh niên sinh viên (…)chắc hẳn có nhiều người từng đoạt danh hiệu “cháu ngoan Bác Hồ …. (theo Ls Lê Trần Luật -  Dân Chúa Sài Gòn ngày 17/10/2009).

…vừa qua vào ngày 13 và 14 tháng 9 năm 2009, (…) cướp đoạt ngôi trường giáo lý của Giáo xứ Loan lý (…) ngày hôm nay giáo dân đến san bằng các đồi cát và dọn sạch các cây cối phía sau sân Nhà Thờ để cho các em có nơi sinh hoạt, vui chơi và học giáo lý, vì trường học và sân trường đã bị cướp đi. Ông Nguyễn tiến Dũng, phó trưởng đồn công an thị trấn Lăng cô, đã ra tay đánh rất nhiều phụ nữ giáo dân Loan Lý vào cái đêm chiếm trường ấy. (trích Lm Simon Thời Hoàng, SVD (15-09-2009).

(…) chính quyền Quảng Bình chưa hết cơn (…) tại Tam Toà tiếp tục quay sang giáo xứ Chày, dùng đầy đủ lực lượng hùng hậu, máy móc đủ loại tối tân nhất để xâm phạm tượng Đức Mẹ La Vang Việt Nam trên đỉnh núi Lèn (…) Thực trạng chung của Giáo Hội Việt Nam: "ở nơi đâu có đất đai, tài sản của Giáo hội là nơi đó được sự hỗ trợ nhiệt tình bằng dùi cui, hơi cay và bắt bớ bỏ tù của nhà cầm quyền tại các địa phương". (Hà nội 26/9/09 Paulus Lê Sơn).

Nếu xem lại tin tức cũ, những vụ tương tự đã xảy ra từ 1950, 1954…và 1975, 1977…đất đai các giáo xứ, chùa chiền bị cướp đoạt, thu nhỏ, các cha cố, sư sãi bị vu oan, bôi nhọ. Trước khi pháp nạn Bát Nhã xảy ra, những con chiên của Chúa đã bị hành hung, phỉ báng. Các tín đồ Phật giáo Cao đài cũng cùng một số phận. Thí dụ :

Tâm Thư Khẩn Cầu Kháng Nghị Số 3 của Tòa Thánh Tây Ninh:
Tình hình Thánh Địa hiện nay đã bị trần tục hóa đến mức đau lòng. Đền Thánh, ở trong tay Hội Đồng Chưởng Quản (…) vỏ nước sơn với đèn màu. Bao nhiêu dinh thự điện đài bị chiếm đoạt từ từ, vẫn còn là những cơ quan nhà nước. Chức Sắc trung kiên như các Sĩ Tải Văn Hòa Vui, Lại Thanh Thế, Đỗ Hoàng Giảm vẫn còn ở tù Hàm Tân, Phú Khánh ; chư vị chưa vào tù thì bị cô lập tại gia ; tín đồ nam nữ thì luôn bị mời mọc răn đe.

Hôm 10-5 vừa qua, toà án Sóc Trăng đã đem 5 nhà sư gốc Khmer ra xử và kết án từ 2 đến 4 năm tù cho 5 vị tu sĩ này với tội danh là "phá rối an ninh." (…) sư Danh Tô, quê ở tỉnh Hậu Giang, sư Kim Mươn, sư Thạch Thương, sư Lý Sương và sư Lý Quang quê ở tỉnh Sóc Trăng. Những nhà sư này bị nhà cầm quyền bắt giam và buộc phải hoàn tục (…) tham gia biểu tình ôn hòa đòi tự do tín ngưỡng ở một trường Pali ở thị xã Sóc Trăng. Sau khi 5 vị sư nói trên bị nhà cầm quyền buộc hoàn tục và bắt giam đã tạo nên làn sóng phản đối trong giới sư sãi người Khmer (tin 2007).

Thì ra các tôn giáo lớn nhỏ hiện hành ở Việt Nam xưa nay đều được chánh quyền "chiếu cố". Những lời kêu than của các vị tu hành và tín đồ cũng giống như nhau. Bởi vì phương cách cướp đoạt của chính quyền vẫn bất biến : Thay đổi ban lãnh đạo, thay thế vào là tay chân thủ hạ quốc doanh : Chia để trị là thứ sách lược muôn đời sáng giá. Dân trí cũng là vấn đề nan giải đã được cha ông chúng ta nhắc đến khi họ tiếp xúc lần đầu với kẻ xâm lăng Tây phương. Có đến hai trăm năm rồi vẫn là vấn đề nan giải.

Các cuộc Đại trai đàn Chẩn tế Bình đẳng giải oan


Tại sao năm 2005 chính quyền cho phép thầy Nhất Hạnh về giảng đạo, năm 2007 cho thầy đem pháp môn về nước để rồi chỉ ba năm sau lại trở mặt xua đuổi môn đệ của thầy? Có phải vì tình thế khi ấy chín mùi cho một Vesak sắp đến và vì thấy tăng thân Làng Mai đã nhiều mềm dẻo, nhận chịu hầu hết những lệ luật, sửa đổi, ép buộc và thử thách mà chính quyền đã đưa ra trong suốt các chuyến về nước hành đạo này nên chính quyền ngở rằng dao kia đang được mình nắm đằng chuôi. Mà không bao giờ nghĩ được rằng chính quyền được tăng đoàn hiểu và thương : thí dụ tăng đoàn hiểu rằng lòng nghi ngờ đã khiến chính quyền bao lần thay đổi lộ trình và điểm tới của tăng đoàn. Tăng đoàn hiểu rằng lòng căm thù của chính quyền đối với kẻ thù xưa sâu sắc đến độ họ buộc thầy Nhất Hạnh bỏ hai chữ "giải oan". Năm 2007 ấy với các cuộc trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan hoành tráng  trên suốt ba miền đất nước, bỏ thì bỏ, nhằm nhò chi hai chữ này so với lòng thương và hiểu của tăng đoàn với họ. Trái lại, chính lòng hiểu và thương ấy còn cho thấy thêm nữa sự cần thiết của các Đại Trai đàn.

Có phải lòng căm hờn đến mức độ vô minh khiến một ông quan trong Ban tôn giáo nhà nước buộc thầy Pháp Ấn không được nhắc đến thuyền nhân vượt biên chết trên biển hay hố chôn tập thể Tết Mậu Thân ở Huế trong bài văn sám Lời Khấn Nguyện ? Trời ơi là trời ! Chết mà vẫn chưa đủ đền tội với họ sao ?

Đã thế ngài chủ tịch còn kể công (hay dằn mặt ?) :

Quý vị có biết là sở dĩ quý vị làm được như thế cũng là nhờ chúng tôi đã cho phép hay không? Nếu chúng tôi không cho phép thì không có cách gì các vị có thể làm được”. ( thư Làng Mai số 31).

