Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - VN và sự đe doạ của Trung Cộng  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Page Index Toggle Pages: 1
Send Topic In ra
VN và sự đe doạ của Trung Cộng (Read 855 times)
Phan_Nguyen
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 33
VN và sự đe doạ của Trung Cộng
18. Oct 2009 , 18:14
 
Xuất xứ :  Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=102637&z=7

Tại sao họ khinh người Việt Nam?


PSN - 19.10.2009 | Ngô Nhân Dụng
Người Việt Online 13.10.09

Vua Lê đánh thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô Ðại Cáo, là “tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ,” rửa sạch mối sỉ nhục ngàn năm chưa nguôi. Rửa nhục, không phải vì đã đánh được giặc Minh, giết được nhiều quân Minh. Nỗi nhục đã rửa “sạch lầu lầu” vì Lê Thái Tổ đã tha mạng cho tướng sĩ nhà Minh, lại còn cho hộ tống về Tầu để khi đi dọc đường không bị dân chúng căm giận mà ngầm giết bớt. Vua Lê nói: “Ví bằng giết đi cho hả giận một lúc, để gánh lấy tiếng xấu giết kẻ quy hàng đến muôn đời; chi bằng hãy cho sống vạn ức mạng người để dứt mối chiến tranh đến muôn thủa, công việc sẽ chép vào sử sách, tiếng thơm sẽ truyền mãi đến ngàn thu, há chẳng lớn ư?”

Nhiều người Trung Hoa không đọc đoạn sử trên, trong Ðại Việt Thông Sử (bản dịch của Ngô Thế Long, in năm 1978 ở Hà Nội, trang 70). Họ không biết thiện chí của Lê Thái Tổ muốn “dứt mối chiến tranh đến muôn thủa.”

Cuối tháng trước, hàng trăm ngư phủ Việt Nam vừa mới bị lính Tầu đóng trên cảng Cần Cẩu cướp bóc, đánh đập, tra tấn sau khi ghé vào trốn bão trên hòn đảo vốn thuộc nước ta nay đã bị Trung Quốc chiếm. Bọn lính Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa đã cư xử như loài hải tặc chứ không phải quân đội chính quy của một quốc gia. Hàng trăm ngư dân từ đảo Lý Sơn và Bình Châu bị đánh đau, nhưng hàng triệu người Việt Nam cảm thấy nhục nhã. Một vụ bạo hành phi pháp như vậy mà người cầm quyền không ngăn cản được dù có 3, 4 ngày để hành động, thì đúng là “thiên cổ vô cùng chi sỉ,” một mối nhục ngàn thu không biết bao giờ rửa sạch!

Lính Tàu bắt cóc ngư dân Việt và đối xử như "tội phạm" ngay trên lãnh hải Việt Nam
Trong khi chính phủ CHXHCNVN không có 1 phản ứng gì gọi là bảo vệ dân mình.

Tại sao quân đội Trung Quốc cho phép tầu Nhật Bản, Hồng Kông vào cảng Cần Cẩu tránh bão một cách trật tự, còn tầu Việt Nam thì bị bắn để ngăn cấm suốt ba ngày; sau cùng phải liều mạng chạy đại vô mới tránh được gió bão? Trong ba ngày đó, cái gọi là Bộ Ngoại Giao của chính quyền Hà Nội đã làm gì? Sau đó, họ đã làm gì khi dân trở về cho biết họ bị bọn “hải tặc” đánh đập, tra tấn, cướp bóc?

Ở một nước dân chủ tự do thì Quốc Hội đã lập một ủy ban điều tra độc lập để tìm hiểu cho rõ ngọn ngành. Nếu chính quyền biết trọng danh dự của dân tộc thì phải lập thức gọi đại sứ Trung Quốc tới Bộ Ngoại Giao lớn tiếng phản đối ngay từ ngày 30 Tháng Chín khi các ngư phủ Việt Nam về tới bến. Phải yêu cầu họ điều tra, trừng phạt những tên lính Trung Cộng phạm tội và bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân. Trong khi chờ đợi, phải triệu hồi đại sứ mình về nước để tỏ thái độ phản đối cho tới lúc nào giải quyết ổn thỏa mới thôi. Phải thưa kiện Trung Cộng trước tòa án quốc tế và họp báo chính thức lên án trên những tên hải tặc mặc quần áo lính Trung Quốc! Nhân dịp này, nêu lại vấn đề chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước công luận thế giới. Ðó là những hành động tối thiểu, cần thiết để bảo vệ danh dự quốc gia. Các nước văn minh đều hành xử như vậy.

Người Trung Quốc cũng đang tranh chấp với Nhật Bản về chủ quyền trong vùng biển Ðông của họ, là Ðiếu Ngư Ðài với mấy hòn đảo diện tích tổng cộng chỉ có 7 cây số vuông, hiện do người Nhật chiếm đóng, đặt tên là Senkaku.

Ngay sau vụ các thanh niên Nhật Bản tới xây hải đăng trên đảo những năm 1978 và 1996, có những đoàn thanh niên từ Hồng Kông, Ðài Loan, rồi sau đó đến người Trung Quốc tổ chức đi thuyền đến Ðiếu Ngư Ðài cắm cờ quốc gia của họ lên đảo.

Tháng Ba năm 2004 một nhóm bẩy thanh niên từ lục địa Trung Quốc đổ bộ lên Ðiếu Ngư Ðài, họ bị quân tuần phòng Nhật Bản bắt. Tình cảnh những người này không giống như các ngư phủ Việt Nam đã bị Trung Cộng bắt giữ gần đây, vì những người Việt bị bắt hoàn toàn vô tình, không ai có ý tiến vào Hoàng Sa để xác nhận chủ quyền. Nhưng năm 2004 chính phủ Bắc Kinh phản đối, buộc Nhật trả các thanh niên của họ về nước.

Ðài Loan là một nước nhỏ so với Nhật Bản, mà hai bên giao thương rất mật thiết, quyền lợi kinh tế rất lớn. Nhưng không phải vì thế mà chính phủ Ðài Bắc khiếp nhược, im lặng và tảng lờ khi dân Ðài Loan bị xúc phạm vì Ðiếu Ngư Ðài. Tháng Sáu năm 2005 một chiếc tầu đánh cá tư nhân của Ðài Loan tới gần Ðiếu Ngư Ðài bị tầu tuần duyên Nhật Bản ngăn chặn, giữ để xét hỏi. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã phản đối kịch liệt, gửi một chiến hạm tới quanh Ðiếu Ngư Ðài để bầy tỏ sự tức giận của dân chúng Ðài Loan. Trên chiếc tầu này có ông bộ trưởng quốc phòng và vị chủ tịch Quốc Hội, cho thấy chính quyền một nước tự do dân chủ tự nhiên phải chứng tỏ họ biết lo chung mối lo của nhân dân.

So sánh các biến cố trên với những vụ các “tàu lạ” đâm vào mạng sườn tầu Việt Nam giữa đêm, hoặc bắt cóc các ngư dân Việt Nam đòi tiền chuộc trong vùng Hoàng Sa, và đến vụ đánh đập, cướp bóc các ngư dân Lý Sơn và Bình Châu bây giờ, thì thấy khác nhau xa. Khác không phải vì người Nhật biết cư xử lịch sự văn minh hơn người Trung Quốc. Khác không phải là chính phủ Nhật biết kính nể dân Trung Hoa dù ở lục địa hay ở Ðài Loan. Khác là vì từ chính phủ Bắc Kinh cho đến những người lính Trung Cộng đóng ở cảng Cần Cẩu không ai cần tỏ ra biết kính trọng dân Việt Nam.

Chúng ta phải tự hỏi tại sao quân Trung Cộng trong cảng Cần Cẩu biết kính trọng luật hàng hải quốc tế để đối xử với tầu, thuyền nước khác theo lối loài người văn minh, mà lại trở mặt, biến thành những hải tặc dã man khi gặp người Việt Nam?

Không thể nghĩ rằng chính phủ Bắc Kinh có chính sách kỳ thị, ra lệnh cho quân lính của họ coi người Việt Nam như quân thù. Chính quyền một nước lớn thường vẫn phải tỏ ra họ tôn trọng những luật pháp quốc tế. Ngoài ra, chính phủ nào cũng phải ra lệnh cho quân lính cứu người trong lúc lâm nạn, không để quốc gia họ bị mang tiếng bất nhân. Hành động dã man của quân lính Trung Cộng có thể do họ vẫn được lệnh đối xử với ngư dân Việt Nam như vậy, để cho mọi người Việt Nam khác phải sợ mà lánh xa. Hoặc chính những người lính này thấy cơ hội có thể cướp bóc thì không ngần ngại ăn cướp ngay. Khi không ăn cướp được thì tra tấn. Quân lính Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa thì cũng là người, những người được huấn luyện quân phong, quân kỷ. Tại sao họ đang tâm cướp bóc, đánh đập người Việt Nam như thế? Người Việt đã làm gì để đến nỗi bị họ thù ghét?

