Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Truyện ngắn  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 3 4 5 6 ... 11
Send Topic In ra
Truyện ngắn (Read 28291 times)
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #45 - 13. Oct 2006 , 22:21
 
Nguyễn Thị Chân Quỳnh     26/01/2006
Tôi rời Hà-nội sang Pháp từ lâu, đã ăn cả mấy chục cái Tết tha hương, cứ mỗi lần Tết đến, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của Nguyễn Bính :
Tết này có lẽ không về được,
Em gửi về đây một tấm lòng.
Chị có một em, em một chị,
Giời làm cách trở mấy con sông !
Em đi theo đuổi đời mưa gió,
Chị vẫn môi son, vẫn má hồng.
Một lá thư này là tất cả
Nỗi niềm tâm sự kẻ sang sông. (1)
Vinh, 1941
Tôi không nghĩ đời tôi có thể gọi là đời mưa gió, nhưng chắc chắn là năm nay tôi lại cũng không về được và giời làm cách trở không phải chỉ mấy con sông mà là tới mấy đại dương !
Hồi tưởng lại khi còn bé, mỗi lần Tết đến sao mà háo hức..."A ha ! Còn 5 hôm nữa thì đến Tết  Tôi và mấy đứa em nhẩy nhót, hò hét ầm ầm. Chúng tôi đếm ngày, trừ dần : còn 4 hôm, còn 3 hôm...
Muôn mầu tươi sáng, phấn, hoa, hương,
Đời ngọt ngào như có vị đường.
Tôi sống, tôi say, và mỗi Tết
Lòng tơ thêm động chút yêu đương. (2)
Tết Hà-nội hồi ấy thật là vui :
Trên hè phố người đi tấp nập,
Cu-li hình như muốn chạy gấp
Bạn ơi, Xuân đã đến nơi rồi ! (3)
Tuy các cửa hiệu không trang hoàng rực rỡ như lễ Giáng sinh ở Pháp nhưng cũng có mấy phố đặc bìệt khác hẳn ngày thường : Hàng Đường với tủ kính bầy đầy kẹo mứt, phố Hàng Bồ của tôi thì có các ông Đồ đến xin ngồi nhờ trước cửa hiệu, bán chữ :
Với mảnh chiếu rách giải trên hè,
Những tờ giấy đỏ buộc cạp tre,
Vài ông Đồ kiết tay thu áo,
Cất giọng oang oang, đọc để khoe... (3)
Ngoài đường tấp nập, trong nhà cũng nhộn nhịp lau sập gụ, tủ chè, đánh bóng đồ đồng, gói bánh chưng, muối dưa hành, làm giò thủ, nấu đông... Hễ thấy nhà gói bánh chưng là tôi mon men lại gần, xin gói cho riêng tôi một cái bánh bé tí xíu, bằng lòng bàn tay, cũng đủ nhân hệt như cái bánh thường, hình như gọi là bánh cóc.23 tháng chạp cúng ông Công ông Táo là đã bắt đầu thấy quang cảnh Tết nhưng phải đến 30 mới thực sự có không khí Tết. Tôi đi ngủ mà nằm thao thức đón nghe tiếng pháo giao thừa nổ từ xa, rồi nổ đoành đoành ngay bên tai, mùi thuốc pháo thơm nồng : nhà tôi cũng đang cúng giao thừa. Văng vẳng có tiếng mẹ tôi sai bảo người nhà bầy bàn thờ ngoài sân. Tôi thiếp đi trong khói pháo, hương trầm, đèn nến chập chờn...Mồng một bừng mắt dậy, đèn sáng choang, chói lòa. Tuy bà tôi không ngồi trong ổ, mặc áo đỏ cho tôi (4) nhưng tôxúng xính trong bộ quần áo mới còn nguyên nếp gấp. Bàn thờ nghi ngút khói hương, đèn nến lung linh, hoa đào, hoa cúc, cẩm chướng, lay-ơn, bừng sáng rực rỡ, những chậu quất chi chít quả đỏ ối, những cốc thủy tiên quý phái, hoa trắng thanh tao, hương thơm thoang thoảng. Có một năm trời mưa phùn lấm tấm, tôi ra sân lần đầu tiên được ngắm những bông hoa lạc mai (lạp mai ?) nhỏ bằng đầu ngón tay, còn đọng nước mưa, cánhtrắng muốt nhỏ li ti, giữa phơn phớt hồng. Mưa thấm ướt áo song tôi không thấy.


Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
NHỮNG  XAC  CHẾT  KHÔNG  ĐẦU
Reply #46 - 03. Nov 2006 , 00:14
 
...sao không hát cho những người còn mãi mể... "Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng...". Chị ngồi nhìn con, rươm rướm nước mắt. Đứa bé gái lên năm, kiểng chân nhón gót, chân trước chân sau, đôi tay gầy bé bỏng vươn cao trong nắng sớm. Trông bé như một vũ công nhà nghề ở nhà hát lớn, chị cũng trông lớn lên no được như thế. "Là người xin được một lần nằm xuống, nhìn anh em đứng lên cắm cao ngọn cờ". Nó nhoài người ngã rạp, tay vẫn vươn cao khẩn thiết. Chị xấu hổ, mang tội với con. Sanh nó ra làm chi cho nó khổ. Ở tuổi nó, đáng lý ra nó phải được no cơm ấm áo. Đằng nầy con bé phải bương chải từ sớm đến khuya, lúc bán hàng rong, kẹo bánh gần ga xe lửa, lúc nài nỉ Việt kiều mua đồ kỷ niệm ở phi trường, và lúc này đây hát dạo bên lề đường. Đã nhiều lần chị muốn chấm dứt cho rồi, không còn ý chí và sức mạnh để phấn đấu, để tồn tại ở thế giới nầy. Trái tim của chị đầy rẫy những ưu phiền, tuyệt vọng. Sống để làm gì?
Chỉ vì một miếng ăn nho nhỏ nhét vào cái dạ dầy đói rách vào cuối ngày. Từng ngày lại từng ngày. Sống chui nhủi như một loài bò sát, dấu mặt không dám nhìn đồng loại, như một cây ký sinh nhờ gửi vào những cây khác. Mọi người đều xa lánh chi.. Ngay cả khi có tiền, muốn mua sắm đồ người ta cũng ruồng rẻ, khinh khi. Chị là một con ăn mày.
1. Thằng Đức đang chăm chú đứng đái ở bìa rừng khi Thái rón rén đến bên cạnh. Giật mình, nín, Đức quay lại khi nghe tiếng bước chân người lết trên lá khô. Thái đến đứng một bên, làm bộ vạch quần, nhưng không đái, coi bộ lúng ta lúng túng như hồi nó mới lấy vơ.. Đức tiếp tục chuyện đang làm, quay ngang hỏi bạn:
- Bộ bí ha??
- Bí thiệt Đức à. Tao muốn hỏi mầy chuyện nầy nghe... Nó lại ngập ngừng. Từ hồi mới biết nó đến giờ, Đức đã quen cái lối nói ngập ngừng của bạn. Có một dạo nó làm như hết cái tật ấp a ấp úng đó, nhưng gần đây hình như nó lại trở lại cái tật cũ.
- Chuyện gì thì mầy cứ xịt ra đi, tao nghe. Đức nói, mắt không rời vòi nước đang róc rách trên tàn lá.
- Chuyện thằng Bình...nói, hôm trước...tao nghĩ...
- Mày nói cái gì? Đức sững sờ quay ngay la.i. Dòng nước lia trên đôi dép cụ Hồ của Thái rồi tắt tịt. Nó không buồn nhảy tránh mà cũng không chửi la.i. Lần này thì thằng Đức cụt hứng, nín đái thật sư..
2. Chúng nó đến quân trường Quang Trung lúc trời đã xế chiều. Bọn tân binh ùa xuống sân từ những chiếc quân xa Motolova lẫn lộn với những chiếc GMC đỏ bụi đường. Những chiếc quân xa chiếm được của quân đội Cộng Hòa, với cờ đỏ sao vàng được sơn dối trên cửa hông, có lẽ vì thiếu sơn, không đủ che lấp dấu cờ vàng ba sọc đỏ hoặc những ngôi sao trắng mờ mờ ở bên dưới. Mặc dù đã vào Thu tiết tháng Mười, gần bảy giờ tối mà mặt trời vẫn chưa khuất hẳn, chói chang như đầu mùa Ha.. Đức nhảy xuống đất, uể oải vươn vai, đưa tay che mắt vì ánh nắng chói lòa ở chân trời phía Tây. Con đường từ Sài Gòn đến đây gập ghềnh nhiều ổ gà đã dồng xóc nhừ tử những tên lính mới. Mặt thằng nào thằng nấy lớ ngớ, ngỡ ngàng, cái hồn phất phơ trên chỏm tóc như không hiểu tại sao cái xác của mình lại hiện diện nơi quân trường xa lạ nầy. Mới tháng trước đây bọn chúng hãy còn là học trò, hoang mang bàn cãi nhau khi chiến tranh trở lại sau vài năm "tương đối hòa bình".
Bọn bành trướng Trung Quốc từ phương Bắc đe dọa lãnh thổ, bọn cuồng tín Pônthanks.gifốt, Iên Sary chặt đầu ông bà lão, mổ ruột trẻ thơ, hãm hiếp phụ nữ ở miền Tây. Tin tức được loan đi trên truyền hình, kêu réo trên đài phát thanh, nhai đi nhai lại mỗi sáng đầu chợ cuối xóm. Bọn trong lớp cá nhau, "phe mình" sẽ thắng. Tự dưng cái "phe mình" đã được đổi chủ lúc nào không hay, như coi một phim cao bồi giết da đỏ: khi xưa mình là cao bồi, bây giờ mình là mình là da đỏ. Cái lập trường của đám sinh viên học trò nó bồng bột làm sao, cái bồng bột lửa rơm, nay đổi mai thay như chong chóng. Có lệnh gọi tập họp. Tân binh hàng một tiến vào sân. Mùi vải của ba lô và quân phục mới lẫn mùi mồ hôi của người đi trước truyền qua người đi sau át cả mùi cay của đất cát sủi lên từ những bước giày vải xô lịch bi.ch. Vào giữa sân, bọn nhóc được lệnh đổi đội hình, cứ mười người làm một hàng dọc. Kiểm tra quân số, được gần một trăm mạng hiện diện, non một đại đội, tức một "C". C trưởng, một thượng úy, dáng người dong dỏng cao, " ...xin chào đón các đồng chí, các người con yêu của nhân dân, các thành viên mới của quân đội Nhân Dân Việt Nam anh hùng....". Thằng Đức không biết có mấy đứa trong đám xứng đáng với hai chữ "anh hùng" ấy.
Có "anh hùng" hay không thì chắc còn phải thử lửa mới biết. Giờ đây, nó nghĩ, cả đám chỉ là những thằng nhát, nhát như cáy, thì đúng hơn. Những thằng có gan mà hèn đã trốn mất tự hôm qua. Sáng thứ bảy sau buổi lễ đưa quân trong tiếng kèn trống tùng xèng do bởi các thiếu niên Tiền Phong và tiếng khóc tỉ tê thút thít của mấy bà mẹ, sau lời phát biểu đầy khẩu hiệu của các đồng chí chính quyền địa phương, và sau khi cờ quạt, biểu ngữ bị cuốn phăng mất, cả bọn được lùa vào phường đội nhốt vào phòng để ngủ qua đêm. Trong lúc bên ngoài công an và phường đội canh phòng cẩn mật những người đi làm nghĩa vụ, có đứa dám nạy cửa sổ, leo hàng rào trốn mất dạng, bỏ lại những thằng nhát gan thức trắng đêm chờ sáng để líu ríu leo lên xe ra quân trường làm "anh hùng" với thiên ha.. Xong phần diễn văn, bọn lính mới được phân thành "A", các tiểu đô.i. Đức cùng đồng đội theo A trưởng về trạị Đó là một dãy nhà lợp tôn ở cuối sân được ngăn làm nhiều gian, xây dựng lên bởi quân đội Cộng Hòa cũ. Mỗi A được một phòng, những căn phòng trống, gió lùa từ hai cửa trước thông qua hai cửa saụ Giường cá nhân được kê sát tường, những cái sạp gỗ trên có trải những chiếc chiếu bèo nhèo, cụt cỡn, thiếu thước tất, lòi trơ những miếng ván đen thủi vì đã nhuộm không biết mấy lớp bùn, đất và mồ hôi của những thế hệ lính từ muôn đời kiếp trước.
Đức xí một "cái giường" gần cửa ra vào phía sau. Vừa đặt ba lô xuống thì có lệnh tập họp xuống nhà bếp ăn cơm. Đức biết Thái, hay nói đúng ra cả tiểu đội biết đến "Thái giám" buổi sáng đầu tiên ở quân trường. Cũng tội, với cái thân gầy nhom xương xẩu, đáng lý ra nó phải nhẹ tênh hênh trong gió sớm mới phải, đằng nầy nó nặng nề, ì ạch kéo lê trên sân cỏ. Khi cả trung đội đã chạy xong tám vòng sân, Thái hãy còn ở vòng thứ tư. Nó lì thật, vẫn chạy cho đủ tám vòng không thiếu. Trung đội ra giếng làm vệ sinh cá nhân, vừa hò hét cổ võ Thái đang ở vòng cuối cùng của buổi tập. Nó hổn hển, da mặt trắng bệt, cắt không ra máu, xách lon đến cạnh Đức, lẳng lặng ngồi xuống súc miê.ng. Được một lúc, nó hớp lại được hồn, trông mặt dễ coi hơn: bạch diện thư sinh, với đôi mắt tròn và sâu, buồn như con gái. Đức gạ chuyện. Thái nói, nó bị bệnh suyễn từ khi còn bé. Giọng nói nhỏ nhắn mềm mại qua vành môi mím, tái xanh, nhẫn na.i. Cái nhẫn nại đã quen của một người yếu đuối kinh niên, không than van, không trách oán. Từ hôm ấy, Đức và Thái làm bạn với nhau thật nhanh vì hoàn cảnh đưa đẩy chúng lại gần nhau. Cũng tại cái tên của chúng nó mà thôị Chỉ cần vài ngày là cả tiểu đội biết đến cái biệt danh của Đức, "Dukkev". Có thằng làm bộ biết tiếng Liên Xô, thông ngôn cho cả tiểu đội, Dukkev chính là "Đức cốp".
Thế đấy, Thái giám và Dukkev là cặp bài trùng mới của tiểu đội. Cả bọn hoan nghênh tán thành việc mai mối nầỵ Thái dọn giường đến gần chỗ của Đức ít ngày sau. Thái được phong "giám" là do bởi trò chơi "khám súng". Buổi tối, một bọn chơi nghịch, chụp bao bố từng thằng trong trung đội, đè cổ "khám súng", Thái gọi là "Thái giám" vì, nó chưa trổ mã. Con đường từ cư xá Thanh Đa, qua cầu Kinh, ra đến đường lộ đổ về phía Hàng Xanh lúc này đông nghẹt xe cộ, từ rạng sáng cho đến một giờ đêm là thường. Đông đến độ người ta phải dùng con đường đá chạy song song với đường cái chính, chạy từ cái chợ xép bên phải cầu Kinh, đổ ra phía cầu Bình Triệu. Con đường những năm về trước chỉ dành cho người đi bộ, nay cũng chật ních xe gắn máy qua lại . Sài gòn tốn mất hai mươi năm mới trở lại được cái thời trước 75. Đâu cũng xe gắn máy, xe đạp rất ít. Ngay cả ngã tư Hàng Xanh, vì xe cộ quá đông, người ta phải xây thêm một cái bùng binh như ở chợ Bến Thành vâ.y. Nay cả vùng thôn quê Bình Quới đi về phía Thủ Đức cũng không còn là thôn quê nữa. Người ta tu sửa và xây dựng thêm những câu lạc bộ đắt tiền dành cho giai cấp có của. Dọc hai bên đường, nơi mà từng vòng tròn lính nhảy dù rụm lại nổ lựu đạn tự sát hồi 75, quán cà phê đổ ra như nấm, bây giờ là vỉa hè nơi chị đang ngồi nhìn con ca múa. Hồi bằng tuổi nó, chị sống yên ấm với gia đình ở tầng trệt, lô IV của cư xá Thanh Đa bên kia cầu Kinh. Bố chị là Thiếu Tá Pháo Binh. Có lần nghỉ phép bố dẫn chị đi ăn phở, chị tròn mắt nhìn người ăn mày què, gác chân trên nạng, húp vội phần nước lèo còn thừa trong tô phở của chị một cách ngon lành. Bố dặn:
- Con phải thương người nghèo khó.
- Bố ơi, con không muốn như vậy khi con lớn
- Hoàn cảnh cả con a..
- Hoàn cảnh là gì hả bố?
- Khi lớn con sẽ hiểu . Bây giờ con ngoan, con học cho giỏi, con sẽ không như vậy . 3. Thằng Thái mở to mắt nhìn trân trân vào họng súng AK đang chĩa vào giữa trán của nó. Cái họng súng tròn vo, đường rãnh xoáy trôn ốc hun hút, cái vòng tròn dường như lớn dần theo nhịp rung của đầu ruồi lên lên xuống xuống, qua qua lại lại, vạch thành dấu thánh giá giữa hai chân mày của thằng Thái .
- Bắn đị Xử lý tao đi. Thái thách thức. Thằng kia tay run run, cọ quậy trên cò súng. Nó biết, chỉ một cái ngoéo tay là đầu thằng Thái sẽ bung ra như trái dừa khô mọng nước, có điều, không phải là nước. Không được. Họng súng hạ xuống đất, người lính ôm lấy đầu mình:
- Thái ơi mày hại tao. Mày làm tao điên cái đầu . Từ ngày ra chiến trường tới giờ, Đức chưa khi nào dám bắn ai mà phải nhìn thẳng vào mặt đối tượng cả. Địch quân đã thế, huống hồ gì là chính bạn của mình. Chuyện không đâu mà đưa đến cuộc cãi vã chí tử giữa hai thằng bạn. Thật ra kẻ nói nhiều, nói dai như đỉa là thằng Thái. Nghĩ đến chuyện thằng Thái nói hồi chiều lúc đứng đái ở bìa rừng cứ lảng vảng trong óc làm Đức ăn cơm chiều, nuốt không trôi được. Ăn xong, tới phiên gác của nó, Đức kéo bạn ra chỗ vắng, gạn hỏi:
- Còn con Noi, vợ mày ?
- Nói bậy, vợ con hồi nào ?
- Mày ở với nó... -... Thằng Thái im lặng, vân vê chuỗi bùa Kà Tha lủng lẳng trên cổ. Bắp tay nó để trần, thớ thịt xoáy qua xoáy lại, thụt ra thụt vào dưới tay áo xắn cao theo động tác mò mẫn của mười đầu ngón tay. Thêm một chuỗi bùa nữa bằng ngà voi và xương heo rừng mang lúc lắc vòng quanh cổ tay. Đức nhìn. Những cơ thịt bắp rắn chắc hơn là hồi còn ở quân trường. Lúc nầy nó ăn nắng, đen thui như một thằng Miên. Một năm lửa đạn đã đưa nó qua tuổi dậy thì, đẹp trai thêm rạ Không đứa nào dám gọi nó là "giám" nữa. Nhất là từ khi nó "lấy vợ". Hồi mới tới làng nầy, nó thèm thuốc lá, cái tật mà bọn lính dậy nhau ở quân trường. Ra đơn vị tiếp xúc với bọn "chính quy", bọn lính bổ sung học thêm nhiều điều mới. Tập tễnh với điếu cầy, Đức sinh ghiền thuốc Lào.
Có lúc bọn chính quy còn đem trộn rễ và lá cây Hồng Ma, thứ hồng dại hút vào say như thuốc phiện. Họ nói, Hồng Ma ở Miên hút không say bằng thứ Hồng Ma ở rừng Trường Sơn, vì thiếu máu người. Theo kinh nghiệm chỗ nào càng nhiều bộ đội chết, Hồng Ma chỗ ấy hút càng ngon, càng ngọt. Họ ám chỉ chiến trường Kam Pu Chia chẳng qua chỉ là một trò chơi cho đám học trò trung học vừa nứt mắt mà thôi. Đổ máu chưa đủ. Thái lại không thích hút thuốc Lào trộn Hồng Ma, hay có lẽ không thích chuyện bọn chính quy lên mặt về sự tích của cây Hồng Ma, nó tìm đi mua thuốc lá địa phương. Người ta bảo tìm đến con Noi, đưa một trăm đồng riel và nói: "ôn xtra lanh bông tể". Thế là với nửa tháng lương trong tay, nó lẽo đẽo theo con nầy, tối ngày cứ "ôn xtra lanh bông tể". Tới một hôm đi lùng địch, nó xông vào buồng con nhỏ lần đầu tiên, lục lọi dưới gậm giường. Ông bố con bé nắm đầu bắt cưới vì nó đã vi phạm tiết hạnh của con gái ổng. Thái vẫn giãy nảy, nó có rờ rẫm gì đâu mà cưới, nó chỉ vào buồng để truy lùng địch! Người Miên có cái tật thù dai, và đeo dai như đỉa. Họ muốn gì thì phải có.
Họ thù ai thì người đó phải chết mà thôi. Cha con ông già cứ bám theo nó tối ngày. Họ nói con gái Miên tới tuổi cập kê không được gặp đàn ông con trai. Khi thằng Thái chui xuống gậm giường con Noi, nó đã vi phạm tiết hạnh con gái người ta. Không biết chuyện ngã ngũ ra sao, ít bữa sau tiểu đội thấy Thái mang chuỗi bùa Kà Tha lủng lẳng. Con "vợ" nó thì sáng chiều cứ đem cơm cho nó hoài thôi. Lúc rãnh nó cũng ra ruộng kéo cầy cho gia đình vợ, ra vẻ là rể quý. Hoãn ít bữa anh em hỏi nó, "cái ấy" nó như thế nào, nó lắc đầu nguầy nguâ.y. Không như hồi ở quân trường có thằng chui hàng rào, băng ruộng đi "ăn chè", lúc về anh em hỏi: "cái ấy" như thế nào. Đương sự chưa kịp trả lời thì Thái đã xoay báng súng CKC, chọc tay vào cái lưỡi gà đậy ống thông hơi, và trả lời "giống cái nầy". Bây giờ, nó lắc đầu lia lịa, không phải như vậy, không phải như vâ.y. Có điều bây giờ nó đã hiểu, "ôn xtra lanh bông tê" có nghĩa là "em có yêu anh không" ! Khi muốn hỏi cưới một người con gái, người con trai thường đem quà tặng đến người yêu và nói với cô gái, "ôn xtra lanh bông tể". Kể cũng tội cho bọn lính trẻ, chưa quá hai mươi tuổi đầu, có nhiều thằng chết xuống âm phủ chưa biết chuyện gái trai là gì.
- Tao thấy cuộc chiến tranh nầy phi nghĩa...
- Nói nhỏ nhỏ lại con cầy ạ! Đức bịt miệng nó. Thái hất cằm, quay mặt cố tránh bàn tay của bạn, tiếp tục như mê sảng:
- Mày thấy mấy thằng chính quy miền Bắc coi. Đổ máu làm anh hùng chống Mỹ cứu nước, để bây giờ vẫn tiếp tục đổ máu. Còn tụi mình, một lũ đi thi hành chính sách "thay đổi màu da trên xác chết", chỉ tiếp tục đổ máu mà thôi. Ít ra thì tụi nó còn được mang danh "giải phóng dân tộc". Còn tụi mình, "giải phóng" ai đâỷ Mày không thấy tụi nó vẫn "công thần" hay sao. Coi tụi mình bằng rác. Họ là ai ? Chỉ lớn hơn mình đôi ba tuổi là đã nằm vào thế hệ đi trước. Kẻ đi trước bao giờ cũng mù quáng về những hào quang mà họ nghĩ là của họ tạo ra, cho dù thứ hào quang ấy chỉ là một lớp sơn mạ, lớp phấn son được nhồi thoa lên những xác chết mà thôi. Họ đem cái hào quang ấy để lòe mắt lớp đàn em. Được những gì? Chiến tranh. Bi thảm. Nghèo đói.
- Mày im đi Thái a.. Mày nói sảng. Tầm bậy. Mày lậm bùa ngải của con vợ mày rồi. Bọn trong trung đội kháo nhau rằng con nhỏ Noi có máu Chàm, bùa ngải ghê gớm lắm. Tổ tiên của con Noi là người Chiêm Thành chạy loạn từ đất Đồ Bàn qua tận Biển Hồ Tông Lê Sap thời thế kỷ 16, 17 khi người Việt đánh chiếm Chiêm Thành. "Lấy vợ" được ít tháng, thằng Thái như bị đồng hóa, nó phát biểu, có lẽ nó có máu Chàm, do bởi nó người Đà Nẵng. Biết đâu kiếp trước tình duyên của nó và con Noi dang dở, cho nên kiếp này...
- Tao không mê. Chỉ có mày mê. Mày nói tao lậm bùa. Còn màỷ Mày nghĩ cái hai sao chằn trên cầu vai của mày sẽ là thứ bùa hộ mạng cho mày hay saỏ Tao suy nghĩ rất nhiều về những điều tao nói. Mày coi, tao chỉ tội nghiệp cho mấy thằng miền Bắc. Tụi nó cũng như mình thôi. Lính khố, chân trần, thời nào cũng khổ như nhau cả. Đầu đen máu đỏ cả thôi. Mày nhớ hôm Tết dưới chiến hào, tao hát nhạc vàng, bài "Xuân Này Con Không Về" hay không? Thằng nào cũng rơm rớm nước mắt. Thằng Thái thích hát với hò. Hôm ra đơn vị, anh em lại tập họp bên lửa trại, đàn ca. Diễn văn và khẩu hiệu bên ánh lửạ Hội nghị Diên Hồng. Ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Thế ta là thế đứng trên đấu thù..v.v...
Coi khí thế hào hùng lắm, làm những thằng nhát gan như thằng Đức bớt sơ.. Thái chơi đàn gió, rất hay. Đêm ấy, không riêng gì Đức mà cả đại đội mê mẩn với tiếng hát cao vút chưa bể tiếng hòa với tiếng đàn điêu luyện của Thái. Câu hát vô tình, đã quyết định số phận của Thái sau nầy. "Ôi mỗi bát canh chua đỡ quãng đường vất vả, Một nắm rau rừng nầy ủ kín yêu thương, Với nắm gạo rang, đường ra chiến trận. Ôi tất cả tâm tình đi nhớ mải, Nổi lửa lên em, nổi lửa lên em, Ánh trăng sáng ngời đưa ta vào trận đánh núi rừng xanh dồn dập bước quân hành..." Đức ngồi bó gối nhìn trời sao, ngày mai nó sẽ vào trận đánh, vào trò chơi lớn với núi rừng xanh. Đức không ngờ thằng ấy đa tài đến thế. Nó học nhạc từ mấy cha cố đa.o. Thái trước học ở trường dòng, sém chút nữa vào chủng viện đi tu, nếu không có giải phóng vào. Cái đàn gió, do người đại đội trưởng trao lại Anh kể, cái đàn ấy của một người đi B, chết buổi sáng đầu tiên của ngày hòa bình bên dốc cầu Phan Thanh Giản, lúc vào Sài Gòn. Anh định mang cái đàn ấy về trao cho hôn thê của người đã khuất.
Nhưng biết cô ấy có còn chờ đợi hay không. Biết Thái thích chơi đàn, anh bảo cứ giữ lấy mà dùng. Những buổi tối, tiểu đội chụm lại nấu chè, Thái kéo đàn, những ngón tay lướt nhẹ trên phím đàn thành tha.o. Đức không rõ Thái học đàn có khó nhọc như nó học ném lựu đạn hay không. Hôm tập ném lựu đạn, Thái luống cuống kéo kíp nổ, nó sợ đến độ quăng trái lựu đạn không quá 5 thước. May, có bức tường ngăn bảo vê.. Một lần Đức bảo Thái dạy cho mình chơi đàn, nó sẽ đền cho bạn hai điếu thuốc Điện Biên, Thái giận Đức mấy bữạ Khi Đức xin lỗi, nó bảo: "Thích thì tao dậy cho, còn thuốc của mày tao không cần". Thằng Đức hối hận, mình đã đánh giá bạn quá rẻ. Ra đơn vị, Thái bạo gan hát nhạc vàng, từ những "rừng lá xanh xanh che phủ đường đi..." cho đến "phố núi cao phố núi đầy sương.." v.v... Cũng như chuyện cấm hút Hồng Ma, bọn sĩ quan lúc đầu cấm đoán nhạc lính...ngu.y, rồi cũng lờ đi vì chính sĩ quan, có người khóc sướt mướt khi nghe Thái hát. Họ, những "người giải phóng quân một lòng ra đi" chiến trường B đã lâu mà có "'biết đâu ngày trở về..." Khi nào sẽ trở về, họ làm sao biết?
- Mày nhớ thằng tiểu đội trưởng cũ của mình, cái chức mà mày đang làm, hôm đi về Bắc ôm ấp một xấp vải lụa làm quà cho vợ, một con búp bế cho con, gói ghém trong cái ba lô rách ten beng thấy có tội không? Hạt giống chiến tranh đã được chuyền qua mày, qua tao. Cuộc chiến tranh này sẽ còn tiếp diễn, cho dù đó là một cuộc chiến bỏ quên đối với thế giới bên ngoàị Đến khi nàỏ Mày nghĩ lại đi. Nghĩ lại đị Một tiểu đội trưởng Khối ngây ngô. Ngây ngô đến tội nghiệp, người anh hùng "sinh Bắc tử Nam". Một hôm tập họp anh em lúc hai giờ sáng để "hành quân đêm", tiểu đội trưởng Khối, với giọng Nghệ An đặc sệt:
- Các đồng chí đã chuẩn bị súng ống đầy đủ chưả Hiểu ý, cả tiểu đội răm rắp trả lời: ĐDủ, đồng chí! Dĩ nhiên, cũng với giọng Nghệ An, đặc sệt. Trước sự ngơ ngác, có phần hân hoan của Khối, anh em "miền Nam" ôm bụng lăn quay ra sân cười nứt nẻ. Khối cười theo, thành thật. Lúc hiểu ra, Khối không giận anh em chút nào cả. Hôm được giải ngũ, Khối ôm từng người trong trung đội, bịn rịn.
- Mày có tư tưởng tiểu tư sản, thoái hóa...
- Không. Mày ngu...Nhưng không tao không trách mày. Mày chỉ là một con người trong một chế đô.. Một con ốc trên bánh xe bò kéo lê trên đường đầy ổ gà chằng chịt. Thằng Đức cảm thấy dòng máu nóng như ùn un trào dâng lên khỏi cổ, ngập lụt cả mặt màỵ Nó giương khẩu súng AK, lên đạn, dí nòng súng vào đầu Thái.
- Mày sẽ báo cáo với trên? Cứ báo... Đức buông súng, ôm đầu:
- Mày làm tao khó xử. Tao chỉ lo cho mày. Mày chết, có chó nó thương mày con cầy a.... Chị đã nghe lời bố dặn dò, chị đã học thật giỏi. Cho đến ngày mẹ chị khóc sướt mướt khi một người lính gõ cửa trao cho mẹ cái ví và chiếc đồng hồ của bố. Đó là ngày Ban Mê Thuột mất. Chị không hiểu Ban Mê Thuột mất nghĩa là gì, nhưng chị biết, chị mất bố. Bố tự bắn vào đầu, sau khi dặn dò người lính đem đồ về cho me.. Rồi chị lớn, chị đi Thanh Niên Xung Phong. Lý lịch của chị không đủ cho chị vào đại học. Mà lý lịch có sạch sẽ hơn tí thì cũng vào bộ đội mà thôi. Chị đi dân công chiến trường Kam Pu Chia. Như hàng trăm ngàn thanh niên phục vụ chiến trường Kam Pu Chia, không mất mạng thì cũng một phần thân thể, chị đã để lại ở đất khách đôi chân, trên cánh đồng hoang đầy mìn bẫy. Tàn tật, chị không dám về Sài Gòn, lây lất ở Nam Vang cho đến ngày được tin mẹ mất.
Ở Miên, người Việt mình là thứ công dân hạng hai, chịu mọi sự chèn ép, giết tróc từ phía chính quyền lẫn người dân Miên, trong khi nhà nước mình đã "bán cái", "đem con bỏ chợ". Họ bảo nhau, những người Việt như chị được chính quyền Việt Nam cài lại để làm gián điệp, để đồng hóa dân tộc Khmer, để thực hiện Liên Bang Đông Dương. Ở Miên, cũng như ở mọi nơi trên thế giới, ăn mày bị người ta khinh rẻ. Họ không chấp nhận một lý do ngụy biện nào. Vì ở Miên người què cụt vì mìn vì bị Khmer đỏ tra tấn quá nhiều. Ở Miên, chị đã chán ngấy mấy chữ "ky-um chhum-pi-ka": tôi là người què cụt. Chúng như những tiếng sấm, tiếng sét, nện vào đầu chị từ mọi hướng. Tai của chị điếc, mắt của chị lòa, cổ họng của chị siết lại, và cơn đau tim trào lên từng hồi trong lồng ngực . 4. Buổi tối về lán, Đức nằm trăn trở tự hỏi, mình có phải là một thằng sát nhân chuyên nghiệp hay không? Không. Đức chỉ là một chiến sĩ gương mẫu của quân đội nhân dân mà. Chưa tròn một tuổi lính nó đã đóng lon hạ sĩ tiểu đội trưởng, được kết nạp vào Đoàn, vào cảm tình Đảng. Tháng tới trên hứa là nó sẽ được gửi đi học trường sĩ quan Hòa Cầm, Đà Nẵng. Sẽ được lên Thiếu Úy. Nó đi làm nghĩa vụ giải phóng dân tộc anh em thoát khỏi chế độ diệt chủng, bọn cuồng tín Pôn Pốt Iên Sari, bọn sát nhân. Có yêu thương thì phải có căm thù. Có cứu thì phải có giết.
Có xây dựng thì phải có đập phá trước. Người ta dạy như thế. Nó có lỗi gì trong cuộc chiến tranh nầỷ Còn những thằng đồng đội, có bao giờ suy nghĩ nhiều như nó không nhi?? Cuộc chiến đã làm bọn nó già đi rất nhiềụ Tuy vậy rất ít thằng sâu sắc như thằng Thái. Phần nhiều, chỉ đâu đánh đó, không thắc mắc. Thằng Chiến là một trường hợp ngoại lê.. Đức còn nhớ đứa con gái Miên giữ ổ thượng liên, bị lựu đạn nát cả đùi. Giương súng. Khoảng cách chỉ hơn ba thước. Nhắm ngay thắt lưng. Bóp cò. Khoảng cách chỉ hơn ba thước. Đức bắn trật. Tê.. Tệ hơn cả thằng Thái hồi ở quân trường nữa. Đức biết mình bắn trật vì nó còn nghe tiếng rên của con bé đến cả tuần saụ Cũng tại ánh mắt của nó. Tại ánh mắt của nó. Phải chi, nó quên gài chốt liên thanh như thằng Thái hồi còn ở quân trường, lia cho con nhỏ một băng, làm phước, thì có hơn hay không? Cũng may, thằng Chiến trong đội trinh sát, đến kịp thời, với lối bắn tàn độc của nó. Bóp cò xong, Chiến kéo Đức đến khám xác con bé. Cằm của nó trúng đạn văng mất tiêụ Chiến vạch ngực con nhỏ, da ngực trắng ngần, còn lên xuống thoi thóp. Khá trắng cho một cô gái Miên, có lẽ tại mất máu, và, đầu vú của nó, chưa nhú, lung laỵ Cái xác đứa con gái cố vin vào sự sống như con gián cồ bị đạp nát đầu, ruột be bét, chân cẳng gãy cong queo, vẫn còn mò mẫn lê lết trên sàn, bò về phía bên nầy, lằn ranh của sự sống. Mặc cho Đức nôn ọe, thằng Chiến quay lưng:
Back to top
« Last Edit: 03. Nov 2006 , 12:57 by LAM SON »  

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
NHỮNG XÁC CHẾT KHÔNG ĐẦU TIẾP THEO
Reply #47 - 03. Nov 2006 , 00:16
 