Tôi cứ tưởng tượng phải chi là thầy Huyền Diệu để xem thầy sẽ phản ứng ra sao. Bồ đề gai của thầy có nổi lên không ?


Chỉ biết mọi sự diễn tiến có vẻ êm xuôi. Không ai trục xuất tăng đoàn trong 24 giờ. Tăng đoàn vui mừng vì tình huynh đệ giữa phật tử kẻ Nam người Bắc còn sống. Thấy gần gũi nhờ chồng, con, anh em… đã chết trên đất nước này.

Tăng đoàn đưa một bản đề nghị (xin nhắc đề nghị chứ không phải kiến nghị) 10 điểm. Trong đó điểm đầu tiên là:

Xin chính phủ ra lệnh lập một đài tưởng niệm thuyền nhân thiệt mạng trên biển cả tại Vũng Tàu.

và điểm thứ hai là:

Xin cho các thân nhân của những người được chôn trong các nghĩa trang quân đội VNCH cũ được dễ dàng viếng thăm, cúng lễ và bốc mộ.

Hai giọt cam lồ, ba giọt, bốn giọt và giọt thứ 10 như sau :

Xin chính phủ thực hiện việc tách rời tôn giáo khỏi chính trị và chính trị khỏi tôn giáo… ngưng lại mọi quản chế của chính quyền trên giáo quyền, giải thể Ban Tôn giáo Chính phủ và trước hết là ngành Công an Tôn giáo…

Ôi chao ơi những giọt lành giọt thiện ! Những giọt nước mắt đã chảy ra. Ông quan lớn điện thoại xin lỗi thầy Pháp Ấn vì đã nói lời gay gắt theo… yêu cầu. Chắc ai cũng lạc quan cảm động và tin tưởng :

Chắc chắn là các vị lãnh đạo trong Trung ương Đảng, Ban tư tưởng và các ban ngành đã nghiên cứu và thẩm xét những đề nghị ấy, và có thể với thời gian những điều này sẽ thấm dần vào nhận thức của các vị.” (thư Làng Mai số 31).

Nhưng không, ngay lập tức những giọt ấy làm tràn ly tự ái. Không, tràn ly (Thượng) đế. Người ta nói là "crime lèse majesté " : phạm thượng, tuyệt đối phạm thượng. Phạm thượng tuyệt đối.

Còn một lý do (giọt) khác nữa : pháp môn Làng Mai đã lôi cuốn được khá đông người trẻ khắp nơi. Các người trẻ này tìm thấy an lạc cho mình và một số trong đó còn ước muốn đem an lạc cho người khác.

Thế là các tăng sinh Bát Nhã được sửa soạn đưa lên giàn hoả toà án pháp đình. Sự trả đũa thành hình được dễ dàng nhờ được kết hợp với lòng tham quan chức địa phương muốn cướp tu viện hoăc lời hứa hẹn trung ương cho phép họ biến Bát Nhã thay vì là nơi trí huệ siêu việt sẽ trở nên một tu viện hữu danh vô thực chỉ có bề ngoài bên trong là nơi du lịch. Hoặc cấp bách hơn nó sẽ là chỗ ở cho thái thú quan lại chuyên viên Tàu làm việc ở Tân Rai và vùng lân cận ? Thương thầy Đức Nghi rồi mai đây sẽ mang số phận con dê (…tế thần).

Những phương cách đem lại an lạc và hạnh phúc rất giản dị và tương đối dễ thực hành. Sau tam quy là ngũ giới. trước đây ai cũng có thể vanh vách nói lên được năm giới luật cơ bản của người theo bước chân Phật : sát sanh, trộm cắp, tà dâm, dối trá, rượu chè. Những thứ tội không thể không bị luật pháp trừng trị trong một xã hội có sự tiến hoá bình thường. Nhưng ở nước ta, xã hội tiến hoá không bình thường nên mới có dân oan, có tâm thư, kiến nghị… Và pháp môn Làng Mai đã tu chỉnh năm giới này.

Ý thức được những khổ đau do sự giết chóc gây ra, con xin nguyện thực tập nuôi dưỡng tuệ giác Tương Tức và lòng Từ Bi để có thể bảo vệ sinh mạng của con người, của các loài động vật, thực vật và môi trường của sự sống. Con nguyện không sát hại, không để kẻ khác sát hại và không yểm trợ cho bất cứ một hành động sát hại nào trên thế giới, trong tư duy cũng như trong đời sống hằng ngày của con. Thấy được rằng tất cả những bạo động do sự sợ hãi, hận thù, tham vọng và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con nguyện học hỏi thái độ cởi mở, không kỳ thị và không cố chấp vào bất cứ một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều và thiếu bao dung trong con và trong thế giới.

Thử tưởng tượng 400 vị tăng ni học xong ra đời xuống núi, khuyên dạy nhân dân không yểm trợ cho bất cứ một hành động sát hại nào !

Và trong giới thứ hai :

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cắp, áp bức và bất công xã hội gây ra, con nguyện thực tập san sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ thiếu thốn, trong cả ba lĩnh vực tư duy, nói năng, và hành động của đời sống hằng ngày. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do tự mình tạo ra. Con nguyện thực tập nhìn sâu để thấy rằng hạnh phúc và khổ đau của người kia có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc và khổ đau của chính con, rằng hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có hiểu biết và thương yêu, và đi tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng, giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và tuyệt vọng. Con đã ý thức được rằng hạnh phúc chân thực phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ không đến từ bên ngoài, rằng thực tập phép tri túc con có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại nếu con có khả năng trở về giây phút ấy để nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà con đã có sẵn. Con nguyện thực tập theo Chánh Mạng để có thể làm giảm thiểu khổ đau của mọi loài trên trái đất và để chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu.

Thì ra thứ "thuốc phiện" hay "ma tuý" mà các vị tu hành theo pháp môn này hứa hẹn : loại bỏ các nguyên nhân gây ra khổ đau thì sẽ có hạnh phúc. Các nguyên nhân đó là : lường gạt, trộm cắp, áp bức và bất công xã hội ... cực kỳ giản dị và lô gích ! Hai giới sau cùng cũng không ngoài mục đích đem lại hạnh phúc :

Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học hỏi theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia đình và trong xã hội. Con biết tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng những liên hệ tình dục do thèm khát gây nên luôn luôn mang tới hệ lụy, đổ vỡ cho con và cho kẻ khác. Con nguyện không có liên hệ tình dục với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức và lâu dài. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và để nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỉ và Xả, tức là những yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực để làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con biết thực tập Tứ Vô Lượng Tâm ấy, con sẽ được tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong những kiếp sau.