Xem cách họ táng tận lương tâm, tra khảo man rợ thì thấy không phải là họ chỉ thù ghét mà đúng ra là họ khinh rẻ. Họ coi khinh các ngư phủ Việt Nam, khinh mọi người Việt Nam. Ðối với kẻ thù, người ta cũng còn có khi tỏ lòng kính trọng và ra tay giúp đỡ khi hoạn nạn để chứng tỏ mình hào hiệp. Chỉ khi nào trong lòng khinh bỉ, nhìn những người trước mặt mình mà không coi đó là những con người ngang hàng, thì họ mới đối xử theo lối của loài muông thú.

Vậy tại sao những người lính Trung Cộng lại coi khinh người Việt Nam như thế?

Năm 1974 sau khi đánh chiếm được Hoàng Sa, quân Trung Cộng còn kính trọng những người lính Hải quân Việt Nam Cộng Hòa bị bắt; đưa tù binh về Hải Nam chữa vết thương và cung cấp lương thực, rồi trả các tù binh trở về theo quy luật quốc tế, mặc dù hai nước không có quan hệ ngoại giao. Người lính Trung Cộng hồi 35 năm trước khác người lính bây giờ hay sao? Hay là cách họ nhìn người Việt Nam từ đó tới nay đã thay đổi?

Chúng ta cứ nhìn thấy cách chính quyền Bắc Kinh đối xử với chính quyền Hà Nội mà suy ra. Ðối với chính quyền Bắc Kinh, đảng Cộng Sản Việt Nam là một bọn người vô ơn bạc nghĩa. Lê Duẩn đã sửa cả hiến pháp ghi những lời lên án Trung Quốc, rồi hoàn toàn thần phục Liên Xô để chống Trung Quốc, gây nên hai cuộc chiến tranh biên giới. Mười năm sau, Liên Xô và các nước Cộng Sản Ðông Âu sụp đổ, viện trợ giảm dần cho tới lúc cạn kiệt. Từ năm 1992, đảng Cộng Sản Việt Nam đã “quy hàng” một cách nhục nhã. Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười, xin được vào triều kiến nhưng Ðặng Tiểu Bình chỉ cho phép đến thành phố Thành Ðô gặp gỡ, lại bắt phải đem Phạm Văn Ðồng đi theo. Suốt những năm trước guồng máy tuyên truyền ở Hà Nội vẫn gọi ông ta là Ðặng Lưu Manh, bây giờ toàn bộ nhóm lãnh đạo mất chỗ dựa ở Mát Cơ Va nên phải trở lại cầu cạnh Ðặng Lưu Manh. Hỏi có ai thấy thế mà không khinh bỉ?

Thái độ khinh bỉ đó đã thấm từ trên xuống dưới. Cho nên dân Trung Hoa bây giờ nhiều người cũng coi thường mọi người dân Việt Nam. Ðọc các bản hồi ký của những viên cố vấn Trung Cộng đã sang giúp Việt Nam đánh Pháp chúng ta thấy thái độ khinh thường đó. Tất cả các hồi ký đều mô tả những quyết định và chuẩn bị chiến lược, việc thi hành các trận đánh, áp dụng các chiến thuật, đều do các cố vấn quyết định, từ trận Cao Bằng đến Ðiện Biên Phủ. Tướng sĩ Việt Nam thì bị mô tả là sợ khó, chóng mệt mỏi, phải có các cố vấn Trung Quốc thúc đẩy mới đánh tiếp. Có lúc Trần Canh dọa nếu không đánh tiếp thì ông ta về Bắc Kinh, không trở lại nữa, thế là phải nghe lời ông ta! Không những thế, các tướng cố vấn Trung Cộng như Trần Canh, Vi Quốc Thanh, lúc nào cũng điện về Bắc Kinh hỏi ý kiến, được Quân ủy Trung ương Trung Cộng chuẩn ý trước khi cho bên Việt Nam thi hành. Người Việt Nam biết tự trọng tất nhiên phải nghi ngờ các lời tự thuật đó, không thể tin là đúng hoàn toàn. Nhưng điều đáng nói ở đây là thái độ của giới quân sự Trung Quốc đối với Việt Nam là một thái độ khinh thường, coi rẻ. Các bạn trẻ ở Việt Nam hãy tìm trên mạng lưới sẽ đọc được tất cả những thứ hồi ký đó để tự mình suy xét.

Cũng giống như thái độ của quân đội, nhiều dân thường bên Trung Quốc cũng mang lòng khinh rẻ người Việt, nước Việt. Chúng ta đã thấy trên nhiều mạng lưới của giới trẻ Trung Quốc họ đưa lên những kế hoạch đánh chiếm Việt Nam như thế nào, dùng bao nhiêu quân, đánh vào những đâu. Rồi họ bàn cãi, tranh luận với nhau, coi chuyện đánh Việt Nam như một trò chơi điện tử.

Trước các hành vi đó, chính quyền Cộng Sản Việt Nam không dám ngỏ một lời phản đối. Trái lại, mỗi khi có người Việt Nam nào dám đặt vấn đề với Trung Quốc thì chính quyền Cộng Sản bắt bớ, bỏ tù. Báo chí cả nước không được nói đến những vấn đề “nhậy cảm.” Nhìn thấy cách cư xử đó, người không khinh cũng phải sinh lòng khinh rẻ.

Trong vụ lính Trung Quốc cướp và đánh các ngư dân Việt Nam tránh bão, mạng lưới một tờ báo vừa cho đăng tin này, với những hình ảnh và lời phỏng vấn, tường thuật, thì chỉ vài giờ sau đã bị cắt ngay. Nhật báo Người Việt đã đọc và lưu lại bài đó trước khi bị cắt cho nên mới có cơ hội loan tin.

Tư cách chính quyền một nước hèn hạ như vậy, làm sao người ta không khinh được?

Mối nhục “thiên cổ vô cùng chi sỉ” ở đó mà ra!
Back to top
 
 
IP Logged
 
Phan_Nguyen
YaBB Newbies
*
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 33
Re: VN và sự đe doạ của Trung Cộng
Reply #1 - 22. Oct 2009 , 20:37
 
Xin được giới thiệu cùng mọi người bài viết mới của Hà Sĩ Phu, một sĩ phu Việt nam ở trong nước. Bài này được đăng tải trong Bauxit Viet Nam, một trang Web do một số trí thức trong nước, trong đảng cũng như ngoài đảng CS chủ trương. 

Bauxit hiện là một mối nhức nhối của toàn thể con dân Việt Nam và có thể dẫn dắt đến việc mất nước vào tay của người CS Trung Hoa. Muốn rõ thêm chi tiết, xin mời quí bạn ghé lại

http://bauxitevietnam.info/

Trân trọng,
PN

   
Từ vụ Bauxite nghĩ về vận nước


Hà Sĩ Phu

1. Chủ nghĩa Mác liên quan gì đến vụ bauxite và nguy cơ mất nước của Việt Nam?

Thực tế cho thấy: Muốn bàn luận về vụ Bauxite không thể không đề cập rốt ráo đến quan hệ Việt-Trung. Rồi tiếp tục, không thể nào bàn luận quan hệ Việt Trung mà không cày xới những vấn đề gốc rễ nằm trong chủ nghĩa Mác-Lê là chủ nghĩa đã chi phối và quyết định động thái, số phận của hai nước Cộng sản này. Không thể đạt kết quả gì hữu ích nếu chỉ bàn chuyện khơi khơi trên ngọn.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói “Yêu quý nhất Sự thật”, tôi muốn thêm : Cứ đi đến tận cùng Sự thật sẽ nhìn thấy lối ra!. Vậy nên, cho phép tôi khỏi phải giữ “Lễ” kiểu “quân tử Tàu”, để được tiếp cận vấn đề từ gốc.
*
Trước đây, một số đảng viên Cộng sản chân thật, khi đọc bài “Chia tay Ý thức hệ” (1995- hasiphu.com), đến câu “Đã theo chủ nghĩa Mác-Lê thì sự phản bội chỉ còn là vấn đề thời gian, chính Mác nếu còn sống cũng không thể trung thành với một lý thuyết như thế ” thì không chịu. Nhưng gần đây, do vụ Bauxite, gặp lại tôi, nhiều bác đã bảo : Chú nói đúng, nhưng chẳng lẽ một đảng cứu nước lại chuyển hoá thành một đảng bán nước ư, kỳ lạ thật ?

Sao lại có chuyện phản bội tưởng như ngược đời ấy? Cố ý hay vô tình?

Nguyên nhân dễ thấy chính là do ảo tưởng về một thế giới “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”, lấy lý tưởng giai cấp để xóa nhòa ranh giới quốc gia thì chỉ làm mồi cho những nước cộng sản lớn, đặc biệt là khi nước lớn ấy đã lấy chủ nghĩa bành trướng Đại Hán làm động cơ truyền kiếp và đã có thừa trí khôn để biết ảo tưởng  Mác-xít chính là công cụ tuyệt vời để chiếm đoạt thiên hạ.

