Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Quốc Hận  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 11 12 13 14 15 16
Send Topic In ra
Quốc Hận (Read 29309 times)
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Quốc Hận
Reply #180 - 14. Apr 2012 , 08:05
 

30 Tháng 4


...

...


Trần Văn Giang


@net

* Để mãi mãi nhớ ngày 30 tháng 4 năm 1975.


Ai vui? Ai buồn?

Ngày 30 tháng 4, ngày có "hàng triệu người vui, hàng triệu người buồn" như lời nhận xét của “cựu thủ tướng” cs Võ Văn Kiệt, “người” này cũng giống như một số “người” lãnh đạo csvn khác phải chờ đến mãi buổi xế chiều của cuộc đời thì bỗng dưng phải gió rồi trở giọng “phản động.” Phải chi mấy “người” này tỉnh táo một chút vào lúc đang còn quyền cao chức rộng thì đám dân đen cũng được nhờ (!) và đã nhiều sinh mạng không phải oan thác.
CS vẫn tiếp tục hân hoan vui mừng “nhiệt liệt” hợp ca cái điệp khúc "ngày chiến thắng huy hoàng", “là một (ngày) thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta." (sic) (Lời của Đại tướng gốc thợ may Văn Tiến Dũng).

Kỷ niệm chiến thắng, bắn pháo hoa “diễu binh” ăn mừng ngày 30/4, mà ngay bên lề đường còn nhiều đám dân đen xếp hàng kêu oan bị cướp mất đất, bà già run rẩy ăn xin, em bé bỏ học bán vé số… Ăn mừng ngày đánh “Mĩ cút ngụy nhào.” Oái oăm, ngày này cũng là ngày ăn mừng “đổi mới,” trải thảm đỏ mời đón Mỹ trở lại đầu tư vì “đảng ta” vừa mới định hướng kinh tế thị trường XHCN và cảm thấy “bị tư bản bóc lột” là chuyện “tiên tiến, tốt” phải làm trong giai đoạn phát triển kinh tế quốc gia. Ngày này cũng là ngày các lãnh tụ csvn vĩ đại kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” về xây dựng quê hương vì sau mấy chục năm chiến thắng vinh quang “đảng ta” vẫn chỉ giỏi ở cái mảng phá hoại và tham ô.

Đám chăn trâu, thợ thiến heo, ở đợ, cướp cạn, thất học… đi bộ từ trong rừng ra với áo không lành giầy không vớ “ăn mừng” vì bỗng nhiên một sớm một chiều trở thành tiến sĩ, đại gia, cán bộ cao cấp lèo lái “con thuyền không bến” Việt Nam đến vinh quang vô địch (?)
Ăn mừng vì “thép đã tôi thế đấy” đội ngũ cán bộ lãnh đạo (từ chính quyền trung ương đến cơ sở chính quyền địa phương) thành một lũ vô cảm, dửng dưng trước những đau khỗ quằn quại của đồng loại, coi thường dân, không dám nhận chịu trách nhiệm về những sai trái; Ăn mừng vui vì “tụi nó” cướp của người khác chứ không (chưa) cướp đến của nhà mình?!

Ngược lại, cũng có nhiều người ở cùng chiến tuyến với cs rất buồn vì đã tự “giác ngộ.” Họ nhìn ra là họ đã bỏ phí cả thời xuân xanh, tài sản để chạy theo cs rồi bây giờ sau mấy chục năm ròng mới nhận ra cái ngu xuẩn của mình và ngu xuẩn của chính sách cs; Mặc dù họ mới chợt “phản tỉnh” và tuyên bố “phản động” này nọ nhưng cũng chỉ làm cho có chuyện, làm để lấy tiếng ngu vì cô thế (người quốc gia còn bán tín bán nghi, không buồn để ý đến họ), sức đã mòn, chợ đã chiều… không thay đổi cái quái gì được nữa!

Có những “cựu” cảm tình viên cs, “hùa” viên cs (loại này rất đông đảo – Họ hầu như mù tịt về cs nhưng lại thích làm dáng cs; lọai “Nếu là chim tôi sẽ là bồ câu trắng / Nếu là hoa tôi sẽ là hoa hướng dương / Nếu là người tôi sẽ là người cộng sản…" Người quốc gia cỡ phó thường dân thôi cũng hiểu là cs không phải là bồ câu trắng; và cs cũng chẳng có ưa gì hoa hướng dương, hoa hướng âm gì ráo trọi!) thích và mơ tưởng thiên đường bánh vẽ cs; ăn cơm quốc gia thờ ma cs. Đám đông này trước đây rất ồn áo, đã từng nhẩy múa điên cuồng theo nhịp đập trống bịp bợm của cs rồi bây giờ rất buồn; đành phải im lặng vì cái thực tế cs quá bẽ bàng làm họ không thể nói và làm gì hơn để biện minh cho cái sự kiện “bé cái lầm” của mình.

Có những gia đình gồm nhiều thế hệ dù không bao giờ chấp nhận cs nhưng không tìm được lối thoát thân. Họ rất buồn vì phải đón chịu tất cả những trận đòn thù hận, tù đày, bao vây kinh tế… từ mafia cs.

Có trên 3 triệu người tị nạn ở hải ngoại rất buồn, nhìn về ngày 30/4 như một ngày quốc hận, một tháng Tư đen; một ngày đau đớn cay đắng nhiều nước mắt nhất trong suốt 4000 ngàn năm lịch sử dân tộc Việt.

Ai thắng? Ai thua?

Sau một cuộc chiến tranh thì phải có kẻ chiến thắng, người bại trận. Cứ theo luận điệu như csvn đang “ăn mừng” thì mọi người phải hiểu là “Mĩ và Ngụy đã thua?!” Mà có thiệt vậy không hà?

Hãy nhìn nước (“đế quốc”) Mỹ từ ngày 30/4/1975 cho đến hôm nay. Họ không có tỏ cái vẻ gì là một nước bại trận. Họ vẫn là một cường quốc mà các lãnh đạo csvn lần lượt thay phiên nhau xin đến thăm viếng (sau cấm vận!) Các chuyến thăm viếng của lãnh tụ csvn vẫn được báo lề phải cs tường trình như một niềm hãnh diện “Chủ tịch, Thủ tướng nước ta được Tổng thống Mĩ tiếp đón tại Nhà trắng, tại phòng Bầu dục, tại vườn Hồng…” Rõ ràng là các Tổng thống Clinton , Bush đã đến Việt Nam mà vẫn được dân chúng Việt Nam niềm nở háo hức tiếp đón… Họ không hề đến Việt Nam để ký giấy đầu hàng hay xin xỏ csvn bất cứ chuyện gì?!

“Ngụy” (một danh từ có nghĩa xấu mà cs đã gán cho tất cả người dân, chính quyền hay bất cứ sự kiện gì có dính dáng đến “đế quốc Mĩ!”) có thua thiệt không? Chiến tranh đã chấm dứt nhưng sự tranh đấu của “Ngụy” đâu đã thấy chấm dứt! Thực ra, sự tranh đấu của “Ngụy” mỗi ngày mỗi mạnh hơn; nhất là từ hải ngoại. Cờ vàng vẫn tung bay hiên ngang oai hùng trước công đường thế giới trong khi cờ đỏ cs phải lén lút đi vào cửa sau. Cơ hội “Ngụy quân, Ngụy quyền” trở lại Việt Nam (khi csvn bị giải thể) không còn là chuyện “không tưởng.” Người dân Việt Nam (nhất là dân miền Nam) đâu còn dấu diếm e dè gì khi họ cần tỏ thái độ là “thà sống với Mỹ làm ‘Ngụy’ như người Nhật, Đức, Nam hàn, Đài loan… vẫn còn hơn là ‘vinh quang’ cúi đầu dưới “4 cái tốt” và “16 chữ vàng” của kẻ tử thù truyền kiếp TQ. Chẳng thà sống lưu vong làm ‘Ngụy’ hơn là sống dưới cái nhà tù lớn CSVN lập ra.”

Cs một mặt kêu gọi "hòa giải và hòa hợp dân tộc" mà tại sao mặt khác, bao nhiêu năm trôi qua, vẫn gọi những người “phía bên kia chiến tuyến” là “ngụy quân, ngụy quyền?” Vẫn gọi Mỹ là “đế quốc tư bản” mà thích gởi con cháu họ sang Mỹ du học để được học… cách bóc lột của đế quốc tư bản?

Ôi cộng sản Việt Nam !!! Một sự nghịch lý lố bịch cuối cùng còn xót lại trên hành tinh này!

Ai giải phóng ai? Giải phóng cái gì?

Theo tự điển tiếng Việt, chữ “Giải phóng” có nghĩa là “Làm cho thoát khỏi tình trạng bị nô dịch, bị chiếm đóng. Làm cho được tự do; thoát khỏi sự ràng buộc bất hợp lý.”

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn người dân miền Nam lại bị cưỡng chế nô dịch (đi tù, đi kinh tế mới, bị quản chế, bị cô lập, hoàn toàn mất tự do, mất quyền công dân…) Người dân miền Nam có cần được cs bắc Việt giải phóng họ hay không? Nếu gọi là “đã được giải phóng” thì đời sống của họ phải khá hơn, tốt đẹp hơn lúc chưa “được giải phóng.” Hãy nhìn, đọc những con số không biết nói dối. Bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn - rời Việt Nam năm 1981 sang định cư tại Úc năm 1982 là Giáo sư Đại học New South Wales (Úc) - đã trình bày một cách cụ thể kết quả (bằng số) trước và sau ngày “giải phóng” 30 tháng 4 năm 1975 như sau:
(Trích nguyên văn – tuy hơi dài nhưng đáng đọc; đáng đồng tiền bát gạo)
Tính từ ngày 30/4/1975 . Nhân dịp đọc một cuốn sách cũ, tôi thấy có vài thông tin về kinh tế của miền nam Việt Nam trước 1975 cũng có ý nghĩa so sánh nào đó ...

Về thu nhập bình quân, theo “số liệu kinh tế - GDP” bình quân, ở miền Nam vào thời trước 1975 là 150 USD. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan . Ba mươi sáu năm sau, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD).

Về giáo dục đại chúng, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, năm 1973, tỉ lệ dân số biết đọc, biết viết là 70%, rất cao so với các nước Á châu láng giềng hồi đó. Hiện nay, tỉ lệ dân số biết đọc và viết là 90%. Ba mươi sáu năm, chỉ tăng 20%?

Hôm nọ, khi tôi viết rằng thời trước 1975, du học sinh Thái Lan sang đại học miền Nam học, còn bây giờ thì mình sang đó... du học. Chẳng có gì xấu hổ. Người ta giỏi hơn mình thì mình học người ta. Nhưng nói ra sự thật ấy làm tôi nao lòng và buồn về sử đổi đời. Có người từ miền Bắc hỏi tôi có bằng chứng gì giáo dục miền Nam tốt hơn bây giờ? Tôi nói chính tôi là sản phẩm của nền giáo dục thời trước 1975 đây. Còn hàng vạn "sản phẩm" của nền giáo dục trước 1975 đang ở nước ngoài và họ cũng thành danh, thành tài. Đó là một bằng chứng của nền giáo dục trước kia.

Về trình độ của giới cầm quyền, 36 năm sau nước (CHXHCN) ta đã có 50% bộ trưởng có văn bằng tiến sĩ [http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-08-08-trinh-do-hoc-van-bo-truong-]. Thời trước 1975, tôi không có con số chính xác, nhưng chỉ nhớ số bộ trưởng có bằng tiến sĩ chỉ đếm đầu ngón tay. Ngay cả ông Hoàng Đức Nhã với bằng thạc sĩ (MS degree) nhưng được giới báo chí và công chúng nể lắm rồi. Nhưng theo Giáo sư Đặng Phong thì tuy họ học không cao, nhưng trình độ thật thì cao và đáng nể: “Cần phải phân biệt rõ: nền chính trị thối nát (không phải tôi nói, mà người Mỹ và người trong giới chính trị Sài Gòn nói) với bộ máy kinh tế chuyên nghiệp. Những cấp cao nhất, tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng... phần lớn là dân võ biền, là lính sang làm chính trị như Thiệu, Kỳ, Khiêm ... Nói chung, họ không có mấy kinh nghiệm để điều hành một xã hội dân sự văn minh. Nhưng điều đặc biệt là cấp dưới của họ (bộ trưởng, tổng trưởng...) và các chuyên gia hàng đầu đều là những người có học vấn, kiến thức kinh tế - xã hội rất giỏi để vận hành khối lượng tiền, hàng cực lớn. Bằng chứng là Nam VN khi đó đã có hệ thống ngân hàng, hệ thống thuế, bảo hiểm... trình độ quốc tế, hoạt động toàn cầu. Dân đã xài séc (checks), các công cụ tín dụng, công sở xài máy tính IBM, tổ chức nền kinh tế đã sử dụng các phương tiện hiện đại, mà bây giờ chúng ta mới chập chững tiến vào.”

Ngày xưa (thời VNCH) cũng có tham nhũng, nhưng hình như bản chất hơi khác với thời nay. Ngày xưa, giới quan chức VNCH tham nhũng chủ yếu là ăn chận tiền tài trợ của Mĩ. Thật ra, tham nhũng của VNCH là có lợi cho “cách mạng,” vì lợi dụng đó mà du kích mới có tiếp viện! Tham nhũng thời VNCH theo Gs Đặng Phong là “một nguồn hậu cần quan trọng giúp chúng ta thành người chiến thắng.” Còn ngày nay, cứ như báo chí phản ảnh thì quan chức ăn chận tiền của… dân. Họ cũng ăn chận (hay ăn cắp?) tài nguyên đất nước. Hình thức tham nhũng nào cũng nguy hiểm, nhưng ăn chận tiền dân và tài nguyên quốc gia thì đúng là nguy hiểm và […]. Giáo sư Đặng Phong nói: “Tham nhũng cũng là một cách ra đời tầng lớp hữu sản cho nên đạo lý kém hơn, chụp giật hơn, lưu manh hơn.”

Ngày 30/4 thường được nhắc đến như là một “ngày chiến thắng,” “ngày giải phóng miền Nam." Đứng trên quan điểm kẻ thắng người thua, thì chắc cũng có lí do để gọi đó là ngày chiến thắng. Nhưng thử hỏi với cả 4 triệu (?) người phải bỏ mạng trong cuộc chiến đó, cộng thêm hàng trăm ngàn bỏ mạng trên biển, và 3 triệu người lưu vong, thì chiến thắng đó có vẻ vang không? Chẳng lẽ ăn mừng chiến thắng trên xác người? Còn giải phóng thì có nghĩa là giải phóng từ nô lệ, gông cùm của bọn đế quốc, nhưng trong thực tế ngày xưa đâu có nô lệ, và bọn đế quốc Mĩ cũng đâu có gông cùm gì; chúng vẫn phát triển giáo dục tốt, hệ thống y tế tốt, kinh tế gia đình khá no ấm, học trò lễ phép, báo chí nói khá thoải mái (diễu cợt ông Thiệu, ông Kỳ liên miên). Do đó, hai chữ “giải phóng” e rằng không thích hợp với thực tế của những con số vừa trình bày.

(nguồn Nguyễn Văn Tuấn Blog)
(hết trích)
Như đã trình bày hơi dài dòng, “giải phóng” là thay đổi cái (chế độ chính trị) cũ bằng một cái khác tốt đẹp hơn. Ai cũng biết nhạc sĩ thân cộng Trịnh Công Sơn, sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã lên đài phát thanh Sàigòn kêu gọi “anh em văn nghệ sĩ và học sinh sinh viên miền Nam Việt Nam” như sau:
(Tôi xin ghi lại nguyên văn từ tài liệu audio của “youTube”)
Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=KSnXiyymlKk&feature=related

“Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động được gặp và nói chuyện với tất cả anh em văn nghệ sĩ ở miền Nam Việt Nam này (!). Hôm nay (ngày 30 tháng 4 năm 1975) là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta. Đó là ngày mà chúng ta đã ‘giải phóng’ hoàn toàn đất nước Việt Nam; cũng như những mơ ước của các bạn (?) bấy lâu về sự độc lập, tự do và thống nhất… Hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả… Chúng tôi đang ở đài phát thanh Sàigòn… Tôi xin hát lại cái bài ‘Nối vòng tay lớn…’ Hôm nay thật sự’ cái vòng tay lớn’ đã được nối kết… Rừng núi dang tay nối lại biển xa… ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà..”(sic)

Cũng “cái ngày hôm nay,” ai đã từng nghe bài “Em còn nhớ hay em đã quên” của con vẹt TCS thì chắc phải nhớ câu hát “Em ra đi nơi này vẫn thế.” Trịnh Công Sơn viết:
“Em ra đi nơi này vẫn thế
Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ”

Hay nhỉ? “Nơi này vẫn thế”là thế nào? Tại sao lại có sự mù lòa lạ lùng như vậy? Chuyện “Lá vẫn xanh” là chuyện dễ hiểu, tất nhiên. Bạo quyền và chủ nghĩa cs đâu có tài thánh nào đổi mầu lá cây từ xanh sang đỏ được? “Nơi này vẫn thế”là thế nào? Chỉ một thời gian ngắn sau khi lên đài phát thanh Sàigòn “kêu gàovà hót” “rừng núi dang tay nối lại biển xa…” để “mừng ngày chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước” thì Trịnh Công Sơn đã phải trở ra sống ở Huế và “tham gia” vào những chuyến lao động trồng khoai sắn trên những cánh đồng còn đầy rẫy mìn ở Cồn Thiên, gần vĩ tuyến 17 chứ đâu có còn được các tướng tá của chính phủ Sàigòn che chở cho sống ung dung và tự do đi hát nhạc phản chiến ở Sàigòn…

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nếu toàn dân miền Nam được sống một cuộc sống “vẫn thế” thì đâu có hàng triệu người dân Việt phải liều mạng vượt biên vượt biển đi tị nạn ở nước ngoài (Ậy! Đến ngay cả cô “Em” nào đó của TCS cũng phải “ra đi” một cách “phản động.”) Người ở lại đã và đang sống một cuộc sống thê thảm nhất trong lịch sử dân tộc chứ đâu có cái chuyện “Nơi này vẫn thế?” Thật là chuyện trơ trẽn! Ốt dột!

Anh là ai? Ai là anh?

Trong chiến tranh, anh (cs) tự cho anh là anh hùng vì anh có can đảm ném lựu đạn, gài bom plastic, pháo kích vào chỗ đông dân lành tự nhiên như “người Hà lội.” Anh tự hào là anh rất giỏi về môn phá hoại cầu cống, đắp mô đường xá. Anh tự hào có can đảm cầm súng bắn, ám sát, thủ tiêu, thảm sát hàng trăm hàng nghìn người không có cái gì để tự vệ Anh vẫn cho anh là anh hùng là vô địch vì anh đã đứng lên, đã thành công trong việc giải phóng dân tộc trong khi các nước láng giềng của anh không cần có lãnh tụ kiệt xuất như HCM và cũng chẳng cần một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vinh quang như của anh mà dân họ vẫn độc lập ấm no tự do hơn dân tộc anh!…

Sau chiến tranh anh (cs) chứng tỏ anh là một thằng hèn nhất lịch sử. Anh đem đất liền và đảo của tiền nhân dâng nhượng cho TQ rồi anh bảo đó là chuyện nhỏ. Anh không dám phản kháng và anh cũng cấm dân của anh biểu tình lên tiếng bày tỏ phản kháng khi TQ chiếm đất lấn biển. Anh làm ngơ khi dân anh bị TQ tàn sát ở ngoài biền, ở biên giới. Anh làm ngơ đế các đối tác TQ đánh đập dân anh ngay ở quanh các vùng nội địa mà anh cho phép họ khai thác tài nguyên quốc gia. Anh rất hèn khi anh cưỡng bức tài sản, đất đai của dân nghèo. Anh rất hèn hạ bịt mồm, đánh xập các tiếng nói oan ức chính đáng của dân.
Chẳng sớm thì muộn, anh sẽ đền tội với dân… Chân lý đó chỉ là vấn đề thời gian. Anh cũng biết thừa là cái bánh xe thời cuộc sẽ phải lăn theo chiều hướng không còn thuận lợi cho chính sách cướp bóc sát nhân của anh… Cho nên trong lúc này, khi còn nắm chút quyền hành, anh cố vơ vét tham nhũng càng nhiều càng tốt và anh dự định xây sẵn một cái ống cống để anh có cơ hội chui, vượt thoát…

Tương lai của các anh có lẽ cũng chẳng sáng sủa gì hơn kết cuộc của con chuột Gaddafi.