Ý thức được những khổ đau do thói tiêu thụ không chánh niệm gây nên, con nguyện học hỏi cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe cơ thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực để tránh tiêu thụ những thực phẩm độc hại. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phầm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, sách báo, bài bạc và cả chuyện trò. Con nguyện thực tập thường xuyên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những gì tươi mát, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong con và xung quanh con, không để cho tiếc nuối và ưu sầu kéo con trở về quá khứ và không để cho lo lắng và sợ hãi kéo con đi về tương lai. Con nguyện không tiêu thụ chỉ để khỏa lấp sự khổ đau, cô đơn và lo lắng trong con. Con nguyện nhìn sâu vào tự tính tương quan tương duyên của vạn vật để học tiêu thụ như thế nào mà duy trì được an vui trong thân tâm con, trong thân tâm của xã hội, và trong môi trường sự sống.

Cô đã xem thư cháu đến năm bảy lần, cô không thể nhầm lẫn khi nói điều này : chỉ trong một thời gian thật ngắn, cháu xác nhận mình có được ba thứ mà đảng và nhà nước này đã dùng mọi phương tiện hứa hẹn đem lại cho nhân dân : Độc lập - Hạnh phúc - Tự do.

Độc lập - Hạnh phúc - Tự do


Cháu TM ơi !
Cháu, người "được" gọi là T. điên, một cựu tiểu thơ, một ex-công chúa nhỏ, một ni cô tập sự, bởi vì cháu nói rõ lên rằng cháu đạt được Độc lập - Hạnh phúc - Tự do nên mẹ cha chú bác hoảng hốt cản ngăn, nhà nước ép buộc cháu từ bỏ chùa, từ bỏ cái pháp môn huyền diệu này, không muốn cháu tiếp tục được ba điều mà đảng đã miệt mài đi tìm hàng mấy mươi năm qua. Họa chăng họ chỉ giành lấy được cho chính họ độc lập (chẳng ai dám xen vào đòi chia chát) tự do (làm ăn, cướp của, trừng phạt răn đe) và hạnh phúc (du lịch, mua nhà cất tiền gửi con ở Florida, California, Sydney, Thụy Sĩ) cho chính họ và gia đình cùng những đồng chí (đồng lòng giúp nhau ăn chia trên...) Nhưng họ hoảng sợ bởi vì khi nhân dân đạt được mục tiêu tìm kiếm như đã hứa hẹn : Độc lập - Hạnh phúc - Tự do thì trời ạ NHÀ NƯỚC NÀY PHẢI TIÊU VONG : cho nhân dân tự đảm nhiệm lấy việc quản lý nước non như các nhà cách mạng thứ thiệt đã hứa hẹn từ hơn trăm năm nay từ khi họ sáng chế ra chủ nghĩa cộng sản. Cô MT ơi, tôi có thể tưởng tượng được sự ngỡ ngàng của họ. Có khác chi là tự sát ?

Thế là "bức" và "xúc" ! Nói theo màn kịch kể lại trên Phù Sa một vài bữa sau khi xảy ra màn bắt đuổi hung bạo.

Chỉ vì hơn nửa thế kỷ qua bởi không hiểu rõ một tôn giáo nào nên chính quyền này không biết rằng bạo lực và vô minh, tham sân không bao giờ có thể đem lại Độc lập - Hạnh phúc - Tự do. Thứ tự do tín ngưỡng mà họ ban cho nhân dân và cho chính mình chỉ là những thứ hình thức giả dối. Bởi vì họ không hiểu, không thương. Họ cứ tưởng bỏ dao, bỏ súng, đúc một tượng Phật to tướng, mỗi ngày bảo vợ con hay tự mình sì sụp khấn vái là sạch hết tội lỗi làm ra hôm qua, năm ngoái năm kia. Họ làm thế vi trong tiềm thức sâu thẳm kia họ biết rõ rằng họ phải có trách nhiệm nếu không nói là tội lỗi nào đó trong vấn đề đời sống tâm linh tuổi trẻ sau ba mươi năm chiến tranh tàn khốc và 35 năm hoà bình. Tuổi trẻ ấy được một vị tu sĩ miêu tả như sau :

Từ những năm đầu của kỷ nguyện mới, của thế kỷ 21, giới tu sĩ trẻ và thanh niên trẻ Việt Nam rơi vào tình trạng bế tắc tư duy và tuyệt vọng lý tưởng.

Thanh niên chỉ còn một con đường duy nhất là chạy theo lý tưởng đồng tiền, mục đích, trước hết cho bản thân, và hơn thế nữa để thoả mãn cho một chế độ tham nhũng chuyên chế. Đồng tiền là tiếng nói của đạo đức cho xã hội Việt Nam. (Thích Phong Định Ngày 16 tháng 10 năm 2009).

Cho nên vì quyết định bơi ngược dòng nên cháu bị coi là "mát dây" khi cháu muốn đi tu. Bố mẹ cháu không thể hiểu rằng cháu sắp làm công tác của Mục Kiền Liên. Nhưng MT ơi, cháu hãy nhìn xem, từ hai mươi năm nay đã có những người lẻ tẻ lên tiếng sám hối "tao sống còn vì tao biết sợ", "tôi ngồi ăn bánh vẽ", "tôi hèn" vân vân...

Cháu phải tiếp tục vững như núi vì Sư Ông sẽ phải còn về để làm một trại Sám Hối thật lớn, suốt từ Nam ra Bắc. Phải nhìn nhận tội lỗi quá khứ và sửa đổi trong hiện tại thì đời sống chúng ta mới yên ổn được trong tương lai. Muốn hiểu và thương cũng như được hiểu và được thương, rất nhiều người phải biết sám hối và từ bỏ bạo lực.

Anh chị em mình đã được Thầy dạy rất rõ, chỉ có hiểu mới có thương. Nhà nước và chính quyền Việt Nam chưa hiểu mình cho nên chưa thương mình được.

Nhưng vì mình là những người tu, cho nên câu trả lời cho những việc mình làm cũng chỉ là tu thôi, lời nói của mình cũng chỉ là niệm Phật thôi. Vì vậy các em phải kiên trì lên, phải chứng tỏ cho chính quyền và nhà nước hiểu là mình cương quyết sống với nhau, tu với nhau có vậy mới có cơ hội cho chính quyền và nhà nước cảm thông được. (Chị đn).

Hãy Hiểu và Thương, Sư Ông dặn cháu.

Nhưng người ta không thể hiểu và không muốn được thương thì mình phải làm sao ? Chẳng lẽ đi tiêu diệt họ như thầy Chơn Quang đã dạy ? Cái phật tánh tiềm ẩn phải được đưa ra. Không ai xứng đáng cái chết cả. Phải khơi ngọn lửa "thiêng" cho phật tánh hiện ra.

Cho nên cháu MT ơi, hôm qua cô mơ thấy Bát Nhã, Thái Hà, Phước Huệ, Loan Lý biến thành những "nhà thờ Saint Nicolas-Đông Đức" 20 năm về trước : Vài trăm người mỗi tay một cây nến, những lời kinh cầu, những tiếng hát. Rồi vài ngàn người. Rồi hàng trăm ngàn người. Một dòng sông khát khao tự do và hạnh phúc chảy đi và đã trở thành một biển rộng cuốn đi một chế độ. Nước Tây Đức đã dang tay đón nửa nước anh em mà không tốn máu xương.

