Luật Nhân Quả Hiển NhiênLƯƠNG TÂM CỦA MỘT Y SĨ
Kính dâng hương hồn Ông tôi:
Thi sĩ Kỉnh Chỉ Phan Văn Hy.
Xin tri ân tất cả những ai đã
trực tiếp hoặc gián tiếp giúp tôi
có đủ tài liệu để viết nên bài này.
Ngô Thị Vân
Nhân đọc lại tập thơ của Ông Ngoại tôi, Kỉnh Chỉ Tiên Sinh, tôi thấy có bài thơ “Nói chuyện với Bạn Đồng nghiệp Bác sĩ Thái Can” sau đây:
Hai cụ lang già ngồi bảo nhau:
Xưa nay có Phúc quý hơn giàu.
Trót đà chịu tiếng làm thầy thuốc,
Thôi chớ đem nghề chẹt kẻ đau.
Biển Thước, Hoa Đà tên vẫn đó,
Thạch Sùng, Vương Khải của còn đâu!
Gắng công ta hãy trồng ‘cây đức’,
Con cháu ta rồi hái quả sau.Tôi nhất quyết phải viết bài ca tụng lương tâm nghề nghiệp của Ông tôi, mặc dù trước đây khi còn sinh tiền, Mẹ tôi đã bác bỏ ý kiến này. Mẹ tôi bảo rằng: “Để thiên hạ khen Ông, chứ mình khen, mọi người sẽ bảo là khoe khoang.”
Dạo ấy, sau khi suy đi nghĩ lại, tôi đồng ý và đành bỏ ý định trên. Bây giờ, nghĩ kỹ hơn, tôi thấy cần phải nêu vấn đề này lên để cho chúng tôi, những cháu chắt của Ông, cố gắng noi theo đức độ của Người.
Chính nhờ “cây đức” đó mà tất cả con, cháu, chắt, chiu của Ông tôi đã vượt qua được bao nhiêu hiểm nghèo với cái chết gần kề bên cạnh.
Thầy Nguyễn Văn Đải đã có lần cho tôi ý kiến là không có ai nói về Ông tôi trung thực bằng con cháu trong nhà. Vậy tại sao tôi lại không dám đề cập đến vấn đề này? Hơn nữa, tôi mong rằng, sau khi đọc xong bài này, quý vị sẽ không nghĩ rằng tôi khoe khoang, mà chỉ muốn mang một thông điệp thức tỉnh lương tâm của một số bác sĩ đã coi trọng quyền lợi cá nhân của mình hơn sinh mạng của bệnh nhân.
Tôi tin rằng luật nhân quả thật quá hiển nhiên, không ai có thể chối cãi được. Sau đây, tôi xin trích dẫn một đoạn trong bài viết của Chú Dì tôi là Ông Bà Tôn Thất Lưu và Phan Thị Như, để dẫn chứng cho thuyết nhân quả này:
“Một thời gian ngắn sau ngày chúng tôi thuyên chuyển về Ninh Thuận, một cuộc thăm vìếng rất đặc biệt đã xảy ra. Một người đàn bà nhà quê mà chúng tôi chưa hề biết mặt, phục sức thật đơn giản, đã đến gặp chúng tôi. Bà tự giới thiệu:
- Tôi tên Bổn, ở Tân Thành, được biết Cô là con Cụ Đốc, đổi về đây làm việc, tôi đến thăm Thầy Cô.
Chúng tôi chưa kịp bộc lộ sự thắc mắc, không biết người đàn bà này là ai mà tỏ ra có nhiều thiện cảm với chúng tôi, thì bà ta tiếp:
- Cách đây hơn 10 năm, tôi bị phong đòn gánh. Ở nhà quê, tụi tôi có biết gì đâu. Khi tay chân bắt đầu giựt giựt, chồng tôi mới thuê xe chở đến bệnh viện tỉnh. Ở đấy người ta từ chối chữa trị và cho rằng đã quá muộn.
Chồng tôi đưa đến phòng mạch Ông Cụ của Cô. Ông Cụ bảo dù đã đến giai đoạn nguy kịch, nhưng còn nước còn tát. Ông Cụ cho toa và bảo chồng tôi đi ngay ra Viện Pasteur Nha Trang mua thuốc. Chồng tôi thiệt thà thưa với Ông Cụ là không có tiền. Không do dự, Ông Cụ móc túi đưa ngay cho chồng tôi đủ số tiền mua thuốc. Thấy chồng tôi vẫn đứng tần ngần chưa chịu đi, như có điều gì muốn nói mà còn ngại, Ông Cụ giục: “Mau lên kẻo không kịp cứu vợ anh đó.” Chồng tôi ấp úng thưa là không có tiền xe đi Nha Trang. Ông Cụ đưa thêm tiền, vừa đẩy chồng tôi ra cửa vừa bảo: “Đi ngay!” Chồng tôi mua thuốc trở về để Ông Cụ cứu sống tôi.
