Quote:Xin gửi thêm anh Phú De, anh Nguyễn Toàn anh Đại San và chị Phương Tần bài viết sau đây của anh Trần Trung Đạo:
Nếu Quê Hương Là Mẹ, Ai Sẽ Là Cha ?
Trần Trung Đạo
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
(Bài Học Đầu Cho Con - Đỗ Trung Quân)
Vâng, Đỗ Trung Quân viết đúng, quê hương mỗi người chỉ một. Việt Nam là quê hương của tất cả chúng ta. Không có quê hương của người quốc gia hay quê hương của người cộng sản. Không có quê hương tư sản hay quê hương vô sản. Quê hương vẫn còn có đó và sẽ mãi mãi còn đó cho ngàn đời sau. Quê hương là mẹ. Trong lòng mẹ không có hận thù, không có xích xiềng, không có lao tù ngăn cách. Mẹ là mẹ của tất cả chúng ta cũng như Việt Nam là quê hương của tất cả chúng ta.
Thế nhưng, tại sao tôi, các bạn và cả hai triệu người Việt khác đều đã bỏ quê hương mà ra đi. Ai cũng có thể trả lời được, chúng ta ra đi vì tự do. Quê hương đẹp và đáng yêu nhưng không thể ở lại. Quê hương thật sự mà chúng ta đang có không phải là quê hương như Đỗ Trung Quân đã viết.
Quê hương không bao giờ đủ nghĩa nếu sống trên một quê hương mà ở đó con người bị đối xử như con vật. Sống trên một quê hương mà ở đó con người không có quyền nói những điều họ muốn nói, hát những bài hát họ yêu thích, viết những dòng thơ họ muốn viết. Hai mươi bảy năm qua, những người Cộng Sản đã mang chiếc áo độc tài vong bản choàng lên thân thể đau thương, ốm o, gầy guộc của mẹ Việt Nam, biến thánh địa của thương yêu thành một ngục tù của thù hận. Đỗ Trung Quân chẳng lẽ không thấy ra điều đó.
Cám ơn anh Đỗ Quân rinh về một bài quá hay.
Mời anh và các bạn đọc thêm một bài cũ nhưng cũng hay lắm:
----------------------------
Giáo Già
San Jose, ngày 17 tháng 9 năm 2004.
H.,
Lâu lắm rồi, ba không viết được cho con những lời thư ngọt ngào, không nói được với con những lời nói êm đềm, không có được với con những cử chỉ dịu dàng, như những ngày con còn học ở trường, những ngày cả nhà xúm xít bên nhau, cùng nghe chung một bản nhạc êm dịu, cùng đọc chung một cuốn sách kể chuyện những ngày xưa thân ái nơi quê nhà, cùng xem chung một trận banh trên truyền hình...
Do vậy, thỉnh thoảng Ba muốn viết cho con về chuyện quê hương trước ngày Quốc Nạn, về các khía cạnh êm đềm trong kiếp lưu dân nhiều lận đận nhưng cũng không thiếu thành công, về phận người có khổ nạn, có thù hận, bon chen, mà cũng có lắm tha thứ, thương yêu êm đềm, những thương yêu của cả người quen lẫn kẻ lạ, đùm bọc nhau, và dìu nhau đi trên đại lộ tự do, đôi khi hắt hiu lạnh, như gió chuyển mùa sang thu, thiếu thốn tình người...