Khi nào thì đến lượt chúng ta ? Ngọn lửa thiêng đã khơi lên rồi đó. Bây giờ giữ cho nó cháy lớn cháy mạnh lên là bổn phận của tất cả mọi người.

Cám ơn MT và các bạn của MT. Xin cám ơn Sư Ông.

TT Diệu Trí
5/11/2009


Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Pháp Nạn tại Bát Nhã (Bảo Lộc, VN)
Reply #20 - 14. Aug 2010 , 00:08
 

...
...
...


Thiền Sư Nhất Hạnh: Một tấm gương kêu… Trời – cho các Việt Kiều… hồi      
     
19/07/2010

Hải Ngoại Phiếm Đàn

Views : 558



Bài viềt nầy, như cái tựa của nó, chỉ nói về Ông Thiền Sư Nhất Hạnh, hoàn toàn không nói gì về một phạm vi có tính chất sensible: “Tôn Giáo”, nên nếu có một cá nhân nào đó – vì một lý do nào đó - cố tình nhìn bài viết nầy với tính chất sai lạc với tính chất thực của bài viết, người viết sẽ từ khước mọi cuộc tranh cãi vô ích._ Ng-v-Sơn

Các Bạn hiền thân mến của tôi,
Bài viết nầy xuất phát từ lòng phẩn nộ, lợm giọng, ứa nước mắt và cũng thật... ứa… gan khi tôi đọc được những lời tuyên bố của ông Thiền sư nầy trên các báo chí và cơ quan truyền thông quốc tế và của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải ngoại khi ông tuyên bố những lời vô cùng láo lếu (# bất cần sự thật như thế nào)

Ông tuyên bố:
1/* “Trong cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua, máy bay của Mỹ và của Ngụy quyền đã bỏ bom, chỉ riêng ở tỉnh Bến Tre, đã có 300.000 người chết...”
Trong biến cố 9/11, ông đã tuyên bố:
2/* “Đây là hậu qủa tất nhiên mà nước Mỹ phải gánh chịu do những lỗi lầm của nước Mỹ gây ra...”
(Biến cố đau thương nầy của toàn nước Mỹ, đã được toàn thế giới chia xẻ và cùng lên án bọn khủng bố. Còn cá nhân của ông thì… KHÔNG !! , không những thế ông còn lên án và nguyền rũa nhân dân và đất nước Hoa Kỳ !!).
3/* …Ông đã từng thóa mạ gọi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa là một đội quân... đánh thuê cho đế quốc Mỹ, trong những cuộc biểu tình của các tổ chức phản chiến ở Hoa Kỳ và Tây Âu trong những năm 1967, 68, 69 và những năm đầu của thập niên 70.
Sự tởm lợm nầy của tôi càng tăng lên khi nghe ông nầy… kiss-ass ông Tướng Võ Nguyên Giáp…
4/* …(khi) ông nầy cùng với tăng nhân Làng Mai cùng niệm… Phật trong năm phút để cầu chúc Tướng Võ nguyên Giáp… (tướng nầy… được Lê Duẫn và Lê Đức Thọ cho đặc trách… cầm quần đàn bà Bắc Việt Nam … để cấm đẻ. Đòn thù nầy được Duẫn và Thọ xử dụng trong cuộc đấu đá nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam) - Thiền sư cũng còn khôn lắm: ông mà làm hành động nầy – chúc thọ tướng Giáp - khi Duẫn và Thọ còn sống, cam đoan với ông rằng… ông (bị) được chúng thăng chức cho ông thành… - “Công Công”… ngay !!! - Đại Tướng còn phải nín khe, chịu đòn thù trước trò nầy của Duẫn Thọ, cỡ ông Thiền Sư nầy thì tới đâu ?? !!) …cầu chúc cho Đại Tướng mạnh khỏe, sống lâu và mãi là tấm gương sáng chói cho hậu thế, khi ông và phái đoàn tăng nhân làng Mai của ông đến tận tư gia của tướng Giáp để thăm viếng (ngày 24/04/2007).
5/* Trong những lần tổ chức Đại Trai Đàn Giải Oan tại Sóc Sơn (Bắc Việt), Huế và Sài Gòn, khi ông về Việt Nam. Ông đã mời người Cộng Sản đọc những đoạn kinh điển của Marx và Lênin bên cạnh các tăng sĩ, Linh Mục, Mục Sư, các vị Chức Sắc xướng đọc các kinh điển của Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lánh, Hào Hảo, Cao Đài để cùng cầu nguyện cho những người đã chết oan... Mọi người không biết làm sao có sự hòa đồng tôn giáo và chủ nghĩa Marx Lênin. Khi chính Marx đã từng tuyên bố: “Tôn giáo là thuốc phiện của con người”. Tuy có nhiều phương cách khác nhau, nhưng các tôn giáo lớn đều xây dựng trên nền tảng Từ Bi, Bác Ái, Còn chủ nghĩa Cộng Sản thì xây dựng trên căm thù và đấu tranh giai cấp. Và Trên thực tế Cộng Sản Việt Nam ra đời là nguyên nhân cơ bản của hàng triệu triệu cái chết oan ức nhân mạng Việt Nam, từ Cải Cách Ruộng Đất, của cuộc chiến Việt Nam, của biến cố tết Mậu Thân tại Huế, của những ngày sau 30 tháng tư 1975, của những cái chết trong các trại tù Cộng Sản, của những người chết ngoài biển Đông vì trốn chạy chế độ tàn ác và phi nhân Cộng Sản nầy… - Liệu thân nhân của những người chết oan nầy có thể nào tham dự và lắng nghe những lời “giải oan” của những người Cộng Sản Việt Nam được trích ra từ những đoạn kinh điển của Marx và của Lênin ???
6/*…Nhìn những tấm hình cũ (vừa mới đây thôi – năm 2007), khi ông về Việt Nam lần thứ 2 để lập cái gọi là “Đại Trai Đàn Giải Oan” của Thiền Sư - lần về Việt Nam lần thứ nhất, từ 12 tháng giêng đến 11 tháng 4 năm 2005, sau khi được phép của Cộng Sản Việt Nam cho ông về để thuyết giảng về những sách của ông đã viết, dĩ nhiên là chỉ được phép hạn chế trong những đề tài thuyết giãng đó). Ông trong bộ hoàng bào như vua chúa ngày xưa, có lọng che do bốn đàn em hộ pháp cầm lọng, có cờ xí, có tiền hô hậu ủng, có tả phù hữu bật hai bên, cái đầu không tóc (tôi không muốn dùng chữ đầu trọc, e... mộ phạm), cái đầu không tóc được che bằng cái mũ vải kiểu... con cóc , có dàn nhã nhạc réo rắc theo sau… - Nhưng nhìn kỹ lại thì giống như một đoạn phim bộ Hồng Kông cảnh “Dzua Càn Long đi viếng Chùa Thiếu Lâm ở tỉnh Hà Nam bên Tàu !! ” Một người tu hành chân chính sẽ xem nhẹ “ Hình - Danh - Sắc - Tướng”. Nhìn những tấm hình đó, mọi người đều cảm thấy tởm lợm, một hình ảnh của đảo điên phong hóa, của băng hoại đạo đức, của một xã hội suy đồi, mọi người đều thấy rõ ông trọng hình thức bề ngoài, háo danh, những hình ảnh đó chỉ có thể xuất hiện trên một sân khấu cải lương, hát bội làm trò. Làm tôi nhớ đến hai câu thơ của Cụ Tú Xương:

