Hôm nay, xin mọi người tạm lánh cõi trần để cùng hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu du ngoạn cõi Thiên Thai, vui chơi với bầy tiên nữ xinh đẹp, quên đi những ưu phiền vô duyên trong đời sống. Văn Cao đã sáng tác ca khúc tuyệt vời "Thiên Thai" năm mới 18 tuổi, ở thành phố cảng Hải Phòng. Theo bố già PD, Văn Cao vốn nhút nhát, không bao giờ dám nói từ "Yêu" với người đẹp nên thường ôm hận trong tình trường, vì ở đời hiếm có chuyện cột đi tìm trâu lắm! Nội dung ca khúc có một câu khá lãng mạn, gợi cảm: "Thiên Thai, chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm..." Thì ra nghệ sĩ không có duyên được xơi đào thứ thiệt nơi trần thế, bèn vẽ cảnh thiên thai để hy vọng được thưởng thức đào tiên, thơm như múi mít chăng! Quả thật, thời nay trên thị trường có nhiều sản phẩm thật giả hỗn độn rất khó phân biệt, kể cả những thực phẩm bầy bán lồ lộ ngay trước mắt mọi người. Nào là gạo nylon, khô mực cao su...biết đâu lại chẳng có đào plastic hay đào...silicon không biết chừng! Tuy nhiên, nhạc sỹ cuối cùng đã khôn ngoan lựa đào "ảo" trên mạng để thưởng thức, chắc ăn hơn lại khỏi tốn tiền mua.
Theo như đánh giá của "người trong nước" thì Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn là ba cây đại thụ trong làng tân nhạc VN. Bàn về số lượng thì PD đứng đầu khoảng 1000 bài, TCS xếp hạng nhì 600 bài và hạng chót VC khoảng vài chục bài. Thế nhưng về phương diện tài hoa thì Văn Cao lại được xếp hạng cao trên cả hai đồng nghiệp.
Thiên tài Văn Cao, tên thật là Nguyễn Văn Cao, sanh năm 1923 tại Hải Phòng, qua đời năm 1995 tại Hà nội. Đám tang của ông tại Thủ đô Thăng Long được nhà Nước và thân hữu tổ chức rất long trọng, vòng hoa phúng điếu chất cao như núi.
Nghệ sỹ quả là đa tài, vừa là văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ, chiến sĩ và dĩ nhiên cả nhạc sỹ. Đặc biệt là nghề nào chàng cũng xuất sắc và để lại khá nhiều tác phẩm có giá trị cho đời.
Về Văn, ông đã viết nhiều truyện đăng trong Tiểu thuyết Thứ Bẩy lúc thiếu thời.
Còn về Thơ thì phong phú và đa dạng tiêu biểu như "Ai về kinh Bắc, Đêm Hà Nội, Năm buổi sáng không có trong sự thật..." Năm 45, ông được chứng kiến tận mắt cảnh dân chúng bị chết đói đầy đường, đã sáng tác một bài thơ lịch sử rất xúc động có tựa đề "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc". Sau này, năm 54 trong "Giai phẩm mùa Xuân" (Nhân văn Giai phẩm) ông đã làm bài thơ có tựa đề "Anh có nghe không ", ngụ ý chống lại sự kìm kẹp của Đảng, đòi văn nghệ sỹ phải được cởi trói để tự do sáng tác. Hậu quả là ông bị thất sủng, phải đi công tác lao động vất vả ở những miền khỉ ho cò gáy trong một thời gian khá dài. Cũng từ đấy, những sáng tác phẩm của ông bị cấm không được in ấn hoặc biểu diễn nơi công cộng, mãi cho đến năm 80 mới được tha Tào. Lúc đó, độc nhất chỉ còn bản "Tiến quân ca " vì là quốc ca nên mới thoát nạn mà thôi. Bài thơ đầu tay của ông, theo tài liệu có tựa đề "Một đêm lạnh trên sông Huế " sáng tác năm 40 nhân một chuyến đi chơi vào Nam.
Về hội họa, năm 42 nghe theo lời PD, ông lên Hà Nội theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, diện bàng thính viên và đã có nhiều họa phẩm nổi tiếng như "Cô gái dậy thì", "Sám hối", "Nửa đêm..." Vào hai năm 43,44, tranh sơn dầu của ông được triển lãm tại nhà Khai trí Tiến Đức Hà nội, đặc biệt họa phẩm có tựa đề "Cuộc khiêu vũ những người tự tử" đã làm chấn động dư luận, rất được mọi người tán thưởng. Nhưng than ôi, về phương diện tài chánh thì chỉ là con số không to tướng. Tranh không bán được, lúc túng thiếu, gia đình phải đem bầy ra trên các vỉa hè, thật thê thảm và đáng ngậm ngùi cho một thiên tài đã trao duyên nhằm tướng cướp.