Nhưng ngoài lý do bị lừa do ảo tưởng , còn có hai lý do khác nữa.
- Lý thuyết Mác-Lê phi lý thì tất yếu bị thời đại đào thải, nhưng còn cả một hệ thống quyền lực do nó đã trót tạo ra, với đặc quyền đặc lợi hơn cả vua chúa, thì hệ thống ấy phải tìm mọi cách để tự vệ, tránh cuộc đào thải. Đảng cộng sản nhỏ (cầm quyền) phải dựa vào đảng cộng sản lớn mới tồn tại được. Sự nương tựa quá lớn này ắt phải trả giá, mà đảng CS nhỏ có gì để trả giá ngoài quyền lợi của đất nước mình? Cho nên phải bán, lúc đầu tưởng chỉ bán một phần là được, nhưng nước lớn cáo già đâu có dễ dàng để cho con mồi có thể thoát ra? Giả sử không còn cộng sản Trung Quốc thì đương nhiên cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn khác. Vụ Bauxite nếu không dính dáng đến Trung Quốc thì vấn đề chỉ “nhỏ như con thỏ”!

- Ấy là xét về động cơ của giới cộng sản cầm quyền (điều này cũng dễ nhận ra, vì chẳng có kẻ cầm quyền nào lại tự nguyện rút lui), nhưng còn nhân dân? Xin thưa, điều tệ hại nhất của chủ nghĩa Mác-Lê chẳng những đã tạo ra một hệ thống quyền lực tuyệt đối mà, tệ hại hơn, nó tước hết “vũ khí” của nhân dân, nhất là vũ khí tinh thần và vũ khí tổ chức: bị trói trong vòng kim cô của ý thức hệ, của luật pháp XHCN, của ý thức tổ chức và tất cả xã hội dân sự bị biến thành xã hội thần dân của đảng cộng sản. Cứ đối chiếu với các nước văn minh sẽ thấy ngay nhân dân ở các nước cộng sản được “làm chủ” hay làm “đày tớ” như thế nào. Và như đứa trẻ đã chịu nằm gọn trong tay người bế ẵm thì dân sẽ được “nựng” bằng đủ lời ru ngon ngọt, và nếu không “ngoan”thì đã có roi. Khi nhân dân đã bị vô hiệu thì vận mệnh đất nước nằm gọn trong tay người cầm quyền. Việc mua bán đâu cần hỏi dân làm gì?
Nguy cơ mất nước nằm trong 3 nguyên nhân ấy.

2. “Nước đổ lá khoai” trong vụ bauxite.


Những ai theo rõi diến biến về vụ Bauxite từ khi có trang web bauxitevietnam.info hẳn không khỏi ngạc nhiên, vì sao những tiếng nói phản biện của phía nhân dân, mà đại diện là giới trí thức tiên tiến của dân, những người có thông tin, có tâm và có tầm, đã lên tiếng đầy đủ đến thế, có lý có tình thuyết phục đến thế, mà đến nay vẫn như nước đổ lá khoai, mà giới có quyền vẫn ăn nói và xử sự như không hề có làn sóng phản biện ?

Minh hoạ cho hiện tượng một bên cứ thắng một bên cứ thua này không gì bằng ví dụ khôi hài mà nhà báo Ngô Nhân Dụng đã mô tả trong bài “Dân chủ cũng như luật đá banh” (Nguồn: x-cafevn.org). Cái sân bóng đá dân chủ XHCN đặc biệt này dốc như sườn đồi, đội nhà nước thì ở bên cao, cầu môn lại hẹp, cầu thủ được quyền đá ẩu, chơi cả bằng tay. Đội của dân thì ở phía thấp, cầu môn lại rộng…, nên để tự nhiên là bóng cứ tự động lăn vào lưới của dân, bên nhà nước cứ đá lờ vờ cũng thắng.

3. Thương nhau thì lại bằng mười phụ nhau.


Tại sao Mác lại thiết kế ra cái “sân bóng đá” quái gở như trên? Chính vì Mác muốn cho Vô sản thắng trăm phần trăm, Tư sản thua trăm phần trăm nên đã thiên vị.
Điều oái oăm và bi kịch là:  những hậu quả tai hại ấy lại khởi đầu từ những mục đích rất thiện và rất cao cả. Mác muốn trừ khử những bất công, muốn đổi đời cho tất cả những ai bị áp bức, nhưng Mác không hiểu những quy luật tất yếu của xã hội, nên đưa ra những phương án rất không cân bằng, rất thiên vị , nghiêng hẳn về giới cần lao bị trị. Mác chia phần gần như 100 phần trăm cho phía bị trị, giới thống trị bị coi là kẻ thù , chỉ được trú chân tạm thời rồi bị đẩy ra ngoài cuộc chơi, để cho giới bị trị tự chia thành hai đội (nội bộ tự quản) rồi chơi với nhau.

Nhưng nhà thiết kế Các Mác tốt bụng đã lầm to. Do quy luật cạnh tranh sinh tồn nên sau khi bọn thống trị cũ bị tống cổ ra khỏi cuộc chơi thì cái đội “lãnh đạo” từ nội bộ tách ra sẽ chiếm ngay lấy phía sân trên cao, đẩy đa số còn lại về nửa sân phía thấp, và nó cứ duy trì cái sân nghiêng sẵn có và không bao giờ chịu đổi sân nữa. Đội bóng “lãnh đạo” mới này nguy hiểm hơn đội “thống trị” cũ, không thể bị phế truất vì nó vẫn nhân danh là “đội của dân”, hơn thế còn là “đày tớ” tức là có tính “nhân dân” hơn cả nhân dân (nếu dân đã là vô sản thì đội ngũ này còn “vô sản” chân chính hơn nữa kia), nên theo quy định của Mác thì đội này hoàn toàn có quyền làm chủ sân bóng, vừa đá bóng vừa thổi còi,và cứ thế, đội “lãnh đạo” thắng hết trận này đến trận kia trên cái sân nghiêng, không tốn một giọt mồ hôi.

Nếu hiểu đúng quy luật thì Mác phải thấy cả hai cực cai trị và bị cai trị bao giờ cũng song song tồn tại, nên phải thiết kế một sân chơi bằng phẳng, có luật nghiêm minh, không thiên vị bên nào, và cứ sau một hiệp lại phải đổi sân , người lãnh đạo cũ lại trở về dân, dân lại cử người khác làm lãnh đạo. Cái độ nghiêng thiên vị xưa kia của Mác nhằm ép giới thống trị, nay bị đánh tráo và sự hẩm hiu lại ép vào phía nhân dân.

Thiết kế sân chơi như gợi ý của Montesquieu, J.J.Rousseau mới chính là sân chơi công bằng, khách quan, hợp quy luật tiến hoá.

Thế là Mác muốn làm ơn mà nên oán. Học thuyết giải phóng kẻ bị trị lại biến thành lá bùa để kẻ mạnh tước đoạt của kẻ yếu, nước mạnh tước đoạt của nước yếu, cứ ngọt sớt, vì cuộc tước đoạt có vỏ bọc là những “chữ vàng” tuyệt đẹp như một cuộc hợp tác từ thiện hay một cuộc tự nguyện hiến dâng.

Nói cách khác, học thuyết Chuyên chính Vô sản là bà đỡ cho cả nạn NỘI XÂM lẫn NGOẠI XÂM, hai kẻ sinh đôi này tất nhiên câu kết với nhau để cùng tước đoạt quyền làm chủ của dân đối với đất nước. Vong hồn Mác chắc chắn vẫn còn nợ giới cần lao một lời tạ lỗi vì sai lầm lý thuyết ấy.

Hậu quả là  ngày nay bất cứ người cộng sản nào cũng phải chọn  một trong hai sự “PHẢN BỘI” không thể thoái thác: hoặc là phản lại (hoặc từ bỏ) học thuyết sai lầm để trung thành với nước với dân (cũng là trung thành với tấm lòng và mục tiêu chân chính của Mác), hoặc là cứ “trung thành” với học thuyết sai lầm thì lại phản dân tộc, phản tiến hoá. Người cộng sản tử tế chọn cách “phản” thứ nhất! Còn phần lớn người cộng sản có quyền bính trong tay thì chọn cách “phản” thứ hai, và gọi sự “phản” của họ là đức tuyệt đối trung thành. Thái độ im lặng thực chất là gián tiếp đồng loã với cách phản bội thứ hai.

4. Đặc điểm một cuộc xâm lăng kiểu mới đối với nước ta.
Nếu chủ nghĩa bành trướng Đại Hán muốn tái hiện một cuộc Bắc thuộc đối với Việt Nam thì sẽ gặp thuận lợi gì và khó khăn gì?