Hôm nay, Ba ghi lại đây bài thơ của người “thanh niên xung phong Việt cộng”, có thâm ý, hay bị Việt cộng khai thác, dùng tài làm thơ của y vẽ lên những hình ảnh êm đềm đẹp đẽ của quê hương ngày chưa bị nhuộm đỏ, để đánh lừa dư luận, khiến nhiều người lầm tưởng đó là những nét vẽ “ảo” đẹp đẽ êm đềm của quê hương Xã hội Chủ nghĩa, để dùng nó vuốt ve những nạn nhơn bất hạnh vừa bị Xã hội Chủ nghĩa dìm đến tận cùng của kiếp sống trầm luân, không lối ra khỏi vòng tròn đỏ, ngay từ ngày đầu Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa cưỡng chiếm được Miền Nam Việt Nam; đồng thời, cũng để chiêu dụ những người không chịu nổi sự áp chế vô cùng nghiệt ngã của chế độ độc đảng độc tài, phải liều mạng bỏ nước ra đi làm người tỵ nạn trên khắp cùng thế giới tự do; nhứt là làm mờ mắt thế hệ trẻ, trưởng thành sau tháng Tư Đen năm 1975, ở cả quốc nội lẫn hải ngoại, thành phần chưa biết gì về những tàn ác thâm độc của các cấp lãnh đạo hàng đầu thay nhau chễm chệ ngồi ở Bắc Bộ Phủ Hà Nội, những di hại vô cùng tàn tệ của Xã hội Chủ nghĩạ Đó là “Bài Học Đầu Cho Con” của Đỗ Trung Quân:
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè
Quê hương là vòng tay ấm
Con nằm ngủ giữa mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Đỗ Trung Quân
Cái hình ảnh mà người thanh niên xung phong Việt cộng Đỗ Trung Quân gợi ra đó là hình ảnh của Miền Nam Việt Nam trước ngày Bộ độ Cộng sản Bắc Việt tiến vào Saigon, cho xe tăng ủi nghiêng cổng Dinh Độc Lập, lúng túng bước vào sảnh đường, ngang ngược buộc Tướng Dương Văn Minh ra lịnh các cấp quân nhân Việt Nam Cộng Hòa buông súng cho chúng tiếp thâu toàn bộ chánh quyền và lãnh thổ phía nam sông Bến Hải, đặt tất cả dưới quyền cai trị của chế độ cộng sản độc đảng độc tài, biến cả nước thành trại giam, biến toàn dân thành những người tù không tộị
Cái ngày Đỗ Trung Quân viết thành bài thơ ngọt ngào đó là cái ngày mà tất cả hình ảnh và tình tự quê hương êm đềm được gợi ra đó đã bị vùi chôn dưới đáy vực sâu của thù hận, trong cuộc tắm máu trắng bao la triền miên, trong tù ngục mà tường thành không cần kẽm gai cọc sắt, bởi nó nghiệt ngã ngàn lần hơn kẽm gai cọc sắt, bởi nó là nỗi sợ hãi từng ngày cơm không có ăn, áo không có mặc, từng ngày cầm tờ hộ khẩu chầu chực mua hàng theo tiêu chuẩn gian nan nhục nhã hơn ăn xin ăn mày, cùng với những tai họa không biết từ đâu tới, không có bất cứ một nguyên nhân nào...
Nó chỉ là lớp nước sơn phù ảo che kín thực tế phũ phàng của những cây khế nếu không bị đốn sạch thì cũng ủ rũ héo hon; của những con đường không phải dẫn đến trường học mà mà dẫn đến những bãi rác nồng nặc tanh hôi, cho trẻ con bươi lượm những bao nhựa tái sanh chứa đầy vi khuẩn của những bịnh tật hiểm nghèo; những con bướm vàng bay rợp đất đã được thay bằng ruồi nhặng dơ dáy; những con diều biếc đã vĩnh viễn mất hút trên những cánh đồng nứt khô cỏ cháy; những con đò nhỏ khua nước ven sông đã được thay bằng những chiếc thuyền man rợ của bọn cướp sông cướp biển; những chiếc cầu tre nhỏ, những nón lá nghiêng che, những hoa đồng cỏ nội đã mất hút để được thay bằng lối mòn sỏi đá băng qua những con “kinh đào không có nước chảy qua”; những mái tóc bạc phơ không có cả nón tơi che nắng, chân run rẩy đạp qua những bụi gai lởm chởm của các vùng kinh tế mới; những vòng tay ấm được thay bằng những chiếc còng số 8 của công an phường khóm, công an bảo vệ chánh tri....; những đêm trăng tỏ có hoa cau rụng trắng ngoài thềm cũng được thay bằng những chiếc khăn tang quấn trắng đầu đen đầu bạc, từ trẻ thơ cho đến người già chờ chết; những hoa bí vàng, những mồng tơi tím, những dâm bụt đỏ, những hoa sen trắng cũng được thay bằng những tờ vé số bán dạo, những đôi giày của ngoại nhơn chờ được đánh bóng, những tô nước phở ăn dư của thực khách đến từ nước ngoài, những mánh mung vụn vặt kiếm sống từng ngày...