Thêm một cái đầu!. Một hôm, Chiến kể: -Tụi bây biết hông, tao dí súng "dô" miệng nó. Nó la bai bãi. Nó nói tía gì Đ.M. nó, tao đâu biết. Nó lạy tao tha cho nó. Tụi bây biết hông?
- Mày tha cho nó?
- Không. Tao "bắng" nó "chớt". Tao "bắng dô" mặt nó. Tao nghĩ đến mấy thằng mình bị tụi nó cáp duồn, mổ bụng, treo lên cây. Tao bóp cò. Máu nó phọt trong bàn tay taọ Tao thấy "xướng" trong "guột". Chiến cười sặc sụa như thằng điên. Đầu nó cao hơn mũi súng tí xíu. Vành nón tai bèo phủ xuống mặt, rung rinh, chỉ thấy hàm răng trắng ỡn, với vành môi thâm, nước da đen dòn. Có lẽ đen hơn thằng Miên mà Chiến đã cho ăn ke.o. Chuyện kể, Chiến đi tìm một đồng đội lính trinh sát đã mất tích hơn mấy ngày. Ở đây, mất tích thường được xem là chết. Thứ lính trinh sát dễ chết yểu lắm. Đức đã từng thấy một thằng trinh sát đạp mìn, xác vỡ ra bay tung tóe như pháo tết. Lần nầy thằng bạn của Chiến cũng không toàn thây, ở một góc rừng hẻo lánh, cây vạc nhọn xiên vào đít, ruột đổ lòng thòng trồi ra khỏi thành bụng khoét toang hoác bằng lưỡi lê, đầu lâu còn đội nón cối lăn lóc trên xác lá. Dưới gốc cây đa, hai thằng Miên chụm củi nướng trui lá gan còn tươi rói. Chiến nổ súng bắn chết một thằng, thằng còn lại bị què giò, van lạy Chiến. Kể ra thằng Chiến còn nhân đạo, không hành hạ kẻ thù.
Cũng lạ, đáng lý ra Chiến phải hiền lắm hiền hơn bây giờ mới phảị Nó người Tây Ninh, nhà gần rừng cao su Trà Võ. Hồi trung đoàn còn đóng ở Tây Ninh trước Giáng Sinh 78, Đức biết người dân ở đó. Hiền hòa, mẫu mực như những địa danh mà họ đặt cho những làng xã địa phương: Thiện Ngôn, Khiêm Hạnh, Hiếu Thiện...Hầu hết người Tây Ninh theo đạo, ăn chay trường, không dám giết một con kiến chớ nói gì đến sinh mạng con ngườị Đức nghe kể, giặc tràn qua biên giới đốt nhà chặt đầu cha mẹ và mổ ruột em gái nó. Nó đi tìm đầu của cha mẹ nó để chôn cất, tìm hoài mà không được, đành chôn những xái xác không đầu. Từ đó, nó nổi điên. Vào bộ đội, nó có lối bắn súng kỳ lạ, hơi tàn bạo, chỉ bắn vào đầu kẻ đi.ch. Khi nào bắn trúng, nó thường hay lẩm bẩm:
- " Thêm một cái đầu!" Kể từ hôm bắn hụt, đã nhiều lần Đức quay ngược nòng súng, mở to mắt nhìn xuống đường xoáy trôn ốc, chỉ để nghe tiếng đứa con gái rên rỉ réo gọi từ phía bên kia cò súng. Có lẽ như Đức, thằng Chiến đã thấy cái gì đó vẫy gọi nó từ phía bên kia cò súng, khi nó tự bóp cò vào miệng hôm tháng rồi. Và, như mọi khi, nó để lại mảnh giấy móc trên nòng súng:
- " Thêm một cái đầu!". Cái đầu, cuối cùng, của Chiến. Bộ sưu tập đã hoàn tất. Một dòng chữ nhỏ trong những trang sử đẫm máu. Những cuốn sử với những cái bìa được sơn son thếp vàng để che đậy đi cái màu máu của những chém giết dã man, đã nhuộm đẫm từ trang sử nầy đến trang sử kia. Giọt máu oan cừu của con rắn Thị Lộ không chỉ làm cho ba họ nhà Nguyễn Trãi mất đầu, mà cả ba trăm họ về sau nữa . Máu của thế hệ nầy qua thế hệ khác, tiếp tục. Máu và thây người đổ càng nhiều thì chiến thắng càng vinh quang. Cứ chém giết thêm nữa đi để được suy tôn thần thánh. Vâng, nó, chính nó đang trở thành kẻ sát nhân chuyên nghiệp. Chữ "nhân" trong "nhân loại" đã bị sát hại . Bởi chính nó.
Thằng Thái có cái lý của nó. Thằng Đức, và lũ bạn của nó cũng đang làm lịch sử. Những trang sử bỏ quên. Đức thiếp đi trong tiếng gió lùa qua mái lá như tiếng rú của những oan hồn uổng tử từ muôn ngàn kiếp trước trở về réo go.i. Nó nằm mơ thấy mình đi qua một con suối nổi lềnh bềnh những đầu lâu. Nó dẫm lên một cái đầu lâu, lúc nhìn xuống, nó nhìn thấy cái đầu của chính mình đang nhìn mình trân trân. Khiếp sợ, Đức hét lên khi thằng Thái vạch mùng chui vào. Hai thằng ôm nhau ngũ khò, không như mọi lần khác, dưới chiến hào, ôm nhau, mà sợ chết. 5. Hôm ấy dù trời kéo mây đen kịt, khi nghe chiếc xe vận tải của thằng Bình rền rĩ đầu rừng anh em chạy ào ra đón nó như một anh hùng, như con chờ mẹ mang quà về từ chơ.. Thằng Bình xứng đáng là "bà nội" nuôi của anh em. Cứ độ một tháng, Bình lại lái xe từ dưới thành đem lương thực, thư từ lên tiếp tế cho anh em, chả mừng sao được. Ở đây miền rừng núi, xa biển, gần nhất là Biển Hồ Tông Lê Sáp mà cũng là xa, anh em thèm nhất là...nước mắm. Ôi cái mùi nước mắm ngọt ngào, làm anh em nhỏ dãi mỗi khi nghe tiếng còi xe của Bình từ đàng xa vọng la.i. Hết nước mắm bọn lính phải rang gạo khô cho cháy đen, đem trộn với nước muối dùng thế...nước mắm. Có lúc, muối cũng không. Hôm ấy giao hàng xong, Bình vào bếp xin lửa hút thuốc, gặp Thái và Đức. Thằng Thái làm anh nuôi cho trung đội từ hôm mới đến làng Pursat. Hôm đó, khi đoàn xe vừa dừng lại, một số người Miên cởi xe đạp, liệng vào trong quân xa những quả bom xăng tự chế, rồi bỏ cha.y. Trong lúc đồng đội đang tán loạn, xô đẩy nhau, Thái nhảy khỏi lòng xe với khẩu CKC. Nó ưa xài CKC vì tay đòn súng dài và nặng hơn AK, bắn ít giật. Thái quỳ xuống ngay giữa lòng con đường hẻm, nâng súng, nhắm, và bóp cò hai phát một.
Lối bắn của những tay xạ thủ chuyên nghiệp, luôn luôn bắn hai phát một để cầm chắc việc hạ thủ kẻ địch, trong hai viên thế nào cũng dính một. Từ đằng xa, khá xa, non hai trăm thước, người ta có thể nhìn thấy một người cởi xe lảo đảo. Chiếc xe chao qua, chao lại, ngoằn ngoèo, rồi ngã rạp xuống mặt đường. Độ rầy, thằng Thái bắn súng khá giỏi, chả bù với lúc ở quân trường. Hồi đó cả đại đội dành rất nhiều thì giờ cho việc tập nhắm. Sáng tinh sương. Trưa nắng chang chang. Thước ngắm ba, cự ly một trăm mét, thời gian không hạn chế, đầu ruồi ngay thắt lưng, đạn sẽ vào tim kẻ địch, cứ thế mà ngắm, còn đạn thì không. Nhắm đến tối, đến chiềụ Nhắm cho đến khi mờ mắt mới thôị Nhắm cho đến khi hàng chữ : "Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu" sơn ở trên vách tường, ở cuối bãi bắn, trở thành nhòe nhoẹt, mới thôi. Mải, cho đến ngày thi, được phát ba viên đạn thật, thằng nào thằng ấy mừng và sợ đến run. Run nhất lại chính là thằng...Thái. Sau khi nạp đạn, cu cậu quên không bật chốt liên thanh qua phát một, lúc bóp cò, đạn nổ rền bên tai, súng giật ngược lên trời, ba viên đi tìm chim không đầy một giây tích tắc. Một viên có lẽ bay vô hàng chữ " một viên đạn là một quân thù " ở phía tường bên trái. Tội nghiệp, lúc huấn luyện viên đến chỗ Thái, hắn sợ đến...bắn nước đái ra cả bãi nằm! Coi vậy nhưng Thái rất lì.
Khi được phát ba viên đạn khác, hắn nằm lì cả giờ mới bắn xong ba viên. Thời gian không hạn chế cơ mà. Cả ba đều trúng hồng tâm! Sau nầy ra đơn vị, cả trung đội không thiếu chất thịt cũng nhờ tài săn bắn của Thái. Trong khi đồng đội hoan nghênh tài thiện xạ của nó, Thái băn khoăn, bẻ ngón tay rộp rộp cả buổi chiều, thở ngắn thở dài cả đêm. Không phải vì lời khiển trách nhẹ của trên về hành động "anh hùng cá nhân", làm mất lòng nhân dân địa phương, vì một lý do khác. Người bị bắn chỉ là một đứa bé con, mười ba mười bốn tuổi gì đó. Máu thằng bé chưa đỏ, hãy còn trong vắt, trong như hổ phách, đổ lênh láng, thấm ướt cả vành bánh xe đạp méo mó, chơi vơi trên mặt đường. Tuần sau, sự ray rứt của Thái càng tăng dần khi đơn vị đi qua trường trung học Tuol Seng nơi mà hằng vạn người dân Khmer bị xử tử tập thể vô tội vạ trong những năm đầu dưới chế độ Pôn Pot. Đến Battambang, nhân chuyện người anh nuôi cũ được giải ngũ, Thái xin làm anh nuôi mới cho toàn trung đô.i. Nó không muốn cầm súng nữa. Nếu có, từ nay chỉ bắn khỉ chứ không bắn người. Khi Bình bước vào bếp, Đức đang phụ Thái quét sạch soong chảo. Những cái chảo thật to mà tuyền là bo bo và khoai mì, ăn không đủ no. Đức nhớ chuyện người lính nhảy dù ở gần nhà kể chuyện ăn cơm quân trường. Anh kể cơm ở quân trường khổ lắm chỉ có gạo và cá khô, người ta phải trộn vitamin B1 để tránh phù thũng. Vậy mà lính nhảy dù, thằng nào thằng đó cũng đô con. Nghĩ lại bây giờ Đức không biết nó có đô con nỗi không khi mà cơm chẳng có, cá khô cũng chẳng còn, đừng nói chi đến vitamin B1. Về sau từng đứa trong trung đội trông chờ cấp dưỡng "mì gói ăn liều" như những bữa ăn thịnh soạn. Thái rút cây củi đang cháy trong bếp đưa cho Bình. Đức buông chổi nhìn người tài xế đón lấy ngọn lửa, lẳng lặng ra ngồi ở hàng hiên mồi thuốc. Hắn ngồi xổm trên nền đất, lặng lẽ kéo liên tu đôi ba điếu thuốc, cho đến khi trời chuyển mưa, Đức phải giục:
- Này, vào đây kẻo mưa ướt bác tài ơi . Gọi người tài xế trẻ bằng "bác tài", Đức thấy tức cười . Bình như hiểu ý, đáp lại, giọng Nam Kỳ đặc sệt:
- Không sao cháu, bác dô liền hà. Nó nhảy trở lại vào trong bếp, tay phủi bụi mưa trên ngực áọ Phủi thật mạnh, gần rớt cái ngôi sao vàng trên cổ áo bạc màu.
- Này, trước ở đâu ?
- Sài Gòn chớ đâu!
- Trường nào ?
- Vạn Hạnh, còn tụi bây ?
- Tổng Hợp. Đức đáp lại, quay qua Thái sẵn đà giới thiệu:
- Thằng nầy, Thái, LaSan Taberd. Cũng tội cho nhau, toàn là dân tốt nghiệp trung học hoặc đang dang dở đại học mà giờ đây toàn là binh nhì với binh nhất. Thời trước, không Đà Lạt thì cũng Thủ Đức. Gặp nhau đây không có gì mời, Đức trèo lên thành bếp, rút gói thuốc Lào Hồng Ma giấu sau tấm phên chắn gió. Gặp bạn mới, thằng Thái phá giới. Ba thằng ngồi chuyền tay nhau điếu cầy khi trời mưa nặng hạt trên mái lá.
- Mùa mưa đã đến. Điệu nầy tụi Miên sẽ quậy dữ. Bộ đội mình sẽ chết nhiều hơn nữa. Chết rỉ rã cho tới khi mình phản công vào mùa khô mới thôi. Mùa mưa thì lính chết rỉ rã, rỉ rã theo từng cơn mưa, lúc nhiều, lúc ít tùy theo nhịp độ của thời tiết và những trận tấn công của địch, quân ta co cụm cố thủ. Mùa khô, ta pháo dập, pháo qua bên kia biên giới, pháo vào những vị trí cố thủ của địch, có khi lẫn lộn cả với thường dân tị nạn nằm trong vòng kiểm soát của bọn Miên Đỏ. Biết làm sao. Tính nhẩm từ hồi vượt biên giới Miên Việt hồi Giáng Sinh tới bây giờ con số lính chết cũng mươi vạn.
- Khô hay nắng, lính chết cứ chết. Bình ném tầm nhìn vào đám khói bên kia bìa rừng, lo ngại tiên đoán. Thực sự ra không phải là lời tiên đoán, mà là kinh nghiệm của bản thân. Nhờ biết lái xe số, nó được xung vào đội xe tải. Khi chở lương thực, lúc vũ khí tiếp liệu, lính bị thương, lính sống, và cả lính chết. Có khi mọi thứ cùng một lúc. Mùa mưa xe tải ì ạch nặng thêm vì xác lính. 6. Hai thằng mò mẫn trong cái khoảnh rừng ấy đã hơn hai ngày rồi. Lúc cùng đơn vị truy kích địch, quãng đường rừng không đài và âm u như bây giờ. Ngày leo lên cây, vô bụi để tìm chỗ ngủ đợi đêm xuống mới lò dò đi. Trời sao chẳng thương người lành, mấy hôm nay ổng đổ mưa um sùm. Buổi tối, mây đem vần vũ, thấy đường thấy sá đâu mà đi. Đi hai bữa lại "quay về chốn cũ". Giờ nầy, trong cái góc rừng quạnh quẽ nầy, hai thằng vừa đói vừa la.nh. Thằng đi trước, hục hặc quơ cái mã tấu, phạt những bụi gai góc chằng chịt, mở đường, vô vo.ng. Hướng xa không biết thì đường gần có nghĩa gì đâụ Nó thọc mũi dao vào một bụi cây, cằn nhằn:
- Vây mà mày cứ khoe là đã từng đi Hướng Đạo, có bằng rừng bằng rú. Mày nói mày có thể mò rêu ở gốc cây để tìm hướng, bên khô là hướng mặt trời mọc, bên ướt là phía mặt trời lặn. Tao không hiểu mày giỏi mò cái gì...
- Mưa quá mạng bên nào cũng ướt nhẹp như nhau làm sao biết cho được. Mà ai chặt tre lồ ô, tránh thuốc độc, cho mày uống nước để mày lên giọng chửi tao. Thằng đi đàng sau quay đầu dáo dác nhìn quanh. Thình lình nó chuyển khẩu súng từ tay mặt sang tay trái, tự tát vào mặt mình cái bốp:
- Đ.M. muỗi với kiến. Muỗi với kiến, con nào cũng to như nhau, to như con ong bầu lận. Lũ muỗi chờ mưa rừng hơi ngớt khi trời chạng vạng tối, ùa ra o e như ong vỡ tổ. Còn kiến, lũ kiến vàng, kiến đen, người ta kể có thể tha cả xác bộ đội xềnh xệch trên lớp lá mục. Thằng cầm súng sốt ruột lên đạn như thể nó có thể bắn tan xác đám muỗi rừng dã man ấy.
- Biết vậy tao ở lại trong lán có sướng hơn không?
- Ai biểu mày đi theo tao làm chi.
- Tao đã bảo làm sao được, không phải thời trước "cáp duồn" nữa đâu...Mày không thấy mấy thằng tháng trước hay saỏ Cằn nhằn. Thời trước "cáp duồn", trước trận giải phóng Nam Vang hồi tháng giêng 79, trung đoàn còn ở Gò Dầu Hạ, Tây Ninh, trong khi các trại lính của sư đoàn 25 bộ binh quân đội Cộng Hòa được dùng làm trại cải tạo, bộ đội lại đóng quân lây lất ở ngoài Trãng, nhiều thằng bỏ trốn khá dễ dàng. Có thằng không dám men theo đường quốc lộ 15 mà cứ len lỏi trong rừng bốn năm ngày, đi đã, lạc đường, mò trở lại đơn vi.. Mấy trự đào ngũ hụt chỉ bị khiển trách bằng phê và tự phê vài ngày, rồi thôi. Đối với bọn bộ đội " bất đắc dĩ ", thằng nào chuồn được là mừng cho thằng đó. Năm đó, có một thằng giả đò đau bao tử, không chịu ăn uống gì cả. Cả bọn "ngụy" miền Nam, ai cũng biết chuyện nầy nhưng giấu nhẹm. Chính cả bọn để dành cơm cho thằng ấy ăn ban đêm. Ban ngày nó cứ tuồng cũ, ôm bụng la lối om sòm. Nhức đầu, bọn y sĩ tiểu đoàn họp lại, ký giấy cho anh chàng giải ngũ.
Ở đây, đơn vị chỉ cách biên giới Thái Lan hơn hai ngày đường bô.. Thêm một ngày về hướng Tây Bắc là sẽ đến trại tị nạn Khao-IĐang. Hôm tháng trước truy kích địch có lần bộ đội vượt biên giới Thái, đánh vào Poipet, chạm súng với lính Thái Lan, lại được lịnh rút lui. Sau trận đó nhiều thằng tự dưng mất tích. Tìm lại họ không khó. Họ chỉ là những cái xác chương sình bị xiên bởi những cành cây vạc nhọn cắm dọc đường rừng. Ruột đổ lòng thòng, ròi bọ lúc nhúc. Có xác còn đầu, có cái không. Có thằng còn giữ được cái đầu lặt lìa, cổ họng bị rạch đến mang tai. Có điều quạ, kiến chia phần rỉa mất mắt mũi taị Những hố mắt sâu hoắm đóng rêu. Bọn Miên Đỏ không dám tấn công các đại đơn vị, để khủng hoảng tinh thần địch, chúng đặt mìn, đặt bẫy, phục kích bắn hạ những thằng bộ đội đi lẻ, như thú săn mồi. Đức còn nghe đồn, số bộ đội còn lại chạy qua bên kia biên giới cũng bị tụi Thái bắt giữ, đối xử tàn mạt như những tù tội phạm chiến tranh. Từ đó chuyện đào ngũ không ai muốn bàn đến, chính thức hay không chính thức. Tuyệt.
- Mày có chắc thằng Bình nói cái gì không?
- Nó hứa... chỗ nầy mà. Đứa cầm dao im lă.ng. Nó khụt khịt đánh mùi, mùi thum thủm của lá mục, mùi xác chết vữa nát. Nó ngước nhìn những đám dây mây, dây gai leo chằng chịt. Những dây choại, dây bòng bong trườn mình trên những cành cây to nhỏ, qua lạị Những thân cây to chỗ sần sùi, chỗ đóng rêu nhờn nhợn như những con trăn khổng lồ, không trơn lán như đám cây Ngô Đồng vỏ cây trơn láng vì nón sắt cào sạch gai nhọn ở vườn Tao Ngô..
- Kiếm chỗ ngủ qua đêm cái đã. Giấc ngủ đến chập chờn trên chạc ba, khi tiếng hô xung phong và trái sáng tỏa khắp góc rừng đã đánh thức hai thằng dậy:
- Phe mình đụng tụi nó. Tiếng súng giao tranh càng gần hơn. Tiếng chân người đuổi nhau lịch bi.ch. Thằng cầm súng, như một phản xạ có điều kiện, quơ súng, bóp cò. Một tiếng cắc bụp nhỏ đáp trả.
- B40! Hai thằng la hoảng cùng một lượt, nhảy xuống đất như hai quả mít ru.ng. Những quả cầu lửa xoáy tròn đốt cháy những lỗ thủng lớn lỗ chỗ trong màn đêm dày đặc. Tiếng đạn liên thanh như hòa tấu vào điêu luân vũ của lửa B-40. Điệu nầy thì chết cháy vì B40. Nhớ đến dãy mả tân binh chết vì B-40 ở quân trường hồi năm ngoái. Số là trong khi giảng dạy về cách sử dụng B-40, người huấn luyện viên vô ý bóp cò. Đầu đạn nổ giết chết đám tân binh ngồi đàng trước và giết luôn anh ta do sức nóng dội lại từ bức tường phía đằng sau. Nghe nói, đơn vị trước có đám bày trò cầu cơ, hỏi hồn khi chết có nóng không, hồn nói rằng có. Rõ khỉ, chết vì B-40 mà không nóng sao được. Có điều hồn không chịu nói mình là ai, huấn luyện viện hay tân binh. Một quả cầu lửa bất thần quất mạnh vào thân cây gần đó không quá năm thước. Nổ bùng. Tiếng chân người rầm rập đến càng gần. Tiếng động cơ xe tảị Từ phía bên kia con đường mòn trơn ướt, chiếc xe Din tuôn chạy như không có thắng. Thùng xe, lửa đốt cháy gần hết tấm bạt, còn nghi ngút. Người lính chồm dậy, lôi kéo đồng đội: -Chạy mày, chạỵ Xe tới rồị -... Thằng còn lại không trả lờị Im lỉm. Lôi không được. Kéo không được.
- Lên. Leo lên lẹ lên. "Bác tài", tung cánh cửa xe thò đầu kêu réo. Một tràn đạn khoan dập vào hông xe.
- Chờ chút cho tao kéo nó lên.
- Nó chết rồi . Lên lẹ đi . Chết theo nó bây giờ.
- Nó chưa chết.
- Tao bảo mày bỏ. Mấy cái xác đằng sau tao còn muốn liệng cho nhẹ, ở đó... Lôị Kéọ Xe gầm gừ. Đạn B-40 ào ạt. Không được. Người lính một tay đu đưa cánh cửa xe, tay kia níu kéo đồng độị Xe tăng tốc đô.. Cái xe kéo theo cái xác người lính xềnh xệnh trên đường bùn lầy lộị Cái xác lôi theo khẩu súng AK, quai đeo móc ngang lưng. Cứ thế mà kéo nhau đi dưới làn mưa rơi năng hạt hòa lẫn với tiếng đạn rào rào. Bàn tay buông lỏng dần, lỏng dần. Cái xác lăn xuống sườn đồị Chiếc xe đỗ dốc. Bỏ sau lưng trận chiến đang tiếp diễn... Về quê hương, hòa bình đã trở lại, nhưng chân của chị không bao giờ mọc trở lạị Khi nào thì bàn chân của chị sẽ mọc trở lạỉ Tại sao ? Chị chờ đợi một kết quả không bao giờ tới, nhưng vẫn chờ. Chị phải sống qua ngày, chị van. chị xin, chị khóc, khóc thầm, khóc khô cạn nước mắt. Đất nước nghèo, ai cũng nghèo, ai cũng đổ ra đường ăn mày, thương binh chế độ cũ, thương binh chế độ mới, dân nghèo thôn quê, dân nghèo thành thị, ăn mày như nhau. Ăn mày từ trên xuống dưới.
Nhưng ăn mày có nhiều hạng, có nhiều thứ cấp. Thứ ăn mày tàn tật của chị là thứ ăn mày mạt ha.ng. Cũng may, chị chưa đi làm đĩ. "Trường của em be bé, nằm ở dưới rặng tre. Cô giáo em tre trẻ dậy em hát rất hay..". Con chị hát thánh thót theo tiếng đàn. Giống như chị, nó có những giấc mơ, giữa ban ngày lẫn ban đêm, mơ ước được "đến trường, mẹ dắt tay từng bước". Nhưng không giống như chị, nó chưa bao giờ được đến trường cả. Chị thấy bất công cho nó, sanh nó ra làm chi cho nó khổ. Hồi gặp anh, chị nhất quyết là không có con. Nhưng thương anh, trót lỡ, biết làm sao. Được cái là anh hiền. Lúc sanh con ra ở vỉa hè, anh mừng lắm. Chị nhìn con, má bầu bĩnh, mắt trong sáng, chân cẳng lành lặn, chi mừng, chị khóc. Chị khóc nhìn anh ôn con nâng niụ Anh chưa bao giờ được nhìn mặt con được rõ ràng. Anh bị lòa từ những năm đi bộ đội ở chiến trường Kam Pu Chiạ Cả một đời tuổi xuân anh chị đã hy sinh cho Đảng, cho đất nước kể cũng còn may. Cha mù, mẹ cụt, con hát dạo theo tiếng đàn gió của cha, kiếm sống qua ngày. Tiếng hát chấm dứt. Những đồng tiền được ném vào chiếc gà mên lẻng kẻng.
- Này có chơi được nhạc hải ngoại không? Có người hỏi từ trong đám đông.
- Được chứ. Con bé liến thoắng thay cha
- Phải không bố. Bố hát bài "mười năm tình cũ" đi bố. Cho nhiều tiền vào bà con ơi... Con bé vẫn liên tu. Cha lòa, mẹ cụt, nhưng dường như cả hai lúc nầy đều câm cả, chỉ có con bé xinh đẹp trời cho bù trừ cho cha mẹ chúng. Bố con bé không câm. Tay ông lướt thuần thục trên phím đàn. Những phím đàn chen lẫn với những lỗ đạn, phải vá lại bằng nhựa đường. Tuy thế bàn tay ông vẫn phân biệt được đâu là phím, và đâu là chỗ vá. Ông cất tiếng hát:
- "Mười năm không gặp..." Và ông hát rất hay, cho đến khi có tiếng xe Dream thắng gấp ở vệ đường. Đám đông giãn ra, nhường chỗ cho người công an phường vừa đến. Hắn hãy còn trẻ, mặt búng ra sữa, có lẽ sanh ra sau giải phóng.
- Đã bảo các người không được hát nhạc phản động, mà cứ hát... Hắn hùng hằn, hắn hung hăn. Đôi ria cá trê lên xuống méo mó như lý trưởng bắt xâu trong những vở kịch cộng đồng. Hắn bắt xâu thật, hắn chộp lấy lon gà mên đầy tiếng kên. Như một con sóc, con bé nhảy chộp lên níu lấy tay áo của hắn. Lon tiền rơi xuống đất, tiền rơi loảng xoảng. Tên lý trưởng nổi khùng, vung tay tát vào mặt con bé.
- Tôi lậy cậu... Mẹ nó, như một phản xạ, van nàị Bố nó lại trở thành một người câm. Như một phát hiện bất ngờ con nhỏ lại vùng lên từ mặt đường, chạy xộc vào đám đông, cầu cứu:
- Bác Việt kiều ơi, cứu gia đình cháu, bác Việt Kiều ơi. Con nhỏ níu áo người đàn ông lạ mặt. Cũng lạ, con bé khá tinh đời, nó có thể nhận diện người Việt kiều rất dễ dàng, cho dù trong đám đông. Người khách bước vào vòng ngỡ ngàng đôi chút. Ông nắm lấy tình thế khá mau. Rút tay ra khỏi túi quần, ông bắt tay người công an, nói nhỏ:
- Cảm phiền anh, thông cảm chọ Bài hát khá phổ thông cho người Việt hải ngoa.i. Nhám nhám trong lòng bàn tay, người Công An xuống giọng:
- Chính sách nhà nước là ưu đãi Việt kiều, nếu không... Đút tay vào túi quần, như một ảo thuật gia sợ khán giả biết tẩy của mình, người công an vội quay lưng. Màu xanh biến mất vào màu vàng của túi quần, và chiếc quần vàng cũng theo người biến dạng sau bụi khói xe gắn máy trắng đục tan dần vào khoảng trời xanh biếc cùng nắng vàng tươi. Còn lại với đám đông, người Việt kiều ngồi xuống đất, ông ôm con bé vào lòng. Con bé rờ má ông, nhòa lê.. Ông kề miệng vào tai cha con bé, nói nhỏ, chỉ đủ cho bốn người nghe mà thôi:
- Gần hai mươi năm không gặp. Hát nữa đi, hát đi...Đức ơi. Ông Đức buông đàn, ngơ ngác định hướng. Tay run run ông quờ quạng, cố tìm cho được người khách với tiếng nói quen thuộc:
- Cái đầu của mày đâu rồi, Thái hả? Bàn tay ông nắm chặt lấy chuỗi bùa Kà Tha trên cổ bạn. Chuỗi bùa đong đưa trong nắng. Chung quanh họ, những bóng người không đầu, lố nhố.
Hết
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #48 - 03. Nov 2006 , 21:31
 



Trọng Đạt

Bài báo khiến tôi nhớ lại trước đây khá lâu, tôi hay suy nghĩ về những người homeless, về những con chim không tổ, những người đã đánh mất mái ấm gia đình, lang thang theo kiếp sống đầu đường xó chợ, những kẻ cùng đường đã từ bỏ cuộc sống định cư để chuyển sang đời du mục.
. . . Tôi nhớ hồi đầu năm 1981 tại Sài Gòn, khi được thả về từ trại giam, y như trên cung trăng rơi xuống, cái gì cũng thấy khác lạ. Điều làm tôi ngạc nhiên là Sài Gòn bây giờ sao quá nhiều người ở lề đường: tha ma nghĩa địa, gầm cầu, vỉa hè, công viên . . chỗ nào cũng có. Có điều là, trước năm 1975 tôi không hề thấy bóng một người vô gia cư nào ở Thủ đô hoa lệ này. Có hôm tôi thấy một gia đình ba bốn người, vợ chồng con cái quây quần bên nồi cơm nóng trên manh chiếu tại một vỉa hè đường Võ Tánh, có lần thấy một bà mẹ đang nấu cơm bên chiếc ghế đá công viên, để đứa con độ một tuổi năm tênh hênh trên chiếu . .
Tôi được biết họ đa số là những người đi kinh tế mới trốn về, chẳng thà sống ở tha ma, gầm cầu còn hơn tại những nơi sơn lam, chướng khí, tôi cũng nghe nói trong số ấy nhiều người trước kia là dân sang, có nhà mặt đường, đi vượt biên bị lấy nhà nay phải kéo lê cái thân tàn ma dại trong cảnh màn trời chiếu đất. Hồi mới vào trại cải tạo được một năm, chúng tôi đọc báo thấy nhân dân nô nức lên xe đò đi xây dựng vùng kinh tế mới. Nhà nước thi hành chính sách dãn dân, hồi ấy nhiều người sợ quá bán tống táng đồ đạc, nhà cửa để hưởng ứng chính sách rồi đi cho nhanh. Họ được đưa lên những vùng đồi núi, đất đai khô cằn như sỏi đá. cầy cuốc bao năm cũng chỉ được vài bao khoai sắn, họ ăn vào vốn dần dần cho đến khi kiệt quệ, bèn đánh liều trốn về thành phố, kẻ chiến bại phải chấp nhận cái thân phận của mình, họ đã bị đẩy xuống tận cùng đáy xã hội, tự cổ chí kim bao giờ cũng thế, kẻ chiến thắng lấy đi tất cả: nhà lầu, biệt thự, xe ngựa xênh sang. . .
Tôi nhìn đám vô gia cư này bằng chút ái ngại nhưng không thấy xúc động xót thương gì nhiều cho lắm vì tôi phải thương cho chính cái thân tôi như trăm nghìn người khác, cuộc đời tôi cũng chỉ là một vở kịch bi đát não nùng.
Anh hùng mạt lộ, giang san tiêu điều. . Ở tù về, ông thì chẳng ra ông, thằng cũng chẳng ra thằng, đi làm không ai mướn, trong đầu lúc nào cũng vấn vương cái mối lo ghê gớm "không biết nó sẽ bắt lại lúc nào", và nhất là hình ảnh của những hàng rào kẽm gai đêm đêm lại hiện lên trong trí y như cơn ác mộng. . . . cái giá mà kẻ bại trận phải trả.
Họ ở lề đường, màn trời chiếu đất nhưng lại không phải đeo cái mối lo ghê gớm như tôi, tôi có cảm tưởng như xã hội lúc bấy giờ hoàn toàn không còn có tình thương, con người chỉ thương cho chính cái bản thân của mình, họ lo sợ, chán chường, đâu đâu cũng chỉ nghe thấy toàn là những tiếng thở dài, không ai làm gì hơn được.
Khoảng hơn một năm sau, vì số người vượt biên chết chìm ngoài biển đầy cả ra, Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức nhân đạo khác đã thực hiện được chương trình ra đi trong trật tự. Tôi vội vã nạp đơn ngay, nhưng diện anh em ưu tiên thấp lắm, nó chỉ cho mình một chút hy vọng mong manh, nhưng có cũng còn hơn không. Tôi theo dõi hồ sơ hết, tháng này sang tháng khác, năm nọ đến năm kia, chừng mấy năm sau tôi làm đơn khiếu nại được biết hồ sơ hồ sơ đã nằm ở phố Hàng Bài Hà Nội. Thế rồi một buổi chiều. . thật y như một phép lạ, khi sắp bước sang thập niên 90, tôi nhận được giấy của Sở Ngoại Vụ mời đi sơ vấn, phỏng vấn, khi ấy mới biết là hai bên đã thỏa thuận thực hiện chương trình ra đi chính thức dành cho người cải tạo, những người có thân nhân bảo lãnh được ưu tiên đi trước. Thế là tôi được đi ngay trong đợt đầu, toàn bộ danh sách kỳ này vào khoảng trên 3000 người.
Hầu hết những người có tên trong danh sách này có thân nhân bảo lãnh, họ đã nộp đơn xin đoàn tụ trước đây, chỉ có một số rất ít không có thân nhân tại Mỹ. Khi chuẩn bị ra đi, một ông cải tạo không có thân nhân đến nhà chơi bảo tôi:
-Tôi chắc là được cấp nhà, vì tôi không có thân nhân, tôi biết ở đâu? Anh có thân nhân, anh ở nhà người thân.
Ông ấy lý luận dài dòng văn tự, tôi lấy làm lạ hồi xưa ông ấy đã là sĩ quan cao cấp mà sao có thể dễ tin như thế.
Những tin đồn về việc cấp nhà đã loan truyền từ lâu, nhiều người lạc quan tin tưởng nhưng cũng có nhiều người đả phá kịch liệt những tin vịt cồ, có người nói:
-Mấy ông này được voi đòi tiên, đã không mất đồng xu nào, được đi cả gia đình, ngồi máy bay đánh vù một cái ngon lành, người ta đi vượt biên mất bao nhiêu tiền, chết chìm chết bắn cả đám mà còn chưa tới nơi được. Được đi máy bay sướng như tiên mà còn đòi cấp nhà nữa! ối giời đất ơi!
Khi sang Bangkok Thái Lan, trong những ngày tạm cư chờ vào Mỹ, sở USCC và sở di trú đã cho các cô nhân viên người Việt hướng dẫn chúng tôi những điều cần biết khi vào Mỹ, có một ông cải tạo hỏi về việc cấp nhà, ông nghe nói diện cải tạo được cấp nhà, cô nhân viên đáp:
-Thưa Bác, chắc là không có đâu, vì cái nhà nó to tát lắm. Vợ chồng cháu qua Mỹ đã lâu vẫn chưa mua được nhà! chắc không có đâu bác ạ!
Tôi vào Mỹ đúng vào ngày mùng bốn Tết nguyên đám, đầu thập niên 90. Hôm sau tôi hỏi người nhà:
-Nghe mấy ông cải tạo ở VN cứ đồn sang đây có một số được cấp nhà. .
Tôi chưa nói dứt câu thì thân nhân tôi gạt đi ngay.
-Ối giời ơi! Mỹ mà còn ở lề đường đầy cả ra, bữa nào đưa ông lên Dallas xem, trắng có, đen có. . nhà ở đâu mà cấp cho các ông?
Rồi người nhà tôi kể dông dài thêm:
-Vào những ngày lễ lớn, nhà thờ làm đồ ăn cho người nghèo, dân vô gia cư, ở đây gọi là homeless xếp hàng chờ dài dài, trắng có đen có nhưng không thấy có người mình.
Tôi lấy làm lạ: một đất nước giàu có sung túc nhất thế gian, đã tiêu thụ một phần ba nhiên liệu trên thế giới, một nước đã có số xe hơi bằng số xe của tất cả các nước trên thế giới cộng lại. . thế mà vẫn còn có người ở đầu đường xó chợ, thế mới biết trên thế gian này, ở bất cứ xã hội nào đâu đâu cũng có những kẻ cùng đinh khố rách. Tôi bèn viết thư về cho bạn bè ở VN để nói cho họ biết rằng Mỹ trắng, Mỹ đen còn ở lề đường đầy cả ra, con ruột người ta mà họ chưa lo được huống hồ chúng mình. Có người viết thư sang cám ơn đã cho họ biết những điều kỳ thú, họ nói chưa thấy ai nói đến cái thế giới của những người cùng đinh khố rách ấy.
Hồi ấy, tôi hay tò mò tìm hiểu về những người homeless, tôi lấy làm lạ, ở cái xứ thời tiết khắc nghiệt như thế này mà sao họ có thể sống ngoài đường. Tình cờ, tôi đọc được một bài trong tờ tập san Mỹ cho biết, họ ước lượng có vào khoảng từ 1 cho tới 3 triệu người vô gia cư, đa số tập trung tại những thành phố lớn, riêng tại Nưỡu Ước có tới gần một trăm ngàn ăn mày homeless. Phần nhiều họ bị mất việc, hết tiền, khánh tận, cũng có nhiều người lười biếng không chịu đi làm. . .
Họ có phỏng vấn một ông homless, ông ta nói mới đầu ông chỉ tưởng ở lề đường vài tháng thế mà thời gian cứ vô tình lững lờ trôi đến nay đã được ba năm. Cũng có giả thuyết nói họ là những người có tiền án hình sự trộm cướp, nay đi làm không ai mướn, ở đây người ta kỵ nhất tội phạm, một xã hội trông rất là đầy tình người nhưng kỷ luật lại cứng rắn như sắt thép. Tôi nghĩ nếu như vậy lại càng đẩy người ta vào chỗ cùng đường, kẻ đã cùng đường lại dễ sa chân phạm tội. Họ được nhà thờ, hội từ thiện cho quần áo, thỉnh thoảng cho ăn, vào những đêm đông giá lạnh họ được vào nhà trú shelter của tòa tỉnh, bần hàn nhưng được cái tự do, mặc kệ cho cuộc đời trôi theo dòng nước. Họ cũng có thể là những người mang tâm hồn thi sĩ, triết gia nhìn cuộc đời phù du mong manh như cơn gió thoảng: Cuộc đời là cái quán trọ, người chỉ là khách qua đường, nhân sinh thiên địa gian nhất nghịch lữ. .
Khoảng gần một năm sau lần đầu tiên tôi thấy một người homeless, tại một ngã tư có nhiều xe qua lại, đó là một cô Mỹ trắng, trông có vẻ cũng đàng hoàng, ăn mặc tươm tất, tay cầm cái bảng "Hungry, need help", tôi đói, giúp tôi với. Rồi một thời gian sau, tôi gặp một đôi vợ chồng Mỹ trắng tại cửa thư viện, trông họ cũng đàng hoàng,người chồng đang ngồi ăn, chị vợ chạy lại xin tôi bảo: " Sir! I am so hungry! Thưa ông tôi đói quá!"
Người Mỹ ít khi cho tiền homeless, chắc họ cho là bọn này lười biếng. Tôi thì không bao giờ từ chối, gặp họ xin tôi đều cho vì nghĩ rằng cực chẳng đã chứ ai muốn làm cái nghề bị xúc phạm nặng nề đến nhân phẩm như thế, vả lại họ cũng phải cần sống, cần được giúp đỡ. Mỗi lần cho tiền, đều được nghe họ cầu chúc God bless you, cầu Chúa ban ơn phước cho ông, họ còn biềt tin Thượng Đế chắc là những người tốt còn có lương tâm.
Tôi ngày càng được biết nhiều hơn về cái thế giới của những người homeless, có lần theo dõi chương trình trên TV được biết những chuyện thật ghê rợn của kiếp sống du mục này. Hôm ấy họ nói về những người sống dưới đường hầm xe điện ngầm tại Nưỡu Ước và đặt tên cho bọn này là mole, chuột cống vì sống y như chuột. Họ phỏng vấn một một người mole đã sống ở đường hầm bẩy năm, anh ta nói nhiều người tối ngủ say lăn ra đường rầy bị xe điện cán chết. . . Cách đây khoảng bốn, năm năm lần đầu tiên tôi thấy cuộc đời của một người homeless được đưa lên trang nhất của một tờ báo Mỹ tại địa phương, hôm ấy tôi vào chợ thực phẩm Mỹ mua đồ ăn và tự nhiên chú ý đến bài báo. Đây là một vụ án mạng tại tỉnh Grand Prairie ở gần đây, nạn nhân là một người đàn bà da trắng, 38 tuổi, homeless, gái mãi dâm bị đâm chết tại một nhà kho bỏ hoang gần đường Abram. Nạn nhân từ nhiều năm nay sống vất vưởng trong khu vực này. Một cái chết thê thảm của một người đàn bà đầu đường xó chợ, nghiện ngập, được coi như cặn bã xã hội, nhưng kẻ nạn nhân khốn cùng ấy vẫn còn may mắn hơn hàng trămhàng nghìn nạn nhân khác ở cái xứ nghèo đói lạc hậu bên nước tôi vì bà ta còn được nhắc tới trong khi hàng nghìn người khác cũng đã chết thê thảm như thế mà không được ai biết tới.
Người ta đăng cả hình ảnh của nạn nhân, khuôn mặt đầy phong sương nhưng vẫn còn giữ được những dáng nét của một dân tộc văn minh. Đôi mắt trông mất hết vẻ tinh anh, đôi mắt người đàn bà đau khổ thật chẳng khác nào một vùng đất khô cằn như sỏi đá. Mái tóc hung vàng chờm xuống trán, gò má cao, thoáng trông người ta cũng thấy được bao nhiêu năm tháng ê chề chồng chất. Đây là một bài báo dài, người ký giả kể lể khá đầy đủ về lai lịch kẻ xấu số. Vì có lẽ đây là một vụ án mạng và nhất là cuộc đời thật bi thảm của một con người tại một xứ sở văn minh sung túc, cũng có thể họ coi đó là một trường hợp hy hữu. Một bài viết rất khách quan nhưng không kém phần ý nghĩa về cuộc sống xã hội và định mệnh con người.
Ông ký giả biết được cả tên tuổi, lý lịch nạn nhân: Nàng sinh ra trong một gia đình Mỹ trắng có cha mẹ đàng hoàng, được đi học, rồi trưởng thành, có công ăn việc làm, có bạn trai... rồi một mối tình chớm nở, nàng có chồng, hai con. Người ký giả nói đó là điều lý tưởng của nhiều người Mỹ.
Rồi không hiểu vì sao gia đình đổ vỡ, chuyện này tại Mỹ sảy ra như cơm bữa vậy, chồng đem hai con đi một nơi, vợ một nẻo, một hai năm sau bị đuổi ra khỏi nhà, không rõ lý do, tôi chắc bà ta mất job không có tiền trả tiền nhà. Ở cái xứ sở tiền trao cháo múc này, không có tiền là a lê hấp đi chỗ khác chơi! không như bên mình thuê nhà rồi chiếm nhà luôn.
Người đàn bà lang thang ngoài hè phố, có lẽ nàng tưởng rằng chỉ sống bên lề đường vài tháng và một ngày nào sẽ tạo dựng lại được mái ấm gia đình, có lẽ nàng cũng nghĩ rằng mình sẽ được hưởng lại hạnh phúc của đời người. Nhưng đến một lúc nào con người sẽ không còn khả năng để lái cuộc đời theo ý mình và đành buông xuôi cho định mệnh, có dè đâu nạn nhân ngày càng kéo dài cuộc đời vô gia cư, lâm vào cảnh nghiện hút, rồi mãi dâm, ăn mày để kiếm sống, và ngày càng lún sâu trong vũng bùn lầy nhơ bẩn để rồi phó mặc cho . . đời lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt. .
. . Nạn nhân hay lui tới trong mấy con đường ở phía tây thành phố từ bao lâu nay, bị đâm chết tại một nhà kho, hai nhát ở cổ, một nhát ở lưng, chắc cũng lại do phường cặn bã xã hội gây lên và có lẽ người ta cũng chẳng cần điều tra cái chết của những người cùng đinh vô tích sự.
Bà ta cũng đã từng có một mái ấm gia đình, có hạnh phúc lứa đôi nhưng . . ngày ấy đã xa lắm rồi, cái thời ấy nay còn đâu?
Nghe nói trước đó mấy năm nạn nhân có gặp một bà cô, bà thím gì đấy, còn chồng con thì biệt tăm biệt tích. Tôi thường nghe nói điện ảnh Mỹ hết đề tài, họ quay lại những truyện, phim cũ, đây cũng là một đề tài hiếm có thuộc loại drama bi thảm hiện thực, nhưng điện ảnh Mỹ lại không chú ý đến những đề tài hiện thực xã hội như điện ảnh Ý mà chỉ thích quay những phim hoạt động "action" như trinh thám, bắn giết để kiếm nhiều tiền nên chắc họ cũng chẳng quan tâm.
Người đàn bà đã một thời là con người tốt của xã hội, có gia đình hạnh phúc, nay chết thê thảm, tứ cố vô thân, trên không rễ dưới không chằng.
. . Và rồi người ký giả lạnh lùng kết luận:
. . Burned beyond recognization
. . hoả thiêu vô thừa nhận. .