Thời Pháp thuộc Việt Nam chỉ mất nước chứ không có khả năng đồng hóa Dân tộc ta. Trong lịch sử, Trung Hoa đã nhiều lần muốn đồng hoá Dân tộc Việt Nam, vì họ thừa biết một Dân tộc bị đồng hoá thì bị mất nước vĩnh viễn. Mặc dù có ưu thế của ảnh hưởng Khổng giáo, của nhiều tập tính Đông phương và có biên giới gần gũi để di dân nhưng những thứ đó vào Việt Nam đã bị Việt Nam đồng hoá theo cách riêng của một Dân tộc có phong cách riêng và biết tự tôn nên mưu đồ đồng hoá thất bại.

Ngày nay, những nhân tố ấy vẫn còn, lại được thêm sự hỗ trợ cực kỳ hiệu quả của giáo lý Mác-Lê, của lá bùa xây dựng thiên đường XHCN và khuôn khổ tổ chức Xã hội chủ nghĩa. Lê Chiêu Thống ngày xưa không mảy may điều hành được xã hội, còn Lê Chiêu Thống ngày nay thì khả năng ấy có thừa.

Trong lịch sử 4.000 năm đã có bao giờ bị thất thủ mất đất mất biển đơn giản như thế, đã có bao giờ bị ngoại bang cưỡi lên giữa lưng, tóm lấy yết hầu, chi phối nhân sự dễ dàng như thế? Đã có bao giờ người cầm đầu xã hội bạc nhược đến mức không dám gọi đến tên kẻ đã đánh giết dân mình chứ chưa nói đến có gan chống lại?
Xã hội dân sự rất èo uột vì bị quản lý đến tận hang cùng ngõ hẻm, chỉ biết tuân theo. Đã thế lại bị ảnh hưởng tiêu cực của lối sống thực dụng, màu mè lai căng (thờ phụng một cầu thủ bóng đá, một M.Jackson, nhưng không coi Tổ quốc ra giá trị gì), của tâm lý cầu an chán nản sau chiến tranh quá dài, của thói dối trá và cách sống luồn lọt- xin cho, của lối sống vừa vô cảm vừa tàn bạo, của sự thiếu hụt và tan vỡ lý tưởng nên mất niềm tin, của sự bất lực trong giáo dục…khiến cho đạo đức suy đồi, lòng người ly tán. Một quốc gia như vậy là một quốc gia yếu, làm mồi ngon cho xâm lăng.

Khả năng bị đồng hóa toàn diện nặng nề hơn bao giờ hết. Đã có sự nhập cư ồ ạt không thể kiểm soát của những người Tàu không rõ lý lịch. Thông tin cho biết nhiều kẻ nhập cư lậu thuộc loại chất lượng xấu nhưng vừa chiếm chỗ lao động, vừa lấy được 2-3 người vợ Việt Nam để sinh đẻ cho nhiều ! Chẳng những sẽ bị Hán hóa mà còn lưu manh hóa và mông muội hóa để thành những tộc dân mọi rợ. Dân tộc bị thoái hóa thì sẽ mất nước vĩnh viễn, trở thành quận huyện của người ta, uổng công tổ tiên nghìn đời xây đắp.

Nhưng không phải kẻ xâm lược chỉ gặp thuận lợi. Khó khăn là lịch sử đã dạy cho dân Việt Nam hiểu người láng giềng khổng lồ quá rõ. Dùng mưu mô khó bịp được nhau. Còn dùng vũ lực ư, thì Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa… còn đó chứ đã mất đi đâu?

5. Giải phóng dân mới cứu được nước.


Chân lý muôn đời là chỉ có Dân mới cứu được nước. Nhưng thế của Dân hiện nay như thế của một đội bóng trong một cái sân nghiêng rất khó chịu như đã mô tả ở trên: đội “Nhân dân” ở cuối dốc, cầu môn lại rỗng ruễnh, trọng tài là người của bên kia lúc nào cũng sẵn sàng thổi phạt. Mà đội “lãnh đạo” trên đỉnh dốc nay lại thuê rất nhiều “cầu thủ ngoại xâm” cao to và hung dữ, chỉ rình “nuốt sống” đối phương! Đội “nhân dân” chỉ còn cách thúc thủ?

Muốn nhân dân phục hồi sinh lực tất nhiên phải nâng cao DÂN TRÍ và xây dựng một XÃ HỘI DÂN SỰ cường tráng. Nhưng sẽ không thể làm được một việc gì hết nếu không đồng thời cải biến chính cái “sân chơi” kia (mà Mác đã thiết kế): phải giảm dần độ nghiêng đến mức nằm ngang, phải lập lại tổ trọng tài, phải trừng trị kẻ chơi xấu và không được cấm cản cầu thủ đội “nhân dân” một cách vô lý…vân vân…

Nhân dân khác nào vị tướng tài bách chiến bách thắng nhưng còn đang bị giam lỏng, phải trả tự do ngay cho vị tướng này.

Tóm lại là : Khi tiến hành nâng cao DÂN TRÍ và xây dựng Xã HỘI DÂN SỰ phải đồng thời xử lý những giáo lý và thiết chế Mác-xít mới mong giải phóng được sinh lực của Dân tộc, làm nhân tố quyết định để giữ nước. Lịch sử đã tạo ra vấn nạn gì thì lại tạo tiền đề để giải quyết vấn nạn ấy. Một ảo tưởng, trái quy luật đã theo lòng yêu nước xâm nhập vào trong một cuộc chống ngoại xâm, thì khi điều kiện lịch sử ấy qua đi, sẽ được chính lòng yêu nước tiễn đưa ra, cũng bằng một dịp chống xâm lược! Một nguy cơ biết đâu lại chẳng là một cơ hội ?
Xây dựng Xã hội Dân sự là sự nghiệp của toàn dân, những người tiên phong có thể là giới trí thức tiên tiến và giới trẻ tiến bộ, nhưng rất cần những điểm tựa tinh thần đang hiện diện. Các vị tướng Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Trọng Vĩnh, Đồng Sĩ Nguyên, Lê Văn Cương…, vốn là những nhân vật bảo vệ nền Độc lập, nhưng trước mối an nguy của vận nước trong vụ Bauxite đã cất tiếng phản biện đanh thép, không khoan nhượng, tự nhiên đã thành biểu tượng của Dân chủ. Cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn của Dân tộc đã gắn hai yếu tố Độc lập và Dân chủ lại với nhau. Những vị tướng QUÂN SỰ nếu có thể trở thành những vị tướng DÂN SỰ trong một xã hội Dân sự thì thật đáng mừng.

Trong Xã hội Dân sự thì hai giới NHÀ BÁO Dân chủ và LUẬT SƯ Dân chủ là hai trụ cột cực kỳ quan trọng, nên người muốn phá Xã hội Dân sự bao giờ cũng kiềm chế hai giới này.

Quy chế về cái gọi là “Lề phải” chính là một ngụy biện nhằm mục đích kiềm chế ấy.

Đà Lạt ngày 26-7-2009
HSP

________________________________________
PHỤ LỤC :
Khi chuẩn bị viết bài này, một thân hữu từ Côn Đảo đem về cho tôi một hiện vật rất liên quan và có ý nghĩa. Đó là một trong số rất nhiều cột mốc của Trung Quốc sản xuất hàng loạt , cắm quanh Côn Đảo, nhằm khẳng định Côn Đảo là thuộc về Trung Quốc, thế đấy ! Tôi gửi đến các độc giả ảnh chụp chi tiết cột mốc này. (HSP)
Cọc mốc của Trung Quốc cắm trên lãnh hải Việt Nam (sát Côn Đảo)
(Hiện vật thu thập tại chỗ)               Hà Sĩ Phu – 12/ 7/ 2009

Cọc mốc cao 50 cm đúc bằng nhựa cứng chuyên dụng

4 chữ THỔ ĐỊA GIỚI TIÊU (Cột mốc địa giới) khắc ở mặt trước và mặt sau của cọc

Mặt trên của cọc mốc cũng khắc chìm 4 chữ THỔ ĐỊA GIỚI TIÊU
vvv
Back to top
 
 
IP Logged
 
thubeo
Gold Member
*****
Offline


thuxưa

Posts: 3951
Gender: female
Re: VN và sự đe doạ của Trung Cộng
Reply #2 - 26. Aug 2010 , 20:06
 
Ô Nhục Ải Nam Quan


Chân Mây




LGT: Những bức ảnh của tác giả Chân Mây trong tập ảnh "Ô Nhục Ải Nam Quan" là những tài liệu lịch sử vô cùng giá trị. Chúng nói lên sự bán nước trắng trợn của chế độ cộng sản Việt Nam.



Xin trân trọng giới thiệu tập ảnh "Ô Nhục Ải Nam Quan" của tác giả Chân Mây đến cùng quý độc giả trong ngoài nước.


...