Phải:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Nhưng đó phải là quê hương không nằm trong vòng tròn đỏ; đó là mẹ không chịu khuất phục dưới áp chế của Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa; và quê hương nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi thành người phải là quê hương của người Quốc gia Việt Nam, chớ không ai đi nhớ thương quê hương đã bị nhuộm đỏ, quê hương phù ảo của nhà thơ thanh niên xung phong Đỗ Trung Quân, ở quốc nội, sau ngày Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa cưỡng chiếm được Miền Nam dân chủ tự dọ
Nó đang bị đe dọa nhuộm đỏ bởi bọn người “đi chưa hết biển”, đang muốn làm chuyện “nếu đi hết rừng”, bọn người “trốn chạy Tổ quốc”, bọn trí thức đỏ “xác Nam hồn Bắc”, bọn phản chiến “đầu tôm đít ngựa” ẩn núp trong các ngõ ngách gian hiểm WJC của UMass-Boston, chờ đón quả bom áp nhiệt cực mạnh của vụ kiện càng lúc càng lớn rộng hơn, của ông Nguyễn Hữu Luyện và tập thể nguyên đơn, mang đủ sức mạnh truy diệt toàn bộ những công trình nghiên cứu thiên lệch của Việt cộng gian dối và phản chiến ngu ngơ, đưa đến tuyệt đỉnh thắng lợi của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản trên khắp cùng thế giới tự dọ
Những gian dối của người thanh niên xung phong Việt cộng Đỗ Trung Quân, đối với những đứa con yêu của quê hương Việt Nam, không chịu đặt trong vòng tròn đỏ, đã không làm hơn những gian dối của Trịnh Công Sơn, đối với Khánh Ly, khi bảo “em ra đi nơi nầy vẫn thế”; bởi thực tế nó đâu vẫn thế, nó là thành phố đã đổi tên, là những con đường đã thay chữ, là những nhà tù giam người không tội, là những trại cải tạo nghiệt ngã hơn cả địa ngục, là những vùng kinh tế mới, là những nông công trường lao động khổ sai... là những chuyến vượt biển vượt biên hãi hùng không ngừng nghỉ, cho mãi đến nửa năm sau 2004 nầy nó vẫn còn tiếp diễn... cho dầu thành tích đổi mới có được ca ngợi từ những xa hoa đĩ điếm, từ tệ nạn tham nhũng khủng khiếp, từ bọn áo gấm về làng hoang dâm vô độ, từ thể chế độc đảng độc tài được người phụ nữ kênh kiệu xuân sắc về chiều Tôn Nữ Thị Ninh - phó chủ tịch Ủy ban đối ngoại Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - lên tiếng xin thế giới cho được duy trì.