“Công đức tu hành sư có lọng”
“Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe ( Mercedes )”


Thưa các Bạn hiền,
Đã từ lâu, không biết từ lúc nào, Thiền Sư Nhất Hạnh đã bỏ chữ Thích (danh xưng Thích, một cái tên của Phật Thích Ca mà những người xuất gia tu hành thường lấy làm tên họ của mình). Những quyển sách của ông nầy, nếu chúng ta để ý, đã không còn chữ “Thích” nữa . Cũng như chữ “Đại Đức”, trong hàng chữ Đại Đức Thích Nhất Hạnh, ông ta đã bỏ chữ Đại Đức và thay thế vào đó là chữ “Thiền Sư” . Trong các sách của ông ấn hành về sau được đề là Thiền Sư Nhất Hạnh, thế thôi, Ông muốn nói điều gì qua việc chỉ đề danh xưng là… Thiền Sư Nhất Hạnh và ông muốn mọi người hiểu điều gì (?) - tôi nghĩ… người nào chỉ cần có óc tinh tế một chút cũng đã hiểu được thâm ý nầy của ông. Không biết ông đã bỏ các chữ Đại Đức và chữ Thích từ lúc nào, có một vài nguồn tin cho rằng ông đã bỏ các chữ trên khi ông về Làng Mai để thành lập Tu Viện Làng Mai – Làng Mai, thuộc vùng Dordogne ở miền Nam nước Pháp- do “Madame” Cao ngọc Phượng, tức Ni Sư Thích Nữ Chân Không [Madame nầy, nay cũng bắt chước theo “thầy” bỏ luôn chữ Thích và chỉ còn trơ lại cái… Chân Không (?)]… bỏ tiền thành lập và xây dựng [… và sau nầy có thêm của thập phương bá tánh (nhẹ dạ) cúng dường]. Kể từ lúc… - Con tim (của Thiền Sư) đã….vui trở lại (?)... - Tôi nghĩ gỉa thuyết nầy có lẽ đứng vững hơn !!- Những người tu học pháp môn Làng Mai cũng có sự thay đổi trong cách gọi tên, họ không dùng chữ Phật tử như từ trước tới nay vẫn được gọi mà đều dùng nhóm chữ “Tăng Nhân làng Mai”. Tất cả những điều thay đổi trong cách xưng danh nầy nói lên những điều gì ? - Phải chăng có… một thứ đạo Phật mới do Ngài “Thiền Sư Nhất Hạnh” khai sáng ?. Hay nói như Bùi Tín (một cựu Đại Tá Cộng Sản)… ởm ờ , đưa đẩy mớm lời... đã nói thay cho Thiền Sư Nhất Hạnh rằng: - Một Đạo Phật nhập thế - Một Đạo Phật nhiều tính khoa học, ít thần bí - Một Đạo Phật có sức lan tỏa và thuyết phục ?- Một Đạo Phật canh tân, cấp tiến, đẩy lui tà thức và tà niệm - Một Đạo Phật không phải là Đạo Phật của Phật Thích Ca như từ ngàn xưa tới bây giờ ??
Nhất Hạnh, tên thật là Nguyễn xuân Bảo, người Thừa Thiên, sinh năm 1926, xuất gia năm 16 tuổi, vào tu thiền ở chùa Từ Hiếu (Huế) theo phái Đại Thừa. Trở thành nhà sư thực sự vào năm 1949 sau khi tốt nghiệp ở trường Phật Học Bảo Quốc (miền trung). Được trao ấn chứng từ nhà sư Thích Chân Thật về thiền năm 1966. Cùng năm nầy, Nhất Hạnh được cơ quan USAID (về sau ông mạnh miệng gọi cơ quan nầy là cơ quan của đế quốc… Mỹ !!) cấp học bổng sang du học tại Nhật về các pháp môn của tông phái thiền tông Rinzai Zen. Sau khi học xong ở Nhật, Nhất Hạnh như… chim trời vỗ cách bay đi (...bay đi làm... loạn !!), không về lại nước. Ông tham gia phong trào phản chiến (chiến tranh Việt Nam), lên án Hoa Kỳ và chính phủ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa – Ông đã từng gọi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa là một quân đội tay sai của đế quốc Mỹ - Trong khi ấy Nhất Hạnh không nói một lời nào về Cộng Sản Bắc Việt đang xâm lăng miền Nam. Nhất Hạnh không một lời nào tự vấn lương tâm mình một cách công bình: “Tại Sao có cuộc chiến nầy ??” – Nếu có sự tự vấn của ông và công bình với mọi sự, chắc ông sẽ không bao giờ phát ngôn những lời như thế và ông cũng sẽ không bao giờ tham gia vào các cuộc biểu tình phản chiến như thế. Trong những năm cao trào phản chiến ở Hoa Kỳ, 1967-1968, bọn phản chiến Mỹ đã “lên dây thiều” cho ông, cho ông “đi tàu bay… giấy”, bọn chúng … - “dùng ống đu đủ thổi vào đít của ông” cho ông bay bổng lên tận mây xanh, bằng cách đã tổ chức cho ông những buổi nói chuyện tại các Đại Học Cornell và Đại Học Princeton, và đúng như tính toán của bọn phản chiến Mỹ, ông Nhất Hạnh sau khi được vinh dự đó ông càng… quậy… tới bến !! (cũng như trước tháng 11 năm 1963, tờ báo Newweek đã dùng ống đu đủ thổi vài đít Thích Trí Quang là… “người làm… nghiêng ngã nước… Mỹ ”!! (sic) [trong vụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm] mặc dù… Thích Trí Quang… (nên nhớ, lúc đó không có khả năng nói được một câu tiếng Anh nào !!!).
Phải công nhận rằng, công trình biên soạn của ông qua các phạm vị Văn học và Tôn giáo rất nhiều, như cuốn Bông Hồng Cài Áo, Nói với tuổi hai mươi, Nẽo về của Ý, Đường xưa mây trắng, Tương lai Thiền học Việt Nam, The Miracle of Mindfullness: - A Manual on Meditation – v.v... Tổng cộng gần 100 tác phẩm, vừa Việt Ngữ và Anh ngữ. Một số tác phẩm nầy chắc cũng có một số anh em chúng ta cũng đã đọc qua. Đọc một vài tác phẩm tiêu biêủ của ông trình bày về Thiền và về Bát Nhã (Prajnaparamita) , người đọc sẽ cảm thấy mệt mỏi và khó nắm bắt tư tưởng vì cách trình bày vấn đề qúa tối tăm của ông, không như khi đọc cùng đề tài với cách viết và trình bày của Đạo Sư Osho. Đọc Osho người đọc cảm thấy bị lôi cuốn ngay từ những dòng đầu tiên đến dòng cuối của tác phẩm với lối trình bày tư tưởng của Osho thật trong sáng và luôn đầy tính chất hàn lâm mà vẫn chứa đầy tư tưởng của Phật Giáo trong những tác phẩm Osho.