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
   SÀI GÒN CỦA TÔI
Reply #49 - 06. Nov 2006 , 05:27
 
Sài Gòn của tôi
Thinh Không

Sài Gòn! Ôi! Cái tên nghe sao mà nhớ thương. Gợi đến biết bao nhiêu là kỷ niệm êm đềm của thời trai trẻ. Cái thời đẹp nhất của một đời người.
Chắc ít có người Việt tị nạn nào mà lại không một lần nghe đến bài hát “Sài Gòn, niềm nhớ không tên” (1). Tôi thì biết đến cái “niềm nhớ không tên” (hay có rất nhiều tên?) này từ trước năm 75, lúc còn chưa phải sống xa cách hàng ngàn dặm như bây giờ.
Đó là những năm 1974–75. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được trưng tập vào quân đội. Khoảng gần giữa năm 1974, tôi rời Trường Quân Y ở Sài Gòn ra đơn vị, về phục vụ tại một Bệnh xá Dân Quân Y, thuộc tỉnh Vĩnh Long. Vĩnh Long thì cũng không xa Sài Gòn là mấy. Tôi lại được anh Bác sĩ trưởng Bệnh xá thật tốt bụng, ưu ái, và thông cảm lứa tuổi chưa biết lo (!), nên rất dễ dãi trong chuyện đi phép của tôi (đúng ra anh chỉ ngó lơ, chứ chẳng cấp chỉ huy nào cho “phép” kiểu này). Mỗi thứ Ba, tôi mới từ Sài Gòn mò xuống Bệnh xá mà rồi sáng thứ Sáu, tôi đã nôn nao (“Nếu chiều không hò hẹn, đâu thấy lòng nôn nao!?”(2), thay vào bộ quần áo dân sự, nhảy lên xe đò về lại Sài Gòn.
Ấy thế mà tôi cứ nhớ Sài Gòn. Nhớ da diết, nhớ khoắc khoải, nhớ cuồng điên khi phải xuống lại Bệnh xá. Thân tôi ở Vĩnh Long mà hồn thì vương vất đâu đó ở quán La Pagode, rạp mini Rex, rạp Eden, chè Hiển Khánh, cafeteria Rex, cơm tấm Trần Quý Cáp, bò kho Thanh Bạch, hay trước các xe bột xào, bò viên, hủ tiếu mì, ở ngã Sáu, ngã Bảy (ngã Năm tôi không dám đến!). Tôi nhớ mong Sài Gòn vì tôi cứ bị “réo gọi” bởi bao bạn bè trai, gái. Bởi muôn vàn kỷ niệm với các con đường, góc phố, hàng cây, tiệm kem, quán cóc. Nơi đó, còn có người yêu “bé bỏng” của tôi đang sống (thật ra nàng đang học đại học, chẳng bé bỏng mấy đâu). Ngày đó, tôi nghĩ không bao giờ tôi có thể sống xa Sài Gòn lâu hơn 1 tuần.

“Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược con cá vượt lội xuôi
Anh với em xa cách ngậm ngùi
Mong cho gặp mặt, xác vùi cũng ưng”

Thế mà, chẳng bao lâu sau đó, hoàn cảnh đau thương của miền Nam đã khiến tôi phải sống xa Sài Gòn. Trước, xa vài năm. Đêm đêm, từ trại cải tạo bên bìa rừng, trông về hướng thành phố xa xa, còn thấy một vầng sáng đèn ở chân trời. Sau, xa đến cả chục năm, cách biệt mịt mùng hàng chục ngàn cây số.
Nhưng rồi đến một lúc, sau khi đã ổn định cuộc sống, sau khi cũng đã hết lòng hết sức vì các ước vọng chung của người tị nạn, giống như nhiều người Việt hải ngoại, tôi nghĩ, Sài Gòn, Việt Nam nào phải của riêng ai. Dù ai đó có đang cai trị đất nước này, có làm tôi bất bình nhiều chuyện, đã làm tôi phải lìa xa nơi đó một thời, thì nơi đó cũng mãi vẫn là thành phố, là quê hương của tôi. Thế nên sau hơn 16 năm xa xứ, tôi lại trở về.
Tôi ra đi khỏi Sài Gòn vào đầu thập niên 1980, lúc thành phố ở vào thời kỳ thê thảm, tệ hại nhất về mọi mặt. Tôi cũng đã từng sống vài năm gian khổ tại đây sau năm 75 (vài năm kia phải “đẵn cây” trên rừng). Dù thế, tôi vẫn còn nhớ tâm trạng mình lần đầu về lại Sài Gòn, cuối năm 1997. Tôi đã sửng sờ nhìn thấy một Sài Gòn tiều tụy, nghèo nàn, nhớp nhúa, bụi bặm và hoang vắng … dù thật đông đúc. Trước mắt tôi, đôi lần, chỉ thấp thoáng bóng của những con người, bơ phờ, hốc hác, tất tả ngược xuôi, xa lạ, vô hồn. Tôi ngỡ ngàng, thẫn thờ. Tôi đã mong ước được nhìn thấy lại những tà áo trắng mượt mà Gia Long, Trưng Vương, Nguyễn Bá Tòng. Ước thấy lại những chiếc váy đầm nữ sinh xinh xắn Nhà Trắng Saint Paul, Régina Pacis, Marie Curie của một thời. Muốn bắt gặp lại những ánh mắt đẹp kiêu sa, kênh kiệu, hớp hồn cả đám học trò chúng tôi, từ trong những chiếc xe hơi nhà buổi sáng đưa em đi học. Nhưng đã không còn. Trong tâm trí tôi lúc đó, hình ảnh còn tồn tại sau thời gian dài biến động của đất nước và bản thân, là những hình ảnh của Sài Gòn và người Sài Gòn xinh tươi trước năm 75. Những hình ảnh đẹp đẽ của thời hoa mộng đã, một cách vô thức, ngự trị, khống chế tâm tưởng tôi, xua dạt đi những gì đau buồn, tệ hại của một thời không đáng nhớ.
Sau lần về đầu tiên đầy thất vọng và tiếc nuối đó, lạ thay, tôi lại nhớ mong Sài Gòn chỉ sau một thời gian ngắn về lại Úc. Và rồi cứ mỗi khi muốn đi nghỉ hè, nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng tôi cũng lại về Sài Gòn. Từ cái lần đầu chín năm trước đó, tôi đã về lại Sài Gòn nhiều lần. Lần này dù sẽ đi nhiều nước Âu Mỹ, tôi cũng ráng ghé qua Sài Gòn.
Tôi về đến Tân Sơn Nhất vào gần giữa trưa. Cảnh vật dọc phi đạo vẫn như bị đóng chết trong khung thời gian, của hơn ba mươi năm trước. Vẫn những chòi canh han rỉ thời chiến tranh. Vẫn những hangar máy bay thấp bé, với mái vòm cong, rong rêu, đen đúa. Bên trong một số hangar có những chiếc máy bay trực thăng của Liên Xô, nhỏ thó, cũ kỹ. Nhìn các trực thăng tôi liên tưởng đến những chiếc xe đò nhỏ, lẽ ra phải phế thải, ọc ạch chạy trên những con đường đến các quận lỵ xa xôi trước năm 75.
Tại quầy duyệt xét nhập cảnh, người sắp hàng lần này không đông như những lần trước. Các ông công an cửa khẩu, vẫn bộ mặt nghiêm nghị, trong quân phục màu xanh quân đội, với cầu vai lon lá đầy đủ. Mũ kết xếp thành một hàng dài ngay ngắn trên quày, cả ở ô không có người ngồi kiểm tra. Tất cả những hình ảnh đó vô tình (hay hữu ý?) tạo một ấn tượng khá mạnh mẽ rằng mọi người sắp đi vào một nước quân phiệt Nam Mỹ nào đó của thập niên 1960–70, như trong các phim xi nê tôi đã xem. Tôi nghĩ, phải chi họ mặc những đồng phục màu sắc nhẹ nhàng hơn. Gương mặt, cử chỉ, thái độ tươi cười, chào đón hơn có phải hay và đẹp không!? Những điều đó đâu có khó huấn luyện, hay làm giảm giá trị vai trò, hoặc ảnh hưởng đến nghiệp vụ, của họ đâu. Đối với một số không ít du khách ngoại quốc, đây là những người Việt Nam đầu tiên được gặp. Đây là những người đại diện cho cả nước, cả dân tộc Việt Nam được tiếng là thân thiện, hiếu khách, chào đón du khách đến thăm quốc gia mình. Sao lại làm người khách phương xa ngỡ ngàng, hụt hẫng, thất vọng!? Không biết các ông có trách nhiệm có nghĩ như tôi không?
Dù sao lần này cũng có những tiến bộ đáng kể. Một số không ít nhân viên là nữ. Ánh mắt nhân viên không còn lạnh lùng hay có thái độ quan liêu, hách dịch, thiếu nhã nhặn (với cả khách ngoại quốc) như tôi bắt gặp ở những lần trước. Chuyện xem xét giấy tờ nhanh hơn (dù vẫn rất từ từ). Nhưng, vẫn chưa có tiếng chào, tiếng cám ơn, và nụ cười. Cứ nhìn thấy cảnh này là tôi buồn giận. Vì khổ thay, cái xấu hổ là xấu hổ chung. Thủ tục qua hải quan thì lần này trơn tru và nhanh nhẹn hơn trước rất nhiều. Một tiến bộ đáng khen. Mà sao là “hải quan” nhỉ? “Hải” ở đây nghĩa là gì? Đâu có chút xíu “biển” nào tại phi trường Tân Sơn Nhất đâu? Hay là “hãi quan” cho “cửa ngõ hãi hùng”?
Đã đầu tháng Sáu. Vào buổi chiều, Sài Gòn hay có những cơn mưa. Có khi mưa như trút nước, không dứt. Ở Úc, ít khi tôi thấy có những cơn mưa tầm tã, mịt mù, “giăng kín đường về” (3) này. Thành phố nơi tôi ở, khô hạn kéo dài gần một năm qua làm các hồ chứa nước đều gần cạn. Ở Sài gòn, sau cơn mưa lớn, đường phố một số nơi lại biến thành hồ cạn. Tuy nhiên, sau cơn mưa, trời mát dịu lại nhiều, khá dễ chịu. Cho nên, nếu lỡ “trời không mưa, tôi cũng lạy trời mưa” (4).
Chuyện lưu thông trong thành phố Sài Gòn thì chắc nhiều người đã biết hay nghe nói. Đông đúc, chen lấn, luồn lách, hỗn độn, không trật tự hay tôn trọng luật lệ gì cả. Kỷ luật giao thông thật kém. Tình trạng nay có khá hơn những năm trước, nhưng cũng còn rối rắm, nhất là tại các “bùng binh”. Có khá nhiều xe buýt, sau nhiền năm vắng bóng, nay vận hành trong thành phố. Giá nghe nói tương đối rẻ, chạy thường xuyên trên nhiều tuyến, và đến tận ngoại ô. Một chủ trương thức thời. Nhưng xe gắn máy vẫn tràn ngập các con đường, từ sáng sớm cho đến 9–10 giờ đêm. Mỗi năm, trên cả nước có hơn 12 ngàn người chết vì tai nạn giao thông thì thật là quá mức (thống kê mới nhất của 6 tháng đầu năm 2006 cho thấy số tai nạn có giảm nhưng số người chết vẫn không giảm). Mỗi tháng có hơn 1 ngàn người tử nạn. Khủng khiếp! Sài Gòn cũng góp vào thống kê trên một con số không nhỏ. Không chỉ riêng kỷ luật giao thông, mà nói chung, ý thức kỷ luật công dân tại Sài Gòn bây giờ tệ hại hơn trước 75 rất nhiều, vì kỷ cương xã hội hầu như sụp đổ. Và hệ thống giáo dục, trong rất nhiều năm, đã không chú trọng gì đến điều này. Chẳng “giáo dục công dân”, mà chỉ quan tâm nhồi nhét vào đầu học sinh ba điều chủ thuyết lỗi thời, hoang tưởng. Chủ tâm và ưu tiên có lẽ nhắm vào việc đào tạo những kẻ trung thành hơn là những công dân tốt.
Ở Sài Gòn đông đúc này việc di chuyển, đi lại rất bất tiện, mất thời giờ. Sau vài lần về, tôi cũng bắt đầu chạy chiếc xe gắn máy của đứa em cho mượn. Tôi ít đi taxi vì nó tốn kém mà lại chậm chạp trên đường phố lúc nào cũng đông nghẹt xe. Dù sao thì tôi cũng từng là thổ địa nơi đây, khá rành rẽ đường lối. Có điều tôi không thể nào nhớ nổi các tên đường mới được thay sau này. Nhiều tên lạ hoắc, không biết là ai (tôi cũng chẳng tò mò tìm hiểu là ai). Rồi lại những con số, ngày tháng lấy làm tên đường, nghe không quen, không nhớ, lẫn lộn, rối mù.
Khi về trong nước tôi hay đọc các tờ báo như Tuổi trẻ, Thanh Niên (tôi cũng thường xem trên mạng lúc ở nước ngoài). Hai tờ báo trên là những tờ báo, theo tôi, nay có sự thông tin tương đối khá nhanh nhạy, ít gạn lọc (so với ngày trước). Có tư tưởng khá độc lập trong cách đưa tin và đặt vấn đề. Có một sự cởi mở khá rõ nét và mạnh dạn, kể cả các vấn đề “nhạy cảm”. Nhiều tờ báo khác thường né tránh các đề tài này, hay có đề cập đến thì chỉ nói một chiều, chỉ ca tụng đến phát nản. Hay chỉ có những lập luận xưa cũ, không thuyết phục. Hai báo trên cũng khá mạnh dạn trong việc đăng tải các bài đóng góp ý kiến cho các diễn đàn (hay các ý kiến phản hồi), từ các độc giả thuộc nhiều giới, nhiều khuynh hướng, từ cả trong lẫn ngoài nước.
Thí dụ trong ngày 28/5/06, tờ Thanh Niên đã đăng trong mục diễn đàn “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” một bài góp ý tựa là “Phải vượt qua nỗi sợ hãi.” Bài viết:

“…Nỗi sợ hãi chính là trở ngại lớn mà chúng ta cần phải vượt qua nó. Chừng nào nỗi sợ hãi bé đi thì chúng ta mới lớn lên được.”
Bài viết dù không nói cụ thể đến sự việc gì, nhưng ở đây theo tôi, chi tiết đó không quan trọng. Lời khuyên “Phải vượt qua được nỗi sợ hãi” là điểm cốt lõi, là tinh thần của bài góp ý. Trong thời gian gần đây, có rất nhiều người trong nước đã mạnh dạn, dũng cảm, minh danh cùng ký tên vào các tuyên ngôn đòi hỏi những ước vọng chân chính cho mình, cho đồng bào. Họ chẳng phải là “nhà đấu tranh” kiên cường, dày dạn hay nổi tiếng gì cả, mà chỉ là những công dân bình thường. Cứ đặt mình ở vào vị trí họ trong hoàn cảnh hiện tại trong nước sẽ thấy cái dũng khí to lớn như thế nào. Họ đã vượt qua được nỗi sợ hãi. Trong niềm kính phục sâu xa, với tôi, họ là những sĩ phu, hào kiệt của đất nước thời nay. Đúng như Nguyễn Trãi đã viết:

“Vận nước có lúc cường, lúc nhược
Nhưng anh hùng, hào kiệt thời nào cũng có”

Cũng trong mục ấy, có một bài góp ý khác của một người ký tên Nhất Chi Mai. Tác giả viết:

“Ta vẫn thường nhắc tới lịch sử chống giặc ngoại xâm hào hùng, nhắc tới tinh thần đoàn kết dân tộc nhưng sau những chiến thắng oai hùng đó ta lại tự mình làm bé mình… Về mặt địa lý, dân số và lịch sử, Việt Nam là một nước không nhỏ, nhưng là một nước đang ngủ quên trên những chiến tích… Cần lắm một cơ chế ràng buộc trách nhiệm và cần lắm sự cương quyết của những nhà lãnh đạo, với sự sáng suốt và quyết đoán” (tôi ghi chữ nghiêng đoạn cần nhấn mạnh).
Nếu ở hải ngoại thì nội dung những lời đóng góp ý kiến trên cũng bình thường. Nhưng trên một tờ báo trong nước, có thể xem là những đóng góp rất thẳng thắn, mạnh dạn. Đăng tải nó là một thay đổi tư duy đáng để ý của Ban biên tập. Không chỉ còn là những bài ca tụng sáo rỗng thường thấy trên báo như trước. Tôi khá tâm đắc với những ý kiến này. Nhưng từ lâu tôi không thích từ “cơ chế” thường được dùng. Nó mơ hồ, thấp bé và giới hạn.
Ai cũng biết là quyền lực làm tha hóa con người, cho dù con người đó trước khi nắm quyền lực, là một con người toàn thiện, có chủ tâm vì người khác mà phục vụ. Cũng đừng nói chi đến quyền lực to lớn tột cùng của cai trị quốc gia ở Việt Nam, thường với quyền sinh sát trong tay cùng bao cám dỗ lợi lộc to lớn. Ngay cả với những tập thể nhỏ như một Hội Đoàn, một Cộng Đồng Người Việt ở hải ngoại, qui luật đó cũng thường được thể hiện và minh chứng khá rõ ràng. Do đó, trước khi cần đến sự cương quyết, sáng suốt và quyết đoán của lãnh đạo nào đó, như trong bài viết nói trên, Việt Nam cần có một hệ thống chính quyền pháp trị có thể hổ trợ, bảo vệ và thực thi được những đức tính này. Và cần có một hệ thống chính trị có thể giám sát, ràng buộc trách nhiệm cùng xiển dương các hoạt động điều hành đất nước. Cụ thể hơn thì đó phải là một thể chế dân chủ. Thiếu điều kiện này, tôi nghĩ, quyền lực rồi sẽ làm tha hóa hầu như bất cứ ai.
Về Sài Gòn tôi hay đi nghe nhạc. Tôi đã đến hầu hết những phòng trà nổi tiếng tại Sài Gòn như Tiếng Tơ Đồng (đã đóng cửa), M&Tôi, Yesterday, Đồng Dao (đã đóng cửa), Ánh Tuyết, 2B, và nhiều nơi nữa. Ngoài chuyện giải trí, thưởng thức văn nghệ, vì thích nghe nhạc, tôi cũng muốn xem bài nhạc của nhạc sĩ nào ở miền Nam trước năm 75 được cho phép trình diễn. Để qua đó đo lường (phần nào đó, tôi nghĩ) mức độ cởi mở chính trị ở Việt Nam. Tôi thấy thật là điều khắt khe vô lý của chủ trương kiểm duyệt văn hóa này, mà tự thân chủ trương lại … kém văn hóa. Mang tính trừng phạt và tưởng thưởng vì quan điểm và thái độ chính trị của tác giả hơn là vì nội dung bài hát. Thời gian gần đây, mỗi lần tôi về, lại thấy có một số bài hát, của những nhạc sĩ miền Nam cũ, được cho phép hát lại. Khá nhiều! Những tình khúc của các nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Phạm Đình Chương, rất được ca sĩ lẫn người nghe ưa chuộng.
Lần này, lần đầu tiên, tôi nghe một bài hát của nhạc sĩ Lam Phương tại một phòng trà (tên tác giả không được giới thiệu). Tôi yêu mến dòng nhạc tình cảm, rất thiết tha và cũng rất nhân hậu của ông. Nhạc của ông bị cấm lâu có lẽ, tôi đoán mò, vì người ta “giận” ông nhiều. Nhất là vì cái câu: “Bao năm giải phóng như thế này phải không anh?…” trong một bài hát(5) có ca từ rất chua chát về Tây Đô Cần Thơ (như: “Ngày xưa ta quen từng viên đá nơi sân trường. Nay sao nghe khác từng tên đường” ). Ai từng ở đảo Bidong chắc đều có một lần nghe bài hát của ông ( “Đường Về Quê Hương” ) với các câu “Biết bao giờ trở về Việt Nam, thăm đồng lúa vàng, thăm con đò chiều xưa? Biết bao giờ ta lại gặp ta …?” được ban điều hành trại tị nạn phát lên hệ thống loa của trại mỗi khi có nhóm người tị nạn rời đảo đi định cư. Nghe não nuột, tuyệt vọng, buồn thúi ruột lúc chia tay, trong hoàn cảnh tha hương không mong có ngày về lúc đó.
Có vài bài báo ở trong nước, tôi nghĩ là đã không thành thật, khi gần đây gọp các tình khúc của các nhạc sĩ trên (và của nhiều người nữa) và gọi chung là nhạc tiền chiến. Đâu có “tiền”! Tôi nghĩ “nhạc tiền chiến” được hiểu là trước thời chiến tranh Việt Pháp 1946–1954. Hay ít ra cũng trong thời gian đó. Hầu như toàn bộ tình khúc của các nhạc sĩ miền Nam trên lại được sáng tác “trong” thời chiến 1954–75 kia mà. Tình yêu lứa đôi, cùng với tình yêu quê hương, đất nước, tại miền Nam, vẫn tràn đầy. Vẫn được nhắc nhở, ca tụng, dù trong thời chiến tranh máu lữa, khốc liệt.
Tôi nhớ cách đây 4–5 năm, tại phòng trà Tiếng Tơ Đồng vào mùa Giáng Sinh, tôi đã nghe Thanh Lam hát “Bài Thánh Ca Buồn” (6) (“ Bài thánh ca đó còn nhớ không em? Noel năm nào chúng mình có đôi …” ) đầy kỷ niệm. Lâu lắm rồi tôi mới nghe lại bài hát này, qua một giọng ca thật điêu luyện và truyền cảm. Trong khoảnh khắc, cả một trời kỷ niệm ùa về. Tôi chợt như được sống lại những mùa Noel Sài Gòn háo hức, nhộn nhịp, rộn ràng, hồi hộp, tuyệt vời của những năm nào ở tuổi đôi mươi. Khi nghe lại một bài hát gợi nhiều kỷ niệm, lòng mình xao xuyến vô cùng. Dù đôi khi sự gợi nhớ dĩ vảng cũng làm lòng mình chùng xuống.
Tôi còn nhớ lúc tôi học năm thứ nhất đại học, tôi có cô bạn gái học lớp 10 Marie Curie. Đêm Noel tôi chở em trên xe gắn máy ra nhà thờ Đức Bà, như rất nhiều thanh niên trai gái Sài Gòn thời đó. Em sung sướng, hãnh diện với tôi và các bạn, vì lần đầu tiên được mặc chiếc áo dài truyền thống thướt tha. Thế mà tôi lạng quạng làm sao lại làm em té xuống đất, trên đường Lê Lợi, áo quần lấm lem. Không biết có phải vì thế mà vài tháng sau (1969) em bỏ tôi lại, theo gia đình sang Mỹ (Ba của em là viên chức cao cấp của Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Mỹ). Rồi từ đó tôi không hề gặp lại em.
Trên đường từ nhà em tôi, nơi tôi trú ngụ, ra trung tâm Sài Gòn, tôi thường chạy ngang trường Trung học Petrus Ký cũ của mình. Ngôi trường tôi có rất nhiều kỷ niệm với lũ bạn xôn xao những mối tình đầu. Lần nào đi qua tôi cũng nhìn vào cổng trường xem sao. Nhìn hai hàng cây sao cao to bên hông trường, nơi ngày xưa là bãi đậu xe của học sinh, tôi lại nhớ đến Thầy Tổng giám thị Chương. Thầy hay đứng sau gốc các cây sao trên, để chụp bắt phạt học trò nào không mặc đồng phục, đang dắt xe vào trường. Trường tôi có tiếng rất nghiêm về kỷ luật là nhờ các thầy giám thị. Tôi có lần cũng bị Thầy Chương chụp bắt lên văn phòng, không phải vì chuyện đồng phục, mà vì tội để tóc dài. Tôi né trốn thầy hoài mà rồi cũng không thoát. Trường tôi nay đã đổi tên là Lê Hồng Phong. Bây giờ có cả nữ sinh. Tôi không phản đối chủ trương trường hỗn hợp nam nữ. Cũng có cái hay của nó. Nhưng để phá vỡ cái truyền thống của biết bao năm không vì một lý do thiết yếu thì tôi không đồng tình. Trường Nữ Trung học Gia Long cổ xưa, truyền thống cũng thế. Nay có cả nam sinh và cũng đã bị đổi tên.
Về Sài Gòn lần nào tôi cũng đi vào các tiệm sách, xem sách, mua sách. Bây giờ thì có khá nhiều nhà sách, thường rất lớn. Nhà sách Khai Trí ở đường Lê Lợi đã mở cửa lại nhưng mang tên Sài Gòn. Có nhiều tiệm sách nhỏ của tư nhân, dọc hai bên đường Hồng Thập Tự cũ, đoạn gần đường Nguyễn Thiện Thuật. Nơi đây có bán sách cũ, mới và giảm 20–30% trên giá bán, không như ở các tiệm lớn. Có khá nhiều tựa sách, bao gồm nhiều lãnh vực. Nay có rất nhiều tác giả trong nước tôi không quen tên. Sách của các nhà văn nhóm Tự Lự Văn Đoàn, hay các nhà văn, nhà thơ vào thời đó, cũng đã được in lại từ nhiều năm trước. Mỗi lần về lại thấy có ấn bản mới, to hơn, đẹp hơn. Có lẽ nhà văn, học giả Nguyễn Hiến Lê có nhiều sách in lại nhất (ngoài ông và nhà văn Sơn Nam, còn mấy sách nào của các tác giả miền Nam được phép in lại?!?). Giá sách nói chung thì rất rẻ so với mức thu nhập ở nước ngoài (vào khoảng 3–4 Úc kim/quyển). Nhưng như thế cũng tốn đến một, hai ngày lương công nhân trong nước. Một số sách của, hay về, các nhà văn, thơ của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần Dần… cũng có được in lại. Nhưng vẫn đuợc lọc lựa bởi cái sàng chính trị. Nội dung các sách này, mà tôi được đọc, thì không gì hay, phiến diện và không giống như tôi đã đọc về các ông trước năm 75 hay ở hải ngoại. Tôi nghĩ người ta đã sai lầm khi cố tình chỉ lọc lựa đưa ra, theo ý mình, một vài quan điểm thuận lợi nào đó từ các ông, ở giai đoạn thích hợp nào đó của cuộc đời các ông. Vắng đi hay lướt vội qua các dằn vật chuyễn đổi về tư tưởng, cùng cuộc sống bất hạnh, đầy nhọc nhằn, cay đắng mà các ông và người thân đã trải qua hay gánh chịu. Thời đại này khó có thể giấu diếm được điều gì. Mà mập mờ nói có phân nửa thì chỉ phản tác dụng.
Quyển “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” được bày bán nhiều. Tôi cảm phục và kính trọng lòng hy sinh của cô mà cũng thương cho cô. Một lý tưởng không tròn. Có sách mới của nhà văn Bùi Ngọc Tấn (“Viết cho bè bạn”). Nhưng không có quyển “Chuyện kể năm 2000” của ông mà tôi rất thích. Nội dung quyển sách mới thì bình thường, thậm chí nhạt nhẽo. Toàn bộ tinh túy và tâm huyết của ông đã dồn hết vào quyển kia rồi. Có thấy tập truyện ngắn “Bóng Đè” gây nhiều tranh luận của nhà văn nữ trẻ Đỗ Hoàng Diệu.
Có nhiều quyển sách mới tái bản của nhà văn nữ trẻ Nguyễn Ngọc Tư, nổi tiếng với chuyện “Cánh Đồng Bất Tận”, được bày bán. Mới đây thôi, cô bị Sở Thông Tin “ Văn Hóa Cà Mau, nơi cô sống và công tác, phê bình, kiểm điểm, khiển trách, qui chụp, đòi khai trừ, cách chức, đuổi đi khỏi tỉnh gì đó (tôi kể dám còn thiếu). Nhưng không ngờ, cô được độc giả phản ứng với hàng trăm ý kiến bênh vực mạnh mẽ trên các báo. Thêm nữa, báo Tuổi Trẻ và vài nhà xuất bản khác, còn ra mặt ủng hộ, tái bản ào ạt (có sách ghi chú tái bản lần thứ năm) các sách bị phê phán của cô. Đáng chú ý là các “ông quan văn hóa” (chữ trên báo trong nước) Cà Mau bị độc giả khắp nơi chỉ trích kịch liệt về các quyết định này, thậm chí còn chê bai, dè bỉu khả năng, trình độ của các ông. Cái bóng con đường đen tối của Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, v.v… những tưởng …, đã không lập lại. Sự thông tin rộng rãi, thông suốt, nhanh nhạy của thời đại internet, thời toàn cầu hoá, đã không cho phép điều đó lập lại.
Nguyễn Ngọc Tư tự nhận định văn chương của cô (và cả bản thân) như trái xoài riêng. “Có người thích, có người chê”. Nhưng cô “chẳng bẻ mình bẻ mẩy để lấy lòng người” (mấy câu này có in trên bìa sau sách rõ ràng). Các nhà văn, nhà thơ đều khí khái giống nhau:

“Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu” (7)

Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã mở rộng vòng tay, ưu ái đón chào lưu dân tứ xứ, từ nhiều trăm năm trước. Tôi thấy ngày nay Sài Gòn vẫn còn cái truyền thống đó. Tôi đã gặp rất nhiều người bán hàng rong, lao động, tài xế, bán hàng, v.v… trên khắp đường phố Sài Gòn, đến từ nhiều miền xa xôi ngoài Bắc. Mấy ngày trước, trên một xe taxi, nghe anh tài xế nói giọng “miền Bắc 75” (cái giọng cao, nhanh và chua đặc trưng không lẫn được; không êm ái, ngọt ngào, thanh lịch như đa số người “miền Bắc 54”), tôi đã tò mò hỏi thăm anh quê ở nơi nào ngoài Bắc, vào đây lâu chưa. Anh nói từ Hà Tây. Cả gia đình bốn người vào đây sống đã tám năm rồi. Tôi hỏi anh thấy cuộc sống nơi này, dân tình thế nào thì anh phán câu “đất lành chim đậu” làm tôi mát cả ruột. Tôi còn trao đổi với anh đôi điều và anh cũng đồng ý với tôi. Tôi cũng đã nhiều lần nói chuyện với nhiều người có hoàn cảnh như anh. Họ cũng đồng ý, hay rồi cuối cùng cũng đồng ý, giống như anh.
Vùng đất miền Nam trù phú, hiền hòa, trong đó có Sài Gòn, đã sản sinh tư tưởng, giáo dục nếp sống, dịu hiền, đôn hậu, trọn tình, trọn nghĩa như trong các câu ca dao:
“Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”

Tổ tiên tôi, nghe người lớn kể, cũng là người đàng ngoài, vào Nam lập nghiệp từ hàng trăm năm trước. Nhưng cũng rất nhiều năm sau những nhóm di thần nhà Minh từ nước Trung hoa xa xôi do Mạc Cửu, Trần Tiễn Thành, Dương Ngạn Địch, Trần Đại Xuyên cầm đầu chạy sang trú ngụ. Và từ những đợt di dân, tị nạn sau nhiều cơn biến loạn ở Trung Hoa sau đó. Rồi thời năm 54 (mới đây mà đã hơn 50 năm rồi!), cả triệu đồng bào miền Bắc cũng di cư vào Nam lập nghiệp. Tất cả, cùng với dân Khờ me tại địa phương, đã tạo thành một tập hợp với nhiều ưu tính của từng sắc dân. May mắn được sống trong một vùng đất trù phú, họ đã hình thành một tập thể “người miền Nam” hiền hòa, nghĩa khí. Và Sài Gòn, đã và sẽ mãi vẫn là cái nôi văn hóa, là thủ phủ của miền Nam nhân bản này.
Có lẽ tôi có thể kể những cái dở, cái xấu, cái nghịch lý, bất công hiện nay ở Sài Gòn cả ngày không hết. Tuy nhiên, cũng phải công bằng mà nói, đã có những tiến bộ trong mấy năm qua. Đã có lại những con đường sạch sẽ với hàng cây xanh, luống hoa được chăm chút. Những cửa hàng quần áo sáng sủa, chưng bày thật mỹ thuật, đẹp mắt như trên đường Võ Tánh cũ (nay là Nguyễn Trãi nối dài), con đường quen thuộc của tôi. Những nhà hàng, quán cà phê thiết trí trang nhã với nhân viên trong các bộ đồng phục thẳng thóm, đúng cách, phục vụ chu đáo, lễ độ. Những khuôn mặt đâu đó trên đường phố tươi vui, xinh xắn, trong các bộ áo quần tươm tất, lịch sự, hợp thời. Có những câu chào, những nụ cười. Không nhiều, không đồng bộ, nhưng đã có.
Nhưng, cho dù Sài Gòn ngày nay không được như trước năm 75. Đã làm tôi tức mình, buồn bực, tiếc nuối hình ảnh quá khứ, vẫn gắn chặt với lòng tôi (chắc cũng giống như Hà Nội vẫn sống trong lòng người dân, nhà văn, nhà thơ miền Bắc di cư vào Nam thời năm 54). Cho dù quán La Pagode không còn, rạp mini Rex đã dẹp, tiệm kem Hoàng Gia trên đường Tự Do biến mất, tôi vẫn như còn thấy cái hồn Sài Gòn ngày xưa của tôi còn vương vất trên các con đường, góc phố. Cho dù người ta đã thay đổi hầu hết tên những con đường (đọc hoài không nhớ), tôi vẫn gọi bằng tên cũ. Vẫn Hiền Vương, Gia Long, Duy Tân, Thống Nhất, Hồng Thập Tự, Công Lý, Tự Do. Tôi vẫn muốn thủy chung với Sài Gòn của tôi.
Tôi có quá nhiều kỷ niệm ở nơi này để mà tôi có thể quay lưng, xóa đi quá khứ, giận dỗi không đoái hoài. Tôi vẫn cứ muốn về thăm lại Sài Gòn. Vẫn muốn thấy nhiều người Sài Gòn xa xứ trở về thăm lại thành phố này. Vì tôi tin rằng, một ngày không xa, Sài Gòn ngày xưa của tôi sẽ trở lại. Chính sự về thăm lại Sài Gòn của những cựu dân nơi này sẽ có ảnh hưởng, không nhiều thì ít, trực tiếp hay gián tiếp, hữu ý hay vô tình, làm sống lại nhanh hơn cái hồn, cái chất, cái cung cách, lối sống của Sài Gòn năm xưa. Tôi nghĩ và tin như thế, dù biết có người không đồng ý. Tôi tin tính nhân bản cuối cùng sẽ thắng. Người Sài Gòn có truyền thống yêu chuộng Tự Do, Dân Chủ, luôn đề cao cùng sống theo những giá trị này.
Nếu sự khôi phục không thể kịp cho tôi thì cho thế hệ kế tiếp, cũng tốt thôi. Tương lai của hàng triệu người Sài Gòn trẻ tuổi, thực tế, sẽ không ở nơi đâu khác hơn là tại Sài Gòn, tại Việt Nam. Để cho họ được sống trong một Sài Gòn như tôi đã từng sống. Một Sài Gòn tươi đẹp, sung túc, thanh lịch và văn minh. Để họ có được cái may mắn như hàng bao lớp thanh niên chúng tôi, đã thương yêu Sài Gòn như người yêu và được Sài Gòn đền đáp lại bằng những ánh mắt, nụ cười, giọng nói ngọt ngào, cách cư xử chân tình của bao nam thanh nữ tú. Cũng như đã đem đến cho chúng tôi những nơi chốn gặp gỡ, hẹn hò thơ mộng, mà hình ảnh, kỷ niệm, khắc sâu trong tim, mãi không rời.

Thinh Không
________________________________________

(1): Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn
(2): “Nếu biển không có sóng, biển đâu còn dào dạt.
Nếu chiều không hò hẹn, đâu thấy lòng nôn nao.
Nếu đời không tình yêu, biển sẽ không có sóng.
Nếu chiều không gió lộng thì tóc em đâu có bồng bềnh...”
Nếu biển không có sóng, nhạc Từ Huy
(3): “Anh muốn cùng mây giăng kín đường về,
Gọi tên em, gọi tên em cho nát bờ môi ấy ...”
Tình khúc tháng 6, nhạc Ngô Thụy Miên
(4): “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt,
Trời không mưa anh cứ lạy trời mưa …”
Tháng Sáu Trời Mưa, thơ Nguyên Sa
(5): Bài “Chiều Tây Đô”
(6): Nhạc sĩ Nguyễn Vũ
(7) Thơ, “Lời Mẹ Dặn” của Phùng Quán

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #50 - 09. Nov 2006 , 01:02
 
THU CHồNG
Hải Ngữ
Tặng Cậu Mợ Nghi, Tasmania, Úc
Để nhớ lại một thời niên thiếu ở QN.

Năm đó tôi sửa soạn lên lớp đệ Tam. Trong suốt những năm ở bậc trung học, thường thường năm nào cha mẹ tôi cũng bắt đi học hè, nhưng vì lớp đệ Tam được xem là lớp dưỡng sức nên năm đó tôi tha hồ rong chơi trong suốt ba tháng hè mà không phải học hành gì cả. Được gọi là lớp dưỡng sức là vì vừa qua kỳ thi Trung-học (brevet), nghỉ xả hơi chờ sang năm lên lớp đệ Nhị và chuẩn bị thi Tú-tài.

Khoảng giữa thập niên 60, kỳ thi Trung-học được bãi bỏ nên từ đó về sau lớp đệ Tam lại càng nhàn hạ lắm. Đối với tôi, năm học này rất thoải mái vì tất cả chương trình học đều giống như năm đệ Ngũ, chỉ đào sâu và học thêm một vài khái niệm mới. Tôi còn nhớ thầy dạy Toán đứng gân cổ giảng cho chúng tôi hiểu thế nào là “hàng điểm điều hoà” trong giờ Hình-học. Tôi vốn lơ-tơ-mơ về Toán, thấy khó lại càng không muốn tìm hiểu làm gì. Hơn nữa, năm đó thân xác tôi bắt đầu trổ mã, gọi nôm na là dậy thì. Ở cái tuổi dậy thì, có nhiều thứ khác cần chú ý hơn là tập trung tư tưởng vào môn Toán. Tôi biết chăm chút mái tóc hơn là ngồi trau chuốt cho bài bình luận của giờ Việt văn. Và nhất là có những cuốn sách khác quyến rũ hơn những pho sách giáo khoa; đó là tiểu thuyết. Tiểu thuyết có đủ loại để đọc, loại tình cảm, dã sử, trinh thám…v... v, loại nào cũng hấp dẫn cả. Riêng tôi lại mê kiếm hiệp mặc dù đôi khi cũng thích những chuyện tình ướt át. Tôi bắt đầu làm quen với những nhân vật huyền hoặc trong pho tự điển của Kim Dung. Càng đọc càng say mê. Dĩ nhiên, tôi không thể ngang nhiên mở cuốn Anh Hùng Xạ Điêu hoặc cuốn Vườn Thuý để đọc bất cứ lúc nào, mà phải đọc lén. Làm bậc cha mẹ, ai cũng muốn cho con cái theo đuổi việc học để sau này, trước hết kiếm chút tương lai ấm lấy tấm thân, sau nữa cho các bậc sinh thành hãnh diện với láng giềng nên không thể chấp nhận con cái cầm một cuốn sách nào khác hơn là cuốn sách giáo khoa. Tôi làm sao hiểu hết sự cần thiết của việc học hành. Hơn nữa, những nhân vật trong truyện giúp cho những thằng con trai mới lớn như tôi mơ ước được nhiều thứ, cho dù đó chỉ là không tưởng.