Tôn Nữ Thị Ninh
Điển hình sống động cả thế giới đều thấy là người Việt ở vùng cao nguyên vẫn còn được Phủ Cao ủy Tỵ nạn Liên hiệp quốc nhìn nhận tư cách tỵ nạn của những người bị ngược đãi tàn tệ ngay trên quê hương mình, sau non 30 năm bị cộng sản cai trị bằng độc đảng độc tài, với số người trốn thoát khỏi sự đàn áp dã man của Việt cộng ở Tây nguyên, vừa sang được đất Cam Bốt vài ngày trước đây, Thứ Tư 15-9-2004, một số khác còn đang được các viên chức trách nhiệm của Liên Hiệp Quốc tìm kiếm trong rừng sâu mà mọi chậm trễ có thể gây thành chết chóc vì đói ăn và bịnh tật.
Theo tin được đài Á Châu Tự Do phát đi trong ngày hôm đó thì đã có 33 người Thượng Tây nguyên Việt Nam, trốn sang tỵ nạn tại Kampuchia, đã được Liên Hiệp Quốc tìm thấy, trong số nầy có 17 trẻ em và hài nhị Họ rất sợ hãi vì sợ bị bắt. Tòan bộ đều đau ốm và gần suy kiệt vì đóị
Theo tin tức dân địa phương Ratanakiri cho nhân viên Liên Hiệp Quốc biết thì còn khoảng 70 người Thượng khác vẫn còn ẩn náu trong rừng sâu, không dám về Việt Nam, mà cũng sợ Kampuchia bắt nếu lộ diện ra ngoài rừng. Công tác tìm kiếm số người này sẽ được xúc tiến trong ngày 15-9-2004. Đây là đợt đào thoát mới nhất sau ngày bạo quyền Hà Nội đưa quân đội và công an tới cao nguyên miền trung đàn áp các người lên tiếng phản đối về tình trạng tôn giáo mà họ bị ngăn cấm và phản đối phần đất đai bao la Nhà nước đã cướp đoạt của họ, hồi Tháng Tư năm 2004 vừa quạ
Ngoài ra, ông Chung Ravuth, viên chức Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, khi trả lời phỏng vấn qua điện thoại, sau 3 chuyến tìm kiếm người Thượng vượt biên, đã nói rằng: “Họ run sợ khi chúng tôi đến gần, nhưng sau đó họ tươi cười”.
Còn nhớ, năm ngoái, Cambodia đóng cửa văn phòng Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ở vùng đông bắc do áp lực của Hà Nội, nhưng đã mở cửa lại vì các phản đối của thế giớị
Trước đó, theo bản tin ngày 26-8-2004, ghi được từ trại tạm cư ở Ban Lung, tỉnh Ratanakiri, Cam bốt, do Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc quản trị, thì cả một làng Thượng gồm 24 người thèm khát tự do đã vượt biên bất chấp bệnh tật, đói khát, mưa lầy lội, và bóng dáng Công an Cộng sản Việt Nam săn lùng. Tường thuật cho phóng viên hãng thông tấn AFP nghe, Ông Ksor Huaih, 42 tuổi, nói qua lời phiên dịch:
“Chúng tôi đi bộ trong rừng suốt 4 ngày mới tới được biên giớị Chúng tôi đi liên tục không dám ngừng lại để nghỉ hay ngủ... Chúng tôi nhóng tai nghe ngóng suốt thời gian chạy trốn, sợ cả khi nghe tiếng chân thú rừng sột sọat... Chúng tôi sợ hãi vô cùng. Nếu bị bắt lại, chúng tôi có thể chết.”
Huaih nói thêm rằng:
“Cộng sản Việt Nam đàn áp và dồn nén chúng tôi quá mức. Họ lấy đất của chúng tôi để trồng cà phê và mít. Lại còn cấm chúng tôi theo đạo Tin Lành.”