Trở lại với Thiền Sư Nhất Hạnh, năm 1966, ông lập ra một giòng tu mới - Giòng tu Tiếp Hiện - (The Order of Interbeing) - Tiếp: (- tiếp xúc- tiếp cận). Hiện: (hiện thực).
Năm 1982, ông thiết lập một nơi tu học thiền tại Pháp, nơi có người nhiều người Việt sinh sống có tên là Làng Mai (Village des pruniers), một làng ở miền Tây Nam nước Pháp. Nếu… nếu ông vui sống, thiền và… enjoy cuộc đời còn lại của ông bên cạnh… “Madame” Cao Ngọc Phượng aka Thiền Sư… Gái… “Chân Không”, tức “Đệ Nhất Phu Nhân Áp Trại Làng Mai” thì bá tánh… đỡ khổ biết chừng nào !! – Nhưng không… - “Ngài ”… hổng chịu như dzậy. Làm… Trại Trưởng… “Ngài”… hổng thèm đâu, Trại Trưởng thì… thường qúa, đã từ lâu Thiền Sư muốn làm một thứ như Makarios của Việt Nam như dzậy mới… bảnh !! (Makarios – 1913/ 1977 là một tăng sĩ và một nhà hoạt động chính trị của Cyprus/ Hy lạp), hoặc như Sư Vạn Hạnh của đất nước ta đời nhà Lý (Sư Vạn Hạnh 947 (?) – 1025. Người có rất nhiều đóng góp trong việc mở ra Triều đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật của Việt Nam . Ông được xem như một thứ Cố Vấn Tối Cao cho Vua Lê Đại Hành, và là một Vị thầy dạy Lý Công Uẩn ) – “Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh”, muốn là một thứ… Ayatolah của Việt Nam cơ !! - “Trại Trưởng Áp Trại Làng Mai”… nghe hổng bảnh, nghe… yếu xìu, nghe sao giống… Áp Trại của 108 hảo hán… Lương Sơn Bạc… wá !!!- Ngài… hổng thèm đâu !!
Vâng, Đúng là Ngài… hổng thèm thật !! - Cộng Sản Hà Nội cũng thừa biết Thiền Sư từ lâu đã nuôi mộng lớn. “Danh - Lợi – Tình”, chúng dùng ba miếng mồi đó, chúng dùng ba miếng pho mai đó để bẫy con chuột… Jerry (Jerry là tên con chuột trong loạt phim Tom and Jerry dành cho thiếu nhi 3 đến 6 tuổi trên truyền hình Hoa Kỳ thường chiếu vào buổi sáng) cho Ngài vào… bẫy - và… Thiền Sư vô vàn kính yêu của Đệ Nhất Áp Trại Phu Nhân Làng Mai đã… sập bẫy.
Bây gìờ chúng ta trở lại câu chuyện Tu Viện Bát Nhã
a/ Bề mặt của sự kiện:
Tu Viện Bát Nhã, tọa lạc tại xã Damb’ri, thuộc huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Rộng khoảng chừng 30 mẫu tây, được thành lập năm 1995 do Thượng Tọa Thích Đức Nghi làm chủ (Thích Đức Nghi là một thành viên của “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam = Giáo Hội Quốc Doanh = Giáo Hội do nhà nước thành lập = do Việt Cộng điều hành và sai khiến) - Tháng 2 năm 1995 – là năm mà Nhất Hạnh về Việt Nam lần đầu tiên = quy cố hương = áo gấm về làng. Việt Cộng đem mồi câu thứ nhất ra nhử Nhất Hạnh (bằng cách ngỏ ý muốn cho Thiền Sư xây dựng Tu Viện nầy làm một trung tâm tu học theo pháp môn Làng Mai. Để mồi câu thêm hấp dẫn, Thích Đức Nghi đã mời và bảo lãnh những tăng thân từng tu học tại Làng Mai về Việt Nam để truyền dạy và đào tạo các môn sinh theo mô thức tu học và học những kinh điển của Làng Mai - tức các kinh điển của “Thầy”- tức các kinh điển do Nhất Hạnh dầy công… biên soạn - (tăng thân, Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh không dùng chữ Phật Tử, thâm ý của thiền sư muốn lập ra một tôn giáo mới, một thứ “ Phật Giáo mới”, một thứ “Đạo Bụt Tiếp Hiện” - ( Hiện = hiện thực = tức là chấp nhận một thứ hiện thực = chấp nhận Cộng Sản) tức một đạo Bụt… mang có tính Khoa Học, ít thần bí !!!. Thiền Sư và các tăng thân Làng Mai nầy đã chi một triệu đô la để mua đất, mở rộng và trùng tu Tu Viện nầy. Tháng 2/2007, Cộng Sản Việt Nam đem mồi câu thứ hai ra nhử Thiền Sư: (đồng ý cho Nhất Hạnh về nước lập “Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan” trên ba miến Bắc Trung Nam. Bọn Cộng Sản Việt Nam cho Thiền Sư về nước lần thứ hai, làm trò hát bội cải lương mặc áo hoàng bào, mang hia đội mủ, võng lọng các cái, nhã nhạc vang trời, tiền hô hậu ủng, tả phù hữu bật, như ông dzua đời xưa bên tàu… - những điều nầy càng làm cho Chế Độ được tiếng thơm với nước ngoài, càng đánh bóng cho chế độ của chúng, một chế độ hoàn toàn có tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng và mọi thứ tự do khác… - Tính đến thời điểm tháng 6/ 2008 đã có khoảng gần 400 tăng thân theo học pháp môn Làng Mai – Tháng 6/ 2008, Thích Đức Nghi tuyên bố không muốn bảo lãnh các tăng thân Làng Mai có quốc tịch nước ngoài và không muốn Tu Viện Bát Nhã tu tập theo pháp môn của Làng Mai nữa, mọi tăng thân phải rời tu viện ngay lập tức. Và đến đây, màn lừa đảo bắt đầu được Cộng Sản cho… hạ màn.
b/ Bề trái của sự kiện:
Trong lần về nước lần thứ hai- 02/ 2007- Thiền Sư Nhất Hạnh đã có một ảo tưởng thật ngây ngô với những người Cộng Sản, ông đã đề ra một loạt đề nghị với Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết, trong những đề nghị đó có những đề nghị “chạm” vào yếu huyệt, có tính nguyên tắc bất di bất dịch của tất cả các Đảng Cộng Sản trên toàn thế giới – Ông đã đề nghị: 1/ Giải thể Ban Tôn Giáo Chính Phủ và 2/ Giải thể bộ phận Công An đặc trách tôn giáo. Ông đã qúa hoang tưởng, ông không có một chút hiểu biết nào về tổ chức cơ cấu các Đảng Cộng Sản nên ông mới đưa ra những đề nghị ngây ngô đến buồn cười như thế. Ông là cái gì và ông có cái gì trong tay để đưa ra một đề nghị dù chỉ là “vui chơi ” dù chỉ là… “nghe qua rồi bỏ” như thế ?? – Ông là Makarios, là Ayatolah, là Sư Vạn Hạnh đời Lý, là Quốc Sư của Lý Công Uẩn, của bọn chúng chắc ??? –