Nhà tôi có căn gác lửng, là nơi cha mẹ tôi để riêng cho tôi đèn sách, kỳ vọng thằng con sẽ giật được mảnh bằng Tú-tài làm nở mày nở mặt với xóm giềng. Cái bàn học tôi được kê sát cửa sổ, nhìn sang những dãy nhà san sát, cũng xây theo một kiểu như nhau trong con hẻm nhỏ. Căn gác mở ra một hàng hiên, có dãy ban-công bằng gỗ. Cả hàng hiên được phủ mát bởi những tàng cây rậm rạp của cây sầu-đông mọc bên cạnh nhà. Thời gian lý tưởng nhất trong ngày là lúc không gian đứng im lìm mệt mỏi, thời khắc trôi chầm chậm uể oải của một buổi trưa hè oi bức, có cơn gió mát thổi hiu hiu qua căn gác, đâu đó có tiếng chim hót trộn lẫn với tiếng ve sầu kêu râm ran trên tàng cây, đó là lúc tôi ngồi tựa lưng vào vách gỗ, say mê hàng giờ với những nhân vật không tưởng được nhào nặn tài tình dưới ngòi bút ma thuật của Kim Dung và Quỳnh Dao.

Vào một buổi trưa, cũng như bao buổi trưa khác, tôi leo lên căn gác, lén cầm theo cuốn Anh Hùng Xạ Điêu, ngồi tựa lưng vào vách, nghiền ngẫm đoạn Quách Tĩnh gặp Hoàng Dung, say mê đến nỗi mà có tiếng gọi bên tai mà vẫn không hay. Tiếng gọi khá to nổi lên giữa buổi trưa hè yên ắng làm tôi giật mình gập vội cuốn sách nhìn lên.

- Em chăm học quá há. Hè rồi mà vẫn còn học hả em?

Tiếng nói phát xuất từ căn gác nhà bên cạnh. Tôi quay đầu và nhận ra một thiếu nữ đang chống tay vào ban-công, mái tóc thật dài, nhìn tôi cười cười. Tôi nghe loáng thoáng học… học gì đó và chợt nhớ ra trong tay đang cầm cuốn sách kiếm hiệp. Mặt đỏ bừng, tôi cười gượng:

- Không… không, em… em đang đọc truyện.

Người thiếu nữ vẫn hồn nhiên:

- Truyện gì vậy? Cho chị xem được không?

Tôi đứng lên, giấu cuốn sách sau lưng:

- Ồ! Truyện… truyện này chị không thích đâu.

Người thiếu nữ đi dọc theo ban-công tiến dần về phía tôi. Khuôn mặt chị hiện ra rõ ràng trong tầm mắt và tôi chợt nhận ra người thiếu nữ có một khuôn mặt thật khả ái, hiền thục. Tính ra đến lúc đó, tôi đã đọc không biết bao nhiêu pho sách, đã thấy những tác giả tả các nhân vật trong truyện như thế nào, trong đó có những nhân vật nữ. Nào là khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa, mắt bồ câu, đôi mày ngài. Cứ nhắm mắt lại là hình dung được một mẫu người lý tưởng và tôi đã ươm biết bao là mơ ước. Tuổi mới lớn chỉ dám mơ mộng thôi chứ chưa hề nghĩ đến chuyện đối diện với một người con gái. Vậy mà giờ đây có một thiếu nữ đẹp như người trong tranh đang tiến lại gần tôi, hỏi han thì làm sao tôi không cuống lên được. Tôi gần như á khẩu, miệng lắp bắp nói không thành tiếng. May mà có cuốn sách tôi đang cầm sau lưng nên tay chân đỡ luống cuống. Cần nói thêm là bất cứ thằng con trai nào trong lứa tuổi dậy thì đều có giọng nói khàn đục, khuôn mặt đùn lên đám mụn như những cù lao nhỏ rải đều trên bờ vịnh. Khuôn mặt như thế vốn đã khó coi, còn tôi lúc đó chắc càng khó coi hơn nữa vì lúng túng, ngượng ngùng, tay chân thừa thãi. Cũng may, cử chỉ thân thiện và giọng nói dịu dàng của người thiếu nữ giúp tôi lấy lại bình tĩnh thật nhiều. Tiếng người thiếu nữ:

- Thì cứ đưa chị xem thử!

Tôi đành đưa cuốn sách ra:

- Truyện kiếm hiệp mà, chị đâu thích những loại này.

Nụ cười của người thiếu nữ thật tươi:

- Kiếm hiệp hả! Anh Kiệt thích lắm đó.

Tôi thắc mắc:

- Ủa! Chị nói anh Kiệt nào?

- À! Chị quên chưa giới thiệu với em. Chị là Hảo, còn anh Kiệt là chồng chị. Thế còn em?

- Em hả? Hưng. Anh chị mới dọn đến hả?

- Ừ! Anh chị mới thuê căn gác này được mấy ngày.

- Thảo nào, em lên đây đọc truyện hoài mà đâu thấy ai. Lúc nãy, chị hỏi làm em giật mình.

Chị Hảo nghiêng đầu, nheo nheo đôi mắt:

- Lén lên đây đọc truyện phải không?

Tôi làm lơ không trả lời câu hỏi của chị:

- Thế anh Kiệt đâu chị?

Chị Hảo nghiêng đầu hất mái tóc ra phía sau. Tôi chợt để ý đến suối tóc óng ả của chị chảy quá nửa lưng. Phải gọi là suối tóc vì một màu đen nhung thuần chất, mượt và mềm mại như giòng nước uốn mình qua khe. Mái tóc sóng sánh mỗi khi chị hất hất đầu sang bên. Buổi trưa hè, có cơn gió nhẹ thổi bay bay mái tóc huyền làm khung cảnh trở nên thơ mộng. Thuở đó, tôi chưa biết định nghĩa thế nào là đẹp. Tất cả những lối tả ví von của mấy ông nhà văn tôi cũng chưa hình dung được nhưng khi đối diện với khuôn mặt của chị Hảo chỉ cách hơn hai sải tay, tôi đã mường tượng được đây phải là một khuôn mẫu để diễn tả nhan sắc. Tôi không biết khuôn mặt trái xoan như thế nào, cũng không biết mũi dọc dừa ra làm sao, lại càng không biết thế nào là đôi mắt bồ câu – mặc dù mắt mấy con bồ câu nhà tôi nuôi nhìn lờ đờ chứ chẳng thấy gì hấp dẫn – vậy mà buổi trưa hôm đó tôi thấy khuôn mặt của chị Hảo có đủ tất cả những nét tuyệt vời mà trí óc tôi có thể tưởng tượng được. Cả người chị toát ra một sức thu hút kỳ lạ, từ giọng nói đến dáng người, làm tôi cứ ngỡ mình là một thư sinh trong truyện Liêu-trai huyền bí (đúng là lậm tiểu thuyết). Không biết có phải những đốm nắng nhảy múa lung linh trên khuôn mặt chị làm tăng thêm vẻ huyền hoặc hay không nhưng người tôi như ngây ra khi đứng trước dáng người thanh tú của chị. Một vẻ đẹp dịu dàng, tự nhiên không chút son phấn, hiền hoà dễ làm mềm lòng người đối diện.

Nhận xét của tôi là nhận xét của một thằng con trai mới lớn, bắt đầu biết mộng mơ một khuôn mặt, biết rung cảm trước một sắc đẹp và lòng thấy bồi hồi khi trò chuyện với một người khác phái. Đột nhiên tôi buột miệng:

- Chị đẹp quá!

- Chà! Biết nịnh đầm nữa há! Sao em nịnh chị giống anh Kiệt vậy?

Tôi đỏ mặt:

- Không! Em nói thật mà, chị đẹp thì em nói đẹp chớ biết nịnh ra làm sao đâu!

Chị nguýt tôi. Ôi chao ôi! Cái nguýt của chị làm tôi sướng lịm cả người.

- Đàn ông con trai đều giống nhau ở điểm này. Cứ nịnh mà không biết ngượng.

Tôi đánh trống lảng:

- Anh Kiệt đi làm hả chị?

Chị lườm tôi một cái thật dài:

- Hoá ra chị trả lời rồi mà em có nghe gì đâu! Đã bảo là anh Kiệt đóng quân ở Phù-cát, cuối tuần về thăm chị rồi lại đi ngay.

Tôi nghe nói có một căn cứ không quân ở Phù-cát, một tỉnh lỵ cách thành phố Qui-nhơn – nơi tôi đang lớn lên – khoảng 30 cây số về hướng tây bắc. Đây là căn cứ tương đối lớn, gồm đủ loại máy bay hỗ trợ cho toàn Quân khu 2. Loại vận tải cơ C-130 nối liền đường bay huyết mạch chuyển lính và quân trang quân dụng từ Biên-hoà tiếp ứng cho cuộc chiến đang leo thang dữ dội tại miền Trung. Tôi hỏi chị:

- Thế anh Kiệt là phi công hả chị?

- Ừ! Anh ấy lái trực thăng.

Tôi làm ra vẻ hiểu biết:

- Sao chị không dọn ra ở Phù-cát với anh ấy luôn? Ở đây mỗi tuần gặp nhau chỉ có một lần, nhớ chết!

Chị Hảo cười vui vẻ:

- Em nói hay quá! Nhưng em biết gì mà nhung với nhớ. Coi bộ em lậm tiểu thuyết nhiều lắm nha!…

Thấy tôi mặt đỏ lên vì ngượng (không biết tôi đỏ mặt đến mấy lần rồi!), chị đưa tay ra đập đập trong không khí:

- Chị nói đùa cho vui! Từ nãy giờ chị cứ chọc em hoài, em có giận chị không?

Đứng nói chuyện với chị Hảo là một vinh dự đối với thằng con trai mười lăm tuổi như tôi. Giá chị cứ mắng nhiếc tôi mà vẫn được đứng nói chuyện với chị tôi vẫn còn cảm thấy thú vị nữa là vài ba lời chọc ghẹo vô thưởng vô phạt từ nãy giờ. Tôi nói thật với lòng mình:

- Chị có chưởi em vẫn còn được nữa là chọc. Chị đừng lo, em lì lắm.

Chị Hảo lại lườm tôi:

- Chà! Em khéo nói quá! Em lớn lên chắc cũng không vừa gì đâu! Mấy cô gái rồi chết hết với em. Càng nói chuyện chị càng thấy em giống tính anh Kiệt ghê?

Từ nãy giờ chị Hảo nhắc đến tên anh Kiệt đến mấy lần, lần nào cũng so sánh tôi với anh. Khi nhắc đến tên chồng, đôi mắt long lanh của chị ánh lên chút kiêu hãnh, khuôn mặt chị rạng rỡ, giọng nói của chị đầy vẻ trìu mến, thiết tha. Chẳng biết tính tôi có giống anh lắm không nhưng tôi chợt nhận ra chị đang nâng niu một tình yêu đậm đà với người chồng mà tôi chỉ mới nghe giới thiệu. Trong trí óc non nớt của tôi, tình yêu là một trạng thái tình cảm không tưởng, hầu như không có thật. Đọc nhiều đoạn tiểu thuyết diễn tả tình yêu như một loại trái cấm, ăn vào sẽ mắc nghẹn ở cuống họng, tôi cho đó là cường điệu. Còn mẹ tôi, ngay từ khi tôi còn nhỏ, đã ngăn cấm những chuyện liên quan đến phụ nữ chứ đừng nói đến chuyện yêu đương. Những gì có dính dáng đến đàn bà con gái mẹ tôi đều cho đó là điều cấm kỵ. Tôi còn nhớ những lần chạy chơi rượt đuổi mấy đứa bạn chui qua hàng dây phơi quần áo; trên đó có phơi mấy chiếc quần lãnh đen đàn bà và tôi bị gọi về ăn một trận đòn đích đáng kèm theo lời giải thích là muốn nên người thì đừng bao giờ chui qua quần đàn bà. Mẹ tôi còn dí ngón tay vào trán tôi phán rằng việc học của tôi sẽ chẳng đi đến đâu chỉ vì đầu óc đã bị ngu muội nhiều lắm rồi. Không biết đầu óc tôi lúc đó có bị lú lẫn hay chưa nhưng tôi vẫn còn đủ trí khôn suy xét và hiểu rằng mẹ tôi bày chuyện vô lý. Làm gì có chuyện chạy chui qua mấy cái quần đàn bà mà đầu óc lại ngu muội đi! Nghe như chuyện thần thoại. Mãi đến khi ngồi cắn bút vì mấy bài toán động tử ở lớp nhất tôi mới nhận thấy lời răn đe của mẹ tôi là đúng. Quả thật đầu óc tôi đặc sệt, chậm hiểu về toán học không thể tưởng được. Nhiều lúc không tìm được đáp số của bài toán, tôi tự vả vào má trách mình quá ham chơi chui qua mấy cái quần để giờ này ngồi nhăn mày bóp trán vì mấy bài toán. Theo lời mẹ tôi thì chui qua một lần đã thấy dốt rồi, còn tôi chui qua chui lại suốt mấy năm trường thì đến óc bác học cũng còn lú nữa là cái đầu thiếu chất xám của tôi. Lớn lên một chút, mẹ tôi lại càng cấm tiệt những gì dính dáng đến đàn bà con gái. Mẹ tôi răn đe rằng lớn lên là để học, dính vào chuyện yêu đương sớm chỉ có mụ người đi, người sẽ đờ đẫn ra như uống phải sữa người chết. Càng cấm tôi càng háo hức muốn nếm thử và dĩ nhiên chưa bao giờ có cơ hội. Đọc trong tiểu thuyết có những nhân vật chết lên chết xuống chỉ vì yêu, tôi chợt nghĩ sao dại dột thế, yêu nhau không được thì kiếm người khác, tội gì mà phải chuốc lấy cái khổ vào thân! Tôi cũng thèm muốn được yêu nhưng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ phải lụy vì tình. Đành rằng tình yêu cần thiết thật nhưng đâu đến nỗi phải hy sinh cả cuộc đời chỉ vì hai chữ tình yêu. Cho đến khi gặp chị Hảo, nghe chị nhắc đến tên anh Kiệt với những lời lẽ trân quý, tôi chợt nhận ra rằng tiểu thuyết và cuộc đời có lẽ giống nhau ở điểm này; quả thật trên đời có những tình yêu bất diệt, cho dù phải đánh đổi ngay chính mạng sống mình để gìn giữ nó. Nói khác đi, cuộc đời sẽ không còn ý nghĩa nữa nếu để vuột mất một mối tình chân như thế.
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #51 - 09. Nov 2006 , 01:03
 
Đó là lần đầu tiên tôi quen biết chị Hảo và dần dần biết thêm nhiều chi tiết về cuộc tình của chị. Những ngày kế tiếp, tôi không dám lên căn gác đọc truyện vì ngại chị Hảo bắt gặp. Tôi bỗng muốn chị nghĩ rằng tôi là thằng chăm học, lâu lâu đọc vớ vẩn vài ba cuốn tiểu thuyết, thế thôi. Muốn thế nhưng lại gây thế kẹt cho tôi là không còn chỗ nào lý tưởng để đọc lén cả. Chui qua nhà thằng bạn thì cũng không xong vì cha mẹ nó có cùng một mơ uớc về con cái như cha mẹ tôi. Hơn nữa, thằng bạn đọc truyện khổ sở hơn tôi nhiều. Nó lận cuốn sách trong người rồi chui vào cầu tiêu ngồi đọc. Đọc mê mẩn đến độ nó ngồi trong nhà cầu cả tiếng đồng hồ mà vẫn không hay, mãi đến khi bố nó muốn đi tiểu, gõ cửa mới lôi nó ra khỏi thế giới đầy những nhân vật mộng mị. Thế mà cha mẹ lại lo lắng sức khoẻ cho thằng con chỉ vì sợ nó mắc bệnh táo bón. Không còn kiếm được chỗ nào khác, tôi đành quay trở lại căn gác thả hồn theo những trang sách…

Nghỉ hè, ngày dài tháng rộng, tôi tha hồ đọc truyện và bước sang căn gác thăm chị Hảo. Thật sự, tôi không dám đường đột gõ cửa nhà chị nhưng vào một bữa trưa, khoảng hơn hai tuần sau ngày gặp gỡ, chị tất tả chạy lên gác tìm tôi, trong khi tôi đang chúi mũi vào cuốn tiểu thuyết của Quỳnh Dao. Chị vẫy tay:

- Này Hưng, chiều sang nhà chị ăn cơm nghe! Anh Kiệt về.

Tôi gấp sách, ngửng đầu lên:

- Vậy hả…,

Rồi tôi ngập ngừng:

- …Có sao không?

Chị Hảo lại đập tay vào không khí, giọng thân mật:

- Sao là sao? Anh em trong nhà cả chứ xa lạ gì. Để rồi xem, em sẽ mến anh Kiệt liền. Chiều qua chị nha.

Mặc dù gật đầu nhưng trong lòng tôi lại muốn từ chối. Từ chối là vì có cái gì vương vướng trong tâm tư. Anh Kiệt chăng?… hình như vậy. Trong suốt hai tuần, mỗi lần gặp tôi, chị đều say sưa kể chuyện về anh Kiệt; nào là chuyện quen nhau và yêu nhau, đã có những lúc giận nhau, rồi những tật xấu nho nhỏ của anh mà theo lời chị – bây giờ chị đã đâm nghiện, không có là thấy nhớ nhớ thế nào ấy. Khi sôi nổi kể chuyện, chị Hảo miên man và đắm chìm vào một thế giới riêng tư mà trong đó chỉ có chị và anh Kiệt, ngụp lặn trong tình yêu nồng nàn say đắm. Có lúc chị say sưa kể chuyện gần như độc thoại và không còn biết sự hiện diện của tôi nữa. Cứ nghe chị Hảo hễ một chút là nhắc đến tên anh Kiệt khiến tôi bỗng… ghen thầm với anh, một người đàn ông mà tôi chưa hề biết mặt. Không biết người đàn ông đó có gì khác biệt để chị Hảo yêu thương nồng thắm đến thế? Trong thâm tâm tôi không muốn gặp anh Kiệt, một người đàn ông hơn hẳn tôi về mọi mặt, nhất là đã chiếm trọn trái tim của chị Hảo, một người đàn bà mà đối với tôi gần như tuyệt hảo. Chỉ mới biết chị có hai tuần thế mà tôi đã đặt chị vào một vị trí trang trọng nhất trong tâm tư và có lúc tôi đã mơ nghĩ đến sau này phải có một người yêu rập theo khuôn mẫu của chị. Tình cảm của tôi dành cho chị Hảo đặc biệt đến thế nên tôi phải nhận lời và vì tôi không muốn thấy chị buồn. Đời của chị phải là một chuỗi ngày kết hợp những niềm vui. Tôi nghĩ chị sinh ra là để tận hưởng hạnh phúc chứ không phải để u sầu. Chỉ mới tưởng tượng đến khuôn mặt ủ dột của chị tôi đã cảm thấy xốn xang trong lòng chứ đừng nói đến thấy những giọt nước mắt rơi trên gò má đỏ hồng tự nhiên của chị. Tôi còn bị mê hoặc bởi giọng nói của chị trong veo như sương mai đọng trên lá non và nghe du dương như tiếng chim hót mỗi sáng trên đầu ngọn cây. Có lúc tôi đã ngồi lặng yên hàng giờ để tưởng tượng đến khuôn mặt của chị và tin chắc rằng những lời nói trầm bổng phát xuất từ đôi môi chúm chím đó có khả năng sai khiến tôi, thằng con trai mới lớn chớm biết mộng mơ. Ôi! Nếu không một ai có thể từ chối lời mời mang nhiều âm hưởng liêu trai của chị Hảo, thì tôi làm sao có thể từ chối được.

Chiều hôm đó, tôi lững thững bước sang căn gác chị Hảo. Vừa đẩy cửa bước vào, một mùi xào nấu thơm lừng xông thốc vào mũi làm tôi cồn cào cả bụng. Đồ đạc được bày biện sơ sài nhưng trông thật ngăn nắp, gọn gàng. Căn gác khá rộng, gần như được chia làm hai bên. Bên phải tôi là căn bếp, gồm một tủ đựng thức ăn, nồi niêu xoong chảo treo hết trên vách. Hai bếp dầu hôi đỏ rực lửa, đang ra sức thúc chín thức ăn. Ở góc bếp có chắn hai tấm tôn nhỏ bao quanh đề phòng lửa bén vào vách gỗ. Chị Hảo ngồi trên một cái đòn, quay lưng về phía tôi, bàn tay cầm đũa thoăn thoắt đảo qua đảo lại trong nồi. Mái tóc được búi lên cao, chị mải làm bếp nên không biết tôi đang đứng ở ngưỡng cửa căn gác. Ngay sát chỗ tôi đứng là một chiếc bàn nhỏ, bốn chiếc ghế xếp bằng sắt dùng để ăn cơm. Nhìn sang bên phải, tôi thấy một chiếc bàn gỗ lớn hơn, trông khá chắc chắn nhờ bốn cái chân to bản, chung quanh có sáu chiếc ghế đặt ngay ngắn. Xa hơn là tấm màn gió kéo ngang nửa chiều dài của căn gác rồi chạy thẳng sâu vào phía trong làm thành hình thước thợ. Mặc dù không thấy gì ở phía sau tấm màn nhưng tôi biết chắc là cái giường ngủ, tổ ấm của vợ chồng chị Hảo.

Tôi cứ đứng tần ngần ở đó mà không biết làm gì. Nhìn chị bận rộn với công việc bếp núc, tôi nửa muốn gọi chị Hảo, nửa muốn không. Đang ngơ ngơ ngáo ngáo, tôi giật mình khi nghe tiếng từ phía sau:

- Ủa! Sao đứng ngoài này vậy. À! Hưng phải không?

Quay lại, tôi bắt gặp một thanh niên to cao mặc áo thun trắng, quần đùi, mái tóc hớt cao dang nhìn tôi cười cười. Đoán ngay là anh Kiệt, tôi nép người sang bên:

- Dạ phải. Anh là anh Kiệt?

Anh gật đầu nói vào nhà chơi đi em, đến lâu chưa?… rồi đẩy đẩy tôi bước vào nhà. Nghe tiếng động, chị Hảo đang làm cơm quay lại:

- Hưng hả? Vào đây em.

Anh Kiệt đi ra phía sau bức màn:

- Ngồi đi em. Anh ra liền bay giờ.

Khuôn mặt chị Hảo đỏ hồng vì bếp lửa:

- Chờ chị nghe. Cơm sắp xong rồi. Còn món xào nữa là mình ăn cơm.

Tôi rón rén ngồi xuống ghế, hai tay xếp gọn trên đùi. Giọng anh Kiệt ồn ào:

- Uống gì không em? Nước chanh nhé?

Tôi rụt rè:

- Thôi… anh cho em nước lạnh cũng được.

Tiếng chị Hảo từ phía bếp vọng lại:

- Cứ tự nhiên nghe Hưng. Sắp xong rồi đây. Anh em ngồi nói chuyện một chút là có cơm liền.

Thấy ai cũng chú ý săn sóc, tôi càng lúng túng. Có lẽ tôi lúng túng với anh Kiệt thì đúng hơn. Đó là một thanh niên cao lớn, khoẻ mạnh, giọng nói sang sảng. Đôi lông mày rậm chạy gần suốt chiều dài của vầng trán cao và rộng. Mắt to đen, sống mũi thẳng, miệng khá rộng, trên môi lúc nào cũng gần như nở nụ cười. Nhìn chung, khuôn mặt anh dễ nhìn nếu không nói là đẹp trai. Điểm đặc biệt đập vào mắt tôi là cặp lông mày đen rậm chạy nhạt dần về phía sống mũi, gần đụng vào nhau, làm cho khuôn mặt anh trở nên nghiêm nghị hơn. Mới nhìn thoáng, trông như một vệt đen chia hẳn khuôn mặt ra hai phần không đồng đều. Đọc truyện Tam quốc, tôi mường tượng đến cặp lông mày của Quan Công, một dũng sĩ dưới trướng Lưu Bị. Dáng anh Kiệt có lẽ cũng oai hùng như viên tướng chặn đường rút của Tào Tháo ở Hoa Dung, suýt chặt đầu tên thừa tướng làm đảo lộn cái thế chân vạc thời Tam quốc. Cái vệt đen ngăn chia khuôn mặt trở thành nét đặc thù của anh Kiệt. Người ta khó quên được một khuôn mặt như thế. Mãi về sau, khi lớn lên, nhờ đọc ít chút sách tướng theo kinh nghiệm của người xưa, tôi mới chợt hiểu ra định mệnh đã gắn liền với cái vệt đen trên khuôn mặt điển trai của anh.

Anh Kiệt thân mật hỏi tôi nhiều chuyện; đại khái học hành ra sao rồi, lớp mấy, có bồ gì chưa…v..v. Đang bưng đĩa thịt đặt lên bàn, chị Hảo xua tay:

- Trời ơi, cái anh này, hỏi gì mà kỳ vậy. Hưng nó còn nhỏ biết gì mà bồ bịch.

Rồi quay sang tôi:

- Phải không em?

Lắc đầu cho câu hỏi của anh Kiệt và gật đầu cho câu hỏi của chị Hảo, tôi ngồi im lặng không biết nên trả lời ai trước. Anh Kiệt nhái câu nói của chị Hảo:

- Trời ơi, cái “chị” này, chuyện đàn ông con trai chúng tôi “chị” xía vào làm gì.

Chị Hảo làm mặt xấu dọa chồng:

- À! dám cãi lại hả, “chị” lại không cho ăn cơm bi giờ.

Nhìn hai vợ chồng cười đùa tự nhiên, tôi chỉ biết gượng cười. Họ pha trò với nhau xem như không có tôi đang ngồi trước mặt. Tôi bỗng thấy mình thừa thãi, tay chân lại lúng túng như lần chị Hảo bắt gặp ngồi đọc truyện. Có điều tôi không ngờ nếp sống gia đình của chị Hảo lại có những tiếng cười dòn tan đến thế.

Cuối cùng, bữa cơm chiều được bày biện ra bàn. Một đĩa thịt kho với trứng, món đậu chiên và tô canh chua bốc khói. Anh Kiệt ăn rất ngon miệng, còn chị Hảo luôn tay gắp thức ăn cho anh Kiệt và tôi. Chị cứ luôn miệng dục tôi ăn, đừng làm khách. Anh Kiệt ồm oàm:

- Ăn đi nghe Hưng, con trai phải ăn mạnh vào cho to con mà lái trực thăng như anh nè.

Chị Hảo bĩu môi:

- Thôi đi ông tướng. Cứ làm như lái trực thăng là số một không bằng.

Và vội miếng cơm, anh cười cười:

- Em học lớp đệ Tam rồi phải không? Sang năm là thi Tú-tài rồi còn gì. Thế sau khi đậu em tính gì chưa?

Tôi bỏ bát cơm xuống bàn:

- Chưa anh, mà em cũng không biết tính gì nữa. Học thì học vậy thôi chứ em chưa biết phải làm gì. Mà có chắc đậu không nữa. Nếu không thì lại phải đi lính như mọi người.

- Gắng lên, cố mà đậu. Giật cho được mảng bằng rồi xin đi bay như anh để cho biết cái thú đi mây về gió…

Anh Kiệt ngửa người ra sau, giọng sảng khoái:

- …mà không dễ đâu nghe. Để anh nói cho em hiểu. Trước hết, muốn bay phải có Tú tài, phải to con cao ráo và điều quan trọng nhất là… phải đẹp trai nữa.

Mấy chữ cuối, anh nheo mắt chọc chị Hảo làm chị lúng búng suýt bị sặc. Chị nuốt vội miếng cơm, đưa tay che lấy miệng:

- Chời ơi! Xuống đây mà xem chồng tôi khen mèo dài đuôi nè.

Mặt tôi đỏ bừng khi nghe nói đến đẹp trai. Lứa tuổi trổ mã của tôi hiện rõ trên khuôn mặt đầy mụn, chưa kể đến những vết nám đen mọc lỗ chỗ kết quả của nhiều lần đứng trước gương nặn mụn non. Khuôn mặt như thế chỉ chọc con nít khóc đêm chứ làm sao đẹp trai được. Bởi vậy tôi đâm ngượng với chị Hảo. Khi thấy tôi đỏ mặt chị thật tinh ý hiểu ngay và đỡ lời:

- Để rồi xem, Hưng học bay đi em nhưng đừng thèm lái trực thăng nữa. Cỡ em lái A37 mới xứng.

Tôi cũng chẳng nói gì để phụ họa. Chuyện tương lai đối với tôi lúc đó quá xa vời, biết ra sao mà bàn. Bởi vậy tôi chỉ cười im lặng và cơm. Anh Kiệt rất niềm nở, xem tôi như một người em thật nhưng tôi lại không cảm nhận được hoàn toàn sự hiếu khách của anh. Đây là lần đầu tiên tôi gặp anh chứ không như với chị Hảo, chị em đã nói chuyện cả mấy tuần qua nên đã thân quen. Hơn nữa, anh Kiệt hay pha trò chọc chị Hảo cười, gần như không cần biết sự hiện diện của tôi. Thấy anh âu yếm cười giỡn với chị Hảo, tôi bực tức… ghen thầm. Trong thâm tâm, tôi bỗng có đôi chút ác cảm với anh Kiệt.

Kể từ hôm đó, tôi thường qua thăm chị Hảo, nhất là những ngày thiếu vắng anh Kiệt. Chị em đã thân thiện hơn nhiều lắm. Mỗi lần được ngồi nói chuyện với chị là một hân hạnh mà tôi không bao giờ khước từ. Chị em khi gặp nhau nói đủ chuyện, từ chuyện trường, chuyện học, chuyện mấy thằng bạn dở dở ương ương. Thế mà chị ngồi nghe chuyện chăm chú. Bù lại, chị kể chuyện ngày xưa đi học, chuyện anh Kiệt đi bay về phép gặp chị, chuyện yêu nhau rồi lấy nhau. Theo lời chị, đang học dở dang ở Văn-khoa thì lấy chồng. Khi anh Kiệt đổi ra căn cứ Phù cát chị theo chân chồng cho phải đạo. Thuyền theo lái gái theo chồng, chị Hảo nói vậy. Cũng theo lời chị, nếu chị ở lại Sài-gòn với gia đình thì vợ chồng ít gặp nhau, trừ những ngày nghỉ phép thường niên. Còn nếu chị thuê nhà ở Qui-nhơn thì cứ vài tuần anh Kiệt lái xe về, vợ chồng lại có nhau. Cái gì cũng không bằng ở gần, chị bảo thế. Chị thú nhận những ngày vắng anh Kiệt như thế này, chị nhớ anh quay quắt và nhiều khi nỗi nhớ nhung hành hạ, chỉ biết ngồi thở vắn thở dài chứ không tha thiết một chuyện gì. Thời gian khắc nghiệt vắng chồng trôi qua lừ đừ, chậm rãi như muốn chọc tức kéo dài khoảng không gian cô đơn để chị ngồi ngẩn ngơ bên song cửa. Tôi không mường tượng được cái nhớ nhung da diết của chị và cho rằng đàn bà thường chuyện bé xé ra to. Tôi lại lẩn thẩn nghĩ hay là chị Hảo biết tôi “yêu” chị nên cố ý kể chuyện nhớ nhung anh Kiệt chọc tức tôi. Nếu thế thì chị đã thành công vì rõ ràng “tình địch” hơn hẳn tôi về mọi mặt, kể cả bằng cấp, sức vóc, đẹp trai và nhất là hình ảnh của “hắn” chiếm trọn trái tim của chị. Không biết còn một góc nhỏ đâu đó trong trái tim chị Hảo dành cho tôi hay không? Chị kể những đêm quỳ gối nguyện cầu Thượng Đế gìn giữ chồng và mong đất nước sớm chấm dứt chiến tranh để những chinh phụ như chị đếm thêm những năm hạnh phúc trên bàn tay. Em có thấy ước mơ tầm thường không, chị đặt tay lên vai tôi hỏi. Đến lúc đó tôi lại cảm thấy chị thật tội nghiệp và chỉ mong ngày mai anh Kiệt về ngay với chị để đôi mắt chị Hảo sáng ngời niềm vui, để nghe lại giọng nói hớn hở và tiếng cười dòn tan nở rộ trên căn gác nhỏ. Chị Hảo thở dài nói chị rất hiểu vai trò của người vợ trong thời chinh chiến, nhất là khi làm vợ lính. Chị tâm sự:

- Em biết không, lấy chồng lính là chấp nhận thương đau. Chị có người bạn, mới lấy nhau được vài tháng đã trở thành goá phụ. Con bạn chị mới 17 tuổi, vậy mà đã mang tiếng một đời chồng, em thấy có tội không. Nhìn nó mà chị khóc hết nước mắt. Mà tại duyên số cả em ơi, chị cố tránh mà vẫn vướng phải nợ lấy chồng lính. Khi yêu nhau thì phải chấp nhận tất cả. Chị bằng lòng đánh đổi cả cuộc đời để chỉ sống với người mình yêu vài tháng, may mắn hơn được vài năm. Chị lấy anh Kiệt thế đã được hơn hai năm rồi, cho nên những ngày tháng bây giờ vẫn còn có nhau là ơn Trời Phật ban. Chị không mong muốn gì hơn.

Để khuây khỏa những ngày thiếu vắng chồng, chị Hảo xin dạy lớp mẫu giáo ở một trường tư thục Công giáo. Chị yêu con nít và rất mong có một đứa con với anh Kiệt. Nhưng đi phép thất thường như thế này thì không biết khi nào chị mới được toại nguyện. Tôi chán con nít, nuôi nấng khổ cực chứ sung sướng gì. Cứ nhìn mẹ tôi nuôi mấy đứa em thì hiểu ngay đó là một nỗi khổ. Những gì mong ước của chị Hảo đều là ước mong của tôi vì thế tôi lại cầu nguyện chị sớm có con, để bồng bế cho bõ những lần chép miệng thở dài. Vài ba tuần, anh Kiệt lại về. Tôi lại sang thăm và trong tim lại nhói đau khi nhìn thấy cử chỉ săn sóc âu yếm của anh. Cứ thế, cuộc sống đầy ắp tình yêu nồng cháy của chị Hảo trôi đi lặng lẽ, ba tháng hè của tôi cũng chập chờn biến mau theo ngày tháng.

Mùa hè tuổi dậy thì năm đó mang nhiều kỷ niệm đáng yêu và sự quen biết chị Hảo là kỷ niệm đáng yêu nhất. Trở lại trường, tôi hãnh diện kể lại câu chuyện quen biết chị Hảo, thêm thắt vào đó một vài câu đối thoại tưởng tượng, làm đám bạn há hốc miệng nghe cứ như chuyện thần thoại. Câu chuyện quen chị Hảo đúng ra kể lại chưa đầy năm phút, thế mà tôi tán rộng ra đến gần nửa tiếng, vậy mà mấy thằng bạn cứ ngồi đờ ra nghe chuyện mê mẩn. Đến đoạn diễn tả nhan sắc của chị Hảo, tôi phun ra những từ ngữ đẹp nhất, duyên dáng nhất (học lỏm trong tiểu thuyết) và dĩ nhiên cả bọn nhao nhao đòi leo lên căn gác nhà tôi để xem tận mắt. Có thằng đi nước cờ cao, bĩu môi bảo rằng tôi nói dóc, làm gì có người đẹp như mày kể, có thấy tao mới tin. Tôi phất tay từ chối, nói không cần chúng mày kiểm chứng, tin hay không tin thì tuỳ. Thâm tâm tôi không muốn chị Hảo quen ai ngoài… tôi cả; anh Kiệt là chồng thì không kể, còn ngoài ra chị phải là thần tượng của riêng tôi, một mình tôi thôi. Thì thằng con trai mới lớn nào chẳng ích kỷ như tôi, nhìn đời qua tấm giấy kiếng màu hồng và trong đó tình yêu phải tuyệt đối như những lần hiện ra trong giấc mơ.

Một buổi tối rảnh rỗi, tôi bước chân sang căn gác thăm chị Hảo. Cả tuần bận học thi Tam Cá Nguyệt nên tôi phải bế môn tỏa cảng ôn bài (thì xem tiểu thuyết cũng có lúc, tôi cũng biết lo lắm chứ!), môn cuối cùng vừa thi xong lúc chiều, thế là nhẹ gánh tang bồng, tối nay tha hồ ngồi chuyện trò với chị Hảo. Trời tối mù, bước lên cầu thang dẫn lên căn gác tôi vấp đến mấy lần. Căn gác đêm nay yên ắng lạ thường, tôi gõ nhẹ lên cánh cửa, miệng gọi chị Hảo ơi. Không một tiếng trả lời. Vô lý chị ra Phù-cát thăm anh Kiệt, thường thường khi đi chị hay dặn tôi trông coi nhà dùm chị. Chưa bao giờ chị đi mà quên không nói với tôi một tiếng. Ngày hôm qua tôi còn thấy chị đi chợ về kia mà nhưng sao bây giờ vắng lặng như tờ. Căn gác tối mịt, loáng thoáng có ánh đèn mờ hắt ra từ kẽ hở bức vách. Tôi gọi tên chị Hảo lần nữa, lần này tôi nghe tiếng khóc thút thít vẳng lên đâu đó. Bỗng nhiên tóc tôi dựng đứng như lông nhím. Bóng tối phủ chụp lên tôi đe dọa, tiếng lá cây sầu đông xào xạc trong đêm nghe như ai đang kể lể thở than, và tiếng khóc nỉ non vang lên từ cõi u linh nghe thật não nùng ai oán. Tôi rùng mình. Tôi gọi chị Hảo to hơn và lần này tôi nhận ra tiếng khóc phát xuất từ bên trong. Tôi đẩy nhẹ cửa bước vào.

Căn phòng tối hẳn ở nửa căn bếp, bên phía bàn ăn khoảng ánh sáng lờ mờ phát ra từ ngọn đèn néon trắng đục và tôi thấy chị Hảo ngồi yên như một pho tượng. Mái tóc che nửa khuôn mặt, cằm tựa vào đôi tay chắp lại như nguyện xin. Khi bước đến gần, tôi nhận thấy trên đôi tay chị treo lủng lẳng sợi dây và cuối sợi là một tấm thẻ bài đong đưa theo tiếng nấc. Tiếng khóc nhỏ nhẹ nghe như một lời than van, đầy vẻ ẩn nhẫn, chịu đựng. Hình như chị đang cố nhận chìm nỗi đau khổ xuống tận đáy lòng. Một giọt nước mắt lăn trên gò má, rơi rụng trên tờ giấy đặt trên bàn có ghi hàng chữ. Tôi đoán được phần nào câu chuyện. Nỗi lo sợ của người chinh phụ về một ngày tiễn đưa chồng đến mộ huyệt đã bị định mệnh ác độc âm thầm chọn lựa. Định mệnh hôm nay đã chọn chị – trong số muôn ngàn người vợ chinh phu – để chít khăn tang và khoác vội tấm vải sô lên người. Chị ngồi đó với tiếng nấc, đôi mắt nhìn xuống nỗi đau khổ trải dài trên trang giấy mà tôi đoán có lẽ là lá thư anh Kiệt viết cho chị. Một kỷ vật chăng? hoặc lá thư viết xong chưa gửi đi thì tử thần đổ chụp lên số mạng? Tôi đang đứng trước mặt chị mà chị không hề biết sự hiện diện của tôi. Chị đắm chìm vào một quá khứ như cố níu giữ hình bóng người chồng mà giờ đây đã cách xa diệu vợi. Khi hiểu được sự tàn nhẫn của cuộc đời, tôi đứng ngây người nhìn chị mà không nói được lời nào an ủi. Tôi yên lặng để cố chiêm niệm nỗi đau khổ cùng cực của người vợ mất chồng, những người vợ đã nức nở bóc đi một phần lớn – nếu không nói là tất cả – tâm hồn để dâng hiến cho tổ quốc.