Bên cạnh đó, chị Rolan Min, 32 tuổi, đi tị nạn cùng với nhóm người của ông Huaih, nói rằng:
“Nhà cầm quyền lấy hết đất của chúng tôi, bắt chúng tôi đóng thuế quá cao và cấm chúng tôi cầu nguyện. Chúng tôi không chịu đựng nổi nữạ Sống như vậy cũng như sống trong địa ngục... Chúng tôi là người theo đạo Tin Lành. Chúng tôi muốn hòa bình. Nhưng không có thanh bình trong buôn làng của chúng tôi nên chúng tôi đành phải ra đị”
Xin hỏi Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; xin hỏi bọn người “trốn chạy Tổ quốc” về hùa với WJC; xin hỏi tiến sĩ Trương Hồng Sơn, tức nhà văn Trương Vũ, tay sai của WJC; xin hỏi tên trí thức đỏ Nguyễn Bá Chung; và xin hỏi thẳng WJC: “diện mạo và quê hương” của những người Việt ở cao nguyên nầy có cần được WJC, và đám trí thức loi choi đỏ trong và ngoài đảng Cộng sản Việt Nam, đám chộn rộn ăn theo WJC, làm chuyện “tái xây dựng” khi họ mới ra khỏi nước, chưa biết sẽ được tái định cư ở quốc gia nào, hay không?
Xin hỏi những người Việt nầy có “...gánh trên vai tội bất hiếu với cha mẹ, lừa gạt bạn bè, anh, chị, phản bội tổ quốc để vượt biên”[1] như lời buộc tội của tội phạm Lê Lựu dành cho người tỵ nạn dưới đồng bằng khi được WJC mời làm “khách lịch sử” hay không?
Và xin hỏi họ có là khúc ruột ngàn dặm xa của Nghị quyết 36 của Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hay không?
Cả bọn “trốn chạy Tổ quốc”, bọn “đi chưa hết biển”, bọn loi choi múa đuôi lân đỏ của WJC, và chính WJC, chưa kịp trả lời, thì cuộc Diễn Hành Văn Hoá do Cơ quan Di Dân Quốc Tế (International Immigrants Foundation) tổ chức vào lúc 2 giờ chiều ngày 12 tháng 9 năm 2004 tại Nữu Ước, Hoa Kỳ, giữa nắng vàng hanh của một buổi chiều Thu rực rỡ, với hơn ngàn người Quốc gia Việt Nam tỵ nạn cộng sản hân hoan phất cả rừng cờ vàng ba sọc đỏ trên đại lộ Madison, New York, trải dài hơn 4 blocks đường, đã hùng hồn trả lời cho câu hỏi đó.
Thật vậy, năm nay, phái đoàn Quốc gia Việt Nam tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại, đang lưu cư trên khắp cùng thế giới tự do, tham dự, đã thể hiện chủ đề vô cùng ý nghĩa trên chiếc xe diễn hành mang tên “Người Thượng Miền Tây Nguyên” nhằm nói lên tinh thần Kinh, Thượng một nhà; và cũng để trình bày cho cả thế giới thấy, nói cho cả thế giới nghe, rằng đồng bào Thượng ở Việt Nam đang bị Cộng sản Việt Nam đàn áp dã man.
Trên xe “Người Thượng Miền Tây Nguyên” nầy có khoảng mười bảy thanh niên nam, nữ trong trang phục đồng bào Thượng; và những nhạc cụ, nhạc khí gồm những thanh tre treo nhiều đĩa đồng thể hiện sắc nét độc sáng của thành phần dân tộc Việt Nam bất hạnh đang bị Cộng sản Việt Nam ngược đãi àn tệ nầỵ Khi diễn hành các ca sĩ, nhạc sĩ trên xe trình diễn những ca khúc độc đáo của đồng bào Thượng, lôi cuốn sự chú ý, tán thưởng của quan khách hai bên đường.
Ông Nguyễn Văn Tánh, Chủ Tịch Cộng đồng Việt Nam ở New York, cũng là Trưởng Ban Tổ Chức Cộng đồng Việt Nam tham dự diễn hành này, cho biết có hai mươi bảy phái đoàn Việt Nam, gồm hơn một ngàn đồng hương từ Âu Châu và khắp nơi trên nước Mỹ về tham dự như: Nam California, Bắc California, Texas, Michigan, Chicago..., Pháp quốc...