Chờ xem…

Trần Văn Giang
Tháng 4/2012

_______
Phụ chú:
Xin mời quý vị đọc thêm hai bài thơ được tôi ghi lại từ một “phản hồi” (reply) trên trang mạng “Đàn Chim Việt:”
Ngoài Bắc có một anh điên điên khùng khùng đi đến đền Kiếp Bạc (đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) xướng bài thơ ngạo mạn như sau:
Bác anh hùng tôi cũng anh hùng
Tôi, Bác cùng chung nghiệp kiếm cung
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng
Bác có linh thiêng "đù" một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công.

Bài thơ trên được lưu truyền đến tai một cô gái giang hồ. Cô ta ôm mặt khóc ròng ròng; than thở là đã bất hạnh không được sinh cùng thời với tác giả bài thơ trên. Lời than của cô nàng được thi sĩ dân gian ghi lại như sau:
Bác tôi, tôi bác cũng là người
Mà đã là người “cũng thế thôi!”
Tôi, GÁI GIANG HỒ, vang khắp nước
Bác, TRAI TỨ CHIẾN, cộm muôn nơi
Bác đưa cầy cáo lên bàn độc
Tôi dắt nai tơ đến... chợ trời
Ví thử chúng mình cùng thế hệ
Đẹp duyên Rồng Phượng Bác và Tôi.

TVG
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Quốc Hận
Reply #181 - 14. Apr 2012 , 16:56
 
Tháng Tư lại về - mời đọc  Thơ  của Mẹ Nấm  và bài viết của  Nguyễn Thu Trâm ( trong nước )


TỘI ÁC HỒ CHÍ MINH



THÁNG TƯ VỀ

Mẹ Nấm


Kính thưa quý vị,
Kính thưa quý thân hữu, quý chiến hữu cùng quý Niên trưởng,
Ôi Tháng Tư. Tháng ly tán của cả một dân tộc. Bao năm rồi thịt có liền da? Cây cầu xưa nay đã nối đôi bờ. Trong ký ức vẫn không hề hàn gắn... Tháng Tư. Triệu người ăn mừng chiến thắng. Triệu người vẫn nặng lòng với những chuyến đi...



Ngày còn thơ…
tháng Tư
rợp trời sắc đỏ,
cờ hoa và biểu ngữ chào mừng.


Những bài học lịch sử
viết về chiến thắng vẻ vang
giải phóng dân tộc
thống nhất đất nước...
...Vui sướng và tự hào..
bởi.. con trẻ
cùng..
Chiếc khăn quàng đỏ xiết chặt tuổi niên thiếu,
làm sao thấy được mất mát của chiến tranh?
Những tháng thơ ngày dại
quay cuồng trong cơn lũ giáo điều
cuốn trôi sự thật...


Ngày xanh trôi qua,
bỏ lại sau lưng mùa thu tháng Tám.
Tháng Tư bây giờ
không chỉ sắc cờ tươi đỏ..
Có màu xám của ký ức những người thân quen,
Có thao thức về một vùng cao nguyên bỏ lại
Người đi xa trăn trở một quê hương...


Tháng Tư,
không còn là niềm vui thơ dại,
được nghỉ học cùng những chuyến chơi xa...


Tháng Tư,
Có máu của những người da vàng mũi tẹt
nằm xuống chính bởi đồng bào mình…





Tháng Tư...
Có nỗi buồn của kẻ đi xa,
những ký ức hãi hùng không bao giờ phai nhạt,
Giọt nước mắt sau nhiều năm cô đọng,
Nuốt vào tim,
uất nghẹn hai tiếng...
Quê Hương!


Ôi Tháng Tư,
Tháng ly tán của cả một dân tộc.
Bao năm rồi thịt có liền da?
Cây cầu xưa nay đã nối đôi bờ
Trong ký ức vẫn không hề hàn gắn.
Tháng Tư,
Triệu người ăn mừng chiến thắng…
Triệu người vẫn nặng lòng với những chuyến đi..





Dân tộc này
đi qua bao tháng Tư
đỏ lửa,
đỏ ứa tim,
đỏ bật óc,
đỏ nát thịt,
đỏ xé da...
Vẫn chưa tìm ra sự kết nối đôi miền
và sự thật về một tháng Tư chia cắt,
vẫn bị chôn vùi bởi lịch sử được lãnh lương...


Tháng Tư... một ngày đầy nắng..
Nghĩ về đất nước hình chữ S liền một cõi,
Nghĩ về những người đi qua cuộc chiến
..từ hai phía..
Không chỉ là niềm vui, nước mắt, nỗi buồn…
..còn có cả sự hòa bình trong tâm tưởng..


Liệu có quá xa vời?
Khi sự thật mãi chưa được gọi tên???





Mẹ Nấm


VIẾT CHO THÁNG TƯ ĐEN:
GIẢI PHÓNG GÌ? AI GIẢI PHÓNG AI?


Nguyễn Thu Trâm (2012)

Kính thưa quý vị,


Một tháng Tư nữa lại về!


Sài gòn, Hà Nội và khắp các đô thị ngoài Bắc trong Nam đang giăng đầy cờ xí, băng rôn, khẩu hiệu ca ngợi “bác” ca ngợi “đảng” ca ngợi “thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh thần thánh, đánh cho Mỹ cút, dánh cho Ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất nước nhà, giang sơn thu về một mối”. Nhưng thực tế có phải như vậy không?
Dẫu không nói ra, nhưng trong tâm thức của mọi người dân Việt từ bờ nam sông Bến Hải cho đến nơi tận cùng của vùng đất Mũi Cà Mau ai ai cũng đều thấy rằng đã 37 năm rồi đất nước Việt Nam đắm chìm trong tăm tối, dân tộc Việt Nam bị đọa đày trong cảnh thê lương, người dân Việt vốn quật cường, vốn bất khuất trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, ấy vậy mà chỉ trong vòng 37 năm đó đã biến thành một dân tộc nhu nhược, đớn hèn bởi chính sách cai trị sắt máu của chế độ độc tài đảng trị đương quyền.



Bánh mì nóng hổi Sài gòn năm xưa:
Còn nhớ, vào những năm cuối của thập kỷ 60s và những năm đầu của thập kỷ 70s của thế kỷ trước, dẫu cộng quân Bắc Việt vẫn tăng cường các cuộc khủng bố bằng bom mìn bằng đạn pháo vào các đô thị của Miền Nam, dẫu Việt cộng vẫn cứ phá đường, phá cầu hay vẫn tiến hành các cuộc tấn công chớp nhoáng vào các làng mạc ven đô, nhưng đời sống của đồng bào Nam Việt thuở đó vẫn là một mơ ước của người dân ở các nước láng giềng. Nam Kỳ Lục Tỉnh dầu mỗi năm chỉ canh tác một vụ lúa thôi, nhưng cũng đủ cho cả Miền Nam được trù phú và ngoại trừ cảnh máu đổ đầu rơi do những cuộc khủng bố, pháo kích của cộng sản, thì còn lại, người dân vẫn quanh năm được sống trong an lạc và sung túc. Những từ ngữ đói nghèo dường như chỉ nghe thấy trong truyện cổ tích mà thôi.







Thế rồi vào tháng Tư năm 1975, với chiêu bài gải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, “bác và đảng” đã xua quân vào xâm chiếm Miền Nam và đã biến hàng chục triệu người dân vô tội trở thành nạn nhân của cuộc “chiến tranh thần thánh” đó! Từ Quảng Trị, Đồng Hà cho đến các tỉnh thuộc Miền Cao Nguyên Trung Phần hàng chục triệu đồng bào bỏ cửa bỏ nhà đi lánh nạn cộng sản, và trên đường lánh nạn đó, hàng triệu người đã vong mạng vì bom mìn vì đại pháo của Nga Sô của Trung cộng mà “bác và đảng” đã du nhập về để “giải phóng  Miền Nam”.


Nhưng đã hết đâu! Sau ngày 30 tháng  4 năm 1975, để trả thù những Sỹ quan, Hạ sỹ quan, và các chính khách trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, “đảng và bác” đã bắt bớ 1040.000 “ngụy quân ngụy quyền”, đưa đi giam cầm, đày đọa tại các trại tù được xây dựng ở những chốn rừng thiêng nước độc mà “bác và đảng” gọi là “Trại cải tạo” để rồi 95.000 người đã chết, chết một cách tức tửi vì bị tra tấn nhục hình, vì đói khát, và vì bệnh tật.


Nhưng đã hết đâu! Từ năm 1975 cho đến 1987, “đảng và bác” cũng đã kết án tử hình, và hành quyết 100.500 người vì các tội “phản động” và “bóc lột nhân dân” bởi những người đó là chủ sở hữu của một số nhà máy xí nghiệp, hay một số cơ sở kỹ nghệ và thương mại ở Miền Nam để làm cho Miền Nam được dân giàu nước mạnh.


Nhưng đã hết đâu! Công cuộc “giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước của bác và đảng” đã khiến hơn 3.000.000 người Việt nam, mà không ít là nhân sỹ trí thức phải vượt ngàn trùng sóng gió của đại dương để đi tìm tự do, và ít nhất là 1.500.000 người đã chết do bị “các anh bộ đội cụ Hồ” bắn chết vì tội “phản quốc” hoặc vì bão tố hay vi rơi vào tay hải tặc. Một tư liệu đáng tin cậy của các tổ chức nhân quyền của Liên Hiệp Quốc thống kê rằng  chỉ từ “giải phóng miền Nam” “bác và đảng” đã trực tiếp và gián tiếp sát hại 1.750.000 người kể cả người già và trẻ em, khi trong tay họ không có một tấc sắt! Phải chăng đây là “Giải Phóng Dân Tộc” theo kiểu Hồ Chí Minh? Một kiểu “giải phóng” con người ra khỏi sự tự do, dân chủ, nhân quyền, “giải phóng” đời sống con người ra khỏi sự văn minh trù phú và thịnh vượng, để đưa con người trở lại đời sống nô lệ, áp bức, bất công mông muội, ngu dốt và đói nghèo!


Chắc chắn rằng không phải chỉ có người dân Việt Nam, mà cả loài người trên thế giới này chẳng ai cần đến cái kiểu “giải phóng” đó của Hồ Chí Minh và cũng chẳng ai mong muốn “thống nhất nước nhà” theo kiểu của cộng sản để rồi sau “cuộc chiến tranh thần thánh để giải phóng quê hương” là một đất nước ly loạn, một quê hương hoang tàn đổ nát với số lượng nhà tù nhiều hơn trường học. Nhà chứa, nhà thổ nhiều hơn chùa chiềng, miếu mạo, thánh đường và đĩ điếm ma cô giang hồ thảo khấu nhiều gấp bội phần lương dân.


Trong tháng Tư này, trên khắp đất nước, nơi nào cũng cờ xí, cũng băng rôn, khẩu hiệu “Nhiệt liệt chào mừng….” nhưng thực tế có như vậy không, hay lòng người vẫn ly loạn, vẫn uất hận, vẫn căm hờn?


Giải phóng gì? Sao 37 năm rồi, từng đoàn dân Việt vẫn lần lượt bỏ nước ra đi?


Giải phóng gì? Sao người dân tôi vẫn bị bưng tai, bịt mắt, sao người yêu nước vẫn bị lao lý tù đày?


Giải phóng gì? Sao giới trí thức từ sinh viên học sinh cho đến các nhà khoa học đều bị bao cấp cả lối tư duy cả cách suy nghĩ và hành động, để chỉ biết cúi đầu?


Giải phóng gì? Sao mỗi năm hàng trăm ngàn thiếu nữ Việt phải đi làm dâu xa xứ để mong cho cha mẹ không phải đói nghèo, cho anh em không còn mù chữ?


Giải phóng gì? Sao 37 năm rồi mà hàng triệu trẻ em Việt nam vẫn còn thất học, lang thang không cửa không nhà? Sao hàng trăm ngàn cụ già và thiếu phụ vẫn phải sống kiếp ăn xin?


Giải phóng gì? Sao mỗi ngày dễ có đến hàng ngàn dân oan tập trung trước các cơ quan công quyền để khiếu kiện, bởi nhà cửa ruộng vườn họ vẫn bị cường hào cưỡng chiếm, bởi đền chùa vẫn bị trưng thu làm kho hợp tác, bởi tu viện thánh đường vẫn bị trấn cướp để biến thành chốn ăn chơi, hoan lạc cho các “đầy tớ nhân dân”?


Giải phóng gì? Sao vẫn “còng” làm cho “thẳng lưng” ăn, để đến nỗi từ công nhân viên chức, đến sinh viên học sinh đều phải kiêm luôn nghề bán trôn nuôi miệng? Nhưng đã hết đâu? Hàng trăm ngàn thiếu nữ Việt Nam, kể cả trẻ em vị thành niên phải đi ra nước ngoài để bán trôn để vừa nuôi thân, vừa nuôi cha mẹ anh chị em ở quê nhà, và sau nhiều đêm bị dập vùi thân xác, rồi dành dụm gửi được cho mẹ ở quê nhà một chút tiền còm, mà vẫn rất tự tin rằng “Chắc Má Tao Mừng Lắm!”. “Giải Phóng Dân Tộc” kiểu Hồ Chí Minh là thế này chăng?






Giải phóng gì? Sao Linh Mục Nguyễn Văn Lý lại bị bịt miệng giữa phiên tòa, rồi lại bị tống giam vào tù ngục ngay cả khi Ngài thọ bệnh nan y?


Giải phóng gì? Sao điếu cày bị bắt giam cầm tra tấn đến mất cả tay, chỉ vì lòng yêu nước mà lên tiếng phản kháng giặc ngoại xâm?


Vào năm 1925, khi đang làm cái bang trên đất Pháp, Hồ Chí Minh viết Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la colonisation française) mà sao thực dân pháp không bắt giam? Vậy ngày nay, nhiều người Việt đang sống trên đất Việt, chỉ viết nhật ký cá nhân, nhưng chưa ai viết Bản án chế độ cộng sản Việt nam mà sao “bác và đảng” đã tống giam họ vào ngục?


Giải phóng gì? Sao lại giam cầm Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng chỉ vì các bạn trẻ yêu nước đó ra tay bảo vệ quyền lợi của người lao động thấp cổ bé họng? Sao lại tiếp tục hành hạ họ trong tù bằng cách giam chung họ với nhưng người mắc bệnh SIDA? “Giải Phóng Dân Tộc” kiểu Hồ Chí Minh là như thế chăng?


Giải phóng gì? Sao Phạm Thanh Nghiên lại bị bắt bớ giam cầm chỉ vì lên tiếng khẳng định chủ quyền biển đảo trước sự xâm chiếm của giặc Tàu và bảo vệ ngư dân trước hành vi cướp giết của chúng?


Giải phóng gì? Sao nhạc sỹ Nguyễn Hữu Cầu bị kết án chung thân chỉ vì dám vạch mặt chỉ tên những con sâu mọt đỏ chuyên đục khoét máu mủ của nhân dân? Sao nhạc sỹ Việt Khang cũng bị bắt giam chỉ vì dám sáng tác những ca khúc nói lên lòng yêu nước thương nòi?



Giải phóng gì? Sao Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ lại bị kết án đến 7 năm tù chỉ vì dám lên tiếng ngăn cản chính phủ dâng bán đất Tây Nguyên cho Hán tặc đến khai thác Bauxite, để lại hiểm họa bùn đỏ khó lường cho cư dân và đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc gia khi hàng trăm ngàn binh lính Trung cộng đến Tây nguyên trong vai những công nhân khai thác Bauxite?



Giải phóng gì? Sao dân nữ Hồ Thị Bích Khương, Mục sư Nguyễn Trung Tôn cùng bị kết án tù chỉ vì dám giúp đở những người dân oan, thấp cổ bé họng đi khiếu kiện? Sao lại bắt người yêu nước Bùi Thị Minh Hằng đi “phục hồi nhân phẩm” chỉ vì Minh Hằng dám tham gia biểu tình chống quân xâm lược bắc phương? Vì yêu nước là mất nhân phẩm, là cần phải được phục hồi chăng? Hay ngược lại, cả bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt nam, cả 3 triệu đảng viên đảng cộng sản phải cần được phục hồi nhân phẩm, vì khi tham gia vào đảng cộng sản để mang đau thương tang tóc đến cho quê hương, để nhượng bán đất đai của tổ quốc cho Hán tặc thì quý vị đã mất hết nhân phẩm, đã không còn tư cách để làm người Việt nữa rồi!



Giải phóng gì? Sao công an lại trở thành thanh gươm bảo vệ chế độ, để muốn cát cổ bao nhiêu người dân lành vô tội và cắt khi nào cũng được? Để rồi nhiều chức sắc tôn giáo phải bị kết án đến chung thân hoặc tử hình, để một Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang phải chịu án tù 10 năm rồi bị quản thúc suốt đời và một Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ lại bị tù không án vĩnh viễn tại gia sau cái án tù chung thân sau ngày "giải phóng" đó?



Và còn quá nhiều nữa những tội ác mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã mang đến cho quê hương đất nước, cho dân tộc Việt Nam qua chiêu bài “giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc” mà trong phạm vi một bài tâm bút, người viết không thể nào nêu ra hết nơi đây. Chỉ mong rằng 96 triệu đồng bào Việt Nam nhận thức ra rằng những cờ xí đang giăng đầy đất nước trong tháng Tư này đã từng nhuộm đẩm máu của người Việt mà chính Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam đã tàn sát vì tham vọng quyền lực của cá nhân và giai cấp. Chỉ mong rằng 96 triệu đồng bào Việt Nam nhận thức được rằng những băng rôn, những biểu ngữ đang giăng khắp nơi trên đất nước, trong tháng Tư này là những lời lên án tội ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam đã tàn sát hàng triệu, hàng triệu con dân Đất Việt cũng qua chiêu bài “giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc”.



Đã quá đủ rồi những tội ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam sau gần một thế kỷ cai trị đất nước và sau tròn 37 năm cưỡng chiếm Miền Nam. Hãy chấm dứt mọi trò lừa bịp nhân dân với đủ loại xão ngôn hoa mỹ. Hãy mạnh dạn công bố với toàn dân Việt nam rằng tháng Tư là tháng Tư đen của toàn dân tộc, và ngày 30 tháng tư là ngày quốc nhục của Việt Nam, bới đó là thời điểm mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam chính thức đưa đất nước Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá, và là thời điểm mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam biến Nước Việt nam thành một nhà tù lớn và mỗi người dân Việt là một tù nhân trong cái nhà tù lớn đó, và 30 tháng Tư năm 1975 cũng là thời điểm mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam đưa cả dân tộc Việt Nam trở lại thời kỳ mông muội buổi hồng hoang.



Hãy chấm dứt mọi luận điệu xảo ngôn để lừa bịp dân tộc.
Hãy trả lại quyền sống quyền làm người cho dân tộc Việt nam.
Hãy trả lại đất nước Việt Nam cho dân tộc Việt Nam, bởi đó không phải là tài sản riêng tư của Hồ Chí Minh hay của đảng cộng sản.
[size=18][/size]
Back to top
« Last Edit: 14. Apr 2012 , 17:00 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Quốc Hận
Reply #182 - 15. Apr 2012 , 15:49
 


  Cố thi sĩ Vương Đức Lệ



Sàigòn và Tháng Tư Đen-

Tháng Tư đen mặt trời không đủ sáng
Chiều không màu bóng tối bủa sau lưng
Ngày vỡ ra đêm sâu từng mảng trắng
Ngó trân trân Em giấu mặt Sàigòn

Tháng Tư đen rợp trời hoa phượng đỏ
Máu bầm xanh rơi lả tả sân trường
Đêm ngắn lại, ngày căng dài đổ lửa
Bóng Hạ vàng từng vết rạn trong gương

Tháng Tư đen người phố phường chạm mặt
Sững nhìn nhau mà chẳng thấy nhau đâu!
Ta hụt hẫng giữa hai bờ hư thực
Thực và hư  -  hai mặt một cơn sầu!