Bà kết thúc: “Cha mẹ sinh tôi lần thứ nhất. Ông Cụ sinh tôi lần thứ hai. Cũng từ ngày ấy gia đình chúng tôi làm ăn khá giả hơn. Tuy nhiên tôi vẫn còn buồn là từ đó đến nay, tôi chưa có cơ hội đền ơn cứu mạng của Ông Cụ...”
Năm 1970, thân phụ chúng tôi qua đời. Sau khi chúng tôi ở Saigon thọ tang về, bà Bổn đến thăm ngay. Sau vài câu chia buồn mộc mạc với chúng tôi, bà xin phép được để tang thân phụ chúng tôi. Những tiếng nấc ngắt quản mấy âm sau cùng, bà khóc không thành tiếng. Đôi vai khẻ rung, nước mắt chảy dài trên má. Bà kéo vạt áo lau nước mắt.
Quan hệ giữa bà Bổn và chúng tôi tiếp tục trong tình trạng tốt đẹp, và có lẽ chẳng có gì đáng nói nếu không có vụ cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam.
Đầu tháng 4/1975, Nha Trang rồi Phan Rang hỗn loạn. Các chuyến bay Phan Rang-Saigon của Hàng không Việt Nam hoàn toàn đình chỉ. Đường bộ bị Việt Cộng cắt đứt khu vực phía Nam Bình Tuy. Chỉ còn đường biển. Chúng tôi về quê bà Bổn, được gia đình bà tiếp đón thật nồng hậu.
Số quân nhân từ miền Trung vào tập trung ở đây khá đông. Số ghe thuyền địa phương có hạn, không đủ để di chuyển số quân nhân này, thế mà ai cũng muốn được lên ghe đi ngay. Chở quá tải chắc chắn vô cùng nguy hiểm. Các chủ ghe đành bỏ trốn. Một chủ ghe định đang đêm lèn đưa một số gia đình đi. Bà Bổn tìm đến điều đình để họ nhận thêm gia đình chúng tôi.
Thoát được về Saigon an toàn bấy giờ, không thể chối cãi được là chính bà Bổn đã giúp gia đình chúng tôi.
Trong trường hợp bà Bổn, thân phụ chúng tôi không những chỉ tận tâm điều trị mà còn cho mượn cả tiền mua thuốc lẫn tiền xe, cốt để có thể kịp thời cứu sống bệnh nhân. Cụ đã làm việc này với tất cả lương tâm của một y sĩ. Hơn thế, Cụ đã làm một cách tự nhiên như hít thở, không tính toán, không cân nhắc hơn thiệt, xem như chuyện đương nhiên...
Khi chữa trị cho bà Bổn, chắc Cụ không nghĩ con cháu hái được quả tốt đẹp đến thế. Lúc tâm sự với Bác sĩ Thái Can, chắc Cụ cũng không ngờ quả lại đến cụ thể và nhanh chóng thế.”
Ngoài ra, tôi còn được nghe nhiều mẫu chuyện về Ông tôi do mẹ tôi và các cậu, dì kể lại. Dạo Ông tôi làm Giám đốc Bệnh viện Quảng Trị, hằng đêm, dầu đã tạm hết trách nhiệm, có thể yên nghĩ với gia đình, nhưng Ông tôi vẫn thường xuyên đi vào bệnh viện để thăm bệnh nhân và kiểm soát công việc của các y tá trực đêm. Một hôm, Ông tôi bắt gặp một y tá trong giờ trực đã đánh bài trong phòng gác. Sáng hôm sau, người ấy khăn đóng, áo dài đen đến lạy Ông tôi, khóc lóc xin hối cải. Ông tôi chỉ la mắng như người cha đối với con mà không phê điểm xấu vào hồ sơ. Từ đó về sau, người này đã làm việc chăm chỉ, tích cực, không bao giờ dám sao lãng trách nhiệm của mình nữa.