Tôi có cảm nhận được sự đau khổ mà chị Hảo đang gánh chịu không? Có lẽ được nhưng không thể ở mức độ mà chị đang cắn răng cố nuốt lấy cái thực tại đầy nghiệt ngã. Chỉ có những người vợ, nhận được tin dữ, cầm trong tay tấm thẻ bài oan khiên rồi mới thấm thía hết nỗi thương đau của một mất mát không thể nào bù đắp được. Mặc dù không cảm thông hết nỗi khổ của chị Hảo nhưng hình ảnh não nùng của chị ngồi khóc đêm hôm đó đã hằn sâu trong tâm khảm tôi những đường nét vĩnh cửu, bất diệt so với thời gian. Nó đục khắc trong tâm thức tôi những góc cạnh mà mãi sau này khi trôi nổi trên đường đời, trải qua biết bao đắng cay của cuộc sống, tôi vẫn hình dung được một chị Hảo, hai tay ôm lấy tấm thẻ bài, ngồi u sầu bên mối tình vừa chết tức tưởi. Với muôn ngàn hình ảnh thân yêu nằm sâu trong ký ức, tôi chỉ thấy nổi bật hình ảnh chị Hảo, nhất là những khi bị chà đạp dưới bùn đen. Trong mỗi tận cùng của gian truân tôi lại chợt nhớ đến lúc chị ngồi khóc dưới ánh đèn mờ. Và chính hình ảnh đó đã thôi thúc tôi vươn lên để sống, vượt qua được ý nghĩ tuyệt vọng khi tôi bị hành hạ dã man ở đáy địa ngục trần gian, biết cảm nhận một nỗi đau của người dễ dàng hơn, và biết thương xót khi nhìn những người kém may mắn hơn mình. Cũng vì dễ cảm thông với những bất hạnh xảy ra chung quanh, tôi hành xử tự trọng hơn, đối xử với người đại lượng hơn, khoan dung với đời và nhất là dễ dàng chia sẻ những gì đang có với những người xấu số. Tôi thầm cám ơn chị đã ban tặng cho tôi một hình ảnh bi tráng và tôi hằng trân quý gìn giữ qua bao thăng trầm. Sau này khi lớn lên, tôi thấy một tấm hình nổi tiếng của nhiếp ảnh gia Nguyễn ngọc Hạnh, chụp một thiếu nữ có mái tóc che kín nửa khuôn mặt, giọt nước mắt lăn trên gò má, đôi tay khoác tấm thẻ bài. Tất cả giống như hình ảnh chị Hảo đêm hôm đó nhưng đối với tôi tấm ảnh đó vẫn vô hồn, nó không thật vì có thể được dàn dựng và vì tôi không là chứng nhân nỗi thương đau cùng cực mà người thiếu phụ muốn diễn tả. Đành rằng ông Hạnh cũng rung cảm bắt nhận được nỗi khổ đau của người vợ trẻ nhưng đối với tôi hình ảnh sầu muộn của chị Hảo thật quá, rõ quá và chỉ cách tôi có một sải tay.

Tôi vòng qua bàn, tiến đến đứng sát bên chị. Đôi mắt chị vẫn nhìn xuống. Nước mắt đã thấm ướt phần dưới của lá thư. Đúng là lá thư anh Kiệt viết cho chị với dòng chữ nguệch ngọac: Chắc anh không qua được, Hảo ơi! Yêu em mãi. Quá cảm xúc, tôi đặt tay lên vai chị, giọng run run:

- Chị Hảo…

Bàn tay đang ôm tấm thẻ bài thả xuống, chị ngả đầu vào người tôi, giọng nức nở:

- Anh Kiệt mất rồi, Hưng ơi…

Tôi có cảm giác chị cố chống đỡ với số mạng, giữ cho người được thăng bằng. Đến khi biết tôi đứng bên cạnh, chị không còn hơi sức nữa, tựa hết thân hình vào người tôi, đôi bàn tay thả rơi tấm thẻ bài. Tiếng kim khí rơi từ một độ cao vừa phải va chạm mặt bàn nghe khô cứng, sắc nhọn và lạnh lùng như Tử thần vung lưỡi hái hớt đi một mạng người. Một mạng người rơi rụng như hàng ngàn cái chết xảy ra trên mảnh đất khốn khổ này nhưng có những cái chết không bao giờ nguôi ngoai, không thể nào phôi phai trong tâm trí của người thân. Mãi mãi vẫn là một cái gì bất diệt, thiên thu.

Tôi bật khóc. Bàn tay tôi quàng ôm lấy vai đỡ cho chị ngồi thẳng dậy. Người chị mềm nhũn như bún. Tôi quỳ xuống, ôm lấy chị. Một tay tôi nắm lấy thành ghế để giữ thăng bằng, tay kia đỡ lấy bàn tay chị Hảo. Chị lả người, cả thân hình đổ ụp vào vai tôi. Nước mắt chị rơi thấm ướt khoảnh áo trước ngực. Chị khóc nhớ thương anh Kiệt, còn tôi khóc vì thấy chị đau khổ qua cái chết của người chồng. Hai chị em khóc thật tự nhiên. Tôi ôm lấy chị là theo bản năng của một đứa con trai khi thấy một phụ nữ yếu đuối cần nâng đỡ, đến khi ngừng khóc, tôi chợt bàng hoàng khi thấy chị Hảo yếu đuối đang nằm trong vòng tay của tôi. Mặc dù tôi với chị Hảo là tình chị em nhưng khi ôm chị lòng tôi bỗng bồi hồi khôn xiết. Tôi ước mơ giá tôi lớn hơn chị vài tuổi để tôi quàng tay qua eo chị, vỗ về ủi an và vuốt ve suối tóc của chị. Tôi quỳ như thế không biết bao lâu, người như lịm đi trong cảm giác đê mê lần đầu có người con gái khóc trên vai. Lòng tôi ao ước cứ được ôm chị như thế này mãi để an ủi chị, cho dù làm thân trâu ngựa cho chị cũng bằng lòng. Cho đến khi cảm giác tê nhức ở hai đầu gối đánh át cảm giác đê mê khó tả thì tôi mới cắn răng đỡ chị ngồi thẳng dậy. Chị Hảo gắng gượng ngồi lên rồi nửa thân hình lại đổ ập xuống mặt bàn, đầu nghiêng hẳn qua bên. Tôi thấy rõ mắt chị mở trừng trừng, vô hồn. Thân xác chị ở đây nhưng tâm trí chị đang phiêu du ở một nơi chốn nào đó không ai biết; có lẽ đang bay theo mây về nơi anh Kiệt yên nghỉ. Tôi nâng chị dậy, dìu chị đến bên giường, đỡ chị nằm xuống, và lấy tấm khăn mỏng đắp lên người. Chị hoàn toàn thụ động, bước đi như người mộng du, không thốt một lời. Căn gác lại chìm vào một sự yên lặng rợn người, thỉnh thoảng có tiếng con thạch sùng tặc lưỡi đâu đó trên trần nhà. Bóng tối buồn bã đổ tràn trên căn gác. Tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn, hai tay ôm lấy đầu không biết phải làm gì. Trong bóng đêm mông lung, lần đầu tiên tôi chợt thấy thấm thía hai chữ cô đơn.

Tôi giật thót người khi nghe tiếng chị Hảo mơ màng:

- Anh ơi… anh ơi…

Vặn ngọn đèn cho sáng hơn, tôi chạy vội lại phía giường, miệng kêu rối rít:

- Em đây… em đây, chị Hảo.

Chị nằm nghiêng, xoay mặt về phía tôi, nước mắt đoanh tròng. Ôi! Đôi mắt, làm sao tôi có thể diễn tả được đôi mắt của chị. Hình như trong ánh mắt, chị nhận ra tôi. Giọng chị rã rời:

- Hưng hả em…

Tôi lại quỳ xuống bên chị:

- Chị cứ nghỉ cho khoẻ, em ngồi đây với chị.

Chị vói tay đặt lên vai tôi:

- Cám ơn em…

Chưa bao giờ tôi nhìn sát khuôn mặt của chị đến thế. Giọng tôi run run:

- Chuyện làm sao chị kể cho em nghe đi.

Chị ngẩn ngơ một lúc rồi thở dài:

- Hồi chiều có người sỹ quan cùng đơn vị với anh Kiệt đến báo tin cho chị. Anh nói là anh Kiệt tải thương binh, cố đáp xuống vùng địch bao vây để chở cho được mấy người lính bị thương về hậu cứ. Nếu không chở mấy anh đó về được thì chắc chắn họ phải chết vì cần phải tiếp máu. Anh bị trúng đạn bên hông nhưng giấu không cho ai biết. Chở về đến nơi thì… thì… anh ngất xỉu…

Chị bật khóc thành tiếng:

- …chở vào bệnh viện thì không kịp nữa vì đạn trúng chỗ hiểm. Bác sĩ cố đủ mọi cách nhưng anh Kiệt chỉ tỉnh dậy viết vội cho chị… cho chị mấy chữ rồi… rồi ra đi…

Tôi nắm lấy tay chị, nước mắt rưng rưng:

- Chị Hảo ơi, em không biết nói sao nữa… mỗi người có một số mạng… em chỉ xin chị cố giữ sức khoẻ để còn lo ma chay cho anh Kiệt.

Giọng chị nghẹn ngào:

- Cám ơn em. Chị đã chuẩn bị để đón nhận tin dữ từ lâu nhưng đến khi xảy ra vẫn không sao lường trước được lòng mình. Buồn quá Hưng ơi. Cám ơn em ở đây với chị. Có em một bên chị cũng an ủi được một phần. Ngày mai, chị đi Phù-cát nhận xác anh Kiệt rồi có lẽ theo máy bay về Sài-gòn luôn.

Tôi sửng sốt:

- Thế còn nhà cửa đây ai giữ?

- Nhà chị sụp rồi, còn gì mà giữ hả em…

Rồi chị lẩm bẩm cái gì đó tôi nghe không rõ. Và chị lại chìm vào thế giới riêng của chị. Người chị lúc tỉnh lúc mơ. Tôi nghe tiếng chị ú ớ gì đó rồi tất cả lại chìm vào yên lặng. Đêm hôm đó tôi ngồi canh thức cho chị ngủ và mệt mỏi quá tôi thiếp đi trên ghế lúc nào không biết. Trong cơn mơ màng tôi loáng thoáng nghe đâu đó giọng hát của một ca sĩ: ngày mai đi nhận xác chồng, quay đi để thấy mình không là mình…

Đó là lần cuối cùng tôi gặp chị Hảo.



Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #52 - 09. Nov 2006 , 01:04
 
Không ngờ mười sáu năm sau tôi gặp lại chị vào một hoàn cảnh khá lạ lùng.

Trong suốt mười sáu năm, biết bao chuyện vật đổi sao dời. Kể từ đêm chị Hảo nhận được hung tin, ngày hôm sau chị ra Phù-cát nhận xác anh Kiệt rồi theo máy bay về Sàigòn luôn. Tôi ngóng chờ mãi vẫn không thấy chị quay trở lại. Độ chừng hơn tuần sau, có người đàn bà đến thuê xe chở hết đồ đạc đem bán, trả lại căn gác cho chủ. Tôi không được chứng kiến, chỉ nghe nói lại vì chuyện xảy ra vào một buổi sáng trong khi tôi đang ở lớp học. Xế trưa về đến nhà thì mọi chuyện đã xong xuôi, người đàn bà cũng đi mất nên tôi không thể hỏi thăm về chị Hảo. Lòng tôi trống vắng như căn gác đìu hiu. Nửa năm học đệ Tam trôi qua buồn chán, đã biếng tôi càng không mấy thiết tha đến sách vở. Người tôi lờ đờ cứ như người thất tình. Mà tôi thất tình thật, tôi nhớ chị Hảo quay quắt. Buổi chiều, tôi bước lên căn gác, thẫn thờ nhìn sang nhà chị Hảo và thấy lòng quạnh hiu hơn bao giờ. Hàng cây sầu đông vẫn reo vui trong gió, trời mây vẫn xanh ngắt một màu vậy mà lòng tôi thổn thức khôn nguôi. Dãy ban-công nơi chị tựa người hỏi chuyện tôi lần đầu, nhắm mắt lại tôi vẫn hình dung được một chị Hảo đang tươi cười nhìn tôi. Ngồi bệt xuống sàn, tôi lẩm bẩm gọi tên chị Hảo…

Hết năm đệ Tam, tôi trở nên trầm lặng hơn, có lẽ vì nỗi nhớ miên man một chị Hảo ngày nào đẩy tôi vào tình trạng câm nín. Đối với tôi, mất chị Hảo thì chẳng còn gì quan trọng trên cõi đời này nữa. Sang năm đệ Nhị (lúc này được gọi là lớp 11), tôi tìm quên sự nhớ nhung bằng cách vùi đầu vào việc học; hơn nữa đó là năm thi. Thỉnh thoảng ngồi học bài trên căn gác, tôi chợt nhớ đến chị nhưng rồi sách vở lại kéo tôi ra khỏi mộng mơ. Cuối năm đó tôi may mắn thi đậu. Được đà tôi thi đậu luôn Tú tài toàn phần vào năm sau. Đứng ngấp nghé ở ngưỡng cửa đại học, tôi suy nghĩ, hỏi ý kiến của ba tôi và cuối cùng quyết định nộp đơn theo học ở trường Võ bị Đà-lạt, chọn quân đội làm nghiệp dĩ. Tôi quên mất lời khuyên đi Không quân của anh Kiệt để lái trực thăng. Trường Võ-bị đào tạo cho tôi cả 2 mặt quân sự và văn hóa. Khoá 29 chúng tôi học được 3 năm thì xảy ra chuyện Ban-mê-thuột. Ban đầu chúng tôi không chú tâm lắm, vì tin chắc bọn cọng quân sẽ chuốc lấy thảm bại. Mãi đến khi nghe lệnh di tản chiến thuật của ông Thiệu bỏ cao nguyên, chúng tôi bàng hoàng không tin ở tai mình. Đà-lạt là một trong ba cao nguyên, trong đó cao nguyên Đắc-lắc chiếm vị trí chiến lược quan trọng. Đứng ở Ban-mê-thuột, có thể nhìn sang được đất Miên, dễ dàng đổ quân xuống Nha-trang, chận đường tiến quân từ miền Trung. Có thằng bạn học chung khoá mở miệng chưởi rủa nói bỏ Ban-mê-thuột là quyết định sai lầm không thể chấp nhận được. Nó nói thêm tao không phải là nhà chiến lược quân sự tài ba gì mà còn thấy được điều đó, thì ông Thiệu phải thấy rõ hơn tao nữa. Bỏ Ban-mê-thuột thì cũng giống như đưa dao cho nó cứa cổ. Nó đưa hai tay lên trời lắc đầu than chết hết rồi chúng mày ơi. Quả đúng như nó dự đoán, tin tức mất Huế, Đà-nẵng và các tỉnh miền Trung đổ về dồn dập. Đà-lạt cũng bị áp lực nặng nề. Hai tuần trước ngày mất nước, vị Chỉ huy Trưởng ra lệnh giải tán đồng lọat các khóa sinh. Bọn tôi tuy chưa ra trường nhưng cũng được gắn lon Thiếu-úy rồi mạnh ai nấy tìm đường về quê. Tưởng cũng nói thêm là vào mùa hè đỏ lửa 1972, gia đình tôi bỏ Qui-nhơn khăn gói vào Trung-chánh, cách Sàigòn mấy cây số về hướng Tây. Nhà tôi nằm xéo cổng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Ba tôi vẫn đi làm công chức, mẹ tôi mở quán bán hàng xén cho mấy anh tân binh.

Rồi chuyện gì xảy ra sau đó mọi người dân miền Nam đều biết. Việt cọng tiến chiếm Sàigòn. Tôi đi trình diện ở trường Vạn-hạnh với 10 ngày lương thực. Mặc dù chưa học xong chương trình để xứng đáng với lon Thiếu-úy nhưng vị Chỉ huy Trưởng đã gắn lên vai áo nên tôi xem đó là một trách nhiệm. Đó cũng là lý tưởng mà tôi đã chọn lựa và luôn trung thành nên tôi hãnh diện khai báo tốt nghiệp từ trường Võ-bị. Một vài thằng bạn chê tôi quân tử Tàu, khai thật làm gì để mang họa vào thân; vả lại mới học có 3 năm, làm gì đã được cấp úy. Quan niệm của tôi lại khác, tôi không bao giờ xấu hổ vì lý tưởng của người trai trong thời chiến, hơn nữa tôi mang lon khi bước ra khỏi cổng trường và tôi có nhiệm vụ giữ phong cách cho xứng đáng với cái lon trên ve áo. Vì thế tôi nói thật, không thêm không bớt một chữ.

Kết quả là bọn cọng sản đày đọa tôi 6 năm tù qua các trại Long Giao, Hà Nam Ninh, Cao bằng, Bắc lạng. Chúng liệt những tân binh như chúng tôi vào thành phần ác ôn ngang với cấp Tá vì theo lời chúng nó dân Võ-bị ra trường còn giết quân cách mạng nhiều hơn ai hết. Sự hành hạ dã man ở các trại tù thì ai cũng biết rồi, tôi chỉ là một trong hàng ngàn nhân chứng may mắn sống sót trở về. Đôi khi bị hành hạ quá mức, tôi chỉ muốn giết mấy thằng cảnh vệ, quản giáo trốn trại rồi ra sao thì ra. Chính hình ảnh chị Hảo đã giúp tôi nuôi hy vọng để sống, làm một cái gì có ý nghĩa hơn. Tôi không hối tiếc khi nói thật để bị thời gian tù đày gấp đôi so với những người cùng cấp. Tôi tin rằng hành xử của tôi rất xứng đáng là người sỹ quan Võ-bị và đồng thời cũng nói cho bọn chúng biết thái độ quật cường của tôi.

Trở về gia đình cuối năm 81, gia đình tôi sa sút thấy rõ. Nhìn mấy đứa em nheo nhóc tôi không cầm được nước mắt. Ba tôi đã già yếu, mẹ tôi buôn bán bữa được bữa mất, mấy đứa em dĩ nhiên phải bỏ học để phụ với gia đình kiếm sống. Gom góp hết số vốn trong gia đình, tôi vào tổ hợp đạp xích lô. May nhờ còn chút sức khoẻ, tôi đạp xe ngày 12 tiếng. Bữa cơm trong gia đình có thêm chút chất đạm, nhìn mấy đứa em rón rén nhai mãi miếng thịt không dám nuốt mà lòng tôi quặn đau. Lớn lên tôi may mắn được nếm những của ngon vật lạ, đến thời các em tôi thì đất nước lâm vào cảnh đọa đày nên nhìn cái gì chúng cũng thèm. Tôi còn xót xa đến vậy thì cha mẹ tôi lại càng khổ đau gấp bội. Nhìn ra bên ngoài xã hội, tôi càng rơi nước mắt. Các em tôi tội nghiệp thật nhưng so với những đứa trẻ lê la trên hè phố thì vẫn còn sung sướng hơn nhiều. Ăn mày, thương binh nhan nhản khắp đầu đường xó chợ. Cả một xã hội rách nát đến độ bần cùng nhất. Hôm nào kiếm được cuốc xe hậu hĩ, thế nào tôi cũng kiếm mấy anh thương binh hoặc trẻ em ăn xin tật nguyền chia sẻ chút ít. Cũng chính hình ảnh u sầu của chị Hảo giúp tôi dễ mềm lòng trước cảnh thương tâm, giữ lại chút lương tâm trong sáng giữa một xã hội đảo điên. Đôi lúc tôi bâng khuâng tự hỏi không biết chị Hảo bây giờ ra sao, còn sống trong thành phố này hay đã ra đi như những người có tiền của. Cứ thế, cuộc sống trầm luân trôi dần theo năm tháng.

Và bất ngờ tôi gặp lại chị Hảo. Lúc đó miền Nam đổi chủ đã được mười năm. Năm 1985.

Tôi đang đạp xe về nhà, đến gần ngã tư Bảy Hiền thì nghe tiếng gọi. Chả là hôm nay tôi muốn về sớm để đưa con em đi mua sắm chuẩn bị ngày đám cưới của nó. Nửa muốn đạp cuốc xe kiếm thêm chút tiền quà cưới cho con em, nửa muốn về ngay vì lời hứa với nó. Ánh nắng chói chan buổi xế trưa chém xéo rát một bên mặt. Tôi quyết định quay xe lại. Đứng bên lề đường, một người đàn bà mang kiếng đen vẫy tay gọi. Chiếc áo sơ-mi trắng ngắn tay để lộ làn da trắng nuột. Tóc chải gọn búi tó. Mặc dù cặp kiếng che gần hết khuôn mặt nhưng dáng người nàng thanh tú, sống mũi thẳng cân đối, đôi môi trái tim chúm chím. Phải nhìn nhận nàng đẹp, đó là nhận xét đầu tiên khi tôi đạp xe đến gần. Lâu lắm tôi mới thấy một người đẹp như thế. Nàng cất tiếng hỏi:

- Về Trương minh Giảng anh lấy bao nhiêu?

Đây là một điều lạ. Mất nước đã hơn 10 năm, tất cả con đường đã đổi tên và dân Sàigòn hầu như không còn ai xài tên cũ. Nàng gọi tên đường “Nguyễn văn Trỗi” là Trương minh Giảng. Tôi chợt có cảm tình với nàng, một lối phản kháng tiêu cực bằng cách ung dung xài những gì xưa cũ của một miền Nam trước 75. Nhưng một điều khác làm tôi giật mình nữa là âm hưởng của giọng nói. Có một cái gì thân quen bàng bạc trong ký ức mà tôi cơ hồ chưa nhận ra. Tôi ngẩn người ra một lúc vì hai cái bất ngờ làm tôi choáng váng. Hít một hơi dài, tôi bình tĩnh:

- Dạ thưa chị cho 1200.

- 1000 được không?

Tôi định nói xin chị cứ cho 1200 vì trời nắng đạp lên dốc rất mệt thì bỗng nhiên tôi ngờ ngợ một điều gì. Từ vóc dáng, một nửa khuôn mặt và giọng nói, nhất là giọng nói tôi không thể lầm được. Tôi bước xuống xe, tiến thêm một bước để nhìn cho rõ. Cùng một lúc, hình như người thiếu phụ cũng nhận ra một cái gì quen thuộc, nàng gỡ cặp kiếng mát xuống, miệng lắp bắp:

- Có phải… có phải là…

- Chị… chị Hảo phải không?

Trời ơi! Thật không ngờ chị em lại gặp nhau trong hoàn cảnh khá trái ngang. Tôi reo lên:

- Em Hưng nè.

Chị Hảo bước tới. Bây giờ chị đã hoàn toàn nhận ra tôi:

- Hưng, đúng Hưng rồi… Trời Phật ơi, em bây giờ đen quá, chị nhận không ra.

Chị ôm lấy tôi, thân tình như một người chị lâu ngày gặp lại đứa em ruột. Tôi đã khác xưa nhiều lắm, khuôn mặt có thể chẳng thay đổi bao nhiêu nhưng tôi đã cao lớn hơn trước. Ba năm trong quân trường tôi luyện tôi dày dạn sương gió, chưa kể sáu năm ngục tù cũng giúp tôi thêm chín chắn. Chị Hảo nhận ra tôi có lẽ nhờ giọng nói. Chính giọng nói đã mở toang cánh cửa quá khứ và ký ức hiện về nguyện vẹn một buổi trưa hè khi chị nhìn thấy tôi ngồi đọc truyện trên căn gác nhỏ. Riêng chị Hảo vẫn không khác xưa mấy, dáng người đẫy đà hơn nhưng khuôn mặt thì vẫn vậy; khác chăng là mái tóc chị búi gọn về phía sau chứ không xõa dài như mười sáu năm trước. Tôi gần như rú lên khi nhận ra chị Hảo. Làm sao diễn tả được niềm vui khi gặp lại chị. Thật không ngờ chị vẫn sống bình yên giữa thành phố hỗn loạn này. Quá khứ tôi quá nhiều buồn thảm, chỉ còn mỗi ký ức về chị Hảo nâng niu mỗi ngày làm quà cho cuộc sống cơ cực. Niềm vui ánh lên trong đôi mắt chị Hảo mà đến hôm nay tôi vẫn còn thấy đẹp, tuy có vương vấn chút u buồn. Chị không giữ được những giọt nước mắt. Tôi thấy mắt chị long lanh dưới ánh mặt trời gay gắt. Tôi cũng không kềm được nỗi xúc động. Ở trong thành phố đầy những khuôn mặt lạ lẫm đến từ phương Bắc, may mắn gặp lại cố nhân sau hơn mười sáu năm xa cách, những giọt nước mắt hội ngộ xứng đáng được chảy dài trên má. Tôi đã lớn, một thanh niên hơn 30 tuổi đời, tâm hồn đang chai cứng dần với thời gian khổ cực đọa đày, thế mà cảnh vật vẫn nhạt nhoè qua ánh mắt nhìn nghiêng.

Chúng tôi đứng ôm nhau ngay trên đường phố ở ngã tư Bảy Hiền. Những người qua đường lấy làm lạ khi thấy một người đàn bà xinh đẹp, ăn mặc khá sang trọng lại ôm một anh phu xích lô quần áo bẩn thỉu, rách thủng nhiều chỗ. Có thể họ cho rằng chúng tôi là một cặp tình nhân tình cờ lạc mất nhau khi thành phố đổi tên, và bất ngờ gặp lại nhau giữa những gian truân. Chị Hảo gần như kiễng chân lên ôm lấy tôi vì sự khác biệt chiều cao của thân hình. Tôi chợt nhớ đến lần cuối cùng khi chị tựa người vào vai tôi khóc hết nước mắt. Cũng với tâm trạng đêm hôm đó, tôi ước mong mình lớn tuổi thêm tí nữa, để vỗ về chị Hảo như một người yêu. Con gái dưới 20 thường trưởng thành sớm nên trông chững chạc hơn đám con trai cùng lứa nhưng đến một tuổi nào đó, người đàn bà dừng lại và đàn ông lớn trổi vượt lên. Tôi không biết tuổi đó phải là bao nhiêu nhưng tôi tin chắc rằng với số tuổi trên 30 như tôi, người đàn ông không còn nhỏ dại nữa. Chắc chắn tôi không còn ngơ ngáo như thằng con trai thuở gặp chị lần đầu. Lúc vừa nhận ra nhau, mừng quá nên tôi buột miệng xưng em nhưng trong thâm tâm tôi vẫn muốn chị nên xem tôi như một người bạn. Chị Hảo lại khác, tôi đối với chị vẫn là thằng Hưng nhỏ bé ngày nào, mặc dù bây giờ tôi đứng cao hơn chị nhiều lắm. Lối xưng hô chị chị em em tự nhiên của chị làm tôi ngại ngùng khi muốn thay đổi cách gọi giữa hai người. Chị buông tôi ra:

- Em vào Sàigòn lúc nào? bây giờ ở đâu?

Tôi hơi ngượng khi dùng chữ em để xưng hô:

- Gia đình… em dọn vào Sàigòn ở Trung Chánh lâu rồi chị. Còn chị ở đâu?

- Trương minh Giảng. Thì chị đón xe về nhà đó.

Tôi chợt nhớ ra chị gọi tôi để đi xe:

- Em… em thật không ngờ gặp lại chị. Chị lên đây em chở về.

Trên đường đi, tôi và chị ôn lại mẩu dĩ vãng mười sáu năm. Tôi nói về tôi nhiều hơn và biết thêm về những người thân thuộc của gia đình chị đã vượt biên. Chị sống bơ vơ giữa thành phố này em ạ, giọng chị Hảo buồn buồn. Gia đình anh Kiệt cũng ra đi hết rồi, hình như đã định cư tại Đức. Chị chấp nhận ở lại để nhang khói cho anh Kiệt. Ai cũng bỏ thành phố này hết, chị không đành để anh Kiệt nằm lại bơ vơ không ai chăm sóc. Tôi nghe lòng ngậm ngùi khi chị nhắc tên anh Kiệt. Mỗi khi nhớ chuyện cũ, tôi thường nhớ chị Hảo chứ hình ảnh anh Kiệt chỉ còn bàng bạc trong trí nhớ. Tình yêu của chị đối với người đã khuất vẫn đầy ắp như thuở sống bên nhau. Mười sáu năm, thời gian đủ dài để chôn vùi tuổi xuân của người thiếu phụ, vậy mà chị vẫn một lòng son sắt với chồng. Ôi, còn mối tình nào đẹp hơn mối tình người vợ thủ tiết thờ chồng, không phải vì tương lai con cái mà vì muốn trọn lòng với người quá vãng. Chị sống âm thầm trong thế giới riêng của chị, trái tim cứ mãi ôm ấp hình bóng cũ, trung kiên. Tôi chỉ đứng ngoài chiêm niệm mối tình chân gần như huyễn hoặc, thương tiếc cho người vắn số, ngậm ngùi cho tuổi thanh xuân của chị Hảo trôi qua nuối tiếc, và ước mơ sau này may mắn yêu và được yêu nồng nàn như chị.

Qua nhà thờ Ba Chuông, vượt giáo xứ Vườn Xoài, chị bảo tôi đạp chầm chậm. Trong suốt lộ trình, tôi tuyệt nhiên không hỏi đến gia cảnh hiện tại của chị. Thâm tâm tôi mặc nhiên nhìn nhận tình yêu chị Hảo chỉ dành riêng cho một người, ngay cả tôi cũng không chiếm được một góc nhỏ đâu đó trong tim chị. Gần đến chợ Trương minh Giảng, chị bảo tôi dừng lại và chỉ một căn nhà hai tầng, bảo đó là nhà chị đang ở. Căn nhà đó thật lớn cho một người độc thân. Tôi chợt nhận ra đây là căn nhà của một nha sĩ bỏ đi trước 75. Thằng bạn học cùng khoá Võ Bị ở trong ngõ hẻm bên hông nhà. Trước 75 hai đứa đi phép nó dẫn tôi về nhà chơi nên tôi biết rất rõ khu này. Những căn nhà có chủ bỏ đi vượt biên đều bị nhà nước trưng dụng. Chính quyền cộng sản tịch thu nhà và phát lại cho cán bộ miền Bắc điều vào. Thân thế như chị mà được ở một căn nhà khang trang như thế kể cũng khó hiểu. Chị bảo tôi vào nhà chơi. Tôi chợt nghĩ đến cái hẹn với con em nên từ chối:

- Em phải về để đưa con em đi mua sắm đồ cưới. Để hôm khác em đến.

Chị Hảo níu tay tôi:

- Vậy cũng được. Thôi, em cho chị địa chỉ nhà em đi, hôm nào chị đến thăm em.

Tôi đang hý hoáy viết đia chỉ trên mảnh giấy thì một cô gái bên kia đường chạy vụt sang xoắn lấy chị Hảo:

- Cô ơi, lúc nãy ông có nhờ em nhắn với cô cứ ở nhà đợi, ông lái xe lên Ngân hàng rồi về liền.

Tôi ngẩng mặt lên. Một cô gái trẻ, khoảng 20, cười nói với chị Hảo thật tự nhiên. Tôi sa sầm nét mặt khi nghe lời nhắn của cô gái. Hoá ra chị Hảo không ở một mình. Tôi bỗng thấy đau nhói ở trong tim. Tình cảm tôi đối với chị Hảo thật ích kỷ. Đã bao nhiêu năm trôi qua mà tình cảm độc tôn trong tôi vẫn không thay đổi. Với anh Kiệt thì khác, tôi không có một uy quyền nào bắt chị phải gạt bỏ hình bóng của người chồng cũ ra khỏi tâm tư. Hơn nữa anh Kiệt đã mất, tôi không thể ghen với người quá cố nhưng tôi lại tự cho mình có quyền ghen với bất cứ người đàn ông nào khác, khi họ bước vào chiếm hữu trái tim chị. Tôi nghĩ chị Hảo chỉ nên yêu anh Kiệt và… tôi thôi, không thể một người nào khác. Không biết chị có nhận thấy nét mặt tôi thay đổi hay không nhưng tôi tin chắc khuôn mặt tôi lúc đó cau có khó chịu lắm. Tôi hằn học dúi vào tay chị mảnh giấy rồi quày quả đạp xe đi, không thèm nghe tiếng chị Hảo gọi gấp từ phía sau.

Trên đường về, tôi nghiến răng giận dữ. Người tôi như mê đi trong cơn ghen tức. Tôi không biết tôi đang vô lý trong ý nghĩ. Tôi không có lý do nào để giận chị Hảo. Cho dù yêu anh Kiệt tha thiết nhưng không thể bắt chị sống mãi trong cô đơn. Người đàn bà giữ tang chồng được ba năm là trọn nghĩa, hơn nữa chị còn quá trẻ. Ngày khoác áo tang, tôi đoán chị cỡ 20. Hơn mười sáu năm trôi qua, tuổi xuân không thể bắt chị ngồi đó thương tiếc mãi một mối tình, tuy tuyệt vời, đã ngàn trùng xa cách. Vả lại, vẻ đẹp của chị vẫn còn sắc sảo mặn mà. Với một nhan sắc như thế, thật khó để không bước đi bước nữa vì xung quanh biết bao người săn đón. Tôi bỗng giận sắc đẹp của chị Hảo, giận khuôn mặt nở hoa lồ lộ dưới con mắt của những thằng đàn ông không ra gì, (tôi chưa biết chị lấy ai nhưng tôi đã liệt hắn vào hạng không ra gì!). Tôi lại giận định mệnh xui tôi về sớm trên khúc đường oan trái để gặp lại chị Hảo. Giá tôi đừng gặp lại chị thì hình ảnh của chị Hảo vẫn tuyệt vời trong tôi. Cứ sống mãi với kỷ niệm và đừng đối diện với sự thật thì tôi đâu chuốc lấy cái khổ bây giờ. Buổi chiều hôm đó đạp xe về mà lòng tôi rã rời hơn bao giờ
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #53 - 09. Nov 2006 , 01:05
 
Mấy ngày sau, tôi quyết định phải khám phá cho ra cái “thằng” sống chung với chị Hảo. Tôi đạp xe về lối cũ, mon men đến hỏi chuyện cô gái ngồi bán thuốc lá xế căn nhà chị Hảo ở. Đúng là cô gái nói chuyện với chị hôm nọ. Bỏ ra mấy trăm mua vài điếu thuốc lá lẻ, tôi bắt chuyện:

- Bán đây khá không cô?

Cái nguyên lý tự ngàn xưa là bất cứ anh phu xích lô nào gạ chuyện với cô bán thuốc lá lẻ đều xem ra tâm đầu ý hợp lắm. Thì “nồi nào úp vung nấy” nên mới dễ dàng đưa đẩy câu chuyện. Cô gái bán thuốc ngồi tịnh khẩu hàng giờ, nhạt miệng lại có anh xích lô đến ve vãn nên cô mau mắn bắt chuyện liền. Trông cô khá xinh, mặc chiếc áo bà ba màu hồng nhạt hở một hột nút phía trên, xẻ hông cao đến nửa lưng. Mỗi khi cô vươn tay sửa sửa mấy gói thuốc nằm trên mặt kiếng, vạt áo vật vờ kéo xếch lên để lộ khoảng da thịt trắng ngần. Chiếc áo hình như hơi chật bó lấy bộ ngực vun đầy, tròn trĩnh. Tôi có cảm giác cô không dám thở mạnh, chỉ sợ hàng cúc áo bật tung sau mỗi hơi thở thoang thoảng mùi kẹo chanh. Cô vuốt lại mái tóc làm duyên, miệng chúm chím:

- Cũng được thôi anh Tư… uả, anh hổng ở dzùng này hả?

Rồi không đợi tôi trả lời, cô vỗ hai tay vào nhau:

- Hèn chi, em thấy anh lạ lắm nghen.

Tôi rít một hơi thuốc:

- Không, không lạ đâu cô. Đúng ra cô gặp tôi một lần rồi.

- Dzậy hả anh. Ủa, gặp hồi nào sao em hổng nhớ cà.

Chắc cô nghĩ tôi đang mở miệng tán tỉnh bằng một câu cũ rích. Thì anh xích lô nào ghé ngang sạp thuốc của cô mà không mở đầu bằng câu đã gặp nhau đâu đó rồi. Nghe mãi đến nhàm nhưng cô vẫn thích vì cô nghĩ mình có “dziêng” nên người ta mới đứng lại lân la gạ chuyện chớ. Nhìn mặt cô rạng rỡ, tôi thú thật:

- Mấy hôm trước, tôi chở bà ở căn nhà đàng kia về, cô chạy sang nhắn lại lời của chồng bà, cô còn nhớ chứ?

Cô nhíu mày cố nhớ lại chuyện ngày hôm đó. Khi nhớ ra, cô hơi thất vọng vì anh xích lô này hỏi chuyện thật chứ không phải bày chuyện để tán tỉnh cô. Giọng cô buồn buồn:

- Em nhớ rồi, hổm anh chở cô Ba về có viết tấm giấy đưa cho cổ.

- Cô Ba?

- Ừa! Em không biết tên thật cổ.

- Thế cô Ba ở đây lâu chưa?

- Không lâu đâu, độ nửa năm trở lại. Căn nhà đó họ đổi chủ hoài à, chỗ để cho mấy ông lớn nghỉ ngơi.

- Còn chồng của cô Ba thì sao?

Cô gái khựng người:

- Ủa, sao anh hỏi dữ dzậy? Bộ tính chiện gì hả?

Tôi làm vẻ mặt tự nhiên:

- Thú thật với cô, cô Ba là người quen lâu ngày mới gặp nhau. Hôm đó tôi tình cờ gặp lại cổ ở ngã tư Bảy Hiền rồi chở về đây. Tôi không ngờ cô ta đã có chồng.

Cô gái nghĩ ngay đến câu chuyện tình ngang trái và coi bộ thông cảm với người bị phụ tình. Cô hăm hở:

- À! Ông chủ hả, chả làm lớn lắm nghen, nghe đâu ở Ngân hàng nhà nước gì đó! Em hổng thích chả, thứ Bắc kỳ khó ưa. Mặt kên kên coi dễ ghét. Chả lấy cô Ba làm bé, anh biết hôn? Nghe đâu vợ chả còn ngoài Bắc. Còn cô Ba tội nghiệp lắm. Cổ hiền lành, nói năng dễ thương. Ở khu chợ này ai mà không mến cô Ba, ghét thằng chả. Em thật hổng hiểu cái nỗi gì mà cô Ba lại đi làm bé chả. Chắc tại do hoàn cảnh hén anh…

Tôi trợn mắt há hốc miệng nhìn cô gái. Cái tin nghe như sét đánh bên tai. Ôi! Không ngờ chị Hảo lại gá nghĩa với một tên Việt cọng. Mà đã là Việt cọng thì tôi đều khinh tởm như nhau. Người tôi rã rời như vừa đạp xong một ngày xe mệt nhọc. Nhìn nét kinh ngạc trên mặt tôi, cô gái đoán chừng tôi mất người yêu vì thời thế đổi đen. Tôi nghe lòng mình chùng hẳn xuống, nặng trĩu một nỗi buồn. Đúng ra tôi thất vọng. Không, không tôi tuyệt vọng thì đúng hơn. Loáng thoáng tôi nghe tiếng cô gái:

- Anh biết hôn, mỗi tuần cổ đều đi thăm ai đó ngoài nghĩa địa. Cổ nói với em bày bán nhang cho tiện. Tuần nào cổ cũng ghé ngang sạp em mua bó nhang rồi lên xe đi thẳng ra nghĩa địa. Mỗi bận về em thấy mắt cổ đỏ hoe.

Tai tôi lùng bùng không còn nghe gì nữa. Cái tin chị Hảo cam thân làm vợ một tên Việt cọng đủ nói lên tất cả rồi, còn tất cả những gì khác đều thừa. Cũng như lần trước, tôi quày quả đạp xe đi không một lời cám ơn cô gái. Tôi cúi đầu đi như kẻ chạy trốn thực tại, bên tai còn nghe văng vẳng tiếng hỏi… anh Tư… sao dzậy anh Tư? Cả hai lần đến khu chợ này tôi đều mua thêm lấy những thương đau.

Cả bầu trời đổ ụp trên người tôi, đè nặng lên thân xác. Người tôi bải hoải tưởng chừng từng đốt xương long hẳn ra từ chỗ nối. Chưa bao giờ đôi chân tôi tê dại đến thế, gần như không thể đạp thêm một chút nào nữa. Tạt xe bên lề đường, tôi chui vào xe ngồi thở dốc như người lên cơn suyễn. Hơi thở hắt ra từng cơn như muốn trút bỏ nỗi tuyệt vọng đang bám rễ trong tâm tư. Không tuyệt vọng sao được khi nguồn hy vọng cuối cùng của tôi bị thực tại cướp đoạt trắng trợn. Cho dù mồ hôi đổ ra khổ cực đến mấy, cho dù kẻ thù có hành hạ tôi dã man đến thế nào đi chăng nữa, hình ảnh một chị Hảo trung trinh với mối tình chân vẫn giúp tôi vượt qua những đoạn đường cam go đó. Trong quá khứ, hình ảnh chị Hảo ngồi u buồn với tấm thẻ bài đã đẩy tôi vượt thoát được những cơn cùng cực khi lý trí bị nỗi phẫn uất phủ mờ. Tôi dễ mềm lòng trước những cảnh bất hạnh vì trong tôi vẫn sáng ngời một chị Hảo hiền thục với trái tim đầy ắp yêu thương. Tôi vẫn hiên ngang sống đến ngày hôm nay vì vẫn cậy nhờ vào niềm hy vọng một ngày nào đó sẽ thấy bình minh trên mảnh đất này. Như người ngư phủ mãi ngồi bó gối chờ hừng đông để kéo mẻ cá cuối nhưng khi mặt trời vừa ló dạng thì bị đám mây đen che khuất và cảnh vật lại chìm trong bóng tối.