Tháng Tư đen Sàigòn như ngộp thở
Hàng cây già thành phố chit khăn tang
Chân bước  vội trên đường quen thuộc cũ
Lòng ngổn ngang tram nỗi nhớ kinh hoàng

Tháng Tư đen hỏi ai còn ai mất
Bạn bè ta người ở, kẻ ra đi
Còn và mất, ta cũng lòng quặn thắt
Thịt da này núi cách núi sông chia.

Tháng Tư đen hiện về vây quá khứ
Ta còn dăm ngày cuối cũng tha hương
Và xa lắc quê nhà không thấy nữa
Giữa đêm trường vang khúc nhạc bi thương

Tháng Tư đen Sàigòn từng mảnh vỡ
Nhập hồn ta thành cõi nhớ không tên
Em vẫn đó cuối chân trời phượng đỏ
Ta bên này chờ hóa thạch con tim

Tháng Tư đen mặt trời như chảy máu
Máu Sàigòn và máu của riêng ta
Kỷ niệm cũ bồi hồi ta cất giấu
Vết thương đời vá mãi chẳng liền da.

VƯƠNG ĐỨC LỆ

[Trích thi phẩm THƠ GIỮA ĐỜI THƯỜNG, Tiếng Quê Hương, Virginia xb năm 2005, trang 26-27]      
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Quốc Hận
Reply #183 - 15. Apr 2012 , 17:36
 



Xin mời cả nhà , lắng lòng trong phút giây , tưởng nhớ 1 quê hương  ngày nào và tháng tư năm nào...Có bao giờ cho tôi quên nhỉ.. Cry Cry Cry Cry Cry CryNãy giờ vào You tube...càng coi càng thấy xót xa    Cry Cry Cry Cry 
Back to top
« Last Edit: 15. Apr 2012 , 19:46 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Quốc Hận
Reply #184 - 19. Apr 2012 , 19:15
 
Mời  đọc Truyện Hay 


NGÀY GIỖ CHỒNG


“Anh yêu,

     Đêm đã về khuya mà em vẫn còn ngồi bên mâm cơm cúng anh ban chiều giờ nầy đã lạnh ngắt. Anh ơi, đêm khuya vắng lặng và hoang vu vô cùng. Ước gì giờ nầy có anh bên em nhỉ, dù chỉ là một bóng ma để em nhìn lại nụ cười kiêu hãnh trên môi anh cho vơi đi những ngày nhớ thương.
     Anh, sau ngày anh chết trong trại tù cải tạo, người ta không cho em biết đích xác ngày chết của anh và người ta cũng không nhớ đã vùi dập thân xác anh nơi nào để chỉ cho em đem về chôn cất nên em chọn ngày 30-4, ngày đau thương của đất nươc để làm
“Ngày Giỗ Chồng”.
      Anh còn nhớ tấm ảnh anh chụp ngày ra trường không? Bộ quân phục ủi hồ thẳng nếp trông anh thật là oai. Sau ngày anh chết, em chọn tấm ảnh đó lồng khung kính để thờ nhưng chỉ được hai tuần lễ thì công an đến nhà đập nát khung hình và xe tấm ảnh anh ra từng mảnh. Họ còn bắt em lên trình diện trụ sở để nghe họ giáo dục. Theo sự giáo dục của họ thì các anh là những người bán nước, mang nợ máu với đồng bào không xứng đáng được nhân dân thờ phượng. Chắc anh cũng biết em đau đớn đến ngần nào trước những lời sỉ nhục của họ đối với linh hồn anh và các chiến hữu, đồng đội của anh.
Đó chỉ là một trong vô số những điều phi lý mà em và đồng bào Miền Nam phải giả lơ cho qua những ngày đen tối của đất nươc. Vì vậy bàn thờ của anh bây giờ đơn sơ lắm. Chi có một tấm hình nhỏ xíu chụp lúc anh đứng ở khuôn viên Đại Họa Sư Phạm Sài Gòn  khi anh đang theo hoc ở đó và một cái lọ đổ đầy cát để cắm nhang. Anh hiện diện trong nhà rất khiêm nhường nhưng hình bóng anh tỏa khắp trong nhà, ngoài ngõ. Em tin tưởng linh hồn anh vẫn quấn quít bên em để an ủi, để vỗ về  và để nuôi nấng trong em ngọn lửa ấm áp của tình yêu chúng ta.
      Trong bóng đêm dưới ngọn đèn dầu leo lét, em lật từng trang thư ngày cũ... những trang thư phải xé dọc, xé ngang bỏ hết những địa danh anh đã từng tham chiến, bỏ hết những từ ngữ nhà binh để chỉ còn thuần là xấp thư tình của hai kẻ yêu nhau hầu tránh những sự soi mói của những kẻ cầm quyền để mà còn giữ được cho đến bây giờ. Gia tài của em đó! Em hằng gối đầu, nâng niu mở ra đọc mỗi lần thương nhớ anh.
      Anh đã không phụ lòng người mẹ hiền gạt nước mắt trao đứa con vừa khôn lớn cho đất nước. Anh cũng không phụ lòng mái trường Võ Bị đã đào tạo anh trở thành người trai thời chiến, anh cũng không phụ lòng những đồng đội, chiến hữu của anh và anh cũng không phụ lòng đồng bào Miền Nam trao cho anh trách nhiệm ngăn chận, chống giữ làn sóng đỏ xâm lăng từ Miền Bắc cho nên cuối cùng chịu chung số phận lao tù cộng sản. Và anh đã chết trong lao tù cộng sản, chết một cách âm thầm, tức tưởi, không mồ mả. Nhưng hề gì, đã có hồn thiêng sông núi ấp ủ ru anh, phải không anh?
      Làm sao em quên được những chuyến viếng thăm anh ở quân trường. Gặp anh với cái đầu hớt cao nhẵn bóng, gương mặt sạm nắng, thân hình đen đúa chẳng giống ai. Nhìn anh, vừa hãnh diện vừa thương anh để rồi mỗi cuối tuần em phải xách, phải mang, phải vác đi thăm nuôi và để biết những cơ cực đầu tiên khi có người yêu là lính. Sau đó, anh ra trường và ra đơn vị em lại lần mò đi thăm anh. Từ những địa danh lạ hoắc, xa lắc xa lơ đến những tiền đồn heo hút đều không cản được đôi chân nhỏ bé của em. Tự điển trong tim em đã ghi thêm những từ ngữ nhà binh dễ thương, dễ nhớ. Em đã thuộc địa lý nhiều hơn mỗi khi anh lê bước chân chiến binh đến những địa danh mới và đêm đêm chùn lòng lo sợ cho anh khi những tiếng pháo kích nổ vang rền, hỏa châu sáng rực bầu trời, tiếng đại bác vọng về xa xa. Đời linh dãi dầu sương gió với những bữa cơm ăn không được no, đêm ngủ không trọn vẹn, tình đồng đội gắn bó. Em đã tập quen dần những khổ cực, vui buồn của các anh. Đêm đêm, không chỉ riêng em mà hầu hết những bà mẹ già, những người vợ, người yêu của lính âm thầm khấn vái cho các anh được bình an và cầu nguyện cho lòai quỷ đỏ phương Bắc hồi tâm từ bỏ tham vọng thôn tính Miền Nam để cho đất nước được thanh bình. Chỉ tội nghiệp cho thế hệ của chúng mình sinh ra trong thời chiến, lớn lên chưa vui trọn niềm vui đã phải đối diện với bom đạn, chết chóc
và lòng lúc nào cũng lo lắng không yên.
      Em nhớ đến ngày cưới của hai đứa mình, một mình em lo toan mọi thứ từ cái thiệp mời, đến cái áo cưới. Đã thế cận ngày mà chưa thấy anh về, em rất giận anh, nhiều lúc thấy tủi thân. Nhưng kịp nghĩ lại những gian khổ của các anh, đến những giấc ngủ không tròn, đến những bữa ăn vội vã với cơm sấy, mì Quân Tiếp Vụ, thiếu thốn đủ mọi thứ em lại trách em quà ích kỷ, hẹp hòi. Sau đám cưới bốn ngày anh lại vác ba-lô lên đường để lại mình em chiếc bóng. Rồi con ra đời anh vẫn biền biệt, ngày phép càng lúc càng vắng vì chiến cuộc đang leo thang. Em ngày ngày bồng con tựa cửa trông chồng mà lòng héo hắt liên tưởng đến Hòn Vọng Phu và chia xẻ nỗi lòng với người chinh phụ
trong Chinh Phụ Ngâm. Má bảo anh gàn, không chịu để cho má chạy chọt lo lót hầu khỏi phải đi lính hoặc được làm việc ở văn phòng gần nhà mà lại thản nhiên nhận lệnh thuyên chuyển đi xa. Nhưng em hiểu anh lắm, em vẫn biết anh cũng thèm thuồng được ôm ấp đứa con yêu, thèm cái không khí hạnh phúc gia đình bên vợ con và thèm cái thảnh thơi của lính văn phòng, của dân thành phố nhưng anh đã không làm vậy vì đất nước chưa yên.
      Chiến tranh vẫn tiếp diễn, em vẫn ôm con mòn mỏi đợi chờ. Cho đến một ngày em ẵm con lên đơn vị thăm anh. Anh sững sờ vài giây, rồi ào tới ôm con mắt rướm lệ sung sướng vì đã được làm cha. Sau giây phút vui mừng đó, em thoáng thấy trong đôi mắt anh vẻ lo âu bởi vì nơi anh đóng quân bất an và em nghe anh cất tiếng thở dài nhè nhẹ. Em không đành lòng chút nào vì nếu số phải chết, em cầu nguyện cho chúng mình cùng chết bên nhau chứ đừng xui khiến cảnh kẻ ở người đi. Ở trại gia binh hàng ngày dù thiếu thốn không yen ổn nhưng mẹ con em vẫn vui hơn khi được gần gũi anh và chia xẻ với anh những khổ cực, lo âu. Nhiều đêm đang ngủ phải giật mình ẵm con chạy vội xuống giao thông hào tránh pháo kích. Trong cái lặng thinh của đêm vắng, tiếng đạn pháo kích xé gió vun vút trên đầu nghe thật hãi hùng, tiếp theo là những tiếng nổ kinh hồn. Đất, cát, sỏi, đá, mảnh vụn rơi lào xào trên mái tôn trai gia binh lẫn với tiếng người la khóc,
ánh lửa chập chờn... Máu đổ, nước mắt rơi, vành khăn trắng trên thân hình tiều tụy, người thiếu phụ lảo đảo ngã quị bên nấm mồ chưa đắp. Ai đó anh? Một đồng đội vừa mới ngã xuống đêm qua đã làm anh nghiến răng đau đớn. Lo sợ, anh lại xua đuổi mẹ con em về thành phố...
     Rồi lịch sử đưa đất nước đến ngày bất hạnh 30-4, Miền Nam bi bức tử! Nhìn các anh vất áo, vất súng chạy thoát thân, mắt dáo dác không dám nhìn người chung quanh, em cơ hồ thấy tim mình vỡ tan từng mảnh. Lại còn xót xa hơn khi thấy quân trang, vũ khí của các anh vứt bỏ đầy đường, đầy phố. Em là người vợ lính còn thấy đau đớn như vậy không biết những người lính như các anh chua xót đấn chừng nào. Em bất lực đứng nhìn những người “chiến thắng” trong những bộ đồ rộng thùng thình, thô kệch, nón cối, dép râu chà đạp lên lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ, lá cờ thân yêu của chúng ta mà ngày nào
các anh đã oai hùng cắm trên cổ thành Quảng Trị làm cho những ngươì ở hậu phương rưng rưng xúc động.
      Lệnh trình diện học tập cải tạo được ban ra, các anh lại khăn gói lên đường để đi vào cảnh tù tội. Nỗi lòng của kẻ vào tù não nề bao nhiêu thì nỗi lòng của những người mẹ già, người vợ, người con của lính còn ở lại cũng xót xa bấy nhiêu. Sau ngày anh chết trong tù, có lần em đi ngang qua một trại cải tạo gặp một đoàn tù đang bị dẫn đi lao động. Họ tàn tạ, thiểu não, lê thê, lếch thếch đi hết muốn nổi. Thân hình họ ốm yếu, gương mặt họ xanh xao, hốc hác, áo quần tả tơi vì thiếu ăn, thiếu mặc và bị đọa đày nhưng đôi mắt họ sáng long lanh như những vì sao biểu lộ sự can trường, bất khuất của họ. Họ là những đồng đội, chiến hữu của anh, những người hùng ngã ngựa đang bị đọa đày đó. Nhìn họ, em chợt nghĩ đến anh, thương anh. Em như muốn nhào ra ôm chầm lấy họ mà gào thét lớn rằng: “Các anh ơi! Tôi yêu thương tất cả các anh trọn đời như tôi yêu thương chính chồng tôi vậy” Rồi em khóc. Và bây giờ em lại khóc. Khóc cho người đã chết và khóc cho những người đang quằn quại chờ chết!
      Đêm đã gần tàn mà em vẫn còn thao thức không sao ngủ được. Giờ nầy trên đất nước điêu linh không chỉ riêng em không ngủ được mà còn hằng triệu triệu người con dân Việt cũng đang thao thức, uất hận, khóc thầm cho số phận của quê hương. Sau ngày 30-4 người dân chỉ biết nhìn nhau qua ánh mắt u buồn, qua nụ cười xót xa, cay đắng. Nụ cười đã tắt hẳn trên môi của người dân, nếu có thì chỉ “Cười là những tiếng khóc khô không lệ”thôi anh ạ.
      Nước Việt Nam mình ngày nay, những kẻ cầm quyền thì độc tài, tham nhũng, kềm kẹp, đàn áp, bắt bớ, giam cầm, hà khắc,bất công, bóc lột. Còn người dân thì bầm dập, tả tơi, lầm than, đói khổ, bất mãn, uất hận, căm hờn. Đó là những từ ngữ chính xác nhất để mô tả Việt Nam ta ngày nay, đất nước mà anh và các chiến hữu của anh đã xông pha gìn giữ.
      Anh yêu, trời đã gần sáng. Thôi em xin vĩnh biệt anh! Em mãi mãi yêu anh và mãi mãi yêu những đồng đội, chiến hữu của anh, những người lính Việt Nam Cộng Hòa mà sự chiến đấu can trường, anh dũng của họ đã làm nóng cháy từng trang Quân Sử của Miền Nam!”.

Back to top
« Last Edit: 19. Apr 2012 , 19:16 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Quốc Hận
Reply #185 - 20. Apr 2012 , 18:26
 




30 tháng Tư nào Con cũng Ngẩn ngơ

TS. Đặng Huy Văn
(Giảng viên đại học tại Hà Nội)

-
Tôi tình cờ gặp một người bán dạo trên đường phố Sài Gòn kể cho nghe câu chuyện đời của anh ấy. Nhân dip kỉ niệm lần thứ 37 ngày 30/4/1975, ngày hai ba con anh ấy bị thất lạc nhau, tôi xin trân trọng gửi tới quí vị độc giả một bài viết về cái ngày đáng ghi nhớ đó với hi vọng anh ấy có thể gặp lại được người ba ruột yêu dấu của mình nếu may mắn ba của anh đang được sống đâu đó trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
.
Ba dìu con dọc theo Đường Tự Do ra thẳng Bến Bạch Đằng[1]
Khoảng 2 giờ sáng ngày 30 tháng Tư 37 năm rồi, con vẫn nhớ!
Giữa hàng ngàn người chạy di tản cùng bà già trẻ nhỏ
Đang cố níu bám trên cầu tàu chờ chiến hạm quay sang
Con bị lạc ba giữa những tiếng còi hụ hú vang
Từ những con tàu nhổ neo ra khơi không bao giờ trở lại
Ba có lên được không trên chuyến tàu hôm ấy
Hay đã quay xuống tìm con rồi bị kẹt lại trên bờ?
Ba đã chạy về đâu khi đứa con tàn tật ngây thơ
Không có cơm để ăn, không còn nhà để ở?
Con bò lết đến sáng đêm rồi một người đàn bà quay lại đỡ
Đưa về nhà chăm nom và nuôi con đến bây giờ
30 tháng Tư nào con cũng cứ ngẩn ngơ
Đau nhớ lời ba: “Ông nội con theo Việt Minh đánh Pháp
Rồi đội cải cách ruộng đất về xử bắn ông ở Đại Từ[2]
Ba phải trốn di cư vào Nam theo giáo dân ở Bùi Chu!”[3]
Nay ba sống ở nơi nào có còn nhớ Mậu Thân xưa?
Lúc cả nhà ta đang yên giấc trong đêm Mùng Một Tết
Một quả đạn rơi trúng giừơng làm má và em con bị chết
Con nằm kế bên, một chân bị đứt ngang tàn phế đến bây giờ!
Nếu không được má nuôi cưu mang và sắm cho xe bán dạo
Thì con trai ba chắc đã không còn sống được để mong chờ
Thương má nuôi, chồng đã bị mất tích khi vượt tù Côn Đảo[4]
Cứ 30 tháng Tư về má lại tủi thân, ngồi khóc tựa trẻ thơ!
Đi bán dạo đến nơi nào con cũng cố hỏi dò
Để xem ba có còn sống qua những tháng năm cải tạo?
Hay đã chung số phận với hàng vạn thuyền nhân gặp bão?[5]
Nhưng con vẫn thầm mong ba đang sống an lành ở một nơi xa
Con ao ước sẽ có một ngày được về tận quê ta
Để xây cất lại mồ mả của tổ tiên cùng của ông bà nội
Nhưng Đại Từ quá xa má nuôi già không đi nổi
Mình con đi khó khăn nên chưa thể về, xin tạ tôi cùng ba!
Con cũng hay qua Gò Dưa thăm em và cầu nguyện má[6]
Phù hộ cho ba sống lâu để còn về gặp con và thăm lại quê nhà!
Nhưng nếu không may ba đã mãi mãi không trở về được nữa
Xin hãy báo mộng cho con để con lo hương khói nghe ba!
Hà Nội, 20/4/2012
Đặng Huy Văn
______________________
GHI CHÚ:
[1] Bến Bạch Đằng là một quân cảng của Hải Quân VNCH trước ngày 30/4/1975.
[2] Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nơi mở đầu chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất của miền Bắc, 1954-1956.
[3] Bùi Chu là một giáo phận ở Nam Định, nơi giúp đỡ cho những người muốn di cư vào Nam, 1954-1955.
[4] Côn Đảo là một nhà tù của Pháp, sau này là của VNCH dùng để giam giữ tù nhân chính trị.
[5] Từ 1975-1990 đã có trên 40 vạn thuyền nhân VN bị chết trên biển do bị bão tố và hải tặc.
[6] Gò Dưa là một nghĩa trang thuộc phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, TP HCM.
Back to top
« Last Edit: 20. Apr 2012 , 18:27 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Quốc Hận
Reply #186 - 22. Apr 2012 , 17:48
 
THÁNG TƯ


1. Tháng Tư


Tháng Tư. Trời Cali hanh nắng gợi nhớ Saigon nắng hanh. Cũng một vòm xanh ngắt điểm vài cụm mây trắng lửng lơ. Cũng phố phường tấp nập trong khu Bolsa-Westminster với những dãy nhà mái đỏ tường vàng chen chúc những mái đầu đen ra vào nhộn nhịp. Nơi đây là Tiểu Saigon, để nhớ Saigon năm xưa …

Saigon năm xưa, tháng Tư, 1975. Thuở đó tôi mới tròn mười tuổi. Cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới còn say mê những bộ tem sưu tập để mơ một ngày nhởn nhơ ngao du thế giới, hoặc còn chúi mũi theo sát những loạt truyền hình Mỹ Gun Smoke, Bonanza, Wild Wild West… có những tài tử vừa múa súng vừa bắn nhanh như chớp, hay còn mê những đường gươm thần sầu cú đấm quỷ khốc phép khinh công điêu luyện của các chàng Khương Đại Vệ, Địch Long trên màn ảnh Tàu. Tôi còn khoái những truyện hoat hoạ gián điệp phiêu lưu có chú chó nhỏ Rin Tin Tin, hay vùi đầu theo dõi những trò chơi kỳ thú của Dũng Dakao, Bồn Lừa, Loan Mắt Nhung … trong những tiểu thuyết của Duyên Anh, để cũng mơ có ngày làm được người hùng trừ gian diệt bạo.