Có lẽ đoàn diễn hành của Việt Nam đông nhứt, trải dài trên bốn blocks đường, tính từ đoàn người phụ nữ đi đầu cầm bản “International Immigrants Foundation Presents VIETNAM”, hai bên có hai người cầm cờ Hoa Kỳ và cờ Quốc gia Việt Nam, nền vàng ba sọc đỏ; cho đến đoàn xe cuối cùng. Đặc biệt, phế binh Lê Văn Hải ở Maryland, đã tham dự diễn hành bằng xe lăn và cụ bà Lê hị Đạm Trang, 86 tuổi, đi một mình từ Arizona về New York tham dư..
Điều nầy khiến người theo dõi những thắng lợi của người Quốc gia Việt Nam hải ngoại, trong cuộc chiến Quốc-Cộng, trước nguy cơ thảm bại của Cộng sản Việt Nam, và phản chiến Mỹ, nhớ lại trường hợp cụ bà Lê Thị Liễu, 93 tuổi, cũng bất chấp tuổi cao sức yếu từ Toronto (Canada) về Thủ đô Washington D.C. tham dự buổi họp mặt của 600 người từ khắp nơi trên thế giới cùng hội tụ bày tỏ quyết tâm yểm trợ vụ kiện WJC/UMass-Boston đã xúc phạm cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản hải ngoạị
Đi hết biển hay không đi hết biển, diện mạo người Việt tỵ nạn cộng sản dứt khoát không để bất cứ ai viết lại, nhất là những bàn tay tanh máu đỏ, chẳng những không chịu rửa sạch lại còn nhúng thêm máu thù hận, của Lê Lựu, Ngụy Ngữ... cùng bọn người lao nhao láo nháo ăn theo ‘phân’ [fund] đỏ. Mãi mãi nó vẫn là chân dung của người Quốc gia Việt Nam hải ngoại, những người tỵ nạn cộng sản đứng bên ngoài vòng tròn đỏ.
Đi hết rừng hay không đi hết rừng, diện mạo người Thượng ở miền cao nguyên tỵ nạn cộng sản mãi mãi gắn bó với người Quốc gia Việt Nam tỵ nạn cộng sản dứt khoát là chân dung của một thành phần Quốc gia Việt Nam hải ngoạị
Biết như vậy rồi thì mọi âm mưu tách cộng đồng ra khỏi vụ kiện, mang tên ông Nguyễn Hữu Luyện và tập thể nguyên đơn, của WJC và đồng bọn đều thất bại thê thảm, từ Trương Vũ cho đến kẻ trốn chạy Tổ quốc Hoàng Khởi Phong, từ Ngụy Vũ, Hoàng Trọng Thụy cho đến Vũ Ánh, từ những kẻ vừa tiếp tay cho tội phạm vừa sợ vị văng miểng...
Và biết như vậy rồi thì mọi người sẽ thấy rõ sức mạnh của cộng đồng và yên âm yểm trợ vụ kiện đến thắng lợi sau cùng; bởi nó không là thắng lợi riêng của ông Nguyễn Hữu Luyện và tập thể nguyên đơn, mà là thắng lợi chung của cộng đồng bảo vệ sự toàn vẹn diện mạo, quê hương, và danh dự, của người Quốc gia Việt Nam hải ngoạị
Rất tiếc thư Ba đã rời... ngọt ngào, như Ba muốn, từ những dòng đầu, để lưu ý con phải suy nghĩ thêm về cuộc chiến Quốc-Cộng, mà chúng ta đang từng bước đi đến thắng lợi, giữa cộng đồng bao dung độ lượng êm ấm, của non 3 triệu người Quốc gia Việt Nam hải ngoại, và sự chờ đợi của hơn 80 triệu đồng bào còn cơ cực lầm than nơi quê nhà.
Hẹn con thư sau
Giáo Già