Ông tôi còn chữa cho một bệnh nhân rất nghèo khổ, chồng thì chết, con lại đông, phải sống nhờ cha già, nhà lại ở rất xa thành phố. Nửa đêm, người cha đến đấm cửa nhà Ông tôi xin cứu mạng cho con gái. Ông tôi đi theo người này, lội qua nhiều ruộng nương mới đến được nhà. Ông tôi mang theo chai thuốc trụ sinh (do người cháu đi Pháp mua về tặng) mà Ông tôi trân quý như vàng, để chữa cho bà này khỏi bệnh. Về sau, để đền ơn cứu mạng, ông cha và người đàn bà này, mặc dầu nhà nghèo vẫn cố mang đến biếu Ông tôi nào là nếp, bắp, trứng gà... lần nào Ông tôi cũng từ chối và ép mang trở về.
Ngoài ra, Ông tôi còn chữa trị cho những người Mọi ở trên núi, chẳng quản đường sá xa xôi, hiểm nghèo, băng rừng lội suối mới đến được nhà sàn họ, không quản ngại xa xôi và khó khăn như trường hợp sau đây:
Ông tôi đã cứu sống vợ một người Thượng vì nửa đêm chồng bà này đến đấm cửa nhà Ông tôi, quỳ lạy xin cứu mạng vợ anh ta. Bà ta sinh khó ma lại không chịu xuống tỉnh nên đứa bé đã chết trong bụng mẹ.
Đường đi lên núi Du Long ở Phan Rang chỉ có một phương tiện là bằng ngựa, không có đường cho xe cộ, nhưng Ông tôi vì lương tâm nghề nghiệp và lòng nhân đạo đã bất chấp mọi hiểm nguy, bằng lòng đi theo người chồng và đã kịp thời cứu sống người vợ. Ông chồng mừng rỡ chạy ra vườn bắt một con gà rồi quỳ dâng lên cho Ông tôi. Ông tôi cười và bảo lấy con gà đó đi nấu cháo cho vợ anh ta vì bà này cần được tẩm bổ.
Khi Ông tôi ở Ba Lòng, mặc dầu tuổi đã lớn, Ông tôi vẫn hằng đêm không quản ngại tuổi già sức yếu, cố đem tài Biền Thước để mong cứu nhân độ thế. Vậy nên nhà văn Lê Cao Phan, trong bài ca Nam Bình, đã ca tụng Ông tôi như sau:
Nặng ơn cùng Cụ lương y
Mãi còn ghi
Phố phường thôn xóm
Nề khó khăn chi
Đức độ ai bì.
Nhớ đi về
Chốn sơn khê,
Ba Lòng, Đá Nổi, trăm bề,
Mái lều y xá,
Chén ngô khoai giữa rừng cây lá
Tóc bạc da mồi
Vẫn không thôi
Đem tài cứu mạng bao người.Ông tôi luôn luôn xem trọng bổn phận của mình đối với bệnh nhân, như trường hợp sau đây, đã được nhà văn Hoàng Long Hải ghi lại trong tập truyện ‘Quê Ngoại’, đã xảy ra tại chiến khu Chà Cá năm 1948:
“Tây chiếm ngoài thung lũng, bên bờ sông. Hôm sau, họ theo đường mòn vào trong khe tìm bệnh viện. Việt Minh rút lui hết, chẳng đánh chác gì. Khi Tây vào tới trong khe thì Cụ Đốc ra gặp họ...
Biết Cụ là bác sĩ và nói tiếng Tây lưu loát, Tây rất kính trọng và yêu cầu Cụ về. Cụ đồng ý về nhưng với điều kiện là phải đem hết thương bệnh binh của Cụ về theo. Cụ không thể bỏ họ lại được. Thế là Tây biểu mọi người rời khe núi ra ngoài bờ sông, sẽ có ghe tàu đưa về thành phố, ai không đi được thì Tây sai lính của họ khiêng, cáng mà ra...
Tới trưa thì ghe tàu về tới thị xã. Dân chúng đang buôn bán ở chợ, ở phố, nghe tin Cụ Đốc về, thiên hạ bỏ buôn bỏ bán chạy ra bến sông đón Cụ. Có người mừng quá, xông tới nắm tay Cụ mà khóc, cảnh tượng thật cảm động...”
Ngoài ra, chúng tôi còn nhận được nhiều bài viết và những lá thư của người thân, kể lại những kỷ niệm quý báu đối với Ông tôi. Tôi chỉ xin trích ra một vài trường hợp để chứng minh rằng bất kỳ ai đã từng tiếp xúc với Ông tôi cũng đều có một ấn tượng rất tốt đẹp đối với vị lương y này:
- Cố BS Tạ Thúc Phú, tức nhà văn Phụng Hồng, đã nhắc đến Ông tôi trong bài “Đưòng lên Thiên Đường” đăng ở Tạp Chí Hồn Việt như sau:
“Thầy thuốc thi sĩ” có cặp mắt dịu hiền cứu tử - nhưng không kém phần thơ mộng - của đấng từ phụ hiện rõ trong trí tôi như một khúc phim thời sự nóng hổi. Tôi đã hai lần thoát chết, rồi có những kỷ niệm đẹp cũng nhờ vị lương y này mà tôi từng xem như là một ân nhân hiếm có trên đời của một kiếp người mang ơn vĩnh viễn.”