Ký ức Tháng Tư trong tôi là một Saigon hốt hoảng hầm hập, từ những khuôn mặt đăm chiêu, những bàn tay run rẩy gói ghém, những bước chân cuống quít đôn đáo vào ra, những ánh mắt lạc thần thảng thốt, những làn môi mím chặt ngậm kín quyết định.

Những tin tức truyền đi từ nhà này sang nhà nọ, chưa kể những bản tin trên các hệ thống truyền thông truyền hình, về việc một số tuớng tá chạy có cờ, bỏ ngỏ từ Quảng Trị vào Huế rồi Đà Nẵng Điện Bàn Qui Nhơn lên các tỉnh Cao nguyên về duyên hải miền Trung. Những hình ảnh chạy loạn trên phà vượt biển, đạp đầu nhau leo lên máy bay, hàng hàng lớp lớp rừng người chen chúc với đủ loại xe kể từ xe tăng xe bò cho đến xe hơi xe gắn máy xa ba gác … đăng khắp trang nhất báo chí, được Má tôi theo dõi và cắt dành riêng một tập lẫn lộn những vệt nước mắt nhoè nhoẹt.

Những nét hỗn loạn đó in rõ trong tôi trên một nền trời Saigon xám khói đỏ lửa từ phi cảng Tân Sơn Nhất, từ Nhà Bè, từ Khánh Hội … mà đêm về còn thêm những đốm mắt hoả châu trừng trừng soi rõ từng nét thất thần trên mỗi khuôn mặt.

Hình ảnh Saigon những ngày cuối tháng Tư còn có nhạc đệm là những tiếng nổ kinh hồn của đạn pháo kích trúng kho xăng kho đạn, lẫn vời hàng loạt súng lớn nhỏ xa gần chen tiếng rú ga rồ máy, tiếng người gọi nhau thất thanh và những tiếng la hét kêu khóc hãi hùng.

Trong khung cảnh đó, tôi thấy các gia đình bà con nội ngoại hàng xóm láng giềng hớt hải chạy loạn di tản. Thôi thì mạnh ai nấy lo vì không ai biết đàng nào mà lo cho ai. Má tôi cũng chuẩn bị chạy loạn.

Trong chiếc ba-lô Sói Con nhỏ của tôi, bà đã nhét chặt mấy bộ quần áo, vài món đồ dùng cần thiết, một đôi giày bố, một mớ mì gói, cơm sấy, sữa hộp, sinh tố C, kẹo chanh … Bà còn cẩn thận khâu một túi nhỏ bên trong thắt lưng quần tôi mặc, trong có một lượng vàng mỏng, một mớ đô-la giấy, và một mảnh giấy bọc nhựa ghi tất cả địa chỉ các Dì các Cậu tôi ở Việt Nam cũng như bên Pháp bên Mỹ. “Lỡ có bề gì, con còn có nơi mà tìm đến. Biết đâu!” Đó là lời giải thích của bà khi căn dặn tôi đủ điều. Tôi còn biết dưới lớp lót của đôi giày bố còn có một mớ tiền nữa cũng được bọc nhựa cẩn thận. Phần tôi đã lén nhét vào ba-lô cuốn tem sưu tập và cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam mà tôi mới bắt đầu say mê đọc. Về sau, khi khám phá hai tập đó, Má tôi chỉ lắc đầu nhìn tôi, ôm tôi thật chặt, đưa tay vò tóc tôi, nhưng chẳng rầy rà gì.

Cuộc chạy loạn của tôi bắt đầu bằng những ngày cuối tháng Tư, khi tôi được đưa vào gửi ở nhà Bác C. trong Cư xá Hải Quân đường Lê Lợi gần Bến Bạch Đằng, để đợi đi lánh nạn. Nghe đâu là ra đảo Phú Quốc tránh làn bom đạn ở Saigon.

Đám người lớn nhỏ to bàn tán. Lệnh người lớn ban bố cho trẻ con là không được đi xa quá mảnh sân vuông trước nhà, và phải luôn luôn sẵn sàng xách khăn gói theo. Má tôi vẫn đi làm việc mấy hôm cuối đó cho tới trưa ngày 20 mới hớt hải tới nhà Bác C. Bà vẫn mặc áo dài và đi giày cao gót. Bác C. gái giục Má tôi thay áo ngắn. Tôi thấy bà giở bộ áo bà ba tím quần Mỹ A đen ra mặc, và mang giày bata, đầu đội một mũ vải. Người lớn kháo nhau là phải ăn mặc gọn ghẽ vì có thể phải chạy, phải leo trèo, phải mau chân lẹ tay. Hành lý phải gọn và nhẹ. Tuy nhiên, tôi lén thấy Bác C. gái và Má tôi mỗi người nhét vội vào túi xách mấy cái áo dài. Họ đưa mắt nhìn nhau, những đôi mắt sưng đỏ mọng. Họ thì thào: “Biết đâu! Chắc chi mình sẽ trở về! Lỡ có chết đâu đó còn có cái áo dài mà mặc chớ!”

2. Tháng Tư. Chiều ngày 29.


Cả gia đình Bác C., Dì Tý, và má con tôi vội vã ăn bữa cơm cuối để khăn gói dắt díu nhau xuống tàu. Chỉ một đoạn đường ngắn từ đầu đường Lê Lợi băng qua đại lộ Cường Để vào Công xưởng Ba Son mà đám người lớn dường như lê chân bằng những bước nặng cả tấn chì. Lâu lâu Má tôi và hai bà bạn lại dừng chân, không phải để nghỉ mệt, mà để nhìn lại đàng sau. Như nuối tiếc. Như chờ đợi. Tôi nhớ một câu trong Chinh Phụ Ngâm mà Bà Ngoại hay đọc bước đi một bước giây giây lại dừng, và liên tưởng tới bài Kẻ Ở Người Đi trong tập Quốc văn Giáo Khoa thư mà Má tôi vẫn dùng dạy kèm ở nhà từ khi tôi theo học trường Lasan Taberd.

Chiều hôm đó không có kẻ ở bịn rịn chia tay nhưng người đi đã nuối từng hạt bụi đường vướng vít, từng viên sỏi nhỏ rên xiết dưới chân, từng cọng cỏ non rũ rượi, từng cành cây nhỏ cúi mình dưới bầu trời vần vũ xám khói đỏ lửa trong ánh hoàng hôn đen tím của Saigon.

Ôi! Cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!

Lũ nhóc chúng tôi thì nôn nao kích động vì chuyến đi. Tâm hồn trẻ vốn thích phiêu lưu, mà đây là cuộc phiêu lưu hoàn toàn vô định. Không ai định phiêu lưu như thế này mà cũng không ai biết là sẽ phiêu lưu về nơi nào.

Đêm đến, cả ba gia đình chúng tôi ngồi chụm lại một góc nhỏ trên boong tàu. Lũ nhóc chúng tôi dù cảm biết có sự thay đổi lớn nhưng chưa ý thức được tầm quan trọng, và vẫn còn ở tuổi vô tư nên chỉ thấy hồi hộp mà chưa thấy hãi sợ. Chúng tôi có dịp nghỉ học gặp nhau chọc phá đùa nghịch và chia ngọt xẻ bùi. Kể từ khi bước chân xuống tàu, tuy không có nước mắt như mưa, nhưng đã cảm thấy thân thiết nhau hơn với ý nghĩ bắt chước người lớn sống chết có nhau như trong quân đội nói là huynh đệ chi binh vậy, mặc dầu nghe đâu một số quý vị tướng tá đã đem bầu đoàn thê tử chạy ra nước ngoài từ cả tháng, bỏ lại cả triệu binh lính lơ láo tan hàng !

Đoàn tàu rời Bến Bạch Đằng lúc chập choạng. Sông Nhà Bè nước chảy chia hai nhưng thôi từ nay ai về Gia Định Đồng Nai thì về, còn chúng tôi coi như giã biệt! Những con mắt đèn Saigon vẫn ngọn xanh ngọn đỏ đêm giã từ rưng rưng sau khói lửa. Bờ Thủ Thiêm im lìm trôi lùi dần. Tôi và anh Kèo con Bác C. ngồi bó gối nhìn lại Saigon đang lùi xa như từ từ đi vào ký ức để mai này sẽ là dĩ vãng.

Tàu đi vào bóng đêm không thấy bờ bụi. Chắc đã vào khoảng rộng của giòng sông. Nhìn lại đằng sau, chân trời lấp loáng ánh sáng bập bùng của Saigon chập choạng giãy giụa, lâu lâu có những đợt loé sáng bùng lên kèm những tiếng nổ lớn. Bầu trời đen vần vũ khói lửa điểm những đốm hoả châu lập loè. Hai chúng tôi nhìn nhau và cùng thấy trong mắt nhau hình ảnh nhập nhoè của Saigon. Khi những trái hoả châu bùng cháy, tôi tưởng như mắt mỗi đứa bỗng rực toé thành mắt người Hoả tinh. Tuổi thơ chúng tôi từ đây chắc khép lại những hình ảnh nhập nhoè của Saigon đêm tháng tư đó, lẫn trong âm thanh tiếng nước óc ách đập vào mạn tàu và tiếng máy chạy rì rầm.

3. Tháng Tư. Sáng 30
.

Vừa bừng mắt dậy, tôi chạy vội lên boong. Cả một vùng biển bao la mở rộng. Thái Bình Dương.

Tôi từng sống ở Nha Trang ngay bên bờ cát trắng, từng được đi Đại Lãnh, Cam Ranh, Cà Ná, Thuỷ Triều, Phan Thiết, Vũng Tàu nhiều lần để thấy cảnh hừng đông trên mặt biển. Nhưng sáng hôm ấy tôi mới được dịp thấy hết vẻ rực rỡ huy hoàng, uy nghi mà hiền hoà, của vầng mặt trời vụt nhô khỏi mặt nước. Một khối lửa đỏ rực đổ luồng hào quang chói lói, tráng hồng mặt đại dương xanh bạc và nhuộm thắm những khuôn mặt lơ láo thất thần của đoàn người di tản vừa qua một đêm lênh đênh, khởi đầu cho một tương lai mù mịt.

Lũ nhóc chúng tôi chạy loanh quanh nghe ngóng quan sát.

Đám người lớn bảo nhau là cả hạm đội Hải Quân đã kéo về tụ tập tại Phú Quốc. Saigon di tản bằng cả trực thăng lẫn xe gắn máy và xe ba gác. Bộ đội Công sản Bắc Việt đã đến ngay cầu Tân Cảng. Đường về Vũng Tàu bị cắt. Tôi không đếm được bao nhiêu tàu vì tầm mắt nhỏ bé của tôi không nhìn thấy hết bao quát, nhưng tôi đoán phải trên hai chục tuần dương hạm, hải vận hạm, vô số giang đỉnh cùng không biết cơ man nào là ghe thuyền lớn nhỏ của dân chúng, kể cả những chiếc bè ghép bằng tre lồ-ô và gỗ.

Vừa nhai xong mấy nắm cơm sấy thì chúng tôi được lệnh thu dọn chuyển qua tàu lớn. Lúc này tôi thấy có nhiều gia đình lỉnh kỉnh bê theo cả máy truyền hình cỡ lớn và giàn máy hát kềnh càng. Nhiều người đẩy theo mấy xe gắn máy Honda/Suzuki. Có nhà lùa theo được cả một bầy heo gồm mẹ nái và lũ nhóc trư, lại còn đèo bòng một mớ nồi niêu soong chảo. Chắc chuẩn bị thức ăn tươi dọc đường chạy loạn. Chúng tôi tinh nghịch bàn sẽ đi kiếm một ít hành bán cho nhà này, để mấy con heo kia khỏi phải khóc lóc ủn ỉn kỳ kèo trước khi chịu lên thớt!

Đám con nít chúng tôi được bốc chung trong một cái lưới khổng lồ có những mắt gút to bằng cả nắm tay, để được kéo lên tàu lớn. Người lớn phải leo qua tấm ván rập rềnh lắc lư bắc nối mạn tàu đậu sát nhau. Nhiều người chen chúc dành leo trước. Tôi thấy hai đứa con của Bác Trang cỡ 6, 7 tuổi bị lấn tuột khỏi lưới rơi tòm xuống nước, ngoi ngóp trong những đợt sóng rập rềnh giữa hai lườn tàu. Bác Trang nhảy ùm xuống lội theo, nhưng hai con tàu bỗng xô mạnh vào nhau và hai đứa mất hút dưới dòng nước. Khoảng mươi phút sau, khi chúng tôi đã đứng trên tàu lớn, Bác Trang lóp ngóp nổi lên vẫy tay xin cứu. Bác được người ta quăng giây xuống kéo lên, run rẩy nức nở cho biết hai đứa nhỏ bị sóng cuốn va vào mạn tàu trôi xa không tìm được.

Khi kiếm được chỗ ngồi gần cửa ra vào ca-bin, chị Mimi lục chiếc radio nhỏ mở đài Saigon. Tiếng Tổng thống Dương Văn Minh trầm, chậm, buồn: “Yêu cầu các quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng Hoà chấm dứt tình trạng chiến tranh, bình tĩnh ở yên vị trí, đừng nổ súng, để bảo toàn sinh mạng nhân dân. Kêu gọi những người anh em trong Chính phủ Cách mạng Lâm thời đừng nổ súng vì chúng tôi đang chờ gặp các đại diện để thảo luận về việc trao quyền lãnh đạo chính phủ quân sự cũng như dân sự trong trật tự, để không gây đổ máu cho đồng bào.” Đồng hồ trên tay Bác C. chỉ 10 giờ 20.

Không khí trên tàu đặc quánh, ngột ngạt. Bác C. đứng quay lưng lại, nhưng tôi thấy hai vai bác rung bật từng hồi. Tôi xích lại gần Má tôi. Bà vòng tay ôm sát tôi, nhưng vẫn ngồi im sững, mắt nhìn ra khơi, nước mắt lặng lẽ chảy dài trên má. Tôi có cảm tưởng thấy da mặt bà vốn mịn màng đột nhiên nhăn nheo co rúm, trán hằn rõ những lằn ngang, và bà vụt già đi cả mười tuổi. Bác C. gái ôm vai Má tôi khóc lịm, trong khi Dì Tý nấc lên : “ Thôi rồi! Saigon mất!” Không ai bảo ai, chúng tôi xích lại gần nhau hơn và những bàn tay tìm nắm những bàn tay.

Không khí căng thẳng ngột ngạt hơn khi đài Saigon phát thanh lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh. 1 giờ trưa. Những nét mặt đanh lại. Những đôi mắt ngầu đỏ. Những bờ vai run rẩy. Những chiếc đầu cúi gục. Những tấm lưng gập cong. Cả boong tàu im phắc. Sững sờ. Tuyệt vọng.

Tôi nhìn ra khơi. Buổi trưa nắng gắt và chói chang. Biển mênh mông lặng lẽ lấp loáng phản chiếu màu trời trong xanh. Lằn chân trời thẳng tắp tiếp nối màu bao la. Đâu cũng thấy một màu xanh bát ngát. Màu của hy vọng, của tương lai. Nhưng trong mắt mọi người, tôi chỉ thấy một màu u ám. Trong mắt tôi, hình ảnh Saigon đêm giã biệt chập choạng giãy giụa trong khói xám lửa đỏ điểm những đốm mắt hoả châu trừng trừng soi rõ những nét mặt thất thần. Saigon, Saigon mới hôm qua, hôm nay đã là dĩ vãng.

Đứng bên này bờ đại dương ngó về bên kia biển Thái Bình xa tít mịt mù, giữa nắng hanh của trời tháng Tư Cali, tôi tin vùng khói xám ngày nào nay đã tan loãng và vùng lửa đỏ cũng lụi tàn. Đông Âu đã nhìn thấy và tắm ngập ánh sáng tự do. Đất nước tôi chẳng lẽ cứ mãi chìm trong mịt mờ hỗn loạn?

Trần Thị LaiHồng
Viềt từ tiểu bang xanh Washington
cho con LêHuy QuangMinh
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Quốc Hận
Reply #187 - 22. Apr 2012 , 18:04
 
NGUYỄN KHOA NAM,
Mặt Trời Tháng 4

hoahong.gif: Lê Ngọc Danh hoahong.gif:
  Việt sử ghi rằng khi Pháp chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây Nam Phần, cụ Phan Thanh Giản không giữ được thành đã uống thuốc độc tự tử. Về sau Cần Thơ thành lập trường trung học lấy tên là Phan Thanh Giản.

30 tháng 4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Khu IV nhận trách nhiệm không giữ được miền Tây đã dùng súng lục tự vẫn. Trước đó Tư Lệnh đã đi một vòng lần cuối thăm những người lính của ông tại Quân Y Viện Phan Thanh Giản.

Bên giường bệnh, một thương binh mà vết thương còn chảy máu đã nắm lấy tay vị tư lệnh mà nói rằng:

- Xin Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em.

Nước mắt chảy dài trên mặt vị Thiếu Tướng của Quân Đoàn IV. Ông nói:

- Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.

Đó là lời của ông Nam nói với anh thương binh và đồng thời ông nói với cả QLVNCH. Ông đã ở lại vĩnh viễn. Ông là Mặt Trời Tháng 4.

Nguyễn Khoa Nam không phải là con người của huyền thoại. Ông là con người rất gần gũi với chúng ta. Sinh năm 1927 tại Thừa Thiên, đã đỗ tú tài và đi làm công chức tại Huế từ 1951. Sau đó động viên Khóa 3 Trừ Bị Thủ Đức 1953 và đeo lon thiếu úy tham dự các cuộc hành quân miền Bắc trong hàng ngũ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù.

Năm 1965, ông đã lên Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, đánh trận Quảng Ngãi nhận đệ tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương.

Năm 1967, ông thăng cấp trung tá chỉ huy Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù thắng trận Kontum với đệ tam đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Trong quân đội không có sĩ quan cấp trung tá nào có Bảo Quốc Đệ Tam ngoại trừ người đầu tiên là Trung Tá Đỗ Cao Trí và người thứ hai là Nguyễn Khoa Nam.

Năm 1970, với cấp bậc đại tá ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại Mỹ Tho.

Năm 1974, ông lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV với cấp bậc thiếu tướng.

Cho đến tháng 4-1975, ông vẫn sống cuộc đời độc thân và gần như dâng hiến tất cả cuộc đời cho quân đội và đất nước.

Trong suốt hơn 20 năm chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam, Hà Nội luôn luôn xưng tụng các anh hùng vô sản nhưng trên thực tế trong hàng ngũ các tướng lãnh của phe cộng sản chưa hề có cấp lãnh đạo nào nêu gương dũng liệt. Phần lớn là các huyền thoại về cấp dưới đã hy sinh trong gian khổ. Ngay cả khi bị bắt bởi quân đội Pháp thời trước hay QLVNCH sau này thì chính sách của đảng luôn luôn là hy sinh đàn em và bảo vệ cán bộ.

Phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa qua ngày 30 tháng 4-1975, các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai đã ghi tên trong quân sử bằng hành động tuẫn tiết rất can trường.

Do những tình cờ của lịch sử, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã dâng hiến cho đất nước những người con uy dũng của cả ba miền: Lê Nguyên Vỹ của đất Thăng Long, Nguyễn Khoa Nam của Phú Xuân, và Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai của Thành Gia Định.

Sau cuộc chiến, hàng chục ngàn sĩ quan các cấp đã bị lùa đi cải tạo nhưng sau nhiều năm, gần như không một ai của phòng tuyến quốc gia bị khuất phục theo Cộng Sản.

Nhân ngày 30 tháng 4 của 29 năm sau, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị câu chuyện về những giờ phút cuối cùng của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Con người dù đã chết nhưng gương sáng vẫn chói lọi như Mặt trời tháng 4.