Trong lần về thứ hai 2007 đó, ông với thái độ cử chỉ… vô cùng kiss-ass ông tướng Võ Nguyên Giáp, một thái độ nâng bi thật vô cùng trơ trẽn, tởm lợm. Trong một bài “Phổ cáo quốc dân và đồng bào Phật Tử” [ở đây cần mở dấu ngoặt một chút, khi cần thì ông gọi là Phật Tử - khi không cần thì ông gọi là “những người chưa phải là tăng thân Làng Mai” - Ông chơi chữ cũng hay lắm !!] – Trong bản Phổ Cáo nầy, Làng Mai, Thiền Sư kêu gọi Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hải Ngoại hãy quên đi qúa khứ, xóa bỏ hận thù và có đăng hai tấm hình, một của Võ Nguyên Giáp, một của Thiền Sư Nhất Hạnh. Tờ Phổ Cáo nầy còn cho in lại hai bài báo cũ của tờ Time và của tờ Time Asia Magazine. Điều nầy không khỏi làm cho Cộng Đồng người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản thắc mắc về việc kêu gọi “quên đi qía khứ và xóa bỏ hận thù” nầy của Thiền Sư. Nó - Bản Phổ Cáo - nầy cũng gây thắc mắc và đa nghi từ bọn đang cầm quyền tại Hà Nội. Hai bài báo, một của ký giả Pankaj Mishra ca tụng Thiền Sư- một bài ca tụng Võ Nguyên Giáp của ký gỉa Kay Johnson. Hai ký gỉa có khuynh hướng thiên tả.
Trích… - “Ít có những chiến trường nào đẫm máu nhiều như chiến trường tại Việt Nam, khi hết người Pháp rồi tới người Mỹ đem quân tới để đàn áp phong trào yêu nước và phong trào Cộng Sản trong suốt ba thập niên dai dẳng…” (Pankja Mishra)
Trích… - “Ta sẽ không bị mang tiếng qúa đáng khi nói rằng Thầy Nhất Hạnh đã có công gây sức ép buộc Washington phải rút quân ra khỏi Việt Nam ” (Pankaj Mishra)
Trích: …“Mười bốn năm sau, tướng Giáp lại chiến thắng một trận đánh hào hùng khác, đó là cuộc Tổng Tấn Công nổi dậy Tết Mậu Thân, được xem như là bước ngoặt dẫn đến chung cuộc của chiến tranh Việt Nam ”. (Ký gỉa Kay Johnson ).
Như vậy, thử hỏi qua Phổ Cáo nầy của Làng Mai, tức của Thiền Sư Nhất Hạnh, khi Ngài về nước lập Đại Trai Đàn Giải Oan lại đưa ra Bản Phổ Cáo nầy, thì thái độ nầy của ông Nhất Hạnh có thật sự có muốn quên qúa khứ và có thật sự muốn xóa bỏ hận thù hay không ??
Tạm thời chúng ta không nói gì về Cộng Đồng người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản ở Hải Ngoại. Cái ngây ngô và cái không nắm vững tình hình về diễn biến nội tình của Đảng Cộng Sản Việt Nam của Ngài Thiền Sư kiss-ass, ông về nước ông kiss-ass tướng Giáp qúa lộ liễu, ông cứ tưởng ông tướng nầy còn thế lực để có thể xoay vần Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chính ông tướng nầy phải ngậm bồ hòn đầy cay đắng khi Lê Duẫn và Lê Đức Thọ nhục mạ ông tướng nầy bằng cách đặt để cho ông phụ trách về “Cai Đẻ” (giống hành động của Khổng Minh Gia Cát Lượng gởi tặng Tư Mã Ý bộ yếm đàn bà), khi tướng Giáp bị đối xử như thế mà không dám “ho” lên một tiếng nào. Điều nầy đủ nói lên thế lực hiện tại của tướng Giáp. Xin nói thêm với ông Thiền Sư, rằng… Bùi Tín là đàn em thân tín của Giáp, bây giờ vẫn còn lưu vong ở Pháp, sức mấy mà Bùi Tín dám về !! - Giữa bọn chúng với nhau mà chúng còn đấu đá và chơi đểu như thế, thì ông là cái gì để mà chúng không “chơi ” ông ?? - Chính hành động đi đêm với tướng Giáp nầy đã tạo mối đa nghi nơi bọn lãnh đạo thực sự tại Bắc Bộ Phủ và cao hơn nữa chính là từ Tòa Nhà Trung Nam Hải ở Bắc Kinh - Vụ Tu Viên Bát Nhã là “Thông Điệp” rất nhẹ nhàng của bọn chúng gởi cho ông đó, ông có biết như thế không ?-
Thôi thì, đừng kêu ca gì nữa ông ạ !! - Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Hải Ngọai, chỉ biết thương xót cho số phận 400 tăng nhân Làng Mai đang bị Cộng Sản hành hạ, bị đuổi ra khỏi tu viện, đang bơ vơ… - Còn Ngài, thì chúng tôi khuyên Ngài nên trở về Làng Mai của Ngài để… “Diện bích tham thiền sám hối”, sám hối về những hành động đầy mưu toan cho lợi ích của riêng cá nhân ông, hãy mạnh dạn sám hối như cô ca sĩ phản chiến Joan Baez và những người trong phong trào phản chiến Chiến Tranh Việt Nam, hãy có một chút can đảm để thẳng thắn nói lên câu như Joan Baez đã nói trong cuốn “Joan Baez and a Voice to Sing With” (nhà xuất bản New American Library NewYork – 1987-)… - “Sự thật là Sự thật không thể che dấu được Ánh Sáng Công Lý và Lương Tâm của nhân loại về một chính sách phi nhân của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam” và… sau đó… ngày đêm enjoy cuộc đời với… - “Đệ Nhất Phu Nhân Áp Trại” của Trại… Village des Pruniers... và nhất là hãy quên đi giấc mộng làm Makarios - làm Ayatolah – làm một thứ Sư Vạn Hạnh của triều Lý – hãy quên đi giấc mộng làm… Quốc Sư – Như thế “thân tâm mới thường an lạc”… Như thế… sướng chán ông ạ !!
Thiện Tai - Thiện Tai
Ng-v-Sơn
- - - - -