- Cố Khoa Trưởng Giáo Sư Nha Sĩ Trịnh Văn Tuất chỉ gặp Ông tôi một lần, cũng tỏ ý ngưỡng mộ khi viết thư cho cô em Nha Sĩ Ngô Thị Vĩnh: “Thơ của Cụ hay lắm, Cụ lại là một bác sĩ có tiếng đồng thời là một nhà thâm nho về đạo đức...”
- Trong bức thư gửi em tôi, anh Nguyễn Khoa Điềm đã cho biết liên hệ giữa hai gia đình như thế nào:
“Cụ Cố Ngoại là bác sĩ gia đình đã chữa bệnh cho cha mẹ tôi và cũng là bác sĩ đã tổng quát lo cho Mẹ tôi sinh tôi ra. Do đó, trong thời gian gia đình cha mẹ tôi ở Quảng Trị đã vô cùng thọ ơn Cụ Cố Ngoại! Suốt đời chúng tôi không quên ơn Cụ Cố.”
- Ngoài ra, anh Tôn Thất Quỳnh Loan, bạn cùng khóa tại Trường Khải Định cũng đã diễn tả thời thơ ấu khi nhớ lại Ông tôi: “Ngày xưa khi tôi còn nhỏ, đã từng xem Cụ Bác Sĩ như một ông tiên xuống trần để cứu giúp nhân loại. Cảm nghĩ đó đối với vị thầy thuốc đáng kính ấy tôi vẫn giữ nguyên vẹn, cho tới về sau. Hồi nhỏ, mỗi khi tôi đau ốm được người lớn đưa tới nhà thương , lần nào tôi cũng đòi cho được “Cụ Đốc” chữa trị, vì chỉ tin tưởng ở tài năng của Cụ.”
Đọc tập truyện “Quê Ngoại” của Hoàng Long Hải, tôi nhận thấy rằng chẳng ai diễn tả chính xác về lương tâm một y sĩ của Ông tôi bằng nhà văn này:
“Thời Cụ Đốc, không có những sáo ngữ như “lương y như từ mẫu” nhưng với Cụ Đốc, nghề của Cụ là nghề giúp người, cứu người. Thành ra, hễ có ai kêu cứu thì xa xôi cách trở mấy, Cụ cũng đi cứu người cho thỏa cái lương tâm của mình. Có phương tiện di chuyển nào thì Cụ dùng phương tiện đó, không ngần ngại hay chê bai: xe tay (xe kéo), xe đạp, đò, đi bộ và kể cả người ta võng Cụ đi qua những đường làng xa xôi hiểm trở. Miễn làm sao Cụ có thể tới được nơi người bệnh nằm chờ Cụ đến cứu. Thậm chí đối với tù nhân ở Lao Bảo, Cụ vẫn thường tới với họ.”
Trong những dẫn chứng kể trên, có lẽ quý vị cũng để ý đến hai chữ “Cụ Đốc” khi mọi người nhắc đến Ông tôi. Mặc dù có nhiều bác sĩ đồng thời, nhưng danh từ “Cụ Đốc” là tên độc nhất mà dân Quảng Trị thường thân mến dùng để gọi Ông tôi.
Những câu chuyện dính dáng đến lương tâm nghề nghiệp của Ông tôi còn nhiều, nhưng tôi chỉ đưa lên đây vài câu chuyện tiêu biểu để mọi người, nhất là cháu chắt của Ông tôi trong đại gia đình Kỉnh Chỉ hiểu thấu đáo về luật nhân quả. Nhiều thành viên của đại gia đình chúng tôi đã tránh được những tai nạn thảm khốc trong đường tơ kẻ tóc trên đường đời. Đấy cũng nhờ cái Đức mà Ông tôi đã tích lũy để lại cho chúng tôi vậy.
Chúng tôi mong sẽ noi gương của Ông tôi để sống làm sao trồng được “Cây Đức" để tặng lại cho con cháu mình về sau.
Ngô Thị Vân
Thousand Oaks, CA Ngày 25-3-2014