 


Ven trời góc biển buồn chim cá
Dạn gió dày sương tủi nước non
Thượng Tân Thị


Bi thương thay cho lịch sử Việt Nam!
Từng cây số trên quê hương là từng giòng máu lệ, máu của cha ông ngăn thù và máu của hai miền huynh đệ chan hòa vào nhau trong hoan lạc dành cho Quốc tế Cộng Sản. Và đang trở về đây là những bước chân âm thầm của ngàn năm nô lệ. Kết qủa từ công cuộc nhuộm đỏ mạo danh “độc lập, tự do, hạnh phúc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đồng bọn.



    Hãy tiếp tục nhìn những gì mà CSVN đang ra sức thực hiện: “Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan không thuộc lãnh thổ Việt Nam!”. Họ cố chối bỏ lịch sử Việt Nam và ra sức tranh cãi, biện luận với dân Việt thay cho Trung Cộng. Ô nhục! Từ quan đến quân, CSVN chỉ là một lũ tôi mọi dâng đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang bằng văn tự công hàm, hiện rõ hình hài là một bọn quái thai chưa từng có trong lịch sử nhân loại! Chấp bút cho đề tài “Ải Nam Quan”, thay vì tranh luận bằng văn chương, tôi sẽ sử dụng giá trị của những tư liệu bằng hình ảnh. Bởi vì, đã có rất nhiều nghiên cứu công phu của các tác giả yêu nước Việt nồng nàn đã là qúa đủ để khẳng định
   
“Ải Nam Quan là của Việt Nam! Ải Nam Quan thuộc về Trung Cộng là do sự hiến dâng của Đảng CSVN!”.
Những hình ảnh sẽ lưu lại đây để cho con cháu chúng ta hiểu rõ hơn niềm bi thương của đất nước, chỉ cho các em bọn bán nước hiện đại là ai. Để rồi không còn ngày phải tôn thờ hỉnh Hồ-Mao và màu cờ máu chỉ còn là một kỷ niệm buồn. Rất buồn!

    Hãy xác tin rằng: “Nước Việt của em từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau” là mãi mãi!


    Chương I
 
  NHỮNG HÌNH ẢNH LỊCH SỬ



    Trong chương này, việc sắp đặt hình ảnh về Ải Nam Quan sẽ dựa theo sự thay đổi của lối kiến trúc v.v. mà phân chia thành các nhóm hình theo ký tự A,B,C…Để sự diễn tả rõ ràng hơn, những hình ảnh bên phía Trung Cộng (hoặc Trung Quốc theo thời đại) sẽ gọi là “Trấn Nam Quan” “Mục Nam Quan” v.v…; ngược lại, nhũng hình ảnh bên phía Việt Nam sẽ gọi là Ải Nam Quan hoặc cổng Nam Quan theo đúng tinh thần lịch sử. Phân chia như sau.
    - Nhóm A: họa đồ “Trấn Nam Quan” của Trung Quốc (đánh số A1 đến A4)
    - Nhóm B: có chung kiến trúc (đánh số B1 đến B4)
    - Nhóm C: có chung kiến trúc (đánh số C1 đến C4)
    - Nhóm D: có chung kiến trúc (đánh số D1 đến D2)
    - Nhóm E: không xác định (E1 đến E3)
    - Nhóm F: hình quân sự và bản đồ (đánh số F1 đến F6)
    - Nhóm Phụ ảnh: Một số phụ ảnh bất định sẽ đưa trực tiếp vào nơi hình cần thêm minh họa.


   
Diễn tả
    1, Nhóm hình A:

    Trước hết, ta có hai bức họa theo lối sơn thủy về hình ảnh “Trấn Nam Quan” trong đời nhà Thanh (Trung Quốc). Niên đại của cả hai được cho rằng họa vào đời vua Ung Chính khi xảy ra cuộc chiến Trung- Pháp (1884-1885)


   
A1. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ”
(1) Còn gọi là “Thanh Quân Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (Họa đồ bố trí phòng thủ Trấn Nam Quan của quân Thanh). Đây là bức họa các vị trí đóng quân của nhà Thanh nơi Trấn Nam Quan bên trong nội địa Trung Quốc. Địa hình đồi núi khái lược. Cổng ra vào với Ải Nam Quan của Việt Nam nằm tại cạnh phải của bức họa (có đóng khung).

...




   
A2. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (2)

    Các vị trí đóng quân của nhà Thanh nhìn từ hướng Việt Nam. Không hiểu tại sao bố cục của bức họa này lại rất giống với bố cục trên bưu ảnh (tham khảo hình B1) do người Pháp chụp vào đầu TK20 (hoặc cuối TK19?) . Có thể bức họa này dựa theo tài liệu của người Pháp mà vẽ ra. Giá trị của bức họa này so với bưu ảnh (B1) là do sự quan sát của người Trung Quốc vào thời đại cũ nên ta thấy được kiến trúc nguyên thủy của Ải Nam Quan bên phía Việt Nam. Ta thấy có một cổng lớn, hai bên cổng là hai dãy tường thành dâng cao nhưng bị cắt ở hai bên lưng núi. Một khoảng sau cổng mới đến phần cổng có mái ngói. Từ phần cổng mái ngói này có dãy tường thành chạy dài lên đỉnh núi. Đó là phần Trung Quốc. Các điểm này tương xứng với bưu ảnh (B1).

...


   
A3. “Trấn Nam Quan Đại Chiến”
Minh họa cảnh giao chiến giữa quân Pháp và quân Thanh tại cổng Nam Quan vào năm 1885. Niên đại của bức họa không rõ nhưng ta thấy tường thành có kiến trúc giống cổng Ải Nam Quan của hình A2.

...

 
  A4. “Trấn Nam Quan Đại Lâu Đồ”
Mô tả cảnh quân Pháp rút quân và binh lực quân Thanh tại Trấn Nam Quan. Hãy quan sát vị trí cổng theo khung hướng dẫn trong hình.
...


 
  2, Nhóm hình B:

    Bưu thiếp (Carte Postale) phong cảnh Ải Nam Quan do người Pháp thực hiện vào đầu thế kỷ 20. Các nhật ấn sưu tầm được trên bưu thiếp sử dụng từ năm 1908-1912.

 
  B1. Ải Nam Quan nhìn từ độ cao ở Đồng Đăng
Vẫn dựa theo tường thành phía Việt Nam là hai đoạn ngắn nhưng phần cổng đã thay đổi thành cổng nhỏ. Phía Trung Quốc là cổng lớn và cao hơn, thiết kế hai mái ngói và tường thành chạy dài lên núi giống các bức họa đã nêu trên. Có lẽ sau giao tranh vào năm 1885. Cổng phía Việt Nam đã bị phá hủy nên được xây lại không còn qui mô như xưa.
    Khoảng trống đến phần cổng phía Trung Quốc là vùng cảnh giới của hai bên vì dựa theo hình phía bên Trung Quốc ta sẽ thấy có sự đối xứng (tham khảo nhóm hình C).
...


    Phụ ảnh:(B1) Ảnh màu để xác nhận hai phần mái ngói đỏ.

...



    B2. Ải Nam Quan nhìn từ hướng Đồng Đăng

    Ta nhận thấy sự cao thấp của hai phía cổng và cánh phải của tường thành phía Việt nam cũng dừng ở ngang núi theo như họa đồ Trung Quốc (A1). Ở góc phải phía dưới hình là một ụ trắng phủ cỏ xanh, dấu tích lô cốt của quân đội Pháp (tham khảo hình F1 sẽ thấy rõ vị trí lô cốt nhìn từ bên Trung Quốc).

...

   
B3. Bang giao tại Ải Nam Quan

    Quan sát các nhân vật trong hình, ta thấy ở cạnh trái có binh lính Việt Nam đứng thành hàng dài. Giữa cổng đi ra là hàng phu khiêng kiệu đội nón vải rộng vành của quân nhà Thanh (chở quan viên?). Ở cạnh phải của hình có những người nhà Thanh đội nón và kết tóc đuôi sam. Có lẽ đang diễn ra một sự kiện nào đó trong lịch sử bang giao tại Ải Nam Quan.
    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 800x512 và nang 161KB.

...



   
B4. Cổng Ải Nam Quan
Cổng đóng then gài, cỏ mọc cao ngất ngưỡng. Hoang tạnh. Trong lời nhắn trên bưu thiếp cho ta biết cổng được tu phục vào năm 1908. Nhật ấn “Lạng Sơn”. Xác nhận bờ tường thành chỉ còn dấu thang bậc đi lên để so sánh với tường thành phía bên Trung Quốc (nhóm hình C).
    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 800x512 và nang 122KB.

...


   
Phụ ảnh: Đường lên Ải Nam Quan từ Đồng Đăng


...