"Xếp bút nghiên làm... chiến sỹ" _ Cuối năm 44, ông được cán bộ Vũ Quý móc nối, đề cử ông làm trưởng "Đội Danh dự Việt Minh", có nhiệm vụ bảo vệ và giữ an toàn cho các đội viên tuyên truyền, đồng thời trừng trị những tên việt gian theo Nhật làm hại cho cách mạng. Văn Cao học võ từ năm 9 tuổi, đã nhiều lần thượng đài thi đấu và biểu diễn võ thuật. Các đội viên do chính ông tuyển lựa và huấn luyện. Lúc đó ông có nhiệm vụ phải thanh toán hai tên phản động là Võ văn Cầm ở Hà nội và Đỗ đức Phin ở Hải Phòng. Họ Võ cầm đầu đám thanh niên Đại Việt, thường hợp tác với hiến binh Nhật lùng bắt các thanh niên tham gia cách mạng. Đã bị cảnh cáo nhiều lần nhưng không hối cải nên bị đàn em ông hạ sát. Riêng Đỗ đức Phin, vốn là giáo viên mở lớp dạy tiếng Nhật và làm mật thám cho Nhật ở Hải Phòng thì do chính ông bắn bằng súng lục lúc đương sự đang hút thuốc phiện tại một tiệm ở đường Phan bội Châu.
Sau ngày quốc khánh 2/9, đội được giải thể và ông giao nộp lại vũ khí để trở về với nghề làm báo, làm thơ và sáng tác nhạc.
"Văn Cao - Nhạc sỹ " _ Văn Cao là một trong những nhạc sĩ tiền phong, mở đầu cho nền tân nhạc Việt Nam. Ông đã tham gia trong nhóm Đồng Vọng gồm các nhạc sĩ Hoàng Quý, Canh Thân, Tô Vũ, Đỗ Nhuận...mà địa bàn hoạt động là thành phố Hải Phòng. Bản nhạc tình đầu tay sáng tác năm 16 tuổi là "Buồn Tàn Thu" rất nổi tiếng đã được bố già PD, trong gánh hát Đức Huy, phổ biển rộng rãi suốt từ Bắc vào Nam. Và bản nhạc cuối cùng của ông, "Mùa Xuân đầu tiên" được ra đời tại Sài gòn năm 76, có vấn đề nên không được phổ biến, nhưng sau đó lại được in tại Nga và được trả tác quyền là 100 rúp.
Về Tình ca, Văn Cao đã có hai nhạc phẩm xuất sắc để đời là "Thiên Thai" và "Trương Chi". Ngoài ra, hai ca khúc soạn chung với PD là Bến Xuân và Suối mơ cũng được nồng nhiệt đón nhận vì có âm điệu du dương ngọt ngào và ca từ thì vô cùng lãng mạn.
Riêng bài "Tiến quân ca" sáng tác cuối năm 44 tại Hà nội và được dùng ngay làm quốc ca của nước VNDCCH. Thật đáng tiếc, nội dung bài có một câu nghe rất sắt máu, kém văn minh: "Thề phanh thây uống máu quân thù..." hình như sau này đã được loại bỏ?
Về nhạc Hùng_ Trong kháng chiến, nổi bật nhất là bản "Trường ca Sông Lô", sáng tác năm 47 mà bố già PD đã phải nức nở khen là không thua những bản nhạc giao hưởng của phương Tây. Cũng trong thời gian này còn có thêm những bài hát đầy hùng khí thúc dục thanh niên ra mặt trận để chống xâm lăng như Chiến sỹ VN, Bắc Sơn, Không quân VN...v...v...
Sau đây là một số nhận xét của các nhân vật đương thời:
Thi nô Tố Hữu: Văn Cao là một trong những nghệ sĩ hiếm quý, đã sáng tác những bản tình ca và nhạc hùng, đa số được nhân dân yêu thích trong thời kỳ kháng chiến.
Trịnh Công Sơn: Nhạc của ông sang trọng như một ông Hoàng bay trên mây, còn nhạc của tôi thì bay la đà nơi giữa cõi con người.
Phạm Duy: Văn Cao đã đưa nhạc tình thời 43,44 thoát khỏi những khuôn sáo cũ mèm.
Đặng thái Mai: Văn Cao là một viên ngọc trên bức khảm văn hoá nghệ thuật của dân tộc Việt Nam.
Năm 1996, sau khi ông giã từ cõi đời ô trọc được một năm, có lẽ nhà Nước hối hận nên đã ban thưởng hồi tố cho ông một số huy chương và bội tinh để ông thưởng thức trễ nơi tuyền đài lạnh lẽo. Ngoài ra tên của ông cũng được vinh danh bằng cách đặt tên cho những con đường tại các tỉnh lỵ suốt từ Bắc vào Nam như Hà Nội, Hải Phòng, Nam định, Sài Gòn, Huế...
Năm 1947, Văn Cao kết hôn với bà Nghiêm Thúy Băng, có được năm người con gồm ba công tử và hai tiểu thư. Rất tiếc là cho đến nay, không thấy cậu ấm hay cô chiêu nào trong gia đình được thừa hưởng cái di truyền "nổi tiếng" của ông Bố cả!
Để kết thúc bài viết, xin mời tất cả cùng thưởng thức ca khúc "Thiên Thai ", sáng tác năm 1941 tại Hải Phòng, một tuyệt phẩm để đời của nhạc sỹ Văn Cao.
Đường