Bài viết này được trích đoạn từ bút ký đặc biệt của Trung Úy Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.

Giao Chỉ San Jose

Tôi là Trung úy Lê Ngọc Danh, xuất thân Thủ Đức, đã tham dự các cuộc hành quân tại Trung Đoàn 10 Bộ Binh, bị thương nhiều lần. Cơ duyên tình cờ về làm tùy viên cho ông Tư Lệnh từ lúc còn ở Sư Đoàn 7 vào năm 1973 rồi đến cuối năm 1974 thì theo ông về Quân Khu IV tại Cần Thơ.

Trong suốt thời gian làm việc gần tướng Nguyễn Khoa Nam, ông xem tôi như người nhà, đứa con trong gia đình, không bao giờ la rầy hay nặng tiếng. Tôi đã ở với ông cho đến giây phút cuối và xin kể lại từ tháng 4-1975 như sau:

Tháng 4-1975

Tình hình chiến sự vào tháng 4-1975 rất căng thẳng. Vùng 1, Vùng 2 đang đánh lớn còn Vùng 3 và 4 vẫn còn nguyên vẹn. Tư Lệnh đi họp liên tục, lúc thì ở Tổng Tham Mưu, ở Dinh Độc Lập gặp Tổng Thống, lúc ở Dinh Phó Tổng Thống. Thời gian còn lại, Tư Lệnh thường đến thăm các tiểu khu và sư đoàn trực thuộc, nhiều nhất là các tiểu khu Long An, Định Tường, Kiến Tường và Châu Đốc.

Vào đầu tháng 4, Việt cộng tấn công mạnh, nhằm vào Quốc Lộ 4 thuộc hai tiểu khu Định Tường và Long An. Sư Đoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực Tiểu Khu Định Tường còn Sư Đoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực Tiểu Khu Long An.

Vào buổi trưa, Tư Lệnh đến Tiểu Khu Long An để thị sát tình hình tại đây, VC đã pháo một quả hỏa tiển 122 ly rơi xuống giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại gì. Địch càng ngày càng tấn công mạnh dọc Quốc Lộ 4, Tư Lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu của tất cả sĩ quan cùng binh sĩ. Tư Lệnh đã khen thưởng các đơn vị thuộc Vùng 4 vì không hề bỏ chạy trước địch quân, không để mất một căn cứ nên cho tới bây giờ VC vẫn không chiếm được một vị trí nào cả.

Vào một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiễn 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV và tư dinh Tư Lệnh. Pháo địch xuất phát từ hướng Đông của Chi Khu Bình Minh thuộc Tiểu Khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư Lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng.

Tình hình càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân Đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Đéc.

Trong lúc này, công việc của Tư Lệnh rối bời vì lớp lo phòng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đã di tản về vùng ngoại ô. Thiếu Tướng ra lệnh các tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư Lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân Đoàn IV và nhất là giữ gìn Quốc Lộ 4 đừng để VC cắt đứt. Tư Lệnh đặc biệt đến thăm Tiểu Khu Châu Đốc, đi bộ thăm vòng đai phòng thủ quy mô của tiểu khu.

Những ngày kế tiếp, Tư Lệnh họp liên tục với các tiểu khu và sư đoàn. Trong lúc tình hình hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài Gòn lũ lượt bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc.

Sáng ngày 24 tháng 4, Tư Lệnh đi họp ở Bộ Tổng Tham Mưu. Qua sáng 25 tháng 4, họp ở Tiểu Khu Định Tường, trong phiên họp này có Tướng Trưởng tham dự.

Ngày 27 tháng 4, Tư Lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí.

Sáng 28 tháng 4, Tư Lệnh tiếp cố vấn Mỹ tại văn phòng Tư Lệnh.

Sáng ngày 29, Tư Lệnh vẫn đi bay thị sát, buổi chiều 29 về họp với tương Mạch Văn Trường ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao xao, nhớn nhác, chạy lung tung. Có người đi hôi của tại Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy vương vãi đầy mặt Đại Lộ Hòa Bình, quần áo, ly tách, đồ hộp, lon bia vất tứ tung.

Áp lực địch vẫn đè nặng ở Quốc Lộ 4, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp Tư Lệnh báo cáo tình hình nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư Lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục phòng thủ. Tư Lệnh viết nhật lệnh đưa Thiếu tá Đức, Chánh Văn Phòng chuyển đến phòng Chiến Tranh Chính Trị để đọc trên Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình Cần Thơ để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ.

Vào buổi chiều, tôi thấy được hình Tư Lệnh và kèm theo là bản nhật lệnh của ông, nội dung ngắn gọn nhằm trấn an dân chúng không được bạo động.

Sau khi nghe đọc nhật lệnh trên TV, Tư Lệnh buồn buồn chấp tay sau lưng, tư tới đi lui trong phòng làm việc ở Bộ Tư Lệnh. Sau đó, Tướng Hưng, Tư Lệnh Phó vào gặp Tư Lệnh bàn luận về thời cuộc.

Đêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc Tiểu Khu Vĩnh Bình. Địch đã nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư Lệnh bảo tôi gọi Trung Tá Sơn, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Vĩnh Bình để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay.

Sáng sớm 30 tháng 4, Tư Lệnh bay xuống họp ở Tiểu Khu Định Tường. Cuộc họp chấm dứt nhanh chóng xong ông bay về Cần Thơ.

Thành phố Cần Thơ sáng ngày 30 tháng 4 rất vắng vẻ, dân chúng và xe cộ thưa thớt. Mặc dù địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh và tình hình chung đang rất bất lợi cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, tinh thần chiến đấu của binh sĩ thuộc Quân Đoàn IV vẫn hăng say, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng.

Bất chợt, tiếng của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản vang lên trên đài phát thanh. Lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện có đại ý như sau: “Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.” Tôi vội xô cửa vào phòng làm việc của Tư Lệnh và nói:

- Tổng thống Dương Văn Minh đã… T

Chưa hết câu, Tư Lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi:

- Qua đã nghe rồi.

Tôi lặng người, quay lưng chầm chậm bước ra ngoài.

Từ lúc này, Tư Lệnh Phó thường vào gặp Tư Lệnh trong văn phòng qua lối cửa chánh. Lần thứ hai, Đại Tá Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp gấp Tư Lệnh trên điện thoại. Ông muốn xin giật sập cầu Long An để cắt đường tiến quân của VC về Vùng 4. Một lần nữa, Tư Lệnh bảo tôi chuyển lời: “Cầu để yên không được phá sập.”

Khoảng gần trưa 30 tháng 4, tôi được báo cáo là Thiếu Tá Chánh Văn Phòng rời văn phòng bỏ đi theo Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan theo lộ trình dọc sông Hậu Giang ra biển. Tôi vội xuống hầm làm việc mới của Tư Lệnh để báo cho ông rõ. Căn hầm này là phòng làm việc thừ hai của Tư Lệnh, nằm ngay dưới chân phòng làm việc chính thức, được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn. Hầm rộng và cao, thiết trí giống như phong làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phòng Tư Lệnh. Bước vào hầm, tôi thấy Tư Lệnh đang ngồi viết tại bàn làm việc. Tư Lệnh, như thường lệ, đưa tay kéo lệch cặp mắt kính trề xuống sống mũi, ngước nhìn tôi hỏi:

- Có gì không?

- Trình Thiếu Tướng, Thiếu Tá Chánh Văn Phòng và Đại Tá Tỉnh Trưởng Phong Dinh đã bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu.

Tư Lệnh vẫn điềm nhiên, không tỏ chút gì giận dữ, ông nói:

- Đi hả? Đi làm chi vậy?

Nói xong, Tư Lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tĩnh như không có gì quan trọng xảy ra. Tôi bước lên cầu thang về phòng làm việc của mình, lúc này tôi mở Radio 24/24 để theo dõi tình hình ở Sài Gòn. Đang lắng nghe Radio, Tư Lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo:

- Gọi Đại tá Thiên gặp tôi.

- Dạ.

Rồi Tư Lệnh chỉ định Đại tá Thiên nhận chức vụ Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh kể từ sáng hôm đó. Tức là sau khi đã có lệnh đầu hàng.

Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở Câu Lạc Bộ Cửu Long về, Tư Lệnh đi thẳng vào phòng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua phòng làm việc, tôi thấy Tư Lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư Lệnh nhìn từng trang một, rồi từ từ xé nhỏ bỏ vào sọt rác.

Khoảng 2 giờ chiều, Tư Lệnh xuống hầm làm việc. Tôi không biết Tư Lệnh làm gì bởi vì phòng làm việc này kín mít. Tư Lệnh bấm loa gọi tôi:

- Danh, xuống đây tôi bảo.

Tôi xuống cầu thang vào gặp Tư Lệnh. Ông đang ngồi ở Sofa nhìn về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi, Tư Lệnh nói:

- Danh tháo bỏ tất cả ranh giới và những mũi tên trên bản đồ. Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ.

Tôi từ từ tháo bỏ, nhìn tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mũi tên đỏ chĩa vào. Có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật sẽ thực hiện vào giờ chót theo như tin đồn. Tôi tháo gỡ tất cả những mẩu băng keo bỏ vào sọt rác, tháo xong tôi nói:

- Trình Thiếu Tướng, em đã tháo xong.

- Được rồi.

o O o

Vào khoảng 4 giờ chiều, viên Quân Cảnh ở phòng chờ đợi lên gặp tôi nói:

- Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư Lệnh.

Tôi nói:

- Anh bảo họ chờ một chút để tôi trình Tư Lệnh.

Tôi gõ cửa vào gặp Tư Lệnh và nói:

- Trình Thiếu Tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu Tướng.

- Được, mời họ vào.

Xuống phòng khách, tôi thấy hai người Việt cộng đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo. Một người hơi thấp, nước da ngăm đen cũng mặc thường phục. Họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí.

Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào phòng làm việc của Tư Lệnh. Tư Lệnh chào hỏi và mời ngồi nơi Sofa, tôi bước nhanh ra phòng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng Colt 45 và lấy khẩu AR15 lên đan và bước nhanh vào phòng làm việc Tư Lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này cách khoảng 4 thước, với tư thế sẵn sàng nổ súng. Tôi sợ hai ông này ám sát Tư Lệnh nên gườm tay súng chuẩn bị nếu thấy hai ông này có hành vi lạ là tôi bắn liền. Tư Lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợt Tư Lệnh ngước lên, nhìn tôi và bảo:

- Danh đi ra ngoài để tôi nói chuyện.

Tôi ấp úng trả lời:

- Dạ… em ở đây với Thiếu Tướng.

- Được rồi, không sao đâu. Em ra ngoài đi.

- Dạ.

Tôi ra lại phòng làm việc, súng vẫn gườm thủ thế, mắt nhìn về hướng văn phòng theo kẽ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư Lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư Lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ gì cả. Sau đó, hai người VC đứng dậy từ giã, Tư Lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về. Tư Lệnh ngồi trên ghế, gương mặt thật buồn. Một lát sau, ông đứng dậy đi qua đi lại trong phòng. Thời gian trôi qua thật chậm, căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung: Nếu VC chiếm được Vùng 4 thì Tư Lệnh sẽ ra sao? Tại sao Tư Lệnh vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra? Bây giờ còn đi ngoại quốc kịp không? Còn máy bay không? Hay là Thiếu Tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đã xoay trong óc tôi. Bất chợt, tôi nghe tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Nhìn ra ngoài đường, tôi thấy một đoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, thì ra đó là những người tù vừa được thoái trại giam. Tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn cho kỹ, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xéch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo hò vui vẻ nhưng họ không phá phách.

Khoảng 6 giờ rưỡi, Tư Lệnh sửa soạn về tư dinh, Thiếu Tướng nói với tôi:

- Danh chuẩn bị xe để đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản.

- Dạ.

Xe chở Tư Lệnh từ văn phòng đi thẳng vào bệnh viện. Tư Lệnh dến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân còn lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư Lệnh đến bên thương binh này hỏi:

- Em tên gì?

- Dạ em tên…

- Em ở đơn vị nào? Có khỏe không?

- Dạ khỏe, em là Địa Phương Quân ở Tiểu Khu Vĩnh Bình.”

Tư Lệnh nói tiếp:

- Em nằm nghỉ dưỡng bệnh.

Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:

- Vết thương của em đã lành chưa?

- Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu, chưa lành.

Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm thì anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:

- Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng.

- Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.

Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa ta nâng sửa cặp kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:

- Em cố gắng điều trị… có Qua ở đây.

Tư Lệnh bước nhanh ra cửa bệnh viện, khi ra đến ngoài sân Tư Lệnh dừng lại quay mắt nhìn về bệnh viện. Tư Lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì nữa cả. Trên suốt đường về tư dinh, Tư Lệnh không nói một lời nào khiến tôi cảm thấy sự im lặng quá nặng nề.

Về đến tư dinh, tôi thấy Quân Cảnh vẫn còn gác ở cổng, tôi đi một vòng xung quanh, những vọng gác vẫn còn người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẽ họ đã bỏ đi bớt.

Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp Trung Sĩ Hộ quản gia xem hôm nay anh nấu món gì vì hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Hộ, tôi nói:

- Anh Hộ, bắt một con gà làm thịt và luộc để Thiếu Tướng dùng!

- Dạ con gà nào Trung Úy?

- Đàn gà nòi Thiếu Tướng nuôi đó! Anh chọn một con!

Lúc này đã hơn 8 giờ tối, về hướng Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen nghịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Hộ làm thịt và nấu xong. Tôi đích thân ra sau Trailer mời Thiếu Tướng vào ăn cơm. Tư Lệnh ngồi vào bàn ăn và nói:

- Danh ngồi ăn cơm cho vui.

Đi các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư Lệnh còn ở dinh, Tư Lệnh thường ăn cơm một mình, vừa ăn cơm vừa xem truyền hình rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư Lệnh mời tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều gì khác thường, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum, bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư Lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, còn nước luộc gà làm canh, Tư Lệnh hỏi:

- Thịt gà đâu vậy?

Tôi gượng cười nói:

- Dạ mấy con gà Thiếu Tướng nuôi ở sau. Em bảo anh Ngộ làm thịt một con để Thiếu Tướng dùng.

- Làm thịt chi vậy? Ăn cơm thường là được rồi. Thôi, ăn kẻo nguội!

Tư Lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. Còn tôi thì no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng rồi vội buông đũa và nói:

- Dạ, em ăn xong, Thiếu Tướng dùng tiếp.

Thiếu Tướng nói:

- Ăn tiếp chứ. Sao Danh ăn ít vậy? Thịt còn nhiều.

Vừa nói, Tư Lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! Ăn gì nổi. Bình thường chắc là ăn thấy ngon, bây giờ ăn thịt gà cũng như nhai gỗ mục. Miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu Tướng ra phòng làm việc.

Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân nhân đã bỏ đi, số còn lại một vài người đã mặc thường phục, một số vẫn còn mặc đồ lính. Còn hướng phòng Trung Úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, có lẽ anh cũng đã bỏ đi rồi (nhà Trung úy Hỉ ở gần phi trường Trà Nóc). Còn Trung Úy Việt cùng vợ hai con vẫn còn ở tại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư Lệnh đến bàn làm việc của tôi nói:

- Có liên lạc với Tướng Hưng không hè?

- Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi.

Ngưng một chút rồi tôi nói tiếp:

- Dạ, Thiếu Tướng muốn nói chuyện với Tư Lệnh Phó?

- Qua muốn nói chuyện.

Tôi nói với Tư Lệnh:

- Để em đi lại Dinh Tư Lệnh Phó nói mở máy PRC25 để Thiếu Tướng nói chuyện.

Tư Lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe Jeep chở tôi qua Dinh Tư Lệnh Phó nằm đối diện với Dinh Tỉnh Trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẽ phải vào Dinh Tư Lệnh Phó thì tôi thấy phía bên trái trước Dinh Tỉnh Trưởng có một tên VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mũi súng chĩa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ:

- VC đã vô tới rồi.

Tôi bảo tài xế:

- Quay trở lại đi! Không ổn rồi.

Tài xế lái nhanh về Dinh Tư Lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em binh sĩ còn lại kéo khoảng 4, 5 vòng kẽm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ. Rào xong, tôi vào Trailer báo Tư Lệnh:

- Trình Tư Lệnh, VC đã vào đến Dinh Tỉnh Trưởng. Em thấy có một tên VC cầm súng AK đứng trước Dinh Tỉnh Trưởng.

Tư Lệnh lặng thinh không nói gì cả. Khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu Tướng:

- Em đi lần nữa, để Thiếu Tướng nói chuyện với Tư Lệnh Phó.

Tư Lệnh nhỏ nhẹ nói:

- Thôi đừng đi! Coi chừng nó bắt.

- Dạ không sao.

Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế.

- Anh Thông đâu? Đến tôi nhờ một chút.

Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Hộ quản gia nói:

- Em vừa thấy anh Thông ra cổng.

“Anh đã bỏ đi rồi.” Tôi nghĩ thầm. Bất chợt, một binh sĩ khác hỏi tôi:

- Trung Úy cần gì em giúp.

- Anh muốn đến Dinh Tư Lệnh Phó.

- Được rồi, để em đưa ông thầy đi.

Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói:

- Đi Honda tiện hơn Trung Úy.

Rồi anh chở tôi về hướng Dinh Tư Lệnh Phó, rẽ vào dinh, anh đậu cách đấy khoảng 10 mét bên lề đường.

Dinh Tư Lệnh Phó trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với Dinh Tỉnh Trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nhìn vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong xòa nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn:

- Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh.

Tôi gọi 4, 5 lần nhưng vẫn không có tiếng trả lời. Tôi linh cảm điều gì không ổn nên gọi tiếp vài lần nữa rồi quay lưng định trở về. Nhưng tôi nghĩ thầm: “Không lẽ mình bỏ cuộc sao?” Tôi nói với qua với anh lính đậu bên kia đường:

- Anh ráng chờ tôi một chút.

Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi xòe ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào. Tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn: “Tôi Trung úy Danh đây, đừng bắn. Tôi Trung úy Danh, đừng bắn.” Miệng la tay níu nhánh ổi leo vào, tôi lên được đỉnh tường rồi theo đà cây ổi tuột xuống đất. Vừa gặp tôi, anh Nghĩa vừa khóc vừa nói:

- Chuẩn Tướng Hưng tự sát chết rồi Danh.

- Lúc nào?

- Mới đây, chắc có lẽ hồi nãy Danh nghe tiếng súng nổ.

Anh nói tiếp:

- Chuẩn Tướng đang ăn cơm, nghe tiếng động, ông bỏ bàn ăn đứng dậy, bà Tướng chạy theo ông ngăn lại. Tư Lệnh Phó vào phòng đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát.

Đến cửa, thấy cửa phòng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, thấy Tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm chầm Tư Lệnh Phó khóc, còn hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có gì xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa:

- Thôi Danh đi về.

Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC25 nữa, Chuẩn Tướng Hưng đã chết rồi. Vì tình hình rối ren, bận rộn, tôi không nhờ ai mở cửa mà trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung: “Tại sao Tư Lệnh Phó tự sát? Nếu Tư Lệnh hay được thì ra sao? Hay là lúc tôi la to gọi anh Nghĩa, Phúc, ở đây tưởng VC vào tới nên Chuẩn Tướng đã tự sát? Hay là…” Tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước dần tới chỗ anh lính đậu xe Honda lúc nãy. Trời! Xe và người biến đâu mất. Tôi đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy bóng dáng anh. Chắc anh bỏ đi rồi. Tôi không trách anh, anh đã giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo Đại Lộ Hòa Bình đi thẳng về Dinh Tư Lệnh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai vãng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa bãi đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió.

Tôi đi bộ mất khoảng 15 phút mới về đến dinh, anh lính gác vẹt từng vòng kẽm gai cho tôi vào rồi kéo lại vị trí cũ. Tôi đi nhanh về phía sau vào Trailer để trình Tư Lệnh mọi sự việc vừa xảy ra tại tư dinh Tư Lệnh Phó. Vừa thấy Tư Lệnh, tôi nói ngay:

- Trình Thiếu Tướng, em đến Dinh Tư Lệnh Phó, đến nơi thì ông vừa tự sát chết. Tư Lệnh Phó đã bắn vào ngực.

- Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi?

Tư Lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc. Ngồi trên Sofa suy nghĩ liên miên: “Tư Lệnh Phó đã tự sát, chắc Tư Lệnh sẽ tự sát theo.” Tôi xuống nhà gặp Trung Úy Việt và cho anh biết việc Tư Lệnh Phó đã tự sát. Tôi và Việt thắc mắc về những gì sẽ xảy ra tiếp: Tư Lệnh Phó đã tự sát, còn Tư Lệnh không biết thế nào? Hai đứa tôi suy nghĩ mãi mà không tìm ra được câu trả lời.

Lúc này khoảng 11 giờ đêm, vì lo lắng cho Tư Lệnh nên cứ độ 15 hay 20 phút, tôi lại vào Trailer một lần. Mỗi lần liếc nhìn vào, tôi thấy Tư Lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn còn mang, tôi lại đỡ lo phần nào. Lần khác, Tư Lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:

- Có gì không?

- Em vào xem Thiếu Tướng có sai bảo gì không?

Tư Lệnh nói:

- Sao em không đi ngủ đi! Khuya rồi.

Tôi nhỏ nhẹ nói:

- Trình Thiếu Tướng, nếu VC vào dinh, tụi em được phép đánh không Thiếu Tướng?

- Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.

Tôi rời Trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư Lệnh ra phòng làm việc của tôi trao cho tôi một gói hình chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói:

- Danh cất tiền này dể dành mà xài. (Có thể đây là tiền lương của Thiếu Tướng không dùng đến nên để dành.)

Đưa gói giấy cho tôi xong, Tư Lệnh đi vào Trailer. Tôi tò mò nên hé mở gói giấy này xem, bên trong toàn giấy bạc 500 đồng, tôi đoán chừng hơn 400 ngàn đồng và tôi để gói giấy vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào Trailer để quan sát, tôi sợ Tư Lệnh tự sát.

Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư Lệnh ra gặp tôi nói:

- Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à.

- Dạ em ngủ không được.

Tư Lệnh móc trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gang tay và nói:

- Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân.

Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc nãy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Hộ:

- Thiếu Tướng đã cho tôi súng, không hiểu Tư Lệnh có ý định gì?

Chúng tôi bàn luận với nhau và có linh cảm là Thiếu Tướng đang sắp xếp việc gì đó.

Khoảng sau 1 giờ sáng, một anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:

- VC tự động mở cửa vào dinh.

- Anh bảo họ chờ tôi một chút.

Tôi vội vã vào Trailer để gặp Tư Lệnh. Thấy Tư Lệnh đang nằm nghỉ, tôi trình:

- Trình Thiếu Tướng, bọn VC đang vào dinh.

- Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.

Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố khoảng 6, 7 người đang vẹt vòng rào kẽm gai đi vào hướng cửa dinh. Đến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ vấn tóc lủng lẳng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát xử dụng) số còn lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc gì cả. Nhóm người này tuổi dưới 40 đã vào đến vòng kẽm gai thứ ba từ ngoài vào, còn hai vòng kẽm gai nữa mới vào đến cửa dinh. Tôi vẹt kẽm gai và gặp họ tại đây. Một người trong nhóm quay qua hỏi tôi:

- Anh làm gì ở đây?

Tôi không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn nên trả lời trớ đi:

- Tôi làm quản gia.

Người mang khẩu AK hỏi tiếp:

- Anh cấp bậc gì?

- Tôi Trung Sĩ.

Bất chợt người mang AK lên đạn chỉa mũi súng vào phía sườn tôi và nói như ra lệnh:

- Đi!

Lúc bấy giờ, tôi hồn phi phách tán, nghĩ thầm “chết là cái chắc.” Một người trong nhóm nói:

- Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi!

Bọn chúng đi từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên:

- Súng ngộ và đẹp quá.

Chị bới tóc tiếp theo:

- Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng.

Tôi tự nhiên cảm thấy lòng mình se lại. Bất chợt, nhóm người này dừng chân, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu cho tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua phòng ngủ của tôi. Chết rồi! Chắc bọn chúng bắn mình ở đây. Tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại nhìn cửa vô dinh. Tôi thấy Tư Lệnh đẩy nhẹ cánh cửa lưới chắn ruồi trước cửa phòng làm việc của ông rồi bước ra. Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào phòng (một người tay không, một người mang khẩu B38, một người mang khẩu Carbin). Số còn lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi. Khoảnh khắc, Trung Sĩ Hộ từ phòng Thiếu Tướng bước ra cho biết Tư Lệnh đang nói chuyện với VC và bảo tôi:

- Thiếu Tướng bảo Trung Úy lấy thuốc lá hút.

Có cớ vào gặp Tư Lệnh, người mang AK bỏ thõng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng vẫn nơm nớp lo sợ là nó có thể bắn tôi từ đằng sau tới. Vô sự, thế là thoát nạn, vào phòng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc Capstan đầu lọc mời Thiếu Tướng một điếu, 3 người kia mỗi người một điếu. (Tư Lệnh hút thuốc 555 nhưng thỉnh thoảng cũng hút thuốc Capstan đầu lọc.) Tôi thấy Tư Lệnh ngồi trên Sofa băng dài, người VC không mang vũ khí ngồi trên ghế nhỏ đối diện với Tư Lệnh, người mang khẩu B38 ngồi dưới sàn nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mũi súng hướng về phía Tư Lệnh, còn người mang khẩu Carbin đứng ngay cửa phòng trong tư thế tác chiến.

Xong nhiệm vụ, tôi bước ra ngoài. Người mang AK bên ngoài vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ý đến tôi nữa. Sau khoảng mười phút nói chuyện, nhóm VC này rời dinh ra về. Tôi vào phòng thấy Tư Lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt có vẻ buồn. Nhìn trên Sofa, tôi thấy điếu thuốc của Thiếu Tướng còn cháy dở dang độ 1/3 điếu nằm trên Sofa bốc khói làm lủng một lỗ nhỏ, tôi nhặt lấy vất đi.

Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay ký tên gì cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư Lệnh trở vào Trailer nằm nghỉ. Một lúc lâu, tôi vào lần nữa thấy Tư Lệnh nằm yên, chắc Tư Lệnh đã ngủ vì mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư Lệnh và tôi hầu như không ngủ. Vào khoảng 3 giờ sáng, tôi trở dậy, rón rén vào phòng Tư Lệnh lần nữa, thấy Tư Lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức vì trong lúc nằm nghỉ, ông vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt nên ra phòng làm việc ngã lưng trên Sofa một chút, nghe vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng.

Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi bỗng nghe tiếng chuông “boong, boong, boong.” Tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy đã hơn 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5. Tôi bước đến bàn thờ Phật, thấy ba cây nhang Tư Lệnh đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút.

Đứng trước bàn thờ Phật, Tư Lệnh với quân phục chỉnh tề, đang nghiêng mình xá Phật. Tôi vội đi nhanh về phòng mình làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu Tướng. Thiếu Tướng vẫn đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi:

- Đêm qua, Danh ngủ được không?

- Mệt quá, em có nằm nghỉ được một chút.

Tư Lệnh vẫn ngồi trên Sofa nơi phòng thờ Phật, tôi đi sang phòng làm việc. Một lúc sau, Tư Lệnh đến bên tôi hỏi:

- Gặp Tướng Trường được không hè?

Lúc này khoảng 6:30 sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975.

- Dạ… dạ. Tôi ấp úng trả lời tiếp:

- Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy Tướng Trường chạy xe Jeep ngang qua dinh.

Tư Lệnh hỏi:

- Có phải Tướng Trường không?

- Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống Tướng Trường.

- Tôi đừng đi tìm, kẻo bị chúng bắt.

- Dạ.

Rồi Tư Lệnh đi vào Trailer. Một lát sau, Tư Lệnh bước ra hai tay xách hai cái vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào phòng thờ Phật. Tư Lệnh đưa cho tôi cái vali màu cam và đưa Trung úy Việt cái màu đen. Tư Lệnh nhìn chúng tôi, giọng buồn buồn:

- Danh giữ cái này, Việt giữ cái này.

Tư Lệnh chỉ nói ngắn gọn như thế mà không nói thêm gì, hình như cổ ông nghẹn lại. Tư Lệnh vội bước đi, được vài bước, Tư Lệnh quay lại nói thêm:

- À, quên chìa khóa.

Rồi Tư Lệnh đi thẳng về phía Trailer, một lúc sau, ông trở ra trao cho tôi hai chìa khóa và nói.

- Cái này của Danh, cái này của Việt.

Tôi linh tính sắp có điều gì xảy ra nên Tư Lệnh mới dặn dò và chia phần cho tôi và Việt như vậy. Tuy thế, chúng tôi không dám hỏi. Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra Đại Lộ Hòa Bình trước cửa cửa dinh, tôi đứng bên phải Tư Lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xa qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi không hiểu Tư Lệnh có định đi ngoại quốc không? Nếu muốn, có lẽ Tư Lệnh cũng đi hết kịp rồi. VC vào đây có bắt Tư Lệnh không? Có làm hỗn hoặc bắn Tư Lệnh không? Nếu sự việc xảy ra thì phải giải quyết làm sao? Tôi đang miên man suy nghĩ, Tư Lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới.

Từ ngoài nhìn vô bàn Phật, Tư Lệnh ngồi trên ghế Sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về nhà thăm vợ con còn Trung sĩ Hộ đang thập thò trước cửa. Tư Lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông “boong, boong, boong” xong xá ba xá nữa rồi ông về ngồi trên Sofa như cũ, hai tay để trên thành gỗ Sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì xảy ra. Bất chợt, Tư Lệnh xoay qua bảo tôi:

- Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi.

- Dạ.

Tôi thầm nghĩ Tư Lệnh và tôi độc thân chắc Tư Lệnh nghĩ cách khác. Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng Trung Úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ “đùng” phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi hốt hoảng xoay người chạy trở lại thì Trung Sĩ Hộ đã chạy ra la thất thanh:

- Đại Úy ơi! Đại Úy ơi! Thiếu Tướng tự sát chết rồi.

Trong lúc sợ hãi, anh Hộ quýnh lên gọi tôi là Đại Úy. Tôi chạy nhanh vào phòng thờ Phật thấy một cảnh tượng hãi hùng trước mắt mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Tư Lệnh ngã ngửa hơi lệch về phía sau Sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, mắt ngước nhìn lên trần nhà. Khẩu Colt 45 vẫn còn trong tay buông thõng xuống lòng Tư Lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đã nới lỏng, phát đạn xuyên màng tang phải qua trái. Tư Lệnh chưa chết hẳn, nhưng nói không được, thân hình ông run lật bật, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng “khọc, khọc, khọc” từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Hộ thấy vậy vội ôm lấy Thiếu Tướng nói:

- Thôi mình chở Thiếu Tướng đi bệnh viện.

Tôi cũng ôm chầm lấy xác ông vừa khóc vừa nói:

- Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu Tướng đã quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu Tướng đi thăm anh em thương binh ở Bệnh Viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh là: “Qua ở lại với các em.”

Anh Hộ nói tiếp:

- Em đâu dám đến gần Thiếu Tướng. Đứng ở ngoài cửa, em chỉ thấy lưng Thiếu Tướng. Em thấy Thiếu Tướng móc gì từ trong túi ra, em tưởng Thiếu Tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu Tướng móc khẩu súng và tự sát liền, em chạy lại đâu kịp.

Vừa nói anh Hộ vừa khóc nức nở. Chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư Lệnh khóc ngất. Trong lúc bối rối và hoảng hốt, tôi đâu còn tâm trí để xem đồng hồ, tôi đoán lúc đó vào khoảng 7 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975.

o O o

Vâng. Đúng như vậy. Tôi là một sĩ quan cấp Úy còn ít tuổi, sống độc thân. Nhờ vậy tôi đã được Tư Lệnh chọn ở bên cạnh ông.

Giờ đây gần 30 năm qua, tôi vẫn còn nhớ mãi từng giây phút cuối cùng của ngày 30 tháng 4-1975.

Với tư cách là Tư Lệnh của chiến trường miền Tây, ông Thiếu Tướng của tôi, vị niên trưởng Thủ Đức đã hết lòng với quân đội và đất nước cho đến cả sau khi nghe lệnh đầu hàng. Ngay cả việc chỉ định Đại tá Thiên thay chức Tỉnh Trưởng Cần Thơ vào trưa 30 tháng 4 cũng nhằm mục đích cần có người trách nhiệm để tình hình ổn định.

Ông là vị tướng đầy lòng nhân ái nên không muốn đổ máu thêm vô ích. Ông không cho phá cầu. Ông không tức tối với những người bỏ đi. Ông không muốn có người chết thêm sau khi Tổng Thống đã đầu hàng.

Sau này tôi mới biết rằng sau khi nghe lệnh Sài Gòn đầu hàng, Tư Lệnh đã có ý định sẽ tự vẫn. Vì vậy ông đã bình tĩnh đi thăm Quân Y Viện Phan Thanh Giản vào buổi chiều. Tại nơi đây tôi đã từng theo ông đến thăm viếng nhiều lần, nhưng lần này ông đã khóc và hứa với những thương binh là ông sẽ ở lại.

Và điều đặc biệt là chính tôi không rõ Tư Lệnh đã nói gì để mà Việt cộng đã hai lần vào gặp ông nhưng đều lặng lẽ lui ra.

Trong quân đội chúng tôi học được bài học về đặc lệnh truyền tin vẫn gọi vị Tư Lệnh là Mặt Trời. Tiếng chuông niệm Phật của ông vào đêm 30 tháng 4 vẫn còn nghe vẳng bên tai. Tôi còn nhớ mãi lúc 3 thầy trò đứng khóc trên lan can nhà lầu vào sáng 1 tháng 5 năm 1975.

Đối với tôi, niên trưởng Nguyễn Khoa Nam muôn đời vẫn còn là Mặt Trời Tháng Tư chói lọi chiếu sáng cả cuộc đời còn lại của Danh. Tôi là Trung Úy Lê Ngọc Danh, mãi mãi sẽ là tùy viên của ông. Ông chết đi rồi, chẳng bao giờ có thể ai thay tôi trong chức vụ này nữa. Em luôn luôn là tùy viên của ông Thầy.

Lê Ngọc Danh,

Sĩ quan Thủ Đức
Back to top
 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Quốc Hận
Reply #188 - 24. Apr 2012 , 00:05
 
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Quốc Hận
Reply #189 - 26. Apr 2012 , 21:35
 
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Quốc Hận
Reply #190 - 27. Apr 2012 , 12:15
 

Viết cho Tháng Tư



...

Hùynh Thục Vy - Tôi sinh trưởng sau năm 1975 và gia đình tôi không có liên quan gì nhiều đến cả hai phía trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì thế mối tương quan tình cảm của tôi với những sự kiện lịch sử và hoàn cảnh chính trị xã hội trong cuộc chiến hầu như rất ít nếu không muốn nói là không có. Những gì ít ỏi mà tôi được hiểu biết về nó chỉ đơn thuần là kiến thức. Đứng trong vị thế đó, tôi tạm thời có thể yên tâm rằng lập trường của tôi, và những gì tôi nói ra sau đây sẽ được hiểu một cách thiện chí và không bị gán ghép hay chụp mũ. Tôi không sợ bị chụp mũ, nhưng thiết nghĩ điều đó cùng với những nguỵ biện không có lợi cho sự tiến bộ.

Gần đây, tôi tình cờ đọc được một nhận xét của tướng William Childs Westmoreland- Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam- về tướng Võ Nguyên Giáp của quân đội Bắc Việt như sau: "Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius...". Xin được tạm dịch là: "Dĩ nhiên, ông ta là một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm....Với sự thừa nhận của chính ông ta, đến đầu năm 1969, tôi nghĩ, ông ta đã mất nửa triệu lính? Ông ta đã báo cáo điều này. Hiện tại, một sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự...."

Dù chúng ta là ai, đứng bên nào của cuộc chiến, chúng ta cũng phải đồng ý với Westmoreland rằng, một chiến thắng quân sự dựa trên chiến thuật đẫm máu, coi thường sinh mạng binh sĩ chỉ có thể tạo nên một kẻ thù nguy hiểm chứ không tạo nên một thiên tài quân sự như nhiều người vẫn rêu rao. Câu nói này của viên tướng Hoa Kỳ làm tôi suy nghĩ rất nhiều về sự "nguy hiểm" của những người Cộng sản Việt Nam. Họ nguy hiểm bởi họ là những người luôn hành động theo phương châm "mục đích biện minh cho phương tiện", nghĩa là bất chấp mọi thứ, miễn đạt được mục đích. Đối với tôi, nó không chỉ là lời nhận xét về tướng Giáp mà là một câu nói nêu bật lên bản chất của những người Cộng sản Bắc Việt, và cả chế độ mà họ dựng nên. Và những việc họ đã làm suốt từ những ngày đầu có mặt tại Việt Nam đến nay, từ việc "trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ" đến gần đây nhất là vụ cướp đất của nông dân đã chứng minh tất cả.

Một kẻ đối địch ghê gớm có thể được hiểu theo hai cách. Thứ nhất, đó là một kẻ thù đáng gờm, là đối thủ khó đánh bại vì có mãnh lực vũ trang, có chiến lược, chiến thuật hành động khôn ngoan... Nhưng khi nhìn xoáy vào chữ "formidable" mà Westmoreland đã dùng, tôi chú ý nhiều đến nghĩa "arousing fear"(gợi nên sự sợ hãi) . Với nghĩa này, nó gần giống với "terrorise" (làm cho sợ hãi). Mà làm cho người khác sợ hãi có nghĩa là "khủng bố". Chúng ta có thể hiểu theo hai cách về một "đối thủ ghê gớm" như tôi đã tạm phân tích ở trên. Nhưng biết đâu, cách hiểu thứ hai mới là điều mà ông tướng Mỹ kia ngụ ý? Xin hãy cho tôi tiếp tục trình bày mà tạm quên đi những mối thành kiến nào đó có thể đang dâng lên trong lòng quý vị.

Khi căn cứ vào những dữ kiện lịch sử- những điều không thể chối bỏ, những điều đã được trải nghiệm bằng chính xương máu của những người đã kinh qua cuộc chiến ấy- chúng ta sẽ có cái nhìn tường minh hơn. Riêng phần mình, với kiến thức ít ỏi về chiến tranh Việt Nam, tôi đã có thể tìm thấy những hình ảnh có khả năng "làm cho sợ hãi" của quân đội Bắc Việt qua nhiều biến cố như Tết Mậu Thân, và các "trận đánh" của đội Biệt động Sài Gòn như: "trận đánh" tàu nhà hàng Mỹ Cảnh, "trận đánh" cư xá Brinks...; và chưa kể đến những câu chuyện ghê gớm mà tôi từng được nghe những người già kể lại về vô số những "trận đánh" như thế vào trường học, khu dân cư, cầu cống....Đến nỗi, khi nghe nói quân đội Cộng sản Bắc Việt sắp vào đến ngã ba Cai Lang, thành phố Đà Nẵng, những người dân sống ở Đà Nẵng khi đó đã run cầm cập vì nghe tin đồn rằng người Cộng sản mà vào họ sẽ rút hết móng tay móng chân người dân. Đó có thể là điều sợ hãi thái quá, nhưng nó cho chúng ta thấy khả năng gieo rắc sợ hãi đến trình độ đỉnh cao của những người tự xưng là "quân giải phóng".

Những ai đọc lịch sử, những ai có đủ lương tâm và tầm tri thức trung bình, đều thấy rằng, những cái mà quân đội Bắc Việt và những người "nằm vùng" gọi là "trận đánh" gây nhiều tiếng vang đều không nhằm vào những mục tiêu trên tiền tuyến, để giành chiến thắng quân sự trực tiếp mà đánh vào những nơi ăn chốn ở cốt để gây sợ hãi. Gây sợ hãi cho người dân nhằm làm xáo trộn xã hội, gây sợ hãi đánh vào tâm lý Quốc hội và dư luận Mỹ.... Ngày nay, ai đi qua đường Hai Bà Trưng, đều nhìn thấy "Bia chiến công trận đánh cư xá Brinks". Cái mà người ta gọi là trận đánh thực ra là một cuộc đánh bom một nơi ở của cố vấn quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam do hai thành viên Biệt Động Sài Gòn thực hiện. Điều mà họ gọi là "trận đánh" sao tôi thấy nó hao hao giống cách làm của những kẻ khủng bố Hồi giáo cực đoan, chỉ khác một chỗ là họ không tự sát. Đối với thế giới ngày nay, những kẻ đánh bom như thế thật sự là những kẻ "nguy hiểm", "ghê gớm".

