Một chuyện Huế rặt nữa Tôi đọc truyện “Huế rặt” của tác giả Võ Hương An cho mẹ tôi nghe. Bà cứ cười như nức nẻ. Nghe xong, bà nói:
- Chà! Cái ông văn sĩ ni biết hung ác. Cái chi ông cũng biết trọi lọi .
Tôi nói đùa với bà:
- Mạ thiệt! Thầy con đó, có phải cô đâu? Răng mạ gọi là cái. Mà thầy có hung ác chi mô? Dễ chịu lắm.
- Mi nợ! Mệ ưa nói rứa thì răng? Thầy mi biết hung ác mà còn hiền ác nữa. Tao nghe cái giọng văn là tao biết liền. Nhưng có chuyện thầy mi chưa biết mô.
Mẹ tôi năm ni đã 94 tuổi. Bà về làm dâu trong hoàng tộc từ cái thuở vua Bảo Đại mới hồi loan dăm ba năm. Ông cố tôi hồi trước làm Thị Lang ở bộ Công với Thượng thư Đào Tấn. Nghe nói hai bên có tình thông gia nhưng đến đời tôi thì chỉ thỉnh thoảng nghe nhắc lại mà thôi. Chuyện ông cố tôi mới chính là cái chuyện mà mẹ tôi dám chê thầy Võ Hương An không biết.
Đó là chuyện kiêng cử tên của ông bà. Bác tôi ở “Phi Phô” (Hội An) ra thăm nhà phải đi qua Đà Nẵng nhưng cứ nghe bác tôi nói với mẹ tôi, Thím rảnh thì vào trong sông Hờn chơi ít bữa. Hoá ra là cử tên ông cố tôi là Hường Hàn. Tội cho giòng sông Hàn (Đà Nẵng) có cái tên dễ thương lại mang tên một nỗi thù oán, nghe lâm li bi đát như một niềm riêng khó nói.
Ở Huế cái thói ăn vặt của người lớn và trẻ con được gọi là “ăn hàng”. Tôi dạo đi học lớp năm (tức lớp 1 bây giờ) cũng đành xin mẹ hay bà nội 5 giác (50 xu) để ăn hờn (khoai lang, sắn hay đậu phụng luộc). Ôi! Đây là cái lạc thú lớn nhất thời trẻ con của tôi. Năm giác nhưng mua được nửa củ khoai và nửa củ sắn thơm phức mùi lá dứa của mụ Giàu đầu xóm. Thế nên, nói lộn thành ăn hàng (cùng âm với Hàn theo giọng Huế) là xôi hỏng bỏng không đó. Mẹ tôi còn tha thứ chứ bà nội tôi nghe là quát liền:
- Thằng cha mi không biết dạy con!
Chưa hết mô. “Con rác bò côi thiền” có nghĩa là “con kiến bò trên thành”. Kiến và Thành là tên ai quả thật tôi cũng không biết nhưng bà nội tôi dạy thế thì tôi phải nghe. Tôi thường khai rằng mình sống ở Thiền Nội hơn mười mấy năm là vì thế đó. Nghĩ thiệt buồn cười nhưng ở xứ Huế thời đó có nhà nào không kiêng tên ông bà đâu. Lắm lúc tôi cũng ngớ ra một hồi mới hiểu mình đã nghe cái gì.
Kiêng cử như thế là thường tình, ai cũng biết. Người Trung hoa hay gọi Phạm tiên sinh, Trần giám đốc, Lê giáo sư... cũng chỉ để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi hay có địa vị. Ông bà ta còn hơn thế thì kiêng cử cũng đúng đạo lí thôi. Bây giờ theo kiểu Tây thì phải, nói tới ai cũng trông trổng nghe hỗn láo thế nào. Tôi đọc sách ta, thấy nhiều tác giả cứ viết Lê Lợi, Nguyễn Huệ ... lên ngôi năm... là tôi dị ứng ngay. Tại sao ta không thêm một danh xưng ông, ngài, hay vua ... gì đó cho lễ phép. Cách nói tránh (uyển ngữ) hình như đã bị lãng quên. Tính khoa học có cấm chúng ta bày tỏ lòng kính trọng với tiền nhân đâu. Tây là Tây mà ta là ta chứ. ‘Hoà nhưng không hùa’ như thầy Võ Hương An đã viết mới giữ được bản sắc dân tộc chứ.
Song le, có lẽ khó mà chịu nỗi với sự kiêng cử dài dòng rối rắm như thời ông cố tôi với chú lính kéo xe. Sau đây là lời mẹ tôi kể lại.
Ông cố tôi đi làm và cả đi chơi bằng xe kéo. Chú kéo xe độ hai mươi mấy tuổi, còn khoẻ lắm nhưng đã kéo cho cố tôi đã hơn 3, 4 năm. Chú nghe quen ông cố tôi nói nên ông nói gì chú cũng hiểu. Không may, chú ốm đau gì phải thay người kéo thì người mới cứ bị la mãi suốt ngày. Mẹ tôi kể lại một dạo cố tôi đi ăn kỵ ở nhà bạn. Lên xe rồi, bỗng nhớ ra còn quên đồ đạc gì đó. Ông bảo chú lính kéo xe mới:
- Chạy vô lấy cho tao cái “ơ lơn đơn năm hột nát mễ nễ” mau!
Chú kéo xe chạy vô nhà, lục lung tung mà không sao tìm được cái thứ ông cố tôi cần. Khăn rồi, dù rồi, đãy thuốc cũng rồi. Còn cái chi mà ‘ơ lơn đơn’ với ‘nát mễ nễ’. May thay, chú lanh trí, chạy tuốt xuống nhà dưới hỏi bà cố tôi. Thì ra cái ông cố tôi cần là cái áo lương đen năm hột nút mã não. Vâng, áo lương đen, một y phục thời trang ngày xưa.
Ui chao ơi! Kiêng cử như rứa hoạ là xứ Huế của tôi mới có thôi. Hẹn với các bạn các chuyện Huế rặt sau.
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Th 7.2008