Chị Hảo bước đi bước nữa cũng là chuyện thường tình, tôi tuy có đau khổ thật nhưng vẫn còn khả dĩ chấp nhận. Cùng lắm tôi chỉ tự trách mình sao quá lãng mạn để chuốc lấy mối tương tư. Nhưng thiếu gì người để chị lấy một tên cán bộ. Trong nỗi đau của tôi lại có thêm cơn giận. Chị lại chấp nhận làm bé thì quả thật tôi không thể hiểu được. Bây giờ thì nỗi đau, cơn giận trộn lẫn với sự cuồng nộ. Cả hơn mười năm, tôi đã nghe và thấy những người vợ thiếu thuỷ chung, trâng tráo bán thân làm vợ những kẻ có quyền thế, những kẻ đại diện cho một chế độ ngông cuồng đang hành hạ dã man chồng mình chết dần mòn trong các trại tù. Cũng không thiếu những kẻ sĩ, đại diện cho tầng lớp trí thức ở miền Nam trước đây, cũng trơ trẽn bán thân để mua lấy một chút an nhàn nhất thời. Thế những người này không có chút sĩ diện nào sao? Tôi không trả lời được câu hỏi đó nhưng lại nghĩ đến mỗi người một hoàn cảnh. Có thể họ có một lý do riêng tư nào đó nên mới để cho thằng mán thằng mường nó leo cây quế. Tôi không dám xét đoán nhưng để cho chính lương tâm họ phán quyết, hoặc ngay chính người chồng một thời đầu gối tay ấp trở về từ trại tù cắn răng quyết định. Nhìn những cảnh vô luân xảy ra giữa một xã hội xảo ngôn, tôi vẫn an tâm sống vì trong tôi còn ôm ấp hình bóng một chị Hảo thuỷ chung. Mọi người có thể ươn hèn nhưng chị Hảo của tôi thì không. Tôi sống yên ổn với hoài niệm đó mãi đến hôm nay tôi mới biết tôi lầm.

Trong khi tôi trân quý hình ảnh của chị, thì chị lại phản bội những luân lý căn bản trong tình yêu vợ chồng. Chị cam tâm làm bé mà không hề nghĩ đến người vợ cả, không hề nghĩ đến một hạnh phúc đã bị tước đoạt chỉ vì sự hèn yếu của mình. Chưa kể chị dâng hiến trái tim cho kẻ thù, bọn người đã giết chết anh Kiệt, chồng chị. Thù nước tôi không dám nói nhưng còn thù chồng chắc chị phải nhớ chứ? Thế mà chị đành đoạn tuyệt một quá khứ thân thương, trong đó có tôi là một nhân chứng. Chị rũ bỏ dễ dàng như thay một cái áo, hằng ngày.

Thế là hết, hình ảnh chị Hảo sụp đổ trong tôi thì con người tôi cũng sụp đổ theo. Tôi còn nhớ mãi câu nói thẫn thờ của chị: nhà chị sụp rồi còn gì mà giữ hả em khi anh Kiệt nằm xuống. Tôi cũng chẳng còn gì để giữ. Ôi! Mười sáu năm tuy cơ cực nhưng đẹp biết bao; đẹp với mối tình cảm lãng đãng xa xôi nhưng nhiều lúc tôi cảm thấy ấm áp thật gần, vì nó ở ngay trong tim. Bây giờ, sức sống của tôi đã bị bóp nghẽn, trái tim đập dật dờ theo thời gian. Tôi uể oải sống, gắng gượng lê bước được ngày nào hay ngày đó. Tôi không còn nhớ tôi đã làm khổ mẹ tôi đến mức nào nhưng bà đã khóc gần như hết nước mắt vì những cơn say khốn khổ. Tôi không thiết tha đến việc đạp xe, có khách thì chở không thì kiếm hàng quán ngồi làm bạn với mấy xị đế. Lòng hăm hở đạp xe kiếm tiền nuôi sống gia đình nguội hẳn. Điều này tối quan trọng vì cả nhà trông nhờ vào những cuốc xe hàng ngày của tôi để đổi lấy miếng cơm. Bữa cơm sa sút thấy rõ. Mẹ tôi chỉ khóc tỉ tê mỗi đêm khi mở cửa dẫn thằng con say khướt vào giường ngủ. Bà không hiểu thằng con cả đột nhiên dở tính sinh tật rượu chè be bét, hư người. Ba tôi già cằn cỗi, thở dài lặng lẽ không một lời trách cứ thằng con, có lẽ không dám thì đúng hơn vì ông không còn làm ra tiền để nuôi sống gia đình nữa. Ngồi bây giờ viết lại dòng chữ này, tôi cảm thấy có lỗi với cha mẹ tôi, với các em tôi. Tương lai tôi có thể hủy hoại, sao cũng được nhưng đừng để ảnh hưởng đến người khác, nhất là những người ruột thịt thân yêu của mình. Nguyên lý xem ra đơn giản như thế nhưng lúc đó tôi không cần hiểu. Tôi đang lao mình xuống đáy vực, muốn ra sao thì ra.

Một đêm say khướt bước về nhà, tôi khật khưởng leo lên giường nằm vật xuống. Đầu óc tôi nặng chình chịch nhưng nghe loáng thoáng mẹ tôi nói có người nào tìm tôi lúc chiều. Không còn hơi sức nữa, tôi thiếp đi trong cơn say. Sáng hôm sau, khi tôi tỉnh dậy thì mặt trời đã ở ngang tầm mắt. Đang rửa mặt tôi nghe tiếng mẹ tôi đàng sau lưng:

- Hưng này, hôm qua có bà nào đến đây tìm anh. Mẹ nói anh không có nhà, bà trao cho mẹ cái hộp giấy này, nói nhờ mẹ trao tận tay cho anh. Tối hôm qua, anh say quá nên mẹ không đưa. Anh mở thử xem, không biết có gì ở trong mà nặng lắm.

Tôi nhíu mày thắc mắc. Bà nào? Bà nào đi tìm tôi. Chưa vướng nợ tình với ai nên tôi đoán có lẽ chị Hảo. Ở thành phố này tôi chỉ biết mỗi chị Hảo. Không hiểu chị đến đây kiếm tôi làm gì nữa? Giữa tôi và chị chẳng còn gì để nói, ngoài một hoài niệm buồn. Tôi sẽ cố quên những gì đã lỡ ước mơ, tôi sẽ cố bước đi để sống, tôi sẽ không để những người thân tuyệt vọng vì tôi như chị Hảo đã nhẫn tâm làm qua nếp sống vô luân. Thấy tôi đứng tần ngần một lúc, mẹ tôi chìa cho tôi xem cái hộp có bọc nhiều lớp giấy báo bên ngoài. Tôi bình thản đỡ lấy cái hộp vuông vắn có buộc chéo giây hình chữ thập. Khá nặng. Bóc lớp báo ra, tôi mở nắp hộp. Đập ngay vào mắt tôi là tấm thẻ bài với sợi giây treo cuộn xung quanh nằm gọn ngay bên cạnh tờ giấy xếp làm tư; bên dưới thấp thoáng những thỏi vàng lá được xếp ngay ngắn. Sở dĩ nhìn thoáng là biết ngay vì nhãn hiệu trái núi ở phía ngoài. Tôi đếm được 10 lượng. Từ ngày mất nước, chưa bao giờ gia đình tôi thấy một gia tài lớn đến thế. Chạy cơm từng bữa, may ra dư dả chút đỉnh phòng hờ khi hữu sự, làm sao để dành mua được từng ấy vàng. Mẹ tôi nhìn hộp vàng người run lẩy bẩy. Tôi chộp lấy tấm thẻ bài, đọc hàng tên khắc sâu vào bản sắt. PHẠM HÙNG KIỆT. Trời ơi! Làm sao tôi quên được tấm thẻ bài chị Hảo khoác lên tay ngồi xoã tóc nức nở trong đêm! Không ngờ chị vẫn giữ tấm thẻ bài của anh Kiệt từ bấy lâu nay. Mà sao chị lại gửi cho tôi? Tôi đưa cả hộp vàng cho mẹ tôi rồi mở vội tấm giấy. Nhìn hàng chữ đầu tiên tôi ngờ ngợ nét bút của chị Hảo; đúng là lá thư chị viết cho tôi:



Sàigòn ngày…tháng…năm 1985

Hưng yêu thương của chị,

Chị thật không ngờ gặp lại em tuần trước. Đã hơn mười sáu năm rồi. Chị đã lạc mất anh Kiệt, còn em chị nghĩ cũng lạc mất ở góc biển chân trời nào đó. Mỗi người ở một phương, thời thế lại đổi thay, làm sao có dịp. Thế mà định mệnh run rủi chị em gặp lại nhau. Chị nghĩ phép lạ em ạ! Thật may mắn cho chị khi nhìn lại em, nhớ lại quãng thời gian ở Qui-nhơn, lúc còn anh Kiệt, có em chuyện trò. Thời gian tuy ngắn ngủi nhưng thật đẹp! Anh chị tuy ít gặp nhau (một tháng đôi lần) nhưng tình yêu nồng thắm hơn bao giờ. Trong nỗi mỏi mòn trông chờ từng ngày có đượm những háo hức gặp nhau cuối tuần. Và khi anh Kiệt về, em hiểu được chị vui đến thế nào. Thấy anh bình yên đã là một niềm vui, có với nhau một ngày là thêm niềm hạnh phúc. Bên cạnh đó, em đóng vai một nhân chứng cho tình yêu của anh chị. Có em đứng giữa, những ngày chị thiếu vắng anh Kiệt thấy đỡ buồn tẻ hơn. Vậy mà chỉ trong một ngày năm đó, chị mất anh Kiệt rồi mất luôn cả em. Gặp lại em, chị hồi tưởng lại những ngày hạnh phúc qua mau mà thấy lòng thổn thức. Ký ức hiện về rõ mồn một và chính em là chiếc chìa khóa mở rộng cửa ngõ quá khứ để chị cảm thấy nuối tiếc khôn nguôi. Và chị có thêm can đảm, Hưng ạ! Để chị kể cho em nghe sự yếu đuối của chị thế nào.

Hôm em chở về, chị em đã nói nhiều chuyện nhưng chị vẫn dấu em một điều. Bây giờ chị nghĩ em đã biết điều chị muốn dấu. Ngày gia đình chị vượt biên, chị chấp nhận ở lại giữ căn nhà để nhang khói cho anh Kiệt. Ông bà cụ anh Kiệt cũng giữ một chỗ cho chị trên chiếc thuyền con của gia đình. Chị từ chối. Chị không nỡ bỏ anh Kiệt, Hưng ạ! Thế mà lại may, chừng vài tháng sau đó, họ bắt phải cải mộ anh Kiệt đi chỗ khác. Nhờ chị ở lại nên mọi chuyện êm xuôi chứ không thì họ cày xới tung các ngôi mộ vô thừa nhận; vì gia đình đã đi vượt biên không còn một thân nhân ở lại để lo việc dời mộ. Nhưng chị lại gặp cái xui. Chính quyền quyết định trưng dụng tất cả những ngôi nhà có người chạy ra nước ngoài. Đúng ra họ lấn chiếm một cách trắng trợn có hệ thống. Ban đầu, họ ngang nhiên dọn vào, nhường lại cho chủ một căn phòng nhỏ. Em nghĩ xem, chị là đàn bà con gái, lại sống chung đụng với gần chục tên công an nửa người nửa ngợm thì chịu sao được. Vấn đề bếp núc đã bất tiện, vấn đề vệ sinh lại càng khó chịu hơn. Có lần, chị vừa tắm xong, lặng lẽ mang quần áo đi về phòng, liếc mắt thấy hàng chục con mắt nhìn chị chằm chằm. Nhìn những tia mắt dã thú của bọn công an người chị nổi cả gai ốc. Ngày hôm sau chị dọn ra, tuyệt nhiên không nói một lời. Thế là họ đương nhiên làm chủ căn nhà.

Cuộc sống của chị cơ cực mấy năm đầu, nhưng rồi cũng qua dần. Mỗi tuần chị đều ra mộ thắp nhang cho anh Kiệt, có khi chị ngồi tỉ tê với anh suốt buổi chiều. Tiền cha mẹ để lại một ít làm vốn, cọng với tiền ở ngoại quốc gửi về, chị chắt chiu cũng đủ sống. Khoảng hơn năm sau, chị xin được chân kế toán (sau khi anh Kiệt mất, chị chuyển trường học phân khoa Kinh tế) tại một chi nhánh ngân hàng nhà nước. Cuối cùng mọi việc tạm ổn, chị nhắm mắt sống yên thân giữa thành phố có quá nhiều hỗn loạn. Chị cảm thấy bằng lòng với quyết định ở lại để lo cho anh Kiệt.

Vậy mà vận số vẫn không tha cho chị. Tên thủ trưởng ngân hàng không biết sao mà hắn biết được chị là vợ của anh Kiệt, một phi công ngụy. Hắn hăm dọa sẽ đuổi chị ra khỏi cơ quan và truy tố ra toà án nhân dân vì tội lừa dối khai man với cách mạng. Hưng ơi, chị chỉ là một người đàn bà yếu đuối, sống bơ vơ giữa thành phố không có lấy một người thân. Giá như chị gặp em sớm hơn, có lẽ chị cũng không đến nỗi cô đơn khi quyết định. Nhưng sự thật phũ phàng là chị cam chịu làm những gì hắn muốn – kể cả việc cắn răng cho hắn làm chủ thân xác chị – để đổi lấy sự yên thân tạm bợ. Chị kể lể cho anh Kiệt nghe nỗi khổ, sự cô đơn cùng tận không có ai giúp đỡ khi gặp cơn nguy khốn. Chị nguyện xin Trời Phật thương phù hộ cho chị thoát khỏi cơn cùng quẫn thì chị gặp lại em. Trời ơi! Em biết không, chị nghĩ phải có phép lạ mới run rủi cho chị gặp lại em giữa mấy triệu người sống hỗn độn trong thành phố này. Và thật kỳ lạ Hưng ạ, gặp lại em chị bỗng thấy ngay một giải pháp giải quyết thật gọn mọi vấn đề. Giải pháp thật đơn giản nhưng có lẽ chị không đủ sáng suốt nghĩ đến hoặc không có đủ can đảm dám nghĩ. Chỉ biết rằng, sau khi gặp em, nó hiện ra rõ ràng trong tâm trí chị và phải mất cả tuần chị mới đủ can đảm quyết định.

Cám ơn em đã xuất hiện một lần cuối trong cuộc đời chị. Lần gặp gỡ đầu tiên, không hiểu sao chị mến em như một người thân trong gia đình và mãi mãi em vẫn chiếm một chỗ trong tim chị. Gửi lại em tấm thẻ bài, tấm thẻ mà chị giữ suốt mười sáu năm nay. Cứ mỗi tuần ra thăm anh Kiệt chị lại mang theo, ngồi bên mộ, tay mân mê tấm thẻ bài mà lòng ngậm ngùi nghĩ đến những ngày xưa thân ái, khi còn anh Kiệt và có em bên cạnh. Nhờ em trao nó lại cho gia đình anh Kiệt, hiện tại đang ở địa chỉ số…, đường…, thành phố…, Germany. Cả mấy năm nay không thư từ liên lạc nên không biết ông bà cụ còn ở địa chỉ này không. Em giúp chị tìm rồi trao tận tay ông bà cụ nhé. Em cũng liệu thư từ giải thích dùm với cha mẹ chị, hiện đang ở số…, đường…, thành phố…, USA. Chị thấy thật có lỗi với những người ruột thịt nhưng không biết làm sao hơn. Giúp chị gửi lời tạ lỗi đến cha mẹ chị. Chị không thua số mệnh nhưng bằng lòng chọn lựa mệnh số để trọn tình với anh Kiệt.

Còn mười lạng vàng là tất cả vốn liếng chị dành dụm bấy lâu nay. Gửi biếu em. Của phù du không cần nữa Hưng ạ! Em có thể dùng để mua lấy chút tương lai.

Thôi, chị ngừng đây. Chị muốn gặp em tận mặt để tâm sự nhưng nghĩ sao chị thấy viết ra như thế này dễ hơn. Cho cả em lẫn chị.

Thương em nhiều,

Hảo


Tôi thẫn thờ đọc những dòng chữ cuối. Rõ ràng đây là một lời trối trăn trong bức thư tuyệt mạng. Nói vội với mẹ tôi con phải đi đây có chuyện, tôi chạy sang nhà người bà con mượn chiếc Honda phóng một mạch lên chợ Trương minh Giảng. Gần đến trước nhà chị Hảo, tôi thấy người ta đứng lớp trong lớp ngoài phía bên này đường đang chỉ chỏ bàn tán. Trống ngực tôi đập thình thịch. Ngay cửa ra vào, chiếc xe cứu thương đậu quay đầu xe ra ngoài, hai cánh cửa sau mở rộng toang hoác. Vài ba tên công an vào ra ở cửa chính, vẻ mặt nghiêm trọng. Vòng ngoài còn bốn tên công an đang giữ trật tự, một đứa xua tay mời bà con giải tán đi làm việc. Hình như chẳng ai để ý đến hắn vì người ta vẫn túa đến mỗi lúc một đông; riêng những người đã đứng từ trước cứ bình thản bàn tán chuyện trò, xem như không có hắn. Nhìn cảnh tượng diễn ra trước mắt, không ít thì nhiều tôi cũng đoán được chuyện chẳng lành. Để biết rõ hơn, tôi muốn chen chân vào trong để hỏi han nhưng không dám bỏ chiếc xe Honda bên lề đường. Đang ngóng cổ ngơ ngác, tôi bỗng nghe tiếng gọi từ phía sau:

- Anh Tư, anh Tư.

Tôi quay lại và nhận ra ngay cô gái bán thuốc lẻ. Vì quá đông người chen lấn nên cô đã bê thùng thuốc lá ra một quãng xa. Cô vừa gọi vừa vẫy vẫy tay gọi tôi. Đẩy chiếc xe Honda lại gần, tôi móc túi đưa mấy trăm cho cô mua thuốc lá, giọng run run:

- Chuyện gì vậy cô?

Cô trao cho tôi hai điếu thuốc, nhìn quanh quất rồi hạ thấp giọng như sợ ai nghe lén:

- Quá sức anh Tư ơi. Anh hổng ngờ được cô Ba dám làm như dzậy. Anh biết hôn…

Nghe giọng cô ta chậm rãi kể chuyện, tôi đâm sốt ruột:

- Sao?

- Cô Ba tự tử, anh thấy ghê hôn? Em hổng ngờ cổ gan cùng mình dzậy đó.

Tôi đứng sững người, mắt nhìn cô ta không chớp:

- Sao cô biết?

- Dzậy mới hay chớ. Mà sao lần trước em gọi mà anh đi luôn hổng nói gì hết dzậy?

Trời ơi, con nhỏ kể chuyện này bắt sang chuyện kia chắc tôi đứng tim chết quá. Tôi nhỏ nhẹ:

- Tại hôm đó vội, với lại nghe tin cô Ba có chồng làm tôi cũng buồn buồn.

Cô gái nheo mắt hỏi:

- Thế anh là gì với cô Ba dzậy?

- Bí mật, cô kể tiếp chuyện đi rồi lát nữa tôi kể chuyện tôi với cô Ba cho nghe.

Cô chỉ ngón tay vào người tôi:

- Nhớ nghen, hổng bỏ chạy như lần trước nghe. Rồi, anh biết tại sao em biết hôn, thì thắng Cúi công an cho em biết chớ ai. Cái thằng đứng trước cửa nhà kìa. Thường thường em dọn hàng sớm lắm nên sáng nào cũng thấy thằng chả lái xe đi làm, rồi một lúc sau thấy cô Ba đi ra. Mà sáng nay, em hổng thấy thằng chả cũng hổng thấy cô Ba luôn. Khoảng 9 giờ, có đám công an phường gần chục đứa mặt lầm lì bước đến nhà thằng chả. Em thấy có đứa gõ cửa rồi đứa khác dùng xà-beng nạy tung cánh cửa. Cả bọn ập vào nhà. Khoảng nửa tiếng sau em nghe thấy tiếng còi hụ từ đàng xa. Thằng Cúi công an ra mở cửa dẫn mấy người cứu thương vào, họ còn mang theo mấy cái băng ca nữa. Em đứng ngồi hổng yên lo lắng cho cô Ba, hổng biết chuyện gì xảy ra cho cổ? Thấy thằng Cúi là em vẫy tay gọi nó liền. Anh biết hôn, bụng thằng này thẳng ro hà, dzới lại nó theo em tán hoài nên nghe em gọi nó mừng húm chạy sang liền. Em hỏi chuyện thì nó cho biết trong đó có người đàn bà tự tử. Em hỏi sao biết thì nó nói là có để lại lá thư. Em biết ngay là cô Ba. Trời ơi, cổ tự tử làm gì chớ, tức thằng chả nữa thì bỏ chớ tự tử làm gì cho uổng tấm thân. Mà cái tin này mới làm anh giật mình chết giấc. Thằng chả cũng đi luôn rồi. Cô Ba đầu độc thằng chả bằng thuốc rầy. Cái thuốc diệt rầy đó độc lắm, ngửi đã thấy xây xẩm mặt mày rồi chớ đừng nói uống. Lỡ uống vào thì thuốc tiên cũng hổng cứu được…

Tôi ngắt lời:

- Thế cô Ba tự tử thế nào?

- Cũng thuốc rầy luôn. Nghe đâu trộn vào thức ăn nên thằng chả chết từ đêm hôm qua lận. Em thấy tội nghiệp cô Ba quá anh Tư. Người hiền lành dễ thương như cổ mà bạc mệnh quá anh há.

Bây giờ mới thật sự là hết. Tôi thoáng thấy người ta đẩy hai chiếc băng ca phủ khăn trắng toát lên xe. Ôi! Chị Hảo đã ra người thiên cổ. Chị chấp nhận bỏ trần gian này để sum họp với anh Kiệt. Chị hạnh phúc khi gặp lại chồng, còn tôi đứng ở bên này bờ sinh tử thương một kiếp hồng nhan, nuối tiếc vô vàn một người chị mà tình thương và tình yêu trộn lẫn.

Tôi muốn chạy đến vuốt mắt chị nhưng không dám. Tội giết cán bộ không phải chuyện nhỏ trong chế độ đảng trị sắt máu. Nếu tôi nhận là người thân của chị thì chắc chắn tôi và cả gia đình sẽ bị liên luỵ ngay. Tôi đành cắn răng đứng nhìn người ta mang xác chị đi mà chỉ lẩm bẩm mấy chữ vĩnh biệt chị… Tôi mong những lời cuối sẽ theo gió bay lên chốn thinh không gửi đến cho chị, để chị yên vui buớc sang một kiếp luân hồi.

Trời ơi! Buồn làm sao nói hết được. Tôi quay người đẩy xe đi tránh không cho cô gái thấy giọt nước mắt đang lăn trên má. Cũng như lần trước, chạy xe đi quên không chào cô gái, tôi vẫn còn nghe tiếng cô léo nhéo phía sau …anh Tư… anh Tư… còn chuyện anh với cô Ba thì sao?…

Cảnh vật mờ nhoà qua ánh mắt tôi. Thò tay vào túi áo móc điếu thuốc, tay tôi đụng tấm thẻ bài. Cầm trên tay, tôi mân mê nó như một kỷ vật. Nó như cái mắt xích nối liền anh chị Hảo và tôi lại với nhau. Quá khứ chạy vụt về như một cơn lốc, mơ quay trở lại căn gác nhỏ có người thiếu nữ tựa cằm hỏi han, khuôn mặt lung linh những đốm nắng, giọng nói trong veo như tiếng chim hót trên đầu ngọn cây, thấy lại những ngày thân quen nâng niu tình chị em thắm thiết, nôn nao lây nỗi trông chờ chồng về thăm mỗi cuối tuần, chia sẻ nỗi đớn đau khi anh Kiệt hy sinh, và sự chọn lựa cuối cùng của chị Hảo. Ôi, chuyện mười sáu năm kết thúc chỉ trong một ngày. Thật đơn giản. Ông tạo mang vận số từng người ra xếp đặt đùa giỡn, tạo thành kiếp phù sinh. Phóng xe đi mà nước mắt cứ trào ra lăn trên má, tôi nghe lòng thổn thức gọi thầm: chị tha lỗi cho em, chị Hảo ơi, chị Hảo ơi…


Lời cuối:

Tôi có bàn với mẹ tôi đứng ra nhận xác chị Hảo về chôn cất. Mẹ tôi khuyên không nên dây dưa với chính quyền, hơn nữa lại dính tội sát nhân, không ít thì nhiều mình sẽ bị vạ lây. Không khéo cả nhà đi tù vì tội đồng lõa ám sát cán bộ. Suy đi nghĩ lại, mẹ tôi nói nên bán đi một cây vàng, cúng kiến cho hương hồn cô ấy sớm siêu thoát và làm phúc bố thí cho người nghèo. Tôi đồng ý và nghĩ chị Hảo chắc cũng thông cảm chẳng trách tôi. Một năm sau, tôi vượt biên để lại cho gia đình 5 cây vàng có vốn liếng làm ăn. Tôi thật không đành bỏ cha mẹ già và mấy đứa em; mẹ tôi thực tế hơn, khuyên con ở lại đây cũng chẳng giúp ích được nhiều, nay có chút tiền của nên đi để tìm tương lai cho chính con và sau này các em cũng được nhờ; gia đình ở lại cũng còn 5 cây vàng phòng khi túng quẫn, cũng không đến nỗi nào. Thế là tôi ra đi. Ở trại tỵ nạn bên Phi mất gần 4 năm, mãi đến đầu năm 1990 mới nhập cảnh Mỹ. Khi ở Phi, tôi viết hai lá thư hỏi thăm và kể rõ sự tình, gửi cho ông bà cụ anh Kiệt ở Đức và cha mẹ chị Hảo ở Mỹ. Thư gửi đi Đức bị trả lại vì không còn người ở địa chỉ đó nữa. Thế là tôi mất liên lạc. Tấm thẻ bài tôi vẫn luôn luôn giữ bên mình, lời yêu cầu của chị Hảo cứ canh cánh bên lòng. Vậy mà hơn mười năm trôi qua nơi xứ người…

Sở dĩ tôi viết lại câu chuyện thương tâm này vì mới hai tuần trước Tết Tân Tỵ tôi bắt liên lạc được với gia đình anh Kiệt. Bước sang thế kỷ 21, kỹ thuật mạng lưới toàn cầu phát triển tột bực và nhờ một vài người quen biết ở Đức dò la nhắn tin tức, tôi tìm được chỗ ở của hai cụ. Tôi được biết thêm cụ ông đã mất, cụ bà mắt đã mù. Tôi sẽ gửi câu chuyện trên đây như một lời giải thích cho bà cụ anh Kiệt về cuộc đời chị Hảo, kèm theo tấm thẻ bài của người con cả. Tôi cũng an tâm đã làm xong nhiệm vụ với người đã khuất. Cả đời người, tôi may mắn là nhân chứng cho một chuyện tình thương đau nhưng đẹp tuyệt vời. Mỗi năm, tôi đều thắp một nén nhang thương tiếc chị. Cầu mong hương hồn chị siêu thoát ở chốn vĩnh hằng.
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Hạnh Phúc và Đời Sống
Reply #54 - 30. Jan 2007 , 01:36
 
Hạnh Phúc và Đời Sống

Thanh Vân
Người ta thường than cuộc đời là bể khổ và hạnh phúc thật phù du. Cuộc sống quá máy móc và bon chen nhiều khi làm cho chúng ta cảm thấy bỡ ngỡ muộn phiền. Làm sao dung hòa được đời sống tinh thần của người Á Đông với cuộc sống vật chất, vội vàng, nhiều cạm bẫy của người Tây Phương ?
Sống và hưởng thụ trọn vẹn những gì cuộc đời đem lại cho mình phải chăng là mục đích của tất cả mọi người ? Nhưng con người, thật ra, tự nó, đã là một bài toán  quá nhiều phức tạp. Để đi đến Hạnh Phúc trọn vẹn, mình phải hiểu mình trước đã. Theo văn hào Pháp Pascal, con người là "cây sậy biết suy tư" (L’homme est un roseau pensant), mỗi con người là một thế giới riêng biệt, Hạnh Phúc của mỗi người vì thế cũng tùy thuộc theo trình độ, giai cấp và nhu cầu của mỗi cá nhân. Nếu "con người" nói chung là một cậy sậy  nghiêng ngã theo chiều gió thì người phụ nữ nói riêng còn phức tạp, khó hiểu đến đâu ?
Ai trong đời không có những ước mơ thầm kín, nhưng hình như ước mơ nào cũng quá tầm tay với, cái mà người này xem là tầm thường có thể là ước mơ khó đạt  của người khác... Vì vậy, đi tìm Hạnh Phúc trong đời sống vật chất ngày nay phải chăng là cuộc chạy theo ảo ảnh ? Ít ai tự bằng lòng với cái mình đang có, nhất là đối với phụ nữ chúng ta. "Cỏ bên kia núi khi nào cũng xanh hơn". Tâm hồn người phụ nữ tuy mềm yếu nhưng sự đổi thay thì vô chừng vì vậy chúng ta hay cảm thấy bất mãn và mơ ước viễn vông. Ít người cảm thấy mình hạnh phúc hoàn toàn  vì luôn luôn trong lòng vẫn mang nặng một ước mơ chưa thành đạt.
Giám đốc hãng thời trang danh tiếng Christian Dior, Mac Bohan, đã trả lời cuộc phỏng vấn của tuần báo Paris Match trong ngày lể kỹ niệm ba mươi năm thành lập hãng của ông như sau : "Phụ nữ và thời trang khi nào cũng đi đôi với nhau và thời trang là đem đến cho người phụ nữ những cái gì hoàn toàn trái ngược với cái mà họ yêu thích ngày hôm qua" (La mode, c’est offrir aux femmes le contraire de ceux qu’elles ont aimé la veille). Đông hay Tây, tâm hồn người phụ nữ khi nào cũng đầy mâu thuẫn và ưa thích sự đổi thay. Vậy làm sao "đi suốt đường trần" mà tâm hồn thanh thản và trong tim cảm thấy hạnh phúc tràn đầy ?
Trước nhất, chúng ta nên có một cái nhìn lạc quan và một "giấc mộng bình thường" trong tầm tay với. Gặp một chuyện gì không vừa ý hay một sự xui xẻo nhỏ nhoi nào đó, chúng ta đừng nên quan trọng hoá vấn đề và hãy cố tìm ra cái khía cạnh tốt đẹp của nó. Người Pháp có câu "Prendre la vie du bon côté" người mình cũng có câu có ý tương tự như vậy "của đi thay người", cái xui này, cái bực mình này sẽ giúp ta tránh được cái xui khác, cái bực mình khác quan trọng hơn nhiều. Nghĩ được như vậy, tâm hồn ta sẽ trở lại thư thái, nhẹ nhàng hơn. Vì vậy, hạnh phúc ở đời này, phải chăng là bằng lòng với những gì chúng ta đang có, nâng niu và hưởng thụ nó đến tận cùng ?  Nói vậy, không có nghĩa là chúng ta nên áp dụng thuyết "hiện sinh" một cách bừa bãi, mặc dù thuyết đó chẳng có chi xấu xa hay vô luân như chúng ta lầm tưởng. Một số người đã lợi dụng thuyết này, thuyết nọ để sống thác loạn, không có ngày mai, cho rằng mình đang sống theo trào lưu tiến bộ. Thật ra thuyết "hiện sinh" (existentialisme) hay thuyết "hưởng thụ" (épicurisme) đã có từ lâu, épicurisme từ thế kỷ thứ mười sáu với thi hào Ronsard  và những câu thơ bất tử khuyên con người hãy hưởng đi những gì đang có trong tay :
"Cueillons dès aujourd’hui les roses de la vie"

Hoa hồng đang tươi đẹp, các bạn hãy hái đi đừng để đến ngày mai hoa sẽ tàn mất, tuổi trẻ trôi nhanh, hãy sống tràn đầy để khi về già khỏi ngồi nhìn kỹ niệm mà tiếc nuối :
Quand par un soir d’ été
Tu seras seule à méditer
Que ce souvenir te dise tout bas
Ne m’ oublies pas!
Tuổi trẻ không hưởng thụ, ngày về già chỉ còn lại chút kỹ niệm chắt chiu của một thời hoa mộng đã trôi nhanh.
Vậy hưởng thụ là gì ? Hưởng thụ là ý thức, là sống trọn vẹn với cái mình đang nắm giữ trong tay.
Trong cuốn tiểu thuyết "Bonjour Tristesse", Francoise Sagan, người đã cùng Jean Paul Sartre và Simone de Beauvois khơi mào ra thuyết "hiện sinh" đã một thời gây sóng gió, cho ta một khái niệm tổng quát về ý thức hưởng thụ của nàng. Sống là ý thức được sự hiện hữu của chính mình. Chúng ta hãy nghe Cécile, nhân vật nữ chính của "Bonjour Tristesse" diễn tả cái hạnh phúc sống, sự hưởng thụ trọn vẹn  nhưng đơn sơ của nàng : Buổi sáng mùa hè ở miền bể, Cécile thức giấc với tách cà phê nóng hổi và trái cam mát lạnh trong tay. Nàng ngồi đó, nh nắng mặt trời chan hòa trên mặt, trên người, đầu óc nàng còn đặc sệt với giấc ngủ vừa qua. Nàng ngồi đó, tràn đầy hạnh phúc, không suy tư, không mơ ước, nàng nhắm ngụm cà phê bỏng cháy và cắn ngập răng vào quả cam mát lạnh. Cuộc sống trở về tràn đầy, với cái nóng của cà phê  đang trôi dần vào miệng cùng với cái mát lạnh, ngọt ngào của nước cam đang đánh thức mọi khứu giác của nàng. Hai trạng thái tương phản đó đã cho Cécile ý thức được rằng nàng đang sống, đang thực sư hiện hữu  và nàng hạnh phúc vô cùng với cảm nghĩ đó. Cái ý chính của thuyết "hiện sinh" là ở đó. Sống và ý thức được sự sống của mình. "Hiện sinh" không phải là cứ sống bừa bãi, thác loạn, tàn phá đời mình như độ nào có một số người đã sống, để rối trả lời những sự trách móc chê bai bằng cách khoác cho mình bộ vó "trí thức"  hay "triết gia" (philosophe) .Triết lý đem đến cho ta một phương thức sống, để cho ta có thể tìm hiểu được mình rõ ràng hơn. Không có triết thuyết nào xui khiến ta tự tàn phá đời mình hay đời người khác, có chăng chỉ có những người cố tình hiểu sai đi để tự ý làm bậy...
Đời sống của người phụ nữ như đóa hoa, sớm nở tối tàn. Vậy chúng ta phải làm sao kéo dài những ngày tươi đẹp và hưởng trọn vẹn những gì mà thời gian ngắn ngủi đó đem lại cho ta.
Hãy lạc quan, yêu đời và tin đời :
“I believe in angel
Something good in everything I see"…
Đời sống không chỉ là lọc lừa, gian dối mà đời sống còn tràn đầy chuyện thần tiên, ta hãy tin rằng trong mọi sự đề có khía cạnh tốt đẹp của nó. Tâm hồn yên vui, ta sẽ cảm thấy hạnh phúc. Tại sao cứ tự làm khổ mình bằng cách chạy theo ảo ảnh, dằn vặt mình bằng những phù phiếm giả tạo, hay trong cuộc sống vật chất này, bằng những món nợ xa hoa không cần thiết ? Cuộc sống đã quá nhiều rắc rối, hãy giản dị hóa nó bằng cách sống thật với chính mình, hãy nhìn bầu trời xanh cao chan hòa ánh nắng và nhủ lòng đây là một ngày nắng đẹp, đừng tự làm khổ mình bằng những ý tưởng bi quan hay lập dị. Câu văn giản dị trong sáng vẫn làm cho người đọc xúc động hơn những câu tối nghĩa không ngoài mục đích làm cho người đọc thắc mắc và biết đâu họ sẽ cảm phục mình. Các bạn ạ, nước mắt khi nào cũng chảy xuôi và sông khi nào cũng trôi ra biển, tại sao cứ tự cho mình là "con cá lội ngược giòng" để mong được người đời khâm phục ? Ta hãy sống tự nhiên như ta thở và hưởng thụ cái ta đang nắm chắc trong tay. Ta hãy mua sắm những gì mà túi tiền ta cho phép, như vậy ta mới thoải mái hưởng thụ mà khỏi bạc đầu lo chạy tiền trả nợ, ta hãy viết những gì mà ta hiểu để khỏi ngỡ ngàng khi bị người khác yêu cầu giải thích ý nghĩa câu nói của ta. Sống thật, sống lạc quan, sống giản dị, phải chăng đó là chìa khóa của hạnh phúc đúng nghĩa nhất ? Đừng để ước mơ biến thành ảo mộng nếu không là ác mộng !
Cát bụi rồi ta sẽ trở về cát bụi, hãy giản dị hóa cuộc dời  mình để có cuộc sống vô tư, để có những giây phút thần tiên cho riêng mình, để tận hưởng những gì êm đẹp mà đời sống đem lại cho ta mỗi ngày.
Ngày tháng trôi nhanh, ta cũng trôi theo dòng đời, nhưng lòng thanh thản. Hạnh phúc là ở đó. Yves Montand, một ngôi sao màn bạc nổi tiếng của nước Pháp nay đã lìa trần nhưng khi ông còn sống và  lớn tuổi ông có tâm sự với báo chí là đời sống của ông là một chuỗi ngày dài hạnh phúc mặc dù ông đã trải qua rất nhiều sóng gió trong đời.
Ông đã dễ dàng vượt qua được tất cả vì ông nói "Ta không bao giờ làm lại cuộc đời mà ta chỉ tiếp tục sống cuộc đời đó..." (On ne refait jamais sa vie, on la continue ...). Ông không có gì ân hận cho những ngày và những việc đã qua trong đời ông nên tương lai vẫn là cuộc sống đang tiếp diễn, ông không bao giờ nghĩ rằng sẽ làm lại cuộc đời vì cuộc đời đã qua của ông không làm cho ông ân hận, tiếc nuối nên ông chỉ tiếp tục cuộc sống mà thôi. Ông không có gì để oán trách dĩ vãng và cũng không có gì để lo sợ cho tương lai. Ông sống với "mộng ước trong tầm tay" nên ông hưởng thụ đời sống hiện tại thật an bình, êm ả.
Vậy thì bạn cũng sống thật hạnh phúc đi, bằng cách hái ngay hoa hồng của đời sống đang hé nở, bạn hãy cắn ngập răng vào quả cam mát lạnh ngọt ngào đang nằm trong tay bạn, bạn hảy nhìn bầu trời ngập nắng và cám ơn đời đã còn cho bạn cặp mắt nguyên vẹn... Đó bạn đang hưởng thụ, đang tràn đầy hạnh phúc, cái hạnh phúc tuyệt vời và tuyệt đỉnh của một đời sống giản dị bình thường.
"I have a dream
A song to sing
To help me cope
With anything…"
Hãy sống tự tin và lạc quan, hãy lựa cho mình một giấc mơ, một bài hát, bạn sẽ dể dàng đối phó với mọi bất trắc mà tương lai có thể dành cho bạn.
Đời sống ngắn ngủi thật, nhưng nếu biết cách hưởng thụ, hạnh phúc của ta cũng đã tràn đầy rồi, hạnh phúc sẽ không còn là "phù du" mà sẽ trở thành vĩnh cửu vì ta đã làm ra cái hạnh phúc đó. Lê văn Trương đã viết trong "Cô gái mới" như sau :
"Hạnh phúc ở lòng ta, chẳng ai có thể gây cho ta hạnh phúc được. Người ngoài chỉ có thể giúp ta làm nẩy nở cái hạnh phúc thêm ra mà thôi. Còn ta, ta cũng chẳng dại gì đem đặt hạnh phúc vào tay ai  vì ai cũng không bằng ta..."
Hãy tin vào lòng mình và ngày mai sẽ đến với bạn đẹp hơn ngày hôm nay thật nhiều. Hạnh Phúc đâu còn là "bóng mây" nếu ta biết cách nắm nó, phải không bạn ?
Thanh Vân
Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
LAM SON
Gold Member
*****
Offline


CHANG TRAI TRE VON DONG
HAO KIẺT ,XEP BUT NGHIEN

Posts: 574
Gender: male
Ngũ Thập Tri Thiên Mệnh
Reply #55 - 04. Feb 2007 , 20:35
 
Ngũ Thập Tri Thiên Mệnh
Bắc Giang

Tôi định viết bài này chín năm về trước lúc mới ... năm mươi tuổi, nhưng viết được vài dòng lại thôi, thiển nghĩ mình chưa đủ kinh nghiệm, đến nay thấm thoát đã chín mùa xuân qua đi, tóc đã bắt đầu muối nhiều hơn tiêu, răng có cái bắt đầu lung lay:

Mái tóc chòm đen, chòm lốm đốm
Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay

thỉnh thoảng vào những ngày trở trời, chân đã bắt đầu đi khập khiễng, cử động, ăn uống đã chậm lại. Nếu tôi không vội vàng viết về tuổi năm mươi ngay bây giờ sợ vài tháng nữa bước vào tuổi sáu mươi mà viết về tuổi năm mươi e rằng không còn ... trung thực nữa! Sự thật, lúc đó, ngày năm mươi tuổi tôi không để ý lắm về tuổi tác, cho đến khi có một đứa cháu tới thăm la lớn lên:

- Đầu chú có sợi tóc bạc, để cháu nhổ cho!

