phu de
|
ngo_thi_van wrote on 15. Jul 2007 , 04:32:Thu và các em ơi , Tôi xin đố các bạn và các em có ai hiểu được những câu nói địa phương này không , đây là tiếng nhà quê miền Quảng Trị : Đột nác ngoài cươi hứng đã bưa Nồi cơm côi núc lã đang vừa Trét cá trả keng bù đã lọt Ngoài cươi xắc nạng để ngơi trưa
Vân Thưa Cô Vân Em là người Nam rặc nên không biết nghĩa cầu đó nhưng tình cờ em vô trang của Viện Việt Học nghe họ đối đáp nên em rinh ra để Cô và các anh chị xem: Chúc Cô vui khoẻ Em PD -------------------------------------- Quote:Diễn Đàn Viện Việt Học Nguỵ-yến
*đột=lu [tiếng miền Nam]/chum [tiếng miền Bắc] tuy lu không hẳn là chum vì thành lu thẳng còn miệng chum thì thắt lại; không rõ cái đột theo dạng nào *nác=nước; biến-âm a=ươ ta còn thấy trong những cặp chữ tràng=trường, đàng=đường *cươi=sân *bưa=vừa *côi=trên *núc=bếp/lò; nay ta vẫn hay nói "bếp-núc" *lả=lửa; biến-âm a=ươ; phải chăng tiếng Việt xưa đọc là "lả" nên chữ Nôm "lửa=hoả+lã" *trả=nồi nhỏ/niêu *keng=canh *bù=bầu; biến-âm u=âu ta còn thấy như mặc-dù=mặc-dầu, thu=thâu *mói=muối *rào=sông/ngòi *xắc=giặt *nạng=quần *ngỏi=ngủ
-----------------------------
Đột nác ngoài cươi hứng đã bưa Nồi cơm côi núc lả đun vừa Trách cá trả keng bù nêm mói Rào sau xắc nạng đặng ngỏi trưa!
Lời dùng trong bài thơ này thuộc vùng bắc Thừa Thiên từ phá Tam Giang lần ra Quảng Trị - giọng dân quê miền biển. Có thể bài thơ đã bị vô ý sửa đi vài chữ. "núc" có thể là "nắp". Người Huế, nhất là người dân quê không bao giờ dùng chữ "đun" mà dùng chữ "chụm" khi dùng củi, lá, rơm, giấy, nấu cơm. Chữ "đun" dùng mô ngoài bắc. Kẻ Huế "trong dinh" gọi "trách cá", kẻ Huế "ngoài sịa" gọi là "tréc cá", giặt áo quần thì gọi "xát áo, xát quần" như chữ "chà xát". Tôi chưa có dịp nghe ai nói "nạng là cái quần". Chữ "xắc" trong bài thơ có thể là chữ "xéc" có nghĩa là "xách", cùng âm như "cái trách" thì gọi là cái "tréc", nhưng vẫn nói rõ hai tiếng "trách móc, than trách" chứ không phải "tréc móc, than tréc". Chữ "nạng" có thể là chữ "nạnh" trong nghĩa "chống nạnh". "Xéc nạnh" là bưng cái rỗ kẹp vào một bên hông mà đi. Còn nói là "xéc néc" tức là cặp vào nách mà đi.
Có thể ý bài thơ như thế này: "Lấy nước trong bình chứa, vo gạo cho thật sạch để nấu cơm. Cơm cạn, xông lửa thêm trên nắp nồi vừa đủ cho chín đều ngon cơm. Trách cá, nồi canh bầu cần nêm đủ muối. Ăn xong, bưng các thứ ra sau bến mà rửa rồi còn ngủ trưa!"
Nếu đúng như vậy thì bài thơ nên sửa như sau:
Đột nác ngoài cươi hứng đã bưa Nồi cơm côi nắp lả xôn vừa Tréc cá trả keng bù nêm mói Rào sau xéc nạnh đặng ngơi trưa!
Đột: là cái hũ làm bằng đất sét, nung chín, màu đỏ gạch. Thân hình ống tròn, cao khoảng hai gang tay, đường kính hơn một gang tay. Đáy đột có đường kính khoảng gang tay. Miệng đột tròn, đường kính bằng đáy đột. Sản xuất tại làng Đột Đột, bên bờ sông Ô Lâu, vùng Mỹ Chánh, cách thành phố Huế 37km về hướng bắc. Đột thường dùng đựng nước lạnh, nước chè quết. Múc nước trong đột bằng gáo. Không có gáo thì nghiêng đột cho nước chảy vào nồi như khi vo gạo.
Bưa là vừa, là đủ. Bưa chưa? Có nghĩa là đủ chưa? Ăn bắt bưa có nghĩa ăn đến phát ngán!
Xôn là xông, là đốt nắm rơm hơ trên nắp nồi cơm cho chín mướt.
Chuyện nấu xong cơm canh, để đó, xuống sông giặt cái quần xong đi ngủ trưa thấy không ổn!
Tuy nhiên, đây chỉ là một vài ý kiến đơn sơ. Một điều dân Huế không nói nặng như mọi người lầm tưởng. Chỉ có dân từ vùng Sịa trở ra mới có giọng như của bài thơ. Chợ Sịa cách chợ Đông Ba khoảng 20km về phía bắc. Càng ra xa Huế, giọng nói càng nặng. Xin viết vài câu toàn dấu nặng để quý vị xem qua:
"Một mụ mệ nội, đội một bị gạo, đại bự, thiệt nặng, chộ mụ thiệt tội. Tại chợ Sịa, mụ gặp một tụi vẹm, dọa giựt bị gạo, mụ mệ nội sợ, mụ vội liệng đại bị gạo, mụ chạy. Tụi vẹm lượm bị gạo. Chạy một đoạn, mụ bị bộ đội chận lại, gọi "Mẹ! Mẹ!" Mụ học lại chuyện mụ sợ mụ liệng bị gạo. Bộ đội vội rượt tụi vẹm, dặn mụ đợi gạo. Mụ đợi. Diệu vợi! Bộ đội xạo! Mụ xuội!"
Đồ Gàn
|