    3. Nhóm hình C

 
  C1. Trấn Nam Quan (1)

    Nhìn từ bên Trung Quốc. Kiến trúc ở đây đã khác. Phần mái ngói lớn phía dưới đã mất, chỉ còn lại phần mái ngói bên trên và cấu trúc mái cũng khác. Chỉ có dãy tường thành là vẫn chạy dài lên trên. Cạnh trái trên đỉnh núi có doanh trại. Phía dưới trước mặt cổng có cụm nhà ngói. Kiến trúc thay đổi có lẽ do sự phá hủy trong cuộc “Khởi nghĩa Trấn Nam Quan” do Tôn Trung Sơn lãnh đạo vào năm 1907. Để dễ phân biệt với nhóm hình chụp từ phía Việt Nam ta sẽ quan sát thêm sự khác nhau của địa hình đồi núi.

...

   
C2. Trấn Nam Quan (2)

    Mặt bằng của Trấn Nam Quan. Bờ tường thành chia theo lô khác với hình thang bậc bên phía Việt Nam. Ta thấy rõ bên phía Trung Quốc cũng có khoảng cách so với cổng lớn (Quan). Một án tường trắng đối diện cổng là theo lối phong thủy ngày xưa tránh sự dòm ngó thẳng vào nhà mình từ phía bên ngoài (ngay trong các kiến trúc cổ của Việt Nam từ đình làng đến lăng miếu ta sẽ nhận ra điểm này). Theo sử liệu Trung Cộng, cụm nhà nhỏ phía trước cổng lớn (nơi có hai nhân vật áo trắng đang đứng) là miếu thờ Quan Công gọi là Quan Đế Miếu và Đền Chiêu Trung. Sau đó vào năm 1896 trong chương trình khảo sát biên giới giữa Trung háp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9 điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm 1914 xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp nên còn gọi là “Pháp Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu” vẫn còn tồn tại cho đến nay.
    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 800x504 và nang 165KB.

...




    C3. Toàn cảnh Trấn Nam Quan

    Có một khu trại và hai dãy nhà mái lá cách xa với cổng lớn ở cạnh tâm phải của hình. “Trấn Nam Quan” là đây! Khởi nghĩa Tôn Trung Sơn là đây! Khu di tích này giờ chỉ còn là ruộng nước, gọi là “khu di chỉ Trấn Nam Quan Khởi Nghĩa”. Các khung trong hình dùng để xác định vị trí so với hình C4.
    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 800x516 và nang 75KB.

...




    C4. Trấn Nam Quan (3)

    Trên bưu thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village” rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn) trong đất Trung Quốc. So sánh các khung vị trí với hình C3:
    Dãy nhà lá và con đường đất ở giữa, trước mặt là cụm nhà ngói và tán cây. Ngang ở tâm trái của hình là bờ tường thành. Phía góc phải là vách núi đá (đá vôi?) trắng.
...


    Chữ “Trấn” trong văn tự trung Quốc có rất nhiều nghĩa, như “trấn giữ”, “trấn áp”, “trấn tĩnh”, “trấn địa”…v.v. đều là chỉ việc gìn giữ, ổn định. “Trấn” còn là một đơn vị hành chính sau cấp huyện có từ thời xưa tại Trung Quốc (đơn vị hành chính Việt Nam thời xưa cũng thường sử dụng). Trong một số sử sách Việt Nam có nói “Trấn Nam Quan” nằm trong nội địa Trung Quốc. Thì đây, “Trấn Nam Quan” đã xác định là những hình này! Khối nhà lợp mái ngói ta sẽ hiểu là khu nhà quan binh, hai dãy nhà lá là khu dân cư dựa theo binh đội để có cuộc sinh hoạt yên bình. “Trấn” là khu phố nhỏ, làng mạc. Đừng làm lệch lạc lịch sử và đừng theo luận điệu của bọn bán nước mà cho rằng “Ải Nam Quan phải gọi là Bắc Quan”. Chữ “Nam Quan” là do Trung Quốc kiêng kỵ Việt Nam nên không muốn gọi là “Đại Nam Quan” mà thôi. Chữ “Quan” là chiếc cổng qua lại. “Đại Nam Quan” hay “Nam Quan” là cửa ngõ giao thiệp với nước Việt Nam. Hai bên đã thủ lễ với nhau bằng khoảng trống ở hai bên cổng lớn. Theo sử liệu, sau chiến tranh Trung- Pháp thì nhà Thanh đã chiếm giữ cổng lớn và buộc phía Việt nam phải cách xa cổng là 100 thước. Việc này ta thấy tương đương với khoảng cách của hai cổng trong nhóm hình B.


    4, Nhóm hình D

   
D1. Cổng Nam Quan (1)
Đây là một kiến trúc khác hẳn so với các nhóm hình trên. Có vẻ sơ sài vì đã mất hẳn phần kiến trúc phía trên trong cuộc nội chiến tại Trung Cộng vào năm 1949. Ta thấy có dáng một nhân vật đang cầm súng. Tiêu đề trên bưu thiếp “NAM QUAN (Tonkin)…” đây là bên phía Việt Nam khi qua cổng nhỏ để đứng sát với cổng lớn (vào lúc này có lẽ kiến trúc cổng nhỏ cũng đã mất). Theo sử liệu Trung Cộng, trong cuộc giao tranh vào năm 1949 thì toàn bộ phần trên cổng đã bị phá hoại hoàn toàn (tham khảo hình E2).
...

   
D2. Cổng Nam Quan (2)
Hình đăng trên tạp chí “National Geographic” do GS Nguyễn Văn Canh đưa lên mạng và không rõ niên đại. Một số bạn nghi ngờ bức ảnh này không chính xác với hình ảnh của Ải Nam Quan. Tuy nhiên so sánh với hình D1, ta đã thấy kiến trúc cùng kiểu của hai hình. Tại đây, dãy tường thành chạy lên cao đến vách núi trắng tương ứng với hình C3-C4, có thể xác định là hình được chụp từ cao điểm bên phía Việt Nam.

...

   
5, Nhóm hình E

   
E1. Không xác định (1)
Một hình ngôi chùa trên đường đi Long Châu nơi có cổng giao thiệp với Việt Nam là Bình Nhi Quan. Cùng với Nam Quan và Bình Nhi Quan còn có Thủy Khẩu Quan là 3 cổng quan yếu để vào đất Việt Nam nên gọi chung là “Tam Quan”, có khi cổng Nam Quan còn gọi là riêng là “Tam Quan” do ở vị trí quan trọng hàng đầu so với hai cổng Bình Nhi-Thủy Khẩu. Nơi hình này có tiêu đề “Chine - NAM QUAN – Loc Hang Thiap”. Chưa rõ chữ “Loc Hang Thiap” là gì nhưng hình xác định là Nam Quan trên đất Trung Quốc, có phải là một ngôi chùa trong “Trấn Nam Quan” hay không? Hay là thuộc Trấn Bình Nhi Quan?
    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 800x518 và nang 112KB.

...



   
E2. Không xác định (2)
Quân đội Trung Cộng đứng trên tường thành giương cờ trong cuộc chiến thắng quân Tưởng Giới Thạch vào ngày 11.12.1949 tuyên bố giải phóng Quảng Tây. Thế tường thấp với cổng và trên mặt tường cổng có chữ “Trấn Nam Quan”.

...

 
  Phụ ảnh:
Hình chụp chính diện của Trấn Nam Quan trong ngày giải phóng Quảng Tây tháng 12.1949. Trên mặt tường cổng thành ta thấy rõ chữ “Trấn Nam Quan”. (phòng trưng bầy lịch sử Hữu Nghị Quan)
...


    E3. Không xác định (3)
Quân đội Trung Cộng đứng trước cổng nhỏ có khắc chữ “Trấn Nam Quan”. Không rõ niên đại của hình. Chung với hình E2, có lẽ đây là “Trấn Nam Quan” mà tôi đã giải thích (mục 3, nhóm hình C).

...



    6. Nhóm hình F

 
  F1. Toàn cảnh Ải Nam Quan
Do trinh sát quân Nhật Bản chụp vào tháng 6 năm 1940 trước khi tiến hành “cuộc chiến 3 ngày” nhằm đạt mục đích đưa quân vào lãnh thổ Đông Dương. Hình được mô tả: “…thấy được đường xe lửa Lao Cai-Côn Minh. Lại có đường xe ô-tô từ Đồng Đăng lên tận Trấn Nam Quan. Bờ tường thành này bên trong là đất Trung Quốc, ngay bên ngoài là Bắc bộ Đông Dương”.

    Từ cao điểm như trong hình ta thấy rõ vị trí lô cốt như đã xem qua hình B2. Có khả năng lô cốt đã xây dựng trên một nền kiến trúc cổ xưa của Việt Nam . Và còn “Suối Phi Khanh” nơi thấm lệ của Nguyễn Trãi, có ai nhận ra chưa?…Nước mắt!

    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 1024x768 và nang 235KB.
...

   
Phụ ảnh: Liên quân Pháp-Việt (trường Sĩ quan Đồng Đăng)
Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước quân Nhật (25.09.1940)

    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 1024x768 và nang 224KB.


...