Tôi ngượng ngùng ra trước gương thì thấy không phải chỉ một sợi mà đã năm mười sợi nằm chình ình trên mái tóc mà tôi thường chăm sóc rất kỹ, thôi thì đủ cả Head and Shoulder, VO 5, Clairol. Vợ tôi mỉm cười nhìn cô cháu nhỏ:

- Chú mày già rồi!

Tôi không biết ... già thật chưa, thế nào là già, là mới bắt đầu già, là chớm già, là tuổi sồn sồn, những thắc mắc cứ ẩn hiện trong đầu làm tôi hoang mang không biết đâu là ranh giới của tuổi già. Ngày xưa Tổng Thống Ngô đình Diệm mới năm mươi tuổi đã được người ta kính trọng gọi bằng ... cụ, tôi thì chưa ai dám gọi bằng cụ như cụ Diệm nhưng ra đường đã có mấy cháu nhỏ gọi bằng ông, bằng bác rất nhiều, thậm chí có cô hàng xóm khi dỗ con nhỏ đang khóc đã a miệng:

- Nín đi không ông ngoại đánh đó con!

Giật thót mình nhìn quanh quẩn chỉ có mình tôi ngồi đó, tôi cũng giả vờ vỗ về đứa nhỏ:

- Nín đi, để ngoại ru con ngủ!

Về nhà soi lại gương, hôm nay không còn nhận ra tôi là ai nữa, người đứng trong gương thực sự không phải là tôi, tôi làm sao đã có những nếp nhăn trên mặt như vậy, đưa tay vuốt lại mái tóc đã thấy bắt đầu khó khăn:

Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ?
Răng long ngày trước vẫn còn đây

chân tay lọng cọng không còn nhanh nhẹn, thoăn thoắt như xưa, bước vào phòng tắm động tác lúc thừa, lúc thiếu một cách vụng về, cầm tờ báo lên đọc càng ngày càng phải đưa ra xa hơn, chiếc kính cận chắc ngày mai phải đi đổi thành kính ... lão! Đeo kính lão lên mà vẫn nghĩ mình chưa già cho đến một vài tháng sau phải choàng vào một sợi dây toòng teng đeo nó trên ngực mới thấy có lẽ mình đã già thật rồi! Hôm nọ gặp một người bạn trông quen lắm nhưng không làm sao nhớ tên được, ông ta đến gần đưa tay ra bắt:

- Sao, dạo này khỏe không?

Tôi ầm ừ đáp lấy lệ: - Khỏe!

Nói thì nói vậy thôi chứ sự thực cái bắt tay đã lỏng lắm, không còn siết chặt như xưa được nữa, về đến nhà chợt nhớ ra ông ta là chú vợ, hú hồn, may mà vợ tôi không biết, không thì ... nguy to:

- Người gì bất lịch sự!

Có nhiều lần lái xe ra khỏi nhà chưa được mười phút chợt nhớ ra không biết mình bấm cái remote đóng cửa garage chưa, lại phải quay về xem lại cho chắc ăn cẩn tắc vô áy náy mà! Sáng chủ nhật đi chơi, vợ dúi cho hai chục uống cafe với bạn bè, tiền nhớ đã cẩn thận cho vào túi quần mà sao tìm mãi không ra, không lẽ nào ..! Đầu óc lúc nào cũng như trên mây, cái đáng nhớ thì không nhớ, cái không cần nhớ thì sao cứ thuộc vanh vách.

Gặp bạn bè trong những lúc rảnh rỗi tán vài ba câu chuyện gẫu rồi cuối cùng cũng chỉ ngồi ôn lại chuyện ngày xưa, luyến tiếc cái ... dĩ vãng, thuở vàng son, một thời xuân sắc! Ngồi mãi cũng chán, đứng dậy đã thấy khó khăn, chân tay ê ẩm, bụng bắt đầu ... phệ ra, tóc thưa dần, một vài ông bạn cố che giấu cái đầu hói bằng chiếc mũ be-rê trông duyên dáng tệ!

Trong túi lúc nào cũng sẵn có một lọ thuốc, không phải chỉ có một thứ mà xanh, đỏ, trắng, tím, vàng đủ thứ hầm bà lằng: huyết áp cao, tiểu đường, hen suyễn, đau nhức, mỗi sáng ngồi lựa từng viên uống mà phát.. mệt! Tai nghe đã kém đi nhiều, tưởng ai cũng... già như mình nên phải nói to hơn một tí, đôi khi thành ra cộc cằn, thô lỗ. Người khác nói thì cứ phải lắng tai nghe, câu được câu không nên trả lời chẳng ra ngô ra khoai gì cả, thỉnh thoảng phải hỏi lại hả hả đưa đến tình trạng ông nói gà, bà nói vịt, chán mớ đời!

Ngày xưa năm mươi tuổi đã được hàng xóm láng giềng trọng vọng, đi ăn cỗ được xếp ngồi chiếu trên, mọi người chào hỏi một cách lễ phép, một điều Thưa Cụ hai điều Lạy Cụ ạ! nghe mát tới tận đáy lòng. Ngày nay năm mươi tuổi vẫn phải ... cầy thục mạng, có nhiều cụ vẫn hiên ngang cầy hai jobs, cầy từ sáng tới tối mịt chỉ hy vọng con vợ ở nhà nó có đủ tiền đi ... shopping đừng đưa ra tòa ly dị!

Chỉ tội nghiệp nhiều cụ ban ngày làm đầu tắt mặt tối, thở không ra khói, ban đêm về nhà vẫn phải làm tròn bổn phận ... công dân để chứng tỏ ta đây uy lực vẫn còn bao trùm thiên hạ, tóm thâu lục quốc! Người xưa có câu Ngũ thập tri thiên mệnh, năm ba mươi tuổi tôi thấy... trật lất! Chả có thiên mệnh, địa mệnh gì hết, tất cả do ở mình, mình muốn và có cố gắng là thế nào cũng đạt được, không lẽ cùng sinh ra là người, người khác làm được tại sao tôi làm không được, tôi có què quặt, dốt nát gì cho cam.

Trải qua những năm bốn mươi, rồi đến năm mươi, đã hơn nửa đời người, nhìn lại thấy ... đời đã xanh rêu, nhiều giấc mơ, ước vọng thuở xa xưa đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được, có những may mắn đến một cách kỳ diệu như một phép lạ, có những lần thoát nạn trong gang tấc tưởng như có phép mầu nhiệm, có những thất bại ê chề, những cú ... trời giáng, rồi đến những tai nạn, bệnh hoạn rình rập của tuổi bốn chín, năm ba (bốn chín vừa qua, năm ba lại đến) làm tôi tỉnh người mới thấy các cụ ta nói thật đúng: tất cả do mệnh trời! Phải biết thuận theo số trời. Tôi có người bạn là một bác sĩ về tim rất giỏi, còn vài tháng nữa bước vào đại hạn bốn chín. Bỗng một hôm tôi nhận được tin ông bạn thân của tôi đã qua đời vì ... heart attack! Thế mới biết trời kêu ai nấy... dạ!

Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định!  Thấm thoát thế mà đã sống được hơn năm mươi năm:

Nhớ từ năm trước hãy thơ ngây
Phút chốc mà già đã tới ngay

Cái già nó xồng xộc đến lúc nào ta không biết, bạn bè thỉnh thoảng có kẻ hối hả giã từ ra đi không hẹn ngày trở lại: Bạn già lớp trước nay còn mấy?

Cứ như cụ Nguyễn Khuyến mà đúng, khi tròn năm nhăm tuổi liền tụ tập hàng xóm láng giềng, bạn bè tổ chức ... party ăn mừng được lên lão:

Ông chẳng hay ông tuổi đã già
Năm nhăm ông cũng lão đây mà
Anh em hàng xóm xin mời cả
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là..

Ngày nay nhiều cụ gân hơn nhất định đợi đến năm bẩy mươi mới ăn mừng thượng thọ, nhưng thật là hiếm, thất thập cổ lai hy mày

Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa
Thử xem trời mãi thế này ư!

Trong cách xưng hô, tôi thấy tiếng Mỹ thế mà hay cứ You and Me mà tiện, vừa giản dị vừa dễ nói vừa không bất lịch sự mà cũng chẳng lôi thôi như tiếng Việt ta cứ phải gọi bằng chú, bằng bác, bằng ông, bằng bà, bằng mợ, bằng thím, bằng cụ cho lôi thôi, kiểu cách, nhỡ gọi lầm sẽ bị chê bai là... vô giáo dục! Tại sao không bằng ... anh, bằng ... em như ngày xưa còn bé cho tiện bề sổ sách! Chẳng mất lòng ai, mà ai cũng vui lòng! Đấy như nữ sĩ Hồ Xuân Hương gần bốn mươi tuổi chẳng ke gì ... thiên mệnh, xưng em ngọt xớt có sao đâu:

Thân em thì trắng phận em tròn
Bẩy nổi ba chìm với nước non

Hoặc lúc nào hứng lên vẫn có quyền xưng bằng .. chị:

Này này chị bảo cho mà biết
Chỗ ấy hang hùm chớ mó tay!

Thử tưởng tượng đổi hai chữ em và chị trong bốn câu thơ trên thành bà hay cụ, hay bằng mợ bằng thím thì chán biết mấy!

Bắc Giang

Back to top
 

HẢY ĐẾN CHIA NHAU NGHÈO KHÓ , QUÊN LO TƯƠNG LAI MỊT MỜ,
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3541
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #56 - 15. Feb 2007 , 18:49
 
Đêm xuân trong trại tù Cao Lãnh


...


Trại tù Cao Lãnh, chiều cuối năm, buồn hiu hắt. Bữa cơm chiều, ngoài phần rau luộc và nước chấm như thường lệ, tù nhân được lãnh thêm phần thịt kho để mừng xuân về. Nói “thịt kho” cho xôm, thực ra, mỗi đứa chỉ thêm vài miếng ba rọi mỏng lét, dài hơn lóng tay út một chút.


Cơm vừa phát xong, đã hết ngay. Thau sạch loáng, chẳng còn một hột sót lại. Thế mà, có đứa vẫn cầm muỗng đứng ngẩn ngơ, tiếc rẻ phần cơm sao quá ít, đã vội vã trôi nhanh vào bao tử.

Những miếng ba rọi tội nghiệp, than ôi, chỉ làm bụng thêm cồn cào. Chỉ làm miệng tôi thêm háo hức, thèm thuồng đủ thứ. Tôi nhớ đến góc phố Sài Gòn. Những cái bàn bu quanh xe mì lưu động. Tô nước lèo béo ngậy, mỡ nổi màng màng. Hương thơm bốc lên từ sợi mì, từ miếng xí quách đầy nạc. Tôi nhớ đến dĩa cơm bình dân. Dĩa cơm ở Cường Để, thời sinh viên nghèo nàn. Dĩa cơm nơi quân trường gian nan. Dĩa cơm tận chiến tuyến lửa đạn. Những dĩa cơm bình dân, nhưng ê hề cá thịt. Ăn một lần đã thấy no. Ăn một hơi đã thấy đủ.

Chỉ có thằng Hữu, đặc biệt. Phần ăn của hắn còn nguyên, chưa vơi đi chút nào. Tôi đếm tất cả là sáu miếng thịt ba rọi trắng phau phau, đang nổi lều bều trong chén nước kho. Chu choa! miếng thịt tràn trề hương vị, đánh thức vị giác và khứu giác của tôi một cách mãnh liệt.
- Bộ...dư hả? Cho tau đi...
Thằng Hữu liếc tôi. Con mắt lấp lánh nắng chiều, tưởng như có ngọn lửa nào đó, sắp sửa bùng lên.
- Mẹ! Ở đây, làm sao...dư? Có cách nào...dư?
Tôi lắp bắp, chỉ vào phần ăn của hắn, nói ngọng nghịu :
- Nó...nó...còn nguyên? Bộ ...bịnh hả?
- Mẹ, bộ bịnh...rồi...rồi...nhịn đói hử? Đồ...đồ...vô duyên!
Bị chửi, nhưng tôi vẫn còn tiếc rẻ phần cơm. Tiếc rẻ miếng ba rọi nằm khêu gợi trong chén nước kho sóng sánh mỡ.
- Sao...sao...nó còn nguyên? Còn nguyên?
Tôi nuốt nước bọt, luống cuống hỏi. Lúc này, thằng Hữu mới há miệng cười. Hắn kéo tôi vào một góc, thì thầm trong tai :
- Tau để dành. Đêm nay, đón giao thừa với người đẹp.
Nghe hắn nói, tai tôi bắt đầu lùng bùng. Có luồng điện nào đó, chạy ngược lên đầu, rồi lan ra, tê rần các giác quan.
- Mày...mày nói sao? Người đẹp? Mẹ, dóc cha nội! Người đẹp nào ở đây?

Thằng Hữu không trả lời. Hắn nắm tay tôi lôi một hơi, ra cây trứng cá cuối trại. Khoảng sân rộng thênh thang chạy dài. Tới đấy, nó hẹp lại, chỉ còn lối mòn nhỏ, dẫn đến gốc trứng cá. Xung quanh, lau sậy mọc đầy. Vòng kẽm gai cuối cùng của trại tù, nằm hoang vu, ở đó.
Thằng Hữu ngồi bệt dưới gốc cây. Hắn ngả người ra sau. Hai khuỷu tay chống xuống cỏ. Rồi lơ đãng nhìn lên vòm lá. Tôi nằm kế bên, hồi họp chờ lời nói của thằng Hữu. Những áng mây trôi trên trời, xuyên qua kẽ lá, như những tà áo dài trắng...đứt đoạn.
- Mày còn nhớ đêm Giáng Sinh, cách đây vài tháng không?
- Nhớ chứ! Đêm đó, nửa khuya, mày biến đâu mất dạng? Tau dậy đi đái, thấy không có mày, tìm, muốn khùng.
- Đêm đó, đêm đầu tiên tau gặp người đẹp.

Tôi há mồm, ngạc nhiên. Người đẹp? Lại người đẹp? Trại tù Cao Lãnh là nơi bọn việt cộng nhốt sĩ quan chế độ cũ. Toàn một đám đực rựa, từ thiếu úy đến trung tá. Ở đây, chúng bắt bọn tôi nhai đi nhai lại những bài chính trị nghịch ngợm, để chờ thời gian thanh lọc, đưa đi lao động khổ sai trong các trại tù xa xôi ngoài Bắc. Lũ việt cộng cũng vậy, từ quản giáo đến vệ binh, chỉ gồm một bầy đàn ông chán đời, thiếu vắng hơi hướm đàn bà lâu ngày.

Thằng Hữu mơ màng nhìn ra bờ sông. Con sông Cao Lãnh mênh mông. Giờ này, nước lớn, sóng đập trắng xóa bờ. Cái lô cốt cuối cùng, cách chúng tôi rất xa. Mãi tận đằng kia của gờ đất. Xung quanh đây, cỏ dại mọc đầy. Lau sậy chằng chịt như mạng nhện. Vòm lá của cây trứng cá rậm rạp, phủ kín một vùng rộng lớn.
- Đêm đó, đêm Giáng Sinh. Tau trằn trọc mãi, không ngủ được. Nửa khuya, bỗng nghe tiếng gọi trong trẻo : “Anh ơi! Thức dậy đi! Ra ngoài cây trứng cá. Em chờ anh ở đấy!”. Tau lồm cồm ngồi lên. Bóng đen dày đặc.Từ đầu phòng đến cuối phòng, chỉ nghe tiếng ngáy nổi lên khắp nơi. Phía cửa vào, ánh sáng hiu hắt của ngọn đèn trên cao, soi rõ dáng dấp của một thiếu nữ, đang nhìn tau mỉm cười. Nụ cười quyến rũ thật! Mới thấy, tau bị lôi cuốn ngay, quay quắt ngay!
Tôi chộp ngực thằng Hữu, kéo hắn ngồi lên, thôi thúc :
- Em...em đẹp hông? Em mặc áo gì? Đêm tối, làm sao mày mò ra cây trứng cá?
- Em đẹp một cách lộng lẫy. Em mặc áo dài trắng, tóc xõa ngang lưng. Hình như, tà áo dài trắng, thân thể em trắng...đã phát ra một thứ ánh sáng huyền diệu. Theo đó, mà đi. Theo đó, tau đã ra được cây trứng cá.
Tôi tưởng tượng đến dung nhan nàng, như lời mô tả của thằng Hữu. Tôi chợt nhớ đến câu thơ của Nguyên Sa. Da em trắng anh không cần ánh sáng. Đúng rồi, sắc đẹp của nàng là thứ ánh sáng huyền diệu, dẫn thằng Hữu đến thiên đường...
- Rồi...rồi sao nữa?
- Đây này! Chỗ này đây!
Thằng Hữu vỗ nhẹ xuống nhánh cây. Đó là một nhánh thấp, là đà gần mặt đất. Người ta có thể ngồi lên đó nghỉ ngơi, lưng tựa thoải mái vào thân cây chính.
- Chỗ này, tau và nàng ngồi nói chuyện với nhau cho tới sáng. Mày biết không? Gần nàng, tau mới khám phá ra một điều. Thân thể nàng luôn tiết ra một mùi hương cực kỳ thơm tho, khiến tau cứ ngây ngất mãi. Không phải là mùi hương riêng biệt của hoa hồng, hoa cúc, hoa lan...Hay bất cứ một thứ hoa nào đâu! Cũng không phải mùi hương của mỹ phẩm, của son phấn, của vải vóc, lụa là...Đó là một mùi hương kỳ diệu, dường như là tổng hợp của hàng triệu mùi hương tuyệt vời nhất trên trái đất này. Hay đó là mùi hương của thế giới khác, của hành tinh khác, của miền miên viễn nào đó mang lại...Tau, cho tới bây giờ, thực sự...chưa hiểu ra?

Tôi ngó quanh quất cây trứng cá. Cố gắng sục sạo, tìm kiếm hình bóng giai nhân của thằng Hữu. Câu chuyện có vẻ kỳ bí quá! Có vẻ hoang tưởng quá! Chợt, tôi rùng mình, nổi da gà khắp người.
- Thằng quỷ! Mày có thấy mặt em rõ ràng không? Chân em có chạm đất không? Và em...em đã nói chi với mày?
Thằng Hữu tươi cười. Hắn nhắm mắt lại, thả hồn vào thế giới tình yêu đầy mộng đẹp.
- Hình ảnh em đã nằm trong đầu tau, trong trái tim tau đây này! Làm sao xóa nhòa được? Tay em đã nắm chặt tay tau. Chân em đã quyện vào chân tau. Và cứ thế, hai đứa tâm tình với nhau, tới sáng.
Niềm hân hoan tột độ của thằng Hữu đã đánh thắng nỗi hoài nghi nhỏ nhen của tôi. Tôi cũng muốn nhìn người đẹp lắm chứ? Muốn nghe nàng nói đôi lời, dù đôi lời ngắn ngủi, cũng đủ an ủi thằng tù lỡ vận thất thời mới có hai mươi lăm tuổi đời. Đêm nay, giao thừa, trong tù. Tại sao còn phải đo lường dông dài? Tại sao không cùng thằng Hữu, không cùng người đẹp, ngồi đón xuân với nhau dưới gốc trứng cá, ngoài trời – thú vị biết bao!
- Ơ...Hữu! Cho...cho tau cùng đón giao thừa đêm nay với mày nhen?
Hữu suy nghĩ giây lát :
- Ừ. Nhưng... chuyện này...bí mật. Không nói cho ai biết đấy!
Nói xong, thằng Hữu nhảy chồm lên như ngựa. Hắn phóng qua mặt tôi, chạy về hướng sân trại. Tôi hối hả, gọi theo :
- Này, khoan đã...Mày cho tau biết người đẹp tên gì? Tên gì?
Có tiếng Hữu oang oang trong gió :
- Thục Huyền. Trần thị Thục Huyền.


Đêm yên tĩnh. Chỉ có tiếng côn trùng kêu buồn bã ngoài đám rẫy. Chỉ có tiếng gió lộng chơi vơi bên cửa. Gió lùa qua lán tù, thổi phần phật những cái mùng nhà binh cũ mèm của các tên tù binh vô phước.. Hữu và tôi ngồi lặng lẽ trong bóng tối. Chúng tôi lắng tai nghe từng tiếng động. Chúng tôi phân biệt từng âm thanh. Nào tiếng muỗi vo ve quanh góc mùng. Nào tiếng ngáy ồ ồ của các bạn tù chung đội. Nào tiếng ễnh ương kêu quàng quạc ngoài đồng. Chúng tôi chờ đón tiếng pháo giao thừa. Hơn mười hai giờ rồi, chẳng nghe một tràng pháo nào hết. Cũng chẳng nghe tiếng trống chùa hay tiếng chuông nhà thờ dồn dập vọng lại, báo hiệu năm mới đã tới, mùa xuân đã trở về. Chế độ cộng sản ác độc thật! Cho đến mùa xuân tràn trề nhựa sống, cũng phải rón rén, sợ hãi – không dám lộ liễu, hiện diện.

Gần một giờ khuya, người đẹp mới xuất hiện. Tôi thấy rõ ràng một thiếu nữ trẻ trung, thướt tha trong tà áo dài trắng, nhẹ nhàng từ cổng rào lán tù tiến vào. Thằng Hữu bấm tay tôi. Hai đứa há hốc mồm, nhìn ra khung cửa. Gió làm ánh đèn chao đi chao lại trên đầu lán. Ánh sáng vàng vọt hắt xuống khuôn mặt nàng. Đó là khuôn mặt giai nhân tuyệt sắc, trắng trẻo, dễ thương – khiến tôi mới gặp lần đầu, đã chợt ngẩn ngơ, mê mẩn. Đợi nàng vào sân, thằng Hữu kéo tay tôi, chạy ra. Quả thật, tà áo dài trắng như tỏa ra thứ ánh sáng huyền diệu, dẫn đường chúng tôi tới. Nàng đi trước, chúng tôi theo sau. Cứ thế, cả bọn tiếp tục đếm bước, trong bóng tối mênh mông, để đến cây trứng cá ở vòng kẽm gai cuối cùng.

Đến điểm hẹn, nàng mới ngoảnh mặt ra sau, cười với chúng tôi. Ánh sáng mỏng manh, nhưng huyền diệu, được toát từ tà áo dài, đủ để cho tôi thấy khuôn mặt xinh đẹp với nụ cười tươi tắn của nàng – một nụ cười tôi chưa từng thấy trên đôi môi của thiếu nữ xinh đẹp nào, trên cõi trần gian này.
Nàng khéo léo ngồi trên nhánh cây thấp nhất, rồi bật diêm thắp nến. Một mùi hương thơm cực kỳ, thoang thoáng quanh đây. Đúng như lời thằng Hữu nói, thân thể nàng tiết ra một mùi hương kỳ diệu – có thể là mùi hương tổng hợp của hàng triệu mùi hương tuyệt vời nhất trên trái đất này.
- Bạn anh đấy ư? Sao chưa giới thiệu?
Nàng vừa bày thức ăn, đặt các thứ lên tấm nylon, vừa nói với thằng Hữu.
- Ơ, bạn anh. Tên Ân. Ân muốn cùng vui giao thừa với chúng mình, đêm nay.

Thằng Hữu choàng tay qua vai, kéo tôi ngồi xuống, cạnh nàng. Tôi run run trong vòng tay hắn. Không phải vì thời tiết lạnh lẽo của đêm đầu năm. Chính là vì sắc đẹp não nùng của nàng – một sắc đẹp – chắc chắn, không một hoa hậu thế giới nào có thể so sánh được.
Tôi muốn chết điếng, bởi câu nói êm ái vừa phát :
- Anh Ân tự nhiên nhé! Đêm nay, chúng ta ăn Tết với nhau nghen!

Thằng Hữu cũng bày tộ cơm và chén thịt kho ra. Thức ăn của hắn họp cùng với bánh tét, chả lụa, củ kiệu, tôm khô, mứt...của Thục Huyền đem đến – đã thành một bữa ăn thịnh soạn, đáng ghi nhớ nhất trong đời chúng tôi. Không có rượu mà dường như say. Tôi chếnh choáng trước sắc đẹp Thục Huyền, trước lời nói dịu êm, ngọt ngào như mật ong. Và thế đấy, chúng tôi tiếp tục cuộc vui cho tới rạng sáng.

...


Vài tuần sau, theo lệnh cán bộ trại tù, đội tôi phải thực hiện một cái ao để nuôi cá. Chu vi ao rất rộng. Nó bắt đầu từ khoảng sân đội chạy qua đám rẫy, chạy thẳng đến vòng kẽm gai cuối cùng. Thế là, cây trứng cá bị hạ xuống. Đội tôi bứng luôn cả gốc cây, cho cái ao được hoàn thành một cách trọn vẹn.
Thời gian này, thằng Hữu và tôi buồn dào dạt. Đêm nào, chúng tôi cũng ngồi lặng lẽ, hút thuốc cho tới khuya. Chúng tôi không còn tranh nhau từng hột cơm, từng cọng rau nữa. Cả hai đều dành thì giờ để nghĩ tới Thục Huyền, như một thứ tương tư cuồng nhiệt. Tôi chợt nhớ đến hai câu thơ của ông thi sĩ Trung Hoa nào đó :
“Thiên nhai hải giác hữu cùng thì
Duy chỉ tương tư vô tận xứ ”.
( Tạm dịch : Chân trời góc bể có thể đi tới được
Duy chỉ có tương tư là vô bến bờ.)

Trong khi đào ao, tới khu vực cây trứng cá, đội tôi gặp phải một cổ quan tài nằm sâu trong lòng đất. Cả đội phải họp lại nhau, bàn bạc. Cuối cùng, chúng tôi đành bốc hài cốt cho vào nón sắt, rồi cẩn thận hàn kín, đem chôn nơi khác.

Từ đó, thằng Hữu và tôi không còn gặp lại Thục Huyền nữa. Chúng tôi có kể chuyện này đến các bạn tù . Họ đều lắc đầu cười cợt, cho là chuyện hoang tưởng, hoang đường.
Riêng thằng Hữu, trước khi chia tay với tôi đi lao động nơi khác, hắn có tâm sự như sau :
- Tau mang tâm trạng chán đời khi vào tù, vì nước mất nhà tan. Cha mẹ, vợ con tau...đã chết trên chiếc tàu hải quân từ Đà Nẵng về Sài Gòn, trong những ngày cuối cùng của tháng tư oan nghiệt. Đêm Giáng Sinh năm nọ, tau đả chuẩn bị sẵn một sợi dây nylon để tự vận. Chờ khi cả đội chìm vào giấc ngủ, tau tròng sợi dây vào cổ. Lúc đó, Thục Huyền bỗng dưng xuất hiện. Tiếng gọi dịu dàng và sắc đẹp tuyệt diệu của nàng, làm tau dừng tay, bỏ ý định tự tử, rồi riu ríu theo nàng ra tận cây trứng cá. Từ đó, tình yêu đã làm tau yêu đời trở lại, sống đến ngày hôm nay.
Và tôi, mùa xuân năm ấy là một mùa xuân đặc biệt nhất trong đời.


San Diego, 10/12/2004
PHẠM HỒNG ÂN




Back to top
 
 
IP Logged
 
DongVan
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 270
Re: Truyện ngắn
Reply #57 - 27. Feb 2007 , 08:12
 
Tình nghĩa vợ chồng


Nguyên Nhung -


Thế là ông ấy về, con bạn đến báo tin để chúng tôi cùng ra phi trường đón ông chú nó từ Mỹ về thăm nhà. Tôi cũng không ngạc nhiên lắm trước tin này, vì trong lá thư viết cho tôi ông có nói cho biết như thế. Qua sự giới thiệu của Mai, bạn của tôi và cũng là cháu của ông, ông về Việt Nam kỳ này là để tìm ý trung nhân.

Trong hình, ông có vẻ tráng kiện và chưa già lắm so với tuổi, đàn ông mới sáu mươi đâu đã gọi là già, lại được sống ở điều kiện tốt, nom ông còn phong độ lắm. Đúng là “người tốt vì lụa, lúa tốt vì phân”, ba tôi cũng chỉ mới sáu mươi mà mắt mũi nom đã hom hem lắm rồi.

Cả nhà bạn tôi nôn nao chờ, ai cũng ăn mặc như ngày hội. Tôi đơn giản trong chiếc áo lụa màu hoàng yến, mớ tóc mây đen nhánh thả xuống bờ vai thon, một chút son phấn cũng làm tôi rực rỡ hẳn lên. Tôi biết ông thích như thế, khi muốn tìm một người con gái Việt Nam thuần túy Á Đông.

Khi chuyến bay của ông sắp đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, tự nhiên tôi hồi hộp quá. Nào có gì đâu mà sợ, nhưng tôi ngại mình sẽ có những cử chỉ quê mùa, luộm thuộm trước mắt ông, một người Việt sống ở Mỹ đã lâu, chắc hẳn phong cách khác xa với kẻ ở quê nhà. Cả nhà Mai ùa tới đón ông, tôi khép nép đứng đằng sau chờ đợi. Sau cái ôm hôn và siết tay từng người trong gia đình, Mai đẩy ông tới trước mặt tôi. Thật lịch sự, ông nghiêng đầu chào, nụ cười tươi, đôi mắt kính gọng vàng lấp lánh, ông ôm vai tôi, vỗ nhẹ, không có vẻ suồng sã mà rất thân tình, như đã quen nhau từ kiếp trước.

Cả nhà tíu tít đẩy những chiếc va ly nặng trĩu, những thùng giấy đầy quà ông mua về làm quà cho thân nhân, trong ấy là những chiếc quần “bò“ chính gốc dân chăn bò miền Texas, áo sơ-mi, váy dài váy ngắn đủ kiểu, (sau này tôi mới biết toàn những quần áo cũ ông thu lượm được của các con), tất cả đều toát ra một mùi thơm dễ chịu, cả người ông cũng thế. Những ngày sau đó là ngày vui của gia đình Mai, có tôi là người ngoài độc nhất tham dự. Những bữa ăn linh đình trong các nhà hàng lớn ở Sài Gòn, những chuyến du ngoạn Đà Lạt, Vũng Tàu, Nha Trang, lần đầu tiên trong đời, tôi được đi xa thoải mái với những tiện nghi cho thành phần giàu có. Mọi người tranh nhau vây lấy ông, bao nhiêu câu hỏi tíu tít về cuộc sống ở nước ngoài, những con mắt thèm thuồng nhìn sự no đủ của ông toát ra từ nước da hồng hào, bộ quần áo mặc trên người cho đến đôi giày đi dưới chân, cái gì cũng lịch sự, thơm tho, sạch sẽ.

Sau những lúc bận rộn với gia đình, ông dành thì giờ để gặp tôi, khi thì có Mai, lúc thì không, ai cũng phải ngầm hiểu lý do ông về thăm quê nhà lần này là để tìm người “nâng khăn sửa ví”. Trong đám người nhà của Mai, gần như ai cũng xem tôi là một thành viên trong gia đình, tuy vẫn ngấm ngầm đâu đó sự ganh tỵ khi thấy ông đặc biệt chú ý đến tôi. Tôi vẫn xưng hô chú cháu, cho đến khi ông đề cập thẳng đến mục đích của chuyến về, rồi xưng anh với tôi, thì vấn đề đã thực sự có vẻ nghiêm trọng.

Hai mươi hai tuổi, đã đôi lần hẹn hò với bạn trai đồng trang lứa, tôi có xôn xao suy nghĩ đến hình ảnh người đàn ông của đời mình, nhưng chưa hề nghĩ đến chuyện lấy chồng, vì đám trẻ chúng tôi bây giờ, sau bao khó khăn của cuộc sống, chúng tôi không quá ngây thơ để hấp tấp về làm vợ một anh chàng với viễn ảnh hai quả tim vàng, một lu nước lạnh. Đột ngột quá, dù tôi biết thế nào cũng có chuyện đó, nhưng ông và tôi gặp nhau vỏn vẹn chỉ có hai tuần, thư từ được dăm lá, ông nói bên kia khá bận cho những chương trình lớn, bởi vậy không có thời gian để tìm hiểu lâu hơn. Ông kể chuyện nước Mỹ, một thế giới văn minh, con người được thừa hưởng tất cả những ưu đãi của vật chất, điều ấy thì tôi thực sự mơ ước. Ông có ba người con, hai trai một gái, nhưng đã tự lập, lũ nhỏ ảnh hưởng nền giáo dục của Mỹ không thích làm phiền cha mẹ, mà cha mẹ cũng không có quyền làm phiền con cái. Nay vợ ông đã ra người thiên cổ, ông hoàn toàn độc lập, nếu lấy ông tôi sẽ không bị ai quấy rầy cả.

Hồi hộp nhất là hôm ông ngỏ ý đến chơi nhà cho biết, và để gặp bố mẹ tôi về việc muốn cưới tôi làm vợ. Thôi thì vải vóc, nước hoa, phấn sáp cho mẹ tôi và mấy chị em gái, quần áo đắt tiền, kẹo chocolate cho thằng em trai, rồi thuốc thơm, rượu “xịn” cho ba tôi. Mỗi lần đến lại một lần quà nhìn cứ ngộp con mắt, cả nhà không ai dám dùng, chỉ để dành ngắm cho sướng mắt.

Khó nhất là vấn đề xưng hô, ông sêm sêm tuổi mẹ, gần bằng tuổi ba, gọi bằng gì cho phải. Cuối cùng thì ba mẹ tôi gọi ông bằng “anh”, còn ông cung kính dùng hai chữ “ông bà”. Thế là ổn nhất, ai muốn hiểu sao cũng được, “anh” cũng có nghĩa là bạn đồng trang lứa, mà cũng có nghĩa thân mật hơn là con cháu trong nhà. Mọi người đều hoan hỉ như trúng số, riêng tôi vẫn ngại ngần chưa dám gọi ông bằng anh, chỉ nói trống không.

Ba tôi ngỏ ý băn khoăn cho sự chênh lệch tuổi tác, nhưng vốn từ xưa đến nay, ông là người “ba phải” ai nói sao cũng ừ, ai bảo sao cũng gật, vợ con là trên hết. Mẹ con cũng dẫn nhau đi coi tuổi, nhưng thời buổi này có tuổi nào ngon lành bằng viễn ảnh được lấy chồng xa, Đài Loan, Đại Hàn, Nhật Bổn, Hồng Kông què chân cụt tay vẫn còn có giá, huống gì một Việt Kiều từ Mỹ về thơm như nước hoa thì trách nào con gái không bổ nhào vào đi lấy chồng xa. Cái câu ca dao:

“Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng đem cho...”
Câu ca dao ấy xưa rồi, bây giờ người ta đổi lại cho hợp thời:
“Có con mà gả chồng xa
Lâu lâu lại có đô la gửi về.”

Mẹ con bàn bạc mất mấy ngày, khoản tuổi tác được thông qua khi quan niệm tình yêu làm gì có biên giới, đám trẻ bây giờ văn minh tiến bộ có quan niệm cởi mở hơn, “thứ nhất muối tiêu, thứ nhì Việt Kiều...”, người lớn thì tính toán, “nhất vàng, nhì đô, thứ ba là nhà cửa”. Tính chán thì cả nhà đi đến quyết định như là tôi có dịp đi hợp tác nước ngoài, vừa có tiền giúp đỡ gia đình, lại được làm vợ một người giàu có. Cứ cho là tôi hy sinh cho cha mẹ được nhờ, ví như nàng Kiều phải bán mình chuộc cha, đấy chỉ là một cách nói, chứ tôi thấy cũng ham lắm, hy sinh vì tiền có vinh dự gì mà khoe.

Đám cưới được tổ chức gấp rút vào tuần lễ thứ ba ông ở Việt Nam, như một đám cưới chạy tang. Ba mẹ tôi không mời bao nhiêu người, dù ông bảo không đáng gì cái khoản ăn uống đó. Còn lạ gì đám họ hàng nhà tôi, thấy có tiền thì họ bò đến ngay, nhưng cứ vừa ăn vừa móc méo, mai mỉa cái cọc cạch tuổi tác của đôi trẻ. Mẹ tôi thì cho rằng con ưng đâu thời gã đó, quý hồ chàng rể biết lo, tôi có phận nhờ. Tôi cười thầm trong bụng mà không nói ra, đã sáu mươi chứ còn bé bỏng gì lại không biết lo, có của ăn của để như thế đâu phải người khờ khạo.

Tôi trở thành đàn bà sau những ngày trăng mật ngắn ngủi trong một khách sạn hạng trung ở Vũng Tàu, ông nói cần phải tiết kiệm để lo cho tương lai. Ông đúng là người đàn ông biết lo xa, lấy ông rồi tôi mới biết ông tiêu pha khá thận trọng, nếu không vì một mục đích nào đó phải tiêu. Chuyện ái ân quá mới mẻ, chưa đằm thắm để tôi có được cái ngây ngất trong những ngày trăng mật, như những cảnh thơ mộng được tả trong tiểu thuyết. Cảnh vợ chồng cọc cạch như đôi đũa lệch khiến đôi khi tôi nhìn ông như bậc cha chú, lúc ngồi trong xe du lịch đời mới, trong những cửa hàng sang trọng có người hầu hạ, tôi cũng thấy đời lên hương, tự mãn trong lòng, nhưng lắm khi dạo trên đường phố, nhìn bọn “ trai thanh gái lịch” đi dung dăng dung dẻ với nhau, tôi lại thấy tiêng tiếc cái tuổi thanh xuân của mình. Phần ông lại hay cho tôi nhiều lời khuyên, đôi khi tôi có cảm tưởng mình “vớ” phải một ông cố vấn . . .

Giấy tờ đã làm xong, trước khi về nước ông đã nhờ luật sư chuẩn bị mọi thứ đầy đủ, có lẽ nếu không lấy tôi ông cũng lấy một người nào đó, ông chu đáo thật, nhưng tính toán cũng kỹ ghê. Đứa con gái vừa ra đời như tôi nhìn ông bằng đôi mắt kính nể, tất cả ở ông là sự trang trọng và sạch sẽ, tôi chưa bao giờ thấy có một thứ tình yêu sạch sẽ, tươm tất đến thế.

Trước khi ông ra đi, buổi tối ngồi gần bên ông, tôi chưa thấy mình có đủ cái buồn cho sự biệt ly của tình nghĩa vợ chồng, bên tai đầy ắp những lời ông dặn dò dành cho người ở lại. Ông mua cho tôi một chiếc xe “hơi bị cũ” để đi học Anh văn, ông bảo đi xe mới không tốt vì dễ bị bọn bất lương dòm ngó. Cũng đúng thôi, Sài Gòn thời buổi nhiễu nhương, đa số không công ăn việc làm, người lương thiện cũng dễ sinh đạo tặc vì đói, chỉ có cán bộ nhà nước là no, hoặc những nhà có nguồn viện trợ đô la tận nước ngoài là ấm.

Nhà tôi nghèo, ba tôi là một nhân viên tùy phái trong một trường Tiểu Học, lương không đủ một bữa ăn chơi của Việt kiều, mẹ tôi may hàng gia công kiếm từng đồng, chị em tôi đứa nào cũng ngược xuôi vất vả, mà vẫn chưa đủ ăn. Ông cho tôi tháng hai trăm, vừa đóng tiền học vừa giúp đỡ gia đình, tôi có muốn đua đòi cũng chẳng được. Gia đình Mai có nhiệm vụ theo dõi tôi, ba mẹ tôi cũng biết con gái “ván đã đóng thuyền”, nên cũng hết mực gìn giữ, thằng em trai có bổn phận đưa đón chị đi học, chẳng biết ông anh rể dặn dò ra sao, mà nó cũng nhiều lần “lên lớp” với tôi khi thấy tôi vui với bạn bè trang lứa. Tuổi còn trẻ, tôi cố ru ngủ mình với cái viễn ảnh huy hoàng một ngày theo chồng sang bên kia, nhưng vẫn không thể quên được đám bạn trẻ vui nhộn đồng trang lứa. Tôi như con chim sơn ca bị giam hãm trong cái lồng vàng son vật chất, không còn niềm vui cất tiếng hót líu lo để làm đẹp cuộc đời.