Ngồi Thiền
Tặng “thầy” Nhất Hạnh


Ta ngồi quán niệm pháp môn
Tụng ba-la-mật xuất hồn đi ra
Qua băm sáu cõi ta bà
Đầu trâu mặt ngựa, gian tà ngổn ngang.
Biến rằng giữa chốn huyền không
Phật duyên vô lượng, đạo tràng chân như.
Hốt nhiên thấy một thiền sư
Lập đàn thuyết pháp giải trừ bệnh căn
Ngờ đâu ”thầy” chỉ lăng nhăng
Thốt lời vọng ngữ, nói năng hoang đường.
Chữ rằng Phật ngự mười phương
Độ người bể khổ, lầm đường bến mê.
Tiền oan “thầy” lắm ê chề
Sao giờ hậu nghiệt vẫn nghe hồ đồ?
Khuyên “thầy” về gặp “ni-cô”
Xin xâu chuỗi hạt tròng vô tim mình
May ra đốn ngộ... chữ Tình!

Phạm Tâm Phố

Một bài nữa:

Sư Nói Láo
Sư Có Vợ


Sư nói láo chính nòi sư Vẹm
Ở Làng Hồng tu luyện thành Tinh
Bùa mê, thuốc lú đầy mình
Ngày chay, đêm mặn thỏa tình Sư chơi!
Tới Nữu-Ước buông lời dối trá
“Ba trăm ngàn dân xã Bến-Tre
Bị bom Mỹ giết thảm thê”
Hỡi Sư nói láo, người nghe rùng mình!
Cả thiên hạ bất bình lên tiếng
Sư đánh bề ngậm miệng mần thinh
Mác Lê kinh kệ đã rành
Mưu gian, chước quỷ lưu-manh hại đời.
Sư có vợ chính nòi dâm đảng
Ở Làng Mai bầu bạn đêm khuya
Tụng kinh gõ mõ đề huề
Trên Sư dưới Phượng (*), má kề vai ôm.
Sư bán hồn cho phường Quỷ Đỏ
Có Đô la xây tổ uyên ương
Lại còn giở thói bất lương
Hùa theo “khủng bố” để chường mặt gian!
Ới cái lũ gian tăng gian ác
Áo cà sa vai khoác lừa người
Cạo đầu dối thế dễ ngươi
Ngày sa địa ngục hết đời Ma Tăng.
Đả Cẩu Đại-Hiệp


(*) Cao Ngọc Phượng.

Thêm một bài nữa xem sao!!

ĐỌC THƠ THIỀN SƯ NHẤT HẠNH


Văng Bút Thư Sinh

Úp mặt vào hai bàn tay
Không, tôi không khóc.
Úp mặt vào hai bàn tay
Để giữ cho sự cô đơn của tôi ấm cúng.
Hai tay tôi che chở
Hai tay tôi nuôi dưỡng
Hai tay tôi ngăn ngừa linh hồn tôi rời khỏi tôi một cách giận dữ.


Tôi làm thơ trong thời gian chiến tranh Việt Nam sau khi tôi nghe về việc ném bom ở Bến Tre. Một thành phố 300.000 người đã bị phá hủy bởi vì vài du kích bắn một vài loạt súng chống phi cơ không kết quả gì rồi bỏ đi.

Sự đau đớn của tôi thật sâu xa.

(Thích Nhất Hạnh)

Làng tôi hôm qua có ba người Việt Cộng về
Nên đã bi dội bom hoàn toàn tan nát
Cả làng tôi chết sạch
Thềm hoang ngơ ngác
Lũy tre xác sơ
Tôi về thăm nhìn mây nước dửng dưng
Cả làng tôi chết sạch!
Cả đất nước tôi chết sạch!
Cả dân tộc tôi chết sạch!
Làm sao để giải thích đây là cuộc chiến tranh giải phóng (1)
cho dân tộc tôi?
Cả dân tộc tôi ngơ ngác bàng hoàng!

(Thích Nhất Hạnh 1965)
(1) giải phóng của Hoa Kỳ để đưa một đất nước chậm tiến và nghèo khó thành văn minh (!). Chú thích này là của người sưu tầm/ biên soạn chứ không phải của thi sĩ NH, tác giả bài thơ.

Hỏi thiền sư Nhất Hạnh

1.
Bài thơ đầu, mời thiền sư diện bích
Úp mặt vô tường
Đều thấy quê hương 25 năm lầm than dưới gông cùm Mác Xít
Sao thiền sư không khóc
Để cạn vơi những điều không thật
Trong tâm bồ đề bị vỡ vụn giữa vô minh?
Là một Phật tử ít khi đi chùa và không biết tụng kinh
Đọc thơ thiền sư tôi vô cùng thương tâm đau đớn
Giữa tôi và thiền sư, cái tâm nào cho đất nước đau hơn?!
2.
Bài thơ kế, thiền sư không thật
Bài thơ như của một người cộng sản múa bút, phóng tay Lê Mác
Thổi bùa mê vào đầu hàng vạn lứa tuổi xanh “sinh Bắc tử Nam”
Cho Sài Gòn bị nhuộm đỏ 75
Cho lớp lớp người bỏ nước ra khơi trùng dương thăm thẳm
Cho rêu phong, sỏi đá khóc thầm
Cho muôn dân quặn mình trong hờn câm uất hận
Xin hỏi thiền sư tâm thiền có bao giờ vướng bận
Khi Tổ Quốc chìm sâu trong áp bức đoạn trường
Sao thiền sư không bàng hoàng một chút với quê hương?
Bàng hoàng lúc cả dân tộc ta, đất nước ta gần như cùng đường chết sạch!
Thiền sư thử niệm giùm tôi câu “Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát!”
Để xem thiền sư cứu độ vớt vát được ai
Thiền sư không cần úp mặt vào hai bàn tay
Để suy nghiệm nguyên nhân nào đã sơn đen cả tương lai dân tộc
Thiền sư cũng không cần khóc
Thiền sư cũng không cần hỏi từng chân tơ kẻ tóc
Mới biết mình còn vướng mắc vô minh
Dù đã từng tụng cả vạn chương kinh
Dù đã lần tay nghìn lần tràng hạt
Mà thiền sư không ngộ ra sự thật
Đất nước vì ai mà tan nát
Đọc thơ thiền sư mà lòng tôi ngơ ngác
Mà lòng tôi tan tác bàng hoàng!


Văng Bút Thư Sinh
Back to top
« Last Edit: 14. Aug 2010 , 00:50 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 
Send Topic In ra