   
F2. Cột Mốc Số 18
Do quân đội Nhật Bản chụp tháng 7 năm 1940 ngay tại tường thành Trấn Nam Quan. Cột mốc số 18 lịch sử xác định biên giới Trung-Việt vào năm 1887. Xác định lãnh thổ bảo hộ của thực dân Pháp tại Đông Dương và cũng là khởi điểm Nam tiến của quân đội Thiên Hoàng giao tranh với các nước Châu Âu.

    Trên Cột mốc số 18 ta đọc được: “Trung Việt Quốc Giới, Trấn Nam Quan Ngoại, Đệ Thập Bát Hiệu - No.18 FRONTIERE” Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 768x1024 và nang 199KB.
...

 
  F3. Bản đồ vị trí Trấn Nam Quan và cột mốc số 18
Do chính quyền Tưởng Giới Thạch họa vào năm Dân Quốc 13 (1925). Khu vực Trấn Nam Quan và cột mốc số 18 (có đóng khung)

    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 1024x669 và nang 61KB.
...

   
F4. Hữu Nghị Quan (tên gọi cổng Nam Quan do Trung Cộng đặt ra vào năm 1965)
Đây là một bằng chứng sống động nhất cho kết qủa “bác cháu ta cùng giữ nước” trong thời cộng sản cầm quyền tại Việt Nam. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng (tham gia chiến tranh biên giới Trung-Việt 1979) chụp vào năm 2005. Các vạch và khung đánh dẩu trên ảnh là của tác giả ảnh và được giải thích như sau.
...

    “Hình trên là từ trên núi Kim Kê chụp xuống. Bên trái là Hữu Nghị Quan, vòng tròn màu vàng là cao điểm tranh chấp Trung-Việt, hiện thời do quân ta khống chế; Vùng màu xanh lá cây hình tam giác là khu vực gài địa lôi. Vạch dài màu tím là con đường sắt qua lại với Đồng Đăng. Vùng trắng giữa hình có hai cửa đường hầm là điểm cuối của cao tốc Nam Ninh đến Bằng Tường”

    Nguyên văn:
    上图]这是在金鸡山上往下拍的。左侧是友谊关,黄圈部分为
越有争议的高地,目前为我军控制;草绿色的三角为雷区 ,蓝线是通往同登的铁路。图片中间灰白处有两个遂道洞口
南宁至凭祥高速公路的终点站。
    Tham khảo tại đây:
    http://military.china.com/zh_cn/hist...2461442_1.html

 
  Tôi xin thuyết minh thêm.
Núi Kim Kê là cao điểm chiến lược nằm ở cánh trái cổng Nam Quan, ngay vị trí chụp ảnh của tên cựu chiến binh này chính là đất Việt Nam. Khu vực tam giác trong hình chính là khu vực của cột cây số Km0 của Việt Nam là nơi mà vào đầu tháng 7.2007, phía Trung Cộng đã tuyên bố hoàn tất gỡ bỏ tấm đạn địa lôi (mìn) cuối cùng, bảo đảm thông thương an toàn cho “vùng Hữu Nghị, Hòa bình vạn tuế!”. Trong các hình ảnh của chương tiếp theo ta sẽ rõ hơn về vị trí này. Ở đây ta đã có khái niệm về việc Ải Nam Quan đã mất trong cự ly ra sao! Việc mất lãnh thổ qủa là nghiêm trọng! không phải là 100m, 150m, hoặc 200m. Cự ly trong hình có thể tính bằng Km! Hai lỗ đen gần giữa tâm hình là đường ra vào của cao tốc Nam-Hữu (Nam Ninh-Hữu Nghị Quan với chiều dài 179.2 Km. Nam Hữu khởi công vào ngày 28.04.2003 và chính thức khai thông vào ngày 28.12.2005, cũng là đường quốc lộ số 322 của Trung Cộng với điểm tận cùng giáp với Km0 của QL1 Việt Nam. Một âm mưu mới hơn đang hình thành!).
    Như ta thấy, cả một vùng đồi núi của Việt Nam đã bị Trung Cộng ngang nhiên san bằng và xây dựng công trình trong nhiều năm, vẫn không hề có một chút phản ứng nào của bọn cầm quyền CSVN. Hay nói đúng hơn là đã có một sự thỏa thuận nhượng Ải Nam Quan từ hàng chục năm trước?

 
  F5. Ảnh chụp vệ tinh vị trí của Hữu Nghị Quan
Khu vực Hữu Nghị Quan (đóng khung) so với đường biên giới Trung-Việt màu vàng. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng thiết kế để mô tả lại chiến trận biên giới Trung-việt năm 1979. Lúc này, Hữu Nghị Quan đã nằm sâu trong đất Trung Cộng từ đời…Hồ Chí Minh!
...

 
  “Con đê đầu khấn lạy Chư Phật mười phương…” Ải Nam Quan đã mất, Đất thiêng đã mất! Có ai còn nhớ Phi Khanh-Nguyễn Trãi?

    -----------------


   
Chương II: “Kẻ Bán Ải Nam Quan và Km Zéro ô nhục!”

    (Năm 1966. Công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan tuyên thệ trước khi vào VN làm nhiệm vụ)

...

    (Thiết đạo binh: công binh đường sắt TC giả dạng bộ đội VN)
...

    (Năm 1966. Quân chính qui TC giả dạng bộ đội VN tuyên thệ tại Hữu Nghị Quan. Hướng về TC đồng thanh hô lớn: "Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!". Trong ảnh là Sư đoàn 62 Cao Xạ TC)
    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 940x896 và nang 126KB.
...

    (Tham gia tra tấn tù binh Mỹ tại VN)
...

    (Tham gia bắt sống phi công Mỹ tại VN. Người cầm ảnh là cựu chiến binh TC tham chiến tại VN )
...

    (Huy chương "Đoàn Kết Chiến Thắng Giặc Mỹ" do chính HCM ký tặng)
...

    (Hoặc do PVĐ ban thưởng)
...

    (Năm 1968, hai bác Hồ - Mao đi từ Ải Nam Quan cùng mang vũ khí vào gây tang tóc cho dân miền Nam VN)
...

    "Nam man! Ta cho ngươi cơm ăn, áo mặc, ta cho ngươi súng đạn, nhưng chính ngươi đã lấy súng đạn bắn vào da thịt ta!” (người anh em đồng chí TC nói!)
...

    Hoa Kiều tại Việt Nam bị cưỡng chế hồi hương năm 1978
...

    Ngày 25.08.1978, khoảng trên 200 quân Việt Nam dùng vũ lực bắt buộc Hoa kiều phải hồi hương đi vào khu vực Hữu Nghị Quan. Lúc 17g30 cùng ngày, ngay trước cổng Hữu Nghị Quan, quân Việt Nam đánh chết 6 người, 82 người bị thương, 15 người chạy thoát. Công tác viên phía Trung Cộng lên tiếng cảnh cáo và xung đột đã xảy ra giữa hai bên cán bộ Trung-Việt. Ba ngày sau, quân Việt Nam tiếp tục tràn lên vùng biên giới tìm kiếm những Hoa kiều đang bỏ trốn… Chiến tranh biên giới Trung-Việt bắt đầu từ đây, cuộc chiến mà Trung Cộng lấy cớ “tự hào” là “Tự Vệ Phản Kích”. Ải Nam Quan thêm một lần nữa chứng kiến xung đột Trung-Việt. Nhưng từ sau cuộc chiến này, Trung Cộng đã đẩy lui lãnh thổ Việt Nam ra khỏi Ải Nam Quan và bỗng xuất hiện cột mốc có tên gọi “Km0” thần thoại, nằm cách xa cổng Nam Quan hàng trăm thước.

 
  Dấu đạn giao tranh Trung-Việt trên khắp tường thành "Hữu Nghị Quan"

...

   
Trung Cộng ca khúc khải hoàn trở về cổng Hữu Nghị Quan sau chiến thắng

...

   
Ngày 28.05.1980, Trung-Việt tiến hành trao trả tù binh tại "Km0" trên đường Đồng Đăng dẫn vào khu vực Hữu Nghị Quan

    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 1024x515 và nang 80KB.
...

   
Phụ ảnh tham khảo "Cột Mốc Số 18" giả mạo (?)


    Đây là "Cột Mốc Số 18" mà TC cho rằng đã đặt tại cổng Nam Quan. Khác với "Cột Mốc Số 18" theo Hiệp ước Pháp-Thanh (đã trình bầy nơi chương I). Trên cột mốc này khắc rằng: "BORNE.18 ANNAM-CHINE, Đệ Thập Bát Bài, Đại Pháp Quốc Việt Nam, Đại Trung Hoa Dân Quốc Vân Nam". Lịch sử nào ghi rằng Pháp thay mặt VN ký kết Hiệp ước Biên giới với chính quyền của Tưởng Giới Thạch? Loại cột mốc này là cùng kiểu với cột mốc số 53 tại khu vực Thác Bản Giốc. Những cột mốc thật sự của Hiệp ước Pháp-Thanh đã tiêu biến nơi đâu ? Không ai biết rõ hơn biên giới Trung-Việt bằng Đảng CSVN, nhưng họ có nói gì không về hiện tượng này? Lặng câm! Ta nên nhớ, trong đề cương của Đảng CSVN do HCM soạn ra vào năm 1940 đã chủ trương một cách mù quáng: "Không công nhận bất cứ văn kiện, hiệp ước nào của thực dân Pháp thay mặt VN ký kết với quốc gia khác!"
    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 1024x718 và nang 405KB.
...

    Sự ra đời của “Km 0” cho đến nay vẫn rất khó hiểu. Theo “truyền thuyết”, “Km 0” ra đời vào năm 1960 và Phạm Văn Đồng đã trồng cây si để đánh dấu vị trí. Có thực sự là PVĐ trồng cây si để đánh dấu vị trí biên giới Trung-Việt hay không? Hay chỉ đơn thuần là việc trồng cây kỷ niệm một sự kiện nào đó? (thói màu mè của CSVN). Năm 1958, chính tay PVĐ đã ký văn bản dâng biển cho Trung Cộng, bản đồ Bắc Việt thì Đảng CSVN dâng cho Trung Cộng vẽ, trong thời điểm lệ thuộc sự viện trợ của Trung Cộng thì làm sao nói chuyện căng thẳng biên giới, lãnh hải được. Còn cây si là cây si nào? Cây si thuộc loại cây nhiệt đới có sức tăng trưởng và phát tán rất nhanh. Không thể nào cho rằng cây si mà PVĐ trồng là cây si đứng sau cột “Km0”. Hãy xem hình (so sánh với cây si trước cổng HNQ ở chương II).

 
  Năm 1979, hai tên Trung Cộng đang chỉ vào vị trí cột mốc “Km0”.


    Cỏ cây rậm rì, một gốc cây nhỏ phía sau (cây si từ năm 1960?). Phải chăng vị trí cột mốc chẳng phải bị di dời đi hàng trăm thước nào cả. Nó đã nằm đó từ những năm 1960, như một thỏa thuận “hữu nghị” khi HCM dành trọn Ải Nam Quan để tiếp nhận vũ khí của TC gây máu lửa trên miền Nam Việt.
...

 
  "Km0" trong những năm 1990. Biên phòng VN đứng gác nhưng quay mặt về phía VN. Đáng nể!


...

    "Km0" trong những năm đầu 2000, khi đang xây dựng lại cảnh quan "Hữu Nghị" và kế hoạch cao tốc Nam-Hữu . Lúc này trên cột còn ghi "Hữu Nghị Quan" và "cây si PVĐ" còn đó
...

    "Cây si PVĐ" bị đốn bỏ dã man vào năm 2005. Cột mốc cũng chỉ còn chữ "Hữu Nghị". Đảng CSVN không dám nhận thêm chữ "Quan". Xóa bỏ vĩnh viễn lịch sử để làm vừa lòng đàn anh TC!
...

    "Km0" của VN trơ trọi so sánh với bia đá "Nam Cương Quốc Môn" của Trung Cộng phía sau . Ở vị trí này ta không còn thấy cổng Nam Quan!
    "Km0" của VN trơ trọi so sánh với bia đá "Nam Cương Quốc Môn" của Trung Cộng phía sau . Ở vị trí này ta không còn thấy cổng Nam Quan!
...

 
  "Km0" trong những ngày năm 2006.

    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 1024x768 và nang 214KB.

...


    Gần lại một chút . Hành lang trắng bên tay phải dẫn vào khu vực Hải quan TC.

    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 813x641 và nang 211KB.

...


    Nhìn sang bên phải để thấy rõ hơn cổng đường hầm cao tốc Nam-Hữu và Cổng kiểm soát của Hải quan TC
.

    Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 900x675 và nang 223KB.
...

   
Ngang với "Km0" là giao điểm Quốc lộ 322 (điểm cuối) của TC và Quốc lộ 1A (điểm khởi đầu) của VN!


...



    "Trung Quốc Quốc Đạo 322 Chung Kết Điểm"


...


 
  Nhìn sang VN. Đi thêm khoảng 100m nữa mới tới Cổng kiểm soát của Hải quan VN. Khoảng cách "thủ lễ" đã xuống dưới chân Ải Nam Quan trong thời cộng sản. Không còn nằm trước mặt cổng Nam Quan như ngày xa xưa. Đúng vậy! Ải Nam Quan nào là của VN? Bọn Ô nhục!
Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 843x577 và nang 153KB.
...

 
  Hàng trăm thước đất của Ải Nam Quan là cả một đoạn đường dài hàng ngàn năm lịch sử của Việt Nam, nơi mà tổ tiên Trung Cộng phải bao lần cay đắng nuốt hận…Đất biển tổ tiên mất qúa dễ dàng! Đảng CSVN vẫn một mực nói như Trung Cộng, công nhận lãnh thổ bắt đầu từ cột “Km0”. Đảng CSVN đã chà đạp lên hồn thiêng sông núi, thay ngọai bang thảm sát dân tộc, giết chết lịch sử quê hương!
    ------------------------------
    Ngày 18.10.2005, Việt cộng TT Nguyễn Tấn Dũng ra đón khách Trung Cộng ngay tại Km0. Ôi, tư cách của một TT? Hai tay xun xoe chào đón quan thầy Trung Cộng. Không ai trong đám cộng sản thời đại này còn "bản lĩnh" đi qua lại Cổng Nam Quan để đón khách như Hồ Chí Minh của những năm 1950. Vẫn cười đấy! Hèn mọn, bé nhỏ là thế!


...


    Ngày 28.12.2005, cao tốc Nam Hữu chính thức khai thông nối vào khởi điểm Quốc lộ 1A của Việt Nam
...

    Những người dân quê Đồng Đăng bị bắt đứng ra chụp hình ngay tại giao giới biên cảnh Trung-Việt. Họ đứng trên khởi điểm của QL 1A như làm nhân chứng cho lịch sử bán nước của Đảng CSVN. Những khuôn mặt muộn phiền, ngơ ngác.
...

 
Ngay cả những đứa bé Trung Cộng mù lòa cũng được nắm tay cho sờ vào thành tích của cha ông chúng!

    Còn người Việt Nam? Có ai dám cảm tử cầm máy ảnh ra chụp tại khu vực này hay không? Thi nhân Bùi Minh Quốc bị cấm cố vì tấm hình ôm cột mốc Trung-Viêt. Nhà báo Điếu Cày có mấy tấm chụp tại Thác Bản Giốc mà giờ còn nằm trong Chí Hòa. Và tôi cũng từng bị biên phòng VN hành hung khi tay lăm le chiếc máy ảnh nơi vùng biên cảnh "Hữu Nghị"!


...

   
Khách du lịch Trung Cộng thảnh thơi qua lại, nhàn nhã như ở nhà. Chụp hình ư? Chuyện nhỏ! Đố tên biên phòng VN nào dám làm khó dễ!


...


   
Bước một bước là qua đến VN! Hai con xẩm trong góc có khung là vị trí của Km0 Ô nhục!


...


 
  Đứng hai chân trên biên giới!


...


    Chụp các kiểu!


...


 
  Và ngồi lên "Km0" của bọn Nam man! Chúng ta là chủ nhân của lãnh thổ VN!


...


    Hải quan hai bên Trung-Việt trao đổi công tác tại Km0 (tháng 04.2007)


...

 
  Những hoạt động của Trung Cộng tại Ải Nam Quan ngày càng rầm rộ, hoành tráng. Từng đợt học sinh trên các miền được đưa về Hữu Nghị Quan để nghe giáo dục về lòng yêu nước
!

...


 
  Cựu chiến binh trong chiến trận biên giới Trung-Việt hành hương


...


    Thế hệ nào của Việt Nam sẽ được tường tận sự ô nhục này. Việc đòi hỏi Trung Cộng trả lại vùng đất thiêng của tổ quốc Việt Nam không phải dễ dàng! Sẽ lại đổ máu như hàng trăm năm trước!

    "Tổ Quốc Tại Ngã Tâm Trung" (Tổ quốc trong tim ta)


...


   
Tháng 11 năm 2007, kỷ niệm 50 năm thành lập khu tự trị Quảng Tây. Có cả đại biểu VN tham dự, ngồi trên mảnh đất tổ tiên bị ngoại bang xâm chiếm không biết họ nghĩ gi? Hay là họ vẫn cười?


...


...

    Vận động trong sạch môi trường biên cảnh Trung-Việt. Bản đồ VN đã nối vào khu tự trị Quảng Tây!

...

   
Phi Khanh hỡi! Người còn ngồi nói những lời xưa?
    "Con yêu hỡi chớ xuôi lòng mềm yếu!..."

    
    Chân Mây


Back to top
« Last Edit: 26. Aug 2010 , 20:18 by thubeo »  

...
HOÀNG SA -TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM 
 
IP Logged
 
Page Index Toggle Pages: 1
Send Topic In ra