*
Lụi hụi rồi cũng đến ngày đi, bạn bè ai cũng bảo tôi trúng số độc đắc. Bơ vơ một mình với mớ Anh văn ít ỏi, tôi xách va ly sang Mỹ, không ai quen biết để hỏi han, lúc gặp ông nơi phi trường, tôi khóc như mưa, khóc như Chiêu Quân cống Hồ. Chắc ông ngạc nhiên đến mừng rỡ khi tưởng tôi tủi thân vì nhớ ông, nhìn cảnh đưa đón chỉ trơ trụi có hai người, thêm bầu trời xám xịt của mùa Đông xứ lạ, tôi lại nhớ cái đông đảo của gia đình , bạn bè ở quê hương, vì thế mà không làm sao cầm được nước mắt.

Ông xin nghỉ hai tuần “vacation” để ở nhà vui vầy với cô vợ mới. Thôi thì ngày quấn quýt, đêm nâng niu, hai người nhốt kín nhau trong căn nhà đóng kín cửa, xung quanh toàn hàng xóm Mỹ. Mệt bã người vì chuyến bay xuyên lục địa, tôi ngủ li bì, mặc ông muốn vầy vò sao cũng được. Chừng mở mắt ra thấy cái gì cũng mới, cũng lạ, cũng văn minh, cái xe hơi nào đối với tôi cũng êm ái hết, mắt cứ hoa lên vì ánh đèn tỏa sáng trong những nhà chọc trời, ánh đèn xe cộ chấp chới nối dài như nẻo về thiên thai.

Khi ông phải đi làm thì tôi mới biết buồn, cứ tưởng ông làm gì lớn lắm trong xã hội, hóa ra ông chỉ là nhân viên cho một hãng bảo hiểm, hèn gì ai ông cũng quen. Còn lại một mình trong căn nhà vắng lặng, tôi rụt rè không dám đụng đến một thứ gì, chỉ sợ hư hỏng đổ vỡ.

Trước hôm lễ Giáng Sinh, lũ con ông về thăm bố, nhân tiện ngó mặt tôi một phát. Đứa lớn còn hơn cả tuổi tôi, giống hệt bố ngày trẻ tuổi trong những tấm hình, nghe nói đang là kỹ sư cho một công ty dầu hỏa, hai đứa nhỏ đang học đại học. Tôi là cái đích cho sáu con mắt ấy dán vào, chúng thấy tôi ngồ ngộ ở cái vẻ khép nép, rụt rè, tại chân ướt chân ráo chứ có ngày tôi sẽ cho chúng biết tay. Tưởng vậy thôi, chứ nghe chúng nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh, tôi ngồi như “vịt nghe sấm”, chẳng hiểu gì, thằng con lớn còn nói được tiếng Việt, thấy tôi buồn hỏi tôi có muốn đi “shopping”, tôi thấy ông cau mày khó chịu. Khi biết tôi suốt ngày đóng cửa ở trong nhà, sợ cả “ma sống lẫn ma chết”, chúng nó cùng rú lên “Oh, my God! ”, như phát hiện tôi mắc bệnh tâm thần, lại nhìn “Daddy” với một vẻ trách móc.

Buồn cười nhất là lúc còn ở Việt Nam, ông viết thư về bắt tôi phải chăm lo việc học, nhắc nhở thằng em chở chị đến trường. Từ lúc sang đây, tôi không nghe ông đả động gì đến sự học, chuyện tập lái xe ông cũng lờ đi, chợ búa, sắm sửa, tiệc tùng đã có ông kè kè bên cạnh. Ông nói nước Mỹ không được giữ tiền mặt trong túi, cho nên tôi chỉ có vài chục để dành từ lúc rời Việt Nam sang đây, đi chợ hay đi “mall”, ông dùng “credit card” để trả, muốn cắt xén chút đỉnh tiền chợ gửi về nhà cũng khó, mà mở miệng hỏi ông chuyện gửi tiền về gia đình tôi cũng ngại, còn ông thì không nghe nhắc nhở gì đến ba mẹ tôi bên ấy nữa.

Có một chuyện tôi khó quên được, vừa buồn cười mà cũng tủi thân, đấy là cái hôm ông dẫn tôi đi “shopping” mua mấy món cần dùng, tình cờ gặp một gia đình người quen. Bà vợ thấy ông đi với tôi đã khen ầm lên là con gái xinh quá, học hành tới đâu, cậu con trai đi theo mẹ cứ mắt la mày lét liếc tôi hoài. Xứ này các cậu tìm vợ hơi khó, cho nên cha mẹ cứ thấy đám nào hay hay lại dòm ngó cho lũ con trai ế vợ. Hôm ấy ông ngượng quá, đến độ quên không giới thiệu tôi là gì của ông, vội vàng dắt tôi về, từ đấy không còn hứng dẫn cô vợ trẻ đi đâu nữa. Biết tôi buồn chắc ông cũng hiểu, nhưng bản tính ích kỷ của đàn ông vẫn thắng, tôi chỉ là con búp bê, để mình ông ngắm vuốt, nâng niu, rồi lại đem cất vào tủ kính.
Cái lần ông thật sự nổi giận là lần thằng con lớn ông gạ gẫm dạy tôi lái xe. Tôi thích mê lên ấy chứ, nhưng chưa gì ông đã quát ầm lên, thằng con mở banh mắt nhìn cha như con quái vật, rồi nhún vai bỏ đi. Từ đấy nó không đến nữa, nhưng những lúc ông vắng nhà, nó vẫn gọi phôn thăm tôi, nói đủ thứ chuyện đời, cả hai đứa cười rúc rích. Có lúc tôi đã từng ao ước, giá ông đem tiền mà đổi được cái thân xác trẻ trung, căng đầy nhựa sống ấy có phải tôi hạnh phúc biết bao nhiêu.
Càng giận dữ, càng ghen tuông, càng mệt mỏi ông lại càng mau già đi một cách thảm hại, không chống đỡ được. Ông đã dùng đồng tiền để lột trần thân thể tôi, thì tôi cũng nhờ thời gian làm tách bạch cái già nua, lão hóa trên từng phân vuông da thịt ông. Những món tôi thích ăn và ăn một cách ngon lành thì ông không “xực” được, phần ông sợ trăm thứ “bà dằn” có trong thực phẩm, muối, mỡ, đường cái nào ông cũng kiêng, ăn uống khủng khỉnh như một nhà quý phái. Bộ máy đã đến lúc rệu rã, có tu bổ thì cũng ì ạch chạy, chứ sao bằng cái bắp thịt cuồn cuộn, cái dáng đi vững chãi của thằng con trời đánh kia.

Đêm nào ông cũng trằn trọc khó ngủ, mà hễ ngủ lại ngáy o o như lò rèn kéo bễ, bộ phận hô hấp cũng lủng củng mất rồi. Lắm lúc bất chợt thức giấc, ngắm nghía khuôn mặt ông nhăn nhó những nét buồn phiền, lòng tôi não nề đến phát khóc. Chưa kể những lúc ông cố gắng đi đứng hùng dũng như một thanh niên ba mươi tuổi, một người già cố làm cho mình trẻ, trông vừa buồn cười lại vừa lố bịch.

Thỉnh thoảng vào mùa hè, ông cũng dẫn tôi đi tắm biển, đỏm dáng với chiếc áo sơ mi chim cò. Vùng này bãi biển chỉ toàn Mễ, Mỹ trắng và Mỹ đen, có thấy thì họ cũng cho là bố con dẫn nhau đi nghỉ mát, bao nhiêu con mắt cứ dán chặt vào thân hình mảnh mai, hấp dẫn của tôi mà chiêm ngưỡng . . . .

Ngày dài rồi lại đêm thâu, tôi sống quạnh quẽ trong căn nhà vắng lặng, các thứ cây lá rậm rạp quanh nhà càng làm tôi sợ nổi da gà, một nước Mỹ trên phim ảnh đẹp như tranh vẽ, bây giờ buồn chán đến tê tái cả lòng. Những lúc ông đi làm, tôi thờ thẫn ra sân chăm sóc mấy chậu kiểng, trồng mấy liếp rau cho qua đi thời gian trống trải. Nhà bên cạnh có hai ông bà Mỹ già hay ra sân ngồi sưởi nắng, khi thấy tôi họ thường “say Hello” cười thân thiện nhưng chẳng nói năng gì, chắc họ lạ lùng khi thấy tôi còn trẻ mà cứ quanh quẩn vào ra trên khoảng sân ấy.

Mãi một hôm, tôi đánh bạo đứng ven bờ rào nhìn ông bà hàng xóm, bà già nhìn tôi cười móm mém, cặp mắt xanh biếc hiền hậu. Bà hỏi tôi có phải nhà chỉ có hai bố con. Trời ơi là trời, trời đang nắng chan hòa mà bỗng tối sầm lại, tôi đứng ngây người mặc cho hai dòng nước mắt tuôn như mưa, bà hàng xóm “sorry“ rối rít, chắc bà tưởng mẹ tôi đã chết, nhà chỉ còn mỗi hai bố con.

Thế này thì làm sao tôi chịu nổi, có lẽ tôi phải nhờ thằng con ông ấy giúp tôi ra khỏi căn nhà này càng sớm càng tốt. Chưa bao giờ tôi căm giận ông đến thế, ông có quyền gì mà cầm giữ, hủy hoại tuổi trẻ của tôi theo cái già cỗi của con người ông. Nếu cứ cho rằng ông có một vẻ đẹp tâm hồn, thì ông hẳn nhiên không có. Ông đã mua tuổi trẻ tôi bằng tiền, mà tôi đã dại khờ tưởng rằng tiền sẽ mang lại hạnh phúc, huống gì đồng tiền ông bỏ ra đâu có xứng đáng với những gì tôi phải trả: tuổi trẻ, trinh tiết và hạnh phúc của tuổi xuân.


NGUYÊN NHUNG.
Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3541
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #58 - 27. Feb 2007 , 14:41
 
TRUYỆN CỰC NGẮN
Hoàng Long


Tên thật là Hoàng Long, sinh ngày 21/01/1980, tại Đà Lạt. Nguyên quán Quảng Bình.

—Từ năm 1997 đến 2002, học Khoa ngữ văn và Khoa Đông phương học, chuyên ngành Nhật Bản học, tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Sài Gòn.
—Từ năm 2003 đến 2005 học Cao học, chuyên ngành văn hóa học, tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Sài Gòn.
—Từ năm 2003 đến nay, dạy Nhật ngữ tại trường Đại học Lạc Hồng, Đồng Nai và Trung tâm Ngoại ngữ Nguyễn Thái Bình.

Đã cộng tác với các tạp chí hải ngoại: Tiền Vệ, Văn Học, Hợp Lưu, Tạp Chí Thơ.


--------------------------------------------------------------------------------
-----------

Tự Do

Viên đại tướng quơ chân quơ tay đi đi lại lại trong phòng. Làm thế nào để ngăn chặn đám biểu tình ngày một lan rộng đây? Vị quân sự mặt chuột đến thì thầm to nhỏ. Và một diệu kế đã được đưa ra.

Mấy ngàn tên lính mặc thường phục len lỏi khắp các ngõ ngách của xứ sở. Thấy dân chúng tụ tập, chúng rút cây roi giấu sau lưng đánh vào đám đông. Thấy ai đi một mình ngoài đường lảm nhảm, chúng cũng đánh. Thấy ai im lặng lấm lét chúng cũng đánh luôn. Vài tháng như vậy, đám dân đen sợ quá, rúc đầu vào trong nhà, làm những cánh cửa sắt dày nặng nề để phòng thủ. Sau cánh cửa sắt đó, họ được tự do.

Những ngôi nhà có cánh cửa sắt rồi lan tràn khắp xứ sở. Viên đại tướng hết quơ chân quơ tay, hết đi đi lại lại trong phòng. Hắn ngồi xuống ghế và sung sướng chơi bài với đám thuộc hạ của mình.

--------------------------------------------------------------------------------
-----------


  Hoa Hướng Âm

Anh bạn tôi nói rằng hoa hướng dương luôn mọc hướng về phía mặt trời là hướng Đông. Tôi bảo mình có thể làm điều ngược lại. Và chúng tôi đã đánh cược với nhau.

Tôi làm một hầm ngầm dưới đất, bắt đầu gieo trồng hạt hướng dương. Nhưng tôi thắp một ngọn đèn nhỏ ở phía Tây. Và hoa hướng dương cứ mọc hướng về phía ấy. Sau khi thu hoạch, tôi gieo trồng lứa thứ hai. Lần này thì lâu lâu tôi mới nhá đèn ở phía Tây mà thôi. Hoa hướng dương vẫn mọc về phía ấy. Mùa vụ thứ ba, tôi tắt hẳn đèn, chỉ trồng hạt hướng dương trong bóng tối. Hoa vẫn hướng về phía Tây. Lần này tôi lấy hạt giống của lứa thứ ba gieo trồng trên đất sáng và mời anh bạn đến xem.

Anh bạn tôi rất ngạc nhiên và hỏi bí quyết. Tôi trả lời hãy làm cho lũ hoa này tin rằng ngọn đèn nhỏ trong bóng đêm là mặt trời thực. Rồi từ thế hệ thứ ba trở đi, hoa này chỉ mọc theo quán tính. Và để phân biệt, từ đó người ta gọi những bông hoa mới này là hoa hướng âm.

--------------------------------------------------------------------------------
-----------




Vương quốc gió mây 
   

Xin chào mừng quý vị đến với vương quốc của chúng tôi. Sau khi kết tụ một đám mây lớn, tôi đã xây dựng nên vương quốc của mình. Mời tất cả quý vị tham gia.

Điều kiện thế nào?

Cực kỳ đơn giản. Quý vị chỉ cần chịu đau đớn một tí. Đầu tiên chúng tôi sẽ cho người dùng chày vồ đập quý vị cho mềm để chuẩn bị qua công đoạn tiếp theo sẽ dùng máy cán để ép quý vị dẹp như con khô mực. Chất nhờn quý vị tiết ra mà chúng tôi gọi là nhân tính sẽ chảy theo xuống một cái cống thoát nước. Đây là công việc giải phóng vinh quang, làm cho chúng ta tuyệt đối bình đẳng, bởi sau khi bị cán dẹp, tất cả chúng ta đều như nhau. Sau khi qua cửa ải đó, chúng tôi sẽ dùng bơm nhét vào miệng quý vị bơm lên theo kích cỡ ban đầu và đưa lên vương quốc của chúng tôi. Rồi chúng ta sẽ ăn gió uống mây, phiêu lưu trên thượng tầng thanh khí.

Như vậy thì chúng ta có khác gì những bóng ma vật vờ đâu.

Hỗn xược. Chúng tôi đã ban cho anh một cụôc sống bình đẳng tuyệt đối như trên thiên đường, không có người giàu kẻ nghèo, không còn kẻ thông minh người ngu ngốc, vừa giữ lại cho anh hình dáng con người. Anh còn muốn gì nữa?

Tôi chỉ thích trần gian thôi.

À, thì ra là một tên phản động, đi ngược lại với đường lối đổi mới của chúng ta qua các kỳ đại hội. Bay đâu, bắt giam tên này cho ta.

Và tôi phải chịu xộ khám hai mươi lăm năm tù giam với tội danh “phản động, mưu đồ tạo dựng lại trần gian thuở hỗn mang sơ thủy”.




--------------------------------------------------------------------------------
-----------


Người đầu gỗ
   

Trong khi thò đầu ra ngoài cửa sổ tàu lửa để ngắm trời sao khuya, nàng bị một lũ lâu la chặt đứt đầu để cướp sợi dây chuyền vàng. Tôi vội cởi áo khoác trùm lên cổ nàng ngăn cho máu khỏi chảy ra rồi suy tính cách giải quyết tình thế. Thấy rằng khi bị gãy tay chân người ta thường làm chân tay giả, tôi mới nghĩ cách làm cho nàng một cái đầu giả bằng gỗ. Quên chưa nói với các bạn, tôi là một thợ mộc cừ khôi và trong hành lý tôi mang theo có một súc gỗ quý mà tôi dự tính điêu khắc nó thành bức tượng quan âm. Nhưng trong tình huống này thì phải huỷ dự định đó thôi. Tôi lấy súc gỗ đó và dùng đồ nghề mang theo để khắc thành một cái đầu. May là vào đêm khuya nên hành khách đã đi ngủ hết, chỉ còn lại mình tôi âm thầm làm việc. Mất hai tiếng đồng hồ tôi mới đẽo xong một cái đầu tuyệt diệu. Rồi tôi tháo cái áo khoác trùm đầu nàng ra và gắn cái đầu gỗ lên cái cổ trắng tròn xinh xắn. Ngay lập tức máu ngừng chảy. Khoảng năm phút sau, cái đầu gỗ đã dính chặt với cổ nàng mà không cần phải có một chất keo kết dính nào cả. Một tiếng sau, thì nàng đã mở mắt gỗ, thở mũi gỗ và lúc lắc được cái đầu gỗ nữa. Trời cũng bắt đầu sáng. Tôi dùng cái áo khoác lau máu nàng dây ra trên ghế và cửa sổ lúc bị chém đầu rồi quẳng cái áo khoác đó đi. Đoạn tôi lấy một cái khăn len trùm lên đầu nàng để che cái đầu gỗ trọc lóc rồi dìu nàng xuống sân ga về nhà.

Cái điều tuyệt diệu là tóc nàng mọc ra, xanh mướt như thuở nào. Và tính cách nàng thay đổi hẳn. Từ một cô gái nhút nhát quê mùa giờ nàng đã hăng hái hoạt động đoàn đội. Chẳng mấy chốc nàng được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong công ty, nàng trở nên lạnh lùng và nghiêm túc nên được cấp trên để mắt đến và dần dần được đề bạt lên làm trưởng phòng kinh doanh rồi chức Phó tổng giám đốc. Trong bữa tiệc mừng nàng lên chức Tổng giám đốc, các nhân viên của nàng và các bạn bè tôi nhất loạt chúc mừng tôi đại loại là “Anh có cô vợ thật hết xảy. Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con. Vừa giỏi việc nước vừa đảm việc nhà. Vừa là một chiến sĩ trên mặt trận kinh tế vừa là một đầu tàu kéo cả dân tộc đi theo đường lối xã hội chủ nghĩa muôn năm…”. Nói chung là toàn những lời khen có cánh siêu mỏng và lớp thấm thông minh như vậy cả.

Tôi cũng cười và cám ơn rối rít. Bởi cùng với sự thay đổi hoàn toàn tính cách của nàng, tôi cũng đã quên phắt đi một sự thực vô cùng kinh dị “nàng là người có cái đầu gỗ một trăm phần trăm”.

--------------------------------------------------------------------------------
-----------


Quê hương

Khi quê hương khởi biến loạn, hắn phải chạy ra nước ngoài. Hành trang hắn mang theo chỉ là một chiếc rương nhỏ và một cái valy đựng quần áo. Hắn quý cái rương ấy vô cùng, đi đâu cũng mang theo. Trong thành rương có dán kín những bức hình hắn chụp ở quê nhà, còn có mô hình một ngôi làng nhỏ mà nơi đó hắn đã sinh ra. Tuy chỉ là mô hình bằng gỗ nhưng lại đầy đủ các chi tiết từ dòng suối nhỏ bằng lụa trắng đến những dãy nhà bé bé xinh xinh nằm hiền hòa bên sườn đồi, dưới những cây tùng to lớn. Trong ngôi nhà mô hình, có một hình nhân thắt tóc bím. Đó là người thương của hắn nay vẫn còn bị đày đọa nơi quê nhà. Cái rương là tất cả bí mật của đời hắn. Mỗi lúc buồn, hắn lại mở rương ra xem. Và mỗi lần người ta hỏi hắn “Quê anh ở đâu?”. “Trong rương hành lý”. Hắn đáp với vẻ tự trào mà nghe ngùi cay tròng mắt.


--------------------------------------------------------------------------------
-----------




Back to top
 
 
IP Logged
 
phu de
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3541
Gender: male
Re: Truyện ngắn
Reply #59 - 21. Apr 2007 , 02:19
 
NGƯỜI BÁN SÁCH TRÊN BÃI BIỂN NHA-TRANG


...


Tôi trở về thăm quê hương sau hơn mười lăm năm, kể từ ngày vượt biển ra đi. Tôi quyết định điều này qua bao nhiêu đêm ưu tư trằn trọc. Tôi chẳng còn ai thân quen bên ấy để về thăm. Mẹ tôi mất hồi tôi mới lên năm. Cha tôi chết cuối năm 1977 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và mãi năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn. Đứa em gái mà tôi thương quí nhất, mang hình ảnh của người mẹ mà tôi chỉ còn mơ hồ trong ký ức, cũng đã kết liễu cuộc đời ở cái tuổi tưởng chừng lúc nào cũng có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt. Còn bạn bè tôi, thằng chết, đứa ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Biết là lần trở về này, rồi cũng chẳng khác gì cái ngày cách đây mười sáu năm, từ một trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ vơ lạc lõng trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi cũng không có ý định về đây để tìm lại những kỷ niệm ngày xưa. Những “hang động tuổi thơ”chắc cũng đã biến mất trước bao nhiêu giông tố năm nào bất ngờ ụp xuống. Bây giờ chỉ còn sót lại chút ít trong lòng những người tha phương lưu lạc. Bản thân tôi có quá nhiều đớn đau và mất mát ngay trên chính cái thành phố một thời xinh đẹp này. Tôi sợ phải nhìn lại cái quá khứ hãi hùng và tang thương đó. Tôi về chỉ để làm một điều, mà nếu không làm được, lòng tôi sẽ ray rứt khôn nguôi. Có lẽ đến khi chết tôi vẫn không làm sao nhắm mắt.

Tôi về để tìm lại phần mộ của cha và em tôi, cải táng đem về an táng bên cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa trang gia tộc ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Điều ước mơ của cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về mẹ tôi và chuyện tình khá lãng mạn nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà. Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi Đá Bàn, bên ngoài một trại tù cải tạo lúc xưa. Còn em gái tôi, được gia đình một cô bạn thân chôn cất tại một nghĩa trang ngoài Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi mới tìm được tin tức về mộ phần của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. Nhờ một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông đã đào huyệt cho cha tôi; và gia đình cô bạn thân của em gái tôi, vượt biên từ năm 1978, hiện định cư tận bên Hòa Lan, cung cấp chi tiết và vẻ cả bản đồ hướng dẫn cho tôi.

Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ dễ tìm; nhưng phần mộ của cha tôi, nằm trong núi và cái trại cải tạo ngày xưa bây giờ đã biến thành một khu kinh tế mới. Gần ba mươi năm rồi, có biết bao sự đổi thay.


Cuối cùng thì tâm nguyện của tôi cũng hoàn thành được một nửa. Trái ngược với những lo lắng ban đầu, tôi dễ dàng tìm ra phần mộ của cha tôi. Mặc dù bối cảnh chung quanh thay đổi, nhưng bà con ở vùng kinh tế mới này đa số là dân thành phố bị cưỡng bách “tự nguyện” lên đây, một số ngày xưa là lính và công chức. Biết đây là mộ của những người tù cải tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ gìn. Những dịp cuối năm họ đều thắp hương, tảo mộ và kẻ lại tên trên những tấm bia bằng gỗ, dù đã rong rêu qua bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em tôi, mò mẫm suốt cả hai tuần tôi vẫn tìm không ra. Cả khu nghĩa trang bây giờ thay đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều ngôi mộ mới xây, nhưng cũng có một số đã được cải táng, dời đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa. Người sống bây giờ ở chung với người chết. Tôi bắt chướt người xưa khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi mộ của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng.


Tôi thuê người cải táng phần mộ của cha tôi. Đi từng nhà trong khu kinh tế mới cám ơn lòng tốt của mọi người. Đưa hài cốt của cha tôi về an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa trang gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả những ngôi mộ đã bao nhiêu năm không có ai chăm sóc.


Còn một ngày nữa là hết hạn visa. Tôi muốn đi một vòng, tìm lại chút gì của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây giờ dường như nóng bức hơn ngày xưa. Tôi thuê một chiếc xích lô chạy dọc theo con đường Duy-Tân cũ. Vừa để cho mát, vừa muốn tìm lại những lùm cây dương ngày trước, thuở chúng tôi và bạn bè hẹn hò sau những lúc tan trường. Một số lùm dương vẫn còn đó, nhưng trơ trọi, điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi xuống trường Võ-Tánh. Anh phu xe còn trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên. Tôi hiểu, nên tôi bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. Ngôi trường cũ, nơi tôi có biết bao kỷ niệm của ba năm theo học, bây giờ không những cái tên trường, mà tất cả đều trở thành xa lạ. Những hàng cây phía trước không còn. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng còn sót lại chút gì thơ mộng, gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng hơn là thương tiếc. Bất giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp dễ thương, đã cho tôi cái ấm áp của cả một gia đình, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có mẹ. Em học bên trường Nữ Trung Học, nhưng thường đến đây chờ tôi để hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển, nhưng ngại đến đó một mình nên thường rũ tôi đi theo hộ tống. Tôi tha hồ làm tình làm tội mấy anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi đi bộ dọc theo bãi biển, tìm đến khu có nhiều cây dừa trước trường Bá-Ninh lúc trước, nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở đó.



Tôi đưa mắt nhìn một vòng từ xa. Nơi bậc xi măng tiếp giáp bãi cát, một người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh tay duy nhất còn lại giữ thăng bằng trườn xuống. Trông anh ta giống như một con cóc. Len lỏi trong đám người đi tắm, anh hướng về phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi vải chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải nữa, cũng toàn là sách. Anh lê lết từng quãng, từng quãng ngắn. Bất ngờ anh ta ngước lên. Thấy tôi gật đầu chào, anh ta nhìn tôi cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng. Khuôn mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy sợi tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn tay duy nhất lôi một cuốn sách trong túi vải đang nằm trên mặt cát và từ từ mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn sách có cái tựa viết bằng tiếng Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic. Tôi nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm rộ trên truyền hình Na-Uy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi tròn mắt ngạc nhiên khi nghe anh mở lời chào và giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu loát, không thua kém gì những người Việt đã sinh sống lâu năm ở nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người Nhật hay Đại Hàn gì đó. Tôi thán phục anh vô cùng và bảo với anh tôi là người Việt, định cư ở Na-Uy, nên trình độ tiếng Anh của tôi chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xã giao, chứ làm gì có thể thưởng thức được văn chương. Tôi cám ơn anh và móc ví ra định biếu anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại

- Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho những người còn nghèo khổ hơn tôi.

Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện và lễ độ.

Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Vì từ khi trình giấy thông hành vào nước, trước những người mang lon, đội mão đại diện cho cả môt quốc gia mà cũng không có được phong thái thanh tao như anh; và chẳng lẽ ở trong cái thành phố ”mũi nhọn du lịch” này lại còn nhiều người khốn khổ hơn anh ?

Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui lòng nhận tiền, nhưng rồi thấy anh cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi kia, để tìm đủ tiền thối lại cho tôi.

Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đã nhoẻn miệng cười và gật đầu chào tôi rồi vội vàng lết sang mấy người khách nước ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng ghế phía trước.

Từ hôm ấy, hình ảnh người tàn tật bán sách trên bãi biển Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong đầu và theo tôi về tới Na-Uy; để rồi nếu có ai đó lỡ lời nói điều gì không mấy tốt về những người nghèo khổ ở Việt nam, tôi có cảm tưởng như đang xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà tôi bất ngờ được gặp.

* * *

Năm sau, tôi lấy một tháng hè về lại Việt nam. Lần này tôi mua vé và nhờ cha cô bạn của em tôi, từ Hòa Lan, cùng về với tôi. Ông là người đã giúp chôn cất em tôi ngày trước. Tôi không ngờ là mình phải về lại Việt nam lần thứ hai. Một điều mà trước đây tôi không hề nghĩ tới.. Nhưng tôi phải làm tròn bổn phận của người anh với cô em gái, mà nếu trước kia tôi lo lắng cho nó chu đáo hơn, biết đâu bây giờ nó còn sống để cho tôi khỏi cảnh côi cút một mình.

Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ người. Tôi trở về từ vùng Bắc Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái nắng oi nồng của vùng nhiệt đới. Sau khi thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra biển tắm. Nằm dài trên bãi cát, tôi bỗng nhớ tới người bán sách năm xưa. Tôi thả bộ theo bờ biển về hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều người ngoại quốc đang từ khách sạn kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy người tàn tật đang lê lết theo sau. Cũng hai cái túi vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật bán sách năm trước chứ còn ai. Tôi mừng thầm như sắp sửa được gặp lại con người mà bấy lâu nay tôi thường nghĩ tới với lòng mến mộ. Tôi suy nghĩ làm cách nào để anh ta vui lòng nhận sự giúp đỡ của mình. Nhưng người tàn tật lúc nào cũng bám sát vào những người nước ngoài. Tôi để ý thấy người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở nhận tiền rất điệu nghệ, không nghe anh nói cái câu thật tử tế mà một năm trước anh đã lễ phép nói với tôi “Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành cho những người còn nghèo khổ hơn tôi”. Một cái gì đó thật đẹp vừa bị sụp đổ trong lòng. Tôi cảm thấy người nóng hừng hực. Không biết là sức nóng giữa ban trưa hay vì máu nóng bốc lên đầu. Tôi cắm đầu chạy lao vào những đợt sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi đổ vào bờ.

Nước biển trong xanh, sóng biển như những cánh tay ôm tôi vào lòng vuốt ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trãi rộng đến những dãy núi mờ xanh tận cuối chân trời. Tôi nghe văng vẳng trong không gian như có ai đang dạo đàn bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào giúp tâm hồn con người rộng mở và dễ cảm thông hơn.

Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người tàn tật bán sách đã làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước lên bờ cát thì tôi lại trông thấy anh ta đang o bế mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu hắn đã “Đ.m. cái khứa đói rã họng ra mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ nó rồi.”

Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không phải là anh – người tàn tật bán sách mà năm trước tôi đã gặp -. Tôi theo người bán sách này với ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống bãi ở quãng xa. Và khi đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà bán cua luột, hắn hất hàm bảo: ” Đó, vợ khứa đó ! ”

...

Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân la lại gần, thấy chị bán cua luột này có vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong bình thường, tôi không biết phải bắt đầu làm sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con nào. Và cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua thêm một con nữa để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua này cũng có gì khác thường, tôi buột miệng : “Chị là vợ của người tàn tật bán sách trên bãi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ người ra, im lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao lại tò mò vào một chuyện riêng tư. Tôi kể cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt mà tôi đã dành cho anh ấy. Tôi muốn tìm cách giúp anh một phần nào nỗi thống khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường như những lời chân thật của tôi làm cho chị xúc động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật buồn :

- Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh ạ. Anh ấy đã chết cách nay hơn tám tháng. Em đã lo chôn cất anh ấy.

Lòng tôi thắt lại, một phần vì cảm thương anh trong cảnh khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước mình tìm cách giúp đỡ anh, biết đâu đã cứu được anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều chờ tôi trước khách sạn tôi ở.

Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở băng ghế sau để dễ dàng trò chuyện. Trên đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm tình cùng tôi, như từ lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều bao năm dấu kín trong lòng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên được giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm. Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc nhất của mình. Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông mua được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho hãng xe đò Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với tiền hưu bỗng hàng tháng, ông dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong lớp 12, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, chị bị loại ra bởi lý lịch “ngụy quân” của cha. Lúc này, gia đình trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, không còn được lãnh tiền hưu bỗng ngày trước, chị không tìm ra bất cứ việc gì làm. Cuối cùng cha chị đành phải bán một nửa căn nhà vốn đã chật chội để mua một chiếc xích lô làm phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi bán hàng rong từ dạo ấy.

- Đến bây giờ ông cụ vẫn còn đạp xích lô ? Tôi tò mò hỏi.

- Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con.

Tôi ngạc nhiên :

- Anh Bá nào ?

- Người tàn tật bán sách đó.

Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh.

Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy bay của anh bị bắn rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn, khi yểm trơ cho mặt trận Long Khánh của Sư đoàn Tướng Đảo.

Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng anh bị thương rất nặng, phải đưa về tổng y viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết được mình bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa “giải phóng”, anh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa khi vết thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy.

- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi

- Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu không nghe anh nói điều này. Mãi sau này thấy trên đầu giường của anh có thờ tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động trước tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy nhất của anh.

- Anh không còn bạn bè ?

- Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ có trình độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc không quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh tình nguyện xin về chiến đấu. Vừa về nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ thứ hai. Có lẽ vì vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.

Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước vào nghĩa trang khi lòng còn vương vấn một câu chuyện buồn. Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho lòng tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi dừng lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, trên tấm bia có cả tấm ảnh.

Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có hình một thập tự giá, vì đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp ba nén hương thầm khấn vái cho anh được sống an bình trong một thế giới chẳng còn thù hận, và nói lên lòng cảm mến của một người đồng đội cũ. Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh còn là sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen quen. Có lẽ do bộ quân phục làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè ngày trước.

Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một người không hề quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi choáng váng, mắt tôi mờ đi như chẳng còn trông thấy những gì trước mặt. Trời ơi, có điều gì lầm lẫn hay không ? Người trong tấm ảnh chính là An Bình, cô em gái yêu dấu của tôi.

Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, mở đôi mắt thật to để nhìn kỹ lại tấm ảnh. Không thể lầm lẫn được. Chính tấm ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng hằng giờ trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy mình quá đỗi cô đơn trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi.

Trang nhìn tôi ngạc nhiên :

- Anh có quen biết em gái anh Bá ?

Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi, đã từ Hòa Lan về đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. Tôi đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh ta đã tìm được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác là đã đến tìm bác sớm hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi đã bất ngờ tìm được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang để xác nhận lại vị trí ngôi mộ của em tôi mà ngày trước bác đã có lòng chôn cất hộ.

Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn để xác minh chắc chắn là bác biết rõ ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần 30 phút mới tìm được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ có tên chứ không có hình ảnh của em tôi.

Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc nhiên, không biết rõ việc gì. Tại sao cô gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi ? Tôi xin lỗi vì xúc động quá, tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đuòng về nhà.

Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia đình tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi lần.

An Bình, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông được bà con mời làm chủ tịch hội đồng xã. Ông bị bắt vào trại cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, rồi vì tuổi già sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông đã chết gần một năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui Nhơn, vì hoàn cảnh gia đình, được về dạy ở Nha Trang. Có lần tôi về phép, em kể cho tôi nghe về mối tình của em với một chàng sinh viên sĩ quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng vì anh là người Bắc di cư, công giáo, không hiểu có khó khăn gì cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên tâm, ba tôi theo tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng rãi lắm.

Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của chúng tôi bị nhà cầm quyền mới tịch thu để làm hợp tác xã mua bán. Em tôi không được tiếp tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở chung với cô bạn học nối khố tự ngày xưa, chắt chiu số tiền còn dành dụm được để thăm nuôi cha tôi. Ngay sau ngày Sài-gòn mất, em có vào tìm thăm tôi và người yêu của cô. Hơn hai tuần đi thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm khóc cả mấy ngày liền, nói với tôi là người yêu của nó đã chết mất xác ở chiến trường Long-Khánh. Tôi an ủi em tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo lắng cho cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp. Tôi vào tù hơn sáu tháng, hai lần được phép gởi thư về nhà, vẫn không thấy em gái hồi âm. Cho mãi trước khi được chuyển ra Bắc, tôi mới nhận được thư của cô bạn thân của nó, báo tin là nó không kiếm được việc gì làm, túng quẫn, buồn chán, nên đã uống nguyên một ống thuốc ngủ. Gia đình cô chở vào bệnh viện, nhưng không cứu được, vì không tìm ra thuốc giải.

Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt nhớ ra được điều gì. Chị bảo khi còn sống, anh Bá không đi làm vào ngày chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ rồi ra mộ suốt cả ngày. Chính anh đã dành dùm tiền bạc thuê người xây lại ngôi mộ và mua phần đất dành cho mình. Khi chôn cất anh xong, chị tìm thấy một tập nhật ký dấu kỹ dưới đầu giường. Chị vẫn còn để trên bàn thờ, chờ ngày giáp năm thì đốt luôn. Chị bảo tôi cùng về nhà với chị, để chị trao lại cuốn nhật ký, kỷ vật duy nhất của một người cùng sống chung trong cảnh khốn cùng với cha con chị trong gần ba mươi năm, và bây giờ mới biết đó là người yêu của cô em gái thương quí của tôi.

Chị bảo taxi dừng lại trước một ngõ tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả tiền, theo chị băng qua hai con đường sắt, đi quanh co theo mấy con hẻm thì đến nhà. Tôi xin phép thắp hương trước bàn thờ của ba chị và Bá, trên một cái kệ nhỏ bằng gỗ treo trên vách. Tôi khẩn khoản xin chị nhận một số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ, em gái tôi và Bá, một ít làm vốn buôn bán để đỡ vất vả hơn xưa. Tôi xin nhận Trang là cô em kết nghĩa và từ nay Trang là người thân quen duy nhất của tôi còn lại ở Nha-Trang. Chia tay, tôi đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật ký trên tay, mà cứ tưởng như mình vừa nhận một món quà quí giá của người thân gởi về từ một cõi nào đó thật xa xăm.



Ngày 2/5

Vết thương còn đau đớn và máu còn thấm đỏ qua mấy lớp băng, vậy mà mình bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, trong hoàn cảnh tứ cố vô thân. May mắn nhờ một ân nhân nghèo nhưng lại giàu lòng bác ái, đùm bọc, nuôi nấng và chăm sóc vết thương.

Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng, mình không muốn sống thêm một ngày nào nữa, nhưng lòng mình lúc nào cũng hướng về chúa Kitô, và xin phó thác tất cả ở nơi Ngài.

......

Ngày 20/6

Cuối cùng, thì mình quyết định trở về Nha-trang, bởi lẽ mình không còn có một chỗ nào khác để trở về. Mình về đây để tìm lại những kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời mình, của những ngày mình còn có An-Bình. Từ ngày gặp An-Bình, mình nghĩ là mình đã thuộc về Nha-Trang, miền thùy dương rạt rào thơ mộng này. Đau đớn thay, hôm nay mình chẳng phải là mình ngày trước, mà chỉ là một kẻ tật nguyền thê thảm. Mình sẽ không bao giờ gặp lại An-Bình, mà chỉ mong về đây để được sống với hình ảnh của nàng

Ngày 08/7

Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất trong đời mình. Đau đớn hơn cả cái ngày mình tỉnh dậy trong quân y viện và biết mình trở thành một người tàn phế. Mình lê lết khắp nơi hỏi thăm tin tức An-Bình, được biết là em đã quyên sinh. An-Bình ơi, xin em hãy tha thứ cho anh. Trong vận cùng của một đất nước mà anh chỉ là một thằng lính hèn mọn nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ được bầu trời Nha-Trang này cho em, và cho những kỷ niệm của chúng mình...


...

Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật mình. Ngẫng đầu lên mới biết mình đang đừng trước nhà thờ đá. Tôi thẩn thờ bước lên những bậc “tam cấp”, đến trước tượng Đức Mẹ. Tôi là người ngoại đạo, không biết phải cầu nguyện như thế nào. Tôi chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên Chúa từ bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai người hoạn nạn và xin cho họ được cùng phục sinh với Chúa để tình yêu của họ mãi mãi vĩnh hằng trong một thế giới bình an, không còn có hận thù.

Tôi không còn ý định dời ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha mẹ tôi. Tôi về quê, quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép được xây lại hai ngôi mộ của em tôi và Bá chung trong một vòng thành. Không ai có quyền chia rẽ họ thêm một lần nữa, dù bây giờ chỉ còn là một thế giới vô hình.

Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê xích lô đi một vòng dọc theo con đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp nhất của Nha-Trang. Những cơ sở công quyền, những dinh thự của cán bộ bây giờ đựơc dựng lên nguy nga đồ sộ. Nhìn lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng dưng tôi lạnh toát cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to lớn” ấy mà phải xây trên máu xương, trên những đớn đau, chia lìa thảm khốc của bao nhiêu thế hệ đã từng một thời góp sức tạo nên cái thành phố hiền hòa thơ mộng này. Bỗng chốc, tôi không còn nhìn thấy thành phố Nha-Trang đâu nữa. Trước mắt tôi bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma, dài ra, vô tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát thanh Nha-Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới cái chết thảm khốc của nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen thuộc một thời này, ông cũng đã bị giết vào tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung với tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên Hòa.

Phạm Tín An Ninh

(Vương Quôc Na-Uy)

Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 3 4 5 6 ... 11
Send Topic In ra