Ngoài cái cách thể hiện "formidable" như trên, quân đội Bắc Việt còn khiến người ta sợ hãi hơn gấp bội vì sự coi thường tính mạng binh sĩ của họ. Thông thường, con người sợ hãi những kẻ thù tấn công mình một cách tàn ác, nhưng người ta sẽ kinh hoàng đến rợn người khi biết về những hành động coi tính mạng của người phe mình như cỏ rác, cốt chỉ nhằm đạt được mục đích của kẻ chỉ huy. Người Cộng sản đã lấy chính nghĩa chống giặc ngoại xâm để lừa dối, tuyên truyền, kích động hàng triệu Thanh niên miền Bắc lao vào cuộc chiến như con thiêu thân. Chúng ta được nghe nói rất nhiều về những tấm gương đầy nhiệt huyết và sự hy sinh anh dũng của những người trẻ tuổi mới chập chững vào đời. Đối với những cái chết đó, tôi không có bất cứ tình cảm tích cực nào ngoài sự thương tiếc. Cả một thế hệ người đã bị lừa gạt vì không nhận chân được bản chất của chế độ, của cái chủ thuyết mà nó rêu rao. Âu tất cả cũng chỉ là những sản phẩm lịch sử của một thời đại!

Để rồi sau cái ngày "thống nhất" ấy là những chuyến vượt biên vượt biển của hàng trăm ngàn người, và đã có cả hàng ngàn người phải bỏ xác ngoài biển khơi; là những năm tháng bao cấp, đói khổ đến cùng cực; đến nay đỡ đói khổ một chút, nhưng dân Việt ta vẫn chưa thoát khỏi thân phận làm thuê, ở đợ cho thiên hạ; đặc biệt vẫn còn cam chịu làm thần dân phục tùng các ông vua Cộng sản. Thế nhưng bất chấp cái thực tế đau buồn ấy, nhiều ngụy biện về thống nhất, về "công lao chống Mỹ cứu nước của Đảng" vẫn tồn tại ngay cả trong lớp người "có học" ở Việt Nam.

Thiết nghĩ một sự hy sinh chỉ nên có và đáng được ngợi ca khi đánh đổi với nó là một giá trị to lớn hơn. Bằng lập trường đề cao cá nhân, tôi cho rằng, mọi ý niệm: thống nhất, giải phóng dân tộc, kẻ thù...phải được đặt trong mối tương quan của chúng với những giá trị an sinh hạnh phúc thực sự của người dân. Suy cho cùng, mọi thứ bao gồm: thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chính trị...chỉ là những phương tiện để đạt đến những giá trị nhân bản, để bảo vệ và phục vụ con người. Mọi định chế, mọi nỗ lực chính trị và xã hội đều nhằm vào cái đích đến quan trọng nhất của nó là CON NGƯỜI. Nếu mục đích cuối cùng ấy không đạt được thì mọi phương tiện kia chỉ là mưu đồ của kẻ lãnh đạo. Thật điên rồ thay cho những kẻ luôn hô hào "mục đích biện minh cho phương tiện". Chúng ta biết rằng, việc đánh giá tính chính đáng của phương tiện tuỳ thuộc vào mối tương quan về bản chất của nó đối với mục tiêu. Nói rõ hơn, chúng ta không thể dùng một phương tiện phi nhân để giành lấy một mục tiêu nhân bản.

Kết quả là, "sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước" đã không khiến Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn, dân tộc ta trở nên kiêu hãnh hơn; mà đơn giản chỉ là biến một miền Nam trước "giải phóng" hơn hẳn Hàn Quốc, sau gần bốn mươi năm thống nhất, cùng với cả nước lẹt đẹt chạy theo sau cả Thái Lan. Nếu ta lấy cứu cánh là sự phồn thịnh của quốc gia, là an sinh hạnh phúc, là tự do nhân phẩm của mỗi một người dân làm chuẩn thì liệu sự thống nhất ấy có nghĩa lý gì?

Đó là khi vấn đề được đặt dưới lăng kính lý luận. Còn thực tế thì mọi sự đã quá rõ ràng. Cái mà người ta gọi là "kháng chiến chống Mỹ cứu nước" ấy thực chất chỉ là để giúp Trung Quốc "đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng". Hay như Lê Duẩn từng nói : "ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước XHCN, cho cả nhân loại". Nói cho rõ ra, đó là cuộc chiến giúp cho chủ nghĩa Cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á theo tinh thần Quốc tế Cộng sản bất chấp tinh thần dân tộc, là giúp cho Trung Cộng dễ dàng Hán hoá một Việt Nam suy yếu sau cuộc chiến tương tàn khốc liệt.

Đã ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày "giải phóng", giải phóng miền Nam khỏi mối quan hệ đồng minh với Mỹ để trở thành chư hầu hèn mọn của Trung Cộng. Sự thống nhất, sự giải phóng đó mới đau đớn làm sao! Gần bốn thập niên đã qua đi, dấu vết chiến tranh trên mảnh đất quê hương Việt Nam đã dần phai nhạt, nhưng những tổn thương của lòng người vẫn còn hằn sâu, thậm chí ngày càng sâu hơn. Thống nhất hai vùng địa lý nhưng vẫn vắng bóng một sự Hoà hợp trong tình tự dân tộc. Vết thương cũ do cuộc tiến chiếm miền Nam chưa kịp lành thì chúng ta lại có thêm những chia cắt mới : chia cắt giữa một bên là một nhóm người cam phận làm tay sai cho ngoại bang, với một bên là những con người yêu nước không khoan nhượng; chia cắt giữa một phía là nhóm người lãnh đạo Quốc gia cùng những kẻ ăn theo cố gắng bám giữ ngôi vị độc tài để tiếp tục nô lệ hoá người dân, với một phía là những người đấu tranh và chấp nhận hy sinh cho tự do và phẩm giá con người. Tôi vẫn nghĩ rằng, một con người trở nên dũng mãnh nhờ có ý chí. Một dân tộc trở nên hùng mạnh, cũng như vậy, phần nhiều dựa vào tinh thần và khí chất. Nhưng tinh thần và khí chất ấy chẳng thể có được nếu dân tộc ấy chia rẽ. Chính sức mạnh của tinh thần đoàn kết, sự Hoà hợp dân tộc có thể góp phần giúp chúng ta tạo lập một mãnh lực mới cho dân tộc.

Chỉ e Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục bỏ lỡ những chuyến tàu thời đại nếu trong lòng dân tộc còn có những chia cắt chí mạng như thế. Nhưng thiết tưởng, sự Hoà hợp có khả năng xoá bỏ mọi ngăn cách, hàn gắn mọi vết thương, mang mọi người Việt về trong cùng một chí nguyện chỉ có thể đạt được trên tinh thần Hoà giải thiện chí, trên quyền lợi dân tộc và trên những nguyên tắc hướng thiện chứ không phải là sự thoả hiệp với cái xấu ác. Chỉ e những người Cộng sản Việt Nam quá u mê và tham lam để khởi động một chương trình Hoà hợp, Hoà giải và thay đổi chính trị đầy tham vọng như thế. Chỉ e những người Cộng sản chẳng thể làm nổi những gì mà nhà cầm quyền độc tài Miến Điện đã làm. Chỉ e.... Bởi đến hôm nay, họ vẫn một lòng một dạ coi mối quan hệ với Trung cộng là "chủ trương nhất quán", là "ưu tiên hàng đầu" như lời Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam đã tuyên bố mới đây tại Bắc Kinh.

Mỗi năm tháng Tư về, bao nhiêu lễ lạt, đình đám vẫn diễn ra bất chấp mối hoài niệm về quá khứ vẫn nặng trĩu trong lòng nhiều người Việt, bất chấp mối ưu tư về tương lai đất nước vẫn canh cánh trong lòng những người có tâm huyết với đất nước. Những con người có lương tâm và tự trọng không bao giờ vui sướng được trong nỗi thống khổ to lớn ấy của dân tộc. Thử hỏi xương máu của hàng triệu con người đã ngã xuống trong cuộc chiến chỉ để tạo nên một Việt Nam thống nhất trong chia rẽ, thống nhất trong sự Hán hoá, thống nhất trong sự mất tự do và quyền làm người hay sao? Ba mươi tháng Tư- xin cầu nguyện cho tự do và nhân phẩm, cho sự Hoà hợp dân tộc và nền công lý.

Sài Gòn, ngày 20 tháng 4 năm 2012


Huỳnh Thục Vy
danlambaovn.blogspot.com
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
nguyen_toan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 4031
Re: Quốc Hận
Reply #191 - 29. Apr 2012 , 17:18
 
Xin giới thiệu  nhạc  phẩm "Sàigon Vĩnh Biệt " của Nam Lộc  được dịch sang tiếng Pháp  .



Saìgòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời
Sàigòn ơi! Thôi đã hết thời gian tuyệt vời,
Giờ còn đây những kỷ niệm sống trong tôi,
Những nụ cười nát trên môi,
Những giọt lệ, ôi sầu đắng.
Sàigòn ơi! Nắng vẫn có còn vương trên đường
Đường ngày xưa mưa có ướt ngập lối người về.
Rồi mùa thu lá còn đổ xuống công viên
Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng
Hay đang khóc thương cho người yêu.

Tôi giờ đây như con thú hoang lạc đàn
Từng ngày qua, từng phút sống quên thời gian,
Kiếp tha hương nếm thương đau, nếm chua cay
Tôi gọi tên ai mãi thôi.

Sàigòn ơi! Tôi xin hứa rằng tôi trở về,
Người tình ơi! Anh xin giữ trọn mãi lời thề,
Dù thời gian có là một thoáng đam mê
Phố phường vang ánh sao đêm
Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên
.
Sàigòn ơi! Tôi xin hứa rằng tôi trở về,
Người tình ơi! Anh xin giữ trọn mãi lời thề,
Dù thời gian có là một thoáng đam mê,
Phố phường vang ánh sao đêm
Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên.

NAM LỘC.
  ADIEU, SAIGON !

Chère patrie, pardonne-moi de t’ avoir quittée,
Quelles souffrances endurées depuis des années,
Dans mon rêve, je te revois toujours,
Avec plein d’ émotion,
Des jeunes années passées ,
Chère patrie, tu me manques énormément,
Le lycée où nous avons travaillé ,
Nos chers maîtres, nos camarades de classe
Ont laissé de bons souvenirs
Des années de jeunesse.

Loin de toi, je me sens perdu,
Sans ta présence, sans ton aide, sans ton amour,
Je vis mal, sans repère, sans issue,
Je crie très fort ton nom.

Chère patrie, je retournerai, un jour,
Te revoir pour t’ aimer bien plus encore,
Finie la dure séparation,
Désormais réunis,
Nous bâtirons l’ avenir.

Chère patrie, tu représentes tant pour moi,
Dans mon cœur, dans mon âme, tout vibre pour toi,
Rien au monde ne peut te remplacer
Tu vivras toujours en moi
Tant que je respirerai.

V.P.L ( 23 /11 / 2003 )
 

[size=18][/size]
Back to top
« Last Edit: 29. Apr 2012 , 17:21 by nguyen_toan »  
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Quốc Hận
Reply #192 - 29. Apr 2012 , 17:53
 
Văn Tế Anh Hùng Tuẫn Tiết Và Đồng Bào Mất 30/04/1975 !!!!

Than ôi !!!!!!
Đã đành sự tồn vong là do mạng số.Nhưng thấy trang Anh Hùng xã thân vì Nước.Thà chết vinh còn hơn sống nhục.Đồng bào cảm kích thương yêu.
Chớ dẫu lẻ tử sinh ấy bởi căn phần,nhưng thương đấng Anh Hùng vong mạng vì tiết tháo danh thơm,chiến hữu cảm phục thương tiếc.
Người hiền lương muốn sống trong Tự Do mà không được sống,đành đem mạng đổi lấy giá Tự Do.
Nhớ xưa !!!! Vận nước điêu linh,cơ trời cay nghiệt.Giặc Cộng bạo tàn nuôi mộng xâm lăng.Đẩy Dân chúng vào cảnh lầm than.Đưa đất nước vào trận chiến tương tàn.Dân Miền NAM oai hùng giử nước.Quân Dân một lòng đập tan quân xâm lược.Từ Bình Giả,Đức Cơ,Pleime,Thượng Đức.Giặc từ miền Bắc banh xác phơi thây.Nào Mậu Thân quân Dân tiêu diệt.Giặc xâm nhập,sinh Bắc tử Nam.Kìa Kontum kiêu hùng chiến tích.Đây ĐắcTô chôn vùi xác Cộng quân.Thành Quảng Trị ngọn cờ bay chiến thắng.Trận AnLộc còn oai danh Chiến Sĩ.
Giặc kinh hoàng,Cộng quân kinh hồn bạt vía.Ngặt nỗi cơ trời chưa gặp vận hạnh thông.Lệnh đầu hàng,như chim trời gẫy cánh.Vì thượng lệnh đoàn hùng binh rã hàng buông súng.Tâm không phục,kẻ sĩ vẫn tiết tháo trung trinh.Bậc trượng phu dùng da ngựa bọc thây.Miền u hiễn hai nơi đành vĩnh quyết.
Cuộc chính trị đã chế ngự binh hùng tướng mạnh.Vận nước NAM lại do ngoại bang quay cờ chuyển hướng.
Cơ cầu thay !!!! Thế thời không thỏa lòng trang tuấn kiệt,chí hùng anh.
Oan uất nhỉ !!!! Quân xâm lược lại chiến thắng người hiền lương giử nước.
Ôi nhớ linh xưa !!!! Lòng một lòng tận trung với Nước.Dạ miệt mài son sắc chử Tự Do
Thê tử chia lìa.Phụ tử phân ly.Đệ huynh cách biệt.Nhớ luống ngậm ngùi,nghĩ càng thương tiếc.
Tiếc là tiếc mãnh lòng ái Quốc.Nghìn đời còn tư vọng tấm trung can
Thương là thương tấc dạ phù Dân.Vạn đại vẫn quan hoài bầu nhiệt huyết.Thương Dân mà không bảo vệ được Dân.Thương nòi mà không giử được Nước.
Bậc trượng phu chẳng màng nguy hiểm.Dùng xác thân tô điểm hai chử Tự Do
Hồn Linh đã hiển hách thành thần mà phong thái vẩn uy nghi lẫm liệt.
Ôi nay chúng tôi !!!! Chiến hữu và đồng bào người VIỆT.
Lễ phẩm kính dâng thành tâm bái yết. Trên hương án chư hồn thiêng phảng phất.Xin chứng dám lòng thành cung tiến hương dâng
Trước bàn thờ chúng tôi xin tỏ lòng thành kính tri ân. Vái van hồn thiêng các Anh Hùng chiến hữu vì nước phải vong thân.Cùng Anh Linh đồng bào vì Tự Do mà đoạn kiếp
Khấn rằng !!!! Xin hộ trì chúng tôi kiên tâm vững chí hoàn thành sự nghiệp.Phục hưng đất nước thoát vòng vạn khổ thiên nan
Xin phù trợ chúng tôi bền tâm tranh đấu cho quê hương sớm có được Tự Do,Dân Chủ,Phú Cường và Hạnh phúc
Chúng tôi nay !!!! Thành tâm bái lạy !!!! Phục duy chứng dám !!




Bài Văn Tế này do em Mậu Thân viết , em là ngườicon dân Việt Nam mang 2 giòng máu Mỹ Việt , em là người có tinh thần yêu nước rất cao.

Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Quốc Hận
Reply #193 - 04. Apr 2013 , 22:47
 


    Nỗi buồn tháng Tư


    Mũ xanh Phạm Văn Tiền K20


...

 
  Thêm một lần nữa tháng Tư lại về, tháng Tư xứ người chợt nhớ tháng Tư xứ mình, tháng Tư ấy đã đánh dấu một đoạn đường dài lưu lạc của tập thể người Việt tha hương. Tháng Tư với ngày cuối tháng nhạt nhòa nước mắt mà chúng ta muốn quên, nhưng không thể nào quên được. Tháng Tư đen ngày vong quốc hận, chiều 30 đất nước phủ màu tang!

    Ngày 30-4-1975 của 38 năm về trước là ngày buồn thảm nhất trong dòng sử của dân tộc Việt Nam. Một chế độ Cộng Hòa sau hơn 20 năm gầy dựng cùng bao xương máu đã đổ ra, phút chốc đã tan thành mây khói. Cuộc tháo chạy của Đồng minh trước sự xâm lăng thô bạo của chủ nghĩa Cộng Sản toàn cầu, đã làm cả miền Nam bàng hoàng sửng sốt. Người dân không còn kềm nỗi sợ hãi nên đã bỏ của chạy lấy thân. Những xác người lênh đênh ngoài biển cả hoặc bỏ nắm xương tàn tận mãi rừng sâu. Cả đất nước trở thành biển máu từ khi cộng sản tràn vào. Nhiều chiến sĩ can trường của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu bảo vệ thủ đô đến giờ phút cuối cùng, với rất nhiều sự tuẫn tiết trong đó có các tướng lãnh anh hùng.

    Tháng Tư gợi nhớ hình ảnh hơn 400 em Thiếu Sinh Quân mặc đồ vàng, nghiêm chỉnh xếp hàng đôi lặng lẽ chờ đợi dưới sân cờ tại trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, để rồi sau đó tử thủ đến sức cùng lực kiệt. Những người lính Nhẩy Dù oai hùng tại trại Hoàng Hoa Thám, những đơn vị TQLC tan hàng tại cầu xa lộ, ngã tư Hàng Xanh đã tung nổ lựu đạn để cùng chết bên nhau, khi vị Tổng Thống “tạm quyền” Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, cùng vài chục tướng tá của chế độ Cộng hòa đã tự sát. Còn, còn nhiều lắm những chiến sĩ vô danh tự tìm cho mình một cái chết vinh hơn sống nhục. Những giọt nước mắt rồi sẽ được tiếp tục nhỏ xuống để tiếc thương, thương tiếc về những oan khúc cho những người lính anh hùng, cùng biết bao chiến sĩ đồng bào vô danh khác. Chính họ đã viết nên trang sử đen tối nhưng vô cùng hãnh diện cho Chính Nghĩa Quốc Gia, những người Việt Tự Do không bao giờ chấp nhận chế độ cộng sản phi nhân.

    Tháng Tư năm 1975, hàng trăm ngàn quân, dân, cán chính miền Nam đã bị đưa vào các trại tù “học tập cải tạo”, hàng chục ngàn người đã bỏ xác trong các trại giam, nạn nhân của chính sách trả thù thâm độc. Hàng vạn đồng bào đã chết tức tưởi nơi sương lam chướng khí vì chính sách đày đọa trả thù ở các vùng kinh tế mới. Hàng ngàn người đã mất trắng tay vì bị đảng Cộng Sản Việt Nam ăn cướp tài sản, bằng chính sách cải tạo công thương nghiệp.

    Tháng Tư 1975, đánh dấu giai đoạn cả nước Việt Nam trở thành nạn nhân của chủ nghĩa Cộng sản. Một chủ thuyết phi nhân man rợ đã gieo rắc tai ương thảm họa cho nhân loại nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng. Sau 38 năm áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản trên toàn đất nước, Viêt Nam hiện nay vẫn là quốc gia nghèo, chậm tiến, tham nhũng, độc tài toàn trị và liên tục vi phạm thô bạo các quyền làm người.

    Tháng Tư, chúng ta nghiêng mình tưởng niệm những chiến sĩ anh dũng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh vì lý tưởng Tự Do, đã chiến đấu ngăn chận chủ nghĩa Cộng Sản và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trước thảm họa ngoại xâm.

    Tháng Tư, chúng ta ngậm ngùi và ghi ơn các chiến sĩ dân chủ Việt Nam, đã vì lý tưởng Tự Do, Dân Chủ, chủ quyền cho đất nước mà chịu cảnh đọa đày, tù tội. Họ những người Việt Nam yêu nước can đảm đứng lên tranh đấu trước hiểm họa mất nước vì kẻ thù phương Bắc.

    Ba mươi tám năm về trước, không ai có thể nghĩ đến một ngày nào đó mình phải sống lưu lạc nơi xứ người, và cũng chẳng ai dám nghĩ rằng vì muốn có một cuộc sống Tự Do mà bao nhiêu người đã vùi thân xác mình tận rừng sâu hay ngoài biển cả.

    Ba mươi tám năm mùa Quốc hận đã qua đi, dân tộc Việt Nam vẫn còn đắm chìm trong màn đêm tăm tối dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, đất biển đảo do tiền nhân để lại lần lượt vào tay kẻ thù truyền kiếp Trung Quốc. Câu hỏi nào sẽ được đặt ra để Người Việt Nam tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại nầy có thể làm gì cho đất nước!

    Nhiều chính trị gia đã từng nói, sự lừa dối là thứ thuốc phiện của chủ nghĩa cộng sản. Chúng lừa dối người lẫn mình, bưng bít thông tin để lừa người trí thức, nói láo với nông dân để nâng họ lên tận trời xanh, tâng bốc người ít học để họ làm điều ác, con lên án cha mẹ, vợ đấu tố chồng để rồi sau khi đạt được mục đích tất cả đều trở thành vật hy sinh, bị chính con người cộng sản thanh trừng giết hại chẳng gớm tay. Chế độ cộng sản cai trị người dân bằng vũ lực như lời khẳng định của Mao Trạch Đông “Súng đạn đẻ ra chính quyền, hay quyền lực đặt trên nòng súng”.

    Nhân mùa Quốc hận lần thứ 38 năm nay, những tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa đã được tên Thứ Trưởng Ngoại giao Việt Cộng Nguyễn Thanh Sơn cùng phái đoàn cộng sản đến thăm vào ngày 1-3-2013. Hình ảnh thắp nhang tưởng niệm trong một y phục không trang nghiêm đã để lộ bản chất thiếu lịch sự của một nhà ngoại giao. Bên cạnh sự thăm viếng rất trang trọng và uy nghiêm của phái đoàn do ông Tổng lãnh sự Lê Thành Ân tòa Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Saigon vào ngày 7-3-2013. Một âm mưu tráo trở mới mà chúng ta cần phải đề cao cảnh gíác. Ngay chính nơi Nghĩa Trang phía Bắc những đồng đội của họ đã nằm xuống trong cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc vẫn còn bị hoang tàn bỏ phế, không cho phép một vòng hoa tưởng niệm vào ngày 17-02-2013 vừa qua thì làm gì họ có lòng tưởng niệm những tử sĩ QLVNCH! Đây cũng là trò chơi chính trị dơ bẩn của một chế độ đầy mưu mô chước quỷ, đánh lận con đen, vàng thau lẫn lộn khi chúng một lần nữa đã đổi tên, từ Nghĩa Trang dân sự nay trở thành Nghĩa Trang Nhân Dân huyện Dĩ An nhằm xóa tan di tích lịch sử, lợi dụng người chết để chạy tội bán nước. Một lần nữa chúng âm mưu biến những sự hy sinh cao cả của người lính miền Nam thành sự chiến công thần thánh của chúng. Một hành động gian manh mà chúng ta, những người còn sống hôm nay cần phải lên tiếng, minh oan cho hơn 16.000 tử sĩ Việt Nam Cộng hòa đã nằm xuống trong nghĩa trang nầy chỉ vì lý tưởng Tự Do.

    Là người dân Việt Nam, chúng ta phải biết rằng bọn cộng sản Việt Nam đã lừa đảo quá nhiều rồi, chúng dối trá lường gạt để cùng nhau chia chác, làm giàu trên xương máu nhân dân mà không cần biết đến sự cùng cực đói nghèo cả một dân tộc. Tài nguyên quốc gia bị lần lượt tịch thu bán dần mòn vào túi tham của bọn tham ô lãnh đạo đảng. Bao nhiêu công trình đang xây dựng bị dở dang, hàng loạt các tập đoàn kinh doanh thất thoát hàng chục tỷ đôla cùng toàn thể hệ thống ngân hàng tín dụng bị sụp đổ. Chỉ tính riêng trong tháng 1 và 2 năm 2013 đã có hơn 8.600 công ty xí nghiệp ngưng hoạt động (theo lời ông Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Chủ Nhiệm Văn Phòng Chính Phủ CSVN). Chúng đang lâm vào cảnh thiếu nợ ngập đầu nếu không có ngoại tệ để chi trả thì sẽ nguy cơ bị hủy diệt, cùng với chiến dịch đòi sửa đổi hiến pháp được khởi đầu bằng 72 cựu đảng viên trí thức trong nước.
    Có nhiều người nước ngoài đã đặt thẳng vấn đề với người Việt chúng ta. Chúng ta thỉnh nguyện chính phủ Hoa Kỳ và các nước phương Tây không trợ cấp, không mua bán hoặc tiếp tay cho một chế độ độc tài gian ác phi nhân quyền. Trong khi đó, chính chúng ta trực tiếp hoặc gián tiếp chuyển về Việt Nam hàng tỉ đôla mỗi năm. Số tiền nầy chiếm hơn 1/3 ngân sách tài chánh của chế độ đương quyền, để nuôi dưỡng đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục đè đầu, đè cổ người dân.
    Mỗi một người Việt Nam phải suy nghĩ và tìm ra hướng đi cho chính chúng ta. Tẩy chay hàng hóa độc hại Trung Quốc, không mua hàng hóa Việt Nam, không du lịch và không gởi tiền về Việt Nam dù bất cứ hình thức nào. Tuyệt đối không ủng hộ, không quyên góp cho bất cứ tổ chức nào để gây quỹ dưới danh nghĩa từ thiện, tôn giáo chùa chiền, trừ việc cần thiết để cứu giúp các thương phế binh, cô nhi quả phụ của các tử sĩ anh hùng.

    Cộng đồng tị nạn Cuba đã thay đổi được xứ sở Cuba bằng cách không gởi tiền về thân nhân họ từ năm 2004-2009 và họ đã thành công. Cuba hiện là nước đang có chiều hướng phát triển hòa nhập theo sự tiến bộ của cộng đồng thế giới.

    Ba mươi tám năm mùa Quốc hận đã đi qua, người dân trong nước đã quá ê chề dưới sự cai trị độc tài của đảng cộng sản. Việc bắt giam các nhà trí thức một cách rầm rộ trong nước gần đây đã nói lên sự sụp đổ không sớm thì muộn của đảng cầm quyền. Cho đến khi nào toàn dân không còn sợ hãi nữa và chúng ta ngưng nguồn tiếp tế cho họ thì lúc đó đảng cộng sản sẽ bị cáo chung.

    Ba mươi tám năm qua, đã đến lúc Đảng Cộng Sản Việt Nam nhìn thấy cần sức mạnh khối tài lực của người Việt tại hải ngoại. Qua hình thức văn hoá vận bằng nghị quyết 36 để chiêu dụ những kẻ hám danh, trục lợi nhằm lũng đọan hàng ngũ quốc gia. Nhưng chúng đã hoàn toàn thất bại vì những thứ mà chúng kiếm được là những thành phần rác rưới nhẹ dạ, hám danh, một loại phế thải trong tập thể cộng đồng Người Việt Quốc Gia đang sống lưu vong tại hải ngoại. Ở đâu và bất cứ thời nào cũng có những tên Việt gian trở mặt theo kẻ thù để đâm sau lưng chiến hữu và đồng bào bất chấp hậu quả. Bọn tay sai nầy chỉ biết có tiền, nhắm mắt vâng theo để quậy phá làm tan rã khối đoàn kết chống cộng của chúng ta.

    Tháng Tư xứ người nắng ấm tình nồng, tháng của đất trời vào Xuân chim hót líu lo, nhiều cụm hoa dại màu rực rỡ như khoe sắc khắp mọi nơi. Màu cỏ non xanh mướt cùng những cơn mưa nhẹ bất chợt buổi chiều đã gợi nhớ lại nổi buồn trong lòng người xa xứ. Qua rồi những ngày tháng Tư buồn thảm lê thê trong lòng người xa xứ. Tháng Tư năm nay, chúng ta đốt nén nhang, cầu nguyện những người quá cố hãy vì sự tồn vong và tương lai đất nước, giúp chúng ta nghị lưc và sáng suốt để tiếp nối đoạn đường. Xin cúi đầu, tưởng niệm anh linh, liệt sĩ đã vị quốc vong thân phù trợ chúng ta thêm dũng cảm để tiếp tục cuộc đấu tranh vì chính nghĩa. Với tất cả lòng thành và nhiệt tâm chúng ta sẽ cùng toàn dân trong nước đòi cho được “Dân chủ, Nhân Quyền và Chủ Quyền” cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

    Cộng Sản Việt Nam đang trên đà suy sụp trước sự bất mãn của toàn dân từ quốc nội đến khắp năm châu. Bản Kiến Nghị 72 của 72 nhà trí thức phản tỉnh cộng sản đã được Người Việt khắp mọi nơi hưởng ứng nhiệt thành, Thư của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và mới nhất là Bản Tuyên Bố Công Dân Tự Do đã được hàng vạn người trong và ngoài nước hưởng ứng: đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp, đa nguyên đa đảng trong một cuộc bầu cử tự do. Quân đội phải là lực lượng phục vụ dân chứ không phải phục vụ đảng, phi chính trị hóa quân đội.

    Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry vừa vinh danh blogger Tạ Phong Tần, người đã bị cộng sản kêu án 10 năm tù là một trong 10 phụ nữ kiệt xuất của thế giới năm 2013, nhân Ngày Phụ Nữ Quốc Tế 8-3 năm nay. Bên cạnh danh dự lớn lao nầy, còn có Blogger Huỳnh Ngọc Chênh - người đã có những bài viết cổ súy quyền tự do báo chí và ngôn luận nhằm tố cáo nhà cầm quyền cộng sản vi phạm trầm trọng trên trang blog của mình, cũng đã được tổ chức phóng viên Không Biên Giới Quốc Tế tặng giải thưởng “Công dân mạng 2013”. Giải thưởng đã được tổ chức tại Paris vào ngày 12-3-2013.

    Có mùa Quốc hận 30-4 nào mà chúng ta không ngóng trông một cơn bão chính trị đột biến để giật sập chế độ cộng sản hiện hành. Có mùa Quốc hận nào mà chúng ta không mơ ước cho đất nước và dân tộc Việt Nam sớm thóat khỏi chế độ độc tài toàn trị.

    Đã đến lúc mỗi một người dân Việt Nam không còn sợ hãi cùng hòa nhập với “Lời tuyên bố Công Dân Tự do”, sẽ trở thành sợi dây bền vững kết nối hàng triệu triệu trái tim Việt Nam hầu xóa tan một thể chế độc tài toàn trị, bảo thủ và ngu xuẩn. Từ ngày hôm nay chúng tôi khẳng định rằng, chúng tôi sẽ sống và hành xử như những người tự do với trọn vẹn nhân phẩm thiêng liêng. Giờ của tự do đã điểm, tất cả mọi người hãy cùng nhau lên đường!!! (Lời tuyên bố mới đây của Blogger Trần Quốc Việt trên trang mạn Danlambao)

    “Tôi chưa thấy một đêm nào dài thế. Cũng chưa thấy có ngày mai nào không thể. Vì người ta cần ánh mặt trời. Tỉnh dậy đi lũ chúng ta ơi!” Thơ nhà báo dũng cảm Nguyễn Đắc Kiên (Hà nội 25-2-2012).

    Ngày tàn của đảng cộng sản Việt Nam sẽ không còn bao lâu nữa... Những kẻ bạo phát rồi sẽ bạo tàn. Lịch sử dân tộc đã chứng minh điều đó.

    Arlington, mùa Quốc hận 30-4-2013
    Mũ xanh Phạm Văn Tiền K20


Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: Quốc Hận
Reply #194 - 12. Apr 2013 , 08:18
 

...




Thư Gửi anh Lính Miền Nam


Nguyễn Bá Chổi vừa nhận được lá thư dưới đây của của một cựu bộ đội cụ Hồ qua đường bưu điện. Nhận thấy nội dung liên quan đến “đại thắng mùa xuân” mà “đảng ta” đang chuẩn bị ăn mừng ngày kỷ niệm lần thứ 38, Chổi xin quá giang Danlambao cho đăng lại nơi đây sau khi được sự đồng ý của tác giả bức thư với điều kiện dấu tên. Tiện thể, người nhận xin gửi nơi đây lời cám ơn đến anh cựu “giải phóng quân” Cách Mạng đã chia sẻ tâm sự phản tỉnh với “Ngụy quân”.

Anh Chổi,

Trước hết tôi xin phép anh, thú thật, nhờ đọc những bài viết của anh suốt mấy năm nay, từ Cu Tèo trong mục “Bác cháu ta lên mạng” đến Kỵ Binh rồi Nguyễn Bá Chổi, tôi biết được anh từng là một người lính trong Quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước 30 tháng Tư 1975, và biết được tuổi anh với tôi cũng xêm xêm nhau. Tôi viết “xêm xêm” theo kiểu nói người Miền Nam các anh hay dùng để anh hay rằng tôi, một bộ đội cụ Hồ thập thành trước kia nay đã tự giác tự nguyện tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc trên con đường Ngụy-quân hóa và Mỹ-cút hóa (con cháu tôi bây giờ học tiếng Mỹ thay vì tiếng Nga, như đảng ta đã bái bai Kinh Tế Tập Trung đói meo chạy theo Kinh Tế Thị Trường béo bở, bỏ đồng Rúp núp đồng Đô – theo văn phong kiểu anh viết vậy).

Bởi vì sau khi giải phóng Miền Nam , tôi khoái quê hương của anh quá xá rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó anh. Xin anh đừng buồn hay thấy bị xúc phạm khi tôi dùng chữ “Ngụy” trong thư này, lý do giản đơn là, một phần do quen mồm quen mép, một phần khác quan trọng hơn là, nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa “đồi trụy” Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam các anh có anh hùng Ngụy… Văn Thà, trong khi Thủ tướng Miền Bắc của chúng tôi tự cho mình là chân chính lại ký công hàm bán nước, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu cộng, mà bây giờ nhờ đọc qua loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ” của Đặng Chí Hùng kèm theo những hình ảnh tư liệu dẫn chứng, tôi mới biết được thực sự ai ngụy ai ngay, nhưng đây không phải là nội dung tôi muốn đề cập đến trong thư này.

Thưa anh Chổi, điều tôi muốn đề cập với anh hôm nay là cám ơn các anh đã… thua cuộc chiến tranh mà trước kia chúng tôi hăm hở gọi là “giải phóng Miền Nam”. Thực tế cho thấy đó là “giải phóng Miền Bắc”. Nói thế nghe ra là ”phản động”, nhưng thực chất là vậy. Nếu bác Hồ từng nói “Nước Việt nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” – cứ cho bác Hồ nói đúng đi, mặc dầu theo sách giáo khoa Cách mạng dạy thì Việt Nam ta không chỉ có một mà có tới 53 dân tộc (trong Nam các anh gọi là 53 sắc tộc, xem ra đúng hơn), thì ta cũng có thể nói, nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi.

Thực tế đó là gì? Cũng giản đơn và dễ dàng như tòa án Hải Phòng vừa xử phạt tù anh em Đoàn Văn Vươn là nạn nhân, và phạt tù treo đám thủ phạm tép riu, còn đám đầu sỏ chủ mưu thì hoàn toàn vô can, trong vụ cưỡng chế tài sản nhân dân mà chính Thủ tướng kết luận “hoàn toàn trái pháp luật”. Nếu các anh không thua cuộc chiến thì bộ đội cụ Hồ chúng tôi đâu có thu được hàng tỷ khối chiến lợi phẩm mang về làm náo nức nhân dân Miền Bắc, trong đó có cậu bé 13 tuổi quê hương Xô Viết Nghệ Tĩnh sau này là nhà báo Huy Đức ghi lại:

“Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; Cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; Con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe – buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.

Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh… được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày [1], Thép Đã Tôi Thế Đấy [2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.” (Bên Thắng Cuộc).

Còn chính bộ đội cụ Hồ như chiến sĩ gái Dương Thu Hương háo hức bao nhiêu trên đường giải phóng Miền Nam thì sau 30/4/75, khi vào đến Sài Gòn đã… Ta thử đọc trích đoạn cuộc trao đổi giữa cô với nhà báo Đinh Quang Anh Thái (*)

“Đinh Quang Anh Thái: Bà từng viết rằng, ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi các phụ nữ khác trong đoàn quân của bà trầm trồ trước sự trù phú vật chất của miền Nam thì bà ngồi khóc trên lề đường Sài Gòn. Bà có thể nhắc lại tâm trạng của bà lúc đó?

-Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc.

Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.”

Rồi chuyện ông bác sĩ bộ đội cụ Hồ mà anh gặp tại nhà người bạn chiến hữu của anh ở Tân Định ngay sau khi mới giải phóng Sài Gòn trông như người ngoài hành tinh mới đến, cứ ngơ ngơ ngáo ngáo, bảo “có vào đây mới biết đồng bào Miền Bắc ngoài đó quá khốn khổ”.

Anh Chổi ơi, vài mẩu chuyện trên đây là của vài ba cá nhân lẻ tẻ nhưng là đại diện cho tâm trạng chung của tuyệt đại bộ phận đoàn quân “đại thắng mùa xuân” ngay sau khi mèo mù vớ được cá rán Miền Nam đó anh. Bây giờ thôi những mẩu chuyện cá nhân để nhìn vào tổng thể sờ sờ trước mắt.

Giá như ngày đó Mỹ không chịu cút, Ngụy không chịu nhào và các anh cứ tiếp tục giữ vững Miền Nam với chế độ Tư Bản một mình thì chúng tôi, tức Miền Bắc, cứ vẫn xếp hàng cả ngày và chỉ được tiêu chuẩn “mỗi năm ba tấc vải thô, lấy gì che kín cụ Hồ em ơi”, Ba Ếch cứ tiếp tục trốn chui trốn nhủi trong rừng tràm U Minh, đêm du kích ngày chích mông, chứ làm gì có nhà thờ họ hoành tráng lừng lựng giữa Rạch Giá như bây giờ. Nói chung không nhờ Miền Nam các anh thua thì làm gì chúng tôi được nếm mùi bã Tư bản để được như ngày nay. Không nhờ các anh bỏ của chạy lấy người thì của đâu cho Cách Mạng lấy làm giàu như bây giờ. Không nhờ các anh thua cuộc thì ngày nay chắc chắn Miền Bắc chúng tôi còn tệ hơn nước anh em XHCN Bắc Triều Tiên của cậu Giun Kim Ủn bây giờ.

Nói túm lại, kỷ niệm ngày 30 tháng Tư 75 là để mừng cho Miền Bắc chúng tôi được giải phóng, chứ Miền Nam các anh thì bị một vố phỏng… nhớ đời này qua đời khác. Nhưng ở đời này, anh còn lạ gì, khốn nạn của người này là hạnh phúc của người kia. Thôi thì Miền Nam các anh đã hưởng lâu rồi, nhiều rồi, nhường cho đồng bào Miền Bắc chúng tôi được giải phóng một ti, cho công bằng.

Cảm ơn anh đã đọc hết thư này của một người cựu thù cùng máu đỏ da vàng, cùng quê hương “ông bác” mà ngày nay mỗi lần nghe nhắc đến là tôi muốn độn thổ vì xấu hổ.

Trân trọng chào Anh,

Một cựu bộ đội cụ Hồ trong đoàn “giải phóng quân” 1975.

Sài Gòn, năm thứ 38 ngày Giải phóng Miền Bắc.


Nguyễn Bá Chổi
danlambaovn.blogspot.com
Back to top
 

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 11 12 13 14 15 16
